CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
MỤC LỤC
1. Vừa mang đèn, vừa mang dầu 4
2. Mang theo bình dầu 7
3. Đức khôn ngoan 11
4. “Khôn – Dại” 14
5. Cách thức chờ đợi 18
6. Khôn và dại – ViKiNi 20
7. Chúa nhật 32 Thường niên 23
8. Đong đầy dầu yêu thương 27
9. Để cho tâm hồn tỏa sáng 30
10. Cẩn thận – Sẵn sàng 32
11. Chúa Nhật 32 Thường Niên 35
12. Chúa Nhật 32 Thường Niên 39
13. Chúa Nhật 32 Thường Niên 42
14. Khôn ngoan đích thực 46
15. Bắt hụt 50
16. Sẵn sàng 52
17. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời! 54
18. Chú rể kia rồi, ra đón đi! 57
19. Trinh nữ khôn ngoan 61
20. Năm cô khôn ngoan 64
21. Đón Chúa 67
22. Tỉnh thức 70
23. Sẵn sàng 75
24. Niềm hy vọng 80
25. Để tránh việc “quá trễ” 85
26. Bài học về đức khôn ngoan 87
27. Thức tỉnh 90
28. Ánh sáng không bao giờ bị dập tắt 93
29. Chúa Nhật 32 Thường Niên 96
30. Khôn ngoan và khờ dại 99
31. Sống ngày cuối đời 106
32. Đèn đầy dầu cháy sáng 110
33. Chúa Nhật 32 Thường Niên 114
34. “Ta không biết các ngươi” 117
35. Chúa Nhật 32 Thường Niên 119
36. Mười cô trinh nữ 125
37. Mười người trinh nữ 128
38. Khôn và dại 130
39. Chúa Nhật 32 Thường Niên 133
40. Chúa sẽ đến 136
41. Cho ngày hôm nay 138
42. Sẵn sàng 141
43. Tỉnh thức 143
44. Chúa Nhật 32 Thường Niên 146
45. Chúa Nhật 32 Thường Niên 152
46. Chúa Nhật 32 Thường Niên 156
47. Được gọi để gặp gỡ 160
48. Chàng rể đến trễ 165
49. Tỉnh thức 170
50. Sẵn sàng 173
51. Một chủ đề về sự chết và sự sống 176
52. Sống khôn ngoan 180
53. Chuẩn bị sẵn sàng 184
54. Suy niệm của JKN 187
55. Chúa Nhật 32 Thường Niên 193
56. Chúa Nhật 32 Thường Niên 196
57. Khôn ngoan và khờ dại 201
58. Suy niệm của Mark Link 210
59. Chúa Nhật 32 Thường Niên 214
60. Dọn lòng đón Chúa 220
61. Chúa Nhật 32 Thường Niên 222
62. Chú giải của Fiches Dominicales 232
63. Chúa Nhật 32 Thường Niên 239
64. Dự liệu, phó thác và tỉnh thức 250
65. Người khôn kẻ dại 252
66. Khôn hay dại 257
67. Sẵn sàng 261
68. Hãy tỉnh thức và chờ đợi 264
69. Chúa Nhật 32 Thường Niên 266

1. Vừa mang đèn, vừa mang dầu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết. Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình. Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ, nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết. Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ, lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật. Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ, như chú rể đến lúc nửa đêm. Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan, hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá!
“Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu. Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan, vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya. Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ! Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ. Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại, có những người đèn đã hết dầu từ lâu…
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung, của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày…
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ… Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa, nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế. Chẳng ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức, khi nhận ra mình đã mê muội.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?
Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục…)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

2. Mang theo bình dầu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm
Ở đời ai cũng muốn mình là người khôn.
Ít ai muốn nhận mình là người dại, dù dại dột thì ai cũng có.
Người dại thường bị coi khinh, còn người khôn thì được ca ngợi.
Nhưng không dễ mà phân biệt được khôn với dại.
Làm cho mình được tiếng tăm, giàu có, chưa hẳn đã là khôn.
Chịu nhiều thất bại, nhục nhã, túng nghèo, chưa hẳn là dại.
Đâu là tiêu chuẩn để đánh giá một người là khôn thật?
Một người có đủ phúc lộc thọ ở trần gian chưa hẳn là người khôn,
nếu người ấy không đem được gì qua bên kia sau khi nhắm mắt.
Bài Tin Mừng ở cuối năm phụng vụ nói với chúng ta về khôn và dại,
và cho chúng ta biết thế nào là thực sự khôn.
Đức Giêsu kể cho ta chuyện mười cô trinh nữ, đóng vai trò phù dâu.
Có năm cô dại và năm cô khôn.
Tuy phân biệt dại và khôn, nhưng họ lại có nhiều điểm giống nhau.
Cả mười cô đều háo hức mang theo đèn,
để tham dự đám rước ban đêm, đưa cô dâu về nhà chồng.
Vì chú rể đến chậm mà trời đã khuya,
nên mười trinh nữ đang ở nhà cô dâu đều thiếp đi và ngủ cả.
Khi nghe báo chú rể đến, cả mười cô đều thức dậy, sửa soạn đèn.
Các cô dại nhận ra đèn của mình đã tắt, mà dầu thì không có.
Họ xin các cô khôn cho vay dầu, nhưng bị chối từ.
Trong đám rước về nhà chú rể, họ không có mặt, vì bận đi mua dầu.
Khi có dầu rồi, họ xin được vào dự tiệc cưới, nhưng lại bị từ chối.
Mọi sự đổ vỡ chỉ vì các cô dại không mang bình dầu dự trữ.
Họ không tính đến chuyện chú rể đến muộn.
Dụ ngôn trên đây có những chi tiết khiến ta khó hiểu.
Tại sao các cô khôn lại có thái độ ích kỷ
không chịu chia sẻ dầu cho những cô bị tắt đèn?
Tại sao chú rể lại đóng cửa không cho các cô dại vào dự tiệc?
Sự hiện diện của mười cô trinh nữ hẳn sẽ làm bữa tiệc vui hơn chứ!
Chú rể có thấy thiện chí của các cô dại khi họ vội vã đi mua dầu,
có thấy lòng ao ước của họ muốn được dự tiệc cưới không?
Tại sao chú rể lại khẳng định mình không biết các cô là ai?
Những chi tiết khó hiểu trên đây có thể không xảy ra trong thực tế,
nhưng qua đó, dụ ngôn này lại có thể gửi cho ta một thông điệp.
Vào ngày tận thế hay quang lâm của Đức Giêsu,
mỗi người chúng ta phải chịu trách nhiệm về số phận của mình.
Như các cô dại, tôi có thể tìm sự giúp đỡ nơi người khác.
Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi có thể ỷ lại, dựa dẫm:
“Sợ không đủ dầu cho chúng em và cho các chị đâu” (Mt 25,9).
Nếu các cô khôn chia sẻ số dầu dự trữ cho năm cô dại
thì trên đường đến nhà trai, có lúc chẳng còn ngọn đèn nào sáng.
Hình ảnh “cửa đóng lại” cũng nhắc ta về một bi kịch có thật.
Dù Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi,
nhưng không phải mọi người đều đương nhiên vào Nước Trời.
Không phải cửa lúc nào cũng mở, để ai muốn thì cứ vào tự do.
“Ta không biết các ngươi”; “Tôi không biết các cô là ai” (Mt 7,23; 25,12).
Cần có tương quan với Đức Giêsu để được vào Nước Thiên Chúa.
Cần biết Ngài thân thiết và cần được Ngài biết.
Xem ra có “bình dầu” dự trữ là điều quan trọng.
Muốn vào Nước Trời phải có đèn sáng khi Chúa quang lâm.
Muốn có đèn sáng, cần có dầu để dùng trong thời gian lâu dài.
“Dầu” tượng trưng cho cả một cuộc sống luôn thi hành ý Chúa.
“Dầu” không phải chỉ là lời tuyên xưng: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”
mà là những việc làm theo ý Cha kéo dài suốt cuộc đời.
Những việc làm tốt đẹp là chất dầu làm cho đèn tỏa sáng (Mt 5,16).
Thật tiếc cho năm cô trinh nữ có sửa soạn, có đợi chờ,
nhưng lại bị lỡ không được đi rước dâu và được vào dự tiệc.
Các kitô hữu chúng ta, ai cũng có thể là các cô dại trong dụ ngôn.
LỜI NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào.
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn,
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

3. Đức khôn ngoan
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
“Khôn ngoan”, trong từ điển Tiếng Việt được định nghĩa là “khéo léo trong việc cư xử với mọi người”. Từ điển Wikipedia lại giải thích dài hơn như sau: “Sự khôn ngoan hay sự thận trọng (tiếng Latinh: prudentia, tiếng Anh: prudence) là khả năng quản trị và kỷ luật bản thân thông qua việc sử dụng lý trí. Sự khôn ngoan được coi là một đức hạnh, và đặc biệt là một trong bốn đức hạnh cốt yếu (cùng với Can đảm, Công bằng và Tiết độ)”. Đối với thánh Tô-ma A-qui-nô, ngài coi khôn ngoan là nguyên nhân, phương pháp và hình thức của mọi đức hạnh.
Lời Chúa trong cuốn sách mang tên “Sách Khôn Ngoan” của Chúa nhật 32 hôm nay lại định nghĩa “khôn ngoan” theo một ý hướng khác. Xin lưu ý là chữ “Khôn Ngoan” tác giả đặt ở chữ viết hoa. Điều này cho thấy “Đức Khôn Ngoan” ở đây không theo nghĩa thông thường. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, Đức Khôn Ngoan chính là Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Người có từ thuở ban sơ, hiện diện cùng với Thiên Chúa, để cùng Chúa Cha sáng tạo muôn loài. Những ai thiện chí tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Người sẽ cho gặp. Đức Giê-su đã quả quyết: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). Hôm nay, Đức Giê-su, tức là Đức Khôn Ngoan, vẫn đang không ngừng tìm kiếm chúng ta. Người sẽ tỏ mình ra cho chúng ta, nếu chúng ta trở nên nghĩa thiết với Người. Người soi sáng cho chúng ta, nhờ đó chúng ta nhận ra lẽ phải để biết đối nhân xử thế một cách hài hòa.
Hiểu như thế, chúng ta sẽ nhận ra, lý tưởng đời sống Ki-tô hữu là tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là Đức Ki-tô, đồng thời cố gắng mỗi ngày để nên giống như Người. Danh xưng “Ki-tô hữu”, vừa có nghĩa “người được xức dầu”, vừa khẳng định chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, tin vào Đức Ki-tô và phấn đấu để nên giống Đức Ki-tô trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Một khi có Đức Khôn Ngoan hướng dẫn, chúng ta sẽ biết nhìn xa trông rộng, để sống tốt hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Trên đời, có những người đạt được Đức Khôn Ngoan; nhưng cũng có người không được như vậy. Dụ ngôn “Mười trinh nữ” được thánh Mát-thêu đặt vào văn mạch những bài giảng của Chúa Giê-su về cánh chung, tức là vào lúc tận thế. Người ta có thể khôn ngoan trong những suy tính thế gian, nhưng chưa chắc đã khôn ngoan khi lo liệu hạnh phúc vĩnh cửu. Những cô khờ dại chỉ nhìn trước mắt. Họ chú ý đến trang điểm và làm duyên cầu kỳ, mà không nghĩ đến sự thận trọng và vẻ đẹp tâm hồn. Một điều cần lưu ý là cả người khôn và người dại cuối cùng đều phải trình diện trước nhan Chúa, nhưng tương lai của họ thì hoàn toàn khác nhau.
Như chúng ta đã biết, hình ảnh tiệc cưới được Chúa Giê-su sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng, hầu hết đều mang nội dung giáo huấn về ngày cánh chung. Sống ở đời, chúng ta đang chuẩn bị cho ngày đó. Dù sớm hay muộn, ngày ấy cũng sẽ đến. Nhiều người lập luận rằng: những người Công giáo cứ nói đến cánh chung từ hàng ngàn năm nay rồi, mà ngày ấy đâu có đến. Quả thật, ngày cánh chung chưa đến, nhưng Chúa Giê-su nói với chúng ta trong câu kết của bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (câu 13). Hơn nữa, nếu ngày cánh chung hay tận thế hiểu theo nghĩa phổ quát chưa đến, thì đối với mỗi chúng ta, lúc kết thúc cuộc đời dương thế, mà chúng ta vẫn gọi là giờ chết, thì đó chính là tận thế và là ngày phán xét riêng Chúa dành cho chúng ta. Đó là lý do vì sao chúng ta phải luôn khôn ngoan chuẩn bị cho tương lai đời mình. Năm trinh nữ khờ dại đã không nghĩ đến chuyện đó, nên các cô đã bị lỡ.
Qua dụ ngôn “Mười trinh nữ” Chúa Giê-su cũng dạy chúng ta về sự sống sau khi chết. Chết là biến đổi sang trạng thái khác. Đối với những ai tín trung với Chúa, chết là gặp gỡ Chúa, và là dự tiệc vui muôn đời. Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Thê-xa-nô-ni-ca đã đưa ra lời giải thích về sự chết, để người tín hữu không còn buồn phiền bi quan. Chúng ta kẻ trước người sau, ai cũng phải đến lúc kết thúc cuộc đời. Nếu sống thánh thiện thì sẽ được gặp nhau mãi mãi trên quê trời.
Tháng Mười Một hằng năm được dành riêng để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người đã khuất. Dụ ngôn “Mười trinh nữ” cũng thường được đọc trong thánh lễ an táng và cầu hồn, như một lời mời gọi những ai đang sống hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Khi cầu nguyện cho người đã qua đời, chúng ta cũng nghĩ đến thân phận mình. Hãy tìm kiến Đức Khôn Ngoan. Hãy theo học với Người. Tác giả Thánh vịnh (Đáp ca) đã thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, ngay từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa”. Ước chi mỗi chúng ta cũng khởi đầu ngày mới bằng việc tìm kiếm Chúa, tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, để chúng ta cũng được nên khôn ngoan giống như Người.

4. “Khôn – Dại”
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trong ngôn ngữ đời thường, khôn và dại là hai tính từ chỉ hai tình trạng đối lập nhau. Tuy vậy, để kết luận một người nào đó khôn hay dại lại không dễ dàng chút nào. Một người buổi sáng khôn ngoan với hành vi thận trọng, bỗng buổi chiều trở thành dại khờ vì có phát ngôn không tốt. Khôn dại cũng được nhận định theo cảm nhận chủ quan của mỗi người. Ranh giới giữa khôn và dại thật mỏng manh, lượng giá xem dại hay khôn thật khó đoán. Vì thế mà cổ nhân dạy: “Khôn ba năm dại một giờ”. Một hành vi sai trái có thể làm cho người khôn nên dại; một cử chỉ khôn ngoan có thể biến người dại nên khôn. Một phút dại khờ có thể làm một người khuynh gia bại sản, một giây khôn ngoan có thể làm cho một người trở nên phú quý cao sang.
Sự khôn ngoan được nói tới trong Phụng vụ hôm nay hoàn toàn khác với quan niệm thông thường. Trước hết, Bài đọc I nói với chúng ta về Đức Khôn Ngoan (Lưu ý chữ viết hoa). Đức Khôn Ngoan được trình bày như một con người, một Đấng đang hiện hữu giữa chúng ta. “Ai tìm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp… Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà”.
Dưới ánh sáng của mạc khải Kitô giáo, chúng ta nhận ra Đức Khôn Ngoan được diễn tả trong Cựu Ước chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Nơi Đức Giêsu, Đức Khôn Ngoan của Cựu Ước đã được “ngôi vị hóa”. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người để đến gặp gỡ thân thiện với con người trần gian. Những ai nghe Đức Giêsu giảng dạy đều thán phục và trầm trồ khen ngợi, “vì người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Bằng cuộc sống và giáo huấn của Người, Đức Giêsu dạy cho con người thay đổi quan niệm về khôn – dại. Người khôn ngoan không chỉ là người có “chỉ số IQ” cao như ngày nay người ta thường nhận định, nhưng là người biết sống vì tha nhân, biết quan tâm đến những người xung quanh mình. Chúng ta hãy đón nhận giáo huấn của Chúa. Hãy để Lời Chúa thanh luyện để chúng ta đạt được sự khôn ngoan đích thực.
Cuộc sống người Kitô hữu chính là hành trình tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là tìm kiếm Đức Kitô. Lịch sử đã chứng minh: ai gặp được Đức Kitô thì tìm được hạnh phúc. Biết bao người nam cũng như nữ suốt bề dày lịch sử đã can đảm chọn Chúa là gia nghiệp duy nhất và chấp nhận mất tất cả để đánh đổi lấy sự Khôn Ngoan. Họ là những vị thánh, được tôn vinh vì sự chọn lựa cao cả tuyệt vời ấy. Hôm nay, Đức Khôn Ngoan vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để đồng hành với chúng ta trong hành trình kiếp người. Ai thành tâm thiện chí tìm kiếm thì sẽ gặp được Người.
Làm thế nào để gặp Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời? Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe câu chuyện dụ ngôn về mười cô trinh nữ đi đón chàng rể theo phong tục tập quán của người Do Thái. Năm cô trinh nữ mang đèn mà không đem theo dầu bị kết án là những người dại dột. Các cô sống mà không có định hướng cho tương lai. Các cô chỉ a dua theo người ta đến đám cưới. Quan niệm về cuộc sống của các cô chỉ mang tính nhất thời, thiếu sâu sắc. Các cô quá chú ý đến việc trang điểm và y phục bề ngoài, mà quên rằng chàng rể có thể đến sớm và cũng có thể đến muộn. Các cô cũng quên rằng việc mang theo đèn có dầu thắp sáng là một điều kiện để theo chàng rể vào phòng tiệc.
Như trên đã nói, khái niệm khôn – dại mà Phụng vụ đề cập hôm nay hoàn toàn không giống như cách suy nghĩ của người đời. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều đó trong thư gửi giáo dân Côrinhtô: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người” (1Cr 1,23-25). Theo quan niệm của người đời, người khôn là người biết làm lợi cho bản thân; trong quan niệm của Thánh Kinh, người khôn là người biết hy sinh cho kẻ khác. Cũng một sự kiện Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, Người có đức tin nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa; người vô tín chỉ thấy thất bại nhục nhã và khổ đau.
Trong cánh đồng cuộc đời, cỏ lùng và lúa cùng mọc lên. Trong cuộc sống nhân sinh, người khôn và kẻ dại cùng hiện hữu. Người dại thường phải chấp nhận một số phận hẩm hiu, thua thiệt; người khôn lại mang số phận phú quý cao sang. Người Công giáo tin rằng với nỗ lực cố gắng của bản thân và với ơn phù trợ của Chúa, người ta có thể trở thành người khôn ngoan thực sự, nhờ lòng mến Chúa yêu người.
Khôn ngoan và dại dột không chỉ là hai hạng người hiện hữu trong cuộc sống, nhưng đó còn là hai thái cực đồng thời tồn tại trong cùng một con người. Nơi mỗi người luôn có sự khôn ngoan, nhưng đồng thời cũng vẫn còn sự dại dột, vì thế mà chúng ta phải thận trọng trong ngôn từ cũng như trong hành động, nhờ đó mà chúng ta trở nên người khôn ngoan, loạn trừ dần sự dại dột đang tồn tại trong chính chúng ta.
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Các Thánh. Chúng ta cũng đang cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục trong suốt tháng 11 này. Cuộc đời của các thánh giúp chúng ta suy nghĩ về sự khôn ngoan đích thực, giống như năm cô khôn ngoan trang bị đủ dầu. Số phận các linh hồn nơi luyện ngục lại nhắc ta phải tỉnh thức, để tránh rơi vào tình trạng bi thảm của năm cô khờ dại vì thiếu dầu. Dừng chân bên nấm mộ, chúng ta cảm nhận rõ hơn sự mong manh của phận người. Suy tư về sự chết, chúng ta nhận ra đâu mới là những giá trị tồn tại vĩnh viễn, giúp chúng ta đạt được sự sống đời đời. Như vậy, khôn ngoan hay dại khờ là do chính chúng ta chọn lấy cho mình.

