TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 8.2021

TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
LƯU HÀNH NỘI BỘ

NỘI DUNG

TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 08/2021

I. THƯ LM GH TH 08/21: ĐỨC MA-RI-A MẸ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 08/21: MƯỜI LỐI SỐNG NỂN TRÁNH.
III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GĐ TH 08/21: TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NAM NỮ TÌM HIỂU NHAU TRƯỚC HÔN NHÂN.
IV.TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 08/21: HSTM CN 18 TN B- HSTM CN 19 TN B.- LỄ ĐỨC MA-RI-A HỒN XÁC LÊN TRỜI.- CN 20 TN B.- HSTM CN 21 TN B.- HSTM CN 22 TN B.
V. HUẤN LUYỆN H.TR TH 08/21: SỨ VỤ VÀ CÔNG TÁC CỦA HỘI VIÊN HHTM..
VI. THƯ GIÃN TH 08/21: LẤY VỢ: BUỒN HAY VUI ?
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH TH 08/21: PHÒNG TRÁNH VIRUS CORONA – BIẾN THỂ DELTA LÀ GÌ ? TRIỆU CHỨNG ? LÝ DO LÂY LAN NHANH ?
VIII. SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 08/21:
A. THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM TH 08
B. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM TH 08
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM TH 08
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TH 08

I. LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 08/2021
ĐỨC MA-RI-A – MẸ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
1) ĐỨC MA-RI-A BIỂU LỘ LÒNG THƯƠNG XÓT:
– Trong kinh cầu Đức Bà, có năm mươi mốt tước hiệu được Hội Thánh nêu lên để các tín hữu kêu cầu như sau: “Đức Mẹ thông ơn Thiên Chúa, Đức Mẹ chỉ bảo đàng lành; Ðức Nữ có lòng khoan nhân; Ðức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn; Ðức Bà bầu chữa kẻ có tội; Ðức Bà yên ủi kẻ âu lo; Ðức Bà phù hộ các giáo hữu; Nữ vương ban sự bằng an…” Như vậy, có thể nói Đức Ma-ri-a chính là Mẹ của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
– Trong kinh “Kính chào Đức Nữ Vương” đọc cuối giờ kinh tối hằng ngày, chúng ta cũng tha thiết khẩn cầu Mẹ của lòng xót thương bằng những lời như sau: ““Kính chào Đức Nữ Vương; Bà là Mẹ xót thương; Ngọt ngào cho cuộc sống; Kính chào Lẽ Cậy Trông ! Này con cháu E-và; Thân phận người lưu lạc; Chúng con ngửa trông Bà; Kêu Bà mà khóc lóc; Than thở với rên la; Trong lũng đầy nước mắt…”
– Chúng ta cũng thường kêu cầu Đức Ma-ri-a với tước hiệu “Mẹ Hằng Cứu Giúp.” Tước hiệu đó cũng nói lên Mẹ là Mẹ của lòng Xót Thương.
– Chúng ta cũng thấy hình ảnh Mẹ của Lòng Thương Xót được diễn tả qua tượng “Mẹ ban ơn”: Đôi bàn tay dịu hiền của Mẹ giang rộng như sẵn sàng thương xót mọi người đến cầu khấn, nương tựa dưới tà áo Mẹ lành.
– Vì yêu thương, Mẹ cũng đã hiện ra tại nhiều nơi, trong nhiều thời đại… để ủi an cứu giúp con cái trong những lúc gian nan khốn khó, để mời gọi họ sám hối trở về với tình yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
2) GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH:
Trong Tông sắc “Dung Mạo Lòng Chúa Thương Xót”, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thiết tha dâng lời khẩn cầu lên Mẹ Ma-ri-a, Mẹ của Lòng Thương Xót, ghé mắt nhìn đến đoàn con cái Mẹ trên khắp hoàn cầu; và mời gọi mọi thành phần dân Chúa hướng lòng trí về “Người Mẹ của Lòng Thương Xót”, để luôn được sống và bước đi trong tình thương tha thứ của Thiên Chúa, cũng như trong niềm tín thác vào tình yêu của Ngài nhờ lời Mẹ chuyển cầu. Xin Mẹ trở thành niềm an ủi và sức mạnh phù trợ, giúp chúng ta nhận được ơn phúc từ Lòng Chúa Thương Xót.
3) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?: Theo gương Mẹ, chúng ta cùng lên đường, ra khỏi thói ích kỷ, để đến với những người đang cần tới “lòng thương xót”. Có thể đó là những người đang gặp đau khổ thể xác cũng như tâm hồn; là những người thân quen đang sống trong gia đình, trong cộng đoàn, khu xóm…, Họ đang cần được chúng ta quan tâm, lắng nghe, cảm thông, chia sẻ, tha thứ và yêu thương phục vụ. Cùng với Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải trở thành chứng nhân Lòng Thương Xót cho con người hôm nay.
4) LỜI CẦU: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ Của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Xin ghé mắt thương xem mọi người đang đau khổ vì dịch bệnh Covid-19, những người mới bị lây nhiễm, đang gặp hoàn cảnh khốn khó cả về thể xác lẫn tinh thần. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho thế giới sớm tìm ra phương thế hữu hiệu để thoát cơn dịch bệnh nguy hiểm này. Xin cho mỗi tín hữu chúng con tích cực góp phần đẩy lùi dịch bệnh, và thể hiện lòng thương xót bằng những việc bác ái cụ thể để giúp các bệnh nhân sớm được khỏi bệnh và đón nhận được tình thương cứu độ của Thiên Chúa.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM
II. THỰC TẬP NẾP SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 08/2021 :
MƯỜI LỐI SỐNG THIẾU NHÂN BẢN NÊN TRÁNH
1. LỜI CHÚA:”Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
2. SUY NIỆM :
Trong cuộc sống thường ngày, một số lối sống trái ngược với Lời Chúa mà mọi tín hữu nhất là các bạn trẻ cần tránh để nên người trưởng thành về nhân cách như sau:
1) TRÁNH THÓI ÍCH KỶ VỤ LỢI : chỉ nghĩ đến mình, tự đề cao thành tích của mình và chỉ nói về những gì mình thích, mà không chịu quan tâm, không biết nghĩ đến người bên cạnh. Chẳng hạn : Khi xem truyền hình thích mở chương trình mình ưa thích, mà không cần nghĩ đến sở thích của những người khác cùng xem.
2) TRÁNH TÍNH TOÁN HƠN THIỆT, CƯ XỬ BẤT CÔNG : Tính tình nhỏ mọn. Tham lam không chịu trả lại tiền dư của người khác; Mua hàng ưa mặc cả thêm một bớt hai; sẵn sàng ăn chặn tiền lương của người dưới; Không quảng đại giúp đỡ ai cách không công.
3) TRÁNH THÁI ĐỘ TỰ TÔN, KIÊU CĂNG, TỰ MÃN : Thích “nổ” để tỏ ra mình vượt trội hơn người. Thích kể công và khoe khoang thành thích vượt quá sự thật của mình, hoặc ngược lại : quá khúm núm hoặc ra vẻ khiêm tốn giả tạo.
4) TRÁNH COI THƯỜNG KHINH DỂ THA NHÂN : Không biết “kính trên nhường dưới”; Có thái độ hách dịch và hay nói lời khinh dể người khác; Lấy ý mình làm trọng và không tôn trọng ý chung tập thể; Hay ngắt lời người khác nếu trái với ý của mình. Ưa phân tích động cơ và tâm lý của người khác để phản bác lại. Hay nói hành phê bình người vắng mặt.
5) TRÁNH THÓI ĐỘC TÀI HÀNH XỬ ÁC ĐỘC : Có lối hành xử cứng nhắc cửa quyền, không biết lắng nghe và thiếu cảm thông với hoàn cảnh khó khăn của tha nhân. Cư xử “bất nhân thất đức” thiếu tình người, có thái độ “cả vú lấp miệng em” hoặc “Lấy thịt đè người”.
6) TRÁNH DÙNG THỦ ĐOẠN XẢO QUYỆT : Không trung thực trong lời nói và hành động. Thích kéo bè kết cánh để gây chia rẽ, làm mất tình đoàn kết nội bộ; Vào hùa với số đông để khinh dể hiếp đáp người thân cô thế cô cách bất công; “Thượng tôn hạ đạp” khi tỏ thái độ xu nịnh cấp trên và đàn áp cấp dưới.
7) TRÁNH ĂN NÓI CHUA NGOA CAY NGHIỆT : Hay buông những lời oán trách người khác, luôn bất mãn với hoàn cảnh hiện tại của mình. Thích gây hấn và dễ nổi giận những chuyện không đâu. Thiếu ý chí phấn đấu để vươn lên khi gặp thất bại. Lười biếng bê trễ các việc bổn phận phải làm. Luôn mang bộ mặt buồn sầu chán nản.
8) TRÁNH ĐẦU ÓC THỦ CỰU THÀNH KIẾN VÀ KHÔNG CẦU TIẾN : Có suy nghĩ bảo thủ, không muốn thử nghiệm để cải tiến phương pháp làm việc cho hữu hiệu hơn. Không chịu học tập những người đã thành công để ngày một thăng tiến.
9) TRÁNH THÓI BA PHẢI, SUY NGHĨ NÔNG CẠN : Làm việc vô nguyên tắc. Ai bàn gì cũng nghe vì thiếu lập trường. Hay thay đổi quyết định khiến người cộng tác không an tâm. Có cái nhìn thiển cận, ấu trĩ và thiếu nghiêm túc đối với những điều thực sự quan trọng.
10) TRÁNH KHÉP KÍN VÀ THIẾU XÃ GIAO : Thiếu nụ cười khi gặp gỡ trao đổi với các đối tác. Thái độ bàng quang thờ ơ với việc chung. Thiếu nhiệt tình khi làm việc bổn phận.
3. THẢO LUẬN : 1) Trong những điều nói trên, bạn thấy điều nào là quan trọng nhất cần ưu tiên loại trừ để nên người trưởng thành về nhân cách ? 2) Bạn thấy cần bổ sung điều gì không ?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Chúng con đang trong quá trình học làm người trưởng thành về nhân cách. Xin giúp chúng con nhận ra những phong cách sống và ứng xử ấu trĩ, những thói hư do thiếu hiểu biết và vô trách nhiệm cần phòng tránh, để tập lối sống trưởng thành, có trách nhiệm đối với tha nhân và xã hội chúng con đang sống. Xin cho chúng con luôn tập lối sống vị tha, luôn biết quên mình để nghĩ đến người khác, hầu làm đẹp lòng Chúa và gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. – AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM

III. MỤC VỤ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH THÁNG 08/2021
NAM NỮ TÌM HIỂU NHAU TRƯỚC HÔN NHÂN
1. LỜI CHÚA: Thánh Phê-rô khuyên các tín hữu đề phòng ma quỷ cám dỗ như sau : « Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự» (1 Pr 5,8-9).
2. SUY NIỆM:
1) Có nên đòi kết hôn đốt giai đoạn không? Tại sao? :
Ngày nay trong lãnh vực tình yêu nam nữ, một số bạn trẻ thường hay áp dụng câu phương châm : “Thứ nhất cự ly, thứ nhì tốc độ !”. Nghĩa là để có được người yêu thì trước hết phải áp sát mục tiêu và sau là phải tiến nhanh chiếm đoạt mục tiêu đó. Người xưa cũng có câu : “Cưới vợ thì cưới liền tay. Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha”. Tuy nhiên hậu quả của việc vội vàng kết hôn đó thường thế nào ? Ngòai việc đạt mục đích lấy được người mình thích, rồi điều còn lại chỉ là những năm tháng sống chung bất hạnh, và kết cục là “anh đi đường anh, tôi đi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi !”.
Tại sao việc vội vàng tiến đến hôn nhân, bỏ qua giai đọan tìm hiểu lại dẫn đến hậu quả đau buồn thất vọng như thế ? Vì các bạn trẻ đó mới chỉ nghĩ đến việc chiếm đọat người yêu cho mình, mà chưa ý thức được bổn phận và trách nhiệm làm chồng làm cha và làm vợ làm mẹ, chưa biết được cuộc sống hôn nhân không phải chỉ là được sống chung với nhau, mà còn làm thế nào để cuộc sống chung hòa hợp hạnh phúc. Vậy có cần thời gian chờ đợi trước khi kết hôn hay không ?
2) Tại sao cần có thời gian tìm hiểu nhau trước khi kết hôn? :
Để trả lời cho vấn nạn này, bạn có thể đặt ra một câu hỏi khác tương tự: “Tại sao cây sòai hay cây sầu riêng từ lúc gieo hột xuống đất tới khi mọc thành cây và ra hoa kết trái phải mất ít nhất ba bốn năm ? Bạn có thể đốt giai đọan bằng cách mỗi ngày tưới bón nhiều lần để thúc bách cho cây mau lớn và ra hoa trái hay không ?” Về cây tình yêu trong đời sống hôn nhân gia đình cũng vậy: Tình yêu cần phải có thời gian chờ đợi từ một đến vài ba năm. Vì thời gian vừa là liều thuốc giúp người ta quên đi những nỗi buồn sầu, lại vừa giúp khám phá ra sự thật, hiểu biết rõ về nhau như người đời thường nói : “Thức lâu mới biết đêm dài. Ở lâu mới biết lòng người có nhân”. Hoặc “Cây kim giấu trong bọc lâu ngày cũng có ngày lòi ra”. Vì tính tình và nhân cách của một con người bình thường rất khó nhận biết, mà nhân cách con người chỉ được tỏ hiện rõ ràng trong những tình huống khó khăn, như người ta thường nói: “Có cháy nhà mới lòi ra mặt chuột !”. Có rơi vào hoàn cảnh bị đói khát nghèo túng, những người thiếu đức độ sẽ phản ứng theo bản năng hơn là đạo đức: “Đói ăn vụng, túng làm liều”. Đang khi người có lòng tự trọng sẽ áp dụng câu: “Đói cho sạch, rách cho thơm”.
3) Hậu quả của việc “ăn cơm trước kẻng” ra sao? :
– Trong thực tế có nhiều đôi vợ chồng do hòan cảnh đã “ăn cơm trước kẻng” nên có thai ngòai ý muốn và do sức ép của dư luận đã đòi cưới hỏi sớm, bỏ qua thời gian tìm hiểu nhau, nên đã sớm rơi vào tình trạng đổ vỡ hạnh phúc chỉ sau một thời gian ngắn chung sống. Bấy giờ họ thường cãi vã đổ lỗi cho nhau hoặc thốt ra những lời cay đắng xúc phạm đến danh dự và lòng tự trọng của nhau… để rồi cuối cùng đưa nhau ra tòa xin ly hôn. Bất cứ ai đã từng trải qua kinh nghiệm về tình yêu cũng đều nhất trí rằng : “Để cho tình yêu giữa đôi vợ chồng có thể lớn lên và sinh trái tốt, thì thời gian chờ đợi trước hôn nhân là điều quan trọng nhất”. Bạn không có cách nào khác để hiểu rõ nhau ngòai việc phải có thời gian chờ đợi. Đây là một điều rất khó thực hiện, nhưng lại là một phương pháp thử độ sâu và tính chân thật của tình yêu một cách chính xác nhất. Do đó, những kẻ yêu nhau phải biết chờ đợi cho tới khi cùng nhìn sự vật bằng một ánh mắt, hoặc đủ khôn ngoan để cho nhau tự do nhìn sự vật theo cách riêng của mỗi người.
– Chúng ta sẽ dễ đánh mất hạnh phúc hôn nhân nếu ta không muốn chờ đợi, nếu ta cố tìm đường ngang ngõ tắt để đạt mục tiêu kết hôn nhanh. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình trạng bất hạnh khi vội thề hứa, mà chưa đủ chín chắn và chưa nhận thức được trách nhiệm từ những lời thề thốt của mình. Chúng ta chắc cũng sẽ rơi vào sự hối hận triền miên nếu không làm chủ được bản năng để trao thân cho nhau khi chưa hiểu rõ về nhau. Vì những ai cố tình ăn trái cây còn xanh sẽ chỉ nhận được sự chua chát thay vì vị thơm ngọt của nó.
4) Phương cách phòng tránh quan hệ trước hôn nhân? :
Thông thường hai người khác phái khi có cơ hội gần nhau sẽ dễ dẫn đến quan hệ xác thịt, như người ta thường nói: “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”.
Thông thường đôi bạn trẻ yêu nhau thường muốn được ở gần nhau Ở nơi vắng người để dễ dàng biểu lộ tình cảm thân mật. Chính những cử chỉ gần gũi sẽ đánh thức bản năng tình dục nơi người con trai và tình yêu muốn được người yêu chiếm đoạt của cô gái. Do đó, để tránh dẫn hai người trẻ quan hệ xác thịt trước hôn nhân, họ cần áp dụng các nguyên tắc như sau:
– Tránh gặp nhau hằng ngày, mà nên ấn định thời điểm gặp nhau mỗi ba ngày hay mỗi tuần. Nếu muốn duy trì tình cảm thì có thể nhắn tin hay gọi điện thoại di động.
– Mỗi lần gặp tránh kéo dài quá lâu và tránh tại nơi thanh vắng, vì dễ dẫn đến vượt rào.
– Khi nam nữ gặp nhau, tránh sự gần gũi tiếp xúc về cơ thể, vì dễ làm các tuyến hạch nơi bộ phận sinh dục hai người phát tiết ra kích thích để đòi được hoàn toàn thỏa mãn.
– Hai người nên quyết tâm với nhau sẽ luôn giữ cho quan hệ giữa hai người được trong sáng. Chỉ chấp nhận trao thân sau khi đã thành vợ chồng trước bàn thờ Chúa.
– Khi gặp gỡ nhau, người nữ đóng vai trò như cảnh sát giao thông, để phát tín hiệu đèn vàng báo động và đèn đỏ dừng lại… đối với người nam.
