SUY NIỆM TIN MỪNG – Số 871, CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN – A, KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO, 22/10/2023

 

“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 22, 15-21)

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Đó là lời Chúa.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 28, 16-20)

Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Đó là lời Chúa.

Mục lục:

SUY NIỆM TIN MỪNG
Của Thiên Chúa Trả Cho Thiên Chúa & Chúa Sai Tôi Đi ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trg 2
Của Thiên Chúa Trả Về Thiên Chúa & Truyền Giáo Hay Rao Gianrg Tin Mừng? Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty Trg 6
Hãy Đi Rửa Tội Cho Muôn Dân Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Trg 10
Đáp Lời Chúa Mời Gọi Lm. Inhaxiô Trần Ngà Trg 12
THƠ TIN MỪNG
Đáp Tình Hạt Nắng Trg 14
Dâng Ngài Tất Cả Bâng Khuâng Chiều Tím Trg 10
Trả Nợ Đời – Trả Nợ Ngài M. Madalena Hoa Ngâu Trg 11
Qui Hướng Về Ngài Nắng Sài Gòn Trg 12
Dâng Về Thiên Chúa A.P Mặc Trầm Cung Trg 13

——————————————

 

Của Thiên Chúa Trả Cho Thiên Chúa

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
– Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
– Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh hồn mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.

Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
– Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
– Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
– Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
– Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
– Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

—————————————-

 

Chúa Sai Tôi Đi

Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
– Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.

– Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

– Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

– Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên Chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác.

Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

—————————————-

 

Của Thiên Chúa Trả Về Thiên Chúa

Vẫn lồng trong bối cảnh cuộc tranh luận, hay đúng hơn, đối kháng giữa Đức Giêsu với các cấp thủ lãnh đạo đời của dân Do Thái thời đó (coi Mát-thêu chương 21-22), mà vấn đề nộp thuế hay không nộp được đặt ra. Câu trả lời khôn ngoan của Đức Giêsu dĩ nhiên đã bẻ gẫy được cái bẫy gài sẵn “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kể giả hình?”; nhưng không đơn thuần chỉ có thế. Giải đáp Người đưa ra là cả một khảng định rất quyết liệt về sự khác biệt sâu sắc giữa Cựu Ước (bao gồn cả hai lãnh vực đạo đời) và Tân Ước hay Tin Mừng Người đang muốn mạc khải. Trong tinh thần và truyền thống Do Thái thời đó, người ta không tách biệt rõ rệt hai lãnh vực đạo đời như lối suy nghĩ trần tục (secularism) của chúng ta thời nay. Do đó “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” mà Đức Giêsu khảng định cũng không được hiểu theo nghĩa chu toàn cả việc đời lẫn việc đạo, hay lưu tâm tới cả lãnh vực vật chất trần tục lẫn lãnh vực thiêng liêng đạo đức.

Nộp thuế, cho dầu có nhuốm mầu chính trị hay thường xuyên bị lạm dụng bất chính tới mấy đi nữa, thì nền tảng nguyên sơ của nó vẫn dựa trên định luật công bằng, và điều này có giá trị cho mọi thời đại. Người dân nộp thuế cho nhà cầm quyền để được hưởng các phúc lợi của công ích, và chính quyền có thu thuế cũng là để có ngân sách phục vụ ích chung. Dựa trên công bằng, thời xưa nhà cầm quyền buộc người dân nộp thuế theo luật định đồng thời nghiêm phạt những ai trốn thuế, thời nay người dân có quyền kiểm tra, tố cáo, thậm chí truất phế chính quyền, nếu tiền thuế không được chi tiêu cách chính đáng vào các chương trình phúc lợi lo cho dân. Nộp thuế do đó là biểu tượng của luật công bằng, không chỉ trong lãnh vực đời mà cả trong việc đạo. Mọi người Do Thái đều phải nộp thuế đền thờ, và vì thế Đức Giêsu cũng đã chấp hành nghiêm chỉnh (xem Mt 17:24-27).