5. Cách thức chờ đợi
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Chờ đợi là hai từ mà chúng ta vẫn nói trên môi. Chờ đợi một ai đó. Chờ đợi một chuyến đi. Chờ đợi một sự kiện. Một ngày có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi. Nếu một chiều đứng lặng và quan sát nơi đường phố, chúng ta sẽ thấy những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua, những chiếc taxi xếp hàng dài chờ đón khách, những người đi lại chờ đèn để băng đường, những người ăn xin chờ đợi một tấm lòng, …
Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta chờ đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ai đó từng nói rằng chờ đợi là hạnh phúc, nhưng cũng có người bảo rằng chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Song, không ai có thể trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi và đôi khi chúng ta cứ phải chờ, chờ rất nhiều, rất lâu đơn giản vì không thể nào làm khác được.
Có bài hát viết rằng: “Em vẫn từng đợi anh, như hoa từng đợi nắng, như gió tìm rặng phi lao, như trời cao mong mấy trắng.”. Sự chờ đợi đích thực không phải là không làm gì, là án binh bất động mà là tìm kiếm, là hành động để không bỏ lỡ cơ hội gặp lại người mình yêu.
Như vậy, chờ đợi để đón nhận một niềm vui, chờ đợi là để tiếp tục một công việc. Chờ đợi là nhịp cầu để chúng ta hoàn thành một công việc, hoàn thiện một ước mơ. Chờ đợi là một điểm nhấn cần có trong cuộc sống để chúng ta nắm bắt những cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.
Chúa Giêsu nói rằng cuộc sống chúng ta cũng có một bến đợi. Nơi bến đợi đòi hỏi chúng ta phải làm việc. Bến đợi cuộc đời đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để luôn chu toàn bổn phận. Tỉnh thức để luôn chuẩn bị đủ dầu thắp sáng giữa đêm tối đầy những cạm bãy rình chờ. Đừng như những trinh nữ khờ dại vì lười biếng mà bỏ lỡ cơ hội dự tiệc vui Nước Trời. Hãy sẵn sàng như các cô trinh nữ khôn ngoan luôn tỉnh thức để được cùng tân lang vào trong phòng tiệc.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá! “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”.
Đáng tiếc cho các cô khờ dại là có đèn, nhưng đèn lại không đủ sáng khi Chúa đến, vì Chúa đến quá bất ngờ khiến dầu đã cạn, ánh sáng đã không còn.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen.

6. Khôn và dại – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lời Chúa đề cập đến năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Thế nào là khôn ngoan và khờ dại?
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích:
Theo chiều kích tự nhiên, khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập” (1V. 5, 9-14).
Theo chiều kích siêu nhiên, khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết” (Dn. 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: “Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv. 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl. 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: “Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan” (Hc. 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv. 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1. 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc. 11,31). Cho nên Bài đọc I đã hô hào ta khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu (Kn. 6, 12-16)
Bài Tin mừng cho thấy năm cô khôn ngoan. Các cô đã được theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Đây là tiệc cưới nước Trời muôn ngàn vinh quang rực rỡ, và hạnh phúc vô cùng.
Các cô đáng được hưởng hạnh phúc vinh quang đó vì các cô khôn ngoan biết lo chu toàn nghĩa vụ của mình, đã sửa soạn đầy đủ đèn dầu thắp sáng cho đám tiệc được vui mừng rực rỡ. Các cô đã coi trọng nhiệm vụ mình để tôn trọng chú rể, mong đợi giờ phút chú rể đến, dù bất cứ lúc nào, các cô đã sẵn sàng tất cả mọi sự, các cô có thiếp ngủ, các cô vẫn an giấc, không còn lo âu, áy náy sợ chi nữa. Chỉ cần có tiếng hô to là các cô thức dậy theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Thánh Phaolô thấy giáo hữu Thessalonica đã khôn ngoan sống theo lời Chúa, nên ngài đã an ủi họ đừng có buồn phiền về người an giấc ngàn thu như những người không tin tưởng, những người khờ dại. Vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Chúa Giêsu… được ở cùng Chúa mãi mãi (Thes. 4, 13-18)
Trái lại, những kẻ khờ dại như năm cô đem đèn mà không có dầu. Những kẻ này quá tệ! Chúng lơ là lười biếng, thờ ơ nguội lạnh bỏ bê nhiệm vụ, chúng khinh thường những việc trọng đại như tiệc cưới, coi khinh chàng rể, xách đèn đi mà không coi gì tới đèn có dầu hay không. Sống quá bừa bãi, bê tha gì đâu đâu, còn chính nhiệm vụ quan trọng của mình lại không lo. Đối với hạng người bê bối này, chủ bảo: “Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô là ai cả”. Chúng đã không biết chủ, không kính trọng chủ, làm cho đám tiệc thiếu niềm vui vì thiếu ánh sáng, tối tăm, cho nên chúng đáng phải trong tối tăm. Khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần ban ra và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, những người chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trong vinh quang với Chúa (Thes. 4,16), còn “những kẻ đã không làm cho chính Ta, sẽ bị đuổi vào chốn cực hình muôn kiếp” (Mt. 25, 46).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan tỉnh thức, luôn luôn sẵn sàng lo chu toàn ý chủ, chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc Chúa trao phó. Như thế, chúng con đã chứng tỏ được lòng trung tín tôn thờ và kính mến Chúa hết lòng. Xin đừng bao giờ để con dám bỏ bê khinh thường việc chuẩn bị đi đón Ngài, kẻo bị loại ra khỏi tiệc cưới nước Trời.

7. Chúa nhật 32 Thường niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
KHÔNG THỂ VÀO THIÊN ĐÀNG BẰNG ĐỨC TIN VAY MƯỢN
Đọc dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ lên, chúng ta thấy có điều không ổn, bởi đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới. Chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu này. Mười chị em cùng nhóm phù râu với nhau mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì
Dầu đức tin
Năm cô có đèn nhưng hết dầu xin năm cô đèn còn sáng, lại có dầu dự trữ nữa, vậy mà năm cô kia không cho. Chẳng những thế lại còn nói: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến và cửa đóng lại. Lúc năm cô có dầu, đèn sáng về gõ cửa, chính chú rể đích thân ra mở cửa, thấy năm cô, nhưng lại trả lời một cách khắc nghiệt: “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, không biết. Đành rằng chú rể không biết các cô. Thế còn năm cô bạn kia đâu, sao không ra nhận bạn đưa vào? Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo. Thật là kết cuộc đáng buồn cho những ai không chuẩn bị sẵn sàng!
Dụ ngôn muốn ám chỉ, dầu ở đây là dầu đức tin. Đức tin cần thiết để được ơn cứu độ. Đức tin không thể vay mượn được. Có đi mua chăng nữa thì cũng uổng công vô ích.
Không ai có thể vào thiên đàng bằng đức tin vay mượn
Đây chỉ là dụ ngôn Chúa Giê-su kể cho các môn đệ, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta rằng Không ai có thể vào thiên đàng bằng đức tin vay mượn.
Chàng rể chính là Chúa Giê-su, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới, thì đức đức tin cũng cần thiết để được vào Thiên Đàng. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại là hình ảnh nhân loại có người dại người khôn. Khôn hay dại tùy thuộc vào thái độ họ có biết sẵn sàng chuẩn bị cho mình đức tin cần thiết không. Cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Cả mười cô đều ngủ, nhưng năm cô khôn ngủ trong thái độ tin. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó, đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất, nên ai khôn thì sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận, phải tin cho đủ với đèn nhân đức tích sẵn thì được vào Nước Trời. Đây chính là bài học Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta.
Hãy học năm cô khôn
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, sẵn sàng có nghĩa là đèn phải luôn có dầu. Đèn ở đây là chính đức tin, tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu và lòng mến, giữ cho ngọn lửa đức tin của chúng ta luôn cháy sáng. Với dầu cầu nguyện và việc lành luôn cháy sáng, Chúa sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nghĩa là không ai có thể vào thiên đàng bằng đức tin vay mượn, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa. Chính Chúa Giê-su nhắn nhủ và mời gọi chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và dữ trữ cả dầu.
Vậy, hãy mến chuộng Ðức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan ở đây là chính Chúa. Chúa là Đấng Khôn Ngoan “sáng tỏ, không bao giờ lu mờ” như câu đầu của bài đọc I hôm nay (Kn 6,12). Những “ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước” (Kn 6,13).
Như thế, muốn gặp Chúa phải tìm kiếm; nhưng chỉ ai yêu mến Chúa mới tìm kiếm Người. Duy trì được lòng yêu mến Chúa là có thái độ sẵn sàng; và ai làm như thế được kể là người khôn ngoan. Vậy người khôn có đèn cháy sáng trong tay để sẵn sàng đi gặp Chúa là người có Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến đã được đốt cháy khi chịu phép Rửa tội và đã nhận lấy một cây đèn cháy.
Vậy, trong thời gian chờ ngày Chúa trở lại hãy giữ sao cho lòng mến Chúa cháy mãi. Hãy luôn tưởng nhớ và yêu mến Người. Nhất là hãy luôn luôn thi hành giới răn Người để lại là thi hành lòng bác ái. Như thế, Người đến lúc nào chúng ta vẫn sẵn sàng để vào dự tiệc đời đời với Người chẳng cần vay mượn hay đi mua gì cả.

8. Đong đầy dầu yêu thương
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Được mời làm phù dâu là một vinh dự lớn đối với các cô gái đương xuân. Đây là một cơ hội tốt để giao lưu, gặp gỡ, làm quen với nhiều người bạn khác cùng trang lứa… Và biết đâu, nhân dịp nầy, các cô có thể tìm thấy bạn trai ý hợp tâm đầu rồi sau đó kết ước chuyện trăm năm thì còn gì hạnh phúc bằng!
Vì thế, ngay khi được mời làm phù dâu, các cô nô nức sửa soạn cho ngày quan trọng nầy thật chu đáo. Phải trang điểm chi li từ lọn tóc trên đầu cho đến cái móng chân!
Thế rồi, thời điểm chờ đợi đã đến. Các cô tung tăng hớn hở cùng nhau tiến về nhà cô dâu để chuẩn bị nghênh đón chàng rể và để gặp gỡ những người bạn trong mơ.
Thế nhưng, điều đáng tiếc là vì mải lo sửa soạn áo xống, lo trang điểm bên ngoài thật tươm tất chu đáo thì năm trong số mười cô phù dâu xinh đẹp lại quên mất điều quan trọng nhất là chêm thêm dầu vào đèn của mình.
Thế rồi, khi chàng rể đến bất thần giữa đêm đen, các cô chỗi dậy sửa soạn đèn đóm, không ngờ đèn đã cạn dầu từ lúc nào không hay, mà vì không có đèn sáng trên tay, các cô không được vào phòng tiệc cưới.
Các cô giận tức giận cành hông khi nhìn 5 cô bạn phù dâu có đèn sáng trên tay được mời vào phòng tiệc cưới, được tung tăng bên cạnh cô dâu chú rễ, được tươi cười ca hát với các vị khách mời, được làm quen, kết bạn với những chàng phù rễ hào hoa … còn mình thì bị đuổi ra ngoài đêm tối, lầm lũi lê gót về nhà trong buồn tủi và cô đơn.
Như thế, mang đèn mà chẳng mang dầu theo là hành động dại khờ không thể chấp nhận được.
Khi ta không có dầu
Xét lại hoàn cảnh mình, chúng ta cũng là những phù dâu, phù rể đang chờ đợi chàng Rể khác là Chúa Giê-su sẽ đến bất cứ lúc nào.
Chúa Giê-su sẽ đến vào giờ không hẹn trước. Vậy chúng ta đừng mải mê đầu tư tất cả cho thân xác mà không mảy may đầu tư cho đời sống mai sau. Cần phải có dầu đầy bình ngay hôm nay, để rồi khỏi hối tiếc như năm cô phù dâu khờ dại.
Chỉ có dầu yêu thương mới có thể làm cho đèn của chúng ta sáng lên, nhờ đó mới được đón nhận vào phòng tiệc đời đời.
Dựa vào lời dạy của Chúa Giê-su trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng”, ta biết rằng:
Nếu đèn của ta có đầy dầu yêu thương, thì trong giờ Chúa đến, Ngài sẽ nói với ta: “Nào! con là người được Cha Ta chúc phúc, mời con vào hưởng hạnh phúc đời đời với Ta, vì con đã yêu thương chăm sóc phục vụ những người bất hạnh quanh con…”
Và nếu đèn của chúng ta thiếu dầu yêu thương, Chúa Giê-su sẽ nói với ta rằng: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi khuất mắt ta mà vào trong hỏa ngục, vì đã không tỏ lòng yêu thương phục vụ những người bất hạnh quanh mình…” (xem Mt 25, 31-46).
Như thế, có đầy dầu yêu thương sẽ mang lại dư đầy ơn phúc, còn thiếu dầu yêu thương sẽ đem lại hậu quả bi đát khôn lường!
Lạy Chúa Giê-su,
Thật là dại khờ khi mang đèn mà chẳng mang dầu theo. Và thật điên rồ khi không tích lũy nhiều dầu yêu thương cho đèn tâm hồn được cháy sáng.
Xin cho chúng con hôm nay biết đổ đầy dầu yêu thương vào đèn của mình bằng cách siêng năng làm việc thiện, chăm lo phục vụ những người thiếu thốn… Chính những thứ dầu nầy mới làm cho tâm hồn chúng con trở nên đèn sáng. Nhờ đó, bất cứ lúc nào Chúa đến, chúng con cũng được mời vào dự tiệc vui muôn đời. Amen.

9. Để cho tâm hồn tỏa sáng
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Qua dụ ngôn mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể đến trễ giữa đêm khuya, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải để cho đèn nhân đức của mình tỏa sáng như những chiếc đèn trong tay năm cô phù dâu khôn ngoan. Nhờ có đèn sáng trên tay, năm cô khôn ngoan được đón vào phòng tiệc trong vui mừng hoan hỉ.
Và nếu ánh sáng nhân đức của chúng ta cũng tỏa sáng như đèn giữa thế gian thì chúng ta cũng sẽ được Thiên Chúa mời vào phòng tiệc trên trời để cùng với triều thần thánh vui hưởng hoan lạc đời đời trên thiên quốc.
Ngược lại, năm cô phù dâu khờ dại được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay thức dậy giữa đêm đen đón chàng rể đến và vì đèn đã cạn dầu nên không có ánh sáng trên tay, do đó đã bị xua ra ngoài đêm tối, lủi thủi lê bước về nhà trong đau buồn tủi nhục.
Tương tự như thế, những ai thiếu đức hạnh thì cũng như đèn cạn dầu, cuộc đời họ tối om và hậu quả là họ phải bị đuổi ra ngoài trong bóng tối khổ đau miên trường bất tận.
Ngoài ra, trong Tin mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta phải tỏa chiếu ánh sáng nhân đức. Ngài nói : “Ánh sáng của các con phải được chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp các con làm mà tôn vinh Cha các con trên trời.” (Mát-thêu 5,16)
Hữu xạ tự nhiên hương
Hễ đâu có mùi hương thì tất nhiên mùi hương đó sẽ tỏa lan ra. Người xưa dùng câu nói này để diễn tả một quy luật cuộc đời là hễ có gì bên trong thì sẽ phơi bày ra bên ngoài không thể che đậy, dấu diếm được.
Ai hiền lành thì sự hiền lành sẽ tỏa sáng như ánh đèn trong đêm tối và mọi người đều nhìn thấy và mến mộ.
Ai hung dữ thì sự hung dữ sẽ lộ ra ngoài, không tài nào che giấu được nên ai cũng thấy người đó là kẻ hung dữ và tìm cách xa lánh.
Ai khiêm tốn thì sự khiêm tốn sẽ lan tỏa như hương thơm khiến mọi người quý mến.
Ai kiêu căng thì sự kiêu căng đó sẽ phải lộ ra ngoài không thể che giấu được và mọi người đều thấy đó là kẻ kiêu căng nên không muốn lại gần.
Nói tóm lại: Mùi hôi của tính xấu sẽ tỏa lan khiến nhiều người xa lánh.
Hương thơm của nhân đức sẽ tỏa ngát khiến nhiều người quý trọng, mến yêu.
Ai không tỏa sáng nhân đức thì số phận đời sau của họ cũng tương tự như số phận của năm cô phù dâu dại khờ ; họ sẽ không được đón nhận vào phòng tiệc trên trời mà lại bị xua ra ngoài trong bóng tối miên trường khổ đau bất tận.
Còn ai tỏa sáng nhân đức sẽ được người đời quý mến trong đời sống hiện tại, lại còn được mời vào phòng tiệc trên trời muôn đời hoan hỉ.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con noi gương năm cô trinh nữ khôn ngoan biết tích lũy thật nhiều đức hạnh ; đó là thứ dầu quý làm cho tâm hồn chúng con lúc nào cũng tỏa sáng ; nhờ đó sẽ được mọi người quý trọng và được Chúa ban thưởng đời đời.
Xin giúp chúng con tránh xa tội lỗi và thói hư tật xấu vì đây là nguyên nhân làm cho tâm hồn chúng con tối tăm, hôi hám và vì thế mà bị xua đuổi ra ngoài như năm cô phù dâu không có đèn sáng trên tay. Amen.

10. Cẩn thận – Sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Khi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh cụ thể thường ngày để giúp cho người ta dễ hiểu về mầu nhiệm Nưới Trời. Nước Trời như hạt cải, Nước Trời như chuyện mở tiệc cưới. Và hôm nay Đức Giêsu nói, Nước Trời giống như chuyện mười cô trinh nữ trong đám rước dâu. Vậy chúng ta tự hỏi: Bài dụ ngôn hôm nay muốn nói gì? Và qua dụ ngôn ấy, Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta?
Đọc dụ ngôn này chúng ta thấy có điều không ổn, bởi vì chàng rể đến chậm, nên các cô phù dâu ngủ cả. Một điều khác nữa chúng ta thấy là chàng rể trong dụ ngôn đã không cư xử như những chàng rể thông thường. Đây là một chàng rể đặc biệt và một tiệc cưới cũng đặc biệt, bởi trong tiệc cưới đó, mọi người phải tuân giữ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường. Và điều khiến người ta thắc mắc và để ý hơn cả đó là đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới, chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu. Chỉ có mười cô cùng nhóm với nhau thôi mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn, cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy.
Năm cô có đèn nhưng lại hết dầu xin năm cô còn đèn thắp sáng, lại còn dầu dự trữ nữa, thế mà không san sẻ cho bạn. Không những thế, lại còn nói: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến. Lúc có dầu có đèn thì chàng rể đã đến và cửa đã đóng. Các cô gõ cửa, chú rể đích thân ra, nhưng trả lời một cách khắc nghiệt: “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, “không biết”. Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo.
Chúng ta nên nhớ đây chỉ là một dụ ngôn thôi, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu chỉ muốn dạy chúng ta một bài học là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Chàng rể đặc biệt đó chính là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phụ dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người dại người khôn. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không. Chúng ta thấy mười trinh nữ phù dâu, các cô khôn, cô dại đều ngủ cả, chứ đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau, là ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó. Nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất nên ai khôn thì sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta.
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh thức, sẵn sàng và phải có đèn. Đèn ở đây là chính tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho ngọn lửa đời sống đạo đức của chúng ta luôn cháy sáng như ngọn lửa hồng đầy sức sống. Với dầu cầu nguyện và việc lành, chúng ta sẽ giữ đèn của chúng ta luôn cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa.
Chúng ta không biết ngày hay giờ nào Thiên Chúa đến, nên phải chuẩn bị để khi Người đến chúng ta có thể vào được Nước của Người. Tất cả những gì Chúa Giêsu nói trong bài dụ ngôn này được coi như là một lời cảnh báo yêu thương Chúa dành cho chúng ta, thức tỉnh tâm hồn ta sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào. Vì thế, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là chúng ta phải luôn sống tốt lành. Amen.

11. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
SỰ KHÔN NGOAN CỦA NGƯỜI TÍN HỮU HÔM NAY
Ở đời, để thành công trong công việc làm ăn ai mà không trải qua những lần dại khôn hay vấp ngã trong cuộc đời? Nhưng sau mỗi lần vấp ngã, thất bại, khôn dại, con người ta rút ra bài học cho bản thân mình từ đó sẽ không còn gặp phải trường hợp tương tự sẽ có thể tự tin mà trở nên khôn và thành đạt. Thế nên nhà thơ Tố Hữu nói: “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại – Ai nên khôn mà không dại đôi lần”. Còn nhà Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Ở đời có dại mới có khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại. Khôn mà hiểm độc là khôn dại. Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn”. Như vậy, cái dại và cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà ở nơi sự ứng xử để thành đạt tinh thần và vật chất trong cuộc sống.
Ngược lại, qua dụ ngôn 5 cô khôn ngoan và 5 cô khờ dại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta là con cái Chúa, là Kitô hữu phải khôn và ngoan trong đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả cuộc hội ngộ cánh chung như cuộc hẹn của các trinh nữ đi đón vị Lang Quân là chính Ngài. Thế nhưng trong cuộc hẹn này, kẻ được gặp, người lại không! Yếu tố quyết định để gặp được Chàng Rể Giêsu chính là thái độ sống của mỗi người. Các cô được gọi là khôn, vì họ biết dự trữ dầu để giữ đèn sáng mãi. Thế nên cho dù Lang Quân có chậm đến, các cô vẫn sẵn sàng dầu đèn để đến gặp Ngài. Đấy là cái khôn của người môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì cùng đích cuộc đời của mỗi chúng ta đều là được gặp Đức Lang Quân Giêsu.
Tháng cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về đích điểm đời mình để biết thay đổi đời sống tội lỗi, vô cảm của chúng ta với Chúa và tha nhân ngay từ bây giờ. Chẳng ai có thể sống thay cho chúng ta, nghĩ thay cho chúng ta hay hành động thay chúng ta… vì mỗi người có vị trí không thể thay thế và phải chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình ngay đời này và đời sau. Đó là chất dầu được chiết xuất từ chất sống của mỗi người trong từng ngày sống bằng cách quảng đại, thực thi công bằng, sống chân thật, khiêm tốn, an hoà, yêu thương, tha thứ, hy sinh, phục vụ và cầu nguyện cho hết mọi người còn sống hay đã qua đời, đặc biệt những người thân trong gia đình trong tháng báo hiếu này.
Khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa cho nên sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa vì chưng Ngôn sứ Đaniel nói: “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl. 4, 6). Vì vậy, ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên người khôn ngoan. Luật Chúa chính là Lời Chúa và chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó nên nói: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv 119,72). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,31). Cho nên Lời Chúa trong bài đọc I kêu gọi chúng ta hãy tìm kiếm và yêu chuộng đức khôn ngoan và rồi bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy khôn ngoan làm cho đèn đức tin chúng ta luôn cháy sáng nhờ luôn có chất dầu: yêu thương, tha thứ, hy sinh… nhờ đó trong ngày sau hết “Khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx 4,16-17).
Như vậy, chúng ta trước hết hãy sống theo khôn ngoan của Thiên Chúa được được cả đời này và đời sau, đừng sống theo sự khôn ngoan của người đời. Vì vậy, Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”( Lc 13, 24), nghĩa là đừng khôn ngoan theo người đời để đi tìm những của cải, danh vọng và vui thú trong tội lỗi ở đời này mà “hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt cũng không đục phá” ( Lc 12, 33). Sắm những báu vật ở trên trời, và quan tâm đúng mức đến phần rỗi của mình là sự khôn ngoan mà người tín hữu chúng ta phải kiếm tìm trên hết mọi sự ,vì “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống (mất linh hồn) thì nào có có lợ gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” ( Mt 16, 26). Đó là sự khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta tìm kiếm để sống niềm tin có Chúa, có hạnh phúc đời đời đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Chúa trên hết mọi sự trong trần thế này. Nói thế không có nghĩa là chúng ta không được phép tìm tiền bạc để chi dùng cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện, sức khỏe cho mình và cho gia đình thân thuộc, chúng ta phải được phép chứ nhưng trong tinh thần của Lời Chúa và luật của Hội Thánh dạy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là người tín hữu sống trong một thế giới ngày một thêm tục hóa, phi nhân, vô cảm và vô luân, chúng ta hãy tránh xa sự khôn ngoan của người đời mà hãy sống sự khôn ngoan của Thiên Chúa để không những mưu ích cho phần rỗi của mình, cho tha nhân khi còn sống hay đã qua đời qua việc sống hết mình với Chúa, với các giới răn của Người và yêu thương tha nhân như chính mình qua việc cầu nguyện, bác ái, hy sinh và phục vụ ngõ hầu mai sau Chúa Giêsu sẽ đón rước chúng ta vào dự Tiệc Cưới như cô năm khôn ngoan hôm nay vì chúng ta là người luôn cầm đèn có dầu và cháy sáng mãi. Với niềm tin đó, mời ÔBACE đứng lên tuyên xứng Đức Tin….

12. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Chúng ta đang tìm kiếm và mong muốn sở hữu điều gì? Trong hành trình cuộc sống ai cũng mong muốn tìm kiếm để đạt được nhiều thứ như: kiến thức, địa vị, danh vọng, tiền bạc-của cải-vật chất… và để đạt được những điều đó, con người cần phải hy sinh, lao động vất vả “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”. Nhưng rồi, sau khi tìm và đạt được những thứ chóng qua đó, nó có thực sự làm cho chúng ta được hạnh phúc và bình an? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay soi sáng, hướng dẫn và mời gọi chúng ta trên tất cả mọi sự, hãy tìm kiếm một thứ rất quý giá, đó chính là sự khôn ngoan, là ơn thánh Chúa.
Bài đọc một từ sách Khôn Ngoan mời gọi chúng ta “Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan sẽ gặp được nó”. Nhưng câu hỏi được đặt ra: Sự khôn ngoan là gì? Tìm kiếm ở đâu, đạt được bằng cách nào và có đem lại lợi ích gì cho chúng ta không? Sự khôn khoan chính là ơn thánh của Chúa, là ơn ban và hoa trái của Thánh Thần dành cho những ai khiêm tốn, biết mở lòng. Vì là ơn Chúa ban nên “Sự khôn ngoan sáng tỏ và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng”. Không những thế, khi tìm kiếm với lòng chân thành, chúng ta “sẽ không phải lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình… và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm”. Thật vậy, khi chúng ta mở lòng, khao khát tìm kiếm và đón nhận, sự khôn ngoan sẽ đến và làm cho chúng ta thực sự vui vẻ và bình an.
Thánh vịnh 62 trong Đáp ca hôm nay, mời gọi chúng ta hãy khao khát tìm kiếm Chúa. Tìm kiếm ân tình của Chúa, Ngài sẽ làm cho chúng ta thỏa chí toại lòng. Thật vậy, khi tìm Chúa: “Hồn con được no thỏa dường như bởi mỹ vị cao lương, và miệng con ca ngợi Chúa với cặp môi hoan hỉ”. Không những thế, ai khao khát tìm kiếm Chúa, chính Ngài sẽ ra tay bênh đỡ, che chở-phù trì và ban ơn giúp sức.
Sự khôn ngoan cao quý và tốt lành như vậy, tại sao lại có rất ít người muốn tìm kiếm và sở hữu? Tìm kiếm Chúa được Chúa ban nhiều ơn thánh như vậy, tại sao con người lại không muốn, mà lại đi tìm kiếm những thứ khác? Có thể chúng ta sẽ tự biện hộ cho mình: “Thiên Chúa, tôi đâu có thấy, tôi đâu có sống được với ơn thánh Chúa và sự khôn ngoan? Tôi cần cơm gạo để ăn, tôi phải cần những thứ thiết thực khác nữa cho cuộc sống”.
Kính thưa ACE, nếu bình tâm suy nghĩ cho thật thấu đáo với tấm lòng biết ơn và thái độ khiêm tốn, chúng ta sẽ nhận ra: Nếu chỉ một giây phút trong cuộc đời mà không có ơn thánh Chúa che chở phù trì, thì nào ai có thể đứng vững mà tồn tại. Mạng sống của tôi cũng chính Chúa ban cho, mọi sự tôi có được cũng là đều do bởi ơn Thánh Chúa ban cho. Chính vì lẽ đó mà Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã mời gọi chúng ta hãy sống tỉnh thức. Tỉnh thức cùng với Đức Giêsu Kitô, Đấng đã sống và chu toàn thánh ý Chúa Cha vì yêu thương, Đấng đã vì yêu thương mà hiến thân trên Thánh giá để tha thứ và cứu chuộc chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta khao khát gắn kết cuộc đời của mình với Đức Kitô, thì chính Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua được mọi khó khăn và thử thách của cuộc sống, và ngay cả với cái chết để đạt được điều chúng ta mong ước.
Sống kết hiệp, gắn bó mật thiết với Đức Giêsu Kitô, như là phu quân, như là thượng khách của chúng ta, chính là tâm tình mà Tin mừng đã minh chứng và quãng diễn nơi cung cách, thái độ sống tỉnh thức của năm cô trinh nữ khôn khoan. Họ đã khôn ngoan vì khi mang đèn, lại mang theo dầu đầy bình. Chính vì lẽ đó, dù chàng rể đến chậm hay muộn không còn quan trọng với họ; cho dù chàng rễ đến ban ngày hay nữa đêm, đèn của họ vẫn có đủ dầu để thắp sáng. Họ khôn ngoan chuẩn bị chu đáo và tốt như vậy bởi vì: được đón gặp chàng rể và cùng với chàng rể vào dự tiệc là mục đích sống, là nguồn vui, hạnh phúc của họ. Trái ngược với sự khôn ngoan, tỉnh thức-chuẩn bị sẵn sàng, là thái độ hờ hững, làm cách chiếu lệ, không có tâm của năm cô khờ dại.
Nhiều người trong chúng ta, dẫu mang danh là Kitô hữu, nhưng vẫn sống với những cung cách và thái độ của năm cô trinh nữ khờ dại, khi chúng ta chỉ lo tìm kiếm hư danh và những thứ chóng qua đời này. Dầu trong đèn của cuộc đời chúng ta phải chính là Đức Giêsu Kitô và những ơn thánh của Ngài. Khôn ngoan, tỉnh thức để khao khát tìm kiếm Chúa và sống mật thiết với Ngài, chúng ta sẽ được Ngài ban ơn sức mạnh để sống công bình, bác ái, yêu thương.
Thiên Chúa, qua Giáo hội, luôn tạo muôn vàn cơ hội, cách thế để cho chúng ta có thể tìm gặp và sống kết hiệp với Chúa cùng với những ơn thánh của Ngài. Trong tháng 11, tháng dành riêng cho các Đẳng Linh hồn. Chúa mời gọi chúng ta hãy khôn ngoan, tỉnh thức nhìn lại và suy gẫm về mục đích tối thượng của chúng ta chính là Thiên Chúa. Đồng thời, hãy cố gắng, nỗ lực, hy sinh để đạt được nhiều ơn thánh, hầu có thể nhường lại giúp ích cho phần rỗi của các đẳng linh hồn. Amen.

13. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu cho các Đẳng linh hồn. Trong thánh này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta nhớ tới các linh hồn trong Luyện ngục. Đồng thời, đây là thời gian cuối năm phụng vụ.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài Lời Chúa trong các ngày cuối năm phụng vụ này thường nói về sự chết, sự phán xét, về số phận đời sau, về sự tận cùng của vũ trụ. Cụ thể, đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, nói về sự Chúa đến bất ngờ qua hình ảnh chàng rể trong dụ ngôn Mười trinh nữ. Chính vì Chúa đến bất ngờ nên đòi buộc mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Thiết nghĩ, trong bối cảnh này và qua dụ ngôn Mười trinh nữ hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niệm ba điểm sau đây:
Trên đây chỉ là một số thí dụ về những cái chết không theo qui luật thông thường. Nhưng dầu có theo qui luật thông thường đi nữa, thì con người cũng không thể biết mình chết lúc nào. Cho nên, cuối đoạn Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta rằng: “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Nơi khác, Ngài nói: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Ngài còn dùng dụ ngôn “chủ nhà” để nhắc nhở mọi người tỉnh thức, đề phòng cái chết như đề phòng kẻ trộm (Mt 24,42). Thánh Phêrô và Thánh Phaolô cũng nhắc lại lời của Đức Giêsu rằng: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Vì không biết chết lúc nào và vì cái chết đến bất ngờ nên đòi hỏi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng.
1. Mọi người đều phải chết
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển đông, dân chúng ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thuỷ Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thuỷ tinh làm sông ngân hà, lấy vàng ngọc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống sợ chết ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
Thật vậy, “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết? Sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã phán với Adong rằng: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (x. St 3,19). Sau này, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Vì vậy, ai cũng chết: Có những người chết khi còn trong bụng mẹ; Có những người chết khi tuổi còn niên thiếu; Có những người chết khi tuổi con thanh niên; Có những người chết khi tuổi còn trung niên; Có những người chết già trăm tuổi hay hơn nữa như Kinh Thánh cho biết: ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi. Nhưng, cho dù sống thọ đến trăm tuổi hay hơn nữa thì cũng phải chết. Đó là qui luật chung của hết thảy mọi người.
2. Không biết chết lúc nào
Mặc dầu biết chắc chắn rằng đã là con người thì ai cũng phải chết nhưng không ai biết mình chết lúc nào. Đây là một bí mật chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Theo qui luật thông thường thì con người được sinh ra, lớn lên, già yếu và chết: ông bà chết trước cha mẹ; cha mẹ chết trước con cái; con cái chết trước cháu chắt…Nhưng trong thực tế, qui luật đó không đúng với hết mọi người. Bởi vì có những bậc ông bà, cha mẹ phải khóc lóc tiễn đưa con cái, cháu chắt, như ca dao Việt nam có câu:
“Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời.”
Cũng có những người con khi công thành danh toại muốn đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, vậy mà cha mẹ chẳng còn (cha mẹ chết sớm hơn qui luật thông thường). Cái chết không theo qui luật thông thường chính là do bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố… Ở Việt Nam, mỗi năm có 94 000 người chết vì bệnh ung thư; ít nhất 15 000 người chết do tai nạn giao thông; khoảng 300 người chết và mất tích do thiên tai. Ngoài ra, còn có những người chết do chiến tranh, khủng bố…Chẳng hạn, ở Mỹ, vụ khủng bố 1/9/2001 làm 2996 người chết; vụ xả súng ở Las Vêgas ngày 01/10/2017 vừa qua làm chết 50 người; Vụ xả súng tại một nhà thờ Baptist nhỏ ở Texas hôm 5/11/2017, có ít nhất 26 người chết.
3. Tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào?
Chúng ta cần tỉnh thức và sẵn sàng theo hai khía cạnh sau đây:
Theo khía cạnh tiêu cực: chúng ta phải cố gắng chu toàn các bổn phận bằng cách tuân giữ luật Chúa, luật Hội thánh và các nhiệm vụ được giao phó, không phạm tội, kể cả những tội nhẹ cố tình. Nếu lỡ sa ngã phạm tội cần phải sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Theo khía cạnh tích cực: không chỉ giữ mình sạch tội mà còn phải ra sức làm nhiều việc lành phúc đức như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, đọc kinh lần hạt, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình…tương tự như năm cô khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn và dầu.
Một đề nghị khác của Thánh An-phong cho việc tỉnh thức và sẵn sàng, đó là: Thứ nhất, hãy làm ngay bây giờ những điều tôi phải làm trước khi chết; Thứ hai, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi ước ao “phải chi mình đã làm”; Thứ ba, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi không làm được.
Câu chuyện của Thánh Saviô sau đây cũng là bài học cho mỗi người chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng:
Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi: “Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
Saviô trả lời rằng: “Con vẫn tiếp tục chơi!”
Cha Boscô hỏi tiếp: “Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
Saviô trả lời rằng: “Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống tinh thần của năm cô trinh nữ khôn ngoan để dù Chúa đến bất cứ lúc nào chúng con cũng sẵn sàng ra nghinh đón Chúa. Amen.

