Lời Chúa Mỗi Ngày : Thứ Bảy, Tuần III TN, Năm lẻ

Thứ Bảy, Tuần III TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb 11:1-2, 8-19; Mk 4:35-41.
1/ Bài đọc I:1 Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.8 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.9 Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-sa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa,10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.11 Nhờ đức tin, cả bà Sa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
12 Vì thế, do một người duy nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được.
13 Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất.
14 Những người nói như vậy cho thấy là họ đang đi tìm một quê hương.
15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về.
16 Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17 Nhờ đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-sa-ác; dù đã nhận được lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một.
18 Về người con này, Thiên Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi.
19 Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.
2/ Phúc Âm: 35 Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người.
37 Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.
38 Trong khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”
39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.
40 Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
41 Các ông hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúng ta phải tin những gì Thiên Chúa nói.

Tại sao chúng ta tin một điều là thật? Thông thường có 3 lý do: (1) vì đã thấy; (2) vì cảm thấy hậu quả dù không thấy; và (3), vì thế giá của người khác nói.
Các Bài Đọc hôm nay đều nhằm mục đích thuyết phục con người tin vào những gì Thiên Chúa nói. Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do Thái đưa ra một lý do đơn giản tại sao các tiền nhân tin: vì đó là lời của Thiên Chúa hứa. Ngài không bao giờ quên thực hiện những gì Ngài đã hứa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách các Tông-đồ yếu lòng tin khi các ông đã có chính Ngài, Người có quyền trên sóng gió, cùng đồng hành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Con người phải sống niềm tin của mình.
1.1/ Định nghĩa của đức tin: Theo tác giả: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” Định nghĩa này nhìn từ góc cạnh của những người đã có đức tin. Thực vậy, để đạt được điều con người hy vọng là cuộc sống đời đời, con người phải tin nơi Đức Kitô (Jn 6:39-40) và những gì Ngài mặc khải về Thiên Chúa. Tuy con người chưa thấy Thiên Chúa và chưa đạt tới cuộc sống đời đời, nhưng niềm tin của con người nơi Đức Kitô là một bằng chứng cho những thực tại này. Ví dụ, khi nhìn thấy đức tin của các nhân chứng tử đạo, con người biết lý do của những cái chết anh hùng này.
1.2/ Gương đức tin của các tiền nhân: Họ là những người tuyệt đối tin tưởng vào lời Thiên Chúa hứa dù chưa nhìn thấy hiệu quả, hay điều Thiên Chúa hứa không thể xảy ra theo cách thức của lòai người. Tác-giả dẫn chứng 2 ví dụ:
(1) Tổ-phụ Abraham, cha của những người tin: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu.” Để có thể rời bỏ quê cha đất tổ đến sống nơi đất lạ quê người, con người phải được thúc đẩy bởi một lý do chính đáng; vì cuộc sống bấp bênh và nạn kỳ thị chủng tộc mà họ sẽ phải đương đầu với. Lý do Abraham rời bỏ Urs đơn giản là vì lời Thiên Chúa hứa, và ông đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
Thiên Chúa không gọi Abraham từ Urs tới một nơi định cư cố định, nhưng lang thang khắp nơi cho tới khi Thiên Chúa cho ông một chỗ định cư vĩnh viễn không thuộc về thế giới này: “Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông Isaac và ông Jacob là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng.”
(2) Sarah, vợ của Abraham: cũng chứng tỏ đức tin của Bà nơi Thiên Chúa. Cả hai ông bà đều đã cao niên (90 tuổi) mà vẫn chưa có con nối dõi tông đường. Cái tuổi này không thể có con theo cách thức con người, nhưng Bà vẫn tin nơi Thiên Chúa, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Ngài có thể làm cho “một người kể như chết rồi mà một dòng dõi nhiều như sao trời cát biển, không tài nào đếm được, được sinh ra.”
1.3/ Đức tin được tinh luyện trong thử thách đau thương:
(1) Vững tin dù đến chết vẫn chưa thấy kết quả: Lời Thiên Chúa hứa sẽ ban đất làm gia sản và giòng dõi vô số đã chưa được thực hiện khi Abraham còn sống ở đời này; nhưng ông vẫn một dạ vững tin nơi Thiên Chúa. Lý do, ông coi mình “là khách ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất, và mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.”
(2) Vững mạnh trong thử thách: Ngay cả khi đã được một người con nối dõi tông đường là Isaac, ông Abraham vẫn sẵn sàng sát tế Isaac theo những gì Thiên Chúa dạy bảo, để chứng tỏ niềm tin của ông nơi Ngài. Sở dĩ ông làm như thế vì ông tin Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Sau cùng, Thiên Chúa đã nhìn thấy niềm tin tưởng tuyệt đối của ông, và Ngài đã ban cho ông người con ấy như là một biểu tượng của những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô.
2/ Phúc Âm: “Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Trình thuật của Marcô kể: “Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước.” Đứng trước sóng gió, chúng ta thấy có hai thái độ khác nhau:
2.1/ Thái độ của các Tông-đồ: Phản ứng của con người là sợ chết; vì thế các môn đệ đánh thức Người dậy và nói: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Chúng ta không biết Chúa Giêsu đã làm bao nhiêu phép lạ trước mặt các ông, nhưng một điều chắc chắn là chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Ngài. Sau này, trong chương 6, sau khi đã làm phép lạ nuôi 5000 người, Chúa Giêsu lại đi trên mặt nước đến với các ông khi bị sóng gió, các ông vẫn sợ và tưởng Người là ma. Khi Chúa Giêsu đã truyền cho gió biển phải im lặng, các ông vẫn hoảng sợ và nói với nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
2.2/ Thái độ của Chúa Giêsu: hòan tòan đối nghịch hẳn với thái độ của các môn đệ. Trong khi các môn đệ đang vất vả chống chọi với sóng gió, Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ không hiểu nổi làm sao một người có thể ngủ khi sóng biển gào thét như thế! Khi các ông nói lớn đánh thức, Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ.” Rồi Người bảo các ông: “Sao nhát thế? Tại sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”
Qua trình thuật hôm nay, các môn đệ và chúng ta phải học được bài học trong cuộc đời: một khi đã có đức tin, không một sóng gió nào trong cuộc đời có thể làm lay chuyển đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Khi phải đương đầu với chúng, đó là lúc chúng ta sống niềm tin đó.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.
– Đức tin phải biểu tỏ bằng hành động: Chúng ta phải tin và làm những gì Chúa dạy.
– Đức tin phải được tinh luyện trong thử thách và đau khổ. Người có đức tin sẽ không hỏang hốt và đau khổ khi phải đương đầu với thử thách.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Saturday of the 3 OT1

