CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH – NĂM C và LỄ THÁNH GIA

Các bài suy niệm LỄ GIÁNG SINH – Năm C
Lời Chúa:
Lễ Đêm: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Lễ Rạng Đông: Is 62,11-12; Tt 3,4-7; Lc 2,15-20
Lễ Ban Ngày: Is 52,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18 hay Ga 1,1-5.9-14
* Các bài suy niệm LỄ THÁNH GIA – Năm C
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a (hay 1Sm 1,20-22.24-28);
Cl 3,12-21 (hay 1Ga 3,1-2.21-24); Lc 2,41-52

MỤC LỤC
* LỄ GIÁNG SINH.
1. Dấn thân.
2. Bình an cho loài người Chúa thương.
3. Sứ điệp từ hang Bêlem – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Lễ Giáng Sinh: Lễ Đêm (Lc 2,1-14)
5. Lễ Giáng Sinh: Lễ Rạng Đông (Lc 2,15-20)
6. Lễ Giáng Sinh: Lễ Ban Ngày (Ga 1,1-18)
7. Ngôi Lời là ánh sáng thật
8. Bình an từ trời
9. Niềm vui của thuở ban đầu.
10. Chúa đến trong thinh lặng của đêm khuya (Lc 2,1-14)
11. Ánh sáng đã xuất hiện (Lc 2,15-20)
12. Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18)
13. Suy niệm của McCarthy – Tin Vui Giáng Sinh.
14. Chú giải mục vụ của William Barclay.
15. Suy niệm của R. Gutzwiller
16. Đêm Thánh – Karl Rahner
17. Nghèo.
18. NOEL – Bình an.
19. NOEL- Ánh sáng.
20. Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người – JKN.
21. Đêm giao hòa.
* LỄ THÁNH GIA.
1. Con có bổn phận.
2. Thánh Gia.
3. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày.
4. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Suy niệm của McCarthy: Tìm kiếm trong đền thờ.
6. Chú giải mục vụ của William Barclay.
7. Lễ Thánh Gia Thất
8. Suy niệm của R. Gutzwiller
9. Để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình.
10. Gia đình thánh thiện.
11. Tài sản.
12. Thánh Gia.
13. Tìm thấy.
14. Suy niệm.
15. Gia đình.
16. Gia đình.
17. Hy sinh

LỄ GIÁNG SINH
1. Dấn thân
Trong triết học hiện sinh, có một động từ thường hay được xử dụng, đó là dấn thân. Nhìn theo khía cạnh này, thì Đức Kitô quả là một người đi tiên phong cho chủ thuyết hiện sinh.
Thực vậy, Giáng sinh, hay nói đúng hơn theo ngôn ngữ thần học, nhập thể là gì nếu không phải là việc Con Thiên Chúa dấn thân và sống cuộc đời con người chúng ta.
Đức Kitô đã không xuống thăm trái đất này như là một ông đại sứ của Chúa Cha, đến để công bố những giới luật, những nguyên tắc của cuộc chơi trong kiếp sống làm người. Đến để loan báo phần thưởng cho những người tuân giữ, và hình phạt cho những kẻ chối từ. Một ông đại sứ luôn đứng bên lề cuộc phiêu lưu của nhân loại. Con Thiên Chúa không đến để chỉ cho chúng ta biết phải chơi như thế nào, nhưng Ngài đã nhập cuộc, đã tham dự trò chơi. Ngài đã dấn thân, đã làm người. Và theo ngôn ngữ của thánh Gioan thì Ngài đã hóa thành nhục thể.
Vào thời bấy giờ, người ta không thể nào tin nhận một chân lý như vậy. Đối với họ, thể xác là nguyên nhân sinh ra tội lỗi. Họ chủ trương: Đức Kitô chỉ có cái vóc dáng bên ngoài của con người, chỉ đeo một cái mặt nạ của thể xác. Trong khi đó, thánh Gioan mạnh mẽ chống lại quan niệm này khi công bố: Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, Ngài đã chấp nhận cuộc chơi như lời thánh Phaolô: Chúa đã không nhận của lễ toàn thiêu, đã không ưng chiên bò hy tế, thì nay con đến để làm theo ý Cha. Bốn chữ:thì nay con đến” mang một ý nghĩa sâu xa, muốn nói lên rằng: Ngài đã bước vào cuộc chơi.
Đức Kitô không phải chỉ là một Thiên Chúa, nhưng Ngài còn là một con người, đã sống một cuộc đời như chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: Bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, Ngài cũng giống như vậy. Ngài đến không phải để giúp đỡ các thiên thần, nhưng đến để giúp đỡ dòng dõi Abraham. Do đó, trong mọi sự, Ngài đã nên giống anh em mình. Để nên giống chúng ta, Ngài đã mặc lấy những yếu hèn, ngoại trừ tội lỗi. Phận Ngài là phận của một vị Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải dành cho được chức vụ đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Ngài đã hủy mình đi, mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm…
Thực vậy, Đức Kitô đã bước vào đời sống thể xác. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: Gioan Tiền hô đến không ăn không uống, nhưng Đức Kitô đến, Ngài đã ăn và đã uống. Ngài đã mệt mỏi vì đường xa, vì ánh nắng gay gắt, nên đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacob. Trên thập giá Ngài đã cảm thấy một cơn khát như xé cổ họng và đã chịu đựng những đớn đau ghê sợ nhất.
Tiếp đến, Ngài đã bước vào đời sống tâm lý. Ngài đã say mê vẻ đẹp thiên nhiên, đã yêu thích sự đơn sơ trong trắng của trẻ thơ. Ngài đã tỏ dấu yêu thương đối với Gioan và Lagiarô, Martha và Mađalêna… Ngài đã buồn, đã khóc. Ngài đã tức giận xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ.
Sau cùng, Ngài đã bước vào đời sống xã hội. Ngài đã nói với người nghèo hèn cũng như kẻ quyền thế, kẻ tội lỗi cũng như người thiếu phụ ngoại tình, bọn Biệt phái giả hình cũng như con cáo già Hêrôđê. Ngài đã sống trong một gia đình cũng như đã sống giữa các môn đệ, Đức Kitô đã muốn là một người như chúng ta. Và đó là một chân lý nền tảng của Kitô giáo.
Thực vậy, Đức Kitô là một con người cụ thể, đã sống vào một thời đại nhất định, đã thuộc về một giai cấp nhất định. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận, đó là việc thánh hóa con người không thể nào được thực hiện bên ngoài cuộc sống thường ngày.
Đúng thế, cuộc sống của người Kitô hữu không hệ tại việc đứng bên lề những thực tại trần thế như ăn uống, yêu thương, làm việc, cầu nguyện. Trái lại, chính những công việc tầm thường này đã dệt nên cuộc đời chúng ta. Bởi đó hãy bắt chước Đức Kitô làm những công việc của đời thường này một cách siêu nhiên, bởi vì Ngài đã đến để giúp chúng ta thánh hóa, biến những công việc đời thường này trở nên công nghiệp cho chúng ta.
Chúng ta phải luôn nhớ rằng: Đức Kitô không phải chỉ cứu chuộc chúng ta với tâm hồn của Ngài, mà còn với thân xác của Ngài nữa. Sở dĩ như vậy vì Ngài đã nối kết thân xác Ngài với bản tính Thiên Chúa. Nhờ đó, đã trở nên dụng cụ thực hiện chương trình yêu thương mà Ngài đã từng ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với những đau khổ, Ngài đã cứu chuộc chúng ta. Thân xác là như chiếc dây đàn, cho người nghệ sĩ tâm hồn gẩy lên bản tình ca chúc tụng Thiên Chúa.
Để thánh hóa, để đạt tới Nước Trời, chúng ta không cần phải chạy trốn những thực tại trần gian. Nếu một người nào đó hy sinh chỉ vì khinh bỉ thức ăn, vào rừng sống ẩn dật chỉ vì khinh bỉ anh em đồng loại, từ chối hôn nhân chỉ vì khinh bỉ đàn bà, khắc khổ chỉ vì khinh bỉ những niềm vui… thì người ấy đã phạm phải một sai lầm to lớn. Người ấy đã khinh bỉ chính những thụ tạo của Thiên Chúa. Người ấy tưởng mình tiến lại gần Thiên Chúa, nhưng thực sự, người ấy đã xa lìa Ngài.
Sở dĩ các thánh hãm mình, không phải vì khinh bỉ, nhưng vì được thúc đẩy đừng đánh giá quá cao những thực tại trần gian, biết chế ngự và dùng tinh thần vượt lên trên chúng. Thánh Phaolô đã diễn tả: Nơi Ngài, bản tính Thiên Chúa đã ở trong thân xác. Cũng vậy, chúng ta có thể nói về những Kitô hữu: đời sống của họ hệ tại thân xác, bởi vì những hành động của thân xác làm nên cuộc sống họ. Từ đó, chúng ta khám phá ra rằng: Thiên Chúa đã muốn sống bản tính Thiên Chúa một cách nhân loại, để chúng ta có thể sống bản tính nhân loại một cách Thiên Chúa. Hay như các thánh giáo phụ đã nói: Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người tiến lên ngôi Thiên Chúa. Ơn thánh chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội, được phát triển nhờ các bí tích, sẽ làm cho những công việc đời thường có một giá trị siêu nhiên. Nỗi băn khoăn của chúng ta không phải là chạy trốn thế gian, mà là nhập cuộc, là dấn thân, là làm tất cả những công việc đời thường như Đức Kitô đã làm.
Với Mầu nhiệm Giáng sinh, bản tính Thiên Chúa đã kết hôn với bản tính nhân loại nơi Hài nhi Giêsu, nhờ đó mà Ngài cứu chuộc chúng ta, thì giờ đây, để đời thường của chúng ta có một giá trị, chúng ta hãy quy hướng mọi hành động của thân xác về với Đức Kitô như lời thánh Phaolô: Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì Đức Kitô. Đó là một cách giúp chúng ta thánh hóa bản thân cũng như giúp chúng ta sống mầu nhiệm Giáng sinh giữa lòng cuộc đời.
2. Bình an cho loài người Chúa thương
Đức Maria cùng với thánh Giuse trở về Bêlem, chắc chắn vì luật lệ nhà nước bắt buộc mọi người phải đích thân trình diện tại phòng kiểm kê dân số nơi nguyên quán. Người về Bêlem với tư cách là dòng dõi David, hoặc với tư cách hôn thê của thánh Giuse, mà chính thánh Giuse cũng thuộc dòng dõi ấy. Làm công việc đăng ký này, hai ông bà hoàn thành một kế hoạch của Thiên Chúa sắp đặt biến cố Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, như các ngôn sứ đã loan báo. Chúng ta để ý đến lối văn sử gia Luca dùng để tường thuật sự kiện Giáng Sinh, bút pháp của thánh chép sử ngắn gọn và trong sáng đáng cho chúng ta khâm phục. Tính chất giản dị lạ lùng ấy thật trái hẳn với óc tưởng tượng ưa vẽ vời bày đặt. Những kẻ nào muốn phá huỷ cái chất huyền hoặc –như họ nói- nằm trong những truyện tích thời Chúa thơ ấu, có lẽ chính óc họ lại chứa đựng ngổn ngang những huyền thoại mà họ dựng lên, cho nên họ không thể nào có được bút pháp trong sáng tươi mát của Phúc Âm. Các nhà thông thái tranh luận để tìm hiểu “thiện chí” được các thiên thần ca ngợi cóphải là thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, hay đó là ý định nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Thật ra cả hai định nghĩa bổ túc cho nhau, và sự suy niệm của chúng ta thêm phong phú nhờ hai cách giải thích của bản văn của thánh chép sử.
Chúng ta nêu hai nhận xét:
1) Trước hết, Thiên Chúa hiện diện đối với những bạn hữu nghĩa thiết của Người trong cách an bài cuộc đời.
Thiên Chúa điều khiển lịch sử, sắp đặt các biến cố ngõ hầu cuộc đời mỗi cá nhân dt tự do quyết định nên hay không nên tiến vào con đường Người tiền định và đi tới cùng số phận Người đề nghị. Có lẽ đây là một trong những niềm xác tín vững chắc mà não trạng con người thời nay khó chấp nhận nhất. Kẻ nào tuân theo thánh ý Thiên Chúa xuyên qua cái lẽ huyền vi của những biến cố, dẫu là những biến cố khốc liệt nhất, kẻ ấy tìm được nguồn mạch đích thật của lòng dũng cảm, tin tưởng, an bình, và dấn thân phục vụ hữu ích cho đồng loại. Một nỗ lực khôn ngoan để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa qua sự thăng trầm của của lịch sử và để tuân phục Người sau khi đã suy xét và quyết tâm, nó mở ra cho chúng ta một vận hội may mắn lớn để thực hiện một kế hoạch mà tình yêu của Thiên Chúa đã vạch ra.
2) Nhận xét thứ hai: Các thiên thần loan tin hoà bình.
Tại sao? Thưa: bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của hoà bình. Hoà bình trong tương quan lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con người, chính là ân huệ Thiên Chúa đem Con Một Người tặng cho nhân loại. Trong tình trạng xung đột gây ra bởi tội lỗi, Thiên Chúa đi bước trước, Người đưa ra sáng kiến tái lập hoà bình. Làm như vậy vì Thiên Chúa cao cả mà con người lại quá hèn mọn. Hoà bình trong tương quan thành tâm thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, là ăn năn sám hối, là nhìn nhận giá trị thật sự của mình, nghĩa là nhìn nhận chính mình nghèo hèn tội lỗi. Đó là tâm tình khiêm hạ, khao khát được đón nhận Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, và cũng là vì yêu thương mà cố gắng sống trong trạng thái hoà bình xây dựng giữa thế gian.

3. Sứ điệp từ hang Bêlem – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới nay trở thành những ngày tháng tươi vui? Làm sao để năm mới này là thời gian hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên Chúa?
Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu.
Vì yêu thương con người, Đức Giêsu đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bêlem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giầu –nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.
Hoá thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình.
Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để kết nối đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên Chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngạy. Quyền lực của Người là tấm than trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bêlem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có Thánh Lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestine vẫn còn tiếp diễn.
Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do.
Là Thiên Chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giàu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. ngày nay chế độ nô lệ đã bị xoá sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bêlem, sứ điệp tự do của Đức Giêsu như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên Chúa.
Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.
Hãy đến với Hài Nhi Giêsu nằm trên máng cỏ trong hang đá Bêlem. Người là hiện thân của tình yêu, của hoà bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhất là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Trong những sứ điệp của Chúa Giêsu bé thơ, sứ điệp nào được nhắn riêng cho bạn?
2. Bạn có tự do thật không? Hay là có thứ nô lệ nào đang trói buộc bạn?
3. Tình yêu, tự do, hoà bình. Thế giới hiện nay cần gì nhất? Bạn sẽ làm gì để đóng góp vào hạnh phúc của thế giới?

4. Lễ Giáng Sinh: Lễ Đêm (Lc 2,1-14)
Trước đây hai ngàn năm, có một tin rất lạ lùng, một tin gây chấn động mọi người nghe, tin này không do phát ngôn viên của loài người, nhưng là một thiên sứ, một thiên sứ loan báo trên cánh đồng Bêlem. Tin này liên hệ đến mọi người sống trong cõi trần từ xưa đến nay và mang lại hạnh phúc toàn diện và vĩnh viễn cho con người; nội dung Tin Mừng ấy: “Anh em đừng sợ, này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa”.
Chúa Cứu Thế Giáng Sinh quả thật là một Tin Mừng trọng đại. Trên thế giới và qua quá trình lịch sử, có nhiều tôn giáo khác nhau. Vị giáo chủ nào cũng được những người tin theo ngưỡng mộ sùng kính, tuy nhiên không có vị nào là Đấng Cứu Thế, các vị đều sinh ra làm người, tu luyện đắc đạo, hành đạo, rồi chết như mọi người. Nhân loại cần một Đấng Cứu Thế lạ lùng, nguồn gốc không từ trong nhân loại, sinh tử khác hẳn người phàm. Vì Ngài từ trời Giáng Sinh, sinh hạ bởi Mẹ đồng trinh, ứng nghiệm một lời sấm đã nói bảy trăm năm về trước: “Sự Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế Giêsu diễn tiến như sau: cô Maria đã đính hôn với Giuse, vị hôn phu của Maria là người công chính, quyết định kín đáo từ hôn vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai. Đang băn khoăn về việc ấy, bỗng thấy một thiên sứ đến báo mộng: này Giuse, con cháu Đa vít, đừng ngại cưới Maria làm vợ, vì cô ấy thụ thai do Thánh Linh. Maria sẽ sinh con trai, sẽ đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi xiềng xích tội lỗi. Việc xảy ra đúng như lời Chúa đã bảo nhà tiên tri loan báo: này, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai đặt tên là Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Đó chính là ứng nghiệm về Đức Kitô, về Chúa Giêsu Giáng Sinh tại thành của Đa vít. Từ xưa tới nay, chưa có một ai được ra đời bằng cách Giáng Sinh, và có lời tiên tri được ứng nghiệm như Ngài, vậy nên trong muôn dân không có vị cứu tinh là Đức Kitô là Chúa như Ngài, muôn dân cần phải có Ngài vì thế việc Ngài Giáng Sinh tại thành của Đa vít là một Tin Mừng trọng đại cho tất cả nhân loại.
Lại cũng vì loài người ai cũng phạm tội, cũng đau khổ dưới ách tội lỗi và tự mình vô phương cứu thoát.
“Từ trời cao, Chúa nhìn xuống loài người,
xem ai là kẻ có lương tri,
biết kiếm tìm Thiên Chúa.
Người người đã lìa xa chính lộ,
chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi.
Chẳng có một ai làm điều thiện,
dẫu một người cũng không” (Tv 14,2-3).
Ngày nay khoa học kỹ thuật đã tiến bộ hơn trước nhiều, cung cấp cho con người đủ thứ tiện nghị vật chất, nhưng con người vẫn đau khổ, vẫn không được an vui. Vì sao thế, vì đã phạm tội, vì gánh nặng của tội lỗi cứ đè nặng, vì nọc độc của tội lỗi cứ ám ảnh, lương tâm không được bằng yên. Thế gian cũng đã từng áp dụng nhiều phương pháp: cải cách xã hội, đòi hỏi nhân quyền, khắc kỷ tu thân, nhưng các phương pháp ấy vô hiệu lực. Vì tất cả các phương pháp ấy đều không cất khỏi gánh nặng đang đè nặng trên con người. Duy chỉ có Đấng Cứu Thế mới có khả năng cất khỏi sức nặng tội lỗi đè nặng trên con người.
Vì Ngài chính là “Thiên Chúa ở với loài người”, Giáng Sinh làm người, duy mình Ngài Giáng Sinh làm người, gánh lấy hết tội lỗi, và chết thay cho tội nhân.
“Thật chính Ngài đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta tội lỗi, đã phải mang thương tích để chúng ta được chữa lãnh. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Chúa đã đổ trên đầu Người tội lỗi của tất cả chúng ta” (Is 3,4.5).
Và khi Ngài vừa xuất hiện để được Gioan Tẩy giả giới thiệu: “Đây là Chiên Con Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”.
Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta (Rm 5,6).
Và chết cũng có nhiều cách, nhưng Đức Kitô lại chết cách đau đớn trên thập giá!
Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn, máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống (Dt 9,14).
Máu của Đức Kitô Con của Người thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi (1Ga 1,7).
Suy gẫm về cái chết của Chúa Giêsu, khiến cho lòng chúng ta vô cùng cảm động, vì Người là Con Thiên Chúa vô tội mà Giáng Sinh làm người thay cho chúng ta là tội nhân mà chịu chết, gánh lấy hết tội lỗi, khiến lòng chúng ta tràn ngập mừng vui vì Ngài cất đi gánh nặng tội lỗi đè nặng trên chúng ta.
Đấng Cứu Thế, là Đức Giêsu Kitô đã từ trời Giáng Sinh do Đức Maria tại thành của Đa vít, chịu chết trên thập giá tại đồi Canvê để đền tội thay cho nhân loại, và Ngài cũng đã sống lại, lên trời, ngự bên hữu Thiên Chúa. Bởi sự sống lại và hằng sống mà Ngài có quyền lực siêu nhiên để làm Đấng Cứu Thế cho muôn dân thiên hạ.
Nhân loại đang đắm chìm trong tội lỗi, mong muốn được Ngài cứu thoát.
Trước thượng hội đồng, Phaolô tuyên bố: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được ơn cứu độ”.
Chính vì chỉ có Chúa Giêsu, Đấng nắm giữ quyền lực siêu nhiên, chiến thắng tội lỗi, sự chết và ma quỷ, sống lại từ cõi chết, được “Thiên Chúa đặt làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36) và thông ban sự sống đời đời cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài để được sống một cuộc sống tự do vui vẻ mà sự Giáng Sinh của Ngài là một Tin Mừng trọng đại.
Tin Mừng về Đấng Cứu Thế, về Đấng Kitô Giáng Sinh mà tôi loan báo hôm nay là Tin Mừng cách đây 2.000 năm thiên sứ đã phát thành tại cánh đồng Bêlem.