– Đôi thanh niên nam nữ dễ có nguy cơ vượt rào quan hệ xác thịt trước hôn nhân, nếu cô gái ở thế yếu cả về sắc đẹp và tài năng. Đừng tưởng rằng nếu chiều theo ý chàng trai, thì sẽ giữ được tình yêu của anh ta. Nhưng trường hợp một chàng trai có bản tính trăng hoa, đã từng bỏ rơi nhiều cô gái sau khi quan hệ xác thịt, thì cô sẽ dễ bị bỏ rơi nếu cô làm điều gì trái ý anh ta. Còn những cô gái có phẩm chất tốt được anh chàng yêu thương thực sự, thì chắc anh ta sẽ không dám vượt rào đòi quan hệ trước, vì sợ bị cô gái khinh thường và chấm dứt quan hệ với anh ta.
3. THẢO LUẬN: Bạn đánh giá thế nào về các biện pháp nam nữ phòng tránh hành động quan hệ xác thịt trước hôn nhân nói trên?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được giá trị của tình yêu trong sáng. Cho chúng con biết khôn ngoan phòng tránh những cơ hội dẫn đến phạm tội gây hậu quả có thai ngoài ý muốn. Xin cho chúng con biết chăm chỉ học giáo lý hôn nhân và năng cầu nguyện mỗi ngày để xin Chúa chúc lành cho tình yêu của chúng con, ban ơn giúp cho gia đình chúng con sau này luôn được hòa hợp hạnh phúc theo ý Chúa muốn.- AMEN.
Lm ĐAN VINH – HHTM

IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 08/2021
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 18 TN B
Xh 16,2-4.12-15; Ep 4,17.20-24; Ga 6,24-35

THÁNH THỂ: BÁNH TỪ TRỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,24-35
(24) Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy? (26) Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. (27) Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (28) Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (29) Đức Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (30) Họ lại hỏi: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi Trời” (32) Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông: Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực. (33) Vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (34) Họ liền nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy. (35) Đức Giê-su bảo họ: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói. Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su cảnh cáo dân chúng đi tìm Người vì muốn được ăn thứ bánh vật chất mau hư nát. Ngay cả Man-na thời Xuất Hành cũng không phải là bánh bởi trời thực sự và không cứu được cho người ta khỏi chết. Họ cần phải đi tìm Bánh bởi trời đích thực là Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến và ban sự sống đời đời cho trần gian. Bánh Hằng Sống đó chính là Mình Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập.
3. CHÚ THÍCH:
– C 24-25: + Ca-phác-na-um: Là một thành phố thuộc xứ Ga-li-lê, nằm trên bờ biển hồ Tibêria. Đức Giê-su lấy thành Ca-phác-na-um làm trung tâm hoạt động suốt thời gian đi giảng đạo công khai. Tại đây, Người đã nhiều lần rao giảng trong các hội đường (x. Mc 1,21), làm nhiều phép lạ như: Xua trừ ma quỷ (x. Mc 1,23-28), chữa bệnh cảm sốt cho nhạc mẫu Phê-rô và nhiều bệnh nhân khác (x. Mc 1,29-31.32-34), chữa lành một phụ nữ bệnh loạn huyết 12 năm và làm cho con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,21-43), giảng về Bánh Hằng Sống (x. Ga 6,24-66)… Về sau thành này cũng là một trong các thành của dân Do Thái bị Đức Giê-su quở trách, vì đã được chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà vẫn cứng lòng không tin vào Người (x. Mt 11,23-24). + Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều trong hoang địa, vì biết dân chúng muốn tôn mình làm vua, nên Đức Giê-su đã lánh lên núi một mình (x. Ga 6,15). Sau đó Người đi trên mặt nước đến với thuyền của các môn đệ để sang thành Ca-phác-na-um nằm phía bên kia biển hồ.
– C 26-27): + Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê: Đức Giê-su cảnh báo dân chúng về động lực khiến họ đi tìm Người là vụ lợi: để được ăn bánh no nê mà không phải làm việc. + Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh: Đức Giê-su chấp nhận nhu cầu về lương thực là bánh ăn nuôi sống thân xác, nên đã làm phép lạ cho họ được ăn no. Nhưng Người còn muốn dạy rằng: Ngoài thể xác còn có linh hồn tồn tại mãi mãi. Chính Người sẽ ban cho họ thứ lương thực nuôi linh hồn là Bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập. + Con Người: Là một nhân vật thần thiêng mà Ngôn sứ Đa-ni-en trong một thị kiến đã xem thấy đang đứng bên Thiên Chúa (x. Đn 7,13-14). Khi tự xưng mình là Con Người từ trời mà đến, Đức Giê-su muốn cho người ta biết Người là Sứ giả đích thực của Chúa Cha, được Thánh Thần thánh hiến trở thành Đấng Thiên sai và Thánh Thần sẽ giúp Người chu toàn sứ vụ Thiên sai ấy (x. Lc 4,18; Is 61,1-2). + Là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận: Dấu ấn là một vật dùng để xác định nguồn gốc thay cho chữ ký. Ngoài việc dấu ấn được in trên giấy tờ, bao bì hay các vật khác để làm bằng chứng bảo đảm sự chân thực, người ta còn dùng dấu ấn để niêm phong mồ mả (x. Mt 27,66). Ngoài ra, dấu ấn hay ấn tín cũng được dùng theo nghĩa bóng như lời Thánh Phao-lô: “Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2 Cr 1,22). Câu này cho thấy Chúa Cha đã đóng dấu ấn trên Đức Giê-su như một dấu chứng để xác nhận Người thực là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.
– C 28-29: + Chúng tôi phải làm gì?: Đây là câu hỏi bày tỏ thiện chí muốn đáp ứng đòi hỏi của Thiên Chúa sau khi nghe giảng Tin Mừng, như đám đông đã hỏi ông Gio-an Tẩy Giả tại sông Gio-đan (x. Lc 3,10.12.14), hay dân chúng hỏi ông Phê-rô sau khi nghe ông giảng vào lễ Ngũ Tuần tại Giê-ru-sa-lem (x.Cv 2,37). + Tin vào Đấng Người đã sai đến: Đấng Thiên Chúa sai đến ở đây là Đức Giê-su.
– C 30-31: + Ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?:Dù mới chứng kiến phép lạ nhân bánh ra nhiều vào chiều hôm trước, nhưng dân chúng vẫn chưa thỏa mãn. Họ đòi Người làm một phép lạ đặc biệt phát xuất từ trời để minh chứng sứ mạng Thiên Sai của Người, giống như Mô-sê xưa đã làm phép lạ cho man-na từ trời mưa xuống để nuôi dân Ít-ra-en suốt 40 năm trong sa mạc, nên man-na được gọi là bánh bởi trời. + Man-na: Phát xuất do từ “Mannu?”, nghĩa là “Cái gì vậy?”, vì dân Ít-ra-en không biết đó là cái gì (x. Xh 16,15). Mô-sê bảo dân rằng: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn !”. Như vậy, Man-na chính là lương thực lạ lùng mà Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en, khi họ đi qua sa mạc về Miền Đất Hứa (x. Xh 16,11-18). Man-na có hình dạng giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong (x. Xh 16,31). Trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh (x. Ds 11,7-8). Man-na là hình bóng của Lời Chúa, là của ăn được Đức Chúa ban để dân Ít-ra-en biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà còn sống nhờ mọi Lời do miệng Đức Chúa phán ra” (x. Đnl 8,3; Mt 4,4). Khi dân Ít-ra-en vào tới Đất hứa là xứ Ca-na-an bắt đầu trồng và thu hoạch được các loại thổ sản tại đó, thì Man-na không còn rơi xuống nữa (x. Gs 5,12). Cũng vậy, trong thời gian lưu lạc trần gian, các tín hữu cũng được ăn lương thực thiêng liêng là Mình Thánh Chúa để đủ sức về tới Đất Hứa Thiên Đàng, được tham dự Bữa Tiệc Cánh Chung trong Nước Trời với Đức Giê-su (x. Lc 22,30), và ngồi đồng bàn với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp của dân Do Thái (x. Mt 8,11).
– C 32-33: + Không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi:Đức Giê-su đã giúp dân chúng hiểu rõ: Man-na được ban thời kỳ Xuất Hành không phải do Mô-sê, nhưng do Đức Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en. Ngoài ra man-na cũng không thực sự là Bánh của Thiên Chúa, mà chỉ là thứ luơng thực vật chất mau hư nát và chỉ có khả năng nuôi sống thể xác mà thôi (x. Xh 16,19-21), vì dù đã ăn man-na, thế mà dân Do thái vẫn phải chết (x. Xh 32,33-35). + Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian: Để được gọi là Bánh của Thiên Chúa thì cần hai đặc tính là xuất phát từ trời, và ban sự sống muôn đời. Bánh ấy chính là Đức Giê-su. Người vừa là Ngôi Lời vốn ở trên trời, được Chúa Cha sai xuống làm Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,14), và Người sẽ ban Mình Máu Người làm lương thực đem lại sự sống muôn đời cho ai lãnh nhận (x. Ga 6,51).
– C 34-35: + Chính tôi là Bánh Trường Sinh: Kiểu nói “Tôi là” thường được Đức Giê-su dùng và Tin Mừng Gio-an đã ghi lại một số Lời Chúa có hai tiếng “Tôi là” như sau: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,34); “Tôi là Ánh Sáng Thế Gian” (x. Ga 8,12; 9,5); “Tôi là Cửa cho chiên ra vào” (x. Ga 10,7); “Tôi là Mục Tử nhân lành” (x. Ga 10,11); “Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống” (x. Ga 11,25); “Tôi là Con Đường, là Sự Thật và Là Sự Sống” (x. Ga 14,6); “Tôi là Cây Nho thật” (x. Ga 15,1). Trong câu nói trên, khi khẳng định: “Chính Tôi là Bánh Trường Sinh”, Đức Giê-su muốn nói về bí tích Thánh Thể mà Người sắp lập. Qua bí tích đó Người sẽ trở nên bánh thiêng nuôi dưỡng người dương thế và đem lại hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. + Ai đến với tôi, không hề phải đói; Ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ: Người hứa sẽ ban cho những ai lãnh nhận bí tích Thánh Thể được no thỏa; Cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người thỏa mãn khát vọng được sống vĩnh cửu.
4. CÂU HỎI: 1) Bạn biết gì về thành Ca-phác-na-um? 2) Khi nói lên động cơ đi tìm Chúa của dân chúng là tìm bánh ăn vật chất, Đức Giê-su muốn họ phải tìm kiếm điều gì khi đến với Người? 3) Tại sao Đức Giê-su tự xưng là Con Người? 4) Đức Giê-su trả lời cho dân chúng biết họ cần phải làm gì sau khi nghe Người giảng Tin Mừng? 5) Dân Do Thái đòi Đức Giê-su làm gì để chứng minh sứ mạng Thiên Sai của Người? 6) Thời Mô-sê danh từ Man-na ám chỉ điều gì? Man-na được ban cho ai ăn và nhằm mục đích gì? Trong Tân Ước Man-na ám chỉ điều gì? 7) Bánh bởi Trời thực sự phải có những đặc tính nào? 7) Khi tự xưng “Tôi Là Bánh Trường Sinh”, Đức Giê-su muốn nói gì về Người? 8) Người hứa ban cho những ai chịu phép Thánh Thể được ơn gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Tôi là bánh trường sinh. ai đến với Tôi, không hề phải đói. ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ !”
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐÓN NHẬN ĐƯỢC ĐỨC TIN NHỜ TIN VÀO BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
HÉC-MAN KON (Hermann Cohn) là người Do Thái và là một tài năng xuất chúng về đàn dương cầm (Pianô). Anh là học trò xuất sắc của Phăng Lít (Franz Liszt), một nhạc sĩ nổi tiếng tài hoa vào lúc đó. Kon cùng với mấy người bạn thân thành lập một ban nhạc trẻ và đi đó đây biểu diễn âm nhạc để kiếm sống. Sau khi đã có nhiều tiền và bị bạn bè cám dỗ, Kon đã tìm đến những nơi hàng quán để ăn chơi trụy lạc. Rồi một ngày kia, một người bạn thân của Kon là ca trưởng một ca đoàn nhà thờ, do thiếu người đánh đàn, đã mời Kon đến đánh đàn giúp ca đoàn hát thánh ca trong một buổi dâng hoa kính Đức Mẹ tại nhà thờ.
Buổi dâng hoa hôm ấy kết thúc bằng giờ chầu Mình Thánh Chúa. Mặc dù không phải là người công giáo, nhưng khi vị chủ sự ban phép lành Mình Thánh Chúa, thì tự nhiên Kon cảm thấy như có một sức mạnh vô hình bắt anh phải quì gối cúi đầu thờ lạy Chúa. Kon không lý giải được tại sao lại có hiện tượng trên. Sau đó, Kon tiếp tục đến nhà thờ và cảm thấy có một Đấng nào đó hiện diện ở trong anh, và thôi thúc anh đi tìm gặp Chúa Giê-su. Sau đó anh xin học đạo nơi một linh mục trẻ và được người bạn ca trưởng tặng cho cuốn sách tựa đề là: “Các kinh nguyện trong Thánh lễ”. Kon đã say sưa đọc đi đọc lại nhiều lần phần Kinh Nguyện Thánh Thể. Về sau anh đã chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa Giê-su như sau: “Trong thời thơ ấu, tôi thường hay khóc mỗi lần bị cha mẹ sửa phạt vì làm sai một điều gì đó. Nhưng chưa khi nào nước mắt tôi lại chảy ra nhiều như lúc bấy giờ. Đột nhiên tôi nhận ra các tội lỗi mình đã phạm bấy lâu nay, tôi thấy rõ những sự xấu xa hèn hạ của tôi và tôi nghĩ mình đáng bị phạt trong hỏa ngục. Nhưng sau khi khóc hết nước mắt, tôi cảm thấy tâm hồn bình an. Tôi xác tín rằng: Chúa nhân lành đã thấu hiểu lòng tôi, đã tha thứ lỗi lầm cho tôi để tôi xứng đáng nên con cái Người”.
Sau đó, Kon được học giáo lý và được chịu phép rửa tội gia nhập đạo công giáo, rồi ông xin nhập vào dòng Các-me-lô. Trong nhà dòng, Thầy Kon đã được học các môn về triết lý và thần học, thực tập các nhân đức, và bảy năm sau thày đã được thụ phong linh mục. Tân linh mục Kon đã được nhiều người công nhận là một linh mục đạo đức. Cha nhiệt thành rao giảng Tin Mừng và thường chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho những người chưa biết Chúa. Nhiều người nhờ tiếp xúc với cha cũng gặp được Chúa. Chính nhờ sự hướng dẫn của cha mà cả thầy dậy đàn là nhạc sĩ Phăng Lít và 10 bạn thân thời thơ ấu cũng đã tin Chúa và xin gia nhập đạo.
2) ĐÓN NHẬN CHÚA GIÊ-SU LÀ BÁNH TRƯỜNG SINH ĐỂ ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ:
MÉ-ZE-RAY (1610-1689) là một sử gia danh tiếng của nước Pháp. Cả đời ông không tin có thần thánh. Hơn nữa ông còn coi đạo công giáo là mê tín dị đoan. Năm 1683 lúc ốm nặng nằm trên giường bệnh, biết mình sắp chết, ông đã nhờ người nhà mời linh mục đến dạy đạo và rửa tội cho ông. Nghe tin này, bạn bè thân thiết rủ nhau đến thăm và cùng nhau ngăn cản ông theo đạo. Nhưng Mé-ze-ray đã nói với họ rằng:
– Này các bạn, như các bạn đã biết: Cả đời tôi không tin tưởng vào thần thánh. Nhưng thời gian nằm trên giường bệnh chờ thần chết đến, tự nhiên tôi thấy nảy ra trong đầu óc tôi thắc mắc này: Tại sao tôi lại phải chết giữa lúc còn đang ham sống? Ai bắt tôi phải chết giữa lúc tôi còn chưa muốn chết? Các bác sĩ thời danh nhất cũng không thể chữa cho tôi khỏi chết được? Chính các bác sĩ tuy có thể chữa cho nhiều người khỏi bệnh, nhưng rồi cuối cùng chính các ông cũng phải chết! Thắc mắc này, khoa học không thể giải đáp cho tôi thỏa mãn được, nên tôi đã đến với đức tin công giáo và đã tin vào Thiên Chúa. Vậy các bạn hãy tin tôi: Mé-ze-ray lúc sắp chết đáng tin hơn Mé-ze-ray khi còn khỏe mạnh.
3) TÌNH THƯƠNG LÀ CÁCH TỐT NHẤT GIÚP THA NHÂN NHẬN BIẾT CHÚA:
Một hôm một lão hành khất trên đường phố đã gặp Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta và chìa tay ra xin bố thí. Bà lục lọi hết các túi áo mà không tìm thấy một đồng tiền nào. Bà đành vỗ vai ông lão, vừa cười vừa nói lời xin lỗi vì không có gì để tặng cho ông. Bấy giờ lão hành khất liền nói: “Hôm nay bà đã cho tôi một món quà quí giá nhất mà từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ nhận được. Món quà đó chính là nụ cười cảm thông và một sự an ủi đầy tình người của bà. Tôi cảm thấy vui mừng và hạnh phúc, vì tôi đã được bà tôn trọng và đối xử bình đẳng !”.
Như vậy điều quan trọng phải làm là hãy chia sẻ niềm vui cho những người bất hạnh, để qua chúng ta họ gặp được Chúa và tin yêu Chúa, để được chia sẻ sự sống đời đời với chúng ta.
4) SỐNG DÀI LÂU NHỜ ĂN BÁNH THÁNH THỂ:
Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt đã được in năm dấu thánh tên là LU-Y LA-TÔ (Louis Lateau). Từ ngày đó, cô không còn ăn uống gì nữa. Trong bảy năm trời, cô sống được là nhờ rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày.
Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị TÊRÊSA NEWMAN và cô MATTA ROBIN, người đã sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa phán: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh…” (Mt 4,4).- “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói ở đây là gì?