Trong khái niệm đó, công bằng (mà nộp thuế là biểu tượng) chính là định luật căn bản con người dùng để đối xử với nhau. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Giavê cũng phần nào bị nhân cách hóa để ký kết một giao ước sòng phẳng với dân Người, trong đó giữ luật lệ tôn giáo là một thứ thuế vụ phải trả để được Đức Chúa bênh vực chở che. Các người Pharisêu biết rất rõ điều đó; họ hiểu hơn ai hết khi Đức Giêsu nói ‘của Xê-da, trả về Xê-da’ là để ám chỉ theo nghĩa này. Thế nhưng trước đó, cũng trong một đoạn phúc âm Mát-thêu (17:24-27), Người còn đưa ra một định luật hay một tương quan rất khác: “Anh Simon, anh nghĩ sao: vua chúa trần gian bắt ai nộp thuế, con cái mình hay người ngoài?” Tân Ước đã thoát ra khỏi tương quan vua – tôi hay tương quan với người ngoài để đưa vào tương quan con cái trong gia đình. Thiên Chúa không còn phải là một Đức Chúa oai hùng ngự trị trên đỉnh Sinai, mà đã trở thành ‘Cha chúng con ở trên trời’. Do đó không còn chỗ cho tương quan thuế vụ nữa, “vậy thì con cái được miễn”. Như thế “của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” không thuần túy đề cập tới lãnh vực nghiêm chỉnh ‘giữ đạo’ mà tới một tương quan, một giao ước hoàn toàn mới mẻ; Thiên Chúa của Đức Giêsu không còn lấy sự công bằng, sòng phẳng làm nền cho các bổn phận tôn giáo. Đức Giêsu, qua các lời rao giảng, qua thái độ, và nhất là qua cái chết thập giá của Người, đã không ngừng cất công khảng định rằng Thiên Chúa là Người Cha nhân ái giầu lòng xót thương. Người có trí nhớ rất kém và thậm chí không biết làm các phép tính đơn giản nhất, theo kiểu nói hóm hỉnh của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, thì làm sao giữ nổi cuốn sổ thuế mà thâu? Đối với một Thiên Chúa như thế, con cái hãy ‘trả về’ cho Cha mình niềm tin yêu phó thác trong mối tương quan phụ tử… của an bình và vui tươi, chứ không như thuế nộp cò kè thêm bớt, tính toán sòng phẳng. Tin Mừng phải là như thế! Chẳng trách gì các Pharisêu ‘nghe vậy, họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi’. Họ kinh ngạc vì điều Đức Giêsu vừa công bố quá xa lạ đối với quan niệm giữ luật lệ họ vốn có. Và vì không có cách gì hiểu nổi điều này nên lảng ra xa là thượng sách. Các môn đệ của Đức Giêsu thì khác; họ hiểu và phải hiểu điều này, vì toàn bộ việc ‘hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’ mà Đức Giêsu kêu gọi chính hệ tại ở điều này. Như vậy “của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” sẽ phải rất khác với “của Xê-da trả về Xê-da”; Kitô hữu chúng ta không thể đánh đồng hai bổn phận này cho dầu là trên hai bình diện khác nhau!

Và tôi, một Kitô hữu, hơn nữa một linh mục của Đức Kitô, tôi phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Trong mục vụ, thay vì nhấn mạnh trên tương quan vua tôi (thưởng phạt, xét xử công minh, công nghiệp), sứ mạng chính yếu của tôi sẽ phải là loan báo một tương quan cha con của lòng nhân ái và xót thương (phi thuế vụ) cho càng nhiều người được biết càng tốt, nhất là cho các giáo dân tôi có bổn phận hướng dẫn. Chỉ như thế tôi mới thật sự kêu gọi họ trả về cho Thiên Chúa nhân ái những gì của Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa nhân ái và giầu lòng xót thương, xin cho con tránh xa việc giữ đạo như một thứ nghĩa vụ, một bổn phận trả thuế cò kè tính toán. Xin gạt ra khỏi trí lòng con mối bận tâm thu tích công nghiệp để hơn thua với Chúa. Xin Thần Khí Chúa hãy đổ đầy tâm hồn con tâm tình con thảo để có thể kêu lên ‘Abba / Cha ơi’, và xin cho con được luôn sống trong niềm vui của Tin Mừng cứu độ, và loan báo Tin Mừng Nhà Cha cho mọi người được biết. Amen

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB

———————————————–

 

Truyền Giáo Hay Rao Giảng Tin Mừng?

Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian gần 03 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.
Tôi nhớ là, vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian giữ chức vụ giám tỉnh; tôi đã thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam tại đó. Hơn nữa, trước khi lên đường đi truyền giáo tại Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ, mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngắn ngủi, đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.

Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mờ dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Kitô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Vatican II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelizare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa, một Tin Mừng đã từng được Đức Kitô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá.
Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Kitô Giêsu. Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại đó.

Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Kitô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Samari đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Camơrun, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại.
Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.
Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền ‘luân lý Kitô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Kitô Giêsu.
Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Kitô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cất cao lời cảm tạ.
Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ được thừa sai.

Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. Amen

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB

———————————————

 

Hãy Đi Rửa Tội Cho Muôn Dân

Ở Việt Nam có rất nhiều nghịch lý như:
– Có rất nhiều tiến sỹ nhưng không mấy ai có bằng sáng chế.
– Báo cáo chương trình thì hay nhưng không báo cáo kết quả.
– Thích thành tích nên chỉ chú trọng vào các công trình đồ sộ nguy nga, hoành tráng nhưng xa rời thực tế gây nên lãng phí.

Chuyện đời, chuyện đạo đều như vậy. Họ chỉ chú trọng bằng cấp, chú trọng công trình nguy nga, hoành tráng để lấy oai với đời.

Điều này ta cũng thấy trong mỗi dịp khánh nhật truyền giáo lại được nghe những báo cáo về những khoá huấn luyện cho nhân sự truyền giáo từ linh mục, tu sỹ đến giáo dân? Hàng năm có hàng trăm buổi tham luận về truyền gíao để kể cho nhau nghe chương trình vĩ mô của mình để học hỏi lẫn nhau? Hàng năm đã bỏ ra bao nhiêu tỉ đồng vào những lễ hội truyền giáo? Với con số hàng trăm ngàn người đào tạo và được đào tạo truyền giáo thì có mấy ai đã ra đi gặp gỡ để nói về Chúa cho dân ngoại?

Chắc chắn sự thao thức và nỗ lực truyền giáo của mọi thành phần dân Chúa là luôn hăng say, luôn nhiệt thành. Những công việc mà chúng ta đã làm đều thể hiện sự khao khát cho việc truyền giáo. Điều chúng ta cần nhìn lại là hiệu quả truyền giáo tại sao không đáng kể? Con số tân tòng hàng năm có bao nhiêu phần trăm theo đạo nhờ truyền giáo hay chỉ là theo vì lấy vợ lấy chồng.

Chúng ta thử nhìn lại con số tín hữu Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử để thấy giai đoạn nào thực sự truyền giáo hiệu quả?
“Năm 1960, số tín hữu Công Giáo là 2,43 triệu người, số dân cả nước là 35 triệu người, tỷ lệ người Công Giáo trên dân số cả nước là 7%.
Và năm 2022 số giáo dân lên tới 7,2 triệu người đạt tỉ lệ 7,21%.
Nhìn vào tỉ lệ người Công Giáo hơn 60 năm qua dường như vẫn dậm chân tại chỗ.

Tôi nhớ hồi còn nhỏ chúng tôi luôn được học trong các trường Công Giáo. Các xứ đạo luôn có trường học dành cho bậc tiểu học, và mỗi vùng miền có một, hai trường trung học. Rồi các cơ sở y tế, từ thiện có mặt ở khắp nơi với tên gọi là Caritas. . .. Thậm chí có cả Giám mục, linh mục đạp xích lô như bao người thợ trong xã hội.

Hình ảnh các linh mục, tu sỹ nam nữ dấn thân trong xã hội đã ảnh hưởng rất lớn đến môi trường truyền giáo. Do đó con số tín hữu trước 1975 chỉ sau hơn 20 năm đã tăng thêm 2 triệu tín hữu chủ yếu ở Miền Nam. Sau 1975 với lý do thời cuộc, đạo Công giáo ít nhiều cũng bị hạn chế, thế nhưng bây giờ xã hội đã cởi mở hơn và cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn, nhưng đáng tiếc là chúng ta dường như đã có thói quen đổ thừa cho hoàn cảnh để rồi quên đi sứ vụ “Ra Đi” của mình nên con số trên dưới 7 triệu tín hữu đã dừng lại cả gần chục năm nay.