5. Lễ Giáng Sinh: Lễ Rạng Đông (Lc 2,15-20)
Điều lạ lùng là đối tượng được Thiên Chúa loan báo Tin Mừng vĩ đại nhất lại là các người chăn chiên. Vào thời ấy giới mục đồng bị những người đạo đức coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế giới đạo đức chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Thiên Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng.
Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ sáng và chiều đến đều có một con chiên không tỳ vết được dùng làm của lễ dâng lên Thiên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ vẹn toàn và không tỳ vết ấy, các viên chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ.
Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm mục tử coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người được ngắm xem Con Chiên của Thiên Chúa là Đấng gánh lấy tội trần gian.
Kể từ khi nguyên tổ lỗi phạm điều Chúa cấm, và di truyền tội ác cho con cháu, loài người đều bị nhiễm nọc độc tội lỗi, vô phương cứu chữa, qua trung gian của Isaia, Thiên Chúa đưa ra lời kêu gọi: “Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ, vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn Chúa nào khác nữa.” (45,22) và 1500 sau, Gioan đã xác minh lời hứa đó: “Vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Nhân loại tội lỗi của chúng ta hôm nay chỉ có một phương pháp độc nhất để thoát khỏi xiềng xích tội lỗi là đến tìm gặp Chúa Giêsu.
Các mục đồng đang sống trong cảnh tối tăm, bị người đời khinh rẻ, nay được vui mừng hớn hở “vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều đã được mắt thấy tai nghe” sau khi đã gặp được Hài Nhi trong máng cỏ, qua lời giới thiệu của các thiên sứ. Nathanaen được thoát khỏi các thành kiến cổ hủ để sống một đời sống mới tươi đẹp nhờ lời giới thiệu của người bạn Philipphê: “Hãy đến mà xem”.
Qua bốn sách Tin Mừng và suốt dòng lịch sử 20 thế kỷ qua biết bao cuộc đời đã được đổi thay nhờ đến với Chúa Giêsu.
Vậy những ai mà việc Chúa giáng trần đã tác động mạnh mẽ, những người lĩnh hội được ân huệ của Chúa ra đời không phải là những người cao sang quyền quý, tài rộng học cao hay được xã hội trọng vọng… nhưng chỉ là những người đã đến gặp gỡ Chúa Giêsu, và những người có năng lực nói được với mọi người rằng: Hãy đến xem.
Nhưng đến đâu? Có phải đến những cung điện nguy nga nổi tiếng do tay phàm nhân xây dựng? Đến một ngọn núi được dư luận coi là nơi chúc phúc? Đến Đền Thờ Giêrusalem nơi Xứ Thánh? Cũng vì những thành kiến đó, những đầu óc chuộng hình thức đó mà các nhà đạo sĩ đã lạc đường và mất ngôi sao hướng dẫn trong một thời gian khá dài. Chúa Giêsu đã phán dạy: “Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trongThần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Ga 4,23-24).
Vậy thì đến đâu? Đến chỗ có Chúa Giêsu. Dầu chỗ ấy là máng cỏ chuồng chiên, là nhà tranh nghèo hèn, điều quan hệ là có Chúa Giêsu ở đó. Một gia đình ở khu ngoại ô Bêtania vẫn nồng ấm yêu thương vì có Chúa Giêsu ở đó hơn là Đền Thờ Giêrusalem nguy nga rực rỡ mà trống rỗng, chỉ chứa đầy những giai tầng trục lợi đầy đủ áo mão oai nghi.
Đến xem gì? Xem ánh đèn rực sáng long lanh, xem ngôi sao đuôi dài lấp lánh, xem cây thông đính đầy kim tuyến… Xem cung thánh tráng lệ chăng? Xem nghi lễ huy hoàng chăng? Xem đoàn người y phục sang trọng chăng? Không đâu, các điều ấy không đem lại gì có thể cứu rỗi ta, không ban cho ta một đời sống thoả lòng dài lâu được. Chỉ có Hài Nhi Giêsu và Ngài là Đấng Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Bậc đại đức như cụ Simêon xưa, không thoả lòng vì tuổi cao vóc lớn, đạo cả đức dày, mà thỏa lòng vì mắt đã nhìn thấy Hài Nhi Giêsu. Khi được ẵm Hài Nhi Giêsu trong tay, lòng cụ sung sướng tuôn trào: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài hứa, xin để tôi tớ này được bình an ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 29,32).
Nhóm mục đồng đã rủ nhau đi xem điều thiên sứ đã loan báo, họ đã gặp được Chúa Hài Nhi và trở thành chứng nhân đầu tiên cho Tin Mừng Đấng Cứu Thế.
Lễ Giáng Sinh sẽ không đem lại gì cho bạn nếu bạn không gặp được Chúa Hài Nhi, Ngài luôn là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta nhưng nếu người không gặp được Ngài lại chính là bạn?
Gặp được Chúa và rồi loan báo Chúa, đó là việc các người chăn chiên đã làm, họ trở thành chứng nhân đầu tiên của Chúa Giêsu, còn bạn thì sao?

6. Lễ Giáng Sinh: Lễ Ban Ngày (Ga 1,1-18)
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”
Chữ “rực sáng” xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 21 lần. Theo Gioan Chúa Giêsu là ánh sáng của loài người. Hai lần Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian, lần thứ nhất sau vụ nhóm Biệt phái và Kinh sư dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình để gài bẫy Chúa (Ga 8,12). Lần thứ hai sau khi Chúa chữa lành người mù bẩm sinh (Ga 9,5). Ánh sáng ấy đến giữa loài người để họ trở thành con cái của ánh sáng: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36).
Về Chúa Giêsu là ánh sáng, tác giả Gioan đã dùng một chữ đầy ý nghĩa để mô tả. Ông bảo rằng Chúa Giêsu là ánh sáng thật. Trong tiếng Hy lạp có hai từ rất giống nhau. Chữ thứ nhất Alethes có nghĩa là thật, đối lập với chữ giả. Chữ kia là Alethinos nghĩa là có thật, hay đích thật, đối lập với không thật.
Theo tông đồ Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng đích thực, soi sáng cho loài người, trước khi Chúa Giêsu đến, đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo, một số là những tia sáng chớp loé của chân lý, một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại, một số khác nữa giống như những đốm lửa rơm dẫn loài người vào trong đêm tối rồi bỏ mặc.
Ngày nay điều này vẫn còn xảy ra, vẫn có những tia sáng mù mờ, vẫn còn những tia sáng giả tạo, và loài người vẫn bước theo chúng. Chúa Giêsu chính là ánh sáng đích thực duy nhất, là ánh sáng có thật để dẫn đường cho nhân loại.
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng thật đến cho loài người. Sự giáng thế của Chúa Giêsu giống như một vùng ánh sáng chói chang, bắt đầu buổi bình minh. Một nhà du lịch kể lại, có lần ông đến nước Ý, đứng trên ngọn đồi nhìn xuống vịnh Naples, lúc ấy trời tối đen khiến ông chẳng thấy gì cả, nhưng thình lình, một tia chớp loé lên, và mọi sự bỗng được soi dọi rõ ràng đến từng chi tiết. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài như vầng sáng chiếu dọi trong đêm tối.
1. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối nghi ngờ.
Khi Ngài chưa đến, thế gian chỉ suy đoán về Thiên Chúa. Theo người Hy lạp: “Thật khó biết về Thiên Chúa, mà nếu bạn có tìm biết Ngài, thì cũng không thể nói cho ai biết về Ngài”. Với người ngoại đạo, thì Thiên Chúa đang ở trong bóng tối dày đặc không ai thâm nhập được, hoặc Ngài đang ở trong một thứ ánh sáng chói loà không ai tới gần được. Nhưng khi Chúa Giêsu giáng thế, loài người được thấy Thiên Chúa phơi bày cách rõ ràng. Bóng tối, sương mù tan biến, những ngày đoán mò đã qua, người ta không cần phải mơ ước trong sự tối tăm ngu dốt nữa, ánh sáng đã đến.
2. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối tuyệt vọng.
Chúa Giêsu đã đến với một thế gian đang tuyệt vọng. Triết gia Seneca nói: “Loài người ý thức mình bất lực trước những điều cần thiết”. Họ đang trông chờ một bàn tay đưa xuống để nâng đỡ họ lên. “Họ ghét tội nhưng không lìa bỏ nó được”. Loài người bất lực, không thể làm cho mình và thế giới tốt hơn. Nhưng khi Chúa đến không chỉ đem kiến thức mà đem cả quyền năng nữa. Ngài đến không phải chỉ vạch ra con đường đúng cho nhân loại, mà còn giúp họ đi trên con đường đó. Chẳng những Ngài dạy bảo họ, mà còn có mặt trong mọi việc họ không làm nổi để giúp họ thực hiện. Bóng tối của bi quan và tuyệt vọng đã tan biến vĩnh viễn.
3. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối sự chết.
Thế giới thời cổ rất sợ sự chết. Loài người luôn bị trói buộc trong xiềng xích của sự sợ chết. Cách suy nghĩ tốt nhất cho rằng chết là hết, nhưng linh hồn người ta rùng mình trước ý nghĩ đó. Tệ hại nhất khi suy nghĩ chết sẽ bị quỷ thần hành tội, tra tấn nên người ta càng sợ hãi hơn. Nhưng bởi sự nhập thế, đời sống, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, sự chết chỉ là con đường dẫn loài người đến sự sống bao la hơn. Bóng tối của sự chết chỉ là con đường dẫn đến sự sống rộng lớn hơn. Bóng tối của sự chết đã tan biến. Trong truyện của Stevenson, ông mô tả một thanh niên thoát chết một cách lạ lùng trong cuộc đấu kiếm mà chàng nghĩ mình chắc chắn sẽ bị giết, lúc ra về lòng chàng vang lên bài ca “nỗi cay đắng của sự chết đã qua rồi”. Nhờ Chúa Giêsu, nỗi cay đắng của cái chết đã qua đi với mọi người.
Hơn nữa, Chúa Giêsu là ánh sáng đã soi sáng cho mọi người được sinh ra trên đời này. Thế giới thời cổ là một thế giới khép kín, hẹp hòi. Dân Do Thái ghét người ngoài bang và chủ truơng người ngoại bang được dựng nên chỉ để làm nhiên liệu cho lửa hoả ngục. Đúng, một tiên tri cô đơn đã thấy định mệnh của dân Israel sẽ là ánh sáng cho dân ngoại (Is 42,6.49,6) nhưng đó là định mệnh mà dân Israel đã dứt khoát khước từ. Thế giới Hy lạp chẳng bao giờ mơ ước tri thức được dành cho tất cả mọi người. Thế giới La mã khinh dể các dân sắc tộc, xem họ như những loài hạ đẳng, không có pháp luật. Nhưng Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến để làm ánh sáng cho mọi người. Chỉ một mình Thiên Chúa là Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu mới có tấm lòng lớn đã để chứa toàn thể thế gian.

7. Ngôi Lời là ánh sáng thật
Suy Niệm
Máng cỏ luôn làm cho chúng ta rúng động, vì đứng trước máng cỏ là đối diện với một Tình Yêu, một Tình Yêu mở ra bao la bát ngát. Cha đã mở ra bằng cách sai Con xuống thế làm người. Con đã mở ra bằng cách vâng phục ý Cha. Thánh Thần đã mở ra bằng cách tác động nơi lòng Đức Trinh Nữ.
Máng cỏ giúp ta gặp được Tình Yêu của Ba Ngôi, Tình Yêu không lùi bước trước sự khép kín của nhân loại.
Đến Bêlem, chúng ta bắt gặp một Tình Yêu khiêm tốn. Thiên Chúa đã cúi xuống để tặng trao cho con người. Con Thiên Chúa làm người sinh nơi hang súc vật, không một chút hào quang: Ngài sinh ra trong đêm tối; không một chút quyền lực: Ngài là trẻ thơ khóc oe oe. Đấng siêu việt nay chịu giới hạn bởi thời gian. Đấng Tuyệt Đối lại mang một thân xác hữu hạn.
Tình Yêu khiêm tốn không làm chúng ta bị choáng ngợp. không ban bố một cách cha chú, nhưng biết gõ cửa và chờ đợi.
Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu có (2Cr 8,9).
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (Ga 1,9). Tiếc thay nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, đồng lõa hơn (Ga 3,19). Bóng tối ở ngoài tôi và bóng tối ở trong tôi.
Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,11).
Đức Giêsu còn phải nhập thể cho đến tận thế.
Truyền giáo là làm cho Ngài được sinh ra ở đây, hôm nay, trong dòng văn hoá truyền thống của dân tộc, trong những biến chuyển của đất nước thời mở cửa, trong thế giới đã bước qua năm 2000.
Sống mầu nhiệm Nhập Thể là trở nên một Maria khác, đón nhận Đức Giêsu vào đời mình, cưu mang Ngài, và sinh Ngài cho thế giới.
Cuộc sinh hạ nào cũng bắt trắc và đau đớn. Xin thắp lên một ngọn nến từ Ánh Sáng của Ngôi Lời. Xin gom lại trăm triệu ngọn nến để đẩy lui bóng tối trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôi Lời đã làm người và đã sống ở đời. Mầu nhiệm Nhập Thể có làm bạn yêu đời và yêu phận người của bạn hơn không?
Làm sao để Chúa Giêsu được sinh ra trong môi trường bạn đang sống?
Cầu Nguyện
Giữa giá rét của mùa đông, xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong và bấp bênh của phận người, xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi, xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ, xin cho con cảm được sự bình an của Chúa, ngay giữa những âu lo hàng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con với bao điều không như ý.
Và cuối cùng, xin cho con dám sống như Chúa vì Chúa đã dám sống như con.

8. Bình an từ trời
Kể từ ngày nguyên tổ chúng ta nổi loạn chống lại Thiên Chúa, bóng tối u buồn của tuyệt vọng ngày càng lan tràn trên mặt đất. Tuy nhiên, giữa cảnh bi thảm ấy, các tiên tri đã thoáng thấy niềm hy vọng về một Đấng Cứu Tinh sẽ xuất hiện, chỉ có Ngài mới có thể tái lập được vinh quang Thiên Chúa và đem lại hoà bình cho con người trên mặt đất này. Và giờ đây Ngài đã đến, hoà bình từ trời đã đến với chúng ta, Con Thiên Chúa đã đi vào thời gian và lịch sử nhân loại tội lỗi này. Ngài đã giáng sinh để đem lại cho nhân loại ơn tái sinh trong ơn thánh.
Chúng ta hãy đến gần máng cỏ với lòng hân hoan yêu mến. Hãy bước theo các mục đồng, các nhà đạo sĩ, và tất cả những ai có tâm hồn khiêm tốn nghèo khó. Đứng bên máng cỏ, chúng ta hãy nhận ra bài học mà Hài Nhi Giêsu muốn dạy chúng ta.
Con Thiên Chúa dấn thân sống kiếp lầm than để chỉ cho chúng ta con đường giải thoát. Được dựng nên trong sự giàu sang của kẻ làm con Thiên Chúa, lẽ ra con người được giàu có mọi mặt, nhưng khi đánh mất vinh quang Thiên Chúa, họ trở nên nghèo hèn, khốn khổ, và rồi từ đó họ trở thành đam mê, ích kỷ, tàn bạo, bóc lột nhau dưới mọi hình thức. Khi mang lấy thân phận làm người, Con Thiên Chúa cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người không hệ tại giàu sang, quyền thế. Ngài cũng cho người nghèo khổ hiểu rằng họ là những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Họ có thể giàu nếu họ muốn, bởi vì Thiên Chúa là của họ, và họ có thể gặp Ngài ngay trong chính cảnh nghèo của họ. Vì chính Ngài đã đến chia sẻ sự nghèo nàn lầm than của chúng ta.
“Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, nhưng người nhà đã không đón nhận Ngài”. Còn những ai khiêm tốn đón nhận Ngài, thì Ngài ban cho họ có quyền làm con Thiên Chúa và làm anh em đích thực với nhau.
Chúa Kitô đã đến để giải thoát chúng ta, không phải bằng vũ lực, nhưng bằng tình thương. Còn gì an vui, hạnh phúc cho bằng tình yêu của một Thiên Chúa. Ngài yêu thương chúng ta và làm cho chúng ta yêu thương nhau. Tình yêu của Ngài thật hấp dẫn. Ai muốn hiểu tình yêu của Ngài hãy đến gần máng cỏ.

9. Niềm vui của thuở ban đầu.
Một Hài Nhi đã sinh ra cho ta, một Người Con được ban tặng cho ta. Vương quyền đặt trên vai Ngài. Người ta gọi Ngài là Sứ Giả Thiên Chúa.
Phụng vụ Thánh lễ hôm nay muốn kéo chú ý của chúng ta về một Hài Nhi, về một Người Con mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại.
Trong công trình sáng tạo, sau khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, cặp nam nữ đầu tiên của lịch sử nhân loại mang thiên chức làm con Thiên Chúa với sứ mệnh thống trị mọi loài. Nhưng bất hạnh thay, con người vì bất phục đã đánh mất vinh quang làm con và trở thành nô lệ. Và kể từ khi tội nhập vào thế gian, không những con người, mà cả vạn vật đều mong chờ ơn giải thoát qua trung gian một Người Con mà hôm nay Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.
“Giêrusalem hỡi! Hãy vui mừng. Sion hỡi! Hãy vui lên, vì này sứ giả của Thiên Chúa đã đến đem bình an cho chúng ta”.
Hài Nhi mà Đức Maria sinh hạ tại Bêlem được vấn tã và đặt nằm trong máng cỏ đó chính là sứ giả hoà bình. Hình dáng bên ngoài có vẻ yếu hèn, nhưng Isaia đã thoáng thấy đó là Vua, là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. Ngài là dấu hiệu cho biết Thiên Chúa đã đến cứu dân Người. Nói khác đi, Ngài là quyền năng của Thiên Chúa cứu độ đem niềm vui đến cho muôn loài.
Hài Nhi ấy chính là Đấng được Thiên Chúa đặt làm thừa kế vạn vật, bởi vì ngay từ khởi nguyên, Ngài vốn đã là Lời Thiên Chúa, hằng ở cùng Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Toàn thể công trình sáng tạo đều được tác thành nhờ Ngài và trong Ngài. Ngài là ánh sáng huy hoàng, là hình ảnh bản thể của Cha. Ngài là ánh sáng sự sống chiếu soi nhân loại chìm trong bóng tối tội lỗi. “Ngài đã thành xác phàm ở giữa chúng tôi. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ân sủng và chân lý”. Nếu vinh quang của Hài Nhi sinh ra tại Bêlem là vinh quang của Con Một Thiên Chúa, thì những ai đón nhận và tin vào Ngài, họ cũng được vinh dự làm con Thiên Chúa. Suy nghĩ về điều này, thánh Gioan đã viết trong thư của ngài: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, và thực sự là thế”. Chính Chúa Giêsu cũng đã tuyên bố: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã thí ban Người Con Một, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Phải có con mắt của thánh Gioan, phải có con mắt của Chúa Giêsu, người ta mới nhìn thấy giá trị tuyệt hảo của món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại. Món quà đó trọng hơn sự sống của mọi sinh linh, trọng hơn cả công trình sáng tạo, vì là chính Con Thiên Chúa, Trưởng Tử của mọi loài thọ sinh và là Vua Vũ Trụ.
Con người tự mình chỉ có một giá trị rất tương đối, nhưng khi được liên kết với Đức Kitô, con người bỗng nhiên trở thành giá trị tuyệt đối.
“Toàn thể trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hãy hát lên bài ca mới mừng Chúa, vì Ngài đã làm những việc kỳ diệu. Alleluia, Alleluia”. Ngày thánh đã dọi chiếu trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy đến thờ lạy Chúa, vì hôm nay, ánh sáng chan hoà đã toả chiếu trên địa cầu, đó là ánh sáng của Con Một Thiên Chúa, để tất cả chúng ta được nhìn thấy và trở nên con Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã ban Con của Người cho chúng ta, để từ nay chúng ta có thể trực tiếp đối thoại với Người. Nhờ Chúa Kitô, từ nay chúng ta không còn sống trong sợ hãi nữa, nhưng sống như những người con và có quyền gọi Thiên Chúa là Cha. Chúa Kitô là ân sủng cao quý đã được ban cho chúng ta, dạy chúng ta biết từ bỏ tội lỗi và những ham muốn trần tục để sống đạo hạnh trong khi chờ đến ngày Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang.
Chúa Kitô đã được ban cho chúng ta để nhờ cuộc sống và giáo huấn của Ngài, chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng với địa vị con cái Thiên Chúa. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải dũ bỏ cuộc sống ích kỷ và tham gia vào mầu nhiệm Thập giá, luôn tìm đẹp lòng Thiên Chúa, để có thể thưa với Chúa như Chúa Kitô trước khi từ giã cõi đời: “Lạy Cha, con đã hoàn tất công việc Cha trao phó, con đã làm vinh danh Cha trên mặt đất, giờ đây, xin Cha tôn vinh con nơi Cha”.
Phụng vụ Giáng sinh giúp củng cố tinh thần nghĩa tử Thiên Chúa trong chúng ta, thúc đẩy chúng ta ngước nhìn lên ánh sáng cứu độ đã chiếu rạng và mỗi ngày trở nên giống Người Con mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Người Con ấy giờ đây muốn kết hợp mật thiết với chúng ta hơn trong Thánh Thể. Chúng ta hãy tiếp nhận Người với tất cả lòng yêu mến, biết ơn, nhờ đó, mỗi ngày chúng ta trở nên đẹp lòng Thiên Chúa hơn.

10. Chúa đến trong thinh lặng của đêm khuya (Lc 2,1-14)
Mỗi năm chúng ta lại long trọng mừng Lễ Giáng Sinh. Cho dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chúng ta cũng cố gắng làm cho lễ này có một cái gì đặc biệt: trong trang trí, trong Phụng vụ. Thánh nhạc tại nhà thờ cũng như trong mỗi gia đình. Những cái đó cũng tốt, vì là dịp để chúng ta bộc lộ niềm vui bên trong, niềm vui mà Chúa Giáng Sinh đem đến cho chúng ta.
Nhưng chúng ta đừng để cho những hình thức bên ngoài, những ồn ào nhộn nhịp đó chiếm quá nhiều chỗ trong thời giờ, tâm trí, sức lực của chúng ta, lấn át và làm chúng ta quên đi sâu vào mầu nhiệm của lễ hôm nay: Trước khi trở thành lễ của vui chơi ồn ào, nhộn nhịp, Giáng Sinh là lễ của thinh lặng, thinh lặng của đêm khuya khi Con Thiên Chúa sinh xuống cõi trần. Chúng ta phải thinh lặng suy niệm và cầu nguyện thì mới đi vào sâu được mầu nhiệm và được ơn ích lâu bền, ơn ích sẽ còn lại cả sau khi tiếng hát đã ngưng, đèn nến đã tắt và hang đá máng cỏ đã dẹp đi. Vậy chúng ta hãy thinh lặng nhìn vào hang đá nghèo nàn, nhìn vào trẻ thơ yếu đuối nằm trong máng cỏ mà nhìn nhận đó chính là vị Cứu Tinh Thiên Chúa đã hứa, là chính Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa sinh xuống giữa loài người để cứu loài người khỏi tội lỗi và đưa về với Thiên Chúa.
Phải, Thiên Chúa đó, Đấng toàn năng sáng tạo muôn loài đó, Đấng làm chủ vận mạng chúng ta đó, Thiên Chúa không còn xa cách chúng ta, không còn chỉ ngó xuống từ trời cao để nhìn xem cuộc đời con người chúng ta đi tới đâu. Trái lại, Thiên Chúa đã làm người, đã nhập cuộc với chúng ta, đã mang lấy thân phận nhân loại, tất cả thân phận đó, kể cả đau khổ, đói khát, mệt nhọc, bị ngược đãi, ghét bỏ và chết một cách ô nhục. Đó chính là mầu nhiệm nhập thể. Chúng ta quá quen thuộc nên nhiều khi chỉ phớt qua, không còn thấy cái nghịch lý, ngược đời, lạ lùng trong đó: Thiên Chúa, Đấng vĩnh cửu, vô thuỷ vô chung, nay lại trở thành một con người hữu hạn mà kết thúc là cái chết. Thiên Chúa, Đấng sống trong hạnh phúc bất diệt, nay lại mang thân phận loài người khổ đau. Thiên Chúa, Đấng uy quyền khôn sánh, nay trở nên bé nhỏ, yếu đuối và lệ thuộc vào các biến động của lịch sử cũng như mọi người khác.
Trước mầu nhiệm lớn lao này, chúng ta phải bỡ ngỡ thán phục và tự hỏi: Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy?
Câu trả lời chỉ có một: Đó là vì Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta đang đau khổ vì tội lỗi..ng chúng ta như những người lầm lũi đi trong tăm tối, nay được một ánh sáng lớn chiếu soi… (Bđ 1). Vâng, đó chính là tình cảnh của loài người: Vì không vâng phục Thiên Chúa, chúng ta đã sa vào tội lỗi, làm nô lệ cho Satan, đánh mất hạnh phúc. Vì vậy, nhân loại khác nào đi trong tối tăm, khác nào ngồi lầm than trong bóng tối. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn yêu thương muốn cứu vớt, và nhiều lần Ngài đã dùng miệng Ngôn sứ mà nói, nhưng sau cùng Ngài dùng chính Ngôi Lời Nhập Thể để nói lên điều đó: “Ta thương nhân loại”. Như vậy, Thiên Chúa đã nói hết rồi, đã nói lời sau cùng tha thiết nhất, mạnh mẽ nhất, khi Con Một đến trần gian làm người. Do đó, Ngài trình diện cuộc trao đổi kỳ diệu là: Con Thiên Chúa làm người, cho chúng ta, là người, được trở nên con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm người để cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa đầy đủ của kiếp sống loài người: đó là khi con người sống theo đúng vận mạng của mình và tìm được hạnh phúc thật.
Đó là Tin Mừng Lễ Giáng Sinh, Tin Mừng Tình Thương mà đêm nay, trong những ngày này, chúng ta phải tiếp tục suy niệm trong thinh lặng. Đứng trước tình thương đó, chúng ta phải có thái độ nào?
Trước hết, niềm hân hoan và một lòng biết ơn mãnh liệt vì đã được biết và hưởng nhờ mầu nhiệm Nhập Thể là nguyên do chính yếu của niềm vui hôm nay; những cái khác như vẻ rực rỡ nhộn nhịp của ngày lễ… chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải biết ơn và để cho tình thương của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta, chiếm hữu chúng ta, đừng từ chối tình thương ấy; trái lại, đáp ứng cách đơn sơ thật. Khi đó bình an của Thiên Chúa sẽ đến với chúng ta: Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Tiếp đến, chúng ta phải học đòi bắt chước tình thương đó. Như Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương mọi người, chia sẻ tình yêu với mọi người, tha thiết đến hạnh phúc của mọi người. Chúng ta mừng lễ Giáng Sinh mà còn giữ lòng hận thù, giữ lòng ích kỷ, thì thật chưa hiểu gì về Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Trái lại, nếu chúng ta sống yêu thương, liên đới, quên mình vì người khác thì đó là chúng ta thấm nhiễm tình thương của Thiên Chúa, và như vậy chúng ta cũng làm chứng cho người khác, nhất là những người chưa biết Thiên Chúa, chưa tin rằng Tình Thương của Chúa đã đến trần gian và có sức đổi mới bộ mặt thế giới.
Trong Thánh Lễ hôm nay, Con Thiên Chúa Nhập Thể hiện diện với chúng ta cách đặc biệt trong Lời của Ngài. Ngài còn hiện diện trong Bánh Thánh để tự hiến cho chúng ta, để biến đổi chúng ta ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa và được tràn ngập niềm vui của Ngài.