Chúa Giê-su đã khẳng định: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh” (Ga 6,35). Để có tấm bánh, trước hết cần có hạt giống. Hạt giống được gieo trong ruộng, rồi được tưới bón, làm cỏ… Cây lúa cần ánh nắng mặt trời để lớn lên và đến mùa trổ bông kết hạt. Rồi phải được gặt hái, xay nhuyễn thành bột mì. Bột được nhào nặn thành bánh và được nướng chín trong lò.
Đức Giê-su, tấm bánh được Thiên Chúa ban cũng phải trải qua những công đoạn tương tự. Người đã được Chúa Cha gieo vào ruộng trần gian, nơi cung lòng Trinh Nữ Ma-ri-a. Người được lớn lên dưới ánh mặt trời làng Na-gia-rét. Năm ba mươi tuổi Người chịu phép rửa của Gio-an Tẩy Giả tại sông Gióc-đan và được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và ban ơn lành hồn xác cho đám đông dân chúng theo Người. Sau cùng, Người đã bị nghiền nát và được nướng chín trong cuộc tử nạn và phục sinh, để trở nên Bánh Thánh Thể ban sự sống đời đời cho chúng ta.
3. THẢO LUẬN: Trong những ngày này, tôi sẽ làm gì cụ thể để chia sẻ tình thương và niềm tin cho những người chưa nhận biết Chúa và chịu nhiều bất hạnh?
4. SUY NIỆM:
1) Phép lạ nhân bánh ra nhiều của Đức Giê-su:
Hơn ai hết, Đức Giê-su thấu hiểu cơm bánh vật chất là một nhu cầu không thể thiếu để con người được sống, nên Người đã làm phép lạ nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng được ăn một bữa no nê. Người cũng dạy môn đệ cầu Chúa Cha ban bánh ăn hằng ngày như lời kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Tuy nhiên, Người muốn mọi người hiểu rằng: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”, nhưng họ còn có những khát vọng mà chỉ mình Đức Giê-su mới có thể thỏa mãn là tin vào Người, Đấng là “Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Nhờ Người mà chúng ta sẽ được thỏa mãn các nhu cầu tinh thần và đạt được hạnh phúc trọn vẹn.
2) Cần tìm Chúa để được ơn cứu độ:
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, đám đông dân chúng đã đi tìm Đức Giê-su để được Người ban cho của ăn mà không cần phải vất vả làm việc. Đức Giê-su không chấp nhận điều đó, nên Người nói với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê”. Đức Giê-su mời gọi dân chúng hãy lo tìm của ăn thiêng liêng mang lại sự sống đời đời chứ đừng chỉ đi tìm lương thực vật chất hư nát: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27).
3) Lời Chúa và Thánh Thể là lương thực ban ơn cứu độ:
Ông Phê-rô đã hiểu được giá trị của lương thực thiêng liêng chính là Lời Chúa và Bánh Thánh Thể nên đã thưa với Đức Giê-su: “Chỉ có Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chính Đức Giê-su cũng dạy về hiệu quả của Bánh Thánh Thể như sau: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời… Đây là Bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54.58). Mỗi ngày các tín hữu chúng ta hãy siêng năng tham dự thánh lễ để nhận hai của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa. Nhờ đón nhận hai của ăn đó chúng ta mới được sống đời đời.
4) Chia sẻ tình thương là phương thế giúp tha nhân đón nhận ơn cứu độ:
– Ngoài cơn đói cơm bánh vật chất, người ta còn có nhiều cơn đói khác cần được thỏa mãn như: Cơn đói muốn được tôn trọng; Đói muốn được giao tiếp với người khác. Nhất là cơn đói tình thương. Đức Giê-su đã không làm phép lạ cho Manna từ trời rơi xuống cho dân chúng ăn như dân Do thái thời kỳ xuất hành, nhưng Người đã nhân bánh ra nhiều là hình ảnh của bí tích Thánh Thể sẽ thiết lập như Người đã phán: “Chính tôi là Bánh Trường Sinh, Ai đến với tôi không hề phải đói. Ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ” (Ga.6,35).
– Trong những ngày này, sau khi dự lễ và đã được thỏa mãn cơn đói Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần mang bánh Thánh Thể là tình thương ơn cứu độ đến cho bạn bè chưa biết Chúa, các bệnh nhân liệt giường, các người già neo đơn nghèo khó, các đôi vợ chồng bất hạnh có nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc… để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho họ, noi gương Mẹ Ma-ri-a mang Chúa đi thăm và chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Gia-ca-ri-a.
– Trong những ngày này, chúng ta sẽ làm gì để trở nên tấm bánh chia sẻ cho những người nghèo khó; nên cánh tay phục vụ những kẻ yếu đuối; nên bạn đồng hành với những kẻ cô đơn; nên ánh lửa hy vọng sưởi ấm con tim của tất cả mọi người.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cơm ăn áo mặc tiền bạc của cải là những nhu cầu không thể thiếu cho cuộc sống thể xác. Ma quỷ luôn cám dỗ chúng con đi tìm kiếm chúng, thay vì lẽ ra trước hết chúng con phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn những thứ khác như cơm ăn áo mặc, của cải vật chất và các nhu cầu thể xác thì Chúa sẽ ban cho chúng con sau.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị lâm vào cảnh nghèo đói bần cùng, nên thường mải mê tìm kiếm những của cải chóng qua đời này mà chẳng thiết tha tìm kiếm của cải thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể Chúa đem lại hạnh phúc đời sau. Xin Chúa tha thứ và giúp chúng con luôn biết tìm kiếm Chúa là hạnh phúc và là lẽ sống của đời chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 19 TN B
1 V 19,4-8; Ep 4,30-5,2; Ga 6,41-51
THÁNH THỂ: BÁNH MAN-NA MỚI TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ TRỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,41-51.
(41) Người Do Thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”. (42) Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả. Sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” (43) Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! (44) Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy. Và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. (45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. (46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. (47) Thậ̣t, tôi bảo thật các ông: Ai tin thì được sự sống đời đời. (48) Tôi là Bánh Trường Sinh. (49) Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. (50) Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. (51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
2. Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã khẳng định Người từ trời mà đến. Điều này làm cho dân chúng xầm xì phản đối vì họ nghĩ rằng họ đã biết rõ về gia thế của Người. Nhưng dù vậy, Đức Giê-su vẫn quả quyết: Người từ nơi Chúa Cha mà đến, và sẽ ban Thịt Máu mình làm lương thực đi dường, để ai lãnh nhận bí tích này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được sống nhờ Người và sẽ về Nước Trời với Người sau này.
3. CHÚ THÍCH:
– C 41-42: + Người Do Thái xầm xì phản đối bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là Bánh từ trời xuống”: Người Do Thái đây ám chỉ dân chúng đi theo Đức Giê-su từ hoang địa về thành Ca-phác-na-um. Họ xầm xì bàn tán khi nghe Người tuyên bố Người là Bánh từ trời mà đến. + Ông này chẳng phải là Giê-su, con của ông Giu-se đó sao?….: Dân Do thái nghĩ rằng họ đã biết rõ về thân thế và cha mẹ của Người.
– C 43-44: + Các ông đừng có xầm xì với nhau: Đức Giê-su biết đám đông đang bàn tán để phản đối lời Người vừa nói, vì họ chỉ nghĩ về phạm vi nhân tính của Người. + Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha không lôi kéo…: Người cho họ biết đức tin là một hồng ân do Thiên Chúa ban cho. + Và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ được Người cho sống lại vào ngày tận thế và sẽ được sống mãi mãi.
– C 45-46: + “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”: Câu này lược tóm lời tuyên sấm của I-sai-a: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ” (x. Is 54,13), và lời sấm của Giê-rê-mi-a: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: Hãy học cho biết Đức Chúa. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta” (Gr 31,33-34). +Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi: Tuy mọi người đều được Thiên Chúa kêu gọi và dạy bảo, nhưng chỉ ai nghe và đón nhận lởi giáo huấn của Chúa Cha thì mới có thể tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. + Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha: “Thiên Chúa là Thần Khí”, là Đấng thiêng liêng vô cùng (x. Ga 4,24). “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Thời Xuất hành, dù được thường xuyên đàm đạo với Đức Chúa, nhưng ông Mô-sê cũng chỉ thấy được phía sau lưng của Đức Chúa chứ không được nhìn thấy tôn nhan Ngài (x. Xh 33,23). Nhưng Đức Giê-su, Đấng từ nơi Chúa Cha mà đến, đã xem thấy Chúa Cha và có thể mặc khải về Ngài cho chúng ta.
– C 47-51: + “Ai tin thì được sự sống đời đời”: Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người ban sự sống đời đời, như lời thánh Phao-lô: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là A-đam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giê-su), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18). + “Tôi là Bánh Trường Sinh”: Đức Giê-su tự ví mình là “Bánh Trường Sinh” hay “Bánh Hằng Sống”, ám chỉ bí tích Thánh thể mà Người sẽ thiết lập sau này. “Hằng sống” là một đặc tính của Thiên Chúa (x. Mt 16,16), và của Chúa Ki-tô Phục Sinh (x. Rm 6,9). + Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết: Man-na là lương thực Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành, là thứ đồ ăn dễ bị hư nát (x. Xh 16,19-21). Dù dân Ít-ra-en đã ăn man-na, nhưng họ vẫn phải chết do tội đã phạm (x. Tv 78,29-31) và không được sống đời đời (x. Ga 6,58). + Còn Bánh này là Bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết: Đức Giê-su mới là Bánh từ trời thực sự, và ai ăn Bánh này sẽ “không phải chết” (x. Ga 6,50), nhưng “được sống muôn đời” (x Ga 6,51.54), “được ở trong Người” (x Ga 6,56), “được sống nhờ Chúa Cha” (x. Ga 6,57), “được sống và được sống dồi dào” (x. Ga 10,10). + “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”: Nói câu này, Đức Giê-su đã liên kết 5 chiếc bánh trong phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Ga 6,9) và bánh không men trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua, với Thịt Mình của Người trong Bí tích Thánh thể (x. Mt 26,26). Từ của ăn nuôi sống thể xác, được Đức Giê-su biến thành Bánh Hằng Sống đem lại sự sống đời đời (x. Ga 6,48), thành Thân Mình chịu khổ nạn và được Phục sinh của Người (x. Ga 6,51), và thành của ăn thần thiêng nuôi dưỡng đức tin (x. Ga 6,51.63), giúp các tín hữu tiến về Nước Trời để được sống muôn đời (x. Ga 6,58).
HỎI: 1) Dân Do thái xầm xì phản đối Đức Giê-su về câu nói nào của Người? Tại sao? 2) Đức Giê-su dạy đức tin có được là do đâu? 3) Ai tin vào Đức Giê-su thì sẽ nhận được gì? 4) Câu “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ” tóm lược lời tuyên sấm của hai vị ngôn sứ nào và 2 lời đó như thế nào? 5)Thiên Chúa thiêng liêng được mệnh danh là gì? Ai mới được nhìn thấy Thiên Chúa và mặc khải Ngài cho chúng ta? 6) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ được hưởng ơn gì? Thánh Phao-lô đã so sánh giữa A-đam cũ với Đức Giê-su ra sao? 7) Khi ví mình là Bánh Trường Sinh, Đức Giê-su muốn ám chỉ về bí tích nào Người sẽ thiết lập sau này? 8) Man-na là lương thực được Đức Chúa ban cho dân Ít-ra-en khi nào và có đem lại sự sống đời đời không? 9) Đức Giê-su là Bánh Hằng Sống từ đâu mà đến và ai ăn Bánh này sẽ nhận được ơn gì? 10) Đức Giê-su hứa sẽ thiết lập bí tích Thánh Thể thế nào và để làm gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời”(Ga 6,51).
2.CÂU CHUYỆN:
1) GIẤC MỘNG TRƯỜNG SINH BẤT TỬ CỦA TẦN THỦY HOÀNG:
Tần Thủy Hoàng là hoàng đế Trung Hoa, sống khoảng 200 năm trước Công Nguyên. Ông chính là người đã xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm, là một kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể quan sát được từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên đã tìm đủ cách để có thể cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia đã kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết sống trường sinh bất lão, nên ai cũng sống lâu. Tần thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy ngọc ngà châu báu lên đường, hy vọng có thể đổi những đồ quý giá lấy bí quyết trường sinh mang về. Nhưng dân chúng tại đây đã nhất quyết không chịu đổi bí quyết trường sinh của họ lấy bất cứ thứ gì.
Không lấy được thuốc trường sinh, nên khi già yếu, Tần thủy Hoàng đã ra lệnh cấp tốc xây một nhà mồ cho mình như một cung điện nguy nga tráng lệ, rồi ông cho trang trí nhà mồ bằng các đồ trân châu quý giá, lát tường nhà bằng vàng bạc và truyền sẽ chôn sống hàng trăm cung nữ với ông sau khi ông chết, hy vọng kiếp sau sẽ được sống an nhàn sung sướng như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham hưởng thụ ấy đã chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết.
Bí quyết để sống vĩnh hằng đã được Đức Giê-su mặc khải trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga.6,47). Ngày nay thánh lễ chính là bàn tiệc gồm hai của ăn là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa, là lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho ai lãnh nhận. Vậy chúng ta cần làm gì để được sống đời đời ngay từ bây giờ?
2) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một viên thuốc bất tử. Người ấy đang bưng thuốc vào triều, Viên quan canh cửa liền hỏi:
– Đây là cái gì?
– Là viên thuốc trường sinh bất tử tôi đem đến dâng tiến cho đức vua.
– Viên thuốc này có ăn được không?
Người ấy đáp:
– Ăn được.
Lập tức, viên quan liền cầm lấy viên thuốc mà ăn. Câu chuyện đến tai nhà vua. Vua liền truyền bắt viên quan đến định xử tội khi quân và sẽ bị chém đầu. Viên quan nghe án liền kêu oan:
– Thần đã hỏi người dâng thuốc và được ông ta nói đó là viên thuốc trường sinh bất tử, nghĩa là ai ăn sẽ không bị chết nữa. Thần có hỏi người ấy “ăn được không”, và người ấy đáp: ”Ăn được”, nên thần mới ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi tại người dâng thuốc. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là viên thuốc “trường sinh bất tử”, nghĩa là ai ăn vào sẽ không bị chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy đó là “thuốc tử”, chớ sao gọi là “thuốc bất tử” được? Nếu bệ hạ giết thần, là bệ hạ đã kết án oan cho người vô tội, và chứng tỏ bệ hạ là người dễ bị kẻ khác mê hoặc lừa gạt.
Vua nghe viên quan đó nói có lý, nên đã tha không giết nữa. (Nguồn: Cổ học tinh hoa)
Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su nói: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”. Qua đó, Đức Giê-su đã mặc khải: ngoài cuộc sống đời này, còn có một cuộc sống vĩnh hằng đời sau nữa, dành cho những ai tin vào Đức Giê-su, thể hiện qua việc lắng nghe Lời Người và siêng năng ăn Bánh Thánh Thể mà Người ban cho.
3) QUYẾT TÂM CẢI GIÁO NHỜ TIN THEO LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Hồng y NIU-MÂN (Newman) trước kia đã từng giữ chức vụ Tổng Giám Mục Anh Giáo với bổng lộc hằng năm khá lớn. Dù thuộc tầng lớp quí tộc và là chức sắc cao cấp của Anh Giáo như vậy, nhưng ngài luôn bị lương tâm dày vò về các mầu nhiệm đức tin trong Tin Mừng không sao lý giải được. Rồi đến một ngày, sau khi đã suy nghĩ kỹ về sự khác biệt đức tin giữa Anh Giáo và Công Giáo, cuối cùng ngài đã quyết định từ bỏ các chức vụ cao cấp và các đặc quyền đặc lợi đang thụ hưởng của Anh giáo, để cải giáo theo đạo Công Giáo. Biết được ý định của Niu-mân, bạn bè thân thích đã đến can ngăn để yêu cầu ngài nghĩ lại. Họ nói: “Trước khi quyết định, xin ngài hãy cân nhắc cẩn thận. Vì nếu ngài cải giáo thì không những bị mất tất cả các chức danh và địa vị tinh thần, mà ngay cả lương bổng vật chất hằng năm cũng không được hưởng nữa !” Nhưng Niu-mân đã thẳng thắn trả lời: “Tiếc thì tôi cũng tiếc thật. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Chức vụ, quyền hành và bổng lộc vật chất tuy đáng quí, nhưng có đáng là gì so với những điều tôi nhận được khi trở nên thành viên của Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền. Tôi sẽ lãnh nhận được ơn Thánh Thần và được chịu các phép bí tích, nhất là được ăn tiệc Thánh Thể. Đó mới thực là Bánh đem lại phúc trường sinh”.