14. Khôn ngoan đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Khôn ngoan cũng có nhiều loại. Có người khôn thành khôn dại, có người như thể dại mà thực sự lại là người khôn. Người khôn ngoan đích thực là người biết sống sao để luôn hạnh phúc, đời này lẫn đời sau.
1. Sự sống đời sau
Nhiều người cho rằng tiền bạc mang lại cho người ta hạnh phúc, và người ta miệt mài đi tìm tiền bạc, quên gia đình, quên cha mẹ con cái, quên cả hưởng thú vui mỗi ngày với những người thân. Nhiều người không thành công nên cả đời vất vả long đong mà cũng chẳng kiếm được nhiều tiền như họ mong ước, họ không hạnh phúc, và vẫn tưởng rằng có tiền là có hạnh phúc. Cũng có người may mắn hơn, kiếm được nhiều tiền nhưng khi đã có lắm tiền, đã có danh vọng chức quyền, họ cũng nghiệm ra tiền bạc danh vọng chức quyền cũng không mang lại cho họ hạnh phúc. Với những người này, kinh nghiệm đã dạy họ chân lý; bài học này đã tốn bao thời gian và đã phải trả một giá khá mắc.
Có người cho rằng nếu chết là hết, thì khi đang sống người ta phải tận hưởng thú vui bằng mọi giá. E rằng quan niệm này cũng không đúng vì nếu hiểu hưởng thụ theo nghĩa chơi bời phóng túng, thì cũng đâu làm cho người ta hạnh phúc. Tuy nhiên, một chân lý mọi người cần biết, đó là con người không chỉ có đời sống tại trần thế này. Chết chưa phải là hết đối với con người. Con người có đời sống mai hậu. Con người có hạnh phúc ở đời sống mai hậu hay không, tùy thuộc cách sống của họ ở đời này. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Thessalônica nhắc nhở các Kitô-hữu: sự sống đời sau đang chờ đợi họ.
Nếu chỉ có cuộc sống tại thế, Ngôi Lời Thiên Chúa chẳng cần phải nhập thể làm người. Nếu chỉ có cuộc sống tại thế này, Đức Yêsu phục sinh hay không, chẳng có nghĩa lý gì với con người. Mầu nhiệm nhập thể chỉ xảy ra, khi con người có sự sống đời sau; Đức Yêsu đã sống lại nên chết đâu phải là hết, vì nếu con người chết là hết thì Đức Yêsu không cần phải sống lại, vì lúc đó Ngài có sống lại hay không, với con người đâu có ích lợi gì.
2. Khôn ngoan và dại khờ
Những người dại, chỉ nghĩ đến giây phút này mà không biết nhìn xa hơn; còn những người khôn họ không chỉ nghĩ đến giây phút hiện tại mà còn biết nhìn cả đến tương lai nữa. Năm cô gái dại khờ hôm nay, không biết nhìn cho tương lai. Người ta mang đèn, năm cô cũng mang đèn; nhưng đèn để làm gì nếu không có dầu. Nếu một người chỉ mang danh Kitô-hữu, mà không sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì chẳng ích lợi gì cho họ. Họ chẳng được gì, họ cũng chẳng được vào dự tiệc cưới.
Người dại là người không biết mình sống để làm gì, không biết làm sao để hạnh phúc đích thực ở đời này và cả ở đời sau nữa. Họ lấy điều phụ làm điều chính, và điều chính lại cho là phụ. Có thể nói, những người chọn và miệt mài chỉ đi tìm tiền bạc, danh vọng chức quyền, là những người dại. Có thể những người này nghĩ rằng họ sẽ để lại cho con cái họ món tiền lớn, gia tài kếch xù, để con cái họ hưởng hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, có nhiều người con của những gia đình cha mẹ giầu có lại hư vì chính tiền của cha mẹ để lại cho, vì những người này ỷ lại vào số tiền đó, ăn chơi và không chịu học hành, nên không thành người lương thiện và hữu ích.
Những người khôn, là những người không chỉ nghĩ đến đời sau, nhưng còn để ý đến giây phút hiện tại nữa. Họ cố gắng sống hạnh phúc ngay ở giây phút này, trên đời này và lúc này. Họ muốn tìm bình an và hạnh phúc. Những người này nếu có đời sống gia đình, họ không chỉ lo đi làm kiếm tiền nuôi sống chính mình và gia đình, lo cho tương lai con cái, mà họ còn biết tận hưởng niềm vui mỗi ngày bên người bạn đời và bên con cái họ nữa. Thiên đàng đối với họ, không chỉ ở đời sau mà ngay tại đời này, trong đời sống mỗi ngày của họ.
3. Người khôn ngoan đích thực là người kính sợ Thiên Chúa
Khôn ngoan là điều ai cũng mong ước và tìm kiếm. Những người hiền triết là những người đi tìm khôn ngoan; họ nghĩ rằng họ biết được nguyên nhân và lý lẽ thâm sâu của sự vật, và họ để lại những lời dạy khôn ngoan cho thế hệ tương lai. Những người đi học, là những người muốn học những lý lẽ khôn ngoan của thế hệ đi trước truyền lại. Mỗi dân tộc đều có kho tàng văn chương khôn ngoan của riêng họ, để dạy lại cho con cháu. Dân tộc Việt Nam chúng ta cũng có kho tàng khôn ngoan phong phú. Ca dao tục ngữ là một phần của kho tàng này.
Dân tộc Do Thái cũng có kho tàng khôn ngoan của họ, và đối với họ người khôn ngoan là người kính sợ Thiên Chúa. Kính sợ Thiên Chúa, làm cho người ta trở thành người khôn. Vì một khi kính sợ Thiên Chúa, người ta không làm gì trái giới răn của Ngài; hơn nữa, người ta còn làm theo điều Thiên Chúa muốn và dạy dỗ, đó là yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Kính trọng tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân, sẽ làm con người dễ thương và được yêu thương nhiều hơn, và như vậy làm người ta hạnh phúc hơn từng ngày.
Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, Ngài là nguồn mọi khôn ngoan. Người sống theo lời Ngài dạy bảo là người khôn. Người sống theo lời dạy của Thiên Chúa, không chỉ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc qua việc hưởng thụ, nhưng còn tìm được niềm vui và hạnh phúc nơi chính niềm vui và hạnh phúc của người khác nữa. Những người này tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ con người; và với những người này không ai tước mất hạnh phúc của họ được. Đây là những người phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, vì họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và Ngài sẽ làm tất cả những gì tốt lành cho họ. Họ hạnh phúc khi phục vụ con người, và hạnh phúc trong niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
2. Thiên Chúa có muốn con người có được sự khôn ngoan đích thực không? Tại sao?
3. Bạn đang đeo đuổi tìm kiếm điều gì? Điều đó có mang lại cho bạn hạnh phúc không?

15. Bắt hụt
Mười cô trinh nữ chuẩn bị đi đón chàng rể. Cả mười cô đều đã sẵn sàng. Ví như chàng rể đến đúng giờ, đúng với quan niệm của mọi người, đúng với lối suy nghĩ chắc chắn của các cô, thì hẳn không có chi để mà nói. Thế nhưng chàng rể lại đến trễ cho nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Khi chàng rể đến, thì những cô đã sẵn sàng, theo chàng rể bước vào phòng tiệc. Và đến lúc bấy giờ, chúng ta mới nhận thấy rằng có năm cô chưa thật sự sẵn sàng và đã bắt hụt chàng rể.
Lịch sử các tôn giáo đã ghi lại lời biết bao nhiêu lần bắt hụt như thế. Chẳng hạn trong Cựu Ước, từ 700 năm trước Giáng sinh, hình ảnh Đấng Cứu Thế đã được loan báo và qua nhiều thế hệ, toàn thể dân Thiên Chúa, đặc biệt là các vị chức sắc trong đền thờ, có một quan niệm, một hình ảnh rõ ràng và chính xác về Đức Kitô dựa theo Kinh Thánh, để rồi họ đã yên chí ngủ thiếp đi trong ý niệm đó. Khi Đức Kitô đến họ đã bắt hụt Ngài bởi vì họ không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế khác với khái niệm mà họ đã có.
Còn Giáo Hội, có bao giờ Giáo Hội đã bắt hụt Đức Kitô không nhỉ? Cách đây hơn 20 năm, một linh mục dòng Chúa Cứu Thế đã kể lại câu chuyện bắt hụt của mình như sau: Từ Vườn Xoài về Phú Nhuận, ngài chứng kiến một tai nạn, người chết nằm cong queo, ngài thấy mình không còn gì để mà làm cho nạn nhân nữa. Đến ngã tư đèn đỏ, ngài quay lại và thấy một bà già tháo chiếc khăn quàng, cúi xuống và phủ lên mặt người xấu số. Cử chỉ đó làm cho vị linh mục giật thót người và ý thức rằng mình có thể là một nhà tu mà vẫn bắt hụt Đức Kitô trong những sự kiện cụ thể hằng ngày. Tôi rất cảm động trước chứng từ ấy và quyết sẽ không bao giờ vô tâm trước một người bị tai nạn như thế. Hai mươi năm qua, tôi chưa chứng kiến một tai nạn chết người nào, nhưng cách đây hơn một tháng có một học trò cũ đến thăm tôi. Thấy em buồn, tôi đã thao thao bất tuyệt nửa giờ để động viên em bằng những lời đạo đức đao to búa lớn. Vài ngày sau, tôi biết rằng em đến thăm tôi lần cuối trước khi tự tử. Nhưng rất may mà được cứu sống. Tôi bang hoàng nhận ra rằng nếu hôm đó tôi thức tỉnh lắng nghe hơn, thì hẳn đã giúp em bỏ đi được cái quyết định dại dội ấy. Thế đấy, một linh mục lo cho người sống đã bắt hụt Đức Kitô khi Ngài đến qua một người chết. Rút kinh nghiệm, tôi sẵn sàng đón tiếp Ngài qua một người chết, và tôi đã bắt hụt Ngài khi Ngài đến với tôi qua một người sống mà tôi suýt giết chết. Chúng ta đã có dịp nói nhiều về việc canh tân đổi mới, phải chăng đến lúc này thì ai ai cũng đã đổi mới rồi và bây giờ chúng ta có quyền ngủ yên bởi vì chúng ta đã thuộc kinh bổn, đã khám phá ra Đức Kitô, thế nhưng lời cảnh báo của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức, vẫn còn mang tính chất thời sự nóng bỏng của nó.

16. Sẵn sàng
Cách đây 1900 năm, núi lửa Vesuve đã phun lên ở Ý. Toàn bộ thành phố Rompei đã bị chôn vùi dưới lớp phún xuất thạch dày tới 6 mét và giữ nguyên dạng như thế cho đến nay. Khi các nhà khảo cổ khai quật, mọi người đều ngạc nhiên và sửng sốt. Phún xuất thạch đã làm đông cứng tất cả trong tư thế đang có khi tai hoạ đổ xuống: Thân xác con người bị huỷ hoại, nhưng trong khi huỷ hoại, chúng đã để lại những lỗ trống trên lớp tro cứng. Người ta dùng thạch cao đổ vào những lỗ trống ấy và khôi phục lại được hình dạng của các nạn nhân. Chẳng hạn một người mẹ đang ôm chắt đứa con trong vòng tay của mình, một người lính Rôma đang đứng thẳng tại trạm gác với đầy đủ vũ khí, anh ta đã trung thành với bổn phận cho tới giây phút cuối cùng. Một người đàn ông tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, rải rác chung quanh là năm xác chết, có lẽ là những kẻ định cướp số vàng trên.
Tất cả những hình ảnh này là một bức tranh sống động làm nổi bật chủ đề của thánh lễ hôm nay. Đó là ngày tận thế, ngày kết thúc vũ trụ vật chất này, ngày Chúa trở lại trong vinh quang chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng lại xảy ra một cách bất ngờ, như tên trộm viếng thăm vào ban đêm, như chàng rể đến muộn khi các cô phù dâu đã thiếp ngủ. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, để chờ đón không phải chỉ ngày cuối cùng của vũ trụ, mà còn là ngày cuối cùng của đời mình, lúc chúng ta phải tính sổ với Chúa.
Vào giây phút trọng đại ấy, liệu chúng ta có sẵn sàng như những cô trinh nữ khôn ngoan, hay lại chẳng chuẩn bị gì cả như những cô trinh nữ dại khờ, để rồi sẽ phải nghe lời phán quyết lạnh lùng: Ta không biết các ngươi. Tất cả những ý nghĩ trên không phải là những điều chúng ta nghe qua rồi để ngoài tai, hay mặc cho nó chìm vào quên lãng. Trái lại phải trở nên như một tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta, để thôi thúc và lôi kéo chúng ta ra khỏi một cuộc sống tội lỗi. Chúng ta là những người thật may mắn và diễm phúc, bởi vì Chúa còn dành cho chúng ta một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này có thể là lâu hay mau, sáu bảy chục năm hay chỉ đôi ba ngày, chúng ta không được biết, nhưng khoảng thời gian này cũng đủ để chúng ta ăn năn sám hối, thay đổi nếp sống, làm lại cuộc và sắm sẵn cho mình những hành trang cần thiết, để bất kỳ lúc nào Chúa gõ cửa viếng thăm thì chúng ta luôn sẵn sàng thưa lên với Ngài: Lạy Chúa, này con xin đến.

17. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
– Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
– Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
– Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
– Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
– Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Đó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị cho cõi đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.
Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa – yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.
– Có những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với vợ con nên tối ngày rượu chè, cờ bạc… gây khổ đau cho vợ con
– Có những người vợ biếng nhác việc nhà “đi vác tù và hàng tổng”, họ tham gia rất nhiều hội đoàn nhưng lại thiếu trách nhiệm với tổ ấm của mình.
– Có những người con lười biếng chỉ biết ăn chơi, đua đòi nhưng lại thiếu trách nhiệm với chính bản thân của mình nên sa đà tội lỗi.
Họ là đại diện cho các cô phụ dâu thiếu chuẩn bị dầu nến bước vào đời sau. Vì ngày tân lang tới hay có thể nói là ngày chết của mỗi người chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta không ai biết trước được ngày ra đi. Không ai biết được cách thức ra đi. Do đó, sự khôn ngoan luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức trong mọi sự. Phải chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Phải có trách nhiệm với cuộc sống để khi ra đi chúng ta luôn mang tâm trạng bình an. Chúng ta sẽ không hối tiếc vì để lịm tắt ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen.

18. Chú rể kia rồi, ra đón đi!
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ Nước Trời.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, câu Kinh Thánh này đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI làm tăng thêm giá trị khi chọn nó làm đề tài cho thông điệp đầu tay của Ngài.
Phải, “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tất cả phải quy tụ về đó. Đó là Nguồn Gốc và là Nồng Cốt của đạo công giáo.
Chúa Giêsu nói đến tình yêu và đôi khi Ngài cũng xem mình như chàng rể trong tiệc cưới Nước Trời: “Bao lâu tân lang còn ở với họ, làm sao họ có thể ăn chay?” Trong dụ ngôn này, Ngài không nói rõ, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, chàng rể mà chúng ta đang thức đêm chờ đợi, chính là Ngài.
Trước khi tìm hiểu nội dung của dụ ngôn, chúng ta hãy tìm hiểu nhanh một vài tập tục của dân Do Thái xưa mới có thể hiểu được Chúa muốn nói gì với chúng ta trong dụ ngôn.
Thời các tổ phụ, đám cưới thường được tổ chức suốt bảy ngày. Ví dụ như đám cưới của Sam-sơn (xem Tl 14,13tt). Các bạn bè đàng gái đến chung vui có cả Sam-sơn, và trong lúc uống rượu với nhau họ bày ra trò chơi câu đố. Sam-sơn được quyền ra câu đố trước. Chàng nói: “Trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố của tôi thì…”
Làm sao có thể đãi khách suốt bảy ngày như thế? Thời nay, đám cưới của các công chúa, hoàng tử thì có thể tổ chức suốt ba ngày, nhưng các đám cưới người dân chỉ tổ chức một ngày bên đàng gái, một ngày bên đàng trai là xong, không ai có giờ đi đám cưới, nếu kéo dài.
Thời các tổ phụ, sở dĩ người ta có thể tổ chức suốt bảy ngày, vì sáu ngày trước không phải là đám cưới mà chỉ là những ngày ăn uống vui chơi với người thân và bạn bè, chưa phải là ngày chánh lễ. Những người đến dự thường là bà con bạn bè, mang theo một món quà, một con chiên, con bò hay bình rượu…, nhà đám lấy đó đãi khách. Như thế, nhà đám dù nghèo cũng có thể đãi tiệc suốt bảy ngày mà không tốn kém bao nhiêu. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu chỉ nói đến ngày chánh lễ khi chàng rể đến rước cô dâu. Khách được mời phải đợi đến khi chú rể đến mới nhập tiệc. Trong số những người đợi chàng rể có mười cô trinh nữ cầm đèn múa hát để rước chàng rể.
Thời Chúa Giêsu, vẫn còn những tục lệ đó. Người ta thường tổ chức tiệc cưới vào ban đêm vì trời mát và người ta có thể vui chơi đến sáng hôm sau. Trong những dụ ngôn khác, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải tỉnh thức như đầy tớ đợi chủ về, không biết giờ nào là như thế. Tiệc cưới tại Cana, Thánh Gioan không nói rõ là ban đêm hay ban ngày, chỉ nói đến vấn đề thiếu rượu, vì khách đông hơn dự tính và trong bảy ngày tiệc, đôi khi không mấy ai để ý đến việc tiếp tế rượu… Hơn nữa, trước khi rước chàng rể, hai họ còn phải thương lượng nhiều vấn đề, về những điều kiện cưới hỏi, của cải…Lắm lúc cuộc thương lượng kéo dài đến khuya, vì thế không thể hẹn trước giờ nào.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thánh Kinh thường dùng ngôn ngữ của tình yêu để nói đến mối liên hệ sâu xa giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa yêu dân Người như một người chồng yêu vợ mình tha thiết. Vì thế, khi dân Do thái bỏ Chúa chạy theo các thần ngoại, là phạm tội ngoại tình. (Tiên tri Hô-sê, Giê-rê-mi-a, I-sa-i-a…).
Hình ảnh tiệc cưới được Chúa Giêsu sử dụng để chỉ Nước Trời vì đó là một tiệc vui của tình yêu. Nước Trời chính là niềm vui bắt nguồn từ tình yêu, và tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự, có thể với tư cách là phù dâu mang đèn đến đón chàng rể. Nhưng có thể chúng ta là cô dâu diễm phúc chăng? Nhưng phải chờ đợi.
Cả lịch sử dân Do thái là một chờ đợi tha thiết. Chàng rể là Đấng Cứu Độ chưa đến. Chúng ta cũng đang đợi chờ chàng rể thần linh.
Chúng ta có chờ đợi không? Sự chờ đợi của chúng ta có chứa đầy yêu thương hay chỉ chán buồn theo năm tháng? Chàng rể thần linh sẽ đến nhưng không biết lúc nào…
Mười cô trinh nữ thắp đèn chờ đợi. Giáo hội cũng thắp đèn chờ đợi. Trong Giáo Hội luôn có những người khôn ngoan và những người khờ dại vô lo…Thời gian chờ đợi kéo dài vô tận…Mọi người đều thiếp đi…
Nhưng giữa đêm khuya có tiếng réo gọi: “Này chàng rể đến! Hãy ra nghênh đón”. Các cô trinh nữ khôn ngoan đã sẵn sàng, đèn các cô cháy sáng, vì họ đã biết lo liệu, còn các cô kia thì…ôi thôi, đèn đã hết dầu!
Chúng ta kiểm tra xem đèn của chúng ta có đầy dầu không? Dầu của tình yêu, của vâng phục, và của trung thành…?
Các cô khờ dại nhận thấy rằng, mình đã quá hớ hênh, và giờ đây trễ rồi. Các cô khôn ngoan không thể cho mượn dầu vì dầu chỉ đủ cho mỗi người thôi. Các cô này không phải ích kỷ, nhưng vì không ai có thể cho mượn công đức của mình cũng như không thể vay mượn tình yêu.
Khôn ngoan là làm cho cuộc sống tràn trề tình yêu. Khôn ngoan là “xây nhà trên đá”, là tuân giữ lời đã được trao ban. Khờ dại là “xây nhà trên cát” hay chỉ biết nói “Lạy Chúa, lạy Chúa mà không thi hành”.
Chàng rể đến!
Đây là thời gian quan trọng nhất. Những ai đủ điều kiện sẽ vào bàn tiệc và cửa sẽ đóng lại.
Nước Trời là khoảnh khắc lượng giá cuộc sống. Tất cả được quy tụ nơi giây phút quyết định đó. Nếu chúng ta không sẵn sàng dầu đèn, không ai sẽ chấp nhận chúng ta: “Ta không biết các ngươi”.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ kết thúc. Ngày Chúa đến không hẹn trước. Ngày đó sẽ quyết định hạnh phúc vĩnh cửu hay sự khốn khổ của mọi người.
“Thiên Chúa là Tình Yêu ”.
Tình yêu của Ngài không bao giờ sứt mẻ hay lụi tàn, dù những làn sóng hận thù hôm nay có vùi dập nó, muốn bôi xóa dấu vết của nó trong thế giới. Nhưng tình yêu đó vẫn sáng ngời trên biển hận thù gian ác.
Chúng ta là những người được gọi để thắp lên ngọn đèn tình yêu cho tiệc cưới Con Chiên. Chúng ta làm được gì bằng cuộc sống nhỏ bé của chúng ta? Chúa không đòi chúng ta làm gì cho Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Hạnh phúc này chỉ có thể có được khi tình yêu trở thành điểm hẹn cho những người dám thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây”. Chúa gọi Ab-ra-ham, ông trả lời: “Con đây!” Chúa gọi Gia-cob, ông đáp: “Lạy Chúa, con đây!” Chúa gọi Mô-sê, ông cũng thưa: “Này, con đây!”
Chúng ta cũng sẽ được gọi dù trong đêm hay ban ngày, chúng ta sẵn sàng thưa vâng.
Hôm nay, chàng rể thần linh cũng đến, Ngài sẽ đưa chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Ngài. Bàn tiệc này sẽ là khởi điểm cho bàn tiệc trong Nước Trời mà mọi người được mời tham dự. Chúng ta đừng để lỡ cơ hội. Hãy thắp đèn sẵn chờ Ngài đến, như tân nương của sách Khải Huyền: “Xin Ngài ngự đến!”. “Đấng làm chứng cho những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ đến”. Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22,17.20)