11. Ánh sáng đã xuất hiện (Lc 2,15-20)
Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi người bạn của mình:
Đố bạn, bạn có biết lễ gì trên thế giới mà hầu hết mọi người đều biết và vui mừng không? Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ Giáng Sinh của đạo Thiên Chúa mình đấy”.
Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào thầm kín của mọi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ được nhiều người biết đến, được nhiều người vui mừng chờ đón như một lễ hội chung của con người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với những người Kitô hữu chúng ta, đó là mấy người trong chúng ta đã hiểu và sống ý nghĩa của mầu nhiệm mà lễ Giáng Sinh muốn bày tỏ.
Lời nguyện, bài đọc 1 và 2 của Lễ Rạng Đông hôm nay đều ca ngợi Đức Kitô là ánh sáng, là vinh quang của Thiên Chúa. Ánh sáng và vinh quang đó đến với con người không có một mục đích nào khác hơn là để dẫn con người ra khỏi bóng tối của sự chết, dẫn tới nguồn ánh sáng chân thật và nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Nhưng tại sao ánh sáng và vinh quang ấy không được tỏ cho tất cả mọi người, mọi thành phần trong xã hội, mà –như trong Tin Mừng hôm nay- Chúa chỉ tỏ cho những người đơn sơ, bé mọn, nghèo hèn là các mục đồng. Chỉ có những mục đồng nghèo hèn này mới nhận ra Chúa trong thân phận nghèo hèn giống như họ. Còn những người khác, họ đã chờ đón Chúa, nhưng khi Ngài đến thì họ lại không nhận ra và đón tiếp. Thế nhưng, nếu có ai nhân danh chính họ mà đến trong vinh quang trần thế, thì họ sẽ đón tiếp nồng nhiệt (x.Dcr 5,43-44). Con người luôn có một khuyết điểm, họ thường áp đặt lên Thiên Chúa những điều mà họ tưởng là của Thiên Chúa, nhưng thật ra lại chính là của họ. Trong khi luôn mải mê chạy theo những vinh hoa, phú quý thì người ta không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế xuất hiện một cách quá tầm thường giữa những người tầm thường. Người ta quan niệm Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, cao cả, vinh quang và uy quyền –giống theo kiểu loài người- Cho nên, người ta không thể nào tin nơi con trẻ sinh ra trong chuồng bò kia, con của bác thợ mộc và bà Maria trong xóm nghèo Nagiaret lại có thể là chính Thiên Chúa làm người được. Người ta quên rằng vinh quang trần thế thường làm cho người ta chia rẽ, tranh giành, chém giết nhau. Còn vinh quang và uy quyền của Thiên Chúa không phải để huỷ diệt, để phân rẽ, mà là ánh sáng ban sự sống, là sức mạnh của tình yêu để cải hoá chúng ta.
Thiên Chúa đã làm người. Sự sống và tình thương, ánh sáng và vinh quang của vị Thiên Chúa làm người đó vẫn được tiếp tục ban cho chúng ta. Nhưng chỉ những ai sống khiêm tốn, nghèo khó, sống yêu thương mới có thể nhận biết và đón nhận Ngài.
Đức Giáo Hoàng Gioan XIII kể lại rằng: Một trong những Lễ Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Giáo Hoàng của ngài, đó là Lễ Giáng Sinh đầu tiên khi ngài mới được bầu làm Giáo Hoàng. Theo một thông lệ đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, vị Giáo Hoàng nào cũng phải tự giam giữa những bức tường của điện Vatican, không được đi lại tự do, đó là một điều vô lý. Ngài cứ suy nghĩ mãi và cuối cùng ra một quyết định khiến các chức sắc thân cận ngài phải sửng sốt: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh, tôi muốn đi thăm các trẻ đau yếu tại bệnh viện Chúa Giêsu Hài Đồng –Lễ Giáng Sinh là lễ của nhi đồng thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không được phép đi thăm các em nhi đồng?”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã phá vỡ thông lệ cố hữu để đến gặp gỡ một cách thân mật với các em nhi đồng. Vừa thấy bóng dáng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gioan như một người bạn thân. Ngài chuyện trò thân mật với các em, ngài ngồi bên cạnh một em bé vừa mới bị thương. Đó là Lễ Giáng Sinh đẹp nhất trong đời của Đức Giáo Hoàng Gioan XIII và cũng là ngày vui nhất đối với các em nhi đồng.
Chúng ta có thể sẽ lên án những người đi trước chúng ta là đã không nhận ra và không tiếp nhận Chúa. Nhưng, mãi mãi chúng ta sẽ chẳng bao giờ được hưởng ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể và thông truyền cho người khác như các mục đồng xưa kia và ngày lễ hôm nay sẽ trải qua vô ích, sẽ chỉ là những hình thức trống rỗng bên ngoài, nếu chúng ta chưa mặc lấy cho mình một tâm tình khiêm tốn và yêu thương. Bao lâu chúng ta còn lo mải mê chạy theo những vinh hoa phú quý, những lợi lộc vật chất, những thú vui trần tục, mà quên đi những giá trị tinh thần, bao lâu chúng ta vẫn còn sống một cách ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình hoặc khinh miệt những người thấp kém, nhỏ bé hơn mình, mà không kính trọng, sẵn sàng yêu thương, giúp đỡ san sẻ những gì mình có, thì những điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chưa nhận ra và chưa đón nhận “Đấng Thiên Chúa làm người”. Vậy hôm nay chúng ta hãy chứng tỏ chúng ta đã gặp và sẵn sàng tiếp nhận Đấng Cứu Thế bằng những hành động cụ thể; tỏ lòng tôn trọng đối với những người bé nhỏ, nghèo hèn thường bị khinh thường, coi rẻ; tỏ tình yêu thương với những người chung quanh chúng ta bằng những lời nói và việc làm. Nhưng không phải chỉ hôm nay, mà mãi mãi như vậy.

12. Nhường chỗ cho Chúa (Ga 1,1-18)
Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân. Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Cêsarê Augustô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giuse và Mẹ Maria vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh hang lừa máng cỏ. Ban giám đốc và các phụ huynh rất lo âu cho các trẻ, sợ chúng diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn tiến khá lắm. Qua màn hai, người ta thấy Giuse và Maria gõ cửa quán trọ. Nhìn Giuse thì nghèo nàn, Maria thì bụng mang dạ chửa, chủ quán đưa tay xua đuổi lia lịa, miệng thao thao: Không có chỗ, không có chỗ! Hai vợ chồng năn nỉ, với nét mặt âu sầu. Chủ quán hơi lưỡng lự, những rồi cũng đọc hàng chữ ghi trên quán: Không còn chỗ. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra một lần nữa. Và lần này hai ông bà có vẻ tha thiết nài xin. Chủ quán trẻ cũng vẫn đưa tay từ chối. Nhưng vừa bắt đầu mấy tiếng: “Tôi đã nói rằng hết… thì em không tiếp tục nói thêm được nữa. Tay em giựt xuống tấm bảng: Không còn chỗ. Và nghẹn ngào thổn thức trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà!”.
Trước cảnh bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ ra bực bội, lúng túng và cho ngưng diễn. Nhưng toàn thể khán giả đều cảm xúc ra mặt, vì cái vẻ hồn nhiên trong trắng của em bé tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh.
Tất cả mọi người chúng ta, cách nầy hay cách khác, đang đóng vai người chủ quán. Chúng ta dang rộng tay đón tiếp kẻ này, vung tay xua đuổi kẻ khác. Chúng ta hãy tự vấn lương tam để hỏi mình: Tôi có phải là người chủ quán ngày xưa, đã xua đuổi Thánh Giuse và Mẹ Maria trong đêm tịch mịch cô đơn không? Hay tôi là đứa bé tàn tật đóng vai chủ quán trong vở kịch hôm ấy? “Con xin nhường phòng con cho hai ông bà”. Có lẽ chúng ta cũng treo một tấm bảng: Không rảnh, bận việc, tức là bằng những hành động thiếu tế nhị, những cử chỉ thiếu mềm mại, những giọng nói thiếu dịu dàng, làm cho người khác hiểu rằng: Ta không muốn bị quấy rầy, ta bận rộn quá hay mệt nhọc quá. Nếu chúng ta là những người chỉ ân cần đến những kẻ giàu có, những vị chức quyền, thì ta coi chừng, có khi chúng ta đã quay lưng cho Thánh Giuse và Mẹ Maria, và vô hình chung, chúng ta cũng trở lưng cho cả Đức Giêsu. Vị Cứu Chúa đang nương náu trong cung lòng Mẹ. Vâng, ở đời có những hạng người giả điếc làm ngơ, không lay chuyển trước những van xin của người khác. Nhưng có kẻ lại tự nghĩ rằng mình luôn dành một chỗ cho người khác. Ước gì khi nghe đọc lại Lời Chúa: “Bà Maria bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, mỗi người chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi cõi lòng chúng ta, khỏi gia đình chúng ta.
Hơn nữa, Lễ Giáng Sinh là lễ đoàn tụ gia đình. Mỗi người cũng sẽ nói với cha mẹ: Thưa ba, thưa má, đây lòng con, ba má có một chỗ trong đó. Thưa anh, thưa chị, thưa chú bác cô dì, nếu có lần nào cháu đã ơ hờ lạnh nhạt, thì giờ đây, xin nhớ rằng, vẫn còn có chỗ nào trong lòng cháu cho quý vị. Ngoài ra, Lễ Giáng Sinh là lễ tha thứ và hoà giải. Chúng ta hãy nói với những người thù ghét chúng ta, những người không thông cảm với chúng ta rằng: “Xin hãy tha thứ những lầm lỗi của tôi, vì lòng tôi vẫn còn chỗ dành cho các bạn”.
Người ta kể rằng: Mẹ Têrêsa thành Calcutta, đã giúp trên nửa triệu người nghèo khổ đói rách, giúp họ hồi phục nhân phẩm, vì bà đã luôn luôn dành trong lòng mình một chỗ riêng cho họ.
Lễ Giáng Sinh còn là một lễ san sẻ. Vì thế mà các nước đã hấp thụ nền văn minh Kitô giáo có truyền thống chúc mừng nhau qua những thiệp Giáng Sinh, gởi cho nhau những món quà mang đầy ý nghĩa, tổ chức những buổi liên hoan, chia sẻ tấm bánh, ly rượu… Thánh Gioan đã nói: “Ngôi Lời –Con Thiên Chúa đã đến trong nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài”. Còn đối với những ai tiếp nhận Ngài thì được trở thành Con Thiên Chúa và sẽ nhận thấy vinh quang của Thiên Chúa.
Những người trong thành Bêlem năm xưa vì tham tiền tài, của cải, danh vọng; họ đã thiếu vắng tình thương, không nhận ra nỗi thống khổ của những người khách lỡ đường, đã xua đuổi anh chị em, và đó cũng chính là xua đuổi chính Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ.
Thế nên, trong vui ngày Chúa Giáng Sinh, khi đứng trước máng cỏ, khi chiêm ngưỡng Hài Nhi mới sinh, với ánh sáng của niềm tin vào Lời Chúa, chúng ta cần khám phá ra tình yêu thương bao la của Thiên Chúa đối với con người. Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa vĩ đại đến nơi cô thế, trở nên bé nhỏ để chúng ta có thể đổi mới cuộc đời, trở nên chứng nhân ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho tha nhân, để khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa và cho niềm vui của chúng ta hôm nay nên trọn vẹn.

13. Suy niệm của McCarthy – Tin Vui Giáng Sinh
Suy Niệm 1. BÌNH AN DƯỚI THẾ
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với Lễ Giáng Sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
Vào ngày Lễ Vọng Giáng Sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lấy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày Lễ Giáng Sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh Vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm Lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của Lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do Thái chỉ sự bình an –shalom– chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hoà. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá xấu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khách. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày Lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong bình an, và người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất ngần gũi vớ chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt qua tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.
Suy Niệm 2. VƯƠNG QUỐC CỦA THIÊN CHÚA
Thông thường trong cuộc sống, ngày mà chúng ta mong đợi nhất, lại hay bị chuyển thành ngày thất vọng nhất. Điều này cúng có thể xảy ra đối với ngày Lễ Giáng Sinh nữa.
Đôi khi, chúng ta có thể có những ước mong không thực tế về ngày Lễ Giáng Sinh. Dường như thể chúng ta mong đợi một điều gì đó kỳ lạ xảy ra, một điều gì đó sẽ mãi mãi thay đổi cuộc sống nhàm chán của chúng ta. Nhờ vào sự xây dựng kéo dài mãi mãi, khi gần đến ngày trọng đại, niềm hy vọng của chúng ta bay lên cao vút. Tuy nhiên, bản chất của những niềm hy vọng này thường bị thị trường ức chế – một sự tràn ngập những đồ ăn thức uống, tràn ngập những chương trình Tivi để chúng ta giải trí.
Nhưng khi bắt đầu đến Lễ Giáng Sinh, thì điều đầu tiên mà chúng ta ghi nhận là gì? Ngày đó chỉ giống như bất cứ mọi ngày nào khác. Không ai nhìn thấy các thiên thần, không ai nghe được những giọng hát từ trên trời vang vọng xuống. Tất cả mọi sự đều diễn tiến y như bình thường. Và khi mặt trời của ngày này lặn xuống, thì nhiều người lại cảm thấy trống rỗng và trầm cảm, và họ nói một cách cay đắng “Lễ Giáng Sinh chỉ dành cho trẻ con mà thôi”.
Những ngày này có thể khác hẳn. Mặc dù không hề có dấu hiệu này trên bầu trời, nhưng ít nhất đối với những người biết cách nhìn, thì vẫn có những dấu hiệu về ngày này. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, trên thế giới, có nhiều ánh sáng hơn, ấm áp hơn, hy vọng hơn. Người ta trở nên thánh thiện với nhau hơn trong ngày lễ này. Không ai đi qua mặt nhau, mà không chào nhau. Trong ngày này, chúng ta cảm thấy mình là một thành phần của gia đình nhân loại, hoặc ít nhất, chúng ta mong muốn được trở nên một phần của gia đình đó. Nếu phải đi một mình đơn độc trong buổi sáng hôm nay, thì dường như đó là một điều kỳ lạ, thậm chí còn sai trái nữa.
Thật vậy, trong ngày Lễ Giáng Sinh, Nước Thiên Chúa trở nên rõ rệt. Trong ngày này, nếu biết cởi mở tâm hồn của mình được sự hiện diện thần thánh đụng chạm vào. Hugh Leonard, một nhà viết kịch người Ailen, đã nói “Có thể tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết được nơi Người sinh sống. Người ở chung quanh tôi trong suốt cả năm, nhưng trong ngày Lễ Giáng Sinh, Người tiến tới và thọc sâu vào cạnh sườn của tôi”. Đó không chỉ là một cảm giác.
Trong này Lễ Giáng Sinh, chúng ta có được một cảm giác về sự gần gũi, ấm áp, và về lòng từ ái của Thiên Chúa. Chúng ta cảm nhận được rằng mình không cô độc, rằng cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa, rằng có một ai đó đang săn sóc và hướng dẫn đường lối cho chúng ta. Đó là ý nghĩa cốt lõi của ngày Lễ Giáng Sinh. Chúng ta không nên e ngại trong việc sưởi mình nhờ hơi ấm này, giống như chúng ta vẫn vui mừng tắm mình trong ánh nắng ấm áp vào một ngày lạnh lẽo.
Chúng ta cũng có được một cảm giác về sự thành tâm thiện chí của bản thân mình và của những người khác. Chúng ta cảm nhận được rằng cuộc sống thật tươi đẹp và có một ý nghĩa. Chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quý của Thiên Chúa. Chúng ta có một nhân phẩm thần thánh và một vận mệnh vinh quang. Một sự bình an nội tâm xuất phát từ mối quan hệ với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.
Nếu ngày Lễ Giáng Sinh để lại cho chúng ta sự thất vọng, thì có nghĩa là chúng ta đã gắn bó niềm hy vọng của mình vào những điều sai trái. Kẻ nào gắn bó niềm hy vọng của mình vào những thứ do dân buôn bán đưa ra, thì sẽ luôn luôn bị thất vọng, không phải vì họ hứa hẹn quá ít, mà là vì họ hứa hẹn quá nhiều, mà hứa hẹn về những điều sai trái. Tâm hồn chúng ta khát khao nếm được “niềm vui” mà các thiên sứ đã loan báo cho các mục đồng. Đó là niềm hy vọng của ngày Lễ Giáng Sinh.
Chúng ta phải cầu xin điều gì đây? Chỉ cần một điều duy nhất: hay cởi mở tâm hồn mình ra để đón nhận niềm hy vọng này. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã được sinh ra cho chúng ta; Người là Đức Kitô, là Đức Chúa.
Suy Niệm 3. ÁNH SÁNG CỦA ĐỨC GIÊSU
Chúng ta đang cử hành vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ Lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi ”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, Mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư? Có ai đến thăm tôi đâu!”
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Nhưng xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi Mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của Mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta –buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v.v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Ánh sáng đó vẫn chiếu toả ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Ánh sáng đó chiếu toả ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng ngời của Người vẫn biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu toả trên nhân loại. Ánh sáng mà soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh này.
Ánh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Ánh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu toả chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.
Suy Niệm 4. ÂN SỦNG CỦA THIÊN CHÚA
Bối cảnh: một thành phố tồi tàn trong một thế giới thứ ba. Mặc dù có ánh sáng mặt trời, bóng tối vẫn bao trùm lên những dãy lán trại lụp xụp. Nhưng Lễ Giáng Sinh đang đến, mọi sự sẽ khác hẳn đi, ít nhất là trong một chốc lát.
Tuy nhiên, vào ngày trước Lễ Giáng Sinh, có một sự kiện xảy ra càng đào sâu thêm cảnh tối tăm của những túp lều tồi tàn. Một người cha của ba đứa con nhỏ đã phạm tội giết người. Không ai biết được đầy đủ câu chuyện phía sau hành động của anh ta. Nhưng anh ta để cho người khác nhìn thấy sự tối tăm nhìn thấy sự tối tăm đã xâm nhập vào tâm hồn anh. Một thời gian ngắn trước khi qua đời, anh ta nói với bạn bè rằng anh rất khổ tâm, vì không có món quà tặng nào cho con cái của anh trong ngày Giáng Sinh.
Tặng quà là một phần trong việc cử hành Lễ Giáng Sinh. Charles Dickens kết luận: “Lễ Giáng Sinh là thời điểm trong tấm lịch dài của cả năm trong đó người ta cởi mở ra với nhau cánh cửa tâm hồn vốn đã khép kín”.
Có thể nói rằng Giáng Sinh là mùa của việc trao tặng quà, mặc dù quà tặng của chúng ta có thể tầm thường và chỉ theo thủ tục. Một món quà tự nó là một cách thế để nói lên với người được tặng quà rằng chúng ta quý mến họ. Món quà tặng ít liên quan đến lẽ phải, mà liên quan đến tình yêu.
Việc Thiên Chúa ban ân sủng mang chúng ta trở lại với bản thân ngày lễ. Ngày Lễ Giáng Sinh được tạo ra bởi một ân sủng. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước. “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng Con duy nhất của Người, hầu cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người đều không bị hư đi, nhưng có được sự sống đời đời”.
Trong khi trao tặng quà cho nhau, chúng ta hãy đảm bảo rằng chúng ta cũng trao tặng cho nhau chính bản thân mình nữa. Lễ Giáng Sinh không chỉ là dịp để trao tặng quà, nhưng ngày lễ này nói nhiều về sự hiện diện –nghĩa là trao tặng chính bản thân mình. Và phẩm chất sự hiện diện của chúng ta là tất cả mọi sự.
Có sự hiện diện mang tính cách xa vắng, nhạt nhẽo, lãnh đạm –giống như mặt trời vào một ngày mùa đông, đã mọc lên và lặn đi, mà thậm chí không hề làm tan giá cho mặt đất. Và có sự hiện diện gần gũi, ấm áp, quả quyết –giống như mặt trời vào một ngày mùa hè, mang lại sự sống cho tất cả mọi loài.
Việc trao tặng quà quan trọng, nhưng việc tiếp nhận qua cũng quan trọng tương tự như vậy. Lễ Giáng Sinh cũng là một thời gian để tiếp nhận –tiếp nhận những món quà mà người khác trao tặng, và đặc biệt là những món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho chúng ta. Thiên Chúa không trao tặng cho chúng ta món quà là một đồ vật, mà là một con người. Đức Giêsu chính là một quà tặng đối với những người nghèo khổ và thấp kém, để đảm bảo với họ rằng tình yêu mến không bỏ qua họ.
Khi trao tặng quà, chúng ta gói món quà đó trong một lớp bọc có trang trí, mặc dù chúng ta biết rằng giấy gói không gia tăng gì thêm cho món quà, và sẽ bị xé ra và quẳng vào sọt rác. Khi Thiên Chúa làm cho chúng ta một món quà là chính Con của Người, thì món quà đó của Người không hề đến trong một lớp bọc được trang trí. Nhưng Người đã đến trong thân phận con người yếu đuối, mỏng dòn và hay chết. Chính nơi điểm này, mà chúng ta càng nhận thấy được mức độ sâu xa nơi tình yêu của Người.
Mặc dù Đức Kitô đã đến giữa chúng ta với đôi bàn tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang lại cho chúng ta những món quà vô giá và kéo dài muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quý của Cha trên trời, đươc tiền định vinh quang trên trời.
Vậy chúng ta cần có loại khuynh hướng gì, để có thể đón nhận những ân sủng của Thiên Chúa? Chúng ta cần ý thức về sự nghèo nàn của bản thân chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Sau đó, điều mà chúng ta phải làm, là cởi mở tâm hồn chúng ta ra, để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, sẽ luôn luôn có được điều gì đó, để chia sẻ với những người khác.
“Có một quà tặng không thể nào đánh giá được
đã trao tặng từ 2000 năm trước.
Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa không ban tặng như vậy,
thì Người vẫn là một kẻ xa lạ ở nơi xa xôi,
và không phải là một Hài Nhi nằm trong máng cỏ”.
(John Betjeman)
Suy Niệm 5. CUỘC HÀNH TRÌNH LÂU DÀI NHẤT
Tháng 7, năm 1969, Neil Amstrong cùng với hai phi hành gia đồng đội, đã bắt đầu đi vào một cuộc hành trình lâu dài nhất, chưa từng được con người thực hiện. Mục tiêu của họ là một nơi ở cách xa hàng triệu dặm. Cả thế giới hướng đôi mắt về phía họ, trong khi bay tới một hành tinh trong không gian ở gần chúng ta nhất –mặt trăng. Họ đã đáp xuống tại một nơi trên mặt trăng, được biết đến như là Biển của Yên Tĩnh. Họ khám phá ra rằng nơi không có sự sống và cằn cỗi, và đã mang về một nắm đá và bụi. Tuy nhiên, Amstrong mô tả sứ mạng của họ là “một bước nhảy vọt đối với nhân loại”.
Lúc đó, đây là một tin vĩ đại. Bây giờ, dường như cuộc hành trình này mang tính cách khá mơ hồ. Hầu như chúng ta đã quên lãng điều gì đã từng xảy ra. Người ta đang hỏi nhau không hiểu cuộc hành trình đó đã đạt được gì, bất cứ điều gì? Và những con người mà danh tính của họ đã từng ở trên môi miệng của tất cả mọi người, thì nay hiếm khi được nhắc nhở đến.
Hôm nay, người Kitô hữu chúng ta cử hánh mầu nhiệm Nhập Thể –việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đi vào thế giới của chúng ta. Người đã được một người trinh nữ thấp kém sinh ra, vào một thời điểm mà nền thông tin còn chậm chạp, và tại một đất nước nhỏ bé, không hề có biển yên tĩnh, mà chỉ có bối cảnh là những cuộc xung đột triền miên. Chỉ có một nhúm người biết việc Người đã đến mà thôi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nói về mầu nhiệm này và cử hành ngày lễ này. Sự Nhập Thể là giây phút vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Kết quả là mọi việc không bao giờ còn giống như trước nữa. Qua bao thời đại, các nghệ sĩ, nhà thơ, tác giả đã nhận ra tầm quan trọng của biến cố Nhập Thể.
Trong biến cố Nhập Thể, chúng ta nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Mặc dù Đức Kitô đến giữa chúng ta trong đôi tay trống rỗng và yếu đuối, nhưng Người vẫn mang đến cho chúng ta những ân sủng vô giá và tồn tại muôn thuở. Người đến để dạy cho chúng ta rằng không phải là những hạt bụi hoặc hạt cát, mà là những người con trai và con gái yêu quý của Cha trên trời, được tiền định vinh quang đời đời.
Có một người giáo viên rất muốn đưa ra những lời giảng dạy, hướng dẫn, phê bình và sửa sai. Ngay sau khi kết hôn, ông liền dạy cho vợ ông biết cách rửa bát đĩa, bởi vì ông cho rằng nàng làm việc này không đúng cách. Và với cách thức chỉ dạy của ông, nàng phải rửa lại từng cái đĩa, mà nàng đã rửa xong rồi, dưới sự giám sát của ông. Thay vì cho nàng nhìn thấy ví dụ cụ thể, bằng cách tự tay rửa bát, thì ông lại chỉ đưa ra những lời khuyên bảo và hướng dẫn. Đức Giêsu đã không làm như vậy.
Với tư cách là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu được chia sẻ cùng một bản chất thần thánh, giống như Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng trong sự Nhập Thể, Người đã tự mang lấy trên thân mình Người chính thân phận của chúng ta, đó là một thân phận yếu đuối, mỏng dòn, lệ thuộc vào tội lỗi và sự chết. Bởi vì cuộc đấu tranh và chiến thắng ở ngay trong bản chất của chúng ta, nên chúng ta cũng có thể được ích lợi từ bản chất đó. Và Đức Giêsu không hề đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, mà Người lại không tự mình thực hiện.
Từ đó, bạn có được mầu nhiệm Nhập Thể. Đó mà mẫu thức của sự cứu độ. Thiên Chúa đã đi vào thế giới cảu chúng ta, cùng với những điều kiện sống của chúng ta. Người muốn cảm nhân được nỗi khổ đau của kiếp người, và chỉ ra cho chúng ta tính cách vĩ đại của con người. Bây giờ, chúng ta có được một Thiên Chúa, Đấng thấu hiểu chúng ta, mỗi khi chúng ta nói với Người về nỗi đau đớn của chúng ta. Nhưng Người cũng là một Thiên Chúa, Đấng sẽ không cho phép chúng ta được đắm mình trong nỗi đau khổ đó. Người sẽ không thoả lòng cho đến khi Người đòi hỏi được điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta.
Con Thiên Chúa đến trên trái đất này, để chia sẻ thân phận của chúng ta, sao cho chúng ta có thể được chia sẻ trong sự thần thánh của Người: “Hai ông bà lấy tã bọc con trẻ, và đặt Hài Nhi trong một máng cỏ”. Đức Giêsu đã lớn lên chính từ nguồn gốc thấp kém này, để chỉ ra cho chúng ta thấy sự vĩ đại của nhân loại chúng ta.
Niềm vui của ngày này tràn đầy trong tâm hồn chúng ta và trên toàn thế giới. Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta trên một cuộc hành trình còn táo bạo hơn cả cuộc hành trình của các phi hành gia –cuộc hành trình đi đến Vương Quốc của sự sống đời đời.