Sở dĩ Niu-mân có được suy nghĩ và quyết định sáng suốt như vậy, là do ngài đã nghe theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thực vậy, nếu không có ơn Thánh Thần ban, thì người ta sẽ khó lòng hiểu được Lời Chúa Giê-su và sẽ không tin vào bí tích Thánh Thể, như đám đông dân Do Thái và phần đông các môn đệ đã không tin. Họ đã chán nản bỏ đi không muốn đi theo Đức Giê-su, vì họ không thể chấp nhận được mầu nhiệm của bí tích Thánh Thể này. Chỉ có Nhóm Mười Hai là vẫn trung thành đi theo Thầy, vì dù họ không hiểu Lời Thầy bằng lý trí, nhưng vẫn sẵn sàng tin vào Thầy, như ông Phê-rô đã đại diện anh em thưa: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết: chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
4) PHÉP LẠ VỀ CON LỪA QUÌ LẠY THÁNH THỂ CHÚA:
Thánh AN-TÔN PA-DO-VA (1195-1231) tên thật là FERNANDO, là tu sĩ dòng Phan-xi-cô khó nghèo. Ngài sinh tại Bồ-đào-nha nhưng sau này lại sống tại nước Ý. Ngài có tài hùng biện với một lòng đạo đức sâu xa, nên luôn được mời đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Linh Mục An-tôn có biệt tài chống lại lý luân của các lạc giáo, nhất là nhóm An-bi-gien-sê tại vùng Tây Nam nước Pháp. Ngài rất có lòng sùng kính bí tích Thánh Thể. Một ngày nọ, An-tôn có mặt tại Tu-lu để bác bỏ lạc thuyết của nhóm An-bi-gien-sê về bí tích Thánh Thể. Cuộc tranh cãi rất sôi nổi. Với lý luận sắc bén, An-tôn đã làm cho nhóm lạc giáo cứng miệng. Tuy thua về lý thuyết nhưng họ vẫn không đầu hàng. Ông trưởng lạc giáo nói: “Bây giờ chúng ta hãy dẹp bỏ mớ lý luận kia để đi vào thực tế. Nếu ông có thể chứng minh có Chúa Giê-su hiện diện thực sự trong Bánh Thánh Thể, trước sự chứng kiến của mọi người, thì tôi sẽ xin từ bỏ lạc giáo để trở về với đức tin Công giáo. Đầy tin tưởng vào quyền năng của Chúa Giê-su Thánh Thể, linh mục An-tôn trả lời: “Tôi chấp thuận đề nghị của anh”.
Ông trưởng lạc giáo An-bi-gien-sê nói tiếp: “Ở nhà tôi có một con lừa cái. Tôi sẽ nhốt nó vào chuồng và bắt nó nhịn đói 3 ngày. Đến ngày thứ ba, tôi sẽ dẫn nó đến đây trước mặt mọi người, và dọn ra cho nó một thùng lúa mạch thơm ngon. Còn ông, ông cũng đưa ra trước mặt con lừa ”cái” mà ông gọi là Mình Thánh Chúa. Nếu con lừa đang đói mà không ăn thóc lúa, nhưng lại quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin vào giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo.
Đúng ngày hẹn, toàn dân thành Tu-lu đứng chen chúc nhau tại quảng trường chính, nơi sắp diễn ra cuộc thách thức, đang lúc linh mục An-tôn sốt sắng dâng lễ trong một nhà nguyện gần đó. Đến giờ hẹn, ông trưởng phe lạc giáo liền dắt con lừa cái nhà ông đến quảng trường và không quên mang theo thùng thức ăn thích hợp với nó. Nhóm lạc giáo hiện diện rất đông với nét mặt hân hoan như cầm chắc phần thắng trong tay. Bấy giờ Linh mục An-tôn từ trong thánh đường gần đó bước ra, tay giơ cao Bánh Thánh Thể mới được truyền phép trong thánh lễ. Linh mục An-tôn lớn tiếng nói với con lừa rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, là Đấng đã dựng nên ngươi. Tuy ta bất xứng, nhưng ta đang giữ Người trên tay, ta truyền cho ngươi, hỡi con vật đáng thương, hãy mau đến quỳ gối thờ lạy Người. Cùng lúc ấy, người ta cũng đưa thùng lúa kiều mạch đến trước mặt con vật. Lạ lùng thay, con lừa đã không đoái hoài đến thức ăn hợp khẩu vị, mà đã vâng lời linh mục An-tôn, nó chạy đến gập hai chân trước quì xuống và cúi đầu thờ lạy Mình Thánh Chúa Giê-su.
Trước cảnh tượng ấy, các tín hữu Công Giáo vui mừng vỗ tay reo hò để tạ ơn Chúa, đang khi nhóm lạc giáo kia ngơ ngác không biết phải ứng phó thế nào. Cuối cùng ông trưởng nhóm lạc giáo đã chịu thua. Ông đã giữ lời hứa là từ bỏ lạc giáo và khiêm tốn quay về tin theo giáo huấn chân thật của Hội Thánh Công giáo.
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ tham dự thánh lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời do Chúa hứa ban? 2) Sau thánh lễ, bạn cần làm gì để giới thiệu Chúa cho tha nhân, nhất là cho những người nghèo hèn, bệnh tật và bị bỏ rơi… để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ và được tham phần vào sự sống đời đời?
4. SUY NIỆM:
Trong cuộc hành trình về Nước Thiên Chúa, mỗi người cần được ăn lương thực để đủ sức như sau:
1) Man-na: lương thực bổ sức cho dân Ít-ra-en trên đường về miền đất hứa:
Dân Ít-ra-en dưới sự lãnh đạo của Mô-sê đã từ Ai Cập tiến về miền đất Ca-na-an do Đức Chúa đã hứa ban cho Ap-ra-ham và con cháu ông (x. St 12,5-7).
Trong suốt thời gian lưu lạc trong sa mạc, dân Ít-ra-en tuy không còn bánh ăn nước uống vật chất như khi ở Ai Cập, nhưng họ lại được Đức Chúa ban man-na từ trời rơi xuống (x Xh 16,15) và uống nước suối phát xuất từ tảng đá (x Xh 17). Nhờ đó họ đã có đủ sức để vượt qua sa mạc hoang vu trong thời gian 40 năm, để sau cùng về tới miền Đất được Đức Chúa hứa ban cho tổ phụ A-bra-ham và con cháu. Đó là xứ Ca-na-an ngày nay là Pa-lét-tin.
2) Bánh và nước: bổ sức cho ngôn sứ Ê-li-a về tới núi của Chúa:
Sau khi tiêu diệt 450 sãi bụt Ba-an trên núi Các-men (x. 1 V 18,20-40), ngôn sứ Ê-li-a đã bị hoàng hậu I-de-ven sai quân truy bắt, nên ông đã phải chạy đến Núi Khô-rép để được Đức Chúa bảo vệ.
Trong cuộc trốn chạy, có lúc ông bị đói khát mệt mỏi và tuyệt vọng, chỉ muốn chết đi cho xong. Nhưng khi đang thiếp ngủ dưới một gốc cây, ông đã được thiên sứ đến đánh thức và mang cho ông bánh ăn nước uống. Nhờ được ăn bánh uống nước của Chúa mà Ê-li-a đã được hồi phục sức khỏe để tiếp tục cuộc hành trình tiến về Núi Thánh của Đức Chúa (x. 1 V 19,1-8).
3) Man-na Mới: bổ sức cho các tín hữu trên đường về Nước Trời:
Man-na xưa là hình ảnh của Bí Tích Thánh Thể do Đức Giê-su thiết lập trong thời Tân Ước. Người đã tự hiến làm lương thực thiêng liêng ban sự sống đời đời cho thế gian khi tuyên bố rằng: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống… Bánh tôi sẽ ban chính là Thịt tôi để cho thế gian được sống” (Ga 6,48.51).
Lương thực nói trên còn là Lời của Thiên Chúa như Đức Giê-su đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8,3; Mt 4,4). Chính Lời của Thiên Chúa đã nhập thể làm người và ở cùng chúng ta là Đức Giê-su (x Ga 1,14). Người trở thành con đường duy nhất nối liền giữa đất với trời như Người đã nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Từ đây ai muốn lên trời phải ăn được hai của ăn do Chúa ban là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
4) Bánh Thánh Thể hôm nay – mầm sống lại của cuộc sống mai sau:
Ngày nay Hội Thánh cử hành bí tích Thánh Thể để tưởng niệm sự chết và phục sinh của Chúa Giê-su và mời gọi mọi tín hữu chúng ta năng lãnh nhận, để có mầm sống lại trong mình như lời Chúa phán: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”.
Mỗi tín hữu hôm nay phải năng tham dự thánh lễ và rước lễ, để được hưởng nếm sự ngọt ngào của Chúa Giê-su, hầu có thể vượt qua các thử thách gian nan gặp phải trong cuộc sống. Hãy để Chúa Giê-su Thánh Thể biến đổi chúng ta nên giống Người. Mỗi lần rước lễ chúng ta sẽ cảm nếm được hương vị hạnh phúc thiên đàng, được nghỉ ngơi trong Chúa như lời Chúa hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11,28-30). Ai ăn Bánh Thánh Thể hôm nay sẽ nhận được mầm sự sống lại mai sau.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi lần dự lễ là chúng con được Chúa kêu gọi ăn Lời Chúa và Thánh Thể do Chúa tặng ban. Xin giúp chúng con siêng năng dự lễ mỗi ngày để được Lời Chúa giáo huấn và được Mình Chúa dưỡng nuôi. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận mọi người sống trong cùng một nhà, ở chung cùng một khu xóm, cùng học tập trong một mái trường, làm việc trong một cơ quan hay nhà máy… Xin cho chúng con biết đón nhận những người đối xử tốt với chúng con mà cả những kẻ không ưa thích khích bác nói xấu chúng con. Xin giúp chúng con mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần để được ơn biến đổi nên con thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa, và nên anh chị em của mọi người trong gia đình Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI (15/08)
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
MA-RI-A DIỄM PHÚC HƠN MỌI NGƯỜI NỮ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) MẸ LUÔN CỨU GIÚP NHỮNG AI TIN CẬY KÊU CẦU:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ ĐẶC ÂN HỒN XÁC LÊN TRỜI CỦA ĐỨC MA-RI-A:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) TỪ TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA ĐẾN MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ CHÚA GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). Người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ ĐẤNG ĐẦY ƠN PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức MA-RI-A chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC RƯỚC VỀ TRỜI ĐỂ CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per MA-RI-Am): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá… mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
2) LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách: khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na: « Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo » (Ga 2,5).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN B
Cn 9,1-6; Ep 5,15-20; Ga 6,51-58
ĐÓN NHẬN THÁNH THỂ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,51-58
(51) Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống”. (52) Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được?” (53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình”. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.
2. Ý CHÍNH: Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, tại hội đường thành Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đã giảng về Bánh Hằng Sống là bí tích Thánh Thể. Nội dung bài giảng được tóm lược như sau: Ai ăn Thịt và uống Máu Người, tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể mà Người sẽ thiết lập, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người, được tham phần vào sự sống thần linh của Người, và đến ngày tận thế sẽ được sống lại để hưởng hạnh phúc muôn đời với Người.
3. CHÚ THÍCH:
– C 51: + Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống…: Đức Giê-su tự xưng là tấm Bánh với hai đặc tính thần linh là “hằng sống” và “từ trời xuống”. + Bánh Tôi sẽ ban tặng: Sẽ ban là chưa ban ngay lúc này, nhưng sẽ ban khi lập bí tích Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly sau này (x. Mt 26,26-28). + Chính là Thịt Tôi đây: Thịt (Sarx) trong ngôn ngữ Hy Lạp ám chỉ con người toàn diện gồm cả xác lẫn hồn. Thịt ở đây cũng chính là Thịt (Sarx) trong câu: “Ngôi Lời đã hóa thành “nhục thể” – hay là “Thịt” (Sarx) hoặc “người phàm” (Sarx) – và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1,14). Ở đây, “Bánh” được liên kết với “Thịt” và với “Sự Sống”, là hai đặc tính của bí tích Thánh Thể. + Cho thế gian được sống: Thịt của Đức Giê-su tức là bánh Thánh Thể, là lương thực thần linh, sẽ đem lại hiệu quả là ban sự sống cho người lãnh nhận.
– C 52-53: + Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được?: Dân chúng Do Thái nghe Đức Giê-su giảng và đã hiểu đúng ý của Người. Đó là Người cho người ta ăn chính Thịt của Người. Họ thắc mắc và phản đối Đức Giê-su vì nghĩ rằng Người đã hóa điên khùng nên mới ăn nói bừa bãi như vậy. + Thật, Tôi bảo thật các ông: Trước sự thắc mắc về việc cho người ta ăn Thịt của mình, Đức Giê-su đã không làm dịu kiểu nói này lại và cũng không cải chính để tránh cho họ hiểu sai ý mình, nhưng Người lại tiếp tục xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình: Đây là cách diễn tả khác nhằm nhấn mạnh sự thật này: người ta chỉ có sự sống của Chúa nơi bản thân khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, tức là ăn Thịt và uống Máu của Người.
– C 54-56: + Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết: Kẻ lãnh nhận Thịt Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể sẽ được tham phần vào sự sống đời đời và được Đức Giê-su cho sống lại vào ngày tận thế. + Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống: Trong bốn câu liền (c. 53.54.55.56), Tin Mừng Gio-an dùng cặp từ: Thịt (Sarx) và Máu (Haima) để chỉ con người toàn diện của Đức Giê-su. + Thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy: Hiệu quả của việc lãnh bí tích Thánh Thể là người ta được kết hiệp thân mật với Chúa Giê-su. Nghĩa là được “ở lại” trong Người, đón nhận sự sống dồi dào của Người và trở thành bạn tâm giao của Người, như thánh Phao-lô đã viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).
– C 57-59: + Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy: Đức Giê-su nói đến sự sống siêu nhiên nhờ bí tích Thánh Thể. Ai ăn Bánh Thánh Thể thì sẽ được tham phần vào sự sống siêu nhiên phát xuất từ nơi Chúa Cha thông qua Chúa Giê-su. + Đây là Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời: Sự sống siêu nhiên mà Bánh Thánh Thể ban cho người lãnh nhận, khác với sự sống tự nhiên thể xác do bánh Man-na mang lại. Vì thế mà dân Ít-ra-en xưa, dù đã ăn Man-na trong sa mạc nhưng vẫn bị chết do tội đã phạm. Còn ai ăn Bánh do Chúa Giê-su ban trong bí tích Thánh Thể thì sẽ được sống đời đời, nhờ đón nhận được sự sống siêu nhiên của Người.
4. CÂU HỎI: 1) Bánh Thánh do Đức Giê-su hứa ban có hai đặc tính thần thiêng nào? 2) Bánh đó sẽ được ban khi nào và là Bánh gì? 3) Từ Thịt (Sarx) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gì? 4) Khi Đức Giê-su hứa sẽ ban Bánh Hằng Sống là Thịt của Người trong bí tích Thánh Thể, người Do Thái đã hiểu ra sao? Có hiểu đúng với ý Người muốn nói không? Tại sao? 5) Khi thấy họ phản đối, Đức Giê-su không những không thay đổi điều vừa nói hay nói nhẹ đi, mà Người càng nhấn mạnh hơn qua câu nào? 6) Ai ăn Thịt uống Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể sẽ nhận được hiệu quả nào? 7) Trong 4 câu liền (câu 53.54.55.56), Đức Giê-su dùng hai từ Thịt và Máu ám chỉ điều gì? 8) Câu nào cho thấy hiệu quả của việc ăn Thịt uống Máu Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể? Thánh Phao-lô viết về sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su qua câu nào? 9) Sự sống siêu nhiên nhận được do bí tích Thánh Thể là sự sống nào? 10) Sự sống siêu nhiên nhận được từ Bánh Thánh Thể thời Tân ước với sự sống tự nhiên từ Manna thời Cựu ước khác nhau thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MẸ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG:
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh quốc có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc Châu. Trên một chiếc thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ góa chồng, mang theo một đứa con thơ còn bú sữa mẹ. Sau khi thuyền khởi hành được mấy ngày, thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền bị sóng đánh tơi tả và cột buồm đã bị gãy. Từ đó, con thuyền lênh đênh trôi trên mặt biển nhiều ngày. Lương thực trên thuyền đã dần dần cạn kiệt. Nhiều người bắt đầu bị chết đói và sau đó bị quăng xuống biển. Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ trẻ kia cũng đã bị chết đói, trong khi đứa con nằm bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ này trước khi chết đã dùng dao cứa đứt đầu ngón tay út và cho con bú máu của mình thay cho sữa mẹ đã hết. Bà đã hy sinh chịu chết để cho đứa con của bà được sống ! Về sau đứa trẻ kia lớn lên đã trở thành một vị dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ đến công ơn trời biển của người mẹ đã hy sinh lấy máu mình để làm lương thực nuôi ông khỏi bị chết. Rồi một hôm, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội kể lại câu chuyện thời thơ ấu của mình, và đề nghị quốc hội chọn một ngày trong năm để tôn vinh các bà mẹ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với mẹ của mình. Đó là nguồn gốc ngày Quốc Tế Các Bà Mẹ hiện nay.
2) CƠM BÁNH ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐANG ĐÓI CÓ GIÁ TRỊ NGÀN LẦN HƠN KIM CƯƠNG:
Đây là câu chuyện có thực của một nhà thám hiểm. Sau mười ngày một mình băng qua sa mạc Phi châu, một nhà thám hiểm nọ sắp kiệt sức vì bị lạc đường và đã ăn hết số lương thực mang theo. Ông ta đi theo hướng mặt trời mọc, nhưng rồi đi đến chỗ nào cũng chỉ thấy cát và cát. Cuối cùng, ông cũng đến được một ốc đảo có hồ nước và cây cỏ xanh tươi. Sau khi uống nước no nê, ông lại lại bị cơn đói hành hạ. Đột nhiên ông thấy một chiếc bị bằng da nằm lăn lóc ở gần chỗ đang ngồi. Hy vọng tìm được một chút lương thực trong chiếc bị da kia để tiếp tục lên đường, nhưng thay vì thấy lương thực ông lại chỉ thấy nhiều viên kim cương óng ánh rất đẹp. Ông cay đắng thốt lên với nỗi thất vọng: “Những viên kim cương này đâu có giá trị gì khi ta sắp chết đói?” Nói rồi ông ôm chiếc bị da chứa kim cương thiếp ngủ vào cõi chết.
Ít lâu sau, một đoàn thám hiểm cũng băng qua sa mạc, họ đã thấy một bộ xương người đang ngồi dựa vào tảng đá, hai tay ôm chặt chiếc bị da, trong có nhiều viên kim cương quý giá, nhưng lại trở thành vô ích đối với người bị đói đang cần được ăn.
3) CỬ HÀNH THÁNH LỄ TRONG NHÀ TÙ:
Đức Hồng y PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê NGUYỄN VĂN THUẬN đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian ngài bị biệt giam trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề “Năm chiếc bánh và hai con cá” để chia sẻ cho giáo triều Rô-ma trong dịp tĩnh tâm mùa chay thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ ngài trong những năm tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và sâu lắng. Thánh lễ ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù ngài mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của ngài đựng những giọt rượu nho thay cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát với chính Thánh lễ mà Chúa Giê-su đã cử hành năm xưa trên thập giá.
4) VIỆC BÁC ÁI TỪ THIỆN BẮT NGUỒN TỪ LÒNG MẾN BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Ki-tô hữu tại một nhà thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA, người ta đã dâng cho mẹ một bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói, đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn được chấp nhận và được yêu thương.
3. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta cần làm gì để được biến đổi nên tốt hơn sau mỗi lần rước lễ?
4. SUY NIỆM:
Câu chuyện bà mẹ nuôi con bằng dòng máu của mình, là hình ảnh tuyệt hảo nói lên tình thương của Chúa Giê-su khi lập bí tích Thánh Thể. Người đã tự hiến mình trở thành Bánh thiêng nuôi dưỡng và ban sự sống đời đời cho chúng ta. Vậy Bánh Thánh Thể là bánh gì?
1) Sứ mệnh của bánh:
Bánh là lương thực có thể ăn được và giúp người ta duy trì sự sống (Ga 6,51). Bánh không sống cho mình, mà luôn sống “vì và cho” con người. Chúa Giê-su tự xưng mình là Bánh, vì Người đã tự hủy bản thân, hy sinh chính mình để cho loài người chúng ta được sống. Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân cho tha nhân được sống, thì bấy giờ ta mới trở thành tấm bánh giống như Bánh Thánh Thể của Chúa Giê-su.
2) Chúa Giê-su là tấm Bánh Thánh Thể để người ta ăn:
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã chủ trương chiêm ngưỡng và thờ lạy Bánh Thánh Thể hơn là hãy cầm lấy mà ăn như lệnh truyền của Chúa Giê-su. Động từ ăn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng hôm nay, như một lời mời gọi tha thiết của Chúa Giê-su là: hãy siêng năng tham dự bữa tiệc Thánh Thể do Người khoản đãi, với hai của ăn cao quý trên bàn thờ là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
3) Chúa Giê-su cho biết ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể như sau:
– Một là họ sẽ được sống lại trong ngày tận thế và được sống muôn đời: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,54-55).
– Hai là sẽ phát sinh mối giây thân tình giữa Chúa và kẻ ăn tiệc Thánh Thể: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).
– Ba là sẽ được sống nhờ Người: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
4) Phải ăn Bánh Thánh Thể thế nào để phát sinh công hiệu?:
Ngày nay tuy các tín hữu đã lên rước lễ nhiều hơn, nhưng phần đông lại rước lễ cách hờ hững: Quả thật, ít có vị khách quí nào lại bị chủ nhà tiếp đón lạnh nhạt như Chúa Giê-su Thánh Thể ! Do đó, dù có năng tham dự thánh lễ và lên rước lễ hằng ngày, nhưng nhiều tín hữu vẫn không gặp được Chúa Giê-su, không nhận được biến đổi giống Chúa, nên họ vẫn sống vô cảm, ích kỷ, tự mãn, lười biếng và vô trách nhiệm… như bao năm qua ! Cần đổi mới cách rước lễ để có thể gặp gỡ Chúa, sống kết hiệp với Người và ngày một được ơn biến đổi nên giống Người hơn.
5) Diễn tiến một buổi cho bệnh nhân rước lễ tại gia:
Một nữ tu được cha sở nhờ mỗi sáng Chúa Nhật mang Mình Thánh Chúa đến thăm viếng và cho bệnh nhân rước lễ. Chị đã kể lại diễn tiến của một buổi cho rước lễ như sau:
– Khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh cụ, làm dấu Thánh giá và đọc một đoạn trong bài Tin Mừng Chúa nhật, rồi nói lên bài học Chúa muốn dạy qua bài Tin Mừng.
– Tiếp đến tôi và cụ cùng nhau đọc kinh Lạy Cha như Chúa dạy.
– Rồi tôi giơ Mình Thánh lên và nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Và cụ đáp lại: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
– Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ và cho cụ uống chút nước suối để rước hết mụn bánh thánh.
– Sau một lát thinh lặng, tôi giúp cụ dâng lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Ước gì Mình Thánh Chúa con vừa lãnh nhận, gia tăng sức khoẻ hồn xác cho con. Xin thương chữa con mau lành bệnh. Xin ban ơn nâng đỡ con và giúp con được sống mãi mãi với Chúa trên thiên đàng. Từ nay con xin hứa sẽ luôn nở nụ cười với người chung quanh, sẵn sàng đón nhận mọi đau khổ trái ý gặp phải để đền tội con và cầu xin cho một tội nhân được ơn trở về với Chúa, cho một người lương quen biết được sớm nhận biết tin yêu Chúa để cũng được hưởng niềm vui ơn cứu độ với con.- Amen”.
– Cuối cùng nói chuyện thân tình, hứa luôn cầu nguyện và hẹn gặp lại vào tuần sau.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con cảm thấy có sự giống nhau giữa thân phận làm Bánh của Chúa với thân phận làm người của con. Nhờ ăn Bánh Thánh Thể của Chúa, con sẽ được biến hóa nên tấm bánh thơm ngon, được bẻ ra để phục vụ tha nhân. Ước gì con dám đón Chúa vào vùng mờ tối của lòng con, để sự hiện diện của Chúa làm cho con được bừng sáng lửa tin yêu. Ước gì sau khi được đón Chúa vào lòng, con sẽ trở thành một Nhà Tạm di động, luôn có Chúa là Tình Yêu, để chia sẻ tình yêu ấy cho tha nhân, hầu sau này họ cũng được hưởng hạnh phúc đời đời với con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN B
Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6,54a.60-69
TIN VÀ SỐNG LỜI CHÚA VỀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 6,54a.60-69
(54a) Khi nghe Đức Giê-su tuyên bố: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”, (60) nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi?” (61) Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? (63) Thần Khí mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống. (64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. (67) Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm 12: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (68) Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
2. Ý CHÍNH:
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống, là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn đi theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi ông Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
3. CHÚ THÍCH:
– C 54a.60: + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giê-su là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giê-su nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người nhận Đức Giê-su làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giê-su có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi?”: Khi nghe Đức Giê-su nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, được dành riêng cho chủ tể của sự sống là Đức Chúa như Luật Mô-sê: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).
– C 61-62: + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?: Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận: Một là Đức Giê-su tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?: Đức Giê-su cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
– C 63-64): + Thần khí: Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau: Một là gió, với đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở: Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn: Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì !: Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và khi ấy thân xác trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì ! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
– C 65-66: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giê-su là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai: Đức Giê-su đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
– C 67-69: + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát: Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”: Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giê-su như sau: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
5. CÂU HỎI: 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giê-su nữa? 2) Môn đệ là những ai và Đức Giê-su có bao nhiêu môn đệ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào? 3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều nào của Đức Giê-su? 4) Đức Giê-su đưa ra bằng chứng nào cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy? 5) Trong Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào? 6) Đức Giê-su đã nói gì về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người? 7) Tại sao Đức Giê-su lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống? 8) Đức Giê-su biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người? 9) Đức Giê-su chó biết đức Tin phát xuất từ đâu? Ta phải làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải? 10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giê-su? 11) Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giê-su tuyển chọn từ Nhóm nào? Nhóm Tông đồ được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giê-su hòi có muốn bỏ đi hay không? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào? 13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giê-su là ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68) :
2. CÂU CHUYỆN:
1) DÂN ÍT-RA-EN ĐÃ CHỌN TIN VÀO ĐỨC CHÚA VÀ TUÂN GIỮ LỀ LUẬT CỦA NGÀI:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
– Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, con cháu Gia-cóp đã được Mô-sê cứu khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập để vào sa mạc tiến về hứa địa. Họ đã được Đức Chúa thanh luyện từ một dòng tộc con cháu Gia-cóp trở thành một dân tộc Ít-ra-en, ký kết giao ước với Đức Chúa.
– Sau 40 năm lưu lạc trong hoang địa, dân Ít-ra-en đã đến được sông Giô-đan, giáp ranh xứ Ca-na-an; Đây là Hứa Địa, được Đức Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Mô-sê trao cho Gio-su-ê quyền lãnh đạo dân Chúa để đánh chiếm lại Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chinh phục được các dân địa phương và chiếm được Hứa Địa.
– Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân Ít-ra-en tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân cũng được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép miền Si-nai…
– Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
2) CHẤP NHẬN CÁI CHẾT ĐỂ TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC TIN:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rô-ma có một sĩ quan xuất sắc lừng danh là MA-RANH, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng và chính ông cũng nghĩ như thế. Nhưng Ma-ranh là một người Công giáo có đức tin vững mạnh. Ông luôn xin Chúa ban ơn trung thành với đức tin khi chịu phép rửa tội. Lúc đó, có một viên đại tướng của quân đội Rô-ma bị chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền cho mời Ma-ranh đến và nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua để gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng có người cho biết ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không muốn để bất cứ người Công giáo nào trong hàng ngũ sĩ quan quân đội hoàng gia. Vậy xin ngài cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh đã khẳng định: “Thưa ngài, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giê-su thì ngài sẽ làm đại tướng. Bằng không ngài sẽ phải chết”.
Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Ki-tô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, ông phải chọn một trong hai. Xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông quyết định”. Ma-ranh can đảm chọn cầm sách Tin Mừng và nói: “Con xin thề trung thành với Chúa”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh và nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và hôm đó, Ma-ranh đã bị đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể chúng ta phải chọn giữa nhiều thử thách, đòi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách ở đời này, nhất là về đức tin.
3) GƯƠNG TÍN THÁC VÀ VÂNG LỜI CHA:
Ngày xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn thử xem con nào là đứa con khôn để ông trao lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua đời. Ông lấy một viên kim cương thật quí gói trong một chiếc túi giấy xấu – còn viên kim cương giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào một cái hộp trang trí rực rỡ. Sau đó ông cho gọi 2 đứa con lại. Ông cho người con cả chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy túi giấy xấu nên đã bỏ qua và chọn cái hộp đẹp.
Sau đó đến phiên người con út. Anh ta quan sát hai món đồ. Sau một phút suy nghĩ anh nhìn cha và nói: “Thưa cha, xin cha lựa giúp con”.
Và đức vua đã tìm ra người sẽ kế vị mình. Sau đó đức vua đã truyền mở gói quà được bọc trong túi giấy xấu ra khiến mọi người đều ngỡ ngàng. Sau đó đức vua truyền cho thợ kim hoàn thiết kế một mũ triều thiên thật đẹp và viên kim cương thật đã được đính lên mũ triều thiên đó. Rồi đức vua cho chiếc triều thiên này vào một chiếc hộp bằng vàng đẹp hơn chiếc hộp kia ngàn lần. Cuối cùng đức vua đã tuyên bố với thần dân rằng: “Mai sau con út trẫm sẽ lên nối ngôi trẫm và trong ngày đăng quang sẽ đội chiếc vương miện quý giá này”. Sở dĩ người em được chọn vì anh ta đã biết tín thác vào cha và luôn làm theo ý cha.
4) PHÉP LẠ BÍ TÍCH THÁNH THỂ Ở LAN-XI-A-NÔ:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lou-gi-no ở Lan-xi-a-nô bên I-ta-li-a, có một linh mục tên là BA-SI-LI-Ô hoài nghi về mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu sau lời truyền phép trong thánh lễ. Chúa Giê-su Thánh Thể đã làm một phép lạ lớn lao còn lưu truyền đến ngày nay, như một bằng chứng hùng hồn về bí tích Thánh Thể. Đó là phép lạ LAN-XI-A-NÔ.
Hôm ấy sau khi linh mục Ba-si-li-ô đọc lời truyền phép trong thánh lễ, tấm bánh miến liền biến thành Thịt Chúa và rượu nho trong chén thánh liền biến thành Máu Chúa Giê-su Vào năm 1713. Từ đó đến nay Thịt Máu Chúa vẫn luôn tồn tại. Thịt Máu Chúa đã được lưu giữ trong một chiếc Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang Thánh Thể Lan-xi-a-nô. Đến năm 1971, tòa thánh đã cho phép các nhà khoa học được xét nghiệm phép lạ này. Kết quả xét nghiệm cho thấy Thịt đó là một thớ thịt trái tim, và Máu đó là máu người nhóm AB. Nên nhớ vết máu trên chiếc khăn liệm thành Tu-ri-nô cũng thuộc về nhóm máu AB. Ngày nay, Thịt và Máu Chúa tiếp tục được lưu giữ trong nhà tạm tại nhà thờ thánh Phan-xi-cô, một trung tâm hành hương nổi tiếng của thế giới.
Trong Tin Mừng hôm nay, sở dĩ nhóm môn đệ thứ nhất đã bỏ đi không còn theo Thầy vì chỉ nghĩ đến bản thân: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?”(Ga 6,52), đang khi nhóm Tông Đồ chỉ nghĩ đến Chúa qua lời tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
3. THẢO LUẬN: 1) Người ta thường bị khủng hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào? 3) Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh?
4. SUY NIỆM:
1) Tự do chọn “tin hay không tin”:
Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giê-su để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình họ trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào Đức Chúa: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi các tín hữu chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.
2) Cần dứt khóat chọn tin theo Chúa:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát chọn tin hay không khi đối diện với bí tích Thánh Thể do Người thiết lập: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống !”. Khi nghe mầu nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được Thầy hỏi, đã đại diện Nhóm Mười Hai tông đồ tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu này, ông Phê-rô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù ông chưa hiểu rõ nội dung mầu nhiệm bí tích Thánh Thể Thầy vừa mặc khải. Ông tin vì dựa vào Lời Thầy và vào thế giá của Thầy.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đòi chúng ta khẳng định lập trường tin Chúa hay không? Chúng ta có chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn bè khác bỏ Chúa qua việc không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng mình chứ không theo Lời Chúa và lề luật Hội Thánh? Chúng ta có trung thành chọn làm điều tốt trong khi đại đa số bạn bè chọn theo lối sống dễ dãi phù hợp với tính xác thịt và làm theo các đam mê lạc thú bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý lịch để hy vọng được hưởng các đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn thái độ lim lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với sự phản bội của Giu-đa, được Tin Mừng Gio-an cho biết: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giu-đa đã không tin Thầy và quyết tâm phản Thầy, nhưng vẫn ở lại Nhóm Mười Hai là để chờ cơ hội ! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).
3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể phải dựa trên Lời Chúa:
Khi tuyên xưng đức tin thì không phải ông Phê-rô đã hiểu biết mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì ông đã tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tin Thầy là Đấng quyền năng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và phán một lời là dẹp yên sóng gió; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là kẻ chết sống lại… Chính nhờ đức tin vào quyền năng của Chúa, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54a).
4) Cần làm gì để tin vào bí tích Thánh Thể?:
“Đây là mầu nhiệm đức tin”, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau:
– Một là phải lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như tông đồ Phao-lô dạy: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
– Hai là phải xác tín vào Lời Chúa Giê-su như ông Phê-rô đã thưa với Chúa:“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
– Ba là phải ý thức đức tin là do ơn Chúa ban như lời Đức Giê-su: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần năng cầu xin Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho mình, như lời cầu của người cha có con bị quỷ ám:”Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác mà chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng, thể hiện qua việc bỏ dự lễ Chúa Nhật và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa, mà chạy đến với thầy bùa thầy ngải của lương dân. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán ngẩm trước đức tin vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con cũng chỉ biết lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc vật chất, và dửng dưng trước những ơn ích thiêng liêng phần hồn. Xin Chúa giúp con thực thi theo Lời Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 22 TN B
Dnl 4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.37; Mc 7,1-8.14-15.21-23
THẾ NÀO LÀ MỘT NGƯỜI THỰC SỰ ĐẠO ĐỨC?
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 7,1-8.14-15.21-23
(1) Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. (2) Họ thấy một vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. (3) Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống tiền nhân: Họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; (4) thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng. (5) Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (6) Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. (7) Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.- (8) Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”… (14) Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây và hiểu cho rõ: (15) Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được. Nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế… (21) Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, (22) ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. (23) Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế”.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tranh luận với các người Pha-ri-sêu và kinh sư, về việc “thanh sạch” và “nhơ uế” theo Lề Luật. Đức Giê-su đã dùng lời ngôn sứ I-sai-a để phê phán thứ tôn giáo hình thức vụ luật của các người Pha-ri-sêu và kinh sư. Họ lầm lạc khi bỏ thi hành giới răn Thiên Chúa để tuân giữ cặn kẽ tập tục của loài người. Theo Người, lòng đạo đích thực không dựa trên các việc làm hình thức theo Luật, nhưng ở tại tâm tình mến Chúa khi làm các việc ấy.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Những người Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là “Những kẻ sống tách biệt”. Thành viên trong nhóm phần đông là thường dân thuộc giai cấp trung lưu. Tuy nhiên cũng có một số tư tế, Lê-vi và kinh sư. Thời Đức Giê-su, nhóm này được dân chúng kính trọng vì có đời sống đạo đức gương mẫu. Họ thường thành lập những cộng đoàn nhỏ, chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuần giữ cặn kẻ mọi điều Luật Mô-sê dạy. Họ tin kẻ chết sống lại, có thiên sứ và quỷ thần, trái với người phái Xa-đốc (x. Cv 23,7-8). + và kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ là những nhà chuyên môn về Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu. Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải thích và áp dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với thượng tế và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại Giê-ru-sa-lem (x. Cv 23,6). + Về quan hệ giữa Đức Giê-su với các người Pha-ri-sêu và kinh sư: Nói chung Tin mừng phê phán mạnh mẽ các người Biệt phái và kinh sư: Gio-an Tẩy giả gọi họ là “nòi rắn độc”, do thái độ cố chấp không chịu hồi tâm sám hối để sinh hoa trái của họ (x. Mt 3,7-10). Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu (x. Mt 5,20). Người đã kiện toàn Luật Mô-sê và sửa lại các lời giải thích hẹp hòi vụ Luật của họ về sự giận ghét tha nhân (x. Mt 5,21-26), về tội ngoại tình (x. Mt 5,27-30) về việc ly hôn (x. Mt 5,31-32), về sự thề thốt ( Mt 5,33-37), về sự trả thù (x. Mt 5,38-40) và cách đối xử với kẻ thù (x. Mt 5,43-48). Đức Giê-su cũng quở trách họ về nhiều tật xấu như: tự mãn về công đức của mình (x. Lc 18,9-14), khinh thường tha nhân (x. Mt 9,10-13), khinh “dân đen” không biết Luật (x. Ga 7,49), nói mà không làm (x. Mt 23,2-3), ham mê danh vọng (x. Mt 23,6-7), dẫn đường đui mù (x. Mt 23,16-22), coi trọng điều tùy phụ mà bỏ qua điều chính yếu (x. Mt 23,23-26), đạo đức giả hình (x. Mt 23,27-28). Về phần các kinh sư cũng chống lại Đức Giê-su: Họ nói Người bị quỷ ám (x. Mc 3,22). Họ liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách hãm hại Đức Giê-su (x. Mc 3,6). Sau phép lạ cho La-da-rô sống lại, các người Pha-ri-sêu cùng với Thượng Hội Đồng Do thái đã quyết định giết Đức Giê-su (x. Ga 11,53). Tuy nhiên, trong số các người Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng Do thái cũng có ông Ni-cô-đê-mô đã lên tiếng bênh vực Đức Giê-su (x. Ga 7,50-52) và ông Ga-ma-li-ên đã bào chữa cho các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Thời Giáo Hội Sơ Khai, cũng có một người Pha-ri-sêu tên là Sa-un, quê thành Tác-xô, đã cải đạo và trở thành môn đệ Đức Giê-su là thánh Phao-lô (x. Cv 22,1-21). + Họ từ Giê-ru-sa-lem mà đến: Nghe biết về các hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, các người có trách nhiệm về tôn giáo ở thủ đô Giê-ru-sa-lem đã phái người đi điều tra thực hư. + Dùng bữa mà tay còn ô uế: Các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem coi việc dùng bữa mà không rửa tay là làm cho con người ra ô uế theo Luật. Việc rửa tay ở đây không nhằm giữ vệ sinh, mà để thanh tẩy tâm hồn theo lễ nghi của đạo Do thái.
– C 3-4: + Người Do thái: Ở đây chỉ về mọi người dân Do thái. Nhưng ở nhiều chỗ khác, nhất là trong Tin Mừng Gio-an, “Người Do Thái” ám chỉ những kẻ thù ghét chống đối Đức Giê-su (x. Ga 2,18; 5,18; 6,41; l 8,22.48; 9,18). + Rửa tay: Luật Mô-sê đề ra nhiều điều khoản buộc phải thanh tẩy bằng nước như: Khi chuẩn bị lãnh chức vụ (x. Xh 29,4), trong lễ Xá Tội (x. Lv 16,4.24), khi lỡ tay chạm đến xác chết (x. Lv 11,40; 17,15), khi thanh tẩy khỏi ô uế bởi bệnh phong cùi (x. Lv 14,8), thanh tẩy khỏi ô uế dục tình (x. Lv 15,1-32). Về sau tập tục còn quy định lễ nghi thanh tẩy cách tỉ mỉ hơn như: Phải lấy nước ở trong bình bằng đồng hay bình sành…. Phải rửa từ khuỷu tay xuống…. Phải rửa hai lần: Lần trước để làm sạch tay bẩn, lần sau để làm sạch nước bẩn còn dính trên tay…
– C 5-8: + Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế dùng bữa?: Mọi người Do Thái đều giữ các tập tục tẩy rửa, nhưng người Do Thái miền Giu-đê vì gần Giê-ru-sa-lem nên tuân giữ khỏan luật này chặt chẽ hơn miền Ga-li-lê, vì người miền Ga-li-lê thường xuyên tiếp xúc với dân ngoại và vì đất đai khô cằn ít nước hơn. Từ đó ta hiểu lý do tại sao các môn đệ của Đức Giê-su vốn xuất thân từ miền Ga-li-lê, đã không giữ tập tục rửa tay trước khi dùng bữa. + Những kẻ đạo đức giả: Đức Giê-su gọi các người Pha-ri-sêu và kinh sư từ Giê-ru-sa-lem kia là những kẻ đạo đức giả, nghĩa là chỉ lo làm các việc đạo đức hình thức bề ngoài, mà thiếu tâm tình mến Chúa bề trong. + “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”: Những điều ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm Lời Đức Chúa trách dân Do Thái thời xưa, đã được Đức Giê-su áp dụng cho các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do Thái hôm nay khi họ tiếp tục coi trọng các truyền thống của loài người hơn việc tuân giữ giới răn của Thiên Chúa.
– C 14-15: + Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người….: Luật Mô-sê (Lv 11,1-30) qui định một số loài vật thanh sạch và ô uế như sau: Loài vật thanh sạch mà người Do thái được ăn là: Mọi thú vật có móng chân chẻ làm hai và nhai lại, các vật sống dưới nước có vây có vảy. Loài vật ô uế không được ăn và không được đụng đến xác chết của chúng là: Lạc đà, ngân thử, thỏ rừng, heo; Tất cả các loài sống dưới nước mà không có vây, không có vẩy; Một số loài chim như đại bàng, diều hâu, ó biển… Chuột, thằn lằn, tắc kè…+ Về vấn đề đồ ăn thanh sạch và ô uế: Đức Giê-su có một quan điểm vừa khác biệt với Luật Mô-sê vừa kiện toàn Luật này khi tuyên bố: Mọi đồ ăn tự nó là sạch (x. Mc 7,18). Cái có thể bị dơ, phát ra điều dơ, làm cho người ta ra dơ, chính là “lòng” người, vì: “Lòng đầy thì miệng mới nói ra” (x. Lc 6,45).
– C 21-23: + Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu…: Đức Giê-su giải thích thêm về Luật cấm: Đó là những người có lòng dạ hư hỏng, tư tưởng xấu xa, tâm tình gian ác, ý định bất chính…. + Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ trong xuất ra: cái làm ô uế con người, bắt nguồn từ trong tâm hồn hay lương tâm, chứ không phải là các thức ăn từ bên ngòai ăn vào.
4. CÂU HỎI:
1) Bạn biết gì về các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái thời Đức Giê-su?
2) Trong thời gian giảng đạo, quan hệ giữa Đức Giê-su với các Biệt phái và kinh sư thế nào?
3) Các Biệt phái và kinh sư trong Tin Mừng hôm nay từ đâu mà đến với Đức Giê-su và họ đã chất vấn Người về vấn đề gì?
4) Luật Mô-sê buộc người Do thái phải thanh tẩy bằng nước trong những trường hợp nào? Về sau, các kinh sư còn giải thích thêm về khoản luật này ra sao?
5) Tại sao môn đệ Đức Giê-su lại không giữ tập tục rửa tay trước khi dùng bữa?
6) Tại sao Đức Giê-su gọi các Biệt phái và kinh sư là bọn đạo đức giả?
7) Đức Giê-su đã trích dẫn lời nào của ngôn sứ I-sai-a trách dân Do thái?
8) Theo Luật Mô-sê thì đồ ăn nào được coi là sạch và đồ ăn nào bị coi là nhơ uế?
9) Quan điểm của Đức Giê-su về sự sạch hay nhơ uế của đồ ăn ra sao? Cái thực sự làm cho tâm hồn người ta ra nhơ uế là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7,8):
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG MẾN THỰC SỰ PHẢI BIỂU LỘ QUA HÀNH ĐỘNG YÊU THƯƠNG:
Một nhà triệu phú kia trước khi chết đi đã viết di chúc để lại toàn bộ gia tài lớn lao cho đứa con đã đi du học nước ngoài từ nhỏ, nên không ai trong dòng họ còn nhớ được khuôn mặt của anh này. Sau khi tin tức về cái chết của nhà triệu phú được đăng trên báo thì có ba chàng thanh niên đến tự nhận là con trai duy nhất của nhà triệu phú, để yêu cầu lãnh phần sản nghiệp. Sau khi suy nghĩ, viên quan tòa đã cho phóng lớn bức hình chụp chân dung của nhà triệu phú, rồi trao ba khẩu súng cho ba chàng thanh niên kia và bảo: Ai trong ba người bắn trúng mắt của nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp của ông để lại. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn đều bắn gần trúng mắt của bức hình. Đến phiên anh chàng thứ ba cầm súng với vẻ mặt u buồn. Anh ta im lặng suy nghĩ và cuối cùng nói: “Tôi chịu thua vì tôi không thể cầm súng nhắm bắn vào mặt của ba tôi”. Viên quan toà liền tuyên bố: “Chính anh thứ ba mới thực sự là con trai duy nhất của nhà triệu phú, vì suy nghĩ và hành động của anh chứng tỏ lòng hiếu thảo của một đứa con đích thực.”
Cũng vậy, lòng mến Chúa đích thực phải biểu lộ qua việc yêu người thân cận như yêu bản thân mình, như Chúa Giê-su đã yêu thương chúng ta và mời gọi chúng ta học sống theo Người. Chính lòng mến Chúa bên trong được thể hiện qua hành động bác ái cụ thể bên ngoài mới là bằng chứng đích cực của một con người đạo đức thực sự.
2) CẦN TRÁNH LỐI GIỮ ĐẠO HÌNH THỨC:
BÁC-CƠ-LÂY (Barclay) kể một câu truyện khác như sau: Có một người Hồi Giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để giành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút dao chém một nhát khiến người kia bị thương và vội vàng bỏ chạy. Người Hồi Giáo đã đánh lén kia liền tiếp tục truy đuổi, quyết tâm tiêu diệt tình địch bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì bỗng nghe thấy một hồi chuông nhà thờ Hồi giáo gần đó báo giờ kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ hướng mặt về thủ đô Méc-ca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi sau đó lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi kẻ thù!!!
3) TÊN CƯỚP ĂN CHAY:
Một hôm, Cha MƠ-RÂY (Murray) đang âm thầm đi trên một phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp nhảy xồ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: “Đứng lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn nát óc!“ Cha Mơ-rây sợ hãi vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví. Tên cướp trông thấy chiếc áo đen của giáo sĩ cha mặc bên trong chiếc áo khóac, trên cổ có đeo “côn” màu trắng, thì hắn biết là linh mục. Hắn lập tức dịu dọng và ấp úng nói: “Thưa cha, con rất tiếc vì con không biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi”. Bây giờ cha Mơ-rây mới hòan hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói thuốc lá và mời hắn một điếu! Nhưng thật bất ngờ! Tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: “Xin cám ơn cha, con đã quyết tâm sẽ chừa bỏ tật hút thuốc lá trong Mùa Chay này rồi !!!”.
3. THẢO LUẬN:
1) Phải chăng chúng ta nên bỏ các việc đạo đức bề ngoài như: làm dấu Thánh giá, dự lễ, đi rước, ngắm nguyện, ăn chay, kiêng thịt, bố thí…. mà chỉ cần “giữ đạo tại tâm” là đủ? 2) Tuần này bạn sẽ làm gì để chứng tỏ về lòng mến thực sự?
4. SUY NIỆM:
1) Lòng đạo đức thực sự không hệ tại ở việc đọc kinh dài dòng:
Người Hồi Giáo trong câu chuyện trên đã tuân giữ luật đọc kinh 5 lần mỗi ngày của đạo Hồi, nhưng lại không ngần ngại phạm tội ác là nhúng tay vào máu của kẻ thù. Rồi tên cướp công giáo trong câu chuyện thứ hai đã quyết tâm bỏ thuốc lá để tỏ lòng sám hối Mùa Chay, nhưng lại đi trấn lột tài sản của kẻ khác. Rồi các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái tuy giữ nghiêm ngặt tập tục thanh tẩy bằng nước trước khi dùng bữa, nhưng lại coi thường điều răn quan trọng của Thiên Chúa là “thảo kính cha mẹ”, khi cho phép con cái lấy của cải lẽ ra dùng để nuôi dưỡng cha mẹ già yếu, biến của đó thành “Cô-ban”, nghĩa là “Của Thánh đã hiến dâng cho Thiên Chúa”, rồi cho đứa con không phải phụng dưỡng cha mẹ già yếu nữa! Cũng vậy, ngày nay có những người chỉ chú trọng thực hiện một số việc đạo đức theo luật như đọc kinh, dự lễ Chúa Nhật, ăn chay kiêng thịt, bố thí… mà không chú trọng thanh tẩy tâm hồn, không giữ luật công bình bác ái trong cách ứng xử với tha nhân. Lối giữ đạo đó chỉ là hình thức bề ngoài.
2) Mến Chúa thực sự trong lòng phải biểu lộ bằng việc yêu người bên ngoài:
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng: Truyền thống cha ông, luật lệ và các lễ nghi đối với Thiên Chúa đều tốt và cần tiếp tục được duy trì, nhưng không được quên điều quan trọng không kém là phải thực thi giới răn yêu người. Tôn kính Thiên Chúa bằng việc dự lễ đọc kinh là bổn phận căn bản của người tín hữu, nhưng chúng ta cần làm với một “trái tim mới” và một “Thần Khí mới” (x. Ed 18,31) theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su.
3) Lòng mến Chúa thực sự phải bắt đầu từ trái tim:
Lệnh truyền của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới” (Ed 36,25tt). Đổi mới trái tim là đổi mới tất cả. Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta: Truyền thống, luật lệ và nghi thức cử hành tại nhà thờ đều là những việc cần làm, nhưng không được quên điều căn bản của lề luật là sống tình mến Chúa yêu người. Tôn kính Thiên Chúa qua việc phụng vụ tại nhà thờ là điều cần làm, nhưng điều quan trọng hơn là phải kèm theo thực thi tình người từ trong gia đình đến khu xóm và ngoài xã hội… Vì như lời Chúa dạy: “Từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Người tín hữu chúng ta cần phân biệt trong các giới răn đâu là điều chính đâu là điều phụ. Cần ưu tiên thực hành điều chính trước, rồi đương nhiên sẽ thực hiện được những điều tùy phụ theo sau.
4) Muốn có lòng mến thực sự phải năng cầu xin ơn Chúa giúp:
Nguyên việc tuân giữ các việc đạo đức như dự lễ đọc kinh, ăn chay kiêng thịt, làm việc bác ái… cũng chưa chứng tỏ có lòng đạo đức thực sự, vì người ta có thể làm các việc đó để khoe khoang công đức và để được người đời ca tụng… hơn là vì lòng mến Chúa, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Chúa trách dân Ít-ra-en: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì ở xa Ta” (Mc 7,6; Is 29,13).
Để chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, chúng ta phải cầu nguyện kết hiệp với Chúa Giê-su, như thánh Phao-lô đã dạy: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).- “Từ nay tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mỗi ngày chúng ta nên làm việc bổn phận như đi học, làm việc và phục vụ tha nhân… kèm theo một lời nguyện tắt như: “Lạy Chúa Giê-su. Con xin làm việc này để biểu lộ lòng con yêu mến Chúa và cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa”.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin biến đổi trái tim con nên giống trái tim Chúa. Ước gì con nhìn mọi sự và mọi người với một cái nhìn bao dung đầy tình thương xót noi gương Chúa xưa. Xin ban Thánh Thần Tình Yêu đốt nóng lòng con. Xin giúp con siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày cách sốt sắng, để kín múc được sức sống ân sủng từ nguồn mạch yêu thương vô tận là Thánh Tâm Chúa, để con gieo rắc tình thương của Chúa đến cho mọi người, an ủi những người sầu khổ, chia sẻ cơm bánh cho kẻ khó nghèo, phục vụ những người bệnh tật và bị bỏ rơi… hầu con được trở nên môn đệ thực sự của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 08/2021
SỨ VỤ VÀ CÔNG TÁC CỦA HỘI VIÊN HHTM
1. LỜI CHÚA: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngòai cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,13-16).
2. SỨ VỤ CỦA HỘI VIÊN:
a) LOAN BÁO TIN MỪNG: Noi gương Mẹ Ma-ri-a hiệp công với Chúa Giê-su để góp phần cứu độ loài người, Hội Viên sẽ thi hành các bổn phận và công tác theo mục đích truyền giáo của Hiệp Hội Thánh Mẫu bằng các việc phù hợp mục đích HHTM như sau:
+ Thánh hóa bản thân: Mỗi ngày Hội Viên kết hiệp với Mẹ Maria dâng ngày buổi sáng lên Chúa Cha và cám ơn Ngài buổi tối trước khi nghỉ đêm, tạ ơn Chúa trước và sau khi dùng bữaxin vâng theo ý Chúa khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Hội Viên năng hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a dâng lời nguyện tắt lên Chúa Cha nhờ Chúa Giê-su: Hội Viên năng tham dự bàn tiệc Thánh Thể và chu toàn việc bổn phận hằng ngày. Năng đọc, suy niệm và thực hành theo Lời Chúa dạy.
+ Cải thiện xã hội: Hội Viên tổ chức giờ kinh tối tại các gia đình mình hằng ngày theo chiều hướng canh tân để thánh hóa gia đình, truyền bá việc đọc kinh tối đến các gia đình khác trong khu vực. Nhờ năng đọc kinh tối gia đình và quyết tâm sống Lời Chúa dạy, Hội Viên sẽ đạt 3 mục đích của HHTM là thánh hóa bản thân và gia đình, cải thiện môi trường xã hội là khu xóm mình đang sống ngày một sạch đẹp hơn, góp phần loại trừ các tệ nạn xã hội như tội phạm hình sự, cờ bạc, say xỉn, đĩ điếm, ma túy… Nhờ đó sẽ đạt được mục đích làm vinh danh Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi các linh hồn.