19. Trinh nữ khôn ngoan
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.

20. Năm cô khôn ngoan
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mt 25: 1-13: Chúa ban cho mỗi người một khả năng để tự lo liệu. Chúng ta không thể dựa vào việc lành của người khác khi ra trình diện trước mặt Chúa, như các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: “các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’
Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do Thái.
Trong chuyến du lịch Palestine, tiến sĩ Alexander Findlay kể lại như sau: ”khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy?
Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến.
Tôi hỏi anh ta liệu tôi có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp: “có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành”.
Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Nghĩa là việc đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Và một điều cần phải lưu ý nữa là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra hôm nay.
Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
– Sẵn sàng có nghĩa là chuẩn bị đầy đủ. Như trong dụ ngôn, người ta không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù đủ số dầu. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế có thể xảy ra.
– Sẵn sàng có nghĩa là biết lãnh trách nhiệm chứ không phải là cậy dựa vào người khác.
Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ rằng: nếu thiếu dầu sẽ nhờ các bạn giúp, nhưng không thể được, vì dầu đèn ở đây là đức tin, lòng mến và các việc lành. Đức tin cần được trau dồi, hun đúc và chăm nom bảo vệ như cô phù dâu lo lắng cho đèn dầu đầy đủ. Có đèn mà không dầu thì đèn trở thành vô ích. Cuộc sống đạo mà không có đức tin soi đường dẫn lối, thì chúng ta sẽ đi trong tối tăm và lạc hướng.
Chúa ban cho mỗi người một khả năng để tự lo liệu. Chúng ta không thể dựa vào việc lành của người khác khi ra trình diện trước mặt Chúa, như các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: “các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’ (Mt 25,8).
Không được. Đức tin, lòng mến và việc lành không thể cho vay mượn. Mỗi người phải sống và thực hành đức tin và lòng mến của mình.
Một câu chuyện kể rằng: có một ông phú hộ rất khô đạo, thường hay nói với người vợ mỗi sáng Chúa nhật khi bà và các con sửa soạn đi lễ:
– Em hãy đến nhà thờ dự lễ và cầu nguyện cho anh với nhé?
Mỗi lần gặp gỡ bạn bè nói về chuyện đạo, ông thường khoe với họ là ông không cần đến nhà thờ, cũng không cần phải đọc kinh dự lễ, vì đã có vợ ông dự lễ, đọc kinh và cầu nguyện cho cả hai rồi.
Ngày tháng trôi qua, một hôm ông nằm mơ thấy ông và vợ đứng xếp hàng trước cửa thiên đàng đợi đến lượt mình bước vào.
Cửa trời mở ra và mọi người tuần tự vui vẻ tiến vào. Khi đến lượt ông thì thiên thần giữ cửa làm hiệu cho ông dừng lại. Thiên thần quay sang mỉm cười nói với vợ ông:
– Chị hãy vào thiên đàng thay cho cả chồng chị nữa!
Thế là chỉ có vợ ông tiến vào còn ông thì phải bơ vơ đứng ở ngoài.
Vừa tủi thân vừa tức giận đã làm cho ông thức giấc. Ông không dám thuật lại giấc mơ cho vợ, nhưng điều làm cho bà vợ ngạc nhiên là sáng chúa nhật hôm đó, thay vì nói với bà như thường lệ, nhà phú hộ đến gần vợ và nói bên tai bà: từ hôm nay, anh sẽ cùng với em đến nhà thờ dự lễ và cầu nguyện cho chính anh nữa.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta ra trước mặt Chúa với chính đức tin, lòng mến và việc lành của chính chúng ta chớ không phải của ai khác. Đó là lý do chính đáng mà các cô khôn ngoan nói với các cô khờ dại: “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị hãy ra hàng mà mua thì hơn”. Thế rồi chàng rể đến “người ta khoá cửa lại.” Không phải chỉ khép mà khoá lại (locked). Những cánh cửa mở rộng đón khách, nay được khoá lại.
Những thực khách bên trong đang hưởng sự vui mừng hớn hở của bữa tiệc. Họ chấm dứt những giây phút mong đợi dài dằng dặc. Những ai ở ngoài là vĩnh viễn ở ngoài. Họ đã hoang phí thời giơ, sức lực vào những công việc vô ích, không dự trữ dầu đèn đầy đủ nên họ đã để lỡ một cơ hội ngàn vàng. Chính vì vậy Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng lời khuyên: “vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào” (Mt 25,13). Amen.

21. Đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Nhận diện Chú Rể ngày cưới…
Dụ ngôn vẫn được quen gọi là ‘mười trinh nữ’ nằm trong số các dụ ngôn được tác giả Mát-thêu dồn vào hai chương 24 và 25 của sách Tin Mừng khi ngài đề cập tới thời đại cánh chung, đồng thời kêu gọi giữ thái độ luôn sẵn sàng. Sẵn sàng không chỉ như một tư thế chung chung, như khi chuẩn bị làm một công việc nào đó; ở đây nó được so sánh với chờ mong để nhận diện và đón tiếp một nhân vật. Nhân vật này, trong nhiều dụ ngôn khác, được sánh với ông chủ, ông vua, hay một bậc vị vọng quyền quí đi xa về, thì trong dụ ngôn này lại mang bộ mặt một chú rể. Mười trinh nữ cầm đèn sẵn sàng nhận diện chú rể trong ngày cưới (đúng hơn đêm cưới) hẳn phải hàm chứa một nội dung nào đó hết sức quan trọng: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể”.
Như vậy chú rể chính là Con Người quang lâm trong ngày sau hết của Mt 24:37, có nghĩa là trong ngày quang lâm Con Người sẽ có khuôn mặt rạng rỡ của một chú rể ngày cưới. Khuôn mặt chú rể ngày cưới không thể mang bộ tịch của một ông hoàng thịnh nộ, không thể có điệu bộ nghiêm khắc của một quan tòa xét xử… Chú rể ngày cưới sẽ là khuôn mặt rạng rỡ yêu thương, thâm chí say đắm trong yêu đương, và Kitô hữu chúng ta phải là những người đầu tiên nhận diện được khuôn mặt đó. Ngọn đèn các trinh nữ cầm trong tay và thắp sáng lên chính là để làm công việc nhận diện này: giữa đêm tối, họ phải là những người đầu tiên nhận ra khuôn mặt say đắm yêu đương của Chú Rể, và soi cho mọi người được biết để cùng nhận ra, và tiến vào bữa tiệc cưới Nước Trời.
Trong ngày rửa tội ngọn đèn đức tin của mỗi tín hữu đã được thắp lên. Ngọn đèn này trước nhất phải soi sáng để chúng ta nhận ra dung mạo của một Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Bí tích rửa tội Tân Ước không mang nội dung chính là dục lòng thống hối ăn năn để được xóa sạch mọi tội lỗi, nhưng là để nhận biết Thiên Chúa cứu độ và từ nhân. Rửa tội không chỉ biến tôi thành một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn, trao cho tôi ngọn đèn thắp sáng để tôi tham gia vào cuộc đón rước Chú Rể. Bao lâu ngọn đèn còn cháy sáng, bấy lâu tôi còn có thể nhận diện được Người trong đêm tối. Chú Rể có thể đột ngột xuất hiện, Người có thể tới từ bất cứ đâu, vào bất cứ giờ giấc nào… “Chú rể kia rồi, ra đón đi”, thì tôi vẫn luôn luôn nhận ra Người với nét yêu thương không thể nhầm lẫn.
Thế nhưng ngọn đèn này vẫn có thể bị tắt ngúm bất cứ lúc nào vì cạn dầu. Cho dầu có là một Kitô hữu đạo đức tốt lành (như hình ảnh các trinh nữ đi đón chàng rể) tôi vẫn luôn có nguy cơ không nhận diện được Thiên Chúa tình yêu, Người Cha yêu thương khi Ngài đến. Tự nó, việc nhận ra một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, cao sang sẽ không là quá khó. Cựu Ước và rất nhiều tôn giáo khác (như Hồi Giáo chẳng hạn, với sự tôn trọng tuyệt đối dành cho Đấng Allah), thậm chí một nền triết học thuần túy, cũng có thể đạt tới trình độ này. Cho dầu việc suy tôn đó có hoàn toàn đúng, thì diện mạo Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô cất công xuống thế để loan truyền lại giống với dung mạo một chú rể hơn: Chú Rể rạng rỡ yêu đương. Kitô hữu phải là các trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể này. Thế nhưng éo le thay, ngọn đèn nào thì cũng có thể bị tắt, nhất là khi cạn dầu giữa đêm hôm; vậy thì dầu đó là gì, chúng ta tự hỏi? Tông đồ Phao-lô khảng định không có Thần Khí thì chẳng có nghĩa tử, thì chẳng ai có thể kêu lên với Thiên Chúa ‘Ab-ba, Cha ơi!’ (Rm 8:15-16). Như vậy có nghĩa là ngay cả các Kitô hữu có thể tay vẫn cầm ngọn đèn nhưng lửa thì đã tắt vì cạn dầu nên chính họ giữa đêm khuya không thể nhận ra dung mạo đúng của Chú Rể… Và rồi thì cánh cửa tiệc cưới yêu thương sẽ đóng lại, tiếng Chú Rể vọng ra “Tôi không biết các cô là ai cả!”, vì điều quan trọng hơn cả đối với các trinh nữ Kitô hữu này sẽ không là gì khác hơn nhận dạng ra, và đón tiếp Chú Rể của tiệc cưới yêu thương.
Câu chuyện dụ ngôn này đưa một Kitô hữu như tôi đi đến kết luận: sống như một trinh nữ (luân lý tốt lành, đạo hạnh) là điều tốt đẹp và cần thiết, nhưng chưa hẳn là chính yếu. Điều hệ trọng hơn cả vẫn luôn là “vừa mang đèn, vừa mang chai dầu theo” để duy trì nơi tôi khả năng nhận dạng Chú Rể và đón tiếp Người bất cứ lúc nào và nơi đâu Người đến. Hội Thánh qua các bí tích (nhất là bí tích Rửa tội, Giải Tội, Thánh Thể và Sức Dầu bệnh nhân…), không chỉ nhằn giúp tôi giữ cho mình được sống như một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn là bảo đảm tuôn đổ dầu Thánh Thần trên tôi hầu có thể nhận ra diện mạo Chú Rể tiệc cưới. Và nếu Chú Rể có bất chợt tới giữa đêm khuya tăm tối đi nữa (và đêm khuya đó rất có thể là hình ảnh tình trạng tâm hồn tội lỗi của tôi và của nhân loại), đèn tôi vẫn chưa tắt vì còn đầy dầu Thánh Thần, điều làm tôi nhận ra ngay được dung mạo nhân từ của Người, và cùng “đi theo người vào dự tiệc cưới”.
Lạy Chúa là Chú Rể tiệc cưới Nước Trời, trong mọi biến cố cuộc sống, khi Chúa bất chợt đến dưới bất cứ hình thức nào và cả giữa đêm đen tối tăm nhất, xin cho con ơn luôn cầm trong tay ngọn đèn cháy sáng với dầu Thánh Thần để con nhận ra dung mạo Đấng Cứu Độ thân thương của con. Và nếu giờ chết bất chợt đến với con dưới bất cứ hình thức nào và trong trạng thái tâm hồn nào đi nữa, con chỉ xin Chúa cho con vẫn duy trì được khả năng nhận ra khuôn mặt đầy yêu thương của Chú Rể, và được theo vào gia nhập bàn tiệc cưới Nước Trời. Amen.

22. Tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Ơn khôn ngoan là ơn sủng của Chúa Thánh Thần. Ngày xưa, vua Sôlômon chỉ xin Thiên Chúa cho được ơn khôn ngoan để phân biệt phải, trái và xét xử dân cho công bằng chính trực. Chúa đã ban cho vua được ơn khôn ngoan và mọi ơn cần thiết nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả: Sự khôn ngoan sáng tỏ và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng (Kn 6, 13). Người đời thường nói: Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét. Người khôn ngoan là người học biết được lý lẽ ở đời. Biết đường đi nước bước. Biết sự giới hạn của mình. Càng hiểu biết về chính mình thì càng khôn. Chưa chắc người biết nhiều sự ở đời đã là người khôn. Người khôn là biết những gì mình cần phải biết, gọi là trí tuệ. Biết hướng nhìn lên trời cao, nhìn xuống và biết quan sát vạn vật chung quanh. Người khôn nhận biết được nguồn gốc, ý nghĩa và cùng đích của vũ trụ muôn loài và con người.
Sự khôn ngoan giúp chúng ta nhận biết mọi sự đang hiện hữu trong ý nghĩa đích thực của nó. Khôn ngoan cao siêu và sâu thẳm như tình yêu. Tình yêu không có giới hạn. Sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa cao vời tuyệt đối. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài và quan phòng đặt để một trật tự lạ lùng trong vũ trụ. Một vũ trụ diễn tiến không ngừng trong không gian và thời gian. Mọi loài thụ tạo có sự sống đều có khả năng truyền sinh một cách độc đáo tuyệt vời. Khôn ngoan là một ơn và cũng là một nhân đức. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn toàn và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm (Kn 6, 15). Chúng ta cần cầu xin ơn khôn ngoan và cũng phải trau dồi học hỏi kinh nghiệm để học khôn. Ca dao Việt Nam có câu: Con ơi, hãy nhớ lời cha: Học khôn học khéo cho tầy người ta, con đừng học thói chua ngoa. Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
Trong bài phúc âm hôm nay kể câu truyện năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan chuẩn bị đi đón chàng rể: Năm cô khờ dại mang đèn, mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình (Mt 25, 3-4). Mỗi ngày, chúng ta gặp gỡ nhiều người. Có những người hiền lành, hòa ái và dễ thương. Có những người dễ tính, thiện cảm, vui vẻ và vồn vã. Có người cộc cằn, thô lỗ và khó chịu. Có người kiêu căng, tự phụ và hống hách, Cũng có những người trầm tư, ít nói và lặng lẽ. Có người sống thiên về lý trí, hiếu học và hiểu biết. Có kẻ sống tình cảm, ủy mị và hay cảm thương. Mỗi người một tính khí khác nhau. Trong câu chuyện có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Sự khờ dại đây không phải là bị chậm trí, kém thông minh mà là sự lơ đễnh, khinh thường và bất cẩn. Họ đã không biết nhìn xa trông rộng để dự liệu. Họ khờ vì họ bị thiển cận thiếu sự chuẩn bị.
Chờ đến phút cuối cùng, họ đã đi cầu cứu, nhưng giờ đã đến, các cô khác không thể giúp đỡ: Những cô khờ dại nói với những cô khôn ngoan rằng: Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của các em đã tắt cả (Mt 25, 8). Giờ chàng rể đến thật bất ngờ, khi không chuẩn bị sẵn sàng, các cô sẽ không được vào dự tiệc cưới. Các cô khờ dại đã bị lỡ một cơ hội. Cơ hội này chỉ đến có một lần. Các cô khôn ngoan cầm đèn và có cả bình dầu mang theo. Các cô khôn đã kịp thời dầu đèn ra đón chàng rể và vào dự tiệc cưới. Sự khôn ngoan ở đời chính là sự tỉnh thức đón nhận mọi sự cố có thể xảy đến: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào (Mt 25, 13). Hãy tỉnh thức như người lính canh hay như người đứng gác cửa để nhận biết những sự việc xảy ra chung quanh.
Có một câu truyện kể bởi một danh hài. Anh ta đã đạt tới đỉnh cao chuyên nghiệp. Anh ta rất giầu có và thành công trong đời. Ngay tới hôm nay, những danh hài chuyên nghiệp bắt chước ông ta. Nhưng lối sống của ông ta thường thấy mâu thuẫn với đời sống của phúc âm. Tuy nhiên khi về cuối đời, ông đã dùng nhiều thời giờ để đọc Kinh Thánh. Một vài người đã hỏi ông tại sao ông đã làm điều này và ông trả lời: Tôi đang đi tìm kiếm bất cứ lỗ hổng nào mà tôi có thể tìm. Tôi đã biết một hay hai người như thế, khi cuộc đời sắp mãn, họ để lại một món tiền lớn để xin các Thánh Lễ cho họ sau khi họ chết. Điều này sẽ rất hoài nghi, khi nhắm vào số tiền này như một loại bảo hiểm hỏa hoạn cho kiếp sống ngày sau? Chúng ta hãy nhớ rằng con đường lên thiên đàng là thiên dàng. Ngay bây giờ chúng ta có quyền tự do chọn lựa đi theo con đường này. Đừng chờ cho đến phút chót. E rằng chúng ta sẽ bị lỡ chuyến tầu.
Việc trì hoãn rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thường chờ nước tới chân rồi mới nhảy. Thường thì những phút cuối thì động lực làm việc mạnh hơn và dễ sinh hiệu qủa hơn. Trong đời sống đạo, chúng ta không cần phải chờ đến phút chót rồi mới ăn năn sám hối trở về cùng Chúa. Chẳng khác gì chúng ta đang đi tìm một lối tắt hay một lỗ hổng để bước vào thiên đàng. Nếu chúng ta muốn cuộc sống này có một cùng đích tốt, chúng ta phải chuẩn bị và sống tốt ngay từ bây giờ. Hãy vui hưởng hoa trái tốt lành và hoan lạc mà chúng ta đang có trong ngày hôm nay. Thời gian rất quí báu. Có biết bao nhiêu người đang phải phấn đấu từng giây phút để sống còn nơi các bệnh viện, bệnh xá và phòng cấp cứu. Người ta nói rằng còn nước còn tát để níu kéo sự sống.
Bất ngờ! Chẳng ai học được chữ ngờ. Luôn luôn có những sự bất ngờ xảy ra trong đời. Những sự cố xảy ra bất ngờ như sấm sét, mưa bão, động đất, sụt lở và sóng thần… Có những tai nạn xảy ra đột ngột do môi trường chung quanh. Có những cái chết bất ngờ trong chiến tranh, tai nạn và bệnh hoạn. Cái gì cũng có thể xảy ra trong mọi nơi và mọi lúc. Làm sao chúng ta có thể chuẩn bị trong tỉnh thức? Nói hay viết thì dễ, nhưng đi vào cuộc sống lại là một thách đố khó lường. Trong đời sống, ai ai cũng có những niềm hy vọng và ước muốn cho tương lai. Ai cũng có những dự tính gần hoặc xa. Chúng ta dễ dàng bị lo ra, thiếu xót và lỡ dở chần chừ trong nhiều công việc. Dù biết rằng thần chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng chúng ta vẫn ỉ y và bình chân như vại. Tự vấn, nếu hôm nay Chúa gọi về, tôi đã chuẩn bị được gì? Con chưa sẵn sàng, Chúa ơi! Người khôn ngoan là người biết dự phòng, lo liệu và luôn sẵn sàng tỉnh thức trong mọi trạng huống cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta bước đi trong niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô đã chết và sống lại, đó là chìa khóa và là bảo chứng ý nghĩa của cuộc đời. Vững tin vào Chúa Kitô là một mối lợi. Chúng ta dõi bước theo lối bước của Chúa sống đức tin mỗi ngày trong khi mong chờ Chúa lại đến. Thánh Phaolô khuyến khích rằng: Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đến đem họ làm một với Người (1Thess 4, 14). Vinh phúc bất diệt là sự liên kết với Đấng Trung Gian vạn vật. Ơn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra đối tượng tuyệt hảo và phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không còn phải sợ hãi, lo âu hay quanh quẩn không cùng đích. Chúa Giêsu đi trước để chuẩn bị chỗ cho chúng ta. Tiệc cưới đã sẵn sàng. Chúng ta hãy cầm đèn cháy sáng trong tay để chung vui tiệc cưới Nước Trời.
Lạy Chúa, mỗi giây phút sống đều là hồng ân. Xin cho chúng con biết quý trọng từng phút giây trong cuộc đời. Cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan để chúng con biết nhận ra ý nghĩa đích thực của sự sống đời này và đời sau để được sống theo thánh ý Chúa.

23. Sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: ‘Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’ (Mt 25,8).
Khởi đầu sự sống, mỗi một loài thụ tạo chấp nhận một định mệnh riêng biệt và độc lập. Chúng ta không có quyền chọn lựa cho sự khởi đầu hiện hữu. Được sinh ra ở đời là một hồng ân cao cả. Bước vào cuộc sống đa dạng, chúng ta cùng đồng hành với tha nhân trên cùng một khoảng đường, theo một lý tưởng và bị giới hạn trong một thời gian và không gian. Số mệnh từng người gắn liền với cuộc sống ngay từ giây phút đầu tiên khi được thụ thai trong cung lòng mẹ. Trong sự hiện hữu đó đã có tiềm ẩn chất chứa mọi khả năng và vốn liếng để sinh hoa kết trái. Mới đây tôi được nhìn xem chùm ảnh của nhiếp ảnh gia Thụy Điển Lennart Nilsson, ông đã dành 12 năm để tìm chụp những bức ảnh về việc thụ thai và phát triển thai nhi trong tử cung người mẹ. Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng cuộc sống của tôi đã trải qua những chu kỳ phát triển nhiệm mầu như thế. Không ai có thể giải thích tiến trình hình thành con người được.
Tin tưởng mọi sự đều nằm trong sự quan phòng của Tạo Hóa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao lại có người giầu, kẻ nghèo và người dại, người khôn? Khôn dại do bẩm sinh hay do thái độ chọn lựa? Suy gẫm bài Phúc âm về sự chuẩn bị của 10 cô trinh nữ, có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Mỗi cô phù dâu đều có dầu đèn mang theo bên mình để soi lối cho chính mình. Các cô không thể dựa dẫm vào người khác để vay mượn và mỗi người có trách nhiệm giữ đèn cho sáng để canh thức đợi chờ. Nói đến đèn cháy sáng là nói đến biểu tượng của đức tin. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, linh mục trao đèn sáng cho cha mẹ đỡ đầu và đọc lời nguyện: Ông bà anh chị, là những bậc cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho em nhỏ đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin, nhờ đó, khi Chúa đến, em được ra đón người với toàn thể các Thánh trên trời.
Mỗi người chúng ta đã được nhận lãnh ánh sáng đức tin. Đức tin cần được trau dồi, hun đúc và chăm nom bảo vệ như cô phù dâu lo lắng cho đèn dầu đầy đủ. Có đèn mà không dầu thì đèn trở thành vô ích. Cuộc sống đạo mà không có đức tin soi đường dẫn lối, thì chúng ta sẽ đi trong tối tăm và lạc hướng. Chúa ban cho mỗi người một khả năng để tự lo liệu. Chúng ta không thể dựa vào kết qủa lòng đạo của người khác khi ra trình diện trước mặt Chúa, như các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: ‘Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả’ (Mt 25,8). Không được. Đức tin không thể cho vay mượn được. Mỗi người phải sống và thực hành đức tin của mình. Đèn cần dầu, cuộc sống Kitô hữu cần có đức tin. Đức tin là nhân đức đối thần và là ân sủng Chúa ban. Các môn đệ của Chúa Giêsu vẫn cầu xin Chúa ban thêm đức tin: Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.”(Lc 17,5). Trước những việc lạ lùng của Chúa, các môn đồ nhận biết sự yếu kém đức tin của mình. Các ngài không thể hiểu và khó có thể lãnh hội những điều Chúa truyền dạy. Chúa Giêsu phán: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời anh em (Lc 17,6).
Tự vấn xem chúng ta thuộc vào nhóm các cô phù dâu khôn hay dại. Ai trong chúng ta cũng có đèn nhưng dầu dự trữ có được bao nhiêu. Xét mình trước mặt Chúa, chúng ta đã làm thế nào để chăm sóc, vun tưới và trau dồi cho đức tin của chúng ta? Chúng ta thường nhận lãnh các Bí Tích Hòa Giải và lãnh nhận lương thực bởi trời qua Bí Tích Thánh Thể, nhưng mấy khi chúng ta rà soát lại đèn dầu còn hay đã cạn. Theo Chúa là bước đi trong niềm tin phó thác. Chúng ta đừng tưởng lầm rằng mình đã gặp gỡ Thiên Chúa một cách hữu hình cụ thể nơi một vài sự kiện lạ hay hình thức lạ là đủ cho đời sống đạo. Sống đạo là hành trình của đức tin. Đôi khi chúng ta còn phải lần mò trong đêm tối. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những kẻ có niềm tin: Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! (Ga 20,29).
Tại sao trong mỗi thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta phải tuyên xưng đức tin qua Kinh Tin Kính? Hoặc sau mỗi lần linh mục đọc lời truyền phép trên bánh và rượu đã xướng lên: Đây là mầu nhiệm đức tin. Đức tin là đèn soi và là chỗ tựa vững chắc. Đã nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ khi thuyền gặp cơn bão: Đức Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!”. Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ (Mt 8,26). Các môn đệ lo lắng đủ điều trong cuộc sống mà quên sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã dậy: Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!(Lc 12,28).
Đức tin sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua những khó khăn và gian truân của cuộc sống. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta đang sống giữa một xã hội đang chuyển mình đổi thay. Sự thay đổi quan niệm sống về mọi khía cạnh đạo lý, luân lý, triết lý và luân thường đạo lý. Văn hóa sự chết len lỏi vào mọi lãnh vực của đời sống. Ngay trong đời sống đạo cũng có những dành dật, lôi kéo, mơ hồ và đôi khi mê tín dị đoan chen lẫn. Không thiếu những mục tử giả dạng và dùng tài khéo để kéo lôi được nhiều người tin theo. Đối diện với trăm ngàn mối, chúng ta phải hết sức cẩn thận chọn lựa hướng đi cho mình. Nếu chúng ta sống trong sự thật và sống như con cái sự sáng giữa ban ngày, không ai có thể làm hại hay phê bình bắt bẻ chúng ta. Mọi cách thế áp dụng thực hành sống đạo cần minh bạch và rõ ràng. Chúng ta không cần biện minh tranh cãi mà cần sự tỉnh thức. Mỗi người có một cuộc sống và một đường để đi tới. Hãy giữ vững đức tin và chuẩn bị sẵn sàng: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào. (Mt 25,13). Chúng ta không biết ngày giờ Chúa gọi, cách tốt nhất là đèn dầu sẵn sàng để khi Chúa đến, chúng ta cùng ra đón Ngài với đèn cháy sáng trong tay.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Các bị bô lão hay những trẻ em đều có một ngày mới giống nhau. Ai cũng phải đối diện với cái đang và sẽ xảy đến. Chúng ta không thể nói rằng năm nay tôi đã 70 hay 80 tuổi, tôi không còn phải lo lắng hay chuẩn bị gì nữa. Dù là tuổi nào, chúng ta vẫn đang trên đường lữ hành. Có người yên trí hơn vì nghĩ rằng họ đã có bảo hiểm nhân thọ và các thứ bảo hiểm khác cho cuộc sống. Chúng ta biết dù có bảo hiểm gì đi nữa, mỗi tối trước khi đi ngủ, ai cũng phải xem xét cửa rả then cài, chốt khóa và điện ga bếp núc on/off cẩn thận. Công việc rất đơn giản nhưng là một sự chuẩn bị rất cần thiết trong cuộc sống đời thường. Có nghĩa là dù tuổi nào chúng ta cũng phải ở tư thế sẵn sàng.
Chỉ có một con đường dẫn tới quê thật mà Chúa Giêsu đã mở: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14,6). Đi theo Chúa là đi vào con đường của sự thật. Chúa Giêsu đã nói với những người Do-thái và cả với chúng ta ngày nay: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8, 31-32). Điều mà mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức là chúng ta đang ở đâu? Sống thế nào? Đặt niềm tin, niềm cậy và phó thác vào ai? Ai là Đấng mà chúng ta đang tôn thờ? Khốn khổ nhất là khi chúng ta mãn phần dưới thế và bước vào cuộc sống mai hậu, chúng ta đến trước tòa Chúa trình diện và xin Chúa mở cửa cho: Nhưng Người đáp lại: ‘Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi’ (Mt 25,12). Vậy là bao công lao dã tràng và còn gì để nói. Chúng ta đã lỡ chuyến tầu.
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc của sự dối trá. Người ta nói: Cây ngay không sợ chết đứng. Chúng ta cũng hiểu: Sự thật thì mất lòng nhưng rồi nói phải củ cải cũng phải nghe. Chúng ta cẩn thận đừng chọn thần tượng nào trong cuộc sống đời này. Ai trong chúng ta cũng chỉ là con người yếu đuối, tội lỗi và phàm tục. Chúng ta không thể vay mượn hay dựa vào uy tín của ai khác để kể công trước mặt Chúa. Khi đến giờ đã định, mỗi người chúng ta phải tự đứng trên chân của mình và chịu trách nhiệm về đời mình. Chỉ có một Đấng có thể cứu độ linh hồn chúng ta, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta đến nguồn sống tuyệt hảo là Chân Thiện Mỹ.
Lạy Chúa, xin thêm dầu đức tin để đèn của chúng con được luôn cháy sáng và giúp chúng con tiếp tục bước theo Chúa cho đến cùng. Xin Chúa đưa tay dẫn dắt chúng con về bến bình an.

24. Niềm hy vọng
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Sáng hôm nay, tôi đi thăm một cụ bà tuổi đã ngoài 90 tuổi, tên bà là Margaret Grossenbacher. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, bà thường xin xưng tội. Xong xuôi mọi nghi thức, cụ bà mời tôi ngồi và kể lể vài tâm sự. Bà sống một cuộc đời khá dài nhưng cũng hơi đơn côi. Bà không lập gia đình, nên không có chồng con chi cả. Ông bà nội ngoại chết trước khi bà sinh ra. Cha mẹ theo đạo Tin Lành và đã chết. Người thân còn lại là gia đình của người chị. Họ chỉ có một đứa con nuôi và vài đứa cháu. Bà trở lại đạo Công Giáo khi còn trẻ và cả đời làm cô giáo dạy học. Tuy 91 tuổi, bà còn rất tỉnh táo. Tính đếm tiền bạc để dâng cúng đều đặn cho nhà thờ và việc bác ái. Bà không sợ chết và luôn phấn chấn hy vọng vào sự sống ngày sau. Sáng nay bà nói: Đêm qua bà nằm mơ là sau khi chết, chẳng có gì ở thế giới bên kia. Bà hỏi tôi: Không biết giấc mơ có thật hay không? Tôi chỉ biết trả lời: Hãy tin vào Chúa Kitô phục sinh là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc.
Niềm hy vọng vào sự sống đời sau là niềm hy vọng tuyệt đối. Đánh đổi bằng nhiều hy sinh của cuộc đời trên trần thế để mong đạt vinh quang sự sống lại. Trong sách Macabêô quyển thứ hai kể câu truyện bảy anh em bị bắt cùng với mẹ mình. Vua ép họ ăn thịt heo, lỗi phạm lề luật Thiên Chúa đã cấm. Từ anh lớn đến người em nhỏ đều khẳng khái trung kiên một lòng thà chết không hề lỗi luật. Động lực lớn nhất trong tâm trí là tin tưởng vào phần thưởng sự sống đời đời: Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mac 7, 9). Niềm tin tưởng tuyệt đối đánh đổi bằng cả mạng sống mình.
Chúng ta biết rằng người đời có thể dùng sức mạnh để hủy diệt mạng sống của nhau. Tổ chức xã hội con người có thể cầm tù, đánh đòn, làm khổ thân xác và khủng bố tinh thần nhưng họ không thể tước đoạt ý chí và sự tự do lương tâm của con người. Không ai có thể phủ nhận niềm tin trong tâm hồn người khác. Sức mạnh của niềm tin vững vàng nơi bảy anh em đã vượt trên sự đau khổ và sự chết: Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu” (2Mac 7, 14). Cả bảy anh em can đảm đối diện với cái chết. Chết để được sống. Vui hưởng sự sống đời đời.
Câu truyện cưới vợ gả chồng của bảy người anh em trong bài phúc âm bàn về sự sống lại ngày sau. Các thầy Sa-đốc dựa vào lý luận của cuộc sống vợ chồng đời này để kết luận sự việc đời sau. Các thầy từ chối tin vào sự sống lại ngày sau. Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng:“Con cái đời này cưới vợ gả chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Không có một ai đang sống trên đời có kinh nghiệm hay sự hiểu biết gì về đời sau. Đây là vấn đề của niềm tin. Thiên Chúa đã từng bước mạc khải cho con người về mầu nhiệm sự sống và sự chết qua Chúa Giêsu Kitô. Đời sống con người có mục đích và có cùng đích. Sinh ra là khởi đầu. Sống là cuộc lữ hành. Chết là điểm đến.
Mỗi người có một cuộc đời dương thế. Khi đã kết thúc cuộc đời dương thế là bước sang một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về điểm đến: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20, 36). Những người đã chết, thân xác bị hủy diệt và linh hồn tiếp tục hiện hữu. Chúa Giêsu khai mở một chân lý vĩnh cửu là linh hồn hiện hữu ngang hàng với các thiên thần. Thiên thần hiện hữu nhưng vô hình. Đây là thế giới của những kẻ đã mãn cuộc đời dương thế. Thiên Chúa không sáng tạo vũ trụ con người để bị hủy diệt trở về hư không. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Chúa Giêsu xác tín về sự sống lại ngày sau: Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (Lc 20, 38).
Người tôi tớ Chúa, Đức cố Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn văn Thuận, là tấm gương sáng ngời cho những ai bị lung lạc niềm tin và sự hy vọng. Trong thời gian bị cải tạo tù đầy, niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh đã chiếm trọn trái tim của ngài. Dù trong tù, mỗi ngày ngài dâng thánh lễ tạ ơn. Ngài nêu gương hiền hòa và khiêm nhường. Không ai là kẻ thù trong tim ngài. Ngài dạy cho các anh cai tù học biết ngọai ngữ Anh và Pháp, dạy hát thánh ca bằng tiếng Latinh. Chính các cán bộ nhân viên cai tù hát kinh ‘Veni Creator’ của đạo Công Giáo. Người bị tù đã cải tạo những người cai tù bằng đức tin và niềm hy vọng. Nơi nhà giam, Đức Cố Hồng Y đã sống trong hy vọng và đã viết cuốn ‘Con Đường Hy Vọng’. Hy vọng là lối bước vào tương lai. Niềm hy vọng sẽ làm cho đời sống vui tươi, phấn khởi và an bình.
Khi tôi đang viết bài suy niệm này, có phôn reo. Người thơ ký báo là có hai người muốn gặp việc khẩn cấp. Tôi xuống văn phòng gặp một người đàn bà lớn tuổi và một ông trẻ hơn. Cả hai chị em đều là người công giáo. Bà bắt đầu khóc lóc và kể lể mọi khó khăn đang gặp phải. Bà đang đối diện với quá nhiều khổ đau chồng chất. Một người em và mẹ mới qua đời tuần qua. Người con gái mới bỏ nhà ra đi sống với bạn gái (Lesbian). Một đời chắt chiu tiền bạc của cải, giờ đây tất cả dũ cánh ra đi. Bà còn phải mang căn bệnh hiểm nghèo, lục phủ ngũ tạng đều nhiễm bệnh. Bà sợ phải mổ xẻ và sợ chết. Ngồi bên cạnh bà là người em 51 tuổi mới vừa trở về sau 31 năm ở trại tù giam. Bà nói rằng chú em mãn ở trong khám tù, nay lại vào khám lo. Bà đang mất niềm hy vọng. Không biết bám víu vào đâu. Sầu khổ, khóc lóc và sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Bà đang tự đóng khung cuộc đời. Của cải niềm vui trần đời không thể cứu vãn. Một lời khuyên, chỉ có một lối thoát duy nhất là đặt niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh.
Thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô nói đến niềm vui và niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Mọi thú vui của thế gian rồi cũng sẽ trôi qua, chỉ có ân sủng của Chúa là niềm an ủi bất diệt: Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp (2Thes 2, 16). Chúa Kitô đã phục sinh từ cõi chết, Ngài là trưởng tử của những kẻ yên giấc. Ngài đã sống lại và đã hiện ra nhiều lần với nhiều người. Người vẫn đang sống. Đây là niềm hy vọng tuyệt đối cho tâm hồn. Chúng ta tin tưởng vào Chúa Kitô. Chúng ta có Lời để sống, có đường để dõi theo, có cùng đích để hướng tới và có nhà để về. Chúa Giêsu phán rằng nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Chúa sẽ trở lại đón chúng ta về.
Muốn hưởng sự sống đời đời, chúng ta phải dõi bước theo Chúa Kitô và cùng chịu đựng với Ngài. Con đường duy nhất dẫn tới sự sống đời đời là con đường thập giá của Đức Kitô: Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô (2Thess 3, 5). Theo Chúa, vào qua cửa hẹp đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ và chịu thiệt thòi vì danh Chúa. Với tha nhân, thực hành bác ái yêu thương. Cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp ngày nay để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Mỗi ngày nối kết bậc thang đi lên bằng những việc tốt và việc thiện nho nhỏ. Con đường lên thiên đàng là thiên đàng rồi.
Lạy Chúa, Chúa là sự sống lại và là sự sống. Chúa là Alpha và Ômega, là đầu và là cùng đích. Chúng con đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Xin Chúa đón nhận chúng con vào Nước Chúa. Chúng con sẽ được ngang hàng với các thiên thần. Hạnh phúc ngàn đời bên Chúa.