14. Chú giải mục vụ của William Barclay
ĐƯỜNG VỀ BÊLEM (2,1-7)
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm trong dân số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần. Chúng ta có được cái tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến 7 CTN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau: “Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh kiểm tra dân số theo qui định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân Ước.
Con đường từ Nazarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương Đông thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa của cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ từ liệu thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn bằng dài chung quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (2,8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì vết ấy, các quan chức cai quản đền thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xoá tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc sỹ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sỹ trên trời thay thế các ca sỹ dưới đất và các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sỹ trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triền thần lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường.

15. Suy niệm của R. Gutzwiller
NGÀY CHÚA GIÁNG SINH
Việc truyền tin Chúa Giêsu nhập thể đã là lạ lùng vì tính cách trái ngược giữa vẻ khiêm hạ bên ngoài với sự cao cả bên trong. Tính cách trái ngược này lại còn lạ lùng và nổi bật hơn nơi việc Người sinh ra.
1. Chúa Giáng sinh.
Việc Giáng sinh không xảy ra tại Nagiarét như thường tình, nhưng là tại Bêlem, và không phải do một lời nói chính thức của thiên thần mà bằng mmột biến cố hoàn toàn trần thế, nghĩa là do sắc chỉ của Hoàng Đế Rôma. Như vậy Chúa Giêsu ngay từ ngày mở mắt chào đời đã tỏ ra phục luỵ quyền hành thế trần, như một kẻ yếu thế phải chịu khuất phục kẻ mạnh hơn. Tuy nhiên, đó là công việc của Thiên Chúa, vì người ta sẽ thấy rằng ở đây hành động của con người không ai ngờ lại phục vụ cho kế hoạch của Thiên Chúa. Hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra nhân số trong đế quốc lớn lao của ông để gom thế giới lại thành một, biết rõ quân số, bảo đảm được sự thu thuế mà ông cần dùng tới với những chương trình vĩ đại của ông. nhưng thực tế, quyền năng thế tục đó bên ngoài hình như kìm kẹp Chúa Giêsu, thì chỉ là dụng cụ của quyền năng Thiên Chúa và qua đó, chương trình Cứu độ được hoàn thành.
Như vậy Chúa Giêsu đã giáng sinh tại Bêlem trong thành cảu Đavít, như Tin mừng đã nhấn mạnh điều đó. Chính nơi đây, Đavít khi còn là mục đồng, được gọi về hiến Thánh, thì giờ đây, cũng chính ở đây, người con đích thực của Đavít lại sinh ra, Đấng chăn chiên thực sẽ chăn dẫn bầy chiên Thiên Chúa, Ngài là Đấng được ưu tuyển ngay trong bản chất thâm sâu của Ngài và như Đấng Messia, Đấng Thiên tử, Đấng được xức dầu.
Sắc lệnh của Hoàng đế Augustô còn kéo theo một hậu quả khác, đó là việc giáng sinh của Chúa Giêsu được tác thành và lồng vào lịch sử thế giới. Người ta xác định được nơi chốn và thời kỳ xảy ra việc đó. Đây là một biến cố lịch sử đích thực (chứ không phải là chuyện hoang đường hay thần thoại) có chỗ đứng trong không gian và thời gian. Bên cạnh Hoàng đế Augustô, muốn mang lại cho thế giới cơm no áo ấm, với thứ ‘hoà bình của Rôma’, thì Chúa Giêsu đúng là vị Cứu tinh thực sự của vũ hoàn vì đã mang đến ‘bình an của Thiên Chúa’.
Tuy thế, ở Bêlem, không còn chỗ cho Ngài, nên phải sinh trong chuồng bò lưà. Khi nói Chuá không có chỗ trong quán trọ, điều đó có thể hiểu là, thực sự thì những người lang thang, không còn chỗ ở trong quán đó. Nhưng cũng có ý nói, và đúng hơn, quán trọ là nơi những người khách lạ tạm trú, thì không phải là nơi xứng hợp đối với mầu nhiệm Thánh Chúa sinh ra. Vậy Chúa sẽ đến thế trần, không mái nhà, trong cảnh đơn côi và nghèo nàn của chuồng bò lừa. Nôi của Ngài là cái máng khô, đục vào ngay trong tảng đá để cho bò lừa ăn. Tin mừng đặc biệt nhấn mạnh tới việc Hài nhi được bọc trong khăn. Cho thấy rằng bên cạnh cảnh nghèo hèn còn có nhân tính hoàn toàn, cùng với tất cả sự yếu đuối của tính con người.
Con đầu lòng của Thiên Chúa, hay nói cho gọn là Con Một Thiên Chúa đã đến thế gian này như là một trẻ nhỏ. Khung cảnh thật đơn giản, thanh bạch, nghèo hèn. Sự đơn giản và nghèo hèn này ai sánh được; tuy vậy, lại chẳng có biến cố nào đáng kể hơn, và tất cả mọi phú túc sẽ được trao cho Đấng vừa sinh ra. Trước nhan Chúa, đâu cần vẻ hào nhoáng bên ngoài với tất cả những gì liên hệ tới nó. Mà phải trái lại, cái vẻ bên ngoài càng lui đi thì mới càng thấy rõ vẻ lớn lao bên trong. Tất cả những gì phồn vinh, giả tạo, khoa trương, chỉ có bên ngoài thôi thì đi ngược lại bản tính của Chúa Giêsu ngay từ giờ đầu tiên của ngày Giáng sinh của Ngài cho tới lúc cuối cùng với cái chế nghéo hèn và trần trụi trên cây thập tự.
2. Loan báo Tin Chúa Giáng sinh.
Các mục đồng là những người đầu tiên nhận được sứ điệp. Israel là dân của các mục tử và Chúa Giêsu chính là Đấng chăn giữ nhân loại mới. Những hạng quyền quý sao hiểu được vẻ cao trọng này, người giàu thì chạy theo của cải, còn người thông thái thì lại hiểu sai về sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế những người được gọi đầu phải là những người chăn chiên khiêm hạ, nghèo nàn, và là ít học chốn quê mùa.
Nội dung của sứ điệp là một lời loan tin vui tóm trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Thế, Đấng xức dầu và là Chúa. Ngài là Đấng Cứu thế, vì Ngài đến giải phóng những người không thể tự giúp mình khỏi cảnh đau thương. Ngài là Đấng xức dầu vì bản tính nhân loại của Ngài đã được thánh hiến bằng dầu Thánh của Thiên Chúa: Ngài trở thành Tư tế, tiên tri và Vua cả. Và Ngài là Chúa vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài.
Thật là một dấu chỉ lạ lùng: ‘Các ngươi sẽ thấy một Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ’. Điều nhỏ bé sẽ biểu thị vẻ lớn lao, yếu hèn –vẻ quyền năng và nghèo khổ– cảnh giàu sang. Việc Chúa Giêsu sinh ra làm đảo lộn những cái chúng ta đã biết cho tới khi đó, và làm biến đổi các thực tại thần thiêng nhờ các phạm trù khác và ứng dụng chúng vào các quy luật khác.
Sứ điệp kết thúc bằng ca khúc của các Thiên thần gồm hai phần, mà mỗi phần gồm ba yếu tố song song với nhau. Ở phần thứ nhất ta thấy có ‘trời, vinh danh và Thiên Chúa’. Phần hai có ‘thế trần, hoà bình và con người’.
Thiên Chúa ở trên trời sẽ đón nhận danh dự và vinh quang, vì vinh quang của Ngài vẫn dấu kín, sẽ bộc lộ nhờ Con Ngài. Còn chính Chúa Giêsu, mà mọi tác động của Ngài đều mang dấu vô biên sẽ có thể thực sự tôn vinh Thiên Chúa mà không một tạo vật nào có thể làm được. Bây giờ ở dưới thế, bình an sẽ ngự trị vì trời và đất giao hoà trong ơn thánh. Và tất cả những điều ấy có được là do lòng từ ái của Thiên Chúa ban cho nhân loại nhờ Thiên Chúa Nhập Thể.
Như vậy bài ca của các Thiên Thần là điệp ca trang trọng của Thánh vịnh về đời sống Chúa Giêsu, bài ca mang nặng ý nghĩa của một biến cố vĩ đại đang được thực hiện trên sân khấu cuộc đời này. Hơn cả một lời cầu chúc hay lời nguyện xin. ‘Chúc tụng Thiên Chúa’ đó là một lời loan báo và cũng là một lời tuyên ngôn vệ một sự kiện: vinh danh dâng lên Thiên Chúa và an bình ban xuống nhân loại. Giờ cứu độ đã điểm, công việc cứu rỗi đã bắt đầu vì Chúa hoàn vũ đã sinh ra.
Và đây là kết quả đầu tiên, các mục đồng quyết định đón nhận lời loan báo trong niềm tin và đi theo lời đó. Sau khi tìm kiếm, họ đã thấy Đức Maria, Thánh Giuse, và Hài nhi. Sự kiếm tìm đã không bõ công; họ đã ngạc nhiên, đầy thán phục.
Qua sự im lặng, người Mẹ trẻ đã cho thấy sự hân hoan được diễn tả trong bài Thánh ca ngợi khen của Mẹ nay nhường chỗ cho một sự suy niệm đầy an bình, và việc các mục đồng trở về với đời sống thường nhật quen thuộc giúp chúng ta nhận ra được là việc khám phá ra Chúa không có nghĩa là phải có sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, nhưng là sự biến đổi sâu xa trong lòng.
Vì thế, trong cảnh trí này, nổi bật một sự mâu thuẫn:
Chúa Giêsu bị che dấu nay lại tỏ hiện, bị hạ xuống, nhưng rồi được tôn vinh; trao cho hai tạo vật yếu đuối săn sóc, nhưng được các thiên thần canh giữ; yếu hèn thực đó, nhưng lại là vị cứu tinh nhân loại. Hoàn toàn là người trong mọi sự, nhưng rạng ngời ánh quang của Thiên Chúa.
Trình thuật Kinh thánh nhấn mạnh trên sự mâu thuẫn này là giới thần thiêng đã đi sâu vào sự thấp hèn của nhân loại, nhưng qua đó lại chiếu ngời lên để tôn vinh Thiên Chúa.