Readings: Heb 11:1-2, 8-19; Mk 4:35-41.
1/ Reading I: NAB Hebrews 11:1 Faith is the realization of what is hoped for and evidence of things not seen. 2 Because of it the ancients were well attested. 8 By faith Abraham obeyed when he was called to go out to a place that he was to receive as an inheritance; he went out, not knowing where he was to go. 9 By faith he sojourned in the promised land as in a foreign country, dwelling in tents with Isaac and Jacob, heirs of the same promise; 10 for he was looking forward to the city with foundations, whose architect and maker is God. 11 By faith he received power to generate, even though he was past the normal age– and Sarah herself was sterile– for he thought that the one who had made the promise was trustworthy. 12 So it was that there came forth from one man, himself as good as dead, descendants as numerous as the stars in the sky and as countless as the sands on the seashore. 13 All these died in faith. They did not receive what had been promised but saw it and greeted it from afar and acknowledged themselves to be strangers and aliens on earth, 14 for those who speak thus show that they are seeking a homeland. 15 If they had been thinking of the land from which they had come, they would have had opportunity to return. 16 But now they desire a better homeland, a heavenly one. Therefore, God is not ashamed to be called their God, for he has prepared a city for them. 17 By faith Abraham, when put to the test, offered up Isaac, and he who had received the promises was ready to offer his only son, 18 of whom it was said, “Through Isaac descendants shall bear your name.” 19 He reasoned that God was able to raise even from the dead, and he received Isaac back as a symbol.
2/ Gospel: NAB Mark 4:35 On that day, as evening drew on, he said to them, “Let us cross to the other side.” 36 Leaving the crowd, they took him with them in the boat just as he was. And other boats were with him. 37 A violent squall came up and waves were breaking over the boat, so that it was already filling up. 38 Jesus was in the stern, asleep on a cushion. They woke him and said to him, “Teacher, do you not care that we are perishing?” 39 He woke up, rebuked the wind, and said to the sea, “Quiet! Be still!” The wind ceased and there was great calm. 40 Then he asked them, “Why are you terrified? Do you not yet have faith?” 41 They were filled with great awe and said to one another, “Who then is this whom even wind and sea obey?”
________________________________________