25. Để tránh việc “quá trễ”
(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội. Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn? Đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
1) Sẵn sàng có nghĩa là đã chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
2) Sẵn sàng có nghĩa là lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của chúng ta.
3) Hậu quả những cố gắng trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết, chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có thực.

26. Bài học về đức khôn ngoan
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Trong bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa nhật 32 Thường niên, phụ nữ là gương mặt chính. Đây là điều hiếm thấy. Vì thông thường, người phụ nữ bị gạt ra ngoài lề xã hội, không có tiếng nói hoặc vắng mặt trong các bản văn Kinh Thánh, vốn phản ánh sự sáng tạo của nam giới trong bối mà họ nắm quyền.
Trong sách Khôn ngoan của vua Salomon, chúng ta nghe nói về đức khôn ngoan như là Bà chúa khôn ngoan. Đây là một hình ảnh phụ nữ tượng trưng để nhân cách hóa trí thông minh và nhận thức sâu sắc. Các truyền thống về bà chúa khôn ngoan thường nhấn mạnh mối tương quan mật thiết của bà với Thiên Chúa, miêu tả bà như một món quà của Thiên Chúa và cũng là người tham dự vào quyền năng và hành động của Thiên Chúa. Bài đọc hôm nay nêu bật hình ảnh bà chúa khôn ngoan sáng chói và dễ dàng cảm nhận. Bản văn nhắc nhở các độc giả xưa cũng như nay hãy quan sát thế giới, tìm kiếm những mẫu gương và thái độ khôn ngoan. Khái niệm bà chúa khôn ngoan tự tỏ lộ chính mình được lặp đi lặp lại như giúp người ta biết tìm kiếm sự khôn ngoan, xa tránh cũng như phê phán sự vô tri.
Vẻ đẹp của bà chúa khôn ngoan cũng được nhấn mạnh. Ví dụ như “Đức khôn ngoan đi bước trước tỏ mình cho những ai khao khát”. Điều này mời gọi người ta tìm kiếm đức khôn ngoan vì sự cuốn hút của nó. Bỏ qua những ngôn từ và hình ảnh bóng gió về phụ nữ thì điểm mấu chốt vẫn là khát khao đức khôn ngoan.
Trong bài Tin mừng, chúng ta nghe một dụ ngôn khác về Nước Trời của thánh Matthêu, dụ ngôn mười cô trinh nữ. Nhiều dịch giả và nhà chú giải thường xem đây là dụ ngôn mười cô phù dâu để nêu bật vai trò mà họ đảm nhận trong câu chuyện. Khi những người phụ nữ chuẩn bị đón chú rể và có lẽ cũng có cô dâu dù vắng mặt trong câu chuyện, thì có 5 cô khôn ngoan đem theo dầu cùng với đèn của mình và năm cô khờ dại mang đèn nhưng không mang theo dầu. Những phụ nữ được xem là khôn ngoan hay khờ dại dựa vào khả năng chuẩn bị của họ. Cả 10 cô đều ngủ thiếp đi, và vào cuối của câu chuyện, những thính giả của Đức Giêsu được cảnh báo là hãy tỉnh thức. Trong chương tiếp theo, Chúa Giêsu cũng chỉ trích các tông đồ vì tội ngủ quên.
Khi những cô gái không mang dầu xin giúp đỡ thì họ được khuyên là hãy tự đi mua dầu cho mình. Một mặt, điều này có vẻ trái ngược với sứ điệp yêu thương và quan tâm lẫn nhau của Tin mừng. Không lẽ những cô đã chuẩn bị và mang theo dầu lại không giúp đỡ những cô khờ dại sao? Mặt khác, trong bối cảnh của dụ ngôn về sự chuẩn bị, 5 cô có mang dầu đã từ chối chia sẻ dầu là để họ có thể chuẩn bị đầy đủ vào những phút cuối. Khi chú rể đến thì anh và 5 cô mang đèn có dầu đã vào bàn tiệc. Và khi các cô kia trở lại sau khi đi mua dầu, chú rể lại bảo rằng anh không hề biết họ. Điều này có vẻ kỳ quặc, nhưng nó phản ảnh thực tế khắc nghiệt vì tính không biết lo xa của họ.
Dù không phải là một câu chuyện kiểu mẫu về sự giúp đỡ và liên đới, nhưng đây là một dụ ngôn quan trọng về trách nhiệm cũng như tính trách nhiệm của con người. Dụ ngôn nhắc nhớ các độc giả xưa và nay về sự không vững bền của thế giới nói chung cũng như nhấn mạnh đến việc Nước Trời đang đến gần và cũng kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức. Hơn nữa, dụ ngôn giúp mọi người ý thức về sự sống còn và tự lực cá nhân trong cuộc sống.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/10/16/when-women-are-central-figures

27. Thức tỉnh
Tờ báo Digest thuật lại tai nạn xe hơi xảy ra trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1994, nguyên do là cô Jacqueline 16 tuổi vừa nhận được bằng lái xe, nhân ngày nghỉ cô đã mời các bạn đi siêu thị, trong xe có 3 người bạn trai và một người bạn gái. Họ vui vẻ thuật lại cho nhau nghe về những thú vui của ngày lễ, vì quá vui nên Jacqueline đã để lạc tay lái, xe lao vào đường ngược chiều. Và bất ngờ một xe khác ngược chiều đã tông vào xe của cô, hậu quả là 4 người đều thiệt mạng.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy cái chết đến với cô Jacqueline và các bạn của cô rất bất ngờ. Họ không bao giờ nghĩ mình lên chiếc xe này rồi đi không bao giờ trở lại. Họ không ngờ Thiên Chúa đến với họ bất ngờ như vậy.
Thiên Chúa đã gọi cô Jacqueline và các bạn của cô đi cách rất bất ngờ, khi người ta không bao giờ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra thì lại xảy ra. Cũng thế Thiên Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta cách bất ngờ như thế, vào lúc chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Do đó, mà hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười cô trinh nữ để nói về việc thức tỉnh chờ ngày Chúa đến. Dụ ngôn này dựa theo phong tục cưới hỏi của người Palestin thờ Chúa Giêsu theo luật Môisen cưới hỏi không có tính cách tôn giáo như ngày hôm nay. Việc cưới hỏi thường làm về ban đêm. Năm bảy hôm trước ngày cưới, hai bên nhà trai nhà gái đãi tiệc bạn hữu của mình. Rồi ngày cưới hai họ nhập lại ăn uống ở bên nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất là đêm rước dâu, chập tối chàng rể cúng các bạn phù rể, tay mang bó đuốc lên đường đi đến nhà gái, khi đó cô dâu và các bạn phù dâu sửa soạn đèn sẵn cho chàng rể đến. Khi mọi sự sẵn sàng đám rước dâu khởi hành. Về tới nhà trai là vào tiệc cưới ngay. Đèn các cô phù dâu phải đủ đốt chờ chàng rể đến, và phải thêm bình dầu để đốt khi ăn tiệc. Tại tiệc cưới đèn các cô phù dâu phải treo thành hình vòng hoa ánh sáng quanh cô dâu chú rể.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu ví mình như một chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày phán xét để mở tiệc cưới và ban phúc thiên đàng cho loài người. Những người thức tỉnh và sẵn sàng sẽ được hưởng phúc. Những người chểnh mảng là những cô khờ dại sẽ bị loại ra ngoài. Thiết nghĩ qua dụ ngôn Chúa vẫn muốn mỗi người chúng ta là những người thức tỉnh và sẵn sàng. Nhưng để làm được điều đó, đòi hỏi chúg ta phải biết chuẩn bị như năm cô khôn ngoan bằng cách:
1. Làm tròn trách nhiệm trong cuộc sống.
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho những nến bạc, nén bạc sức khỏe, nến bác thời giờ và Ngài cũng không quên trao cho trách nhiệm để cộng tác với Ngài trên cuộc đời lữ hành. Ở đây chúng ta cũng thấy Thiên Chúa đã ban cho các cô khờ dại cũng như các cô khôn ngoan. Nhưng kết quả cuối cùng thì trái ngược nhau, các cô khôn ngoan “được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Còn các cô khờ dại thì phải ở bên ngoài. Ở đây không muốn nói đến sự khôn ngoan thức tỉnh theo kiểu người đời, nhưng là sự khôn ngoan vì Nước Trời. Sự khôn ngoan được thể hiện bằng hành động cụ thể, với một quyết tâm và thao thức muốn đón Chúa, muốn đợi Chúa. Và luôn sẵ sàng trả lời “Lạy Chúa, con đây” bất cứ lúc nào Ngài muốn.
Sẵn sàng như thế đòi hỏi chúng ta phải làm tròn trách nhiệm với Chúa, với bề trên, với anh em và cả với bản thân nữa… Năm cô khờ dại hôm nay đã biết đốt đèn thì cần phải có dầu, nhưng lại thờ ơ không mang theo. Nếu xét về trách nhiệm thì các cô khờ dại đã không làm tròn bổn phận được giao. Nhìn lại đời sống chúng ta, mỗi người đều được Thiên Chúa giao cho công việc “cầm đèn ra đón chàng rể”. Chắc chắn trong thâm tâm mỗi người đều muốn chuẩn bị, nhưng đôi khi ước muốn đó chỉ mới thể hiện ở lòng ao ước. Rồi ngày lại qua ngày, đến lúc “chàng rể đến” tôi vẫn không có dầu để đón chỉ vì tôi quá thờ ơ, vô tâm không chịu làm tròn trách nhiệm ngay ở giây phút hiện tại.
2. Sống trong ân sủng.
Các cô khôn ngoan đã đem dầu đầy đủ nên không cần phải lo sợ chàng rể đến cách bất ngờ nữa. Vì đả chuẩn bị đầy đủ và biết chắc chắn mình có đủ dầu. Ở đây muốn nói đến những người có đời sống đạo tốt thật sự, họ luôn sống trong ơn nghĩa Chúa để chờ ngày Chúa gọi về với Người. Một khi chúng đạt tới mức độ “ngụp lặn trong ân sủng” thì ngay cả cuộc sống đời này cũng không cảm thấy thiếu thốn, không thấy lo sợ va luôn được bìh an. Muốn được như vậy đòi mỗi người phải nỗ lực bản thân rất nhiều, đôi khi còn phải chấp nhận hy sinh từ bỏ để được sống trong ân sủng Chúa.
Lạy Chúa, trên cuộc sống lữ hành có rất nhiều chông gai ngăn cản con đến với Chúa, có nhiều quyến luyến cám dỗ làm con u mê. Xin Chúa cho con biết thức tỉnh để đón Chúa trong bất cứ giây phút nào trong đời con. Amen.

28. Ánh sáng không bao giờ bị dập tắt
(Suy niệm của Sr. Barbara E. Reid – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Những ai đã sẵn sàng, vào tham dự tiệc cưới (Mt 25,10).
Mỗi khi xuất hành đi đâu, tôi luôn chuẩn bị chu đáo. Tôi cẩn thận mang theo những vật dụng cần thiết cho cá nhân cũng như cho cả những người cùng đi với tôi. Tôi xem đó như một công việc phải làm, tựa như các cô trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin mừng hôm nay. Tuy nhiên, khi đọc lại dụ ngôn, tôi thấy có điều gì hơi trái khoáy. Những cô gái đã chuẩn bị dầu và đèn để canh thức đón chàng rể, là những cô khôn ngoan, nhưng lại tỏ ra ích kỷ, không biết chia sẻ, khi các bạn thực sự đang có nhu cầu, vì đèn của họ chẳng còn chút dầu nào. Thay vào đó, các cô gái lại khuyên các bạn làm một công việc xem ra có vẻ ngốc nghếch và khó khả thi. Họ nói với các bạn giữa đêm khuya hãy ra hàng mà mua dầu để thắp sáng những ngọn đèn của mình. Làm sao chúng ta có thể chấp nhận lối ứng xử, xem ra có vẻ ích kỷ và kỳ cục như vậy?
Tuy nhiên, nhiều nhà chú giải và bình luận Kinh Thánh nhắm đến một điều căn cơ khác quan trọng hơn. Sự ích kỷ không muốn chia sẻ của các trinh nữ khôn ngoan, không phải là một chi tiết quan trọng, cũng không phải là sứ điệp mà bài Tin mừng muốn nêu ra. Đây là dụ ngôn nói về ngày chung thẩm. Trong ngày đó, từng người sẽ bị xét định theo những việc làm tốt lành mà họ đã thực hiện hay đã sao lãng. Tương tự như thế, trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đã nói “Anh em hãy chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc tốt lành anh em làm và ngợi khen Thiên Chúa” (Mt 5,16). Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, dầu để thắp sáng những ngọn đèn được sánh ví như những công việc ngay lành, mà chúng ta không thể sẻ chia cho bất cứ ai khác.
Dầu sao, dụ ngôn vẫn đưa ra cho chúng ta sự đối kháng, khiến chúng ta cảm thấy nhức nhối khi giám định lại lương tâm nơi mỗi người. Đó là sự đối kháng giữa các phạm trù: Người khôn ngoan và kẻ khờ dại, những người biết chuẩn bị sẵn sàng và những người lơ đễnh, người được đón mời vào tiệc cưới và người khác lại bị từ chối, khi cửa đã khóa kín. Thánh Matthêu cũng nhiều lần nhắc đến những cặp phạm trù tương phản khác giống như thế để chúng ta so chiếu, ví dụ “ lúa tốt và cỏ lùng, chiên và dê, nhà xây trên đá và nhà xây trên cát, kẻ khôn ngoan và người khờ dại…”. Trong cuộc sống thực tiễn hằng ngày, con người của chúng ta dường như vẫn đang ở lưng chừng giữa những thái cực này. Vẫn còn đó một ít khờ dại, khi chúng ta đang cố vươn đạt tới sự khôn ngoan. Hoặc có lẽ ai chúng ta cũng biết phải chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sự sẵn sàng đó vẫn mãi chẳng bao giờ tròn vẹn.
Tuy nhiên, khi đọc lại đoạn văn trong bối cảnh của toàn thể Tin Mừng, chúng ta sẽ an tâm, không còn gì phải lo sợ. Bởi lẽ, dụ ngôn cũng đảm bảo cho chúng ta rằng, khi ta biết đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa để đón vị Tân Lang và đi vào sự kết hợp thân tình với Ngài, cho dầu còn những khiếm khuyết, chúng ta vẫn là những con người đang chuẩn bị cho giờ phút viên thành sau hết. Chúng ta chờ đợi phút giây chung thẩm mang tính quyết định, để đón gặp Đấng mà chúng ta yêu mến, bằng những quyết tâm mỗi ngày để vươn lên, hoặc để cố gắng sống một cách ngay lành. Mỗi lần chúng ta châm đầy dầu vào ngọn đèn của chúng ta, cho dù không đủ dầu dự trữ để sẻ chia cho người khác khi họ cần đến, thì ánh sáng của Đức Kitô vẫn có thể làm ngập tràn ngọn đèn nơi ta, và chúng ta vẫn có thể chia sẻ ánh sáng đó cho anh chị em của mình.
Khi nói với Giám mục Isaac Nineveh thuộc thế kỷ thứ 7, về sự khôn ngoan linh thánh trong Thánh Kinh, John Shea đã diễn tả như sau “Như một ngọn đèn nhỏ được thắp lên bằng dầu, đến khi dầu đã cạn và ngọn đèn sắp tắt, hoặc như một con suối nhận nước mưa từ trời, khi trời hết mưa và dòng suối trở nên cạn kiệt, thì vẫn còn đó một tình yêu bất tận, như mạch nước vọt trào từ lòng đất, mạch nước đó sẽ mãi mãi không bao giờ khô cạn”. Những con người khôn ngoan là những người luôn biết kết hiệp chặt chẽ với dòng sông tình yêu của Đức Kitô, một dòng sông chẳng khi nào cạn kiệt. Dầu nơi ngọn đèn của họ sẽ không bao giờ vơi, và ngọn lửa sẽ không bao giờ lịm tắt. Như bài đọc thứ nhất hôm nay nói tới: Khôn ngoan chính là chúng ta ý thức rằng sức lực con người vốn mong manh và yếu đuối. Những cố gắng của chúng ta không đủ làm cho ngọn đèn nơi ta được thắp sáng lên mãi. Song, sự Khôn ngoan tự nó là một nguồn sáng không bao giờ mù tối, và sự Khôn ngoan vĩnh hằng đó sẽ tìm đến với chúng ta. Những cô trinh nữ đã canh thức suốt đêm khuya, chìm lặng trong bóng tối. Họ sẽ vui mừng khi ánh bình minh tỏa sáng và Đấng Khôn Ngoan vĩnh hằng vẫn đang ngồi bên cổng để đợi, để chờ. Ngài vẫn luôn ngong ngóng chờ đợi chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Vả lại, cánh cửa khép lại của phòng tiệc cưới không phải là một động thái cánh chung cuối cùng. Khi quyền năng của Thiên Chúa như một luồng sáng soi chiếu, phá tan phiến đá lấp che cửa mộ, thì Đấng Khôn Ngoan hằng hữu vẫn luôn luôn dùng tình yêu Ngài để mở toang cánh cửa tâm hồn chúng ta, biến ngọn đèn của chúng ta đang cạn dầu thành một ngọn đèn mãi luôn cháy sáng. Ngài sẽ dẫn đưa chúng ta đến dòng sông huyền nhiệm, trong đó luôn tuôn chảy dồi dào mạch nước. Đó chính là mạch nước của ánh sáng và tình yêu không bao giờ vơi cạn.

29. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
HÃY GIỮ ĐÔI MẮT CỦA CÁC BẠN LUÔN MỞ RỘNG.
Chúa Giêsu rất thích những đám cưới, Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên ở Cana, Người đã vui thích ám chỉ đến những bữa tiệc đám cưới như biểu hiệu của thiên đàng. Một trong những biếm hoạ về đám cưới thế tục là cô dâu đã đến trễ và để cho mọi người phải chờ đợi cô ta tại nhà thờ, nhưng trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, chú rể là người đến trễ. Có một số điều buồn cười trong việc này, khi chúng ta thấy chú rể được giới thiệu đây chính là Chúa Giêsu. Chú rể đã đến trễ làm cho một nửa số cô phù dâu làm hết dầu của họ và chìm vào giấc ngủ. Chúng ta không biết họ suy nghĩ những gì, nhưng có vẻ là họ đã mất hết kiên nhẫn đối với chú rể, họ là những kẻ ngu đần. Những cô phù dâu khác thì không chỉ tỉnh thức mà họ còn mang theo đủ dầu cung cấp cho họ. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng họ sẵn lòng chờ đợi chú rể bao lâu như chú rể muốn, họ là người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm này giống như bao dụ ngôn khác là một bài Phúc Âm phức tạp trong chính ý nghĩa của nó. Khi chúng ta tiến gần tới cuối năm phụng vụ, sẽ kết thúc trong hai tuần tới, giải thích theo phụng vụ thì bài Phúc Âm là tận cùng của thời gian khi Đức Kitô sẽ đến một lần nữa trong vinh quang. Ngày đó không ai biết. Mọi thế hệ khôn ngoan của Kitô giáo, thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Thessalonica, đã giới thiệu một sự chờ đợi cuộc trở lại của Chúa Giêsu cách kiên nhẫn. Chính chúng ta trong mọi Thánh Lễ tuyên xưng sau kinh Lạy Cha rằng, chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng “việc đến của Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
Ngay trước khi rước lễ chúng ta nghe vị linh mục tuyên bố: “Phúc cho những ai được gọi đến dự tiệc bữa tối với Người”. Điều này không phải ám chỉ tới bữa tiệc ly trong quá khứ nhưng là bữa tiệc trên trời trong tương lai. Trích dẫn này được lấy trong sách Khải huyền đoạn 19 câu 9. Thánh Gioan trong một thị kiến đã thấy một đám cưới cao cả trên thiên đàng. Một thiên thần đã nói với ngài: “Hãy viết những điều này: phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Hãy chờ đợi cách kiên nhẫn bữa tối này, đó là sự khôn ngoan. Chúng ta được gọi là những người khôn ngoan trong khi chờ đợi việc ngự đến của Chúa. Bởi vì sự tận cùng của thời gian không còn bao xa. Có lẽ là đúng, có lẽ là không. Nếu Người không đến sớm, Thiên Chúa sẽ đến trong giờ chết của chúng ta. Đó là một khoảnh khắc nhìn hướng về phía trước với một niềm hy vọng vui mừng. Từ quan điểm của một con người và là điều khó để theo, tự nhiên chúng ta sợ sự chết và bám lấy cái sống và không giống như những cô phù dâu, chúng ta không vội vàng trong việc đợi chờ Chúa đến. “Thiên đàng có thể chờ đợi”, đó có thể là tâm tình của chúng ta. Chúng ta hãy chú ý tới điểm này của Phúc Âm đó là: chờ đợi, tỉnh thức sẵn sàng gặp Chúa khi nào Ngài đến.
Giáo Hội trong sách phụng vụ các giờ kinh đã khẩn nài chúng ta hãy sửa soạn cho cái chết vào mỗi đêm trước khi chúng ta đi ngủ. Và ngủ là một biểu tượng của sự chết. Như khi chúng ta đi ngủ, Giáo Hội đề nghị rằng chúng ta nên có tâm tình Chúa Giêsu khi Người sắp chết: “Lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Sự hiệp lễ là một sửa soạn cho sự chết. Một người Công Giáo khi sắp chết được chuẩn bị và hướng dẫn để lãnh nhận sự rước lễ như “của ăn đàng”, là thực phẩm cho một hành trình từ đời này đến đời sau. Ngay cả khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể qua việc hiệp lễ trong Thánh Lễ chúng ta hãy để tâm nghĩ đến sự chết, nhưng luôn luôn tin vào sự sống lại từ cõi chết của chúng ta. Khi đứng để lãnh nhận Thánh Thể đó là một dấu hiệu của đức tin. Hành vi đạo đức đó là “hãy giữ đôi mắt các bạn mở rộng vì các bạn không biết ngày nào, giờ nào”.

30. Khôn ngoan và khờ dại
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời.
Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đám cưới để nói về Cánh Chung. Đây là dịp của niềm vui chứ không phải là nổi buồn, hạnh phúc chứ không đau khổ.
Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói đến lễ cưới và các trinh nữ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan với thái độ sẵn sàng và năm cô trinh nữ khờ dại với việc chểnh mảng ngu ngơ là những biểu tượng của những cách sống của con người (GLCG # 1950). Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào thích hợp đối với cuộc sống trần gian? (Lumen Gentium, 48, 50, 68; GLCG # 972).
Khôn ngoan hay khờ dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng và chuẩn bị hay không.
1. Khôn và dại theo Thánh kinh
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích.
Tự nhiên: khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập” (1V 5, 9-14).
Siêu nhiên: khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết” (Dn 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: “Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan” (Cv 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái” (Đnl 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: “Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan” (Hc 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi” (Tv 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1, 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: “Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa” (Lc 11,31).
Người khôn ngoan là người nghe và sống lời Chúa. Người dại khờ là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành. Chúa Giêsu dạy: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát.” (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Chúa Giêsu còn khẳng định: “Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa” là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời.” (Mt 7, 21)
2. Thái độ khôn ngoan.
Khôn ngoan là một ân ban Thiên Chúa trao tặng cho con người để họ biết cách sống theo đường lối của Ngài. Người khôn ngoan là biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao (GLCG # 2500).
Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang theo bình dầu, họ có chuẩn bị cho trường hợp chàng rể đến muộn. Họ luôn sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh Chúa Giêsu đến trần gian. Người đến nhiều lần với chúng ta trong cuộc đời và đến trong ngày sau hết của từng người. (x. 2 Tim 4,6; 2Pr 1,14).
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm. Bài đọc I mời gọi chúng ta hãy khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu. (Kn 6, 12-16).
Cuộc đời kitô hữu khác nào như một cuộc nghinh đón chàng rể và chàng rể đây chính là Đức Kitô, vị thẩm phán. Tin Mừng nói chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là đến vào lúc người ta không ngờ. Rồi khi chàng rể đến, chàng sẽ “đóng cửa lại”. Ý nghĩa thiêng liêng của câu nói là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị, như năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Ngày xưa, dân Chúa chuẩn bị vượt qua Biển Đỏ cũng có thái độ như thế. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Văn sĩ E. Hemingway có viết một quyển tiểu thuyết, nhan đề “ngư ông và biển cả”, kể lại cuộc vật lộn uổng công của lão ngư phủ người Cuba tên là Xăngtiagô với biển khơi. Ông câu được một con cá kình, nhưng vì cá quá to, ông đành phải cột cá bên mạn thuyền để kéo vào bờ. Buồn thay, trên đường về, lũ cá mập đã đánh ra hơi và xúm vào rỉa thịt. Khi về tới bến, con cá to chỉ còn là bộ xương mà thôi.
3. Không thể nào trình diện Chúa với hai bàn tay trắng.
Thái độ khờ khạo.
Lễ cưới theo nghi thức Tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều hướng mắt về cô dâu lộng lẫy trong trang phục lễ cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên cung thánh đón tiếp cô dâu.
Trong nghi thức đám cưới Do thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về quà cáp, của hồi môn…vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Các cô dại không hề chuẩn bị gì cho trường hợp đó. Theo tập tục cưới hỏi của người Do Thái, chú rể sẽ đến nhà cha cô dâu để đón cô về nhà mình. Những cô trinh nữ phù dâu có nhiệm vụ cầm đèn cùng với cô dâu đón chú rể, làm thành một đám rước cô dâu về nhà chú rể, và ở đó, một tiệc cưới linh đình sẽ được tổ chức. Một khi đã nhận nhiệm vụ, các cô trinh nữ đó có nhiệm vụ phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó của mình.
Năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến họ hết dầu. Các cô trinh nữ khờ dại, vì sự thiếu chuẩn bị đúng đắn của mình, đã bị loại khỏi niềm vui của tiệc cưới và không thể làm gì để thay đổi thực tế bi đát đó được nữa.
Giống như các cô trinh nữ khôn ngoan, các cô trinh nữ khờ dại cũng được mời gọi đi đón chàng rể rồi vào dự tiệc cưới. Các cô biết chàng rể chắc chắn sẽ đến. Các cô cũng tha thiết mong chờ chàng rể đến. Điều các cô thiếu là một sự chuẩn bị sãn sàng và đầy đủ những thực tại cần thiết để có thể thực hiện được lời mời gọi và nhiệm vụ dàng cho các cô và nhờ đó được thỏa lòng mong ước của mình. Các cô mang đèn nhưng không mang dầu theo. Sai lầm của các cô không phải ở chỗ các cô không hướng lòng về biến cố chàng rể đến, mà là ở chỗ các cô đã không có sự chuẩn bị phù hợp cho biến cố đó. Được mời gọi làm thành viên của đoàn đón chàng rể thôi, chưa đủ. Biết rằng chàng rể sẽ đến vào một lúc nào đó thôi, chưa đủ. Còn phải có sự chuẩn bị thích hợp nữa.
Hãy luôn chuẩn bị sẵn sàng.
Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng!
Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có khi cũng phôi pha. Cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.

31. Sống ngày cuối đời
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
Thưa anh chị em, những con số trên đây có lẽ không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xuyên qua kết quả của cuộc thăm dò này, chúng ta cũng có thể đọc được một tâm trạng chung của con người khi đứng trước cái chết; đó là nỗi sợ cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt cho chúng ta trong giờ phút này, chúng ta sẽ làm gì?
Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết:
Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?”. Một số em bé trả lời: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện”. Một số em khác cho biết: “Con sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành…”. Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con có chết, thì giờ này con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Đó là câu trả lời của thánh trẻ Luy Gonzaga. Và câu trả lời đó đã làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận trong lúc này, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày: giờ nào việc nấy.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Vì thế, thưa anh chị em, qua câu chuyện dụ ngôn 10 cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Vì ngày giờ Chúa đến sẽ bất ngờ, không được báo trước. Dụ ngôn cho thấy có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Có nhiều người bị trách là “khôn nhà dại chợ”. “Khôn” những chuyện vặt vãnh mà lại “khờ” những chuyện trọng đại. “Khôn” những chuyện nhất thời hôm nay để rồi “dại” những chuyện ngàn đời mai sau. Có lẽ 5 cô khờ dại này đến giờ chót mới khôn ra (khôn đột xuất) và chạy đi mua “khôn”thì không kịp nữa rồi! Vì thế, chúng ta phải biết khôn ngay đi! Tin Mừng hôm nay đã cảnh giác chúng ta tỏ tường rồi đấy!
Bài học về sự khôn ngoan đã được Chúa Giêsu nói đến trong ví dụ về người khôn xây nhà trên nền đá (Mt 7, 24). Đó là người “nghe và thi hành Lời Chúa”. Khôn là chuẩn bị sống ngày hôm nay không gì khác hơn là “nghe và thi hành Lời Chúa”. Trung thành sống điều này là ta đã xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc để có thể đứng vững trong đêm tối âm u hay trong mưa sa bão táp. Ngược lại, không thi hành Lời Chúa, ta sẽ bị coi là kẻ khờ dại, vì đã xây nhà đời mình trên nền cát…
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn ở trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Đừng chậm trễ nữa, thưa anh em chị em, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phát xét cuối cùng.
Anh chị em thân mến, hôm nay vẫn còn thời giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thời giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thời giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rể cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn Tin-Yêu thắp sáng trong tay, họ sẽ được sung sướng gặp mặt Chúa: Thánh nữ Têrêxa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng âu yếm thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, nét mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại, ra đi nhẹ nhàng. Đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút, tối ngày 30 tháng 9 năm 1897.
Hai người trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn thắp sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Người Tình Lang” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa đến,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng…
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nóng cháy
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

32. Đèn đầy dầu cháy sáng
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Với cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ 2020 đầy kịch tính không chỉ tại Mỹ mà dậy sóng sôi sục tại nhiều nơi trên toàn thế giới. Dường như khác với mọi kỳ bầu cử, riêng lần này với nhiều biến cố, sự kiện cũng như vô vàn sự thật phơi bày ra trước mắt chúng ta, thì hầu hết đâu đó có chung một nhận định: đây không đơn thuần là cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, mà là cuộc chiến cam go giữa chân lý và gian dối, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện lành và ác dữ…Qua đây, chúng ta thấy được yếu tố ‘tỉnh thức’, ‘sẵn sàng’ và ‘kiên vững’ rất quan trọng trong khi chờ đợi chiến thắng vinh quang của chân lý.
Song, Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến lí do khác trong dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’. Trong lúc chờ đợi chàng rể tới, cả mười cô đều ngủ thiếp đi, bất luận là khôn ngoan hay khờ dại “…vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả” (x. Mt 25, 5). Tại sao chàng rể lại đến trễ? Phải chăng chàng rể muốn đến muộn như vậy? Rất nhiều nghi vấn được đặt ra, nhưng tựu chung lại, chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa đến không theo lịch trình, thời gian, kỳ vọng của con người. Ngài thực hiện chương trình theo thánh ý và theo thời điểm của Ngài.
Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là người khôn ngoan hay kẻ khờ dại đều không thể nào chiến thắng ‘trạng thái buồn ngủ, thiếp đi’ trong lúc chờ đợi. Vô số lí do vì sao chúng ta lại ngủ thiếp đi. Có lẽ quá mệt mỏi về thể xác cũng như tinh thần! Hay thao thức, kỳ vọng điều mình muốn mà nó lại chẳng đến hoặc chưa đến, nên chúng ta cảm thấy thất vọng, chán chường! Hơn thế, chúng ta không đủ tỉnh táo, mất đi động lực, nhuệ khí tan biến,…nên dễ dàng rơi vào trạng thái ngủ thiếp đi. Nếu ai trong chúng ta có trải nghiệm chăm sóc người bệnh, đặc biệt người thân thì nhận ra được tính hệ trọng, khẩn cấp của việc tỉnh thức ra sao.
Quả thật, trong đời chúng ta, ít nhiều ai cũng đã rơi vào trường hợp ‘ngủ thiếp’ và ‘chưa tỉnh thức’; nhưng điều quan trọng hơn mà dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’ lột tả, chính là: đèn và dầu. Trong số mười cô trinh nữ, cho dù khôn ngoan hay khờ dại, ai cũng mang đèn, song điểm khác biệt lớn lao và mang tính quyết định là: năm cô khôn ngoan chuẩn bị dầu thắp đèn tươm tất và dồi dào, còn năm cô khờ dại thì chẳng mang theo dầu thêm đề phòng trong trường hợp đèn hết dầu nữa chừng. Ở đây, chúng ta nói đến sự khôn ngoan trong đời sống đức tin, hơn là tính thông minh, sáng dạ, khôn khéo, lanh lợi nơi bản tính con người, hay theo cấp độ xã hội. “Những ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, sẽ xem thấy dễ dàng, và những ai tìm kiếm, sẽ gặp được. Đức Khôn Ngoan sẽ đón tiếp những ai khao khát…” (x. Kn 6, 12-13). Ai trong chúng ta đều được Chúa ban cho ánh sáng đức tin qua biểu tượng “cây nến cháy sáng” hay “chiếc đèn sáng rực” khi chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi lớn dần lên, chúng ta được trau dồi, học hỏi, rèn luyện trong đời sống đạo đức từ cách dạy dỗ, hướng dẫn của cha mẹ, của cha xứ, quý sơ và các anh chị giáo lý viên, v.v…ngõ hầu ánh sáng đức tin ấy ngày càng được bừng cháy. Trên hết, Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khích lệ, giáo dục chúng ta từng bước qua Giáo Hội, qua việc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc-học-suy niệm Kinh Thánh, qua sinh hoạt giáo xứ trong các hội đoàn, qua mọi biến cố vui hay buồn trong đời, v.v…, cụ thể, Ngài tuôn đổ hồng ân, ơn lành, đặc sủng, đoàn sủng, những ơn cần thiết, thậm chí Ngài ban cả Thánh Thần cho chúng ta. Vậy, hình ảnh ‘dầu’ ở đây chính là ơn thánh, là Đức Khôn Ngoan, là chính Chúa Thánh Thần. Đèn cháy sáng cần dầu thế nào, thì đời sống đức tin cần đến ơn Chúa, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh như vậy.
Hơn nữa, hình ảnh ‘dầu’ cũng khiến chúng ta liên tưởng đến sự nỗ lực cộng tác với ơn Chúa hằng ngày, qua việc hy sinh sống Lời Chúa giữa những bề bộn cuộc sống thực dụng, vật chất này. ‘Dầu’ không chỉ giúp đốt cháy, giữ mãi ánh lửa bừng sáng, mà còn dùng chữa lành, chăm sóc như người Sa-ma-ri-a nhân lành đã làm khi thấy người xa lạ mắc nạn bị vứt bỏ bên lề đường. Với ‘dầu’ này, chúng ta dám bỏ thời gian, của cải, kế hoạch, chương trình, lịch hẹn hò của bản thân mà ân cần chia san với anh chị em đang cần đến mình, bất luận chúng ta biết họ hay không, họ thân quen hay xa lạ với chúng ta hay không! Việc sửa soạn đèn của năm cô khôn ngoan cũng khá ư dễ dàng, bởi lẽ họ đã chuẩn bị lượng dầu dự trữ đầy ắp. Tuy nhiên, tại sao các cô khôn ngoan lại không chia bớt dầu cho năm cô khờ dại? Thậm chí có người còn cho rằng: năm cô khôn ngoan thật ích kỷ, chẳng phải bạn tốt? (giáo dân trong lớp giáo lý trưởng thành của tôi đã nghĩ vậy!!!!). Đễ dễ liên tưởng và trả lời đúng đắn, chúng ta thử nghĩ đến thời gian Chúa gọi chúng ta về (lúc hấp hối), thì thử hỏi chúng ta còn có cơ hội ‘vay mượn’ hay ‘chạy đi mua’ không? Mặc khác, ơn Chúa ban cho chúng ta theo bậc sống, theo trách vụ của mỗi người nữa như: đặc sủng dành cho những ai sống đời sống thánh hiến khác với đặc sủng của người sống đời sống hôn nhân-gia đình…
Tóm lại, Chúa ban cho chúng ta cả ‘đèn’ và ‘dầu’, nhưng trong khi tỉnh thức chờ đợi theo thời gian của Chúa, thì chúng ta cần noi gương năm cô khôn ngoan. Cho dù có thiếp ngủ đi vì lí do nào đi chăng nữa, thì với ‘đèn đầy dầu’, chúng ta lại tỉnh giấc, thức dậy, sẵn sàng đón chàng rể vào tiệc mừng muôn đời.
Lạy Chúa, xin giúp con như năm cô khôn ngoan
Dù phải thiếp đi trong khi chờ đợi chàng rể đến
Cũng chẳng bao giờ quên ‘đèn đầy dầu cháy sáng’
Như đèn rực rỡ cần đến dầu tràn trề thế nào
Ánh sáng đức tin của con cần đến ơn Thánh đến như vậy.
Xin giúp con luôn luôn sẵn sàng, sửa soạn chong đèn
‘Dầu’ dạt dào mãi đốt cháy ngọn nến sáng yêu thương. Amen!

33. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
THÀ KHỜ DẠI Ở THẾ GIAN, NHƯNG KHÔN NGOAN VÌ NƯỚC TRỜI
Lắm lúc chúng ta tự hỏi mình: tại sao tôi lại trở thành người Công giáo sống tuân giữ điều này điều kia, sống hy sinh, trao ban như Chúa dạy, phải yêu thương, tha thứ cho anh chị em, kể cả ‘kẻ thù’ mình, mà không sống thoải mái, dễ giải như bao người không Công giáo ngoài kia? Phải chăng, tôi khờ dại khi trở thành người tin Chúa, bước theo Chúa, và nhiều lúc phải chịu thiệt thòi, chịu thua người khác vì đời sống đức tin, đời sống thánh hiến, đời sống cộng đoàn?
Nhìn thoáng qua, có lẽ cũng đúng, nhưng nếu chúng ta đọc kỹ, suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, dụ ngôn kể về mười cô trinh nữ cầm đèn, đón chú rể đến, thì chắc hẳn trong chúng ta chẳng ai muốn giống như năm cô khờ dại kia, mà chỉ muốn trở thành năm cô khôn ngoan mà thôi! Sự khôn ngoan hay khờ dại ở đây không xét trên bình diện tri thức, trí thức, kinh nghiệm sống, kiến thức, địa vị xã hội hay chức vụ, nhưng tiên vàn được đặt trong chiều kích đời sống đức tin. Chính vì vậy, chúng ta có thể là những người khờ dại đối với thế gian, nhưng vì Nước Trời, vì Hội Thánh, vì ