TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 04.2020

TẬP SAN HIỆP SỐNG
Tháng 04.2020

TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
Lưu hành nội bộ

NỘI DUNG

TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 04/2020
I. THƯ LM GH TH 04/2020: SỐNG ĐỨC TIN TRONG MÙA ĐẠI DỊCH.
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 04/2020: GIỚI TRẺ SỐNG HIẾU THẢO VỚI CHA MẸ.
III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH TH 04/2020: GIA ĐÌNH BẤT HẠNH: NGUYÊN NHÂN VÀ CÁCH PHÒNG TRÁNH.
IV. TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 04/2020: HSTM CN LỄ LÁ A; ĐÊM VỌNG PS A; CN 2 PHỤC SINH ABC; CN 3 PS A.
V. HLUYỆN HTRƯỞNG TH 04/2020: HƯỚNG DẪN CỬ HÀNH PHỤNG VỤ TUẦN THÁNH TRONG MÙA ĐẠI DỊCH.
VI. THƯ GIÃN TH 04/2020: ĐÃ ĐƯỢC LÊN THIÊN ĐÀNG TỪ LÂU RỒI.
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH TH 04/2020: MƯỜI LỜI KHUYÊN GIÚP SỐNG HẠNH PHÚC
VIII. SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 04/2020:
A. THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM THÁNG 04
B. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM THÁNG 04
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 04
D. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 04

LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 04/2020
SỐNG ĐỨC TIN MÙA ĐẠI DỊCH
Mùa Chay năm nay trùng với biến cố dịch cúm Covid-19. Nhiều nhà thờ vì chống dịch bệnh lây lan nên đã không tổ chức thánh lễ, không cử hành các lễ nghi Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Nhiều người nhất là người cao tuổi bị chết đột ngột vì nhiễm virus như ở Trung Quốc, Hàn Quốc. Hoa Kỳ, Ý, Tây Ban Nha. Pháp, Đức.. Trong khi đó, có nhiều người vì tình nhân loại đã không sợ chết, dám dấn thân đi vào vùng dịch để cứu giúp các nạn nhân. Đã có những linh mục, bác sĩ, y tá vĩnh viễn ra đi tại vùng dịch bệnh. Họ đã sống tinh thần Mùa Chay, noi gương Chúa Giê-su “hy sinh chịu chết để cứu nhiều người được sống”.
Tại Vũ Hán (Trung Quốc) đã có rất nhiều bác sĩ hy sinh do nhiễm bệnh khi thi hành nhiệm vụ điều trị cho bệnh nhân. Chẳng hạn:
Bác sĩ Lý Văn Lượng (34 tuổi) – bác sĩ nhãn khoa tại Bệnh viện trung tâm Vũ Hán, Trung Quốc, đã ra đi để lại bố mẹ già, một con nhỏ 5 tuổi và người vợ đang mang thai đứa con thứ 2. Ông cũng là một trong những người đầu tiên cảnh báo về dịch bệnh do virus corona chủng mới gây ra ở Vũ Hán nhưng bị chính quyền thành phố cáo buộc là tung tin đồn thất thiệt và buộc ông phải giữ im lặng. Người dân Vũ Hán, Trung Quốc và trên thế giới đều bày tỏ sự tiếc thương và khen ngợi bác sĩ Lý vì những nỗ lực của ông trong cuộc chiến chống lại dịch bệnh.
Nữ bác sĩ Hạ Tư Tư, ở Bệnh viện Hiệp Hòa ở Giang Bắc (thành phố Vũ Hán, Trung Quốc) cũng đã tử vong vì COVID-19, để lại đứa con trai 2 tuổi đau ốm thường xuyên do sinh thiếu tháng. Nữ bác sĩ bị nhiễm vi rút chết người này từ bệnh nhân khi tham gia công tác phòng chống dịch ở tuyến đầu vv… Và còn rất nhiều bác sĩ, y tá khác họ hy sinh thầm lặng cho công việc, cho cuộc chiến chống vi rút corona. Người thì phải rời xa vòng tay vợ và con nhỏ, người phải cắt phăng mái tóc yêu thích, nhiều người bị thương ở tay và mặt. Hay có nữ y tá tự nguyện kết thúc nghỉ thai sản trước thời hạn và trở lại làm việc sớm để cùng chồng chữa trị cho các bệnh nhân giữa tâm dịch COVID-19 tại Vũ Hán…
Thật không thể kể xiết những hi sinh thầm lặng của các y bác sĩ tuyến đầu chống dịch corona vi rút. Dù tinh thần căng thẳng, nhưng tất cả những người này đều tự nguyện, vì họ hiểu rằng: nhiều sinh mạng quý giá của các nệnh nhân đang hy vọng vào sự hy sinh của họ.
Riêng đối với các tín hữu, cách riêng là Hội Viên HHTM chúng ta. Trong những ngày cao điểm phòng chống dịc bệnh của cả nước và toàn thế giới, chúng ta hãy cậy trông cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi và quyền năng, bằng việc đến chầu Thánh Thể và lần hạt Mân Côi tại nhà thờ, tham dự thánh lễ online tại gia đình… để cầu xin Chúa qua lời bầu cử của Đức Mẹ và các thánh, xuống ơn dồi dào cho các nhà lãnh đạo và những người có nhiệm vụ sớm tìm ra phương cách hữu hiệu để tiêu diệt dịch bệnh, cầu cho các bệnh nhân và người đang bị cách ly sớm hồi phục, cầu cho các người mới qua đời được sớm về hưởng Thánh Nhan Chúa .
Ngoài ra mỗi người chúng ta cũng hãy triệt để áp dụng các biện pháp hữu hiệu để ngăn ngừa sự lây lan của dịch bệnh. Chẳng hạn:
– Hãy ở nhà và chỉ đi ra ngoài đường khi thật cần thiết.
– Tránh tụ tập quá 20 người trong một phòng. Ở ngoài đường không tập trung quá 10 người trước các bệnh viện, nơi mua sắm, hàng quán… đứng cách người khác 2 mét.
– Ăn uống đủ chất kèm theo uống nước chanh. Ngậm nước muối súc miệng ngày ít là 3 lần.
– Năng rửa tay bằng sà-bông hay nước cồn, đeo khẩu trang, Nếu cảm thấy nơi mình có triệu chứng bất thường như sốt, ho, mất vị giác hay khứu giác, cảm thấy mệt và khó thở… hãy mau chóng đến các cơ sở y tế gần nhất để xin trợ giúp kịp thời.
Lm Giám Huấn HHTM
Đa-minh ĐINH VĂN VÃNG
II.HỌC SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 04/2020
SỐNG TÌNH HIẾU THẢO VỚI CHA MẸ
1) LỜI CHÚA : “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ” (Mt 15,4).
2) CÂU CHUYỆN :
Buổi tối hôm đó một bé gái khỏang 12 tuổi đã to tiếng cãi lại với mẹ khi bà cấm cô không được tiếp tục đi chơi về nhà quá khuya. Cô cảm thấy mẹ thật quá đáng khi cấm cô đi chơi như vậy. Trong lúc giận dỗi, cô quyết định bỏ nhà ra đi mà không biết mình sẽ phải đi đâu. Trong lúc lang thang trên hè phố, cô mới sực nhớ ra là mình chẳng có một đồng bạc dính túi, thậm chí không đủ tiền để gọi điện thọai về nhà. Rồi cô đi ngang qua một quán bán mì hòanh thánh. Mùi thơm từ nồi sáo bốc lên ào vào mũi khiến cô cảm thấy đói. Cô ước gì được ăn một tô mì hòanh thánh thơm ngon kia, nhưng kẹt một nỗi là cô không có tiền ! Người bán mì thấy cô bé đứng tần ngần trước quầy liền lên tiếng hỏi : “Này bé kia, cháu có muốn ăn một tô mì không ?”. Cô thẹn thùng và ấp úng trả lời :“Nhưng… thưa ông, cháu không có mang tiền theo…” Người chủ quán liền nói : “Chắc là bỏ nhà đi hoang rồi phải không ?” Thấy cô im lặng, ông nói tiếp : “Thôi, cháu cứ vào đây. Ta sẽ làm cho cháu một tô mì đặc biệt”. Một phút sau, ông đã mang ra đặt trước mặt cô một tô mì lớn đang bốc khói thơm nức mùi hòanh thánh. Cô vội vàng ăn ngấu nghiến cho đỡ cơn đói đang cồn cào ruột gan. Một lúc sau, cô ngồi thừ ra và hai dòng nước mắt tự nhiên tuôn trào. Ông chủ quán thấy vậy liền lại ngồi bên và hỏi : “Sao , có chuyện gì buồn hả cô bé ?”. Cô sụt sùi đưa tay lên dụi mắt đáp : “Thưa bác không có gì đâu ạ. Chỉ tại cháu cảm động trước lòng tốt của bác đấy thôi !” Bấy giờ ông chủ quán liền nói : “Này cô bé, sao cháu lại nghĩ vậy ? Cháu hãy nghĩ kỹ lại đi : Bác mới đãi cháu có một tô mì chỉ đáng mấy đồng mà cháu đã cảm động như thế. Còn cha mẹ cháu đã nuôi nấng chăm sóc cháu từ khi nhỏ xíu cho tới bây giờ, sao cháu lại không cảm động trước tình thương bao la trời bể đó mà lại bỏ nhà ra đi hả cháu ?” Cô bé giật mình khi nghe lời bác chủ quán vừa phân giải. Cô tự nhủ : “Đúng rồi !. Tại sao mình lại không nghĩ ra vậy nhỉ ? Một tô mì của người lạ chẳng đáng là bao mà mình thấy cảm động và cần phải mang ơn, còn cha mẹ đã sinh ra mình, nuôi mình ăn học suốt bao năm qua, thế mà chưa bao giờ mình nghĩ đến phải đáp đền cha mẹ, dù chỉ là một chút thôi. Rồi vì bị mẹ trách mắng một câu mà mình lại dám cự cãi rồi còn bỏ nhà ra đi nữa !…” Trên đường về nhà, cô thầm nghĩ những điều phải nói với mẹ : “Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ. Con biết con thật có lỗi với mẹ. Xin mẹ hãy tha thứ cho con…” Khi bước lên thềm cửa, cô thấy mẹ đang ngồi thẫn thờ với nét mặt âu sầu lo lắng vì chờ mãi không thấy cô về nhà ăn cơm. Vừa thấy con, mẹ cô như bừng tỉnh lại. Bà vui vẻ chạy lại ôm chầm lấy con và âu yếm nói : “Mau vào nhà đi con. Chắc con gái của mẹ đang đói bụng lắm đây. Cơm tối mẹ đã nấu xong từ nãy đến giờ và đang lo không biết con giận mẹ bỏ đi đâu ? Thôi con ngồi vào bàn ăn ngay cho nóng…” Không thể kềm lòng được nữa, cô òa lên khóc trong vòng tay mẹ. Cô nói trong nước mắt : “Mẹ ơi, cho con xin lỗi…” Nhưng không để cô nói hết câu, mẹ đã dỗ dành động viên rằng : “Thôi, con không cần phải nói nữa. Mẹ biết con gái của mẹ thế nào cũng sẽ về nhà với mẹ mà !”. Cô thầm quyết tâm từ nay không bao giờ dám bỏ nhà đi hoang nữa, và sẽ cố chu tòan bổn phận làm con hiếu thảo để mẹ được vui lòng.
3) SUY NIỆM : Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta dễ cảm động trước một hành động nhỏ bé của ngưới chung quanh làm cho mình, nhưng trước những việc lớn lao mà cha mẹ làm cho ta thì ta lại coi như là chuyện đương nhiên… Tình yêu và sự săn sóc dưỡng nuôi của cha mẹ chính là món quà quý giá nhất mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta từ khi mới chào đời. Cha mẹ chăm lo nuôi nấng chúng ta vô điều kiện, và không mong chúng ta phải báo đền. Nhưng bổn phận làm con đòi chúng ta phải tỏ lòng biết ơn các ngài bằng sự hiếu thảo, vâng lời và làm cho các ngài vui lòng trong tuổi già, để báo đáp phần nào công ơn trời bể mà các ngài đã làm cho chúng ta.
4) THÁO LUẬN: Lòng hiếu thảo biết ơn của con cái đối với cha mẹ cần phải được biểu lộ bằng những thái độ và hành động cụ thể nào ?
5. LỜI CẦU: Hát bài : “Xin Chúa í a chúc lành cho đời cha mẹ của con…” để cầu nguyện cho cha mẹ đã có công sinh thành dưỡng dục mình.
ĐV
III.XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH TH 04/2020:
GIA ĐÌNH BẤT HẠNH: NGUYÊN NHÂN VÀ PHÒNG TRÁNH
1. LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô dạy: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).
2. CÂU CHUYỆN: CHIẾN TRANH LẠNH GIỮA HAI VỢ CHỒNG:
Có một cô vợ kia đã chia sẻ câu chuyện về thói quen ăn uống của hai vợ chồng họ khác nhau nên thường hay xảy ra xung đột. Một hôm sau khi cô luộc nồi rau muống xong, cô định vắt thêm chanh vào nước luộc rau đó để làm món nước canh cho bữa ăn của hai vợ chồng. Nhưng người chồng thấy vậy đã góp ý phải cắt cà chua cho vào thay vì vắt nước chanh. Do không ai chịu ai nên sau đó hai vợ chồng không thèm nói chuyện với nhau trong nhiều ngày.
Thực ra mỗi người đều có thói quen khác nhau trong sinh hoạt. Trường hợp này mỗi người có thể thêm vào bát canh những thứ mà mình ưa thích. Vợ chồng cần biết cách điều chỉnh để ai cũng cảm thấy mình được tôn trọng. Nếu cứ cố chấp bắt người kia phải nghe theo ý mình thì sẽ sinh ra bất ổn.
Không nên bắt chồng hay vợ phải hành xử giống hệt như mình, phải thay đổi thói quen theo ý của mình, vì nhiều khi cách làm của vợ hay chồng lại hiệu quả hơn cách của mình. Vậy tại sao mình không thay đổi mà bắt vợ hay chồng phải thay đổi theo mình. Đừng vội cáu gắt với nhau khi hai người bất đồng ý kiến, nhưng hãy bình tĩnh suy nghĩ để tìm ra giải pháp hiệu quả nhất.
3. SUY NIỆM:
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng như thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình ly thân, ly dị. Nhiều gia đình đổ vỡ ly tán do cờ bạc rượu chè, ma túy và sa đà vào đam mê lạc thú bất chính. Vì thế, hậu quả của các cuộc khủng hoảng gia đình này chính là con cái trong gia đình,
1) Nguyên nhân gây bất hạnh trong hôn nhân gia đình:
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch về sự đổ vỡ hạnh phúc của chính gia đình của bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc nuối. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có đầy đủ các yếu tố để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ lại không duy trì được hạnh phúc? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này?
– Kết quả điều tra mới đây về hạnh phúc gia đình với 400 người đã kết hôn, tuổi từ 18 đến 55 tại thủ đô Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh cho thấy: chỉ có 25% số người được hỏi cảm thấy rất hạnh phúc sau khi kết hôn so với 32% cảm thấy bình thường, đang khi 99% những người này đã từng cảm thấy hài lòng khi mới kết hôn.
– Nguyên nhân thì có nhiều, trong đó có gần 1/3 số người được hỏi đã tỏ ra bức xúc về thói tiêu xài hoang phí của vợ hay chồng. Trên dưới 20% số ông chồng thường cảm thấy bực bội khi “bị” vợ ghen tuông và kiểm soát các sinh hoạt riêng tư của mình. Còn về phía các bà vợ cũng có một tỉ lệ tương đương cảm thấy khó chịu vì các mối quan hệ bạn bè và các “bệnh” khác của chồng như cờ bạc, rượu chè, hút xách, làm biếng và sĩ diện.
2) Phương cách xây dựng hạnh phúc gia đình? :
a) Vợ chồng hãy bổ túc cho nhau: Thiên Chúa đã dựng nên hai người nam nữ tuy khác nhau, nhưng không đối kháng nhau mà bổ túc cho nhau như sau:
+ Nếu người chồng có sức mạnh được ví như cây cột nhà chống đỡ cho gia đình được bền vững, thì người vợ là sợi dây yêu thương nối kết các thành viên trong gia đình với nhau.
+ Nếu người chồng có khả năng kiếm tiền nuôi sống gia đình, thì người vợ phải là nhà quản lý tài giỏi biết sắp xếp công việc nhà cho ổn định để bảo vệ mái ấm gia đình.
+ Nếu người chồng được ví như vị thuyền trưởng lãnh đạo gia đình, thì người vợ phải là tài công trực tiếp điều khiển bánh lái, phối hợp chặt chẽ với thuyền trưởng để đưa con tàu gia đình đến bến bờ hạnh phúc.
+ Nếu người chồng cần nghiêm khắc để duy trì trật tự, thì người vợ lại cần dịu dàng, để con cái tuy phải giữ kỷ luật nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu trong bầu khí yêu thương của cha mẹ.
+ Nếu người chồng giữ vai trò giám đốc tổng quát của xí nghiệp gia đình thì người vợ phải là giám đốc điều hành, chứ không phải chỉ là người giúp việc không chút quyền hành.
b) Làm gì để bảo vệ hạnh phúc gia đình:
+ Muốn có hạnh phúc thì trên hết mọi sự: gia đình phải có Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết vợ chồng lại với nhau.
+ Thứ đến phải có Lời Chúa như ánh sáng chỉ đường. Dự lễ nhà thờ và đọc kinh tối gia đình hằng ngày sẽ giúp cợ chồng nghe được Lời Chúa dạy sống tốt hơn.
+ Nhất là phải có ơn Thánh Thần là sức mạnh giúp hai vợ chồng hợp tác gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhờ đó vợ chồng sẽ dễ dàng vượt qua các cơn thử thách gặp phải (x Cl 3,12-17), và cùng nhau hơp tác để mang lại thành công như người ta thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.
4. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay đang vất vả lo toan kiếm sống vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục do dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn, vợ chồng luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau. Xin đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng các thành viên gia đình để biến gia đình chúng con trở thành thiên đàng hạnh phúc ngay từ trần gian vì luôn có Chúa là Tình Yêu ngự trị.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM

IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 04/2020
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT LỄ LÁ A
– KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
-THÁNH LỄ: Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mt 27,11-54
ĐƯỜNG VÀO VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ
I. HỌC LỜI CHÚA
1A. TIN MỪNG KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
(1) Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng. Người sẽ gởi lại ngay. (4) Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: (5) Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. (6) Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. (7) Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên: (8) Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. (9) Đám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô Con vua Đa-vít ! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời”. (10) Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy ?” (11) Đám đông trả lời: “Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy”.
1B. TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ: Mt 27,11-54
2. Ý CHÍNH PHỤNG VỤ CN LỄ LÁ:
Phụng vụ CN Lễ Lá gồm hai phần:
Phần đầu lễ, bài Tin Mừng diễn tả cuộc khải hoàn của Đức Giê-su như một ông vua ngồi trên lưng lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của mọi người: ” Hoan hô con Vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”.
Nhưng rồi Tin mừng trong thánh lễ thuật lại buổi xử án Đức Giê-su và cuộc khổ hình Người phải vác cây thập giá lên Núi Sọ, chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp như một kẻ tội đồ. Người vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá đau thương nhục nhã của một tử tội để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-6: + Thầy trò đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12,1), sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần 3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò đã đến ở trọ qua đêm tại Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê, nằm dưới chân núi Ô-liu về phía Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó…: Câu này nói lên tính siêu việt nơi con người Đức Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không gian thời gian, thấu suốt tâm can con người (x. Mt 9,4; Lc 7,39-40). + Một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa tơ chưa một lần sử dụng, như dành riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần đến chúng”: Chủ lừa chắc là chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả lời như vậy. Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin Người là Đấng Thiên Sai.
– C 7-9: + Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường: Dân chúng ở đây phần lớn là những người từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn núi Cây Dầu. Những người này phấn khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót đường và chặt cành cây Ô-liu trải trên lối đi để bày tỏ lòng trọng kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ. + Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít” khi họ thấy Người làm cho hai người mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại (x. Ga 11,45). Đó là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is 29,18-19; 25,7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau và phấn khởi hoan hô Người bằng lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118,25-26).
4. HỎI ĐÁP:
– HỎI 1: Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người ?
ĐÁP: Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền thờ ít là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2,22-24). Lần 2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2,13; 5,1; 12,12), và vào nhiều lễ khác (x. Ga 7,10.14; 10,22-23).
– HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su khải hoàn vào thành ngồi trên lừa thay vì ngựa ?
ĐÁP: Đức Giê-su ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do thái đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15,10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách, giờ đây sẽ được mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô (x. Mt 11,29-30). Người cưỡi trên mình lừa thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Trong Cựu Ước, vua chúa thường dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18,9).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21,5).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐƯỜNG CỨU ĐỘ “QUA ĐAU KHỔ VÀO TRONG VINH QUANG” CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm lại để giữa các món hàng rẻ tiền này ?” Sau đó, hai vợ chồng đã mua được cây Thánh giá ấy với giá chỉ một đôla ! Về đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá trị đã tăng lên cả trăm đôla ! Rồi BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn. Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá và tự nhiên hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc nhiên trước thái độ của con trai và hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế ? Bấy giờ cậu bé trả lời như sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ đến tình thưong của Chúa thật quá lớn lao, và dù con đã cố kìm nén lại mà tự nhiên nước mắt cứ chảy ra !”.
2) MỖI NGƯỜI CHÚNG TA ĐỀU THAM PHẦN VÀO VIỆC ĐÓNG ĐANH ĐỨC GIÊ-SU:
Danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đã để lại nhiều bức tranh nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh “Ba cây thập giá”.
Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú ý vào ba cây thập giá ở trung tâm: giữa hai cây thập giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi bật. Dưới chân thập giá là một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ sự hận thù ganh ghét… tác giả như muốn nói rằng: mọi người đều tham phần vào việc đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương mặt dường như bị mất hút trong bóng tối, nhưng chỉ cần một vài nét cũng đủ để các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của tác giả bức tranh là danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông đằng đằng sát khí thảm sát Chúa Giê-su, mà Rembrandt lại chen thêm khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất có lẽ là do ý thức về tội lỗi của ông. Rembrandt như muốn thú nhận rằng: Chính ông do tội lỗi của mình cũng đã cùng với mọi người khác tham phần vào việc hành hạ và treo Chúa Giê-su trên cây thập giá.
3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-SU TRỔI VƯỢT HƠN TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI ĐỜI:
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem ra còn quyến luyến với tình cảm gia đình nên nói với đạo sĩ: “Vợ con của con rất thương yêu con, nên chắc sẽ không bằng lòng cho con thoát tục theo thầy đâu”.
Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn chứng minh cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ năng chết giả. Sau khi thực tập thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy về nhà áp dụng kỹ thuật chết giả này. Quả thật, anh ta đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả bằng việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở, nhưng vẫn nghe được tiếng khóc than của vợ con và người thân.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm người quá cố, ông bảo với vợ con đang khóc thương người thân mới chết như sau: “Tôi có bí quyết để cứu sống anh này, nếu có ai đó sẵn sàng chết thế cho anh thì anh sẽ sống lại”.
Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe từng người trong gia đình anh nêu ra các lý do để từ chối chết thế cho anh. Sau cùng anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe người vợ nghĩa thiết của anh đã tóm lại quyết định của mọi người như sau: “Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng tôi đâu. Không có anh ta, chúng tôi vẫn có thể sống được ! “.
3. SUY NIỆM:
1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG VÀO TRONG VINH QUANG QUA THẬP GIÁ:
Người tín hữu Công giáo là người chấp nhận đi trên Con Đường của Chúa Giê-su là “Sự Thật và là Sự Sống”. Là đòi phải bỏ đi ý riêng của mình để vâng theo ý Thiên Chúa muốn như lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và như Người đã dạy các môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi người tín hữu chúng ta cần ý thức rằng: Đi Con Đường Giê-su không được dừng lại trong cuộc khải hoàn vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên đường, và với đám đông hoan hô… nhưng phải trung thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc trên Núi Sọ, chịu chết ô nhục giữa hai tên trộm cướp như một kẻ đại gian đại ác.
– Đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người đều đi theo Chúa, đều là môn đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã phản bội Chúa như Giu-đa bán Thầy, Phê-rô chối bỏ Thầy. Còn những người khác thì hèn nhất bỏ trốn…
2) TÔN VINH VUA THIÊN SAI GIÊ-SU:
– Bài Tin Mừng khi rước lá thuật lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi nước Do thái và thiết lập một Triều Đại Mới, giống như triều đại vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh của Đức Giê-su không phải như dân Do thái đang trông đợi. Người là Đấng Thiên Sai nhưng là một ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm nhường”. Người đã không xưng vương trong cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, nhưng xưng mình là Vua trước mặt Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát không còn hình tượng người như trước, khi phải đứng trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su chỉ được ghi bằng dòng chữ viết tắt “INRI”, nghĩa là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do thái”, khi bị treo trên cây thập giá.
– Đức Giê-su chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi người khác phải hầu hạ mình, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường:
+ Người biết đàn chiên, yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng con chiên một, nhất là đi tìm kiếm những con đi hoang, băng bó những con bị thương tích, âu yếm vác chúng trên vai để đưa về đàn. Người yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng, nên đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với Hội Thánh mãi mãi và trở nên của ăn của uống nuôi dưỡng Hội Thánh. Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu chúng ta, để mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
+ Người là Vua không ngồi trên ngựa chiến và ham mê quyền lực, đòi người khác hầu hạ, nhưng ngồi trên con lừa khải hoàn vào thành Gie-ru-sa-lem. Người đến không nhằm kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, sẵn sàng thứ tha cho những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn. Người là Vua Mục Tử chiến đấu với sói dữ để bảo vệ đàn chiên, sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su?
3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:
Một số việc các tín hữu chúng ta nên thực hiện để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và xứng đáng được Chúa đón nhận vào Nước Trời đời sau:
+ Luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Khi gặp rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp nhận những đau khổ không thể tránh khỏi, coi đau khổ gặp phải như phương thế đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh em.
+ Siêng năng cầu nguyện: Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần là vì đã quá tự tin vào sức riêng hơn là tin cậy vào ơn Chúa giúp, đã ăn uống no say nên dễ chiều theo tính mê xác thịt, nhất là đã không chịu tỉnh thức và cầu nguyện như Thầy.
+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ trở thành cứng lòng và bị Chúa Giê-su trách: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.
+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với mình, như Chúa đã tha thứ cho ông Phê-rô bằng ánh mắt nhắc nhở sau khi ông đã phạm tội chối Thầy ba lần; Hãy cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ thù ghét làm hại mình noi gương Người đã xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm khốn mình, vì họ không biết việc họ làm.
+ Luôn giữ thái độ bình tĩnh và dùng tình thương hoán cải kẻ thù, noi gương Chúa Giê-su đã tỏ thái độ lịch sự, tế nhị khi môn đệ Giu-đa đến hôn mặt để nộp Người cho kẻ thù.
+ Kiên nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.
+ Hãy có lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ trộm lành trên cây thập tự. Anh đã trách bạn rằng: “Mi chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng với tội ta đã làm. Còn ông này đâu có làm điều gì xấu?” Rồi anh quay sang cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta”.
+ Sau cùng, mỗi người chúng ta cần bỏ đi lòng ganh tỵ, để tránh phạm tội ác như các đầu mục Do Thái đã tìm giết Chúa Giê-su do lòng ganh ghét, đố kỵ với sự thành công của Người.
4. THẢO LUẬN: Trước đau khổ gặp phải do bản thân, người khác hay hoàn cảnh tự nhiên gây ra, chúng ta cần ứng xử thế nào để thể hiện đức tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần Thánh này: Vì Chúa đã lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những người nghèo khó để nhường cơm xẻ áo cho họ. Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén đắng gặp phải trong cuộc sống. Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì Chúa đã chịu xỉ nhục nhạo cười, xin giúp chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân. Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề, xin giúp những ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng vác Thánh giá mà theo chân Chúa. Vì Chúa đã bị lột áo và chịu đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp chúng con biết đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá Chúa. Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin giúp chúng con biết luôn cầu nguyện điều tốt cho tha nhân. Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự xảy đến cho mình với niềm cậy trông phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được vào Nước Trời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
IV. MÙA PHỤC SINH
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
ĐÊM VỌNG PHỤC SINH A
St 1,1.26-31a ; Xh 14,15-15,1a ; Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Mt 28,1-10
SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28,1-10
(1) Sau ngày sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló dạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội, Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên. (3) Diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: “Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. (9) Và kìa Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”.
2. Ý CHÍNH:
Vào lúc bình minh ngày thứ nhất trong tuần, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác đã cùng đi thăm mồ Đức Giê-su. Nơi đây, các bà đã chứng kiến một trận động đất và cảm thấy sợ hãi khi nhìn thấy thiên thần hiện ra. Thiên thần đã trấn an các bà và loan báo Tin Mừng Chúa Giê-su đã phục sinh. Thiên thần còn trao cho các bà sứ mệnh: hãy loan báo Tin Mừng ấy cho các tông đồ. Các bà vui vẻ thi hành và sau đó các bà còn được chính Chúa Phục Sinh hiện ra. Một lần nữa, Người lại trao sứ mệnh cho các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (10).
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Sau ngày Sa-bát: Về thời gian các bà ra thăm mộ Chúa thì có người cho rằng vào lúc chập tối thứ bảy, tức là bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. Nhưng hầu hết các ý kiến đều dựa theo Tin Mừng Lu-ca và Mác-cô để quả quyết rằng: các bà đến thăm mộ vào lúc tảng sáng ngày đầu tuần, tức là lúc mặt trời sắp mọc (x Lc 24,1). + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a: Đây là những phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Đức Giê-su (x Mt 27,61). Khi ghi lại việc đến mộ này, Mát-thêu nhằm nhấn mạnh các bà như là nhân chứng của mầu nhiệm Phục Sinh, đang khi Mác-cô và Lu-ca lại trình này khía cạnh nhân bản: ra thăm mộ và mang theo dầu thơm để tiếp tục công việc ướp xác Đức Giê-su (x Mc 16,1; Lc 24,1). + Đất rung chuyển dữ dội: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu ghi lại chi tiết “đất chuyển mạnh” như câu này và ”màn Đền Thờ bị xé, đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” xảy ra sau khi Đức Giê-su trút linh hồn trên cây thập giá (x. Mt 27,51-52). Những sự kiện này đều tiên báo cho “Ngày của Đức Chúa” do các Ngôn sứ đã tuyên sấm (x Is 26,19; Ed 37,12; Đn 12,2). + Thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên: Tảng đá được lăn ra ở đây có thể là do đất động, nhưng đã được gán cho thiên thần. Việc thiên thần xuất hiện lăn tảng đá và ngồi lên trên, cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa đã chiến thắng mọi dự tính của con người, khi họ muốn chôn Đức Giê-su và công trình cứu độ của Người trong mồ đá (x Mt 27,66). + Diện mạo Người như ánh chớp và y phục trắng như tuyết: Vẻ sáng láng của diện mạo và y phục trắng như tuyết là đặc điểm của cuộc thần hiện trong Thánh Kinh. Chẳng hạn: Trong sách Đa-ni-en, dung mạo Con Người giống như ánh chớp (x Đn 10,6), áo của Đấng Lão Thành trắng tinh như tuyết (x Đn 7,9), và khi biến hình, dung mạo Đức Giê-su cũng chói lọi như mặt trời, y phục Người trắng tinh như ánh sáng (x Mt 17,2).
– C 4-7: + Thấy người, lính canh khiếp sợ: Sự xuất hiện của thiên thần làm cho lính canh hoảng sợ, vì được tiếp xúc với thế giới thần thiêng, giống như các Tông đồ đã từng khiếp sợ khi thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến với các ông giữa đêm khuya (x. Mt 14,26). + Các bà đừng sợ: Thiên thần trấn an các bà. Lính canh phải sợ hãi chứ các bà việc chi phải sợ ! + Các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh: Có sự song đối giữa “Đấng bị đóng đinh” với Tin Mừng “Người đã chỗi dậy”, hầu ứng nghiệm lời Người đã tiên báo là sẽ “Qua đau khổ để vào vinh quang” (x. Mt 16,21). + Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm: Các phụ nữ này được mời đến kiểm chứng nơi Đức Giê-su đã nằm để thấy lời thiên thần nói là xác thực. + Rồi mau về nói với môn đệ Người: Các bà được vinh dự nhận trách nhiệm mang sứ điệp Chúa Phục Sinh cho các môn đệ (x Mc 16,7). Ở đây Mát-thêu nhấn mạnh vì là sứ điệp quan trọng, nên các bà phải lập tức thi hành. + Và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông: Thiên thần nhắc lại lời tiên báo của Đức Giê-su về việc Người sẽ từ cõi chết sống lại và sau đó thiên thần còn cho biết Người hẹn sẽ gặp lại các ông tại xứ Ga-li-lê (x Mt 26,32).
– C 8-10: + Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi, nhưng cũng rất đỗi vui mừng: Các phụ nữ tuy sợ nhưng lại rất phấn khởi, và lập tức thi hành sứ mệnh được trao phó. + Chào chị em: Lời chào nói lên niềm vui ơn cứu độ do Chúa Phục Sinh mang lại, giống như lời sứ thần Gáp-ri-en chào khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x Lc 1,28). + Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân và bái lạy Người: Cử chỉ bái lạy để biểu lộ đức tin trước đó đã được nhiều người thể hiện với Đức Giê-su (x Mt 8,2; 9,18; 14,33). Nhưng ở đây được các bà làm cách trang trọng, kèm theo cử chỉ hôn chân biểu lộ lòng yêu mến kính phục của môn đệ được gặp lại Thầy sau những ngày buồn sầu thất vọng. + Chị em đừng sợ: Đây là lời trấn an của Chúa dành cho các môn đệ đang bị khiếp sợ khi phải đối diện với thần thiêng.
4. HỎI ĐÁP: Chúa PS đã hiện ra bao nhiêu lần với các môn đệ trước khi lên trời ?
ĐÁP:
Về các cuộc hiện ra của Chúa Giê-su Phục Sinh thì các Tin Mừng không nhất trí với nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý là các tác giả Tin Mừng đều không muốn kể lại toàn bộ các lần Chúa đã hiện ra sau khi từ cõi chết chỗi dậy. Ta chỉ có thể so sánh giữa nhiều đoạn văn của Tân Ước với nhau, để phỏng đoán: trong thời gian bốn mươi ngày trước khi lên trời, Chúa Phục Sinh đã hiện ra nhiều lần chứ không phải chỉ vài ba lần như đã được kể lại (x Cv 1,8; 13,31; 1 Cr 15,3-8). Riêng Mát-thêu, vì viết theo lối giản lược, nên đã bỏ qua nhiều hoàn cảnh và nhiều chi tiết cụ thể các lần Chúa hiện ra trước đó, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Phục sinh tại Ga-li-lê để chính thức sai các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng mà thôi (x. Mt 28,16-20).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (6b-7).
2. CÂU CHUYỆN:
1) BÉ SƠ SINH CHẾT ĐƯỢC SỐNG LẠI NHỜ LỜI CẦU NGUYỆN:
Vào tháng 10 năm 1995, tại vùng Hồ Lớn ở miền Đông Bắc nước Mỹ, giáp ranh với Ca-na-đa, một câu chuyện xảy ra làm sửng sốt nhiều người: Một bé sơ sinh đã chết và sau đó nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ và người thân, đã được Chúa cho sống lại như sau:
Bà TAN-MƠ (Tanmer) mẹ của bé RƠ-GHEO (Reugel) xúc động, kể lại như sau: “Đây là một món quà của Thiên Chúa đã ban cho gia đình tôi. Khi mới mang thai Rơ-gheo, mọi chuyện đều diễn ra bình thường. Các bác sĩ đã theo dõi tôi chặt chẽ, vì cháu lớn của tôi đã từng bị chết khi vừa ra đời. Qua kết quả kiểm tra thai nhi ngay trước khi lọt lòng mẹ thì tim cháu vẫn đập bình thường. Thế nhưng chỉ ít phút sau, cháu đã ra đời trong tình trạng tim bị ngừng đập. Lập tức các bác sĩ đã tìm cách cấp cứu, nhưng sau khi làm hết cách mà vẫn không kết quả, họ đành chịu bó tay, và ra lệnh cho hộ lý vào lau rửa và bọc cháu trong một chiếc khăn lông, rồi đặt nằm trong nôi để cha mẹ và các người thân vào chào từ biệt, trước khi nhà đòn đến liệm xác cháu rồi đem đi chôn. Bấy giờ cả gia đình tôi đều rất đau khổ. Bà ngoại là người cuối cùng bế cháu trong lúc mọi người sốt sắng cầu nguyện xin Chúa cho cháu được sống lại. Ít phút sau, bà ngoại phát hiện ra cháu vừa nấc lên một cái và thở mạnh. Bà nói to trong niềm vui: “Ồ, cháu tôi đang thở rồi này !”. Tiếng cầu kinh im bặt. Mọi người hồi hộp chạy lại gần. Bấy giờ bác sĩ trực đang ở gần đó vội chạy đến dùng ống nghe kiểm tra cháu và xác nhận cháu đã thực sự sống lại rồi. Ít phút sau phòng của bé đầy ắp người. Ai nấy đều ngạc nhiên chứng kiến sự kiện lạ lùng này trong niềm vui hân hoan khôn xiết.
2) ĐÁNH TAN BÓNG TỐI TỘI LỖI BẰNG ÁNH SÁNG TIN YÊU:
Một hôm JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng được mời thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Thành Phố Los Angeles Hoa Kỳ. Đang diễn thuyết, diễn giả bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này”. Sau đó đèn tắt và sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: “Bây giờ tôi sẽ đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi vừa đốt lên thì hãy kêu lớn: “Đã thấy!”. Sau đó một que diêm được bật lên và cả sân vận động đều vang lên tiếng hô: “Đã thấy!”. Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích: “Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm, cũng sẽ chiếu sáng trong bóng tối của nhân loại như vậy”.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại vụt tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai có mang diêm quẹt hay bật lửa, xin hãy đốt cháy lên!”. Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng. Ông John Keller kết luận: “Nếu mọi người chúng ta đều hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và sự oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng nhân ái của chúng ta”. Làm như thế, John Keller muốn gửi đến mọi người một sứ điệp: “Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên”. Nếu một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thì thế giới đang bị tối tăm bao trùm này sẽ bớt đi phần tăm tối. Nếu mọi tín hữu Ki-tô đều thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu bằng các việc bác ái yêu thương phục vụ tha nhân, thì thế giới này sẽ nhận biết và tin yêu Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. SUY NIỆM:
1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH XUA TAN BÓNG TỐI SỰ CHẾT:
Phụng Vụ Lễ Vọng Phuc Sinh khởi đầu bằng nghi thức làm phép lửa mới và thắp nến Phục Sinh, nói lên cuộc vượt qua của Đức Giê-su từ bóng tối tử thần đến ánh sáng Phục Sinh. Đức Giê-su chính là Ánh Sáng như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Ánh sáng đó đã được diễn tả trong nghi thức trước thánh lễ Vọng Phục Sinh hôm nay.
Lúc đầu, bóng tối bao trùm không gian nhà thờ khi các ngọn đèn đều tắt hết. Sau khi Chủ Sự làm phép lửa mới ở cuối nhà thờ, Linh mục đã dùng lửa này để thắp sáng cây nến Phục Sinh, và sau đó là nghi lễ rước nến Phục Sinh. Trong cuộc rước, Chủ sự cầm nến Phục Sinh lần lượt công bố ba lần: “Ánh Sáng Chúa Ki-tô”. Lần thứ nhất công bố ngay sau nghi thức làm phép lửa mới và mọi người đáp: “Tạ ơn Chúa”. Lần thứ hai công bố khi Chủ sự bước vào cửa chính cuối nhà thờ, và nến Phục Sinh được rước từ cuối nhà thờ đi lên cung thánh. Chủ Sự cầm cây nến cháy sáng đi đến đâu thì sẽ mồi lửa cho người đứng ở đầu các hàng ghế, người này sẽ mồi lửa sang người bên cạnh. Ánh sáng Phục Sinh dần dần lan tỏa ra cả nhà thờ. Khi rước nến Phục Sinh tới Cung Thánh, Chủ Sự sẽ quay xuống cộng đoàn long trọng công bố lần thứ ba. Bấy giờ toàn bộ ánh sáng trong nhà thờ được bật lên. Niềm vui Phục Sinh tiếp tục được thể hiện cách đầy đủ trong bài công bố Tin Mừng Phục Sinh “Mừng Vui Lên” hay “Exultet”.
2) SỐNG ĐỨC TIN VÀO MẦU NHIỆM PHỤC SINH:
Nhiều người chúng ta vẫn đang ở trong nấm mồ tội lỗi, vẫn muốn ở lì trong con người cũ cùng với các thói hư, khiến chúng ta chưa đón nhận được niềm vui của Chúa Phục Sinh. Cuộc sống của nhiều người chúng ta còn bị đè nặng bởi sự gian dối, ham mê tiền bạc của cải vật chất, khiến chúng ta không thể trở thành người loan báo tin vui phục sinh cho tha nhân chung quanh. Cuộc sống của nhiều gia đình tín hữu đang bị đè nặng bởi sự cãi vã, bị trói buộc bởi những giận hờn ganh ghét ích kỷ, khiến cuộc sống gia đình luôn bị căng thẳng. Hãy mạnh dạn bước ra khỏi những nấm mồ tối tăm ấy, để đón nhận ánh sáng phục sinh của Chúa. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi và hướng dẫn cuộc sống của chúng ta. Thánh Thần sẽ làm cho cuộc đời chúng ta tràn ngập niềm vui Phục Sinh.
Mỗi tín hữu chúng ta không thể tuyên xưng Chúa đã Phục sinh với khuôn mặt buồn rầu thất vọng. Chúng ta không thể nói về Chúa phục sinh khi lời nói và hành động của chúng ta thiếu sự bao dung và cảm thông với nỗi đau của anh chị em chung quanh mình.
Cũng vậy, niềm tin Chúa Phục Sinh phải trở thành động lực thúc đẩy chúng ta canh tân đổi mới nếp sống của bản thân và gia đình mình, đem lại cho môi trường mình đang sống một sức sống mới. Hãy phá bỏ đi tảng đá của sự giận hờn thù oán đang đè nặng cuộc sống chúng ta, để chúng ta bước đi trong ánh sáng tin yêu của Chúa.
3) HĂNG SAY LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THA NHÂN:
Phiến đá trấn ngoài cửa mộ đã không thể cầm hãm được Đức Giê-su phục sinh. Những băng vải và khăn liệm đã không thể trói buộc được Người tiếp tục ở trong mồ đá. Sự sống đã chiến thắng thần chết. Ánh sáng đã bừng lên từ bóng tối âm u. Tình yêu đã toàn thắng d ù trước đó đã bị hận thù nuốt trửng ! Niềm vui Phục sinh sẽ là quà tặng bất ngờ cho chúng ta giống như Ma-ri-a Mác-đa-la đã nhận được niềm vui khi gặp Chúa Phục Sinh ở bên cạnh mồ Chúa; Như các môn đệ đã vui mừng khi gặp lại Chúa tại xứ Ga-li-lê. Điều quan trọng là chúng ta hãy noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la, sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã hăng hái đi báo Tin Mừng cho các Tông đồ. Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho những anh em bệnh tật, nghèo đói, những người đang bị đau khổ thất vọng và mất niềm tin ?
4. THẢO LUẬN: Cụ thể trong mùa Phục Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng Chúa đã Phục Sinh cho những người bên cạnh mình?
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin gia tăng lòng mến trong chúng con. Chính nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng con sẽ mau mắn đi tìm Chúa nơi Sách Thánh, trong Thánh lễ và sẽ nhận biết Chúa đang hiện diện trong những người bệnh tật đau khổ, qua các biến cố may rủi xảy ra trong cuộc sống đời thường của con. Nhờ đó, chúng con sẽ vui tươi phấn khởi và nhiệt thành loan báo Tin Mừng Phục Sinh noi gương Ma-ri-a Mác-đa-la và các Tông đô khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH ABC
Cv 2,42-47; 1 Pr 1,3-9; Ga 20,19-31
CÙNG CHÚA PHỤC SINH MANG TIN YÊU ĐẾN CHO THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:
– LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).
– LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)
3. CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo là ngày hưu lễ, để noi gương Thiên Chúa đã làm việc sáng tạo trời đất muôn vật trong sáu ngày, và ngày thứ Bảy thì Ngài nghỉ ngơi (x. St 1,1-2,2). + Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho các Môn đệ và các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.
– C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc để được Thầy giải thích rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
– C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
– C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào ? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh vào lúc nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma ? 9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng như thế nào ? 12) Ngày nay các tín hữu cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các Tông đồ có giá trị ra sao đối với đức tin của các tín hữu hôm nay ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ «QUÊN MUÔN OÁN VÀ GHI NHỚ MUÔN ƠN»:
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau: Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Ngày nọ, nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ thường được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, muốn thử bà nên nói: « Lần sau nếu còn gặp Chúa thì bà hỏi Ngài xem, tôi đã phạm tội gì nhé? » Mấy ngày sau gặp lại bà, vị linh mục đã hỏi bà xem Chúa đã nói gì? Bà trả lời: « Chúa nói: Ta chẳng còn nhớ gì nữa! »
Còn chúng ta hôm nay cần làm gì để noi gương Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót.
2) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA :
Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.
Cậu bé được bà mẹ đạo đức khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách khác. Nhưng không những họ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi còn chế diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giê-su thì các bạn sẽ được cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì danh Chúa Giê-su !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu tỉnh dậy. Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa, nhưng hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều rất xúc động trước tấm gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin ơn Chúa tha thứ tội lỗi cho mình.
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:
– Ba ơi! Cái tháp cao đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích:
– Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Tại sao Gio-an chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gio-anvà Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gio-an, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gio-an chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phê-rô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gio-an nhận ra Thầy trên bờ biển Galilê, Cũng tình yêu ấy đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giê-su thương mến” (Ga 21,7).
3) BÌNH AN ĐÍCH THỰC
trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giê-su đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
4) LINH MỤC PI-Ô NĂM DẤU
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tô-ma. Đó cũng là đòi hỏi của con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm nghiệm được thì mới tin.
Ngày 23 thánh 9 năm 1968, cha Pi-ô, linh mục nổi tiếng dòng Ca-pu-ci-nô đã qua đời trong một tu viện tại I-ta-li-a. Suốt 50 năm cha Pi-ô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giê-su. Đó cũng chính là những vết thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tô-ma trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và tham dự thánh lễ do cha cử hành. Khi cha Pi-ô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận thức rõ ràng ngài đang mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà chính Chúa đã chịu trên thập giá năm xưa, những vết thương làm cho cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay ngài được bao lại trong đôi găng tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài rạng ngời như thiên thần, và những người hiện diện đều cảm thấy tâm hồn bình an.
Với một số người, câu chuyện của cha Pi-ô chỉ như một chuyện đạo đức giả tưởng thời Trung cổ. Nhưng thực ra đây lại là một con người sống trong thế kỷ chúng ta đang sống. Hằng trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt, đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị khỏi được các vết thương đó.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã có phúc được in năm dấu thánh, đặc biệt là Thánh Phan-xi-cô thành As-si-si, để các ngài trở nên những chứng nhân sống động cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô.
5) Ý NGHĨA CÁC VẾT THƯƠNG NƠI THÂN XÁC CHÚA GIÊ-SU
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai phong đến bảo Thánh nhân:
– Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm chú nhìn vào ông vua và hỏi:
– Nhưng thưa ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
– Ta là Đấng Ki-tô đây mà!
Martinô lại hỏi:
– Vậy thì những vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
– Ta từ vinh quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
– Tôi không muốn nhìn Đức Ki-tô không thương tích.
Vua quỷ liền biến mất.
Đức Ki-tô khi đã Phục sinh vẫn giữ những thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
3. THẢO LUẬN: Cậu bé trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung thành với Chúa để làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử thách, cậu đã thành công. Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần làm gì để giúp những người chưa tin nhận ra tội lỗi để hồi tâm sám hối và theo làm môn đệ Chúa Giê-su ?
4. SUY NIỆM :
1) CHÚA PHỤC SINH BAN BÌNH AN VÀ NIỀM HY VỌNG CHO CÁC MÔN ĐỆ:
– Mỗi lần hiện ra, Chúa Phục Sinh đều chào chúc bình an như sau: “Bình an cho anh em”. Rồi cũng như khi sáng tạo A-đam thời kỳ sáng thế, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi ban sự sống cho các môn đệ đang bị chết về đức tin mà nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chính Thần Khí của Chúa Phục Sinh sẽ dần mạnh mẽ lên cho đến lễ Ngũ Tuần thì trở thành Cơn Gió Lốc ào vào nhà các môn đệ mở tung cửa ra, làm cháy lên lửa tin yêu trong lòng các ông và đẩy các ông đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh khắp thế gian để ban ơn cứu độ muôn người.
– Sau khi gặp Đức Ki-tô phục sinh, Ma-ri-a Mác-đa-la đang buồn bã trở nên vui tươi phấn khởi đi báo tin vui cho các anh em Chúa; Các môn đệ đang sợ hãi ẩn trốn trong nhà Tiệc Ly lấy lại được sự bình an; Hai môn đệ làng Em-mau đang u sầu tuyệt vọng trở nên nhiệt tình hăng say quay về Giê-ru-sa-lem báo tin cho các anh em; Các môn đệ đang mệt mỏi rã rời sau một đêm chài lưới vất vả vô ích, lập tức được hồi phục sức lực; Tô-ma đang tâm trạng nghi nan bối rối lấy lại niềm tin khi tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
2) CHÚA PHỤC SINH LUÔN ĐỒNG HÀNH VỚI CÁC MÔN ĐỆ TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúa Giê-su Phục Sinh không bị giới hạn trong không gian: Người có thể xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn: Hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la ở gần ngôi mộ đã an táng Người; Hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc Ly khi cửa đóng kín vì sợ người Do thái; Hiện ra với hai môn đệ trên con đường dài 11 cây số từ Giê-ru-sa-lem về làng Em-mau; Hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ Ga-li-lê, sau khi các ông nghe tin nhắn và đang chài lưới bắt cá; Về sau, Người còn hiện ra tại cửa thành Đa-mát xứ Sy-ri-a, khi Sau-lô mang quân đến bắt các tín hữu.
– Chúa Giê-su Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian: Người xuất hiện với bà Ma-ri-a lúc sáng sớm khi trời còn tối. Người hiện ra bên bờ hồ với các môn đệ khi ánh bình minh đang ló rạng. Người hiện ra trong nhà Tiệc Ly vào buổi chiều ngày Thứ Nhất khi mới phục sinh. Người xuất hiện trên đường đi làng Em-mau lúc chiều tối. Đối với các tín hữu chúng ta, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành trong mọi lúc mọi nơi. Người có thể xuất hiện qua những người chúng ta gặp hằng ngày ở giữa đời thường: Người có thể là người làm vườn khi hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la; là một khách bộ hành đi cùng đường với hai môn đệ về lang Em-mau; là một người rành về nghề bắt cá khi chỉ dẫn thành công cho các môn đệ đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con nào. Người xuất hiện để đánh tan sự nghi ngờ của ông Tô-ma.
3) CHÚA PHỤC SINH ĐÃ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG:
– Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời các môn đệ, nên họ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, thúc bách hai ông là Phê-rô và Gio-an chạy đua đến mộ để xem sự thể ra sao, và hai ông đã đạt tới đức tin; Hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở về Giê-ru-sa-lem loan báo tin vui cho các anh em; Và sau này, Sau-lô sau khi bị ngã ngựa, đã gặp Chúa Phục Sinh và trở thành thánh Phao-lô, vị tông đồ dân ngoại hăng say loan báo Tin Mừng không mệt mỏi…
– Có thể nói: Tất cả những người đã gặp Chúa Phục Sinh đều trở thành sứ giả đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, đều sẵn sàng lấy máu mình làm chứng cho lời mình rao giảng. Vì Đức Ki-tô phục sinh chính là một Tin Mừng không thể không chia sẻ cho mọi người.
4) LOAN BÁO TIN MỪNG LÀ LÀM CHỨNG VỀ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT:
– Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã ra lệnh truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19-20). Loan báo Tin Mừng chính là làm chứng nhân của Chúa dưới ơn phù trợ của Thánh Thần như lời Chúa Phục Sinh: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
– Lệnh sai đi loan báo Tin Mừng làm chứng nhân của Chúa Phục Sinh không thể không thi hành, như thánh Phao-lô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Hôm nay Chúa Phục Sinh cũng đang ở bên chúng ta trong mọi thời gian: từ khi mới chào đời đến tuổi thanh niên, từ tuổi trung niên đến giờ chết của mỗi người. Chúa Phục Sinh vẫn luôn ở bên chúng ta mọi nơi mọi lúc: Tại nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, tại khu xóm. Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời của chúng ta… Chỉ cần dừng bước là chúng ta có thể gặp được Người đang hiện thân nơi người bên cạnh, nhất là nơi những người đau khổ bệnh tật nghèo đói vật chất cũng như tinh thần. Chúng ta sẽ đối xử thế nào với Người để có được sự bình an, có sự sống dồi dào trong tình thương của Chúa…
5) NHỮNG CÁCH THỂ HIỆN LÒNG THƯƠNG XÓT NOI GƯƠNG THIÊN CHÚA:
– Hôm nay là Chúa Nhật 2 Phục Sinh, kính nhớ lòng Chúa thương xót, Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức thân phận tội nhân của mình, đã được Chúa Giê-su thương xót bằng việc chịu chết đền tội thay và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta cũng phải thể hiện lòng thương xót tha nhân noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng giàu lòng từ bi đã thể hiện lòng thương xót đối với chúng ta.
– Chúa đang cần có những người tốt để có thể tha thứ cho thế giới tội lỗi, giống như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã xin Đức Chúa tha tội cho dân thành Sô-đô-ma, bằng việc đi tìm những người công chính trong thành. Cuối cùng vì không có đủ 10 người công chính, nên thành Sô-đô-ma đã bị lửa sinh diêm tiêu diệt. Hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta cũng dâng lên Thiên Chúa những đau khổ chúng ta đang phải chịu, như của lễ đền tội, để xin Chúa tha tội loài người. Chúng ta cũng không quên dâng lên Chúa bản thân chúng ta, gia đình chúng ta và cả nhân loại để Ngài dủ lòng thương xót tha thứ và biến đổi thế giới chúng ta đang sống sớm nên “Trời Mới Đất Mới” đẹp lòng Ngài.
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt Qua của Chúa: Vượt qua đau khổ sự chết để được vào vinh quang sống lại. Xin cho chúng con biết sống mầu nhiệm Vượt Qua mỗi ngày: Vượt qua những sự ích kỷ, nhỏ nhen và những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống bùn đen tội lỗi, vượt qua những nỗi sợ hãi khổ đau và nhục nhã. Vượt qua những nỗi khắc khoải đa nghi và những thành kiến không tốt về người khác.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH A
Cv 2,14.22-33 ; 1 Pr 1,17-21 ; Lc 24,13-35
ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 24,13-35
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy ?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
2. Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH HIỆN RA VỚI HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su đã hướng dẫn hai môn đệ về đức tin để họ từ tâm trạng chán nản và vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã tìm lại được niềm tin yêu vào mầu nhiệm Phục Sinh qua việc nghe lời Người giải thích Kinh Thánh (25-27.32), và được tham dự nghi thức Bẻ Bánh do chính Người thực hiện (30-31).
3. CHÚ THÍCH:
– C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10,1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người hiện ra gần bên ngôi mộ đã an táng Người.
– C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?” : Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương đi lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn lao mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.
– C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi !
– C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.
– C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ !: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24,44 tt).
– C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thử để xem phản ứng của các môn đệ, xem các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14,23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại một cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện tâm tình của các tín hữu muốn kết hiệp mật thiết với Chúa.
– C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22,19). Đó là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2,46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể giống như hai môn đệ làng Em-mau. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24,13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ hay phục vụ người nghèo…
– C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22,31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai môn đệ làng Em-mau đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.
4. CÂU HỎI:
1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ ? Tên của các ông là gì ? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta ? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào ? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì ? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng ? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không ? Tại sao ? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ ? 7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì ? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay ? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào ? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào ? 11) Điều gì khiến hai môn đệ nhiệt tình loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho người khác ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32)
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI ?
Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy ?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai ?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu ?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Những khi con gặp phải sự gian nan thử thách thì đó là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó !”
2) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP :
Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.
Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.
Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: « Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị ». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: « Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta» (Mt 25,40).
3) LỜI CHÚA PHÁN KHIẾN MỌI SÓNG GIÓ BIỂN KHƠI LIỀN YÊN LẶNG :
Được thăng giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức Giáo hoàng trước ngài Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên ngài, vì Giáo hội đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang phải trải qua một giai đoạn thử thách mới : Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI lại ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm phải một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng. Bấy giờ Đức Pi-ô liền cầm tấm ảnh lên xem và tự nhiên ngài thấy nỗi lo sợ trong lòng biến mất, và ngài lại cảm nghiệm được sự bình an trong tâm hồn. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và truyền cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức hình ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp phải đều tự nhiên tan biến hết (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).
4) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHA TRÊN TRỜI :
Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ xem như là một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức giận xỉ vả hơn.
Trước tình thế khó xử đó, khi đã có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.
Viên sĩ quan hỏi :
– Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?
Bà vợ trả lời :
– Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu em.
Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng nói :
– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương anh ?
3. SUY NIỆM:
1) Tâm trạng của hai môn đệ về làng Em-mau:
Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:
– Một là vì Đức Giê-su « là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá » (Lc 24,19b-20).
– Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo làm môn đệ của Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng muốn buông xuôi: « Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi » (Lc 24,21).
2) VAI TRÒ CỦA KINH THÁNH VÀ PHỤNG VỤ TRONG VIỆC CỦNG CỐ ĐỨC TIN:
– Lời Kinh Thánh đã làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu nơi lòng các ông: Trong vai một người khách bộ hành, Đức Giê-su đã « giải thích cho hai ông tất cả lời Thánh Kinh chỉ về Người ». Còn về “vụ ông Giê-su” thì sau khi lắng nghe quan điểm của hai ông về vụ án, về cuộc tử nạn, và việc Người bị treo trên thập giá, Đức Giê-su đã giải thích Kinh Thánh và khích lệ tinh thần của các ông như sau: ”Nào Đấng Ki-tô chẳng phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang sao”? (Lc 24,26). Sau đó các ông đã nói với nhau : « Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?” (Lc 24,32).
– Chính cử chỉ yêu thương đã mở mắt đức tin của các ông : Để được nhận biết tin yêu Chúa, đòi các môn đệ phải khao khát lắng nghe Lời Chúa qua lời cầu: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (Lc 24,29). Rồi chính bầu khí yêu thương giữa cộng đoàn đã mở mắt đức tin cho các ông, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất » (Lc 24,30-31).
3) VAI TRÒ CỦA NHÂN ĐỨC TIN, CẬY, MẾN TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG:
Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh thì Người lại biến mất. Chính lòng tin và lòng mến đã thúc bách hai môn đệ lập tức quay lại Giê-ru-sa-lem loan báo Tin Vui như Tin Mừng ghi nhận : « Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó. Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh (Lc 24,33-35).
4) SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH CHO THẾ GIỚI HÔM NAY:
– Trong cuộc sống, mỗi lần gặp phải thử thách, nhiều tín hữu thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp đỡ mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn đi tới chỗ mê tín dị đoan: coi bói tóan, cậy nhờ thầy bùa thầy ngải…
– Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc ta gặp gian nan khốn khó như bị bệnh tật tai nạn, Người vẫn đồng hành với chúng ta. Người sẵn sàng trợ giúp và bồng ẵm ta trên cánh tay nếu ta hoàn toàn phó thác vào Người, giống như « Phê-rô đi trên mặt nước đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thi ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông lập tức la lên: Lạy Thầy xin cứu vớt con. Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi ! » (Mt 14,29-31).
– Nếu chúng ta quyết tâm từ bỏ các thói hư như : tham lam, gian ác, ích kỷ, tự mãn cùng các đam mê tội lỗi khác, sẵn sàng vác thập giá là chu tòan các việc bổn phận của mình mà theo chân Chúa Giê-su, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc Nước Trời đời sau. Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
– Noi gương hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức về Giê-ru-sa-lem loan báo Tin Vui cho anh em, chúng ta cũng phải làm gì để loan báo Tin Mừng cho tha nhân bên cạnh và loan báo thế nào để giúp họ dễ dàng nhận biết tin yêu Chúa ?
4. THẢO LUẬN: 1) Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, chỉ biết tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính và dễ bị chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM

V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 04/2020
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ TUẦN THÁNH MÙA ĐẠI DỊCH
Bộ Phụng tự và kỷ luật bí tích đã ban hành sắc lệnh về việc cử hành các lễ nghi Tam Nhật Thánh trong hoàn cảnh đại dịch coronavirus.
Sắc lệnh mang chữ ký của Đức Hồng y Tổng trưởng Robert Sarah và vị Tổng thư ký là Đức Tổng giám mục Arthur Roche, ngày 19/3/2020 vừa qua, và thừa lệnh Đức Thánh cha, qui định rằng:
– Lễ làm phép dầu sáng Thứ Năm Tuần Thánh có thể được Đức giám mục giáo phận dời lại một ngày khác. Tuy nhiên, Tam Nhật Phục sinh không thể dời đến ngày khác.
– Lễ Chúa Giêsu lập Phép Thánh Thể, chiều Thứ Năm Tuần Thánh, có thể được các linh mục thuộc các giáo xứ khác nhau, cùng cử hành hoặc tại Nhà thờ chính tòa hoặc các nhà thờ giáo xứ, không có sự tham dự của giáo dân, và bỏ nghi thức rửa chân và việc rước kiệu Mình Thánh Chúa cuối lễ. Mình Thánh sẽ được đặt trong Nhà Tạm.
Tất cả các linh mục được cử hành thánh lễ hôm đó, tại một nơi thích hợp, không có giáo dân tham dự. Đây là một ngoại lệ. Các linh mục không thể cử hành thánh lễ chiều hôm đó, nên cử hành Kinh Chiều.
– Thứ Sáu Tuần Thánh: có thể cử hành Cuộc Tưỏng Niệm Thương Khó của Chúa mà không có sự hiện diện của tín hữu, tại các nhà thờ chính tòa hoặc thánh đường giáo xứ, do Đức giám mục hoặc cha sở. Trong các lời nguyện giáo dân, Đức giám mục giáo phận nhớ lập một ý nguyện cầu cho các bệnh nhân, những người qua đời và những người ở trong tình trạng hoang mang (Xc. Sách lễ Roma, pp. 314, n.13).
– Lễ Vọng Phục Sinh cũng được cử hành như vậy, bỏ nghi thức làm phép lửa. Sau khi đốt cây nến Phục Sinh, – bỏ nghi thức rước, – thì tiến hành việc công bố Phục Sinh (Exsultet). Tiếp đến là Phụng Vụ Lời Chúa. Trong phần phụng vụ phép rửa, chỉ lập lại những lời hứa khi chịu phép rửa. Sau đó cử hành Phụng Vụ Thánh Thể.
Những người không tham dự Lễ Vọng Phục Sinh cử hành tại nhà thờ, thì đọc giờ Độc Vụ (Kinh Sách).
Đối với các Đan viện, chủng viện, và cộng đoàn dòng tu, Đức giám mục giáo phận sẽ quyết định.
Những cuộc rước trong Tuần Thánh theo lòng đạo đức bình dân, có thể được Đức giám mục giáo phận dời lại đến ngày 14 và 15/9.
(Bộ Phụng Tự 19-3-2020).
SƯU TẦM

VI. THƯ GIÃN THÁNG 04/2020
1. ĐÃ SỚM ĐƯỢC LÊN THIÊN ĐÀNG TỪ LÂU RỒI
Một cặp vợ chồng già đã trên 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, họ ăn uống theo chế độ và tập thể dục thường xuyên. Không may hai cụ qua đời do một tai nạn xe buýt, họ lên thiên đàng và được Thánh Phêrô đón tiếp nồng hậu. Thánh Phêrô đưa hai người đi tham quan nhà bếp khổng lồ, hồ bơi, phòng tắm hơi, sân chơi golf… Lóa mắt vì sự sang trọng của ngôi nhà, cụ ông hỏi Thánh Phêrô:
– Chúng tôi có phải trả tiền các dịch vụ không?
– Thánh Phêrô trả lời: Tất cả đều miễn phí, đây là thiên đàng mà.
Đến giờ ăn, Thánh Phêrô đưa hai cụ đến bàn bày thức ăn linh đình. Cụ ông hỏi:
– Tất cả các món ăn này đều miễn phí à?
Thánh Phêrô trả lời:
– Tất nhiên.
– Chúng tôi có thể ăn tùy thích, không phải lo ngại dư mỡ, đường, cholesterol à?
– Không, tôi đã bảo là cụ đang ở trên thiên đàng mà. Cụ có thể ăn uống no say tùy thích mà không sợ bị béo phì, đái đường hay nhồi máu cơ tim…
Bỗng nhiên mặt cụ ông trở nên đỏ gay, quay sang bà vợ quát to:
– Tất cả do lỗi của bà! Nếu bà không ép tôi phải ăn uống kiêng cữ và tập thể dục, thì tôi đã được lên đây từ lâu rồi !

2. AI MỚI THỰC SỰ LÃNG TAI ?
Một ông chồng nghi vợ mình bị lãng tai bèn quyêt định thử nghiệm. Ông khẽ khàng đứng sau lưng bà khoảng 7 feet và nói:
– Mình ơi! Mình có nghe rõ không?
Không nghe thấy vợ trả lời, ông chồng bèn tiến tới gần hơn, rồi lại gọi:
– Mình có nghe thấy gì không?
Vẫn không nghe thấy vợ trả lời. Khi đứng sát bên bà, ông kêu lớn lên:
– Mình không nghe thấy gì à?
Bà vợ liền đáp:
– Có chứ! Lần này em trả lời là lần thứ ba rồi đấy!
SƯU TẦM

VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 04/2020
MƯỜI LỜI KHUYÊN GIÚP SỐNG HẠNH PHÚC
1.CÁCH ỨNG XỬ VỚI NGƯỜI XÚC PHẠM ĐẾN MÌNH :
“Nếu có ai đó Khiến bạn tổn thương hết lần nầy đến lần khác. Hãy xem họ như MỘT TỜ GIẤY NHÁM. Chúng chà xát và gây đau đớn cho ta. Nhưng cuối cùng: Bạn sẽ nên sáng bóng, còn họ chỉ là…… MỘT TỜ GIẤY RÁCH ĐÁNG BỊ BỎ ĐI”.
2. HÃY LUÔN NỞ CỤ CƯỜI :
Nụ cười tươi tắn nở trên môi. Quên đi lo lắng hãy luôn cười. Yêu đời yêu người yêu chính bạn. Niềm vui vô hạn sẽ kề bên.
3.HÃY BIẾT DỪNG LẠI ĐỂ SUY NGHĨ :
Cuộc đời không phải là trường đua. Đừng bước đi hối hả trong cuộc đời. Để rồi quên mình đã từng đến và định sẽ đi đâu.
4.THA THỨ ĐỂ HÓA GIẢI HẬN THÙ:
Trả thù không thể hóa giải được thù hận. Chỉ có khoan dung tha thứ mới hóa giải được hận thù. Đây là chân lý vĩnh hằng !
5. THẾ NÀO MỚI LÀ MỘT NGƯỜI THỰC SỰ HẠNH PHÚC ?
Hạnh phúc là có việc gì đó để làm, có người nào đó để yêu và có điều gì đó để hy vọng.
6. BẠN CÓ THỰC SỰ BẤT HẠNH KHÔNG ?
Đừng luôn nghĩ mình là người bất hạnh, bởi vì thực sự trên thế giới này còn có rất nhiều người bất hạnh và bị đau khổ hơn bạn nhiều.
7. AI LÀ NGƯỜI BẠN TỐT CỦA BẠN ?
Bạn phải cảm ơn người đã nói cho bạn biết khuyêt điểm của bạn. Vì chỉ có người dám nói sự thật về khuyết điểm của bạn mới thực sự là bạn tốt của bạn.
8. PHẢI TRÁNH NÓI DỐI :
Bạn đừng bao giờ nói dối. Bởi vì một lời nói dối lại cần có mười lời nói dối khác để che dấu cho lời nói dối đó. Tội gì bạn phải tự làm khổ mình như thế ?
9. ĐỪNG LẪNG PHÍ THỜI GIAN CỦA BẠN :
Đừng bao giờ lãng phí thời gian của bạn. Mỗi khi dành thời gian nghĩ đến người hay vật nào đó mà bạn không thích, hãy nhớ rằng thời gian rất đáng trân trọng.
10. NGƯỜI THỰC SỰ ĐÁNG QUÝ LÀ NGƯỜI CHÂN THÀNH:
Vạn người quen có mấy người là bạn ? Trăm loại bạn có mấy người là thân ? Chục người thân có mấy người là tốt ? Vài người tốt liệu có được bền lâu ? Chỉ một người đã đủ nếu là người chân thành.
SƯU TẦM
VIII. THÔNG TIN HIỆP SỐNG THÁNG 04/2020
A. TIN LIÊN HỘI HHTM /TGP SG TH 04:
1. CHÚC MỪNG:
1) Ngày 05/04/2020: Lễ kính thánh Vinh Sơn Ferrê là Bổn Mạng
– Cha Vinh Sơn Vũ Ngọc Đồng: Giám Đốc Caritas TGP TP HCM.
Xin chúc mừng quý cha và chúc quý cha đón nhận dồi dào hồng ân của Chúa qua lời bầu cử của thánh Vinh Sơn Bổn Mạng.
2) Ngày 28/04/2020 : Kỷ niệm 47 năm ngày thụ phong linh mục (28/4/1973-28/04/2020) của cha Tổng Giám Huấn HHTM Đaminh Đinh văn Vãng:
HHTM cùng hiệp thông với cha tạ ơn Chúa mừng ngày thụ phong linh mục và kính chúc cha Tổng Giám Huấn đón nhận được dồi dào hồng ân Thiên Chúa nhân kỷ niệm thụ phong LM.