Phải chăng chúng ta đã thiếu bước chân “Ra đi” như Thầy Chí Thánh Giêsu. Thầy Chí Thánh đã “ra đi” theo thánh ý Chúa Cha. Ngài đã ra khỏi ngai trời mà đến cư ngụ giữa chúng ta. Ngài đi gieo tin mừng. Ngài đã gieo giữa lòng thế giới tin mừng cứu rỗi, tin mừng của yêu thương tới mọi phận người nhất là người bé mọn bị bỏ rơi. Người đến để băng bó những tâm hồn tan nát, chữa lành người đau yếu phần hồn và phần xác.

Chúa Giêsu trước khi về trời cũng sai các tông đồ “ra đi”. Do đó, các tông đồ là người luôn trong tư thế “đi” chứ không phải là người chỉ “ngồi” một chỗ để phán. Chúa Giêsu cũng không kêu gọi phải xây những cơ sở nguy nga tráng lệ. Chúa muốn kiến thiết đền thờ tâm hồn hơn là đền thờ vật chất mau hư hoại.

Tuy nhiên, trong khi Thầy muốn chúng ta “đi”, thì nhiều khi chúng ta lại chỉ muốn… “ngồi” ở nhà xứ, hay ở văn phòng. . . Thầy nói chúng ta đến với con chiên lạc và người tội lỗi, nhưng chúng ta lại chỉ muốn co ro mình trong nhà xứ, trong hội đoàn, và tìm đến những con chiên béo để xin tiền xây dựng đền đài.

Hôm nay chúng ta đang thừa hưởng những thành quả mà các thừa sai đã đánh đổi bằng hy sinh gian khổ, bằng bắt bớ nhục hình, bằng máu đào đổ xuống để Giáo Hội Việt Nam hôm nay phồn vinh cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng có bao giờ chúng ta cảm thấy mình “mắc nợ” các vị thừa sai đã mang Tin Mừng, đã ra đi gieo cây đức tin để chúng ta gặt hái hôm nay.

“Món nợ đức tin” ấy mỗi người chúng ta có lẽ đều phải trả trước mặt Chúa. Chúng ta đã làm gì sinh lời cho Nước Chúa? Chúng ta đã làm gì để danh Chúa được cả sáng? Chúng ta đã làm gì để bảo vệ đức tin và giới thiệu niềm tin ấy cho anh em?

Mời bạn và tôi cùng đấm ngực như thánh Phaolô để nói lên rằng: “Khốn thân tôi vì {nếu } tôi không rao giảng Tin Mừng!”

Lễ Khánh Nhật Truyền Giáo 2023
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

——————————————-

 

Đáp Lời Chúa Mời Gọi

Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương, hết sức trân quý loài người là đoàn con chí ái mà Ngài đã sinh ra và ấp ủ trong tình yêu thương thắm thiết. Tiếc thay, hàng tỷ người trên mặt đất hiện nay không nhận ra Ngài là Cha, chưa biết mọi người chung quanh là anh chị em ruột thịt con cùng Cha trên trời… Vì thế, họ quay lưng lại với Cha trên trời, họ sống thù nghịch với nhau, gây cho nhau vô vàn đau thương khốn khổ trong suốt dòng lịch sử.

Trước thảm cảnh nầy, Thiên Chúa đau lòng vô hạn và Ngài khao khát cho muôn dân nhận biết Ngài là Cha, nhìn nhận nhau là anh chị em một nhà, nhờ đó mới có thể chấm dứt bao cảnh huynh đệ tương tàn, để cùng nhau xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong đại gia đình Thiên Chúa. Đây là nỗi khát khao mãnh liệt nhất của Thiên Chúa.

Để xoa dịu, để giải tỏa “cơn khát” nầy, Thiên Chúa không ngừng thôi thúc chúng ta là những đứa con trong nhà hãy lên đường dẫn đưa các anh chị em chưa biết Cha về đoàn tụ.

Lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa
Rất nhiều lần, lời mời gọi của Chúa Giêsu vang dội trong tâm hồn chúng ta:
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4).
“Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2)…

Gần đây, qua Đức thánh Cha Phanxicô, Thiên Chúa tiếp tục thúc giục chúng ta cách quyết liệt và khẩn thiết:
“Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và lem luốc vì phải lên đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. ”

Thế nhưng, những lời thôi thúc mời gọi đó vẫn chưa lay động con tim vô cảm của chúng ta, vẫn chưa khơi lên được ngọn lửa truyền giáo đã tắt ngúm trong tâm hồn chúng ta, mà chỉ như một làn gió thoảng qua rồi tan biến!