I. THEME: We must believe what God promises.

Why do we believe one’s saying is true? In general, there are three reasons: because we see it; because we see its result even don’t see it; and because the position of the one who says.
Today readings want to convince people to believe in God’s promise. In the first reading, the author of the Letter to the Hebrews gave a simple reason why our forefathers believed, that is: because God promises. They believed that God shall never forget to fulfill what He promised. In the Gospel, Jesus rebuked his disciples lacking of faith when they had him who has power over storms, as a companion in the same boat.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: People must live their faith.
1.1/ The correct definition of faith: According to the author, “Faith is the realization of what is hoped for and evidence of things not seen.” This definition is seen from the aspect of the one who has faith. To reach what one hopes for which is the eternal life, one must believe in Christ (Jn 6:39-40) and what he revealed about God. Though people don’t see God and achieve the eternal life yet, but people’s faith in Christ is an evidence for this reality. For example, when we see the faith of the martyrs, we know the reason of their courageous death.
1.2/ The faithful examples of the forefathers: They completely believe in God’s promises though they don’t see results yet, or God’s promises can’t happen according to human ways. The author illustrated by two examples.
(1) Abraham, the father of all believers: The author wrote, “By faith Abraham obeyed when he was called to go out to a place that he was to receive as an inheritance; he went out, not knowing where he was to go.” To leave his father’s land to live in a foreign land, he must be urged by a right reason because Abraham must live an unsettled life and face many dangers. The only reason why he left Urs is simply because of God’s promise, and he completely trust in God.
God didn’t call Abraham from Urs to settle in a fixed place, but wandering around until God gave him an eternal place, not of this world. The author described as follows, “By faith he sojourned in the promised land as in a foreign country, dwelling in tents with Isaac and Jacob, heirs of the same promise; for he was looking forward to the city with foundations, whose architect and maker is God.”
(2) Sarah, Abraham’s wife: also expressed her strong faith in God. Both of them advanced in age and didn’t have a son to continue their genealogy. At their ages, they can’t have a child according to human way; but she still trusts in God because she believes that the One who promises is faithful. He can make “one man, himself as good as dead, descendants as numerous as the stars in the sky and as countless as the sands on the seashore.”
1.3/ Their faith was purified in painful trials:
(1) They are firm in faith though they don’t see the result yet: God’s promise of giving Abraham descendants “as numerous as the stars in the sky and as countless as the sands on the seashore” wasn’t fulfilled when he lived in this world; but he still firmly believe in God. The reason for this is, “They acknowledged themselves to be strangers and aliens on earth, for those who speak thus show that they are seeking a homeland. If they had been thinking of the land from which they had come, they would have had opportunity to return. But now they desire a better homeland, a heavenly one. Therefore, God is not ashamed to be called their God, for he has prepared a city for them.”
(2) They are strong in trial: Even when God gave him a son, Isaac, Abraham was ready to sacrifice his son to show his faith in God. The reason why he did so because he believes that God has power to resurrect the dead. Lastly, when God sees Abraham’s absolute trust in Him, He gave Isaac back to him as a type of what shall happen in Christ.
2/ Gospel: “Why are you terrified? Do you not yet have faith?”
Mark reported: “On that day, as evening drew on, he said to them, “Let us cross to the other side.” Leaving the crowd, they took him with them in the boat just as he was. And other boats were with him. A violent squall came up and waves were breaking over the boat, so that it was already filling up. Jesus was in the stern, asleep on a cushion.” Facing the squall, we see two contrasted reactions:
2.1/ The apostles’ reaction: They reacted like human beings because they are afraid of death. They waked Jesus up and said to him, “Teacher, do you not care that we are perishing?”
We don’t know how many miracles did Jesus perform up to this point, but one thing we certainly know is that it is not enough for them to put their trust in him. Later, after Jesus fed five thousands people, he walked on water to come to them when they faced a terrible storm. They were still afraid and thought he is a ghost. When Jesus commanded for storm to be quiet, they frightened and said to another, “Who then is this whom even wind and sea obey?”
2.2/ Jesus’ reaction was completely different with the apostles: While the apostles are working against the storm, “Jesus was in the stern, asleep on a cushion.” They can’t understand why a person could sleep while the storm is doing such violence to them! And when they shouted out to wake him up, “He woke up, rebuked the wind, and said to the sea, “Quiet! Be still!” The wind ceased and there was great calm. Then he asked them, “Why are you terrified? Do you not yet have faith?””
Through this event, the apostle and we must learn an important lesson for our life: Once we have a strong faith, no storm can shake our faith in God. When we face the storm, it is the time for us to live our faith.

III. APPLICATION IN LIFE:
– Faith is the realization of what is hoped for and evidence of things not seen.
– Faith must be expressed in action. We must believe and practice what God teaches us.
– Faith must be purified in trials and sufferings. The one who has faith shall not be terrified or complain when facing them.