16. Đêm Thánh – Karl Rahner
Vì sao gọi lễ cử hành hôm nay là “Đêm Thánh”? Nói cho ngay, về lịch sử, ta không có cơ sở nào để khẳng định rằng Hài Nhi Giêsu đã chào đời vào ban đêm. Đành rằng chúng ta có bản trình thuật kể chuyện các mục đồng canh giữ súc vật trong đêm tối và họ nghe sứ điệp từ trời báo tin về cuộc sinh hạ của Đấng Cứu Thế, nhưng tự nó, bản trình thuật ấy cũng không phải là bằng chứng cho phép ta kết luận rằng Đức Giêsu đã sinh ra vào ban đêm. Thế nhưng, truyền thống Kitô giáo vẫn luôn cho rằng cuộc chào đời hồng phúc này của Đấng Cứu Thế đã diễn ra trong một đêm tối. Người Đức thậm chí hội nhập niềm xác tín ấy vào chín tên gọi của lễ mừng: Weih-nacht (Đêm Thánh). Vì sao?
Đêm tối, đối với con người, vẫn có hai khía cạnh. Nó mang một ý nghĩa kép, một ý nghĩa “hàm hồ”- cũng như hầu hết mọi yếu tố khác trong cuộc đời này. Đêm tối gợi lên một cái gì thâm u, huyền bí, là thời gian mà không ai có thể làm việc- như Đức Giêsu nói đến trong Thánh Kinh. Đêm tối được cảm nhận gần như là sự chết. Đêm tối là bất định, bất quyết và hiểm nguy. Đêm tối là trùng khơi mịt mù. Vì thế, trong cảnh vực tôn giáo, đêm tối mang đầy ý nghĩa biểu tượng. Trong Thánh Kinh, đêm tối tượng trưng cho thời gian bất tín và tội lỗi, thời gian Chúa đến thăm và phán xét. Vì thế, Kitô hữu phải là con cái của ban ngày, họ phải chiếu sáng như những vì sao trong bóng đêm – để không bị bất ngờ bởi vị thẩm phán đến thình lình như kẻ trộm giữa đêm khuya. Chúng ta phải tỉnh thức, chúng ta không được ngủ say, chúng ta phải trỗi dậy và bước đi như thể đang bước đi giữa ánh sáng ban ngày.
Nhưng trong cảm nhận của con người, cũng được hàm chứa trong Thánh Kinh, đêm tối còn có một khía cạnh khác nữa. Đêm tối là lúc thinh lặng và rút lấy sức mạnh. Đó là lúc chỉ còn mình với mình, sẵn sàng đợi chờ và cho phép mọi sự triển nở, lớn lên. Chính vào lúc nửa đêm mà người ta nghe tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến!”. Đêm tối trong Thánh Kinh còn là thời gian của những giấc mơ hướng vọng trời cao. Đêm tối là thời gian thoát ly khỏi những ràng buộc của nhịp sống ban ngày, nên đó là thời gian cầu nguyện – vì thế, Đức Giêsu đã trải qua những đêm trắng cầu nguyện cùng Cha. Đêm tối được nhìn nhận như công trình của Thiên Chúa – và tác giả Thánh vịnh có thể thốt lên: “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa…” (Tv 74,16). Daniel (3,71) kêu gọi đến bóng đêm chúc tụng Thiên Chúa – và theo tác giả Thánh vịnh, “đêm này kể lại với đêm kia” sứ điệp về vinh quang Thiên Chúa (19,3), cũng như trời xanh mênh mông nhắc cho ta về sự vĩ đại của Ngài.
Tại sao chúng ta có thể cảm nhận về đêm tối theo những chiều hướng khác nhau như thế? Chúng ta kinh nghiệm đêm tối như một sự bắt đầu, như một cái gì đó vẫn còn bất định, nhưng cái đến sau đêm tối thì hết sức rõ ràng: đó là một bình minh rực rỡ! Tuy nhiên, sự bắt đầu và những khả năng ẩn chứa trong sự bắt đầu ấy thường rất bấp bênh – như một lời hứa nghe thật hay nhưng chưa được thực hiện, như một triển vọng to lớn nhưng chưa hiện thực, như một kế hoạch tuyệt vời nhưng chưa được triển khai… Tất cả đều còn đó ý nghĩa hàm hồ: vừa đầy hứa hẹn lại vừa đầy đe doạ, dự phóng sẵn đó rồi mà mục tiêu còn quá xa xôi và không chắc sẽ có ngày hoàn tất…
… Nhưng nếu có một đêm tối mà cái khởi điểm vô định lại mang sẵn trong mình nó sự chắc chắn hoàn thành, nếu có một đêm tối mang sẵn trong mình nó mối bảo đảm khải thắng, nếu có một đêm tối mở ra lời hứa song đồng thời cũng là lời hứa được lấp đầy … thì đêm ấy hẳn phải là Đêm Thánh. Đêm! Vì chỉ mới khởi đầu thôi. Đêm Thánh! Vì đây là một khởi đầu hồng phúc và tất thắng. Với một đêm như thế, chúng ta phải thốt lên: Ôi, Đêm Thiêng! Đêm Thánh! Như bài ca nào đó đã trở thành bất hủ: “Đêm Thánh vô cùng. Giây phút tưng bừng…”.
Không phải tình cờ mà vào thế kỷ thứ tư, lễ này được đặt vào đúng thời điểm mà thiên nhiên – cách riêng mặt trời – bắt đầu lại chu kỳ của nó. Thời ấy, người ta gán sự bắt đầu của “Mặt Trời Công Chính” (danh hiệu của Đấng Cứu Độ chúng ta theo sấm ngôn) cho ngày natalis solis invicti của dân ngoại, tức lễ mừng sinh nhật “thần mặt trời bất khuất”.
Một gán ghép vô cùng chính xác! Vì đây là phút giờ thánh thiêng. Đức tin cho các Kitô hữu biết rằng: Đây là sự khởi đầu. Thiên Chúa, từ ánh sáng chói lọi ‘khủng khiếp’ của Ngài, đã đến với chúng ta – thật lặng lẽ, thật êm dịu. Ngài đó, Thiên Chúa đó, đã âm thầm bước vào cõi dương trần khốn khổ của chúng ta. Ngài đã làm người, và Ngài bắt đầu một kiếp người y như chúng ta: rất bé nhỏ, rất mong manh, yếu ớt, bất lực. Ngài là tương lai vô cùng thăm thẳm mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình vươn tới được – bởi vì, trên con đường gập ghềnh của cuộc sống mình, ta càng sấn đến, chân trời ấy càng lùi xa. Nhưng chính Ngài đã đến với ta, đã đến ở giữa ta – vì nếu chẳng vậy, ta sẽ không bao giờ có thể đến được với Ngài.
Ngài đồng hành với chúng ta trên con đường chúng ta đi về với Ngài – nhờ đó, con đường chúng ta đi chắc chắn có một đích điểm hồng phúc. Kỳ thực, đích điểm ấy đã hoá nên khởi điểm của chúng ta rồi. Thiên Chúa đã ở bên ta. Lời ân phúc vĩnh cửu của Ngài đã ở giữa chúng ta. Lời ấy gieo bước hành trình với ta, cảm nghiệm niềm vui nỗi buồn của ta, sống cuộc sống và chết cái chết của ta. Ngài đã cứu chuộc ta, bằng con đường san sẻ chính số phận của ta. Ngài lấy khởi điểm của ta làm khởi điểm của Ngài. Ngài bước đi trên con đường định mệnh của ta và – qua đó – mở định mệnh ấy ra tới tầm vô hạn của Thiên Chúa. Và bởi vì Ngài dứt khoát chấp nhận chúng ta, bởi vì Ngôi Lời Thiên Chúa sẽ không bao giờ ngừng là người, nên khởi điểm này – của ta và của Ngài – là khởi điểm của những lời hứa không thể xóa nhoà, và sự bắt đầu lặng lẽ của Ngài trong đêm tối ấy đã làm cho nó trở thành Đêm Thánh Thiêng!
Cử hành Giáng Sinh là cử hành mầu nhiệm Đêm Thánh ấy. Con tim chúng ta phải lắng đọng, thanh thoát, và phải mở rộng ra như quả tim của một trẻ thơ chưa hề biết khép lại trước bất cứ khả tính nào của hiện hữu mình, nhưng hoàn toàn sẵn sàng đón nhận tất cả…
Chúng ta phải dám ôm lấy sự yên lặng thâm u này vào tận đáy hồn mình bằng cách không chạy trốn vào công việc làm ăn, vào những cuộc chè chén hay những câu chuyện gẫu lê thê mà ta dùng để tránh né chính mình và tránh né mầu nhiệm phủ xuống trên mình (bởi vì – do lạ lẫm – chúng ta đâm ra hoảng sợ trước mầu nhiệm của tình yêu vô hạn ấy). Đêm Thánh là đêm mà cả cuộc sống của chúng ta cũng trở thành thánh thiêng; chúng ta không được phép xúc phạm đến Đêm Thánh bằng những cuộc vui quá đỗi trần tục. Tính cách chân tình, giản dị, hồn nhiên – vốn hoàn toàn phù hợp với Lễ này – cũng phải giữ cho được sự trong suốt trước mầu nhiệm khôn tả, mầu nhiệm làm cho người ta thân tình sâu xa với nhau và trao cho họ lời hứa xuân xanh mãi mãi.
Lễ Giáng Sinh phải được cử hành như nó đáng được cử hành, nếu không, nó sẽ tha hoá thành một lễ hội thuần tuý trần tục. Trong thinh lặng của Đêm Thánh cô tịch này và trong lòng dạt dào cảm mến, chúng ta chấp nhận rút vào trong đáy lòng mình tất cả những con người, những sự vật, những loay hoay căng thẳng vốn thường dễ che khuất không cho ta nhìn cái vô cùng – chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cử hành Lễ Giáng Sinh đúng nghĩa. Đôi khi, ít nhất là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó, người ta dập tắt những ánh sáng trần tục vốn che khuất không cho phép mình nhìn thấy sao trời, và người ta đặt mình trước sự hiện diện kỳ diệu khôn tả của Thiên Chúa, sự hiện diện “lên lời” bằng chính cái thinh lặng của nó, và ta chỉ có thể ‘nghe’ được nếu biết lắng nghe. Chúng ta hãy cảm nhận như khi một mình bước đi dưới bầu trời đêm đông đầy sao; Chúng ta vẫn nghe bịn rịn nhớ nhung hơi ấm của người thân và của tất cả những gì quen thuộc dưới mái nhà mình, nhưng phía trên đầu chúng ta là bầu trời, và trong sự yên ắng ấy của màn đêm (sự yên ắng mà vào những lúc khác có thể làm cho chúng ta kinh sợ), chúng ta bắt gặp sự hiện diện lặng lẽ của mầu nhiệm vô cùng: mầu nhiệm hiện hữu của mình, mầu nhiệm vừa đầy ắp tình yêu cứu độ vừa lớn lao khôn dò.
Giáng Sinh là Đêm Thánh! Cái tương lai vô cùng đã đi vào trong thời gian của chúng ta rồi. Ánh sáng chói loà của nó vẫn còn tràn ngập chúng ta. Và ta nghĩ chắc hẳn Chúa đã ra đời vào một đêm tối! Dù gì đi nữa thì đó cũng là đêm, một đêm hồng phúc, một đêm ngập tràn hơi ấm và ánh sáng, một đêm rất tuyệt diệu và rất thực – bởi không gì chắc chắn bằng ngày vĩnh cửu mà đêm này cưu mang trong mình nó. Tuy nhiên, đêm này chỉ là Đêm Thanh, Đêm Thánh cho chúng ta nếu chúng ta đón nhận sự yên lặng thánh của đêm này vào trong trái tim mình, nếu trái tim chúng ta thức tỉnh.
Sự yên lặng và cô tịch ấy nào quá gay go! Cái khó, nếu có, là cái khó chung của mọi điều cao cả: nó vừa thật đơn giản vừa rất lớn lao! Không khó, vì dĩ nhiên cái cô tịch vốn nằm sẵn trong ta. Trong trái tim ta vốn có một vùng sâu kín của riêng mình, một vùng mà không ai có thể dò dẫm tới ngoại trừ Thiên Chúa. Nơi sâu thẳm ấy thực có đó. Vấn đề là chúng ta ngu ngơ sợ hãi và tránh né nó – ta sợ, vì không ai và không gì quen thuộc trên đời này có thể đi theo mình nếu mình bước chân vào vùng đất ấy! Nào, đừng sợ nữa, hãy lặng lẽ bước vào và đóng cửa lại phía sau mình. Hãy lắng nghe giai điệu vô ngôn vang lên trong yên ắng của màn đêm cô tịch.
Ở đó, linh hồn ta tấu lên với Thiên Chúa khúc ca trầm lắng nhất và nồng nàn nhất. Và ta tin chắc rằng Ngài đang nghe mình rất rõ. Vì khúc ca ấy không còn phải kiếm tìm đến một Thiên Chúa trên trùng khơi thăm thẳm chẳng thể nào dò tới được. Chúa đã giáng sinh rồi, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm, nên Ngài đang ở ngay đây – và lời nói thầm thì nhất trong đáy lòng ta, lời nói tỏ tình, sẽ được Ngài lắng nghe rất rõ. Và những ai đã bước vào trong cõi cô tịch của lòng mình như thế, ngay cả dù tối tăm thăm thẳm, nhất định sẽ nghe được tiếng thầm thì yêu thương của Ngài. Nào, đừng sợ đêm tối nữa, và hãy lắng hồn xuống. Nếu không, chúng ta sẽ chẳng nghe gì. Vì tiếng nói cuối cùng chỉ cất lên trong sự yên lặng của đêm tối – đêm tối đời ta – qua sự xuất hiện hồng phúc của Ngôi Lời. Ngài đã đến rồi đây.
Đêm Thánh vô cùng…
Giây phút tưng bừng…

17. Nghèo
Nhìn vào cảnh đơn sơ, tiều tụy của hang đá, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về sự nghèo khó.
Sống trong cuộc đời, nỗi bận tâm day dứt nhất của nhiều người, đó là kiếm tiền. Chúng ta tính toán, chúng ta đôn đáo chạy ngược, chạy xuôi, chúng ta sẵn sàng chịu đựng mọi vất vả miễn sao tìm cho được nhiều tiền lắm bạc. Nào là những giọt mồ hôi đổ xuống trên ruộng đồng cho cây lúa kết trái. Nào là những thùng nước đè nặng đôi vai gầy, tưới cho thửa hoa mầu được xanh tươi. Nào là những tiếng máy nổ chát chúa trong bầu khí nóng bức của xưởng thợ…Chúng ta vui vẻ chấp nhận để tìm kiếm những đồng tiền mà dường như mỗi lúc một trở nên khan hiếm.
Sở dĩ như vậy là vì ai cũng hiểu rõ những giá trị của đồng tiền. Phải, tiền bạc sẽ thỏa mãn những nhu cầu cần thiết:
– Có tiền mua tiên cũng được.
Tiền bạc tạo nên công lý:
– Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
– Miệng nhà giàu có gang có thép.
Tiền bạc làm ra tình nghĩa:
– Thấy người sang bắt quàng làm họ.
– Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở giữa chợ cũng chẳng ai hỏi. Còn giầu mà ở tận rừng núi cũng vẫn có người tìm đến.
Chính vì thế, chúng ta thường cầu chúc cho nhau tiền rừng bạc biển, đồng thời nai lưng ra để thực hiện cả ước vọng làm giầu. Cho dù đồng tiền có thế nào chăng nữa, thì chúng ta cũng vẫn cứ chất cho đầy túi:
– Hôi tanh chẳng thú vị gì,
Thế mà cũng lắm kẻ vì người yêu.
Hay như người ta thường nói:
– Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý.
Trái lại, nghèo túng quả là một tai họa cần phải lẩn tránh, là một cái gì đáng nguyền rủa. Tối hôm qua, tôi đứng nói chuyện với một anh bạn trẻ, tôi hỏi:
– Thế nào, sắp sửa vợ con gì chưa? Bao giờ thì cho thiên hạ ăn cỗ đấy?
Anh mỉm cười trả lời:
– Nghèo rớt mùng tơi như con thì ai thèm mà lấy.
Mặc dù tôi biết đó chỉ là một câu nói vui, nhưng cũng phản ảnh được phần nào sự thật.
Trước hết, nghèo túng dễ làm cho người ta tạm quên cái nhân phẩm, để rồi chỉ biết giải quyết cho cái bao tử mà thôi, như tục ngữ đã bảo:
– Có thực mới vực được đạo.
– Bần cùng sinh đạo tặc.
– Đói ăn vụng, túng làm càn.
Nghèo túng còn giết chết những mộng ước cuộc đời và gieo vào tâm hồn chúng ta nỗi mặc cảm tự ti và thua sút. Vì căn nhà xiêu vẹo, chúng ta ngại không dám mời bạn bè tới chơi. Vì không có tiền, con em chúng ta đành phải bỏ dở việc học hành, cái khó bó cái khôn là vậy.
Và sau cùng, sự nghèo túng còn hủy diệt tình yêu, phá đổ hạnh phúc. Tôi có quen một gia đình. Thời gian đầu, ông chồng đi làm. Lương tháng hậu hĩnh. Bà vợ tươi cười và bầu khí trong gia đình rất thuận hòa và đầm ấm. Nhưng rồi sau đó, ông chồng bị thất nghiệp. Tiền bạc cạn dần. Từ đó, những xào xáo, cãi vã xảy ra cũng chỉ vì chuyện thiếu hụt tiền bạc. Ấy là chúng ta chưa nói đến những hoàn cảnh vì đồng tiền mà vợ chồng phải rã gánh, anh đường anh, tôi đi đường tôi, còn con cái thì lâm vào cảnh nheo nhóc.
Ngay như bè bạn cũng vậy. Tiền bạc nhiều khi đã trở nên cái thước để đo tình nghĩa:
– Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Đức cha Bùi Tuần đã viết:
– Nghèo đói sinh ra lo buồn. Lo buồn này kéo theo lo buồn khác, như một chiếc móc xích của một sợi dây dài, xiết chặt vào cuộc đời chúng ta. Nghèo đói như là một ngõ cụt, không một ai muốn bước chân vào đó, mà nếu có trót dại, có lầm lỡ bước vào thì rồi cũng cố thoát cho ra…
Thế mà nhìn vào hang đá Bêlem, chúng ta lại thấy Chúa đã chọn cảnh nghèo đói, đã mang thân phận của một kẻ túng thiếu. Bộ Chúa không biết hay sao: nghèo túng vừa vất vả nhọc nhằn, vừa đắng cay chua xót, vừa bị khinh miệt coi thường, vừa bị thiệt thòi đủ thứ. Vậy thì tại sao Chúa lại chọn cảnh nghèo túng như thế? Tại sao Chúa lại dại như vậy?
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy rằng:
– Chỉ có Chúa là Đấng thánh thiện, là Đấng khôn ngoan, là Đấng yêu thương vô cùng mới dám dại như vậy. Việc Chúa chọn thân phận nghèo hèn, chính là một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta.
Trước hết, với cuộc sống nghèo hèn, Chúa đã tích cực chia sẻ cuộc đời túng thiếu của chúng ta, bằng cách sống với người nghèo, sống trong cảnh nghèo, sống như người nghèo và sống cho người nghèo. Nhìn vào hang đá Bêlem, chúng ta nhận ra: Chúa còn nghèo hơn cả chúng ta, nhưng nhờ đó, chúng ta cảm thấy Chúa thật gần gũi với chúng ta, như một người bạn, như một người thân. Và chúng ta sẽ không còn cô đơn, sẽ không còn buồn tủi.
Hơn nữa, qua máng cỏ Bêlem, Chúa còn dạy cho chúng ta biết giá trị cao quý của đau khổ.
Thực vậy, nếu Chúa đã dùng đau khổ để cứu chuộc nhân loại, thì chúng ta cũng không thể đi con đường nào khác, ngoài con đường khổ đau. Cuộc đời chúng ta sẽ không thiếu vắng đau khổ, chỉ cần chúng ta biết chấp nhận, biết chịu đựng những đau khổ ấy với tâm tình mến Chúa. Và tình mến sẽ là như một cây đũa thần, biến những đau khổ tầm thường nhất trở thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta, làm cho cuộc đời ấy có một giá trị to lớn trước mặt Chúa. Và như thế, những khổ đau nhỏ bé nhất cũng sẽ trở thành con đường dẫn chúng ta vào cõi sống vĩnh hằng.
Nghèo túng không thể nào kéo dài hơn cuộc sống trần gian. Nó chỉ là tạm thời, rồi sẽ qua đi. Nó không còn là nơi bất hạnh, nếu chúng ta biến nó thành phương tiện để làm giầu về phương diện thiêng liêng, nếu chúng ta xử dụng nó như chiếc chìa khóa để mở cửa thiên đàng. Và đó cũng chính là bài học mà Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem đem lại cho chúng ta.

18. NOEL – Bình an
Một trong những điều mà chúng ta luôn liên kết với lễ Giáng sinh, đó là sự bình an. Khi Đức Giêsu sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn có thể nói rằng những lời nói này tóm tắt cả Tin Mừng.
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì bắt đầu có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng, và họ ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt tất cả mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Trong đêm lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến bắt đầu trở lại.
Nếu điều này không chứng tỏ một điều khác, thì nó chứng tỏ được sức mạnh của lễ Giáng Sinh. Nhưng bình an không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh hoặc chia rẽ. Đây còn là một điều sâu xa hơn và phong phú hơn. So với peace của tiếng Anh tiếng Do thái chỉ sự bình an – shalom – chuyển tải một ý nghĩa phong phú hơn. Từ này chuyển tải một ý nghĩa về sự trọn vẹn, một tình trạng hoàn toàn hạnh phúc.
Thành phần chủ yếu của bình an là sự công chính. Như vậy, ở đây có sự công chính, thì tại đó có bình an đích thực. Do đó, không thể có bình an đối với kẻ quỷ quyệt. Bình an không đơn giản chỉ là sự hài hòa. Đây là sự hạnh phúc trọn vẹn. Bình an vẫn có thể tồn tại trong một thế giới rối loạn, và thậm chí ngay cả giữa những vấn đề không giải quyết được. Đây là một điều gì đó quá sâu xa, đến nỗi nó không lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài.
Bình an là trạng thái yên tĩnh nội tâm, và cho thấy rõ mối tương quan thực sự với Thiên Chúa và với người khác. Theo ý nghĩa đầy đủ này, nếu chỉ bằng nỗ lực của con người, thì không thể tạo ra được sự bình an. Đây là một ân sủng của Thiên Chúa. Đây là một món quà tặng của ngày lễ Giáng Sinh. Thiên Chúa đến với chúng ta trong sự bình an, và Người mong muốn chúng ta tiếp cận với nhau. Bình an là ân sủng mà Thiên Chúa ban cho chúng ta; quà tặng của chúng ta đối với Thiên Chúa chính là đem bình an đến cho nhau.
Bình an là sự kết hợp với Thiên Chúa. Trong ngày lễ Giáng Sinh, dường như Thiên Chúa rất gần gũi với chúng ta, và rất yêu thương chúng ta. Xin Người giúp chúng ta cảm mến được sự bình an, vượt quá tất cả sự hiểu biết, mà chỉ một mình Người có thể ban, và thế giới này không thể đem đến được. Đó là sự bình an mà không ai có thể tước đoạt khỏi chúng ta.

19. NOEL- Ánh sáng
Chúng ta cử hành lễ Giáng Sinh vào thời gian tối tăm nhất trong năm (ở bắc bán cầu). Đó là thế gian chúng ta đánh giá được giá trị của ánh sáng. Phụng vụ lễ Giáng Sinh đầy rẫy những câu ám chỉ về ánh sáng. Đức Giêsu đến làm trọn lời tiên báo của ngôn sứ Isaia: “Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Mẹ Têrêxa đã kể lại một ngày kia, tại Melbourne, Uùc, mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, tại một căn phòng ở trong tình trạng bê bối khủng khiếp. Căn phòng này không hề có ánh sáng, và hiếm khi ông ta vén bức rèm ra. Dường như ông không hề có một người bạn nào trên thế giới này.
Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt “Bà cứ để mọi sự như cũ đi. Tôi quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Trong khi dọn dẹp, mẹ nói chuyện với ông ta. Dưới một đống rác, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy là nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Làm thế nào mà không bao giờ ông thắp sáng nó lên vậy?”.
Người đàn ông này đáp “Tại sao tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó lên ư? Có ai đến thăm tôi đâu”!
Ông ta trả lời “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Hai trong số các nữ tu của mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm viếng ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi có thể tự xoay xở được rồi. Nhưng xin nói giùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi, rằng ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.
Bạn có thể nói rằng ngọn đèn đã giải thoát ông ta. Nhưng tất nhiên không phải là bản thân ngọn đèn, nhưng là lòng tử tế và nhân ái mà ngọn đèn này tượng trưng, trước hết, nơi mẹ Têrêxa, sau đó, là nơi các nữ tu của mẹ.
Chúng ta sống trong một thế giới bị tối tăm do chiến tranh, bạo lực và đủ mọi loại đau khổ. Và tất cả chúng ta đều đã từng trải qua cảnh tối tăm trong cuộc sống cá nhân và cuộc sống gia đình của chúng ta – buồn phiền, thất vọng, yếu đuối, đau đớn, lỗi lầm, tội ác, cô đơn v,v…
May mắn thay, ánh sáng mà Đức Kitô đã thắp lên trong thế giới của chúng ta vẫn còn tiếp tục cháy sáng. Không phải là ánh sáng của Người đã được thắp lên tại Bêlem một lần, và rồi tắt ngúm đi. Aùnh sáng đó vẫn chiếu tỏa ra giữa cảnh tàn phá, đổ vỡ và biến động. Aùnh sáng đó chiếu tỏa ra tất cả những ai tin tưởng và đi theo Người.
Lịch sử có đầy rẫy những câu chuyện về bao con người mang lại cảnh tối tăm cho thế giới. Không giống như Đức Giêsu. Từ hơn 2000 năm nay, giáo lý của Đức Giêsu đã để lại một ảnh hưởng trên mọi người, theo một cách thức không giống như bất cứ người nào khác. Nhưng tự thân lòng từ ái rạng rời của Người biểu hiện ra, qua tất cả những hành động và những cuộc gặp gỡ của Người với dân chúng. Vô số người đã đến với Người trong tâm trạng tối tăm, và khi ra đi, họ được tắm mình trong ánh sáng.
Lòng từ ái rạng ngời của Đức Giêsu vẫn còn tiếp tục soi chiếu trên thế giới. Nơi Đức Giêsu và nơi Tin Mừng của Người, chắc chắn chúng ta có được một suối nguồn ánh sáng, mà từ 2000 năm nay, đã chiếu tỏa trên nhân loại. Aùnh sáng soi chiếu cho các mục đồng đi đến Bêlem trong đêm Giáng Sinh đầu tiên, vẫn soi chiếu trên chúng ta trong đêm Giáng Sinh này.
Aùnh sáng của Đức Giêsu không đến để phán xét chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta. Aùnh sáng đó đến để chỉ ra cho chúng ta cách thế sống như thế nào, và hướng dẫn chúng ta hướng về vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có thể trở nên nguồn sáng cho thế giới tối tăm. Nhưng trừ phi ngọn đèn của bản thân chúng ta còn đang chiếu sáng, nếu không, chúng ta sẽ không có khả năng soi sáng được cho bất cứ ai. Được sống trong ánh sáng là một niềm vui lớn. Nhưng có một niềm vui thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là được trở nên một nguồn sáng cho người khác.
Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta bước ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng tuyệt diệu nơi Con của Người. Chúng ta phải cố gắng sống đúng tư cách là con cái của ánh sáng. Người ta nhận thấy những hiệu quả của ánh sáng qua tấm lòng tốt, lối sống đúng đắn và theo lẽ phải.
Xin cho trong lòng từ ái của Người, Chúa cho chúng ta nếm được niềm vui, mà các mục đồng đã cảm nghiệm được, khi ánh sáng của vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa chung quanh họ, trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó. Và xin cho chúng ta nghe được những tiếng nói êm dịu vang vọng trong tâm hồn chúng ta “Bất cứ ai đi theo Ta, sẽ không bao giờ phải đi trong tối tăm, nhưng sẽ luôn luôn có được ánh sáng ban sự sống”.

20. Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người – JKN
Chủ đề: Đức Giêsu đã trở nên người như chúng ta: cùng chịu đau khổ như chúng ta. Như vậy đau khổ ắt phải có giá trị tích cực của nó.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có gặp nhiều nghịch cảnh như chúng ta không? Giữa Ngài và ta, ai nhiều nghịch cảnh hơn ai? Ta có thể rút ra kết luận gì về điều này?
2. Có cha mẹ nào yêu thương con mà lại bắt con phải chịu đau khổ một cách vô ích hoặc không cần thiết không? Nếu các ngài cứ bắt ép con mình phải chịu đau khổ, thì người con phải hiểu đau khổ ấy thế nào? có cần thiết hay không?
3. Vì yêu con người, Thiên Chúa muốn chia sẻ đau khổ với con người. Nếu ta yêu tha nhân, ta sẽ phải làm gì khi thấy họ phải đau khổ?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu cũng gặp bao nghịch cảnh như chúng ta
Đức Giêsu chính là Thiên Chúa nhập thể, mặc lấy thân phận con người y hệt như chúng ta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ không có tội lỗi mà thôi. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài cũng gặp biết bao nghịch cảnh như chúng ta, thậm chí ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ và khi vừa mới sinh ra.
Gần tới ngày Ngài chào đời thì cha mẹ Ngài phải lên đường đến một nơi cách nhà mình trên 120 cây số vì lệnh kiểm tra dân số của chính quyền. Tại nơi xa lạ này, gia đình Ngài đã không kiếm được một chỗ trọ để Ngài chào đời một cách xứng với phẩm giá một con người. Vì thế, hai ông bà đã phải chấp nhận cảnh sống bụi đời là tìm một chuồng chiên bò nào đó ở ngoài đồng để sinh con và tạm trú qua ngày. Và Đức Giêsu đã sinh ra trong một chuồng chiên bò. Ôi, thật là nhục nhã! Nghịch cảnh đâu đã hết, nó còn theo Ngài suốt cuộc đời: nào là phải trốn sang Ai Cập, rồi trở về Nadarét, nào là cảnh nghèo khổ, nào là tình trạng bị giới lãnh đạo tôn giáo ghen ghét và bách hại, bị dân chúng và cả môn đệ mình phản bội, bị đánh đòn, bị xỉ vả nhục nhã, bị chết thảm thương, v.v… Xét về hoàn cảnh, chúng ta may mắn hơn Ngài rất nhiều. Ngài vốn là Thiên Chúa, giầu sang quyền quí vô cùng, thế mà phải chịu như vậy. Chúng ta là ai mà lại mong muốn được ưu đãi hơn Ngài? Suy nghĩ điều ấy sẽ phát sinh một niềm an ủi rất lớn cho chúng ta.
2. Đau khổ và nghèo khó có giá trị của nó
Thân phận con người là một thân phận đau khổ và nghèo khó như một hậu quả tất yếu của tội nguyên tổ. Nếu đau khổ hoàn toàn không có ích lợi gì cho chúng ta, chắc chắn vì yêu thương chúng ta vô hạn, Thiên Chúa sẽ dùng quyền năng vô biên để giải phóng chúng ta hoàn toàn khỏi mọi đau khổ. Nhưng nếu Thiên Chúa vẫn để chúng ta phải đau khổ, và chính Ngài cũng sẵn sàng đau khổ cùng với chúng ta, tất nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi rất lớn cho chúng ta. Nếu không như thế, thì phải kết luận rằng: một là Ngài là người tàn ác, không yêu thương gì chúng ta, hai là Ngài không toàn năng, nghĩa là không đủ khả năng để giải phóng chúng ta khỏi đau khổ. Nếu Ngài yêu thương ta vô cùng lại toàn năng, mà lại để chúng ta đau khổ, ắt nhiên đau khổ ấy phải rất cần thiết và rất ích lợi cho chúng ta.
Một minh họa tuy què quặt nhưng giúp ta dễ hiểu điều ấy: Cha mẹ yêu thương con không bao giờ muốn con phải khổ, dù chỉ là khổ một chút xíu. Nhưng nếu cha mẹ bắt con cái mình phải uống một thứ thuốc rất đắng, hay phải chịu roi vọt rất đau đớn, và chính cha mẹ cũng phải vất vả vô cùng mới kiếm được thứ thuốc đắng ấy, hay phải quặn ruột nhìn con khóc thét dưới lằn roi, tất nhiên thuốc đắng hay roi vọt ấy phải là cần thiết hoặc ích lợi cho đứa con. Thật vậy, thà bắt con khổ vì uống thuốc, đau vì roi vọt, còn hơn để con phải bệnh hoạn tật nguyền suốt đời, hay trở nên người hư hỏng hoặc vô giá trị sau này.
3. Đau khổ rất cần thiết và ích lợi để nên thánh, để hạnh phúc
Kinh nghiệm cho ta thấy đau khổ nhiều khi rất cần thiết để đạt được những ích lợi lớn hoặc để tránh những tổn thất nặng nề, chẳng hạn như: «quân trường thấm mồ hôi, chiến trường ít đổ máu», «gieo trong nước mắt thì gặt giữa vui mừng» (Tv 126,5-6). Kinh điển Phật giáo cũng nói: «Tất cả các phiền não đau khổ đều là hạt giống Như Lai. Tương tự như nếu mình chẳng lặn xuống biển sâu thì không thể tìm thấy châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu mình chẳng chịu ngụp lặn trong bể cả phiền não, ắt mình không thể tìm được của báu là cái trí tuệ biết hết tất ca» (Kinh Duy-Ma-Cật, Phẩm 8: Phật Đạo). Theo Phật giáo, phiền não đau khổ là hạt giống Như Lai, sinh ra trí tuệ giải thoát.
Ta thấy: trên đời, những người có bản lãnh đều là những người phải kinh qua rất nhiều đau khổ, đều được đào luyện trong đau khổ. Đau khổ dạy cho chúng ta – thậm chí cả Đức Giêsu – nhiều bài học quí giá: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Ngay cả đối với Đức Giêsu, thì đau khổ cũng rất cần thiết để Ngài trở nên vị lãnh đạo hoàn hảo: «Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ để trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa con người tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10). Muốn sử dụng ai, Thiên Chúa thường dùng đau khổ để sửa dạy, để thánh hóa, để huấn luyện người ấy nên hoàn hảo: «Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt» (Dt 12,6). Gương của các thánh chứng minh điều ấy.
Như vậy, đau khổ có giá trị của nó, và chịu đựng đau khổ không phải là một chuyện vô ích. Nếu đau khổ và nghèo khó cần thiết và ích lợi cho chúng ta, mà Thiên Chúa lại không bắt chúng ta đau khổ và nghèo khó, thì chắc chắn Ngài chưa phải là người yêu thương chúng ta đích thực: vì «yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi». Hoặc Ngài chỉ yêu chúng ta một cách thuần túy tình cảm và điều ấy sẽ làm chúng ta hư hỏng: «con hư tại mẹ, cháu hư tại bà».
4. Thiên Chúa cùng chịu đau khổ và nghèo khó với con người
Dù đau khổ và nghèo túng là cần thiết cho chúng ta chứ không phải cho Thiên Chúa, nhưng nếu Ngài để chúng ta phải quằn quại trong đau khổ một mình, còn Ngài chẳng biết một chút gì về đau khổ, thì chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng cô đơn trong đau khổ, và chúng ta khó có thể tin được rằng Ngài yêu thương chúng ta. Nhưng nếu Ngài đã cùng muốn chịu đau khổ với chúng ta, và còn muốn chịu đau khổ hơn cả chúng ta nữa, thì điều đó chứng tỏ rằng Ngài đã yêu thương chúng ta đích thực.
Qua cuộc giáng sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đích thân xuống thế làm người để cùng chịu đau khổ và nghèo nàn với chúng ta. Ngài đã dùng đau khổ của chính mình để xoa dịu những đau khổ của con người, đã dùng thương tích của chính Ngài để chữa lành những vết thương của con người (xem lPr 2,24b). Điều ấy làm chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài đối với chúng ta là vô bờ bến, đồng thời cũng nhận ra giá trị của đau khổ và sự nghèo khó.
5. Hãy bắt chước Ngài chia sẻ đau khổ với những người chung quanh ta, nhất là những người nghèo túng, bị áp bức bất công
Nếu tình yêu đích thực đã thúc đẩy Thiên Chúa phải chia sẻ thân phận đau khổ và nghèo nàn của chúng ta, thì ta có thể rút ra một kết luận cho việc thể hiện tình yêu của chúng ta đối với tha nhân. Nếu chúng ta nói mình yêu ai, mà khi người ấy gặp đau khổ, chúng ta không hề cảm thấy phải làm điều gì để giảm bớt đau khổ cho người ấy, hoặc không tìm cách cùng chia sẻ đau khổ với người ấy, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối, tình yêu ấy chỉ là tình yêu ngoài môi miệng. Hễ yêu ai, thì khi thấy người ấy đau khổ, ta không thể khoanh tay đứng nhìn mà không làm gì. Nếu không làm giảm được đau khổ với người ấy, thì cũng có thể làm một việc gì để tỏ ra thông cảm. Chúng ta nghèo, Thiên Chúa cũng đã trở nên nghèo cùng với chúng ta. Vậy, làm sao chúng ta có thể nói rằng mình yêu thương người nghèo, khi chúng ta vẫn vui vẻ sống trên nhung lụa, và không hề quan tâm làm một điều gì cho người nghèo bớt nghèo. Làm sao ta có thể nói rằng mình yêu quê hương, trong khi mà quê hương đang đau khổ, đang tuột dốc xuống bờ vực thẳm, với bao nhiêu người bị bắt bớ, bị đàn áp một cách bất công, ta vẫn thản nhiên như người ngoài cuộc, chỉ biết hưởng thụ cuộc sống an vui mà may mắn đã dành cho ta?
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã cho Đức Giêsu nhập thể thành người để chia sẻ thân phận làm người với chúng con: cũng đau khổ, cũng nghèo khó, cũng đói cũng khát như chúng con. Qua sự nhập thể ấy, xin cho con nhận ra tình thương vô biên của Cha và sự cần thiết của những đau khổ trong đời sống của con. Con tin rằng Cha yêu thương con vô cùng và khôn ngoan vô biên, không bao giờ để con phải chịu đựng đau khổ một cách vô lý và không cần thiết. Con biết rằng hễ Cha để đau khổ xảy đến với con, ắt nhiên đau khổ ấy phải có ích lợi cho con, dù con không hiểu được ích lợi thế nào. Xin cho con biết chấp nhận đau khổ như Đức Giêsu, đồng thời biết yêu thương và cảm thông với đau khổ của mọi người chung quanh con. Amen.

21. Đêm giao hòa
Có một chuyện ngắn, mang tựa đề là “Người khách cuối cùng”, tôi xin được tóm tắt như sau:
Thôn ấp Bêlem còn chìn trong bóng tối. Hài nhi Giêsu còn thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa chuồng bò mở ra. Một bà lão xuất hiện. Thân hình gầy guộc. Nước da nhăn nheo. Áo quần rách rưới. Maria nhìn bà lão bằng cặp mắt canh chừng, lo âu và thoáng một chút sợ hãi.
Bà lão tiến lên, tiến lên nữa, đến tận máng cỏ. Rất may là Hài nhi Giêsu vẫn còn ngủ yên. Nhưng rồi bất ngờ, đôi mắt Hài nhi Giêsu khẽ mở và nhìn bà lão. Maria càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy cặp mắt của bà lão giống hệt cặp mắt của Hài nhi Giêsu, vì cả hai cùng sáng lên một tia hy vọng. Bà lão nghiêng mình trên máng cỏ. Bàn tay thọc sâu vào trong túi. Dường như bà lão lấy ra một vật gì đó, rồi đặt xuống bên cạnh Hài nhi Giêsu. Maria thắc mắc không hiểu là vật gì.
Yên lặng một lúc, bà lão đứng lên và cất bước. Như có một sức mạnh thần bí thúc đảy, bà lão bước đi nhanh nhẹn. Lưng không còn còng xuống và nét mặt lấy lại được vẻ tươi trẻ. Bà lão mất hút trên khoảng đồi xa xa. Bấy giờ, ngọn gió không còn lạnh cóng vì hừng đông đã ló dạng. Maria lại gần bên máng cỏ xem bà lão đã để lại vật gì. Maria vô cùng ngạc nhiên và kêu lên:
– Ôi, một quả táo vàng.
Bà lão ấy là hình ảnh tượng trưng cho Evà, đã trao lại cho Hài nhi Giêsu quả táo của tội lỗi đầu tiên. Và giờ đây, Hài nhi Giêsu đang cầm trên tay như cầm một trái cầu nhỏ, cho một thế giới mới xuất hiện.
Bà lão ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho toàn thể nhân loại chúng ta. Thực vậy, tội nguyên tổ đã ảnh hưởng trên chúng ta, khiến chúng ta phải cúi đầu lãnh nhận bản án của đau khổ và chết chóc. Tội nguyên tổ là như chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo tội lỗi của toàn thể nhân loại: Từ tội của Cain, tội của ngọn tháp Babel cho đến tội của mỗi người chúng ta, đã làm cho sợi dây xích ấy kéo dài ra tưởng như vô tận, biến con người trở thành thù địch với Thiên Chúa và với nhau. Tội nguyên tổ là như một trái phá, đã giật sập cây cầu cảm thông, nối liền trời với đất, nối liền Thiên Chúa với nhân loại.
Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là vực thẳm ngăn cách, tự sức riêng, con người không thể nào vượt qua để tìm về gặp gỡ. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là giông tố và xáo trộn, tự sức riêng, con người không thể đem lại một nền hòa bình và ổn định. Một khi cây cầu đã gẫy đổ, thì chỉ còn là thất vọng và đắng cay, tự sức riêng, con người không thể thắp lên cho mình niềm hy vọng giải thoát và cứu độ. Con người sinh ra là để kéo lê một kiếp sống đọa đày và sẽ kết thúc bằng cái chết.
Thế nhưng, Thiên Chúa đã lên đường tìm kiếm. Và đêm hôm nay, bàn tay Ngài đã nắm chặt lấy bàn tay nhân loại, cho tình yêu mở hội đâm bông và kéo chúng ta khỏi hố sâu tội lỗi, khỏi vực thẳm diệt vong. Ngôi Lời đã nhập thể. Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta.
Hài nhi Giêsu đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, đã nối lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đã thắp lên cho chúng ta niềm hy vọng. Hài nhi Giêsu là Adong mới, đã gánh lấy tội lỗi chúng ta, nhờ đó chúng ta được tha thứ, được thoát khỏi bản án của tử thần. Hài nhi Giêsu đã chiến thắng sự chết, để con người phải chết của chúng ta được sống muôn đời. Hài nhi Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn sống mới, khiến chúng ta lấy lại được vẻ đẹp nguyên thủy, chưa từng bị hoen ố bởi tội lỗi, để từ nay chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Hài nhi Giêsu đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của vui mừng và hy vọng, kỷ nguyên của ơn sủng và tình thương. Hài nhi Giêsu là một nhà cách mạng chuyên chính nhất, bởi vì Ngài đã xóa sạch mọi dấu vết của tội lỗi, đã khai sinh một triều đại mới trong công bằng và tự do, cũng như đã xây dựng một con người mới trong yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Mặt đất này không còn là hoang mạc cằn cỗi, nhưng đã trở thành thửa vườn xanh tươi của Thiên Chúa. Xã hội này không còn là một địa ngục, trong đó người với người là như chó sói của nhau, nhưng đã thực sự trở nên một thiên đàng vì có Thiên Chúa ở cùng.
Hãy cảm tạ tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa, đồng thời hãy cộng tác với Ngài trong việc biến đổi bộ mặt thế giới, để mỗi ngày một trở nên tốt đẹp hơn.

 

LỄ THÁNH GIA

1. Con có bổn phận
Suy Niệm
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.
Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.
Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Đức Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.
Đức Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.
Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30.
Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.
“Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?” – Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha.
Càng lúc Đức Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.
Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó.
Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria.
Đức Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.
Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng.
Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.
Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ.
Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con.
Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời.
Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.
Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó.
Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất…) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?
Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

2. Thánh Gia
Khi xuống thế làm người, Đức Kitô đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ và tình yêu không hề thiếu vắng dưới mái nhà Nadarét. Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng qua Phúc Âm chúng ta thấy thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu luôn gắn bó và ở bên nhau trong mọi biến cố vui buồn.
Thực vậy, chính thánh Giuse đã đưa Mẹ Maria xuống Bêlem để đăng ký hộ khẩu, giữa lúc ngày sinh đã tới gần. Rồi thánh Giuse cũng đã đưa Mẹ Maria lên đền thờ cùng với hài nhi Giêsu để chu toàn những điều luật định. Chúng ta cũng không quên việc thánh Giuse đưa Mẹ Maria và hài nhi Giêsu trốn sang Ai Cập, sau đó trở về Nadarét và sinh sống tại đó.
Một kỷ niệm khó quên khác nữa đó là lần Chúa Giêsu ở lại đền thờ khi lên 12 tuổi khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria phải lo âu tìm kiếm.
Cuộc sống của Thánh Gia không phải lúc nào cũng phẳng lặng, trái lại có những lúc tưởng chừng như muốn tan vỡ. Mặc dầu gắn bó mật thiết với Chúa, nhưng Thánh Gia cũng đã gặp phải những khó khăn và khổ đau, nhất là đối với Mẹ Maria. Nỗi bất hạnh lớn nhất của đời Mẹ đó là phải chứng kiến cảnh tượng con mình bị treo trên thập giá.
Cuộc sống gia đình của chúng ta cũng không thể tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những lo âu và buồn phiền. Điều quan trọng là phải biến nắm lấy tay nhau và cùng nhau nắm lấy tay Chúa để có được những nghị lực cần thiết, nhờ đó mà vượt qua những gian nan thử thách, những sống gió cuộc đời.
Nhìn vào đời sống của Mẹ Maria, chúng ta thấy ngoài việc nội trợ hằng ngày, thì một việc khác quan trọng hơn Mẹ đã thực hiện, đó là cầu nguyện. Phúc Âm thường viết về Mẹ như sau: Mẹ ghi nhớ những sự việc ấy và suy niệm trong lòng.
Còn thánh Giuse thì sao? Ngài là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của cả gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn cái mặc và những nhu cầu cần thiết khác. Thời nào cũng có những khó khăn của nó. Thánh Giuse đã phải vất vả lo sao cho gia đình đủ sống. Lao động để phục vụ gia đình, phải chăng đó là con đường nên thánh của Giuse?
Và như thế, bầu khí của mái nhà Nadarét là bầu khí của yêu thương, cầu nguyện và lao động. Đức Kitô không phải là một thần đồng, cũng không phải là một Phù đổng Thiên vương, Ngài chỉ là một con người bình thường như chúng ta, đã từ từ lớn lên trong thời gian với bầu khí thân thương ấy.
Thời gian là ánh mặt trời làm cho trái xanh được chín. Không hấp tấp cũng không dậm chân tại chỗ. Chúa Giêsu đã đi một chặng đường dài hơn 30 năm để được trưởng thành và sẵn sàng thi hành sứ mạng cứu thế của mình.
Còn gia đình chúng ta thì sao? Có yêu thương? Có cầu nguyện và có lao động như Thánh Gia hay không?

3. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh chép sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau nữa chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là Ai. Tuy nhiên hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Đức Giêsu: “Ông bà không biết rằng tôi phải làm công việc của Cha tôi sao?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của “cái ta”.
3) Chúng ta phải tìm Đức Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong Đền Thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến Đền Thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.

4. Con đường hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha me buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?

5. Suy niệm của McCarthy: Tìm kiếm trong đền thờ
Suy Niệm 1. ĐỨC GIÊSU TÌM THẤY BẢN THÂN NGƯỜI
Đức Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của Lề Luật. Như vậy, Đức Maria và Thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào những truyền thống cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng, nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước.
Nhưng khi Đức Maria và Thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Đức Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một câu chuyện đùa –một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều đó có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Đức Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đây. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Đức Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và Thánh Giuse rất dễ hiểu: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Đức Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt với. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá.
Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Đức Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề.
Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Đức Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và Thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và Thánh Giuse đã nhận ra rắng Đức Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và Thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.
Đức Giêsu không bị thất lạc tại Đền Thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.
Suy Niệm 2. SUY NIỆM CỦA ĐỨC MARIA
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tường. Đó là “Đức Maria hắng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2,19). Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.
Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều quan trọng là phải biết suy niệm.
Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các Bài đọc, Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.
Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghị. Trong suốt cuộc đời mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói: “Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mỏ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay”. Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quý giá từ các sự kiện đó.
Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng: nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Đức Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.
Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.
Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Đức Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu nói “Một bà mẹ có thể nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ”. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ dưới đây.
Ngày xưa, một con chim mẹ có một con chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú. Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ cõng chim non trên lưng.
Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói “Con của mẹ, con hãy nói sự thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?
Con chim con đáp “Mẹ ơi, con không thể hứa gì với mẹ về điều đó”.
Chim mẹ hỏi “Mà tại sao lại không được?”
“Bởi vì có thể chính con cũng bận rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho con bây giờ vậy”.
Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha mẹ đã săn sóc chúng ta.

6. Chú giải mục vụ của William Barclay
BÌNH MINH CỦA NHẬN THỨC (2,41-52)
Đây là câu chuyện hết sức quan trọng của Kinh Thánh. Luật quy định rằng mọi người nam Do Thái đã lớn, sinh sống trong vòng 24 km chung quanh Giêrusalem phải đến Đền Thờ dự Lễ Vượt Qua. Trong thực tế thì mỗi người Do Thái đã sống ở bất cứ nơi nào trên trái đất đều ước mong được dự Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, ít nhất một lần trong đời.
Bé trai Do Thái được kể là thành nhân khi lên 12 tuổi. Vào tuổi này là đã trở nên con của lề luật và phải tuân giữ lề luật. Như vậy, lúc 12 tuổi, Chúa Giêsu đã dự Lễ Vượt Qua đầu tiên. Chúng ta có thể tưởng tượng là Chúa Giêsu thích thú đến dường nào khi nhìn xem thành thánh, xem Đền Thờ và thấy các nghi lễ.
Khi cha mẹ trở về thì Ngài ở lại. Cha mẹ đã lạc mất Ngài vì sơ ý. Thường thì đàn bà, con gái lên đường trễ hơn, đi mau hơn, và đến chiều tối, lúc cắm trại nghỉ, hai đoàn mới gặp nhau. Đó là Lễ Vượt Qua đầu tiên đối với Chúa Giêsu. Chắc hẳn Giuse nghĩ rằng Chúa Giêsu đi với Maria, còn Maria tưởng Ngài đi với Giuse, cho đến khi hạ trại lúc chiều tối họ mới hay đã lạc mất Ngài.
Họ trở lại Giêrusalem để tìm Chúa Giêsu. Vào dịp Lễ Vượt Qua, Toà Công Luận theo thói quen thường hội họp công cộng trong hành lang của Đền Thờ để bàn luận các vấn đề tôn giáo cho cả dân chúng được nghe. Chính tại đó, bà Maria và Giuse đã tìm thấy Chúa Giêsu. Chúng ta không nên nghĩ cảnh tượng một đứa trẻ thần đồng đang lấn át cả một đám người lớn là những nhân vật quan trọng. “Vừa nghe vừa hỏi” đó là câu nói rất thông thường của cậu học trò hỏi vị giáo sư của mình. Chúa Giêsu nghe các lời tranh luận và khát khao tìm hiểu như một cậu học trò chăm chỉ.
Và bây giờ đến một trong những câu chìa khoá về cuộc đời Chúa Giêsu. Maria nói “Cha và mẹ đã lo lắng tìm con” Chúa Giêsu đáp: “Cha mẹ không biết con phải ở trong nhà của Cha con sao?”. Ta thấy Chúa Giêsu vừa dịu dàng vừa cương quyết đoạt tiếng “Cha” khỏi Giuse và trao tiếng Cha đó cho Thiên Chúa. Đã có một lúc nào đó Chúa Giêsu phải khám phá ra mối liên hệ đặc biệt duy nhất của Ngài đối với Thiên Chúa. Ngài đã không thể biết điều đó khi Ngài còn nằm trong máng cỏ và khi còn nằm trong lòng mẹ, bằng không chính Ngài là một người kỳ dị. Thời gian trôi qua, chắc Ngài suy nghĩ, và rồi trong Lễ Vượt Qua đầu tiên này, với tuổi thành nhân chớm nở trong Ngài, Ngài bỗng nhận thức được rằng Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa đặc biệt và duy nhất. Ở đây chúng ta có câu chuyện về ngày Chúa Giêsu khám phá ra mình là ai. Hãy chú ý điều này –khám phá đã không làm cho Ngài kiêu căng. Điều đó không hề khiến Chúa Giêsu khinh thường cha mẹ chất phác của mình, bà Maria dịu dàng và ông Giuse cần cù lam lũ. Ngài trở về nhà và vâng phục cha mẹ. Chính sự kiện Ngài là Con Thiên Chúa đã khiến Ngài nên người con thảo hiếu với cha mẹ trần gian. Người thật sự thuộc về Thiên Chúa không bao giờ khinh dể những mối liên hệ tự nhiên. Chính vì chúng ta là người thuộc về Chúa mà chúng ta cần thực hiện bổn phận con người một cách trung tín tuyệt đối.