B. THÔNG TIN CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM/TGP- SG THÁNG 04:
1. MỪNG BỔN MẠNG:
1) Ngày 05/04: Lễ Thánh Vinh Sơn
Bổn mạng ông Vinh Sơn Mai Viết Thượng – Ủy viên Truyền Thông Ban CH Liên Đoàn Bác Ái.
2) Ngày 29/04 : Lễ Thánh nữ Catarina:
Bổn mạng Bà Catarina Đào Thị Chiến – Cố vấn Trợ tá Liên Đoàn Bác Ái.
Bổn mạng Bà Catarina Trần Thị Thanh Vân – Đoàn trưởng Xứ đoàn Bác ái HHTM Bình Thái.
BCH LĐ BA HHTM xin chúc mừng quý ông – quý bà đã nhận Thánh Vinh Sơn và Thánh Catarina được tràn đầy hồng ân Thiên Chúa, qua lời cầu bầu của thánh bổn mạng.
2. SINH HOẠT LĐ BÁC ÁI HHTM:
BÁO CÁO CÔNG TÁC:
1/ XỨ ĐOÀN BÁC ÁI TÂN HƯNG:
Thăm bệnh nhân : 2 người
Viếng xác : 2 người
Thăm gia đình lương giáo : 1 người
Thăm Tân Tòng : 1 người
Thăm hội viên đau liệt : 2 người
Thăm hội viên không sinh hoạt : 2 người
Quét dọn nhà Chúa : 4 lần / 6 người
Tổng chi kinh phí bác ái : 2.900.000 đ
2/ XỨ ĐOÀN HSLC NHÀ THỜ THÁNH MẪU:
Thăm bệnh nhân 2 người : 2.000.000 đ
Thăm hội viên đau liệt : 2 người
Quét dọn nhà Chúa : 8 lần
Thăm Giáo Điểm Truyền Giáo : 13.000.000 đ
Tổng chi kinh phí bác ái tháng qua : 25.000.000 đ
3/ XỨ ĐOÀN BÁC ÁI HHTM NAM HÒA:
Thăm bệnh nhân : 3 người
Quét dọn nhà Chúa : 4 lần / 4 người
Đóng góp bếp ăn nhân ái : 500.000/ tháng
3. THƯ MỜI HỌP MẶT TH 04/2020
Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và các thành viên BCH các xứ đoàn thuộc LĐBA / HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 04 / 2020tại Nhà thờ Thánh mẫu Trung Ương: 3 – 5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình , vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 29/4/2020.
Đề nghị các anh chị em đến tham dự đầy đủ và đúng giờ.
C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM/GP TH 04:
1. MỪNG BỔN MẠNG:
Ngày 05/04/2020: Lễ kính Thánh Vinh Sơn Bổn mạng:
Anh Vinh Sơn Nguyễn Ðức DŨNG – Trưởng XĐ GÐ HHTM Lạc Quang (HM).
Chúc anh thánh đức, vui khỏe noi gương thánh Vinh Sơn.
2. SINH HOẠT LĐ GIA ĐÌNH HHTM:
– Đáp lời mời của Ban ĐKCG QUẬN BCH Liên đoàn gia đình đại diện ủng hộ chia sẻ với bệnh nhân dịch COVID 19 : 500 000đ
– Đại diện BCH Liên Đoàn sẽ tặng cho nhà Thờ Sao Mai 15 lít GEL rửa tay Sạch khuẩn
– Sáng thứ sáu 27/3/2020 Đại diện BCH Liên Đoàn đã đến nhà thờ Sao Mai kết hợp với nhóm giáo dân trong giáo làm vệ sinh quét , lau các ghế trong nhà Thờ sau 2 tuần nhà thờ Sao Mai đóng cừa theo ý cùa Tòa tổng Giám mục để chống dịch Covid 19
3. BÁO CÁO CÔNG TÁC:
Các Xứ Đoàn Gia Đình HHTM đã làm công tác trong tháng qua như sau:
1) XỨ ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM LạC QUANG:
– Anh Chị em chung tay góp 2 tạ gạo cho giáo xứ vào mùa chay.
– Buổi tối hằng tuần tham gia ngắm 15 sự thương khó .
– Có mang khẩu trang đi đi lễ.
– Thăm hỏi động viên chị Trung bị té xe đạp điện .

2) XĐ GIA ĐINH HHTM TAN HƯNG QUậN 12:
– Làm vệ sinh nhà xứ tuần 2 lần
– Ngày 19/3 dự lễ và chúc mừng lễ Bổn mạng của cha chính xứ Giuse Phạm Hoàng Lương .
– anh chị em đi lễ và hội họp đều đeo khẩu trang .

3) XĐ GIA ĐINH HHTM Lộ ĐứC (CA-RI-TAS SAO MAI):
– Trong thời gian 2 tuần Mái ấm Caritas Hạt Chí Hòa cách ly tại chỗ , Gia đình lộ Đức gừi mì cho mái ấm trong thời gian 6 người trong mái ấm Caritas Hạt Chí Hòa bị cách ly tại chỗ
– Sáng thứ sáu 27/3/2020 Gia đình Lộ Đức đả tặng cho văn phòng nhà xứ 2 Gel – 700 ml để ngăn ngừa vi khuẩn
– Tới giờ dâng lễ online của Cha Phó Giuse trong xứ , Các Thành viên nhắc nhau để cầu nguyện .
4) XĐ GIA ĐINH TRẻ HHTM CHÂU BINH:
– Ngày 19/03/2020 Lễ kính Thánh Cả Giu-se là bổn mạng của Xứ Đoàn Gia đình trẻ Hiệp Hội Thánh Mẫu Châu Bình. Được tổ chức hồi 18g ngày 19/3/2020.
Mừng lễ Bồn mạng của gia đình Châu Bình có rước thánh Giuse từ cổng nhà thờ lên cung Thánh, có 2 cha đồng tế lễ xong ra về.
– thứ hai, ngày 23.3/2020 là sinh hoạt cuối cùng ở nhà chờ Phục Sinh của XĐ gia đình Châu Bình
– Thứ hai 30/3/2020 mọi sinh hoạt cùa XĐ gia đình Châu Bình ngưng sinh hoạt .
5) XĐ GIA DINH HHTM MẫU TAM
– Gđ Mẫu Tâm tháng 3 họp được có 2 tuần vào tối thứ sáu
có tổ chức học hỏi về luật sống để chuẩn bị gia nhập 1 số bạn mới
– Hát lễ sáng thứ 7 + tập hát tối thứ 3
– Đọc kính viếng đám tang :1
( đi lễ ,họp , tập hát mọi ace đeo khẩu trang đầy đủ)
6) XĐ GIA DINH HHTM SAO MAI
Nhà thờ giáo xứ Sao Mai đóng cửa 2 tuần ngưng sinh hoạt :
– Chị em nhắc nhở nhau tham dự Thánh Lễ Online mỗi ngày .
– Để Hiệp lời cầu xin Chúa cho qua bịnh dịch Covid 19
7) XĐ GIA DINH HHTM BắC HA – Củ CHI :
– Gia đình HHTM xứ đoàn Bắc Hà Củ Chi nghỉ họp từ tháng 2/2020
– Các ngày thứ bảy hằng tuần vẫn quét nhà Thờ
– Ngày 27/3/2020 viếng xác Bà Maria người phụ bếp cho nhà xứ.
IV. DỰ KIẾN SINH HOẠT THÁNG 05/2019 CỦA LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM:
1) Trong tháng 05 có ngày 01/05 là lễ kính thánh Giuse Lao Động, bổn mạng cùa XĐ Gia Đình HHTM Mẫu Tâm. Nguyện xin thánh Cả Giu-se Lao Động cầu bầu cho XĐ Gia Đình HHTM Mẫu Tâm ngày thêm vũng mạnh.
2) Đề nghị 2 XĐ Gia Đình HHTM Phụng Hiệp GP Cần Thơ và XĐ Gia Đình HHTM Hồng Ân cho BCH Liên đoàn biết Tên Thánh Bổn mạng của 2 Xứ Đoàn và ngày kính.
3) Ngày 3/5 : Ngày giỗ của Cha cố Giacobe Đỗ Minh Lý – nguyên Giám đốc Hiệp Hội Thánh Mẫu. Mời Hội Viên đến nhà Thờ Thánh Mẫu hồi 16g30 thứ sáu (3/5/20) để đọc kinh cầu nguyện cho Cha Cố Gia-cô-bê.
V. NHẮC NHỚ:
Truyền thông Tập san Hiệp sống Tin mừng rất hoan nghênh các Xứ Đoàn đưa thông tin và hình ảnh sinh hoạt lên Facebook! Đề nghị khi nhận thông báo nhớ hồi âm để người thông tin an tâm. Thân chào anh chị em trong Tình Yêu Chúa Ki-tô và Thánh Mẫu Maria.
VI. CẦU NGUYỆN: Trong những ngày phòng chống dịch bệnh covid-19 :
Giáo dân không được dâng lễ đông người trong nhà thờ :
– Chúng ta hãy chia nhóm nhỏ 5-7 người cùng dâng lễ online sốt sáng để cầu nguyện cho nhau thoát dịch covid – 19 .
– Cầu nguyện cho anh Cố vấn Liên đoàn Phạm Ngọc được sớm khỏi bịnh.
– Chị Trung bị ngã xe gãy xương chưa ngồi được , Xin Chúa nâng đỡ chị và chữa lành cho chị
D. THÔNG TIN LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP THÁNG 04:
1) SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM/GP:
Mừng bổn mạng: Ngày 05/04/2020 là lễ kính Thánh Vinh Sơn Bổn mạng anh Vinh Sơn Nguyễn Văn HÙNG (Mộc) nguyên Cố Vấn LÐ GT HHTM. Và anh Vinh Sơn Phạm Công THANH TÙNG Ðoàn Trưởng GT HHTM Thái Bình XM.
Xin thánh Vinh Sơn cầu bầu cùng Chúa cho hai anh luôn khỏe mạnh và dồi dào hồng ân TC.
2) TÌNH HÌNH LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP:
LĐoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon hiện nay còn 7 Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM hoạt động như sau:
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Sao Mai.
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thạch Đà.
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Châu Bình.
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thái Bình.
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Bình Thái.
– Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Bình An.
– Xứ Đoàn Sinh Viên NT Thánh Mẫu đang hình thành.
BCH Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM trong thời gian này sẽ đi thăm các Xứ Đoàn.
TRUYỀN THÔNG HHTM

XIN TẢI TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 04.2020 TẠI DƯỚI.

_TẬP SAN HIỆP SỐNG TH 04 2020