Thiên Chúa làm thế nào để đưa những đứa con chưa biết Cha về đoàn tụ?
Để đưa những người con chưa biết Cha về đoàn tụ, Thiên Chúa trao cho chúng ta hai nhiệm vụ sau đây:
– Thứ nhất, Ngài muốn chúng ta trở nên môi miệng Ngài để loan báo cho muôn người nhận biết họ có một Người Cha tuyệt vời là Thiên Chúa và mọi người là anh chị em ruột thịt con cùng Cha, để cùng nhau vui sống trong tình yêu thương.
– Thứ hai, Thiên Chúa muốn dùng chúng ta là những bàn tay của Ngài, đưa ra để dẫn dắt anh chị em lưu lạc về với Ngài.

Thế rồi, Thiên Chúa ngày đêm mong đợi mỗi người chúng ta cấp tốc thực hiện ước vọng của Ngài, để sớm dẫn đưa bao người con lưu lạc về nhà Cha.
Nếu chúng ta không đáp ứng, Ngài sẽ thất vọng và đau lòng xiết bao!

Giờ đây, mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi mình:
– Chúa cần đến tôi là môi miệng Chúa để loan báo Tin Mừng, tôi đã loan Tin Mừng cho ai chưa? Và nếu chưa thì chờ đến bao giờ mới bắt đầu?
– Chúa cần đến tôi là bàn tay của Chúa để dẫn đưa anh chị em chưa nhận biết về nhà Cha, tôi đã làm chưa? Nếu chưa thì đợi đến bao giờ mới khởi sự?

Lạy Chúa Giêsu. Từ thân phận bụi đất thấp hèn, Chúa đã đoái thương nâng chúng con lên làm chi thể Chúa và cho tham dự vào vai trò ngôn sứ của Chúa để loan Tin Mừng cứu độ muôn dân.
Xin cho chúng con không bao giờ là bàn tay tê bại, nhưng luôn là bàn tay hoạt động thật nhiệt thành để Chúa sử dụng mà đưa nhiều người về đoàn tụ trong nhà Cha. Amen.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

——————————————

 

Đáp Tình
CN XXIX TNA – (Mt 22, 15 – 21)

Công bằng xử thế kiếp nhân sinh

Phức tạp trái ngang giữ trọn tình

Thế trần bổn phận luôn sáng tỏ

Nước Trời nhiệm vụ phải phân minh

Lương tâm phân biệt điều xung khắc

Thánh ý ưu tiên chiến thắng mình

Qui phục thần quyền luôn tối thượng

Thánh Danh Thiên Chúa tỏa quang vinh.

Hạt Nắng

—————————————-

 

Dâng Ngài Tất Cả
CN XXIX – TNA – (Mt 22, 15 – 21)

Sinh ra đời, giữa lòng dân tộc,
nhưng linh hồn nguồn gốc thần linh.
Quê hương, đất nước nặng tình,
tình yêu Thiên Chúa trung trinh tôn thờ.

Thiện ích chung, ước mơ hạnh phúc,
cùng chung tay phục vụ giang san.
Nhiệm vụ, bổn phận chu toàn,
công bằng, bác ái trao ban cho người.

Là tín hữu sống đời con Chúa,
giữa đường trần lời hứa tín trung.
Phụng sự Thiên Chúa cửu trùng,
dẫu lâm nghịch cảnh khốn cùng chẳng lay.

Cảnh dối gian bày mưu xung khắc,
luôn kiên cường vững chắc niềm tin.
Qui phục thánh ý anh minh,
tâm hồn thiện hảo an bình lương tâm.

Đời nhân chứng lặng thầm dâng hiến,
nhận tình yêu dâng tiến tình yêu.
Đáp đền tình Chúa huyền siêu,
Dâng Ngài tất cả dẫu nhiều gian nan.

Sự sống con, Chúa tặng ban …

Bâng Khuâng Chiều Tím

—————————————–

 

Trả Nợ Đời – Trả Nợ Ngài
CN XXIX – TNA – (Mt 22, 15 – 21)

“Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê,
và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Con nợ cuộc đời bao năm dài quên lãng,
con nợ tình người lời dối gian vong ân.
Giữa cuộc đường trần phiêu du cùng mây gió,
cơn lốc bạc tiền hoen úa tình tha nhân.