+ Phục vụ Giáo Hội: Hội Viên yêu mến Giáo Hội thể hiện qua thái độ tôn kính vâng lời các vị chủ chăn là Đức Giám Mục Giáo Phận, Linh Mục Chính Xứ và hết những ai dạy dỗ mình. Hội Viên luôn cổ võ tinh thần hiệp thông nội bô; Gia nhập vào Hội Đồng Mục Vụ hợp tác với các đoàn thể tông đồ khác. Hội Viên phải trở thành cánh tay nối dài của Linh Mục Chính Xứ bằng việc chu toàn các công tác được ngài trao như: phục vụ Nhà Chúa và cộng đoàn, dạy giáo lý trẻ em, dự tòng hay hôn nhân, thăm viếng hòa giải các gia đình lục đục bất hạnh, đưa những người lạc giáo trở về với Hội Thánh Công Giáo, giúp đỡ những bệnh nhân nghèo, cầu nguyện cho anh em lương dân và giúp họ sớm nhận biết tin thờ Thiên Chúa để cùng được hưởng ơn cứu độ như mình…
b) CÔNG TÁC THĂM VIẾNG PHỤC VỤ: Hằng tuần Trưởng Gia Đình sẽ phân công tác cho từng tiểu tổ như: Lau dọn Nhà Chúa; Thăm cảm tình viên để mời vào Gia Đình, thăm người già cô đơn và bệnh nhân đau nặng, thăm người lương có thiện cảm với đạo và dạy giáo lý cho dự tòng, phúng viếng để chia sẻ nỗi mất mát người thân rồi đọc kinh tại gia và tham dự Thánh lễ cầu cho người mới qua đời.
Nhờ tích cực chu toàn các bổn phận đạo đức và thực hành các công tác trên dưới ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần mà Hội Viên Hiệp Hội Thánh Mẫu sẽ có điều kiện nên thánh và cộng tác với Chúa Giê-su loan báo Tin Mừng Nước Trời noi gương Mẹ Ma-ri-a.
c) BÁO CÁO CÔNG TÁC:
HHTM là một Hội Đòan Công Giáo Tiến Hành, nhằm mục đích thánh hóa Hội Viên, giúp họ sống theo lý tưởng “làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hôn” bằng việc tích cực góp phần cải thiện xã hội và phục vụ Giáo Hội. Để đạt được mục đích này, Hiệp Hội Thánh Mẫu dùng nhiều phương pháp, đặc biệt Phương Pháp Phân Công Phân Nhiệm, nghĩa là phân công cho Hội Viên thực hiện một số công tác cụ thể và sau đó báo cáo kết quả đạt được.
3. THẢO LUẬN: 1- Hội Viên cần làm công tác và báo cáo công tác với ai đại diện cho Chúa Giêsu? 2- Nên báo cáo thế nào cho trung thực và khiêm tốn?
4. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha giàu lòng từ bi nhân ái. Xin cho các Hội Viên HHTM chúng con luôn ý thức về sứ vụ phải kết hiệp với Chúa Giêsu noi gương Mẹ Maria để cộng tác vào chương trình cứu độ lòai người. Xin cho chúng con biết “xin vâng” làm các công tác do các vị chủ chăn nhờ cậy và khiêm tốn báo cáo với các ngài. Nhờ đó chúng con có thể chu tòan sứ mệnh Chúa Giêsu đã trao cho Hội Thánh trước khi về trời là: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). – AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM

VI.THƯ GIÃN TH 08/2021
1. LẤY VỢ : BUỒN HAY VUI ?
Chú Năm bị vợ mắng liền bỏ nhà qua bên hàng xóm chơi cho đỡ buồn. Cả nhà hàng xóm đều đi vắng, chỉ có mình cu Tý coi nhà. Thấy nét mặt chú rầu rĩ, cu Tý liền hỏi :
– Sao mặt chú lại buồn bã thế hả chú ? Chú mới lấy vợ, lẽ ra phải vui lắm mới phải chứ ?
Chú Năm chẳng dấu giếm liền tâm sự với cu Tý :
– Có vợ rồi còn mệt hơn khi chưa có nữa đó cháu à !
Cu Tý lại thắc mắc:
– Sao người ta lại kêu cô gái lấy chồng là “vợ” hả chú Năm ?
Chú Năm buồn bã trả lời :
– Gọi bằng “vợ” vì từ khi đó anh chồng phải làm nhiều việc có mang vần “ợ” đó cháu à. Chẳng hạn như :
* “SỢ” – Lúc nào cũng phải sợ vợ nè.
* “NỢ” – Còn phải trả nợ thay cho vợ nè.
* “ĐỢ” – Phải trở thành như người đi ở đợ nè.
* “BỢ” – Còn phải bợ đỡ cả người nhà của vợ nè.
* “TRỢ” – Phải bỏ tiền trợ giúp anh chị em nhà vợ nè.
* “CHỢ” – Laị còn phải hằng ngày đưa đón vợ đi chợ nữa…
Ôi, Lấy vợ thật là mệt và buồn lắm đó cháu ơi !
2. GIẤC NGỦ BÌNH AN CUỐI CÙNG:
Một hôm, Thiên Chúa gặp A-đam đang ngồi chơi bên đàn thú vật, nhưng mặt ông tổ loài người vẫn buồn rầu. Thiên Chúa liền hỏi :
– Này Ađam, sao con đã có đầy đủ mọi thứ của ngon vật lạ trong vườn Địa Đàng mà vẫn còn buồn bã như thế?
Ađam thành thật thưa với Chúa:
– Lạy Chúa, vì con không tìm thấy ai giống mình để bầu bạn ạ.
Thiên Chúa liền động lòng thương A-đam và tìm cách thỏa mãn ước vọng có một người bạn đời để ông không còn cảm thấy buồn nữa. Ngài chờ đến lúc A-đam ngủ say, liền bước nhẹ tới bên ông và rút ra một chiếc xương sườn để tạo thành một người đàn bà. Vừa làm việc Ngài vừa ái ngại nhìn A-đam đang ngủ và thầm nói với ông:
– Con trai của Ta. Ta buộc phải làm điều này để cho con có người bầu bạn mà thôi. Nhưng Ta cũng báo cho con biết: Vì giấc ngủ của con bây giờ sẽ là giấc ngủ bình an cuối cùng của con đó !!!
SƯU TẦM TRÊN INTERNET

VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 08/2021
BIẾN THỂ DELTA LÀ GÌ? TRIỆU CHỨNG CỦA DELTA? LÝ DO LÂY LAN NHANH?
1. BIẾN THỂ DELTA LÀ GÌ?
Biến thể Delta là biến chủng của virus SARS-CoV-2 (Corona) được phát hiện phổ biến trong các ca dương tính Covid-19 tại TP.HCM. Biến thể này là 1 trong 4 biến chủng virus Corona được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá thuộc nhóm đáng lo ngại hiện nay.
4 chủng virus Corona mới được phát hiện lần đầu tiên tại Anh, Nam Phi, Brazil và Ấn Độ. WHO đã giới thống nhất gọi 4 biến chủng mới này theo các ký hiệu bao gồm Alpha, Beta, Gamma và Delta. Theo đó, biến thể Delta (còn được gọi là B.1.617.2) là tên của biến thể virus Corona chủng mới được phát hiện lần đầu tiên tại Ấn Độ.
Biến chủng này được coi là biến thể nguy hiểm nhất trong số 4 biến thể virus Corona mới được phát hiện. Hiện đã có hơn 80 quốc gia ghi nhận sự xuất hiện của biến chủng này và nó đang lây lan với tốc độ vượt ngoài dự đoán của nhiều chuyên gia dịch tễ.
2. TRIỆU CHỨNG CỦA BIẾN CHỦNG DELTA CỦA ẤN ĐỘ
Theo tiến sĩ Jeffery Barrett, Giám đốc Sáng kiến gene Covid-19 tại Viện Wellcome Sanger cho biết, không có dữ liệu cho thấy biến thể Delta gây ra triệu chứng bất thường hơn so với những biến thể khác. Vì thế các triệu chứng của biến chủng Delta cũng gần tương tự như những dấu hiệu phổ biến ở bệnh nhân mắc virus SARS-CoV-2. Trước đó, Tổ chức Dịch vụ y tế quốc gia Anh (NHS) đã công bố những triệu chứng phổ biến của người nhiễm Covid-19 bao gồm: ho dai dẳng, sốt, mất khứu giác hoặc vị giác…
Tuy nhiên, nhiều cuộc nghiên cứu và một số nhà khoa học khác lại có những kết luận ngược lại. Cụ thể, Tiến sĩ Lara Herrero, chuyên gia về virus và bệnh truyền nhiễm thuộc Đại học Griffith (Úc) cho biết những dữ liệu gần đây cho thấy người bệnh nhiễm biến thể Delta của Ấn Độ có thể sẽ gặp phải nhiều triệu chứng phổ biến, khác với dấu hiệu của chủng Covid-19 ban đầu.
Thông qua việc phân tích dữ liệu ghi nhận và báo cáo triệu chứng Covid-19 bằng thiết bị di động của hơn 4,6 triệu người bệnh mắc Covid-19 trên toàn cầu, các chuyên gia nhận định những dấu hiệu đặc trưng do virus SARS-CoV-2 gây ra theo NHS công bố đã ít phổ biến hơn.
Thay vào đó, những triệu chứng thường gặp ở người bệnh mắc biến chủng Delta là: đau đầu, đau họng và sổ mũi. Trong đó, những biểu hiện này cũng có sự khác biệt đối với từng nhóm đối tượng đã tiêm hoặc chưa tiêm vaccine ngừa Covid-19.
• Nhóm người bệnh chưa tiêm vaccine thường gặp các triệu chứng như đau đầu, đau họng, sổ mũi, sốt, ho dai dẳng.
• Nhóm chỉ mới tiêm 1 liều vaccine Covid-19 có những triệu chứng phổ biến lá đau đầu, sổ mũi, đau họng, hắt xì, ho dai dẳng.
• Nhóm đã chủng ngừa đầy đủ vaccine khi mắc bệnh thường có những dấu hiệu bao gồm: đau đầu, sổ mũi, hắt xì, đau họng, mất khứu giác.
Đáng chú ý, những biểu hiện lâm sàng do biến chủng Delta Ấn Độ gây ra rất dễ gây nhầm lẫn với bệnh cảm lạnh thông thường, khiến nhiều người chủ quan bỏ qua, làm tăng nguy cơ biến chứng hoặc tử vong ở người bệnh.
Bên cạnh đó, một số bác sĩ tại Ấn Độ – nơi đầu tiên phát hiện biến thể Delta của Ấn Độ, cho rằng, biến thể này có thể gây ra các dấu hiệu bất thường như hoại thư (tình trạng nguy hiểm khi một khối lượng lớn các mô cơ thể bị hoại tử), mất thính giác, các vấn đề về tuần hoàn máu, tiêu chảy… Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng đây không phải là kết quả từ một nghiên cứu chính thức mà chủ yếu dựa trên kinh nghiệm khám bệnh của bản thân bác sĩ.
Triệu chứng do biến chủng Delta gây ra dễ nhầm lẫn với bệnh cảm cúm thông thường
3. BIẾN CHỦNG DELTA NGUY HIỂM TỚI MỨC NÀO?
WHO đánh giá biến chủng Delta là một biến thể mới, đặc biệt nguy hiểm bởi tốc độ lây lan nhanh chóng. Không chỉ vậy, biến chủng mới này còn làm gia tăng gấp đôi nguy cơ nhập viện của bệnh nhân Covid-19 so với các biến chủng khác. Kết luận này được các nhà nghiên cứu tới từ Đại học Strathclyde (Scotland) rút ra từ nghiên cứu mới nhất của mình.
Trong cuộc họp báo vào ngày 21/06/2021, Giám đốc Chương trình khẩn cấp y tế của WHO – Mike Ryan cảnh báo, biến thể Delta có khả năng “gây tử vong cao hơn khả năng lây truyền nhanh hơn giữa người với người và cuối cùng nó sẽ tìm tới những người dễ bị tổn thương, khiến họ phải nhập viện trong tình trạng biến chứng nặng và có khả năng tử vong”.
Một phần nguyên nhân của việc gia tăng tỷ lệ biến chứng nguy hiểm khi mắc biến chủng Delta nằm ở các biểu hiện lâm sàng không đặc trưng hoặc không có triệu chứng khi nhiễm virus. Người mắc bệnh rất dễ hiểu nhầm bản thân mắc bệnh cảm lạnh thông thường. Do đó, người dân nên đề cao cảnh giác, thực hiện tốt các chỉ đạo phòng dịch của Nhà nước, chủ động sàng lọc yếu tố dịch tễ của bản thân và theo dõi sát sao các dấu hiệu bất thường nghi nhiễm Covid-19.
4. BIẾN CHỦNG DELTA LÂY LAN NHƯ THẾ NÀO?
GS.TS Phan Trọng Lân – Viện trưởng Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh cho biết, biến thể Alpha có khả năng lây nhiễm cao hơn đến 70% so với các biến thể cũ. Trong khi đó, biến chủng Delta có khả năng lây nhiễm nhiều hơn 40-60% so với biến chủng Alpha. Tỷ lệ lây nhiễm thứ phát (F1 dương tính) của các trường hợp nhiễm biến thể Delta cao hơn so với biến thể Alpha. Tại khu vực phía Nam, chúng ta đã ghi nhận 1 số trường hợp có dấu hiệu hoặc dương tính chỉ sau hơn 1 ngày tiếp xúc phơi nhiễm với người mắc Covid-19.
Lý giải tốc độ lây lan của biến chủng Delta diễn ra nhanh, ông Nguyễn Trí Dũng – Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC) cho biết nguyên nhân chính nằm ở tỉ trọng của biến chủng Delta. Biến thể này là có tỉ trọng nhẹ hơn các biến chủng khác, do đó thời gian chúng lơ lửng, di chuyển trong không khí lâu hơn trước khi rơi xuống các bề mặt. Điều này làm bệnh dễ lây hơn với tốc độ nhanh, chu kỳ lây bệnh ngắn. Nhiều trường hợp, chỉ cần tiếp xúc gần, không trực tiếp, bệnh dịch vẫn có thể lây lan mạnh.
Đặc biệt, biến thể Delta Ấn Độ lây lan rất mạnh trong môi trường kín. PGS-TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Cố vấn cao cấp Trung tâm Đáp ứng sự kiện y tế công cộng (Bộ Y tế) phân tích: “Trong môi trường kín, điều hòa, virus lơ lửng trong không khí và dễ phát tán, làm tăng khả năng lây lan. Điều này có thể thấy rõ ở những ổ dịch trong nhà máy, khu công nghiệp, quán bar hay phòng karaoke…”.
5. TẠI SAO BIẾN THỂ DELTA LẠI LÂY LAN NHANH Ở TP.HCM?
Vấn đề dịch bệnh lây lan nhanh trên địa bàn TP.HCM không chỉ do các biến thể siêu lây nhiễm còn phụ thuộc phần lớn vào các hành vi có nguy cơ lây nhiễm cao của cộng đồng. (1)
Biến chủng Delta được phát hiện lần đầu tại TP.HCM vào ngày 18/05/2021 với 2 ca nhiễm tại Công ty TNHH Deloitte Việt Nam (quận 3), ngày 18-5. Lúc này, mức độ lây lan của chủng Delta chưa nhiều. Khi phát hiện chuỗi lây nhiễm ở điểm dịch nhóm Hội Thánh truyền giáo Phục Hưng, kết quả xét nghiệm cho thấy 7 ca đầu tiên đều nhiễm biến thể Delta. Tiếp đó, các ca bệnh được phát hiện chủ yếu là người có tiếp xúc gần với các F0 như: người trong gia đình, đồng nghiệp, hàng xóm.
Với chuỗi lây nhiễm tại Công ty Thiên Tú FN, có tới 71 ca nhiễm trong tổng số hơn 300 người cùng làm việc trong một không gian kín. Điều này cho thấy mức độ lây lan của biến thể Delta rất nhanh và nguy hiểm.
Có thể thấy các chuỗi lây truyền tại khu vực phía Nam, cụ thể là tại TP.HCM chủ yếu tại các hộ gia đình, tụ điểm ăn uống, văn phòng cao ốc, nhà máy, xí nghiệp, các khu chợ đông người… “Đây đều là nơi diễn ra các hành vi nguy cơ lây nhiễm cao, ví dụ như: đi lại nhiều, tụ tập đông người, thời gian ở lại lâu trong các môi trường, không gian kín, kém thông khí, nói to hay nói trong khoảng thời gian dài… Những hành vi này làm gia tăng đáng kể nguy cơ lây nhiễm SARS-CoV-2” – GS.TS Phan Trọng Lân nhấn mạnh.
Vì vậy, người dân cần ý thức được tầm quan trọng của việc hạn chế các hành vi có nguy cơ gây lây nhiễm Covid-19. Để kiểm soát tình hình và hạn chế nguy cơ lây lan dịch bệnh, người dân TP.HCM và các địa phương có nguy cơ cần thực biện pháp phòng chống dịch như: thực hiện nguyên tắc 5K, tham gia tiêm phòng vaccine – Covid-19 khi có cơ hội.
6. CÁC LOẠI BIẾN THỂ COVID HIỆN NAY TRÊN TOÀN THẾ GIỚI?
Ngoài biến chủng Delta, WHO còn đưa ra cảnh báo về 4 biến chủng nguy hiểm khác:
1) BIẾN CHỦNG Alpha (B.1.1.7)
Biến chủng này được phát hiện lần đầu tại Vương quốc Anh vào tháng 9/2020 và nhanh chóng lây lan, trở thành biến chủng nguy hiểm đe dọa toàn thế giới. Biến chủng Alpha lây truyền từ người sang người, làm tăng mức độ nghiêm trọng lâm sàng của triệu chứng bệnh.