7. Lễ Thánh Gia Thất
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en- Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8,44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18,17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13,54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn” (St 3,19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài” vì Ngài “không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài” (Dt 2,17.11). Tình yêu đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13,13).
Cécil Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện đời nay” thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: “Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: “Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu”.
4. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha” thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.

8. Suy niệm của R. Gutzwiller
THIẾU NIÊN MƯỜI HAI TUỔI NƠI ĐỀN THỜ.
Những biến cố chung quanh vị thiếu niên trong đền thờ đã mang một tầm mức đặc biệt vì đó là tất cả những gì người ta biết được trong khoảng thời gian dài của ba mươi năm ẩn dật; chỉ có một lần này là im lặng bị phá vỡ: vì thế quang cảnh này như là một luồng sáng giữa đêm đen.
1. Lễ Vượt Qua.
Cần phải nói qua về lễ Vượt Qua. Từ nguồn gốc lễ Vượt Qua là lễ mùa xuân của những người chăn chiên du mục trong hoang địa. Mỗi khi họ tụ tập lại dưới căn lều để ăn thịt chiên thui và nướng, chia sẻ bánh và vây quanh chén lớn, thì họ ý thức về cộng đoàn của họ; với việc bôi máu chiên trên cọc lều họ tin rằng đã đuổi được ma quỷ. Cứ thế, họ có thể tán tụng mùa xuân đang tới trong niềm vui vẻ.
Môisen, sau khi đã biết lễ này nơi hoang địa, ông thánh hoá nó và mang lại cho nó một ý nghĩa mới. Đưa vào đó một mùa xuân của các tân cộng đồng, gia đình và dòng tộc dân Chúa. Trong máu con chiên là hiến lễ hy sinh, là bảo vệ đời sống và chiến đấu chống lại thần chết. Như vậy Israel hằng năm cử hành lễ kỷ niệm cuộc rời bỏ Ai cập và ra đi dưới sự phù trợ của Giavê. Nhưng phải đứng mà ăn chiên, tay cầm gậy du hành: dấu hiệâu cho thấy Israel chưa đạt được mục đích và luôn trên đườgn lữ thứ.
Khi dự lễ Vượt qua cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ mang lại cho nó một ý nghĩa mới nữa. Chính Ngài sẽ là con chiên và máu Ngài sẽ bảo vệ khỏi satan và khỏi cái chết thiêng liêng. Cộng đoàn dùng bữa mà Ngài thiết lập không hệ tại ở chuyện ăn cùng một bánh, uống cùng một chén: bánh này đã được đổi thành Thịt Ngài, rượu này thành Máu Ngài và như vậy, người ta sẽ thành kẻ đồng bàn với Ngài và bởi đó cũng là đồng bàn với nhau.
Để kỷ niệm cuộc thoát ách tôi đòi ở Ai cập ngày xưa, Ngài đã liên kết vào việc từ bỏ tội lỗi và làm nô lệ cho nó để đi vào đời sống mới của tự do. Sự sống lại từ cõi chết của Ngài là bước đầu của một dân mới Thiên Chúa trong nước Vinh Quang.
Hơn nữa, đó luôn còn là ngày lễ Giáo Hội lên đường. Nhưng với ngày tái lâm của Chúa mới là cuộc biến đổi thứ tư của lễ Vượt qua này. Khi đó, dân được chọn sẽ bỏ đời sống tạm này để bước vào cuộc biến hình trên trời.
Tất cả sẽ nhận biết rằng mình đã được cứu nhờ Máu Con chiên và được dự phần trong tiệc cưới của cộng đoàn Đức Kitô. Đó là lễ Vượt Qua vĩnh cửu mà người ta nhắc đến mỗi năm và nhớ đến mỗi tuần trong ngày Chủ nhật. Đây là những giai đoạn của cuộc lễ này, từ khởi đầu hoàn toàn tự nhiên và chưa được khai hoá, có tính cách tượng trưng nơi dân Israel, tới khi hoàn tất với việc Đức Kitô đến rồi trọn vẹn đầy đủ khi Ngài trở lại.
2. Cậu thiếu niên ở lại.
Đức Maria và Thánh Giuse lên đường trở về cùng với dân Nagiarét, mà tân hồn họ đang hân hoan vì còn vang vọng niềm vui ngày lễ. Các trẻ nhỏ thường đi chung với họ, và chỉ tìm thấy chúng vào buổi tối nơi trạm nghỉ chân đầu. Lần này Chúa Giêsu ở lại. Điều đó hẳn có ý nghĩa. Đây là lần đầu tiên Chúa ở lại đền thờ của Cha Ngài với đầy đủ ý thức và ở đó, trong ánh sáng chói loà, trong sự sung mãn dồi dào, trong sự cao cả lan toả. Ngài hiểu sứ mạng đặc biệt nhận từ nơi Cha, sự hiện diện của Ngài bên Cha, và trong Cha. Đó là cảnh huy hoàng, hùng vĩ thứ nhất của Tin mừng.
Cảnh thứ hai là khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan với tiếng nói từ trời và Thần Trí ngự xuống, còn cảnh thứ ba là trên núi Tabor.
Cả khi Chúa Giêsu được hưởng kiến Chúa Cha trong bản tính cao với của Ngài, tâm hồn Ngài cũng không luôn để tràn ra nếu Ngài đã không biết đến đau khổ. Việc Ngài lớn lên, trưởng thành, học hỏi, triển nở tiệm tiến chỉ là một tác vi bên ngoài và mang tính cách nhân loại. Thỉnh thoảng ánh sáng từ trên cao mới vọt sáng nơi Ngài theo như sứ mạng cứu thế của Ngài. Trên bờ sông Giođan một sự sung mãn tràn lan trên Ngài, thống trị Ngài tới độ sự phong phú của Thần khí thúc đẩy Ngài xa lánh con người để vào nơi hoang địa.
Trên núi Tabor, ánh sáng chói ngời vây phủ Ngài đến nỗi Ngài biến hình hoàn toàn.
Ở đây, cậu bé mười hai tuổi, đã đầy tràn Thần khí Thiên Chúa đến độ ở lại đền thờ và trong một tầm mức nào đó, đã mất đi cái ý niệm về không gian và thời gian. Trong nhà của Cha Ngài, Ngài ngụ cách hữu hình đã vậy, nhưng luôn luôn vẫn là cách vô hình. Nhưng tại sao Ngài phải ra đi? Sự hiện diện của Ngài ở đền thờ không phải là cuộc hành hương ngắn ngủi; Ngài thực sự ở nhà Ngài, nơi mà Ngài phải ở. Cái làm ta ngạc nhiên là chuyện Ngài sẽ ra đi vào một lúc nào đó, chứ đâu phải chuyện Ngài ở lại.
Đối với chúng ta thì khác, sựï diện kiến Chúa Cha trong những phút ngắn ngủi của các giờ kinh nguyện, luôn là một kinh nghiệm yếu đuối. Chỉ là một tiếng vọng vang nhẹ, xa xa của lời mời gọi mạnh mẽ đã đủ đi sâu vào tâm hồn thiếu niên Giêsu, thoát ra một luồng ánh sáng mờ mờ từ một Thần trí phong phú. Hình như đối với chúng ta, việc trở lại vết xe cũ một cách nhanh chóng, quả là quá tự nhiên. Chúng ta thấy mình bỡ ngỡ trong những cái mà chúng ta phải quen thuộc. Thế giới cầu nguyện có lẽ là cái gì không hề và ít được biết đến, đang khi chúng ta quá biết rằng chúng ta đang ở một nơi mà chúng ta phải nhận thực rằng: cách biệt với Thiên Chúa.
3. Lời của Chúa Giêsu
Đây là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu được ghi lại trong Tin mừng; nó mang đến cho chúng ta một ý nghĩa đặc biệt, và như trước và sau đó, là một vực thẳm im lặng vây kín. Lời đó giống như một hòn đảo kỳ dị chìm xuống đại dương trầm lặng.
‘Thì tại sao lại tìm con?’ Cha mẹ không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao? Lời của Đức Maria: ‘Này con, sao làm như vậy?’ Hẳn là một lời khiển trách nghiêm khắc. Chúa Giêsu đã trả lời lại với vẻ hơi ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Tại sao người ta lại tìm Ngài ở những chỗ không phải là của Ngài? Nếu muốn kiếm Ngài, thì phải đến nơi Cha Ngài, đó là chỗõ của Ngài. Chớ gì họ biết đến điều đó và hành động theo đó. Chúng ta cũng thế, đôi khi ta cũng tìm Đức Kitô không đúng chỗ, ta nghĩ Ngài sẽ đến chỗ đang xẩy ra những biến cố quá quan trọng nhưng lại thật vô ích; ở những nơi mà dục vọng quả thực là rất đê tiện, đã làm ta choáng váng, cuối cùng ở những chỗ mà chúng ta cho là quan trọng đối với cuộc sống, mặc dù nó chỉ là những cái không đáng để ý gì hết. Thật ra, chúng ta phải tìm Chúa không phải nơi ta ở mà là nơi Ngài ở: bên trong Chúa Cha, trong thánh ý và thần trí Ngài.
Lời Chúa nói đây đặt ra những khoảng cách đâỳ ý nghĩa. Ngài không thuộc về cha mẹ thế trần này. Ngài sẽ không ở trong căn nhà nhỏ bé Nagiarét, trong giới hạn của Thánh gia này. Nếu bây giờ Ngài trở về đó và vâng phục các vị, thì Đức Maria và Thánh Giuse, từ nay cũng biết rằng chuyện đó không kéo dài mãi đâu, vì đấy chỉ là tạm thời và nặng tính cách sửa soạn thôi. Ngài được ban cho các vị, thực ra, là để các vị trao lại Ngài. Ngài ở lại giữa các vị, ngõ hầu để Ngài đi vào giữa lòng dân tộc và nhân loại. Không phải vì chuyện ích kỷ mang mầu đạo đức hay lợi dụng ơn thánh, nhưng hồng ân phải được triển đạt và tuần hoàn.
‘Con phải ở nơi nhà Cha con’. Phải tham dự vào vẻ vĩ đại và bao la của nước Thiên Chúa. Thế giới và nhân loại thuộc về Cha Ngài. Tất cả thuộc Cha Ngài. Chính vì thế mà Ngài đến cho vũ trụ và con người, cho mọi loài và mọi người. Sứ mạng của Ngài thật lớn lao phổ quát. Khi Ngài ngồi dưới hàng cột đền thờ giữa các vị thông thái để hỏi và đáp lời họ, đó chính là dấu hiệu bên ngoài của thái độ ở giữa nhân loại của Ngài để đặt ra những câu hỏi mà đã lâu con người không biết trả lời và đưa ra những giải đáp mà không ngừng gây ngạc nhiên cho chính các vị thông minh và giỏi giang.
Từ những lời này, mỗi người trong nhân loại sẽ nhận được một lời mời gọi riêng của Thiên Chúa, dù là linh mục, tu sĩ, để biết rằng phải bỏ sự an toàn của đời sống gia đình êm ấm, nhưng chật hẹp, biết rằng họ sẽ phải ném vào làm mồi cho một thế giới náo loạn, hiếu chiến; vào những vấn đề lớn lao và khó khăn mà chỉ còn một nơi nương ẩn duy nhất là lòng Chúa Cha.
Biến cố lạ kỳ của ngày lễ Vượt qua đầu tiên đây chỉ là bước đầu; giai đoạn kỳ lạ hơn phải là ngày vượt qua cuối cùng của đời sống trần thế của Chúa Giêsu, đó mới là kết luận và đồng thời là khởi điểm của một đời sống mới bên Chúa Cha.
Tin mừng viết thêm: ‘Nhưng ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với các vị’. Đức Maria và Thánh Giuse, những người sáng suốt, thông thái đã chẳng hiểu gì về cả các hành vi lẫn ngôn từ trong ngày lễ Vượt qua này. Mà đâu phải dễ hiểu, dù là trong tầm mức nhỏ nhoi, bí mật của Chúa Giêsu, và những lời nói lạ lùng của Ngài. Đức Maria chỉ có thể để những điều đó thấm vào lòng dần dần, từ từ, tầm trí Mẹ chỉ có thể được như vậy thôi, vì như Tin mừng cho thấy: ‘Ngài giữ hết những sự việc đó trong tâm hồn’. Chỉ ai có được trí tuệ thông suốt và một tâm hồn giầu đức ái, năng suy lời Chúa và giữ trong tâm hồn, mới đi dần dần, nhẹ nhàng vào thế giới bí ẩn thần thiêng được.
NAGIARÉT (2, 51-52)
1. Cuộc sống.
Người ta không thể hình dung đủ về cuộc sống ở Nagiarét như lúc khởi thuỷ được, cả bằng điều kiện sinh sống bên ngoài lẫn quá trình của cuộc sống. Đây là một làng ở hướng đông thành Galilê, nằm trên một miền cô quạnh của những đồi trọc, chỉ ngưng làm việc vào những ngày Sabbat và lễ tôn giáo. Người ta tự hỏi tại sao Chúa Giêsu mang trong mình một sứ mệnh quá ư là lớn lao mà lại làm người sống hơn ba mươi năm trong cảnh u tịch và xét về mặt con người trong cảnh sinh hoạt vô nghĩa này.
Tin mừng không cho ta biết lý do, vì thế, khi suy niệm, chúng ta phải tìm đến những suy tư cá nhân. Chắc chắn chúng ta được phép đề cập đến những điểm sau:
Trước hết, đời sống ẩn dật tự nó là một lý do đầy đủ vì nó cho ta thấy rằng đối với Thiên Chúa có cái gì khác; với cái nhìn phàm trần, để gây ấn tượng, thì phải có những gì đập vào mắt, vào tai, gây chú ý… Tác vi và công việc bên ngoài hình như là tiêu chuẩn quyết định. Còn với Thiên Chúa thì lại khác hẳn, ý hướng bên trong đáng giá hơn cả. Những việc bình thường thôi, nhưng được làm với lòng mến tuyệt vời lại lớn lao, đang khi việc lớn mà làm với ý hướng thấp yếu, thì kém giá trị.
Một dân quê cả đời chỉ biết có xóm làng quê mùa của miền sơn cước, hết năm này qua năm khác trung thành với nhiệm vụ của mình thôi, thì hiển nhiên, theo phán quyết của Thiên Chúa là lớn lao và ảnh hưởng hơn một người làm đảo lộn thế giới, hoàn tất những công trình vĩ đại, làm ngạc nhiên tất cả những ai như họ, và để lại đằng sau họ một luống sâu. Người không biết đến giá trị của đời sống âm thầm và ẩn dật không thể tự bào chữa trước mặt Thiên Chúa, Đấng hoà hoãn và ẩn mình.
Thứ đến phải nói thêm vào đó tầm quan trọng của việc sửa soạn. Trước một sứ mệnh thật lớn lao, Chúa Giêsu đã theo luật dậy là phải có thời giờ để sửa soạn. Một luật gia không thể xuất hiện trước quần chúng trước khi được ba mươi tuổi. Chỉ có người chín chắn thực sự mới được coi là đã chuẩn bị đủ để loan báo luật Chúa. Vì thế, linh mục mà vai trò của Ngài là giảng truyền và phân phát ơn thánh, phải biết dành tời giờ để sửa soạn lòng trí và tâm hồn. Những người đến với Ngài chắc chắn không phải để gặp một người lịch sự xã giao hoàn hảo, chỗ nào cũng đầy thoải mái, hay một cầu thủ ‘hết xẩy’ với vai u thịt bắp hoặc là một thương gia tài khéo, biết kinh doanh sinh lợi lộc về tiền bạc. Và càng không muốn tìm kiếm một người lành nghề tổ chức, không bao giờ thiếu kế hoạch kinh doanh; một nhà trí thức, thông thái trả lời được mọi vấn đề hay nhà ngoại giao giỏi giang luôn tìm ra được cánh cửa kín, nhưng người ta tìm nơi linh mục, người của Thiên Chúa, là người biết đón nhận lời Chúa trong học hỏi và cầu nguyện, và thành thực cố gắng sống theo những nguyên tắc đó. Trên tất cả, con người linh mục phải phát triển trong an hoà và tĩnh mịch.
Đó là lý do tại sao người ta đã tách các linh mục tương lai ra khỏi gia đình họ, khỏi đám bạn bè, khỏi nơi ồn ào và náo động của đời sống thị thành, và chỉ chọn các nơi yên tĩnh để lập Đại chủng viện và Tập viện. Vị linh mục cần có những năm yên ổn để học hỏi và suy nghĩ. Chỉ khi nào các Ngài có cuộc sống Nagiarét, các Ngài mới có thể sống và hoạt động cho lợi ích của Chúa Cha.
Ta còn tìm được lý do thứ ba của cuộc sống ẩn thân ở Nagiarét, vì đây là một cuộc thánh hoá đời sống gia đình: vì nơi đó, người cha, người mẹ và cậu con sống chung trong công việc và cầu nguyện, vui buồn có nhau. Đức Kitô đã sống ba mươi năm trong tổ ấm không được biết tới nhưng rất thánh thiện này để chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng của đời sống gia đình và việc thánh hoá đời sống đó.
Gia đình chúng ta ngày nay đang tan vỡ. Ngoài những nguyên do bên trong hay trật tự phong hoá đảo lộn, các sự việc bên ngoài cũng ảnh hưởng không ít: chính sách sai lầm về nhà cửa, với những gian nhà ổ chuột, người đàn bà bỏ sứ mạng làm mẹ nơi tổ ấm; với những người trẻ quá vất vả hầu như chẳng được chút tiền gì, với những bố trí chưa ổn trong việc giải trí và tất cả các thứ tổ chức khác…
Truyền thanh và truyền hình đôi khi cũng làm quấy rầy các cuộc truyện vãn trong gia đình, và nhất là các gia đình bị phá đổ bởi dễ dàng ly dị, bởi giới hạn sinh sản, mỗi ngày mỗi thiếu kính trọng, vâng phục và yêu thương nhau trong thẳm sâu của tổ ấm gia đình. Phải canh tân đời sống gia đình theo gương Thánh gia Nagiarét: đó là một trong những đòi hỏi quan trọng nhất hiện nay.
2. Lớn lên.
Chúa Giêsu lớn lên theo tuổi, khôn ngoan và ân sủng trước nhan Chúa và trước mặt người ta. Tin mừng nhấn mạnh tới các điểm này. Xét về tuổi thì chẳûng có gì lạ cả. Trong phạm vi này, đó là luật chung dù muốn hay không cũng vậy. Nhưng với Chúa Giêsu Đấng làm chủ muôn loài, Ngài không lệ thuộc vào đó. Ngài, Đấng hoàn hảo, mà vẫn khuất phục luật sinh tồn phát triển. Ở Nagiarét, vâng lời cha mẹ Ngài, tuân hành luật luân lý cũng như uốn mình dưới các luật lệ khác của cuộc sống.
Vì thế nơi Ngài, thân xác vẫn phát triển: từ một trẻ nhỏ tới cậu thiếu niên, thanh niên và người lớn. Nụ phát triển thành hoa thành trái. Thân xác thêm mạnh mẽ, tâm trí thêm cởi mở lên. Ngài không đốt giai đoạn, vẫn tuân theo luật trưởng thành tiệm tiến và lâu dài trong kiên nhẫn và chịu đựng. Ngài không muốn cưỡng bức, ép buộc cái gì cả; Ngài tôn trọng luật phát triển cơ thể trong không gian và thời gian. Việc phục tùng luật thiên nhiên này cho thấy vẻ cao thượng của tâm hồn cùng với sự luôn sẵn sàng nhận biết và chu tất Thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu lớn lên về khôn ngoan. Điều này ta đã thấy rõ. Chắc chắn là mỗi ngày sao thấy được sự khôn ngoan này nẩy nở thêm ở bên ngoài, vì đó là sự phát triển tận bên trong. Đức Giêsu thực sự có học hỏi. Những kinh nghiệm về cuộc sống luôn được Ngài tổng hợp tất cả; đó không phải chỉ là một sự hiểu biết đã được tiêu hoá, mà còn là một sự khôn ngoan: vì Ngài thấy cả các sự vật trong liên hệ xác đáng với Thiên Chúa Cha và như vậy là hiểu đúng chỗ, đúng tầm mức và đúng quy cách.
Sự khôn ngoan này, sự khôn ngoan giúp phán đoán tất cả theo một thứ tự đúng đắn, không để bị ràng buộc mù quáng, không bước theo những dấn thân sai lầm, những xu hướng phóng đãng, những đam mê hỗn loạn, nhưng là được đức ái của Thiên Chúa hướng dẫn và đem đến với Ngài, đó là sự khôn ngoan đích thực mang lại giá trị riêng cho việc hiểu biết.
Chúa Giêsu lớn lên trong ơn sủng trước nhan Thiên Chúa và trước mặt người ta. Điều đó có nghĩa là mỗi ngày của cuộc sống quý giá này làm rạng rỡ thêm chương trình của Thiên Chúa và nhờ đó thánh hoá trái đất hơn nữa. Và vì thế, chứng tỏ từ tâm đã mỗi ngày mỗi lớn thêm. Ở Nagiarét, Chúa Giêsu đã chẳng làm gì cho người ta phải để ý đến. Chúng ta biết được điều đó khi Ngài xuất hiện lần đầu ở quê hương Ngài.
Trong cuộc đời tuổi trẻ của Ngài, Ngài đã chẳng làm một dấu kỳ phép lạ nào, nhưng Ngài được mọi người yêu mến, có cảm tình, quý chuộng… Sự yêu kính này kéo dài tới khi Ngài không đáp ứng được những ước vọng của người cùng quê Ngài vì họ đầy hẹp hòi, và Ngài đã làm nổ tung chân trời chật hẹp của họ. Tuy nhiên, trong những năm tuổi trẻ này, Ngài lắng nghe và vâng phục, im lặng lắng nghe nhiều hơn là nói năng, chống đối và phản ứng chưa xuất hiện.
Như vậy Ngài làm rạng rỡ trên tuổi trẻ của Ngài một bầu trời xanh của một thiếu niên đầy thiện chí. Ngài lớn lên và trưởng thành trong cảnh êm đềm sung sướng; đó là mùa xuân hứa hẹn một mùa hè phong phú và một mùa thu nặng chĩu hoa màu. Không ai có thể nghĩ khác, thực sự với cái nhìn của con người, thì cuộc sống của Chúa cứu thế tiến triển và kết thúc tốt đẹp.
Người nào không được hưởng nếm mùa xuân thực sự của tuổi trẻ, thì sẽ không thể sẵn sàng để đương đầu với những phong ba và nguy hiểm của cuộc đời. Cây phải có rễ để chống cự với bão táp. Nhà phải có nền kẻo lung lay. Hãy tạo một thế hệ mà tuổi trẻ của họ được hạnh phúc, thuần khiết về luân lý, xác đáng về tôn giáo, hẳn sẽ là thế hệ biết thống trị tương lai và rèn luyện mình theo Thánh Ý Thiên Chúa.

9. Để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình
Suy Niệm:
Cổ tích vùng Bretagne, mạn Tây Bắc nước Pháp, kể lại câu chuyện sau đây: “Có một gia dình gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người say ngủ thì một trận giông bão chưa từng thấy xảy ra, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng bị lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi lềnh bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bồng đứa con. Nước càng lúc càng lên cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dần dần ngập thở và vô cùng mệt mỏi bà vợ cố giữ lấy hai cánh tay đưa con lên cao quá khỏi mực nước cho đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết chỉ mong có ai cứu được đứa bé. Vừa lúc đó có một thiên thần bay ngang qua trông thấy cái đầu đứa bé nổi khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm nhau cả cha mẹ lẫn đứa con. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được cứu sống”.
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội chúng ta là những gia đình què quặt, những gia đình tan nát vì nạn ly thân, ly dị và phá thai; những gia đình phân tán, chia ly vì chiến tranh, bạo lực và áp bức; những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, với đời sống vật chất kinh tế khó khăn eo hẹp hay vì nạn cờ bạc, rượi chè, ma túy thuốc phiện và ham mê buông thả tình dục…
Và những người phải trả giá mắc nhất do hậu quả của các khủng hoảng nặng nề là trẻ em. Là giới trẻ, làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các gia đình, tế bào nòng cốt của xã hội bệnh hoạn như thế?
Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh, trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương. Đó là mẫu gương tổ ấm yêu thương của gia đình Nagiarét, gia đình của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và thánh Giuse.
Chương 3 sách Huấn Ca đã nhắc lại điều răn thứ tư của Mười điều răn, dạy con cái phải tin yêu và thảo hiếu với cha mẹ và những lý do luân lý tự nhiên với câu ca dao Việt Nam:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Sách Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo của thái độ hiếu kính cha mẹ, những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành dưỡng dục chúng ta, có giá trị đền bù tội lỗi chúng ta đã vấp phạm. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khẩn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một ví dụ điển hình cho thấy để sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Huấn Ca đã biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm của nhân loại nằm trong chính cái tầm thường trong cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời, Người hiện diện trong cái tầm thường mỗi ngày của cuộc sống chúng ta, bởi vì Người đã sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người và chia sẻ mọi niềm vui, mọi âu lo, khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại với đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đổi là điều nói lên sứ điệp Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta. Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiêng linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong thánh vịnh 128. Đây là bí quyết tạo dựng hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc, cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi thành phần chỉ ích kỷ sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban, quí trọng và lo lắng cho những người khác.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng sinh hoa kết trái và gia đình chỉ là gia đình khi có cha, có mẹ, có con cái. Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt và bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn bã và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần kia, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón, vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Lấy nhau vì tiền, vì lợi lộc, vì chức tước và địa vị, sẽ không bao giờ tạo dựng hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ bể. Nhưng tình yêu chân thành không thôi cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình, cần phải có các nhân đức Kitô và nhân đức xã hội tự nhiên nữa.
Trong chương 3 thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày, trước khi đề cập các bổn phận của các thành phần khác trong gia đình. Thánh Phaolô nhắc cho mọi người biết một số bổn phận căn bản phát xuất từ lòng tin Kitô. Là những người được Thiên Chúa chọn làm con cái Ngài, thành phần sống động của Giáo Hội và là công dân của Nước Trời, hơn ai hết, Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu Kitô sống tình yêu thương bác ái, trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì chính tình yêu thương là thái độ sống nền tảng khiến cho người Kitô hữu thật sự giống Thiên Chúa và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội. Và do đó thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày mặc lấy các tâm tình của lòng thương xót nhân từ, khiêm tốn, hiền hậu và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu không khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng xót thương và nhân từ, chúng ta sẽ dễ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn, bắt đầu bằng chính các thành phần trong gia đình mình, giữa vợ chồng con cái, họ hàng bạn bè với nhau.
Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra các tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta, chớ không luôn luôn cho mình là hay, là giỏi, là nhất, hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác. Khi khiêm tốn chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, có khi còn tệ hơn họ nhiều. Chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bồi sửa chữa. Khi hiền dịu và kiên nhẫn, chúng ta không nóng giận, gay gắt với người khác, biết chịu đựng mọi thiếu sót sơ suất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng mọi thiếu sót và sai quấy của ta. Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và ơn ban cho mỗi ngày sẽ giúp chúng ta tập được các nhân đức trọn lành này.
Sau khi khuyến khích mọi người, mỗi ngày hãy mặc lấy các tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đưa ra một nguyên tắc xem ra đơn sơ nhưng thực hiện cho đúng thật là không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn. Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái phải thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ thì phải biết khoa sư phạm và tính tâm lý trong việc dạy dỗ, đối xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi để chúng chán nản ngã lòng. Có người coi các tôn ti trật tự trong các cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, tùy tiện, lỗi thời trong xã hội nam nữ bình quyền ngày nay, đặc biệt là trong liên hệ giữa chồng và vợ. Nhưng nếu chúng ta để ý nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cho cuộc sống hằng ngày như thánh Phaolô đã nêu bật, thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương, thì tất cả mọi người đều yêu thương nhau không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là trong cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn, khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dầu có khủng hoảng và khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật và biết sống tình yêu thương đó cụ thể, thì sóng gió nào rồi cũng sẽ yên và con thuyền tổ ấm gia đình vẫn tiếp tục tiến tới.
Sống yêu thương, chân thành, quảng đại và vô vị lợi không phải là dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Sự thật này được minh chứng trong bài Phúc Âm thánh Luca. Sự thường, 12 tuổi vẫn còn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Nhân dịp lễ, gia đình Thánh Gia hành hương lên Giêrusalem. Năm ấy đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi trẻ Giêsu ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày đêm hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, thì hai ông bà thấy trẻ Giêsu đang đối chất với các tiến sĩ luật trong đền thờ. Cái im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa, nó vừa diễn tả nỗi lo âu thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng sự tự do của Chúa Giêsu và chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do bí ẩn nào đó, khiến cho người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành sử này. Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy, đồng thời nó minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mạng và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới khác và qua sứ mạng phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của con, nhưng Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy gẫm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy phải lâu dài và đau đớn. Và Mẹ chỉ tìm hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân thánh giá của người con yêu, trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương. Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo cha mẹ về Nagiarét, lớn lên trong khôn ngoan tràn đầy ơn thánh và sống yêu thương vâng phục các ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.

10. Gia đình thánh thiện
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Vậy đâu là bí quyết dẫn đến hạnh phúc?
Tôi xin thưa:
– Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính đoạn Tin mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
– Những con người đặc biệt thì được miễn trừ nhiều việc, kể cả việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy thái độ của thánh gia là sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vốn thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận: cha mẹ đạo đức bao giờ cũng muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể không cần phải tuân giữ luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền thờ mà con người phải tôn kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không theo cách thức thông thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề luật, đã phục vụ Thiên Chúa một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải là điều luật buộc, nhưng là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng cơ hội chu toàn nghi lệ tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích giúp đỡ hai mẹ con, bởi vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho thấy Mẹ Maria và thánh Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ đó tạo nên một mái gia đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm của những bậc làm cha làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại Nagiarét. Cuộc sống của gia đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài cũng đã phải lao động vất vả mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn hạnh phúc, đầm ấm và thánh thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có một chiếc gạch nối là Chúa Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm vàng. Lúc trở về thì bốn người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của những thiếu thốn và cực nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn bình thường, vui vẻ và lạc quan. Người ta hỏi:
– Tại sao anh lại giữ vững được tinh thần như vậy?
Anh ta trả lời:
– Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi đã mang theo. Dĩ nhiên không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình ảnh của gia đình tôi vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi người đã cầu nguyện và cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo tôi trong suốt cuộc hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia: chúng ta hãy tuân giữ lề luật của Thein Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia đình của chúng ta sẽ mãi mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.

11. Tài sản
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà Giáo Hội muốn đề cao như gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu này và so sánh với các gia đình hôm nay, ta có thể tự nhủ: “Ôâi khác biệt quá! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn, rất bệnh hoạn!”
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang đối diện với vô số vấn đề: cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá… Những gia đình chỉ có cha hay mẹ mà thôi… Uy tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh khủng… Aûnh hưởng bên ngoài của xã hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong gia đình. Giới trẻ hầu như không còn tin tưởng gì nữa… Những người trẻ rời gia đình rất sớm…
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng hiện nay! Bao nhiêu người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong chính gia đình của họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa! Quá nhiều lần ta đã nghe nói: “Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia đình, tôi sẽ không có con, như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi nấng một gia đình. Thật quá vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn! Phải đổ ra biết bao nhiêu là nước mắt!”
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi? Khi tình trạng xấu đến thế? Bao giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa: người ta có thể buông trôi hết hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự; người ta có thể bỏ cuộc hoặc làm lại; người ta có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán chường hoặc lăn xả vào việc tái thiết; người ta có thể để cho tình hình xuống cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra chúng ta không nên mất thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một giải pháp có giá trị thôi: đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù khó khăn trắc trở vẫn không ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà người ta học biết làm người có trách nhiệm; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự lập và giá trị của kẻ khác; nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập thể, biết kính trọng và yêu thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ bản thân mình, cùng với những gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những điều này, người ta chưa tìm ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để cho tiêu tan một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc thân, những khẳng định này có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất vọng một số người khác. Họ sẽ nói: “Nếu ngài biết! Nếu ngài đã từng trải qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói khác”. Tuy nhiên, những lời mời gọi của linh mục là những lời mời gọi của Giáo Hội, là tiếng vọng lại từ chính những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Ngài thì người nam và người nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau đớn, không vất vả, không gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo hôm nay mang đầy ý nghĩa về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ: “Con ơi tại sao con làm cho cha mẹ như vậy? Con xem, cha mẹ đã phải đau đớn tìm kiếm con…” Có biết bao nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không nản lòng. Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương yêu và sống trước nhan Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ đợi nơi các Ngài. Nơi điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ trên thế giới. Và quá hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho tất cả các con cái trên thế giới.

12. Thánh Gia
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Đức Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm của Thánh Gia với tượng Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng ta đào sâu thêm một điểm nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể thực sự là một tổ ấm, mà trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm kiếm và thực hành thánh ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành phầm trong gia đình Kitô ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống trọn bí tích hôn nhân để chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo mẫu gương của Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe và được nuôi dưỡng bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm chúng ta đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm đối với cha mẹ, vợ chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh thiêng vừa qua, thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước máng cỏ để nhìn ngắm Chúa Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse âu yếm bảo bọc, nâng niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng an bình thư thái của những gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng ta dễ dàng để ý tưởng tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận hòa, mọi người yêu thương đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia hôm nay có lẽ dẫn chúng ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về với thực tế của những sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể xảy ra những mâu thuẫn, những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường như cha mẹ con cái lạc mất nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó vẫn là sự thật. Sự thật của cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp những cơn khủng hoảng, đời sống kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày nay đều khó khăn, sinh hoạt trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người ai nấy phải sống hối hả, sống vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả, theo họ dầu muốn dầu không cũng thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục con cái cũng trở nên trong những việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất những giá trị cổ truyền trong gia đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự kính trên nhường dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh, nhịn nhục… đã bị các trào lưu tân tiến và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận, những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không đề ra những giá trị mới thay thế vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng của gia đình cũng bị lung lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức tin có chiều sâu, thiếu phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu cả nước với những cố gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích Thanh tẩy, Thêm sức và nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những khó khăn mà các gia đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi đặt câu vấn nạn: “Có phải gia đình chúng ta lạc mất Chúa Giêsu rồi không?”, đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta phải ý thức rằng: đây không phải là một con đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm kiếm, trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để khi gặp lại Con phải nghe câu trả lời khó hiểu: “Tại sao cha mẹ lại tìm Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con sao?”.
Đức Maria là người đã ghi nhớ những việc đó trong lòng, chắc hẳn đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của Đức Giêsu trong suốt khoảng thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân thập giá mới hiểu nòng cốt của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm hiểu sống trọn thánh ý Thiên Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau tìm hiểu và thực hành thánh ý của Ngài.

13. Tìm thấy
Đức Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Đức Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Đức Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Đức Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Đức Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Đức Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Đức Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Đức Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.
Đức Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.

14. Suy niệm
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.
Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.
Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.
Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói: “Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay”. Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.
Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Đức Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.
Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.
Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Đức Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.

15. Gia đình
Thánh gia Nagiarét là một gia đình như hầu hết các gia đình khác nhưng lại khác hẳn tất cả những gia đình khác.
Như hầu hết các gia đình, gia đình Nagiarét: nghèo.
– Vì nghèo không có vốn đầu tư kinh doanh, gia đình Nagiarét phải lấy sức mình ra làm việc để sinh sống: thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Maria làm nội trợ suốt ngày bận rộn với những việc nấu nướng, giặt giũ, may vá, quét dọn… Chúa Giêsu khi còn nhỏ thì phụ giúp cha mẹ, lớn lên nối nghiệp thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Đây là một gia đình lao động tay chân.
– Lao động tay chân thì vất vả: đổ mồ hôi, tay chân chai sạm, quần quật suốt ngày…
– Mặc dù quần quật suốt ngày nhưng cũng chỉ đủ ăn không dư giả. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai bằng chứng về tình trạng không dư dả của gia đình Nagiarét: Khi đem con đầu lòng dâng vào Đền Thờ cùng với lễ vật theo luật định, những gia đình khác người thì dâng tiền, người thì dâng chiên cừu, còn gia đình của thánh Giuse chỉ dâng có một đôi chim câu là thứ lễ vật của những người nghèo. Khi đi Bêlem, hai ông bà không có tiền thuê nhà trọ nên đành phải trú chân trong hốc đá, chỗ làm nơi tạm trú cho súc vật. Gia đình này không dư giả.
– Vì không có dư dả nên dĩ nhiên cũng có những lúc túng thiếu, những ngày lo âu vì miếng cơm manh áo.
– Vì túng thiếu nên dĩ nhiên cũng không được người đời coi trọng mà còn bị khinh chê. Ta nhớ lúc Chúa Giêsu đã đi rao giảng mà vẫn còn có người nhận xét về Ngài bằng một giọng khinh chê “Con ông thợ mộc như thế mà là Đấng Cứu Thế cái nỗi gì!”
Nhưng gia đình Nagiarét lại khác tất cả các gia đình khác:
– Khác ở chỗ tự ý chọn cuộc sống: lao động chân tay nghèo nàn, là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể chọn sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo nàn như thế.
– Khác ở chỗ mặc dù nghèo nhưng những người trong gia đình này không lục đục với nhau như thường thấy trong các gia đình chúng ta: khi túng thiếu chúng ta sinh ra bực bội, gắt gỏng, gia đình hay cãi vã xung đột với nhau.
– Khác ở chỗ dù nghèo nhưng không gian tham, trộm cắép như thường thấy trong nhiều gia đình khác.
Tóm lại gia đình Nagiarét dù nghèo, dù làm lụng vất vả nhưng rất hạnh phúc rất thánh thiện.
Gia đình Nagiarét của thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu thật là:
– một niềm hãnh diện cho các gia đình lao động nghèo nàn.
– một nguồn an ủi khích lệ cho các gia đình lao động nghèo nàn.
– Và là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Nhìn vào nếp sống gia đình này ta có thể học được rất nhiều bài học quí giá.
Bài học thứ nhất là: trong gia đình, mọi người đều phải làm việc.
Thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Mẹ làm nội trợ, Chúa Giêsu khi nhỏ giúp cha giúp mẹ và lớn lên cũng làm nghề thợ mộc. Người nào việc ấy, người mạnh làm việc nặng, người yếu làm việc nhẹ, người chưa rành thì phụ giúp những người khác, ai cũng có công việc theo khả năng của mình.
Cổ nhân đã nói “Nhàn cư vi bất thiện: ở không thì sinh ra hư đốn làm điều không tốt. Những gia đình giàu có ở không riết rồi chồng thì say xưa, ngoại tình, vợ thì cờ bạc, ngồi lê đôi mách, con cái thì đua đòi, chơi bời lêu lỗng, tập tành nhiều thói xấu, ngay cả những gia đình nghèo nhưng không biết thu xếp công việc, cho con cái đi chơi suốt ngày thì chúng cũng hư: làm biếng, trộm cắp, ăn nói xàm sở, chửi thề nói tục đủ thứ…
Một số gia đình tổ chức công việc rất khéo: con cái những đứa còn nhỏ thì giao cho chúng những việc nhỏ, như quét nhà, rửa chén, giữ em; những đứa lớn hơn thì tập cho chúng may vá, nấu cơm, nuôi heo, làm gia công những đồ tiểu thủ công nghiệp… Giờ nào học thì học, còn những giờ khác thì làm việc, ai cũng có việc nấy. Dần dần thành nếp, mọi người đều cần cù siêng năng, biết dùng thời giờ của mình làm việc hữu ích, biết giá trị của đồng tiền và nhờ đó biết tiết kiệm không hoang phí, cũng không có những thói xấu như chơi bời lêu lỗng, ngồi lê đôi mách, trộm cắp gian tham… Những gia đình biết thu xếp như vậy tuy nghèo nhưng không đến nỗi thiếu thốn vì ai cũng siêng năng và biết xoay sở.
Ngược lại trong một số gia đình chúng ta, cha mẹ thì làm ăn rất là vất vả nhưng con cái thì lại không tập cho chúng làm, để chúng đi chơi hầu như suốt ngày. Chúng vừa chẳng giúp gì cho gia đình, vừa là một gánh nặng cho gia đình, lại vừa lây nhiễm đủ thứ thói xấu ngoài xã hội.
Bài học thứ hai là ta phải nên thánh ngay trong những việc lao động hằng ngày của chúng ta.
Có rất nhiều người than rằng vì bận rộn làm ăn nên đạo hạnh bê trễ. Đây là một quan niệm sai lầm, tách đời ra khỏi đạo, chia cách việc làm với đạo đức. Dĩ nhiên người bận rộn làm việc thì không có nhiều giờ để đọc kinh, để đến nhà thờ. Nhưng mỗi sáng dành ra vài phút để cầu nguyện, mỗi tối dành vài phút cầu nguyện nữa, Chúa nhật thu xếp đi lễ khoảng hơn một tiếng đồng hồ, như vậy đâu phải là nhiều. Và thậm chí nếu mình quá bận rộn thực sự để không thể làm những việc đó thì Chúa cũng không bắt tội chúng ta, Chúa chỉ bắt tội lười có thể làm mà không làm thôi. Vả lại sống đạo đâu phải chỉ là đọc kinh cầu nguyện, mà là đem tinh thần đạo vào chính cuộc sống của mình.
– Người sống đạo thật không đợi đến lúc tới nhà thờ mới nhớ tới Chúa, nhưng họ luôn dâng mọi việc họ làm hằng ngày cho Chúa, kết hợp với Chúa trong chính công việc của mình.
– Người sống đạo thật cố gắng tránh những cám dỗ trong khi làm việc: cám dỗ làm cẩu thả, gian dối, cám dỗ lười biếng, cám dỗ trộm cắp. Như vậy vừa làm việc họ vừa rèn luyện đạo đức và lập công trước mặt Chúa.
– Người sống đạo thật biến việc làm hằng ngày thành những công nghiệp, những lễ vật dâng lên Thiên Chúa và họ nên thánh bằng chính những công việc họ làm.
Chúa Giêsu đã dùng 30 năm trong số vỏn vẹn 33 năm ở trần gian để sống trong gia đình Nagiarét, để làm việc lao động chân tay cực nhọc. Điều đó rất có ý nghĩa: Chúa muốn cho chúng ta thấy giá trị thánh thiện của việc lao động hằng ngày và Chúa muốn nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ dạy cho con cháu mình biết làm việc cần cù siêng năng, và chúng ta hãy tự thánh hóa đời mình bằng chính những công việc hằng ngày.

16. Gia đình
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế nói: chỗ này không phải chỗã con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế lại nói: chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở đây”.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm gì thế”. Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!”. Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?
Thánh gia thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
Thánh gia thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Giuse đích thực là một người cha: Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽû, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hòa, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh gia thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là trường dạy cầu nguyện, dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hòa bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa”.

17. Hy sinh
Có câu nói “Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm sóc nổi một người mẹ”. Chúng ta hãy suy nghĩ xem câu nói này đúng không.
Một con chim mẹ có một con chim con. Chim mẹ thương yêu chim con vô cùng. Mùa đông đến, các loài chim phải rời xứ lạnh để bay đến những xứ ấm áp hơn. Chim mẹ biết chim con còn yếu không bay xa nổi nên cõng con trên lưng. Ban đầu chim mẹ còn khỏe nên bay khá nhanh. Nhưng sau một đoạn đường dài, chim mẹ mệt và cảm thấy đứa con trên lưng mình ngày càng nặng, nhưng vẫn cố bay. Tuy nhiên một ngày kia chim mẹ đuối sức nên đành phải đáp xuống nghỉ. Trong lúc nghỉ ngơi, chim mẹ hỏi chim con: “Con ơi, hãy nói thật cho mẹ nghe nhé. Sau này khi mẹ đã già, không còn sức bay về phía nam ngang qua những đại dương bao la thì con có cõng mẹ trên lưng như mẹ đang làm cho con bây giờ không?” Chim con trả lời: “Con e rằng không mẹ ạ!”. Chim mẹ ngạc nhiên hỏi tiếp: “Sao vậy?”. Chim con lại đáp: “Vì khi đó, con phải cõng con của con”.
Câu trả lời của chim con gợi cho ta thấy hai điều:
a/ Một sự thật phũ phàng: cha mẹ nào cũng hết lòng thương con và hy sinh tất cả vì con. Nhưng con cái thì đáp lại không được bao nhiêu. Ca dao Việt Nam có câu: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
b/ Một qui luật tự nhiên: Cũng có câu “Nước luôn chảy xuống”. Cũng như dòng nước luôn chảy xuống thấp chứ không chảy lên cao. Chảy xuống là chảy xuôi, còn chảy lên là chảy ngược. Cha mẹ yêu thương con cái và hết lòng chăm sóc con cái là qui luật tự nhiên.
Trước hai điều hiển nhiên trên, chúng ta phải làm sao? Một mặt, chúng ta hãy làm tất cả những gì có thể làm được để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ; và mặt khác chúng ta hãy hết lòng chăm sóc con cái chúng ta. Hết lòng chăm sóc con cái mình cũng là một cách để đền đáp công ơn cha mẹ trước đây đã hết lòng chăm sóc mình vậy.
******************