Con nợ tình Ngài cho con nguồn sự sống,
con nợ tình Ngài vầng sáng soi hừng đông.
Dưới mặt trời hồng vô ơn làn gió mát,
bạc nghĩa vong tình tình Chúa ban nhưng không.

Trả lại cho đời lời tri ân tha thiết
Trả lại cho người tình nghĩa nhân đầy vơi.
Trả lại cho Ngài thưở ban đầu trong sáng
Trả lại cho Ngài họa ảnh của tình yêu.

Con trả nợ đời sống công bình, nhân ái,
con trả nợ người tình thẳm sâu nặng mang.
Đáp lại tình Ngài tin yêu tìm chân lý,
thiên ý thiện toàn qui hướng dầu đa đoan.

M. Madalena Hoa Ngâu

——————————————–

 

Qui Hướng Về Ngài
CN XXIX TNA – (Mt 22, 15 – 21)

Con chẳng còn gì, nếu Chúa ngừng ban phát hồng ân,
con chẳng là gì, mà Chúa lại lưu ý quan tâm.
Nắng hồng ban mai, mưa chiều tưới mát,
ánh trăng diệu hiền, hoa tươi thơm ngát,
dòng sữa ngọt ngào, từ lúc con hoài thai.

Con phụ tình Ngài, mê thế trần lãng phí hồng ân,
tôn thờ bạc tiền, theo thế quyền, phú quí vinh thân.
chức quyền cao sang, che mờ đôi mắt,
trái tim khô cằn, tình yêu đánh mất,
nhân ái, công bằng, đường chân lý … như mù sương.

Trả lại cho Chúa, Chúa ơi! Con tim dại khờ,
trả lại cho Ngài, bản thiện từ lúc ban sơ.
Hồn con ngu ngơ, xa rời tình Chúa,
Ngài là tình yêu, hồng ân chan chứa,
xin qui hướng về Ngài, tất cả là hồng ân.

Dâng trọn cuộc đời, xin hướng về Thiên Chúa từ nhân,
trí tuệ, thời giờ, phụng sự Ngài trọn hết tài năng.
Báo đền hồng ân, chu toàn thánh ý,
chúc khen, cảm tạ, tình yêu viên mãn,
nhân ái, công bằng, đường chân lý … con thực thi.

Nắng Sài Gòn

——————————————–

 

Dâng Về Thiên Chúa
CN XXIX TN.A – (Mt 22, 15 – 21)

Được sinh ra giữa lòng dân tộc,
đất nước đượm tình ấp ủ tiếng quê hương.
Luật pháp, kỷ cương, đạo nghĩa cương thường,
thi hành luật lệ,
là bổn phận con phải chu toàn nơi trần thế.

Xây dựng quốc gia, chấp hành chính thể,
không ích kỷ, dối lừa,
không được sống gian tham.
Sống thẳng ngay, công chính việc mình làm,
bởi con được tạo dựng theo hình ảnh,
Thiên Chúa Tình Yêu – Công Bình và Nhân Ái.

Mở rộng tâm hồn, yêu thương quảng đại,
sống với tha nhân chính trực, công minh.
Bác ái, khoan dung là của lễ chân tình,
dâng lên Thiên Chúa,
đáp trả tình yêu Ngài ban tặng.

Ơn Chúa sáng soi trong nguyện cầu, thinh lặng,
nhận thức rạch ròi các giá trị biệt phân.
Giữa vật chất trần gian và lãnh vực tinh thần,
Nhận thức tối hậu,
Thiên Chúa chính là chủ nhân trên toàn vũ trụ.

Vật chất trần gian không làm con mê ngủ,
cơn ác mộng bạc tiền, không còn đau khổ, long đong.
Thanh thản sống bình an trong tay Chúa quan phòng,
vì: “của César hãy trả cho César”
Những gì “của Thiên Chúa hãy trả về Thiên Chúa”.

Hạnh phúc nào hơn được sống làm con Chúa,
Ân sủng nhiệm mầu luôn ấp ủ đời con.
Con hãnh diện,
vui phó thác,
vẹn nghĩa sắt son,
cuộc đời con là do Chúa tặng ban,
nguyện trọn đời hiến dâng về Thiên Chúa.

AP. Mặc Trầm Cung