2) BIẾN CHỦNG Beta (B.1.351)
Biến chủng Beta lần đầu được phát hiện đầu tháng 10/2020 tại Nam Phi và chính thức được công bố rộng rãi vào tháng 12/2020. Được biết, biến chủng này ảnh hưởng những người trẻ tuổi nhiều hơn so với các biến thể trước đó. Theo thống kê, biến thể Beta đã được tìm thấy ở hơn 80 quốc gia. Biến chủng Beta mang một gen đột biến E484K, giúp virus loại bỏ hệ thống miễn dịch của con người.
3) BIẾN CHỦNG Gamma (P.1)
Biến chủng Gamma được ghi nhận xuất hiện lần đầu vào tháng 11/2020 tại Brazil. Biến thể này có đề kháng cao hơn với vaccine và phương pháp điều trị bằng kháng thể. Đặc điểm này đã tạo ra làn sóng dịch bệnh thứ 2, đẩy các bệnh viện tại Brazil rơi vào tình trạng quá tải.
4) BIẾN CHỦNG Epsilon (B.1.427/B.1.429)
Biến chủng này có thể tự sắp xếp lại một phần của protein đột biến mà virus sử dụng để liên kết với các tế bào của cơ thể. Vì thế, biến chủng Epsilon có khả năng lây nhiễm cao hơn khoảng 20% và dễ dàng làm suy yếu hệ miễn dịch của con người.
7. CÁC LOẠI VACCINE COVID-19 CÓ CHỐNG ĐƯỢC DELTA KHÔNG?
Hiện tại, các nhà khoa học vẫn khẳng định vaccine là phương pháp hiệu quả nhất giúp bảo vệ con người khỏi sự tấn công của virus, dù các biến thể mới liên tục xuất hiện, kéo theo mối lo lắng về nguy cơ lây nhiễm tăng cao.
Giáo sư Dịch tễ học, Y tế công cộng – Chris Robertson (Đại học Strathclyde) cho biết biến chủng Delta làm tăng nguy cơ nhập viện của người nhiễm nhưng việc tiêm vaccine có thể làm giảm nguy cơ này. Ông cho biết, việc hoàn thiện phác độ với 2 liều vaccine hoặc 1 liều trong vòng 28 ngày sẽ giúp giảm nguy cơ nhập viện tới 70%.
Mặc dù các biến thể mới của SARS-CoV-2 có thể tác động ít nhiều đến hiệu quả của vaccine, tuy nhiên những người được tiêm vaccine vẫn cho phản ứng miễn dịch mới với các biến thể mới, trong đó có biến chủng Delta. Một sự kiện “siêu lây nhiễm” hồi tháng 6 tại Úc đã nêu bật được tầm quan trọng của việc tiêm vaccine.
Trong số 30 người tham gia một bữa tiệc sinh nhật tại bang New South Wales, có ca dương tính Covid-19 được phát hiện. 24 người chưa được chủng ngừa có kết quả dương tính với biến thể Delta, trong khi 6 người đã được tiêm phòng (trong đó có 1 người chỉ vừa hoàn thành mũi tiêm vaccine thứ nhất) cho kết quả âm tính với Covid-19.
Các loại vaccine Covid-19 hiện nay vẫn có hiệu quả tạo miễn dịch đối với biến thể Delta
Các nhà nghiên cứu cho biết vaccine có phác đồ 2 liều cho hiệu quả bảo vệ tốt hơn với biến chủng Delta so với vaccine chỉ có một liều. Tuy vậy, họ lưu ý không sử dụng dữ liệu này để so sánh hiệu quả giữa các loại vaccine với nhau. Vì mỗi vaccine có khác biệt về đối tượng tiêm chủng và về tốc độ hình thành miễn dịch.
Trong một nghiên cứu của Cơ quan Y tế công cộng Anh (PHE), vaccine PFIZER (BioNTech) giúp ngăn tỷ lệ nhập viện điều trị lên đến 96%, vaccine ASTRAZENECA (Vương quốc Anh) đạt tỷ lệ là 92%. Cơ quan này cho biết mức độ hiệu quả của hai loại vaccine đối với các biến thể Delta và Alpha là không cách biệt nhiều. Bên cạnh đó, cả 2 loại vaccine này cũng đã được chứng minh có khả năng bảo vệ chống lại nguy cơ bệnh chuyển biến nặng là hơn 90%. Ngoài ra, trường hợp nhiễm Covid-19 sau tiêm chủng dù rất hiếm gặp, nhưng vẫn có thể xảy ra. Với những bệnh nhân này, tải lượng SARS-CoV-2 sẽ thấp hơn và các triệu chứng nhẹ hơn nhiều so với người không tiêm chủng.
SƯU TẦM TRÊN INTERNET

VIII. THÔNG TIN HIỆP SỐNG THÁNG 08/2021
A.SINH HOẠT LIÊN HỘI HHTM THÁNG 08:
I. MỪNG BỔN MẠNG:
1) Ngày 8/8 : Lễ kính thánh ĐAMINH Bổn Mạng quý Cha Giám Huấn HHTM:
– Cha Đa Minh Đinh Văn Vãng – Tổng Giám Huấn HHTM VN
– Cha Đa-Minh Đặng Quốc Hưng – Chính xứ Giám Huấn HHTM Lộc Hưng (CH).
– Cha Đa-Minh Nguyễn Văn Minh – Chính xứ Giám Huấn HHTM Trung Chánh (HM).
– Cha Đa-Minh Nguyễn Hồng Tấn – Chính xứ Giám Huấn HHTM Vị Hưng – GP Cần Thơ.
– Ông Đaminh Lê Văn Giang – cựu Liên Hội Trưởng – cố vấn BCH LH.
Xin Chúa xuống muôn ơn lành cho quý Cha và quý ông nhận thánh Đaminh làm bổn mạng.
** Ngày 8/8/2021: Thánh lễ mừng bổn mạng cha ĐaMinh Đinh văn Vãng – Tổng Giám Huấn HHTM-TGP-SG vì giãn cách nên Cha Tổng dâng lễ riêng . Xin các Hội Viên HHTM hiệp ý cầu nguyện tại nhà cho cha Tổng Giám huấn được sức khỏe , Thánh Đức và tràn đầy hồng ân của Chúa .
3) Ngày 15/8: Lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời: Bổn Mạng của Huynh Trưởng BCH Liên Hội:
– Bà Maria Ngô Thị Thu Thảo – Thủ quỹ 2 BCH Liên Hội.
– Bà Maria Đỗ Thị Thu Lê – Ban Huấn Luyện Liên Hội HHTM TGP.
– Cô Maria Trần thị Thoa- Nguyên UV Ban Chấp Hành Liên Hội HHTM TGP
Nguyện xin Chúa ban muôn ơn lành xuống trên quý chị em để phục vụ Chúa theo linh đạo Hiệp Sống Xin Vang và Phục Vụ.
4) Ngày 29/8/2021: Kỷ niệm 8 năm thụ phong LM của cha Phao-lô Nguyễn hữu Thiện (29/8/2013- 29/8/2021) – Nguyên Phụ Tá HHTM TGP.
“Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng”.- Nguyện xin Thiên Chúa ban muôn hồng ân trên cha. Kính chúc cha ngày càng thêm ngọn lửa yêu mến Chúa để luôn hăng say mang Chúa đến cho mọi người, nhất là những người vùng sâu vùng xa.
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 08
I. MỪNG BỔN MẠNG:
1) NGÀY 8/8: LỄ KÍNH THÁNH ĐA MINH:
–Anh Đa-minh Vũ Văn Tuấn – nguyên Trưởng GĐ/HHTM Mat-thêu.
–Anh Đa-minh Đào Duy Từ – Nguyên Tập huấn Liên Đoàn GĐ/HHTM.
–Anh Đa-minh Đinh Quang Vinh – Nguyên Cố vấn GĐ/HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa.
–Anh Đa-minh Phạm Mạnh Cường – XĐ GĐ/HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa.
Chúc Mừng Bổn mạng Quý Huynh trưởng cùng tất cả quý Hội viên nhận thánh Đaminh làm Bổn Mạng. Nguyện xin Thiên Chúa qua lời cầu bầu của Thánh Đa minh tuôn đổ muôn hồng ân trên quý anh.
2) Ngày 12/08 : Kính Thánh An Tôn Nguyễn Đích, Bổn mạng Caritas.
3) Ngày 15/08: Kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: Bổn Mạng Xứ Đoàn Gia Ðình HHTM Lạc Quang (HM).
Và một số chị em Ban Chấp Hành LĐ Gia Đình HHTM nhận BM là Đức Mẹ Lên Trời như:
– Chị Maria Trần Thị Bá Hường (NguyênThủ Qũy LÐGÐ HHTM).
– Chị Maria Nguyễn Thị Bạch Tuyết (TK Sinh Hoạt LÐGÐ HHTM).
– Chị Maria Hoàng Thị Dung ( Thủ Quỹ LĐ Gia đình).
– Chị Maria Nguyễn Thị Xuân Lan (Đoàn Phó GĐ/HHTM Bắc Hà).
– Chị Maria Nguyễn Thị Vượng Thư ký XĐ GĐ/HHTM Bắc Hà.
– Chị Maria Đỗ Thị Liên Thư ký XĐ GÐ/HHTM Lạc Quang.
– Chị Maria Trần Thị Hường Thủ Quỹ XĐ GÐ/HHTM Lạc Quang.
– Chị Maria Nguyễn Thị Bích Liễu Ca trưởng GÐ/HHTM LQ.
– Chị Maria Trịnh Thị Kim Dung (GÐ/HHTM Lạc Quang).
– Chị Maria Trần Thị Châu (Phó Ngoại XĐ GĐ/HHTM Sao Mai).
– Chị Maria Nguyễn Thị Thái Phi (Thủ Quỹ XĐGĐ/HHTM Sao Mai).
– Chị Maria Nguyễn Thị Nghĩa (nguyên Trưởng GĐ/HHTM Hà Nội).
– Chi Maria Nguyễn Thị Tính (nguyên Trưởng GĐ/HHTM Hà Nội).
– Chị Maria Nguyễn Thị Xuân (nguyên Thủ Quỹ GĐ/HHTM Hà Nội).
– Chị Maria Đặng Thị Nga (Trưởng XĐGĐ/HHTM Hà Nội).
– Chị Maria Lan Loan (Thư ký kiêm Thủ Quỹ GĐ/HHTM Hà Nội).
– Chị Maria Trần Hoàng Châu (Phó Ngoại GĐ Lộ Đức/HHTM SM).
– Chị Maria Nguyễn Thị Thúy (Thư ký GĐLộ Đức/HHTM Sao Mai).
– Chị Maria Hoàng Thị Thu Trang (Tr. GĐHHTM/Tân Hưng Q12).
– Chị Maria Nguyễn Thị Thu Linh (Thư ký GĐ /HHTM Châu Bình).
– Chị Maria Nguyễn Thị Xuân (Thủ Quỹ XĐGĐ/HHTM Châu Bình).
– Chị Maria Phạm Thị Năm (Phó XĐGĐ/HHTM Mattheu).
– Chi Maria Vũ Thị Nga (Thư ký XĐGĐ/HHTM Mattheu).
– Chị Maria Nguyễn Thị Lộc Bích (Phó XĐGĐ/HHTM Mẫu Tâm).
– Chị Maria Thị Bạch Tuyết (Thư ký XĐGĐ/HHTM Mẫu Tâm).
4) Ngày 22/08 Kính Đức Ma-ria Trinh Nữ Vương:Bổn mạng của Xứ Ðoàn Gia Ðình/HHTM Sao Mai (CH).
5) Ngày 23/08 Kính Thánh Nữ Rosa Lima:
– Bổn Mạng chị Rosa Mina Đinh Thị Lành (Phó Nội GĐ Lộ Đức HHTM Sao Mai)
Chúc mừng Bổn Mạng Xứ Ðoàn GĐ Lạc Quang và GĐ Sao Mai. Xin Mẹ Lên Trời và Mẹ Trinh Vương cầu bầu cùng Chúa cho hai Xứ Đoàn Gia đình HHTM ngày một phát triển và tích cực góp phần chu toàn sứ vụ Loan Báo Tin Mừng của Hiệp Hội Thánh Mẫu.
II. BÁO CÁO CÔNG TÁC CÁC XỨ ĐOÀN LĐ GĐ THÁNG QUA 2021:
1) Gia đình HHTM Hồng Ân:
– Đọc kinh giỗ 2 năm cho Linh Hồn Hội viên Maria Nguyễn Sương Thắm
– Chị Trưởng AnNa Dương Thị Thu Hợp đã về cùng Chúa lúc 8g30 ngày 25/7/2021 .
2) Gia Đình HHTM Lộ Đức Sao Mai :
Tháng qua, Gia Đình HHTM Lộ Đức đã đưa 4 bịnh nhân lưu trú tại mái ấm Caritas về gia đình bằng an , sau khi 4 bịnh nhân đã được xét nghiệm tại Đa Khoa Thánh mẫu, 4 bịnh nhân đều có kết quả âm tính,
– Ban Caritas đã gửi quà cho 4 bịnh nhân : Gạo, mì, nhu yếu phẩm và tiền .
– Tiếp tục Đồng hành với doanh nhân Công Giáo:
Tặng cho người nghèo trong gx mỗi tuần 100 phần gạo ( 500kg)
– Trợ Cấp thường xuyên :
Tặng cho 4 người nghèo, già neo đơn : Bà Hồ , Bà TƯ, Bà Hồng và Anh Khan: mỗi người 200 Đ , 1k đường , 1 nước mắm , 1 chai dầu ăn, 2 chai nước tương .
Tặng cho 5 người binh, nghèo Khó khăn : mỗi người 500đ
– Trợ cấp trong thời gian dịch covid :
– Tặng cho 110 hộ trong khu phong tỏa Phú lộc: 110 thùng mì và 110 chai dâu ăn
– Đồng hành với giáo xứ giúp khu phong tỏa Phú Lộc 1 triệu
– Gửi các chai xịt khuẩn, đường, chanh , trái cây cho những bịnh nhân bị F1 trong và ngoài giáo xứ đang cách ly tại gia đình .
3) Gia đình HHTM Mẫu Tâm – Chí Hòa :
Số người nhiễm dịch trong địa bàn giáo xứ Mẫu Tâm ngày càng tăng,
Anh Chi em Gia đình HHTM xứ đoàn Mẫu Tâm hằng ngày đọc kinh mân côi cùng giáo xứ cầu nguyện theo hiệu lệnh đánh chuông của nhà xứ lúc 19g30 .
Hội viên trong gia đình HHTM đã cùng nhau xin lễ cầu nguyện cho linh hồn Đa Minh
4) TIN BUỒN: Trong tháng qua Anh Chị em trong Liên đoàn Gia đình đã về cùng Chúa
– Ngày 24/7/2021: Chị ANNA DƯƠNG THỊ HỢP thông tin của Liên đoàn Gia đình và lả trưởng của gia đình HHTM Hồng ân .
– Ngày 04/8/2021: Anh Đa Minh Phạm Duy Quý cựu Liên đoàn phó.
– Ngày 06/8/2021: Cháu Teresa Đỗ Ngọc Khánh Vân ( 45 t ) trưởng nữ của anh chị Fx Đỗ Công Minh trưởng Ban Nghiên Huấn HHTM .
cha Đa Minh Tổng Giám HHTM, Cha An Tôn Phụ Tá, hôi viên HHTM các cấp, Ban Phục vụ nhà Thờ Thánh Mẫu trung ương xin chia buồn cùng quý tang quyến. Xin Chúa sớm đưa các linh hồn: Anna , Đa Minh và Teresa về hưởng tôn nhan Chúa.
III. KẾ HOẠCH THÁNG 8/2021:
Vì Dịch chưa gỡ phong tỏa trong thành phố HCM : các lễ bổn mạng, các tin hỉ tin buồn , Liên đoàn gia đình HHTM GP SG không thể đế chúc mừng hay chia sẻ được , Ban chấp hành Liên đoàn sẽ :
– Tín Vui : Chúc mừng trên Gourp
– Tin Buồn : sẽ xin Cha Tổng Giám huấn dâng lễ và gửi bức trướng chia buồn.
IV. VỀ TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 8 /2021 :
Liên đoàn gia đình sẽ gửi đến các Xứ đoàn học tập các bài trong tập san Hiệp Sống tháng 8/2021: Bằng phương tiện Email, Zalo, hoặc FB đến các Xứ đoàn. Mong trưởng các xứ đoàn lập các đường linh hhps, các cuộc họp Zavi để hội viên các Xứ đoàn cùng học các bài Nhân Bản, Xây Dựng hạnh phúc GĐ, các bài Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần và đọc thông tin HHTM ở mục Thông tin cuối tập san.
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 08 :
1) Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon gồm 6 Xứ Đoàn đang hoạt động như sau:
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Sao Mai,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Thạch Đà,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Châu Bình,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình Thái,
– Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình An.
Xứ Đoàn Sinh Viên Nhà Thờ Thánh Mẫu Trung Ương đang trong giai đoạn hình thành.
2) Hiện nay Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM đã bầu được một tân Ban Chấp Hành nhiệm kỳ 2020-2024. Tân BCH Liên Đoàn sẽ đi thăm các Xứ Đoàn và đề ra phương hướng sinh hoạt trong thời gian sắp tới.
3) Cụ thể từ nay đến lễ Bổn Mạng Tê-rê-sa của Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM, Ban Chấp Hành Liên Đoàn sẽ họp mặt hai nhóm: Nhóm sinh viên Nữ của Trụ Sở HHTM và nhóm sinh viên Nam của Nhà thờ Thánh Mẫu thành Xứ Đoàn Sinh Viên HHTM ra mắt vào ngày lễ thánh Tê-rê-sa là Bổn Mạng Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP.
TRUYỀN THÔNG HHTM

TẢI TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 8.2021. TẠI DƯỚI.

BBẢN-IN-TẬP-SAN-HIỆP-SỐNG-TH-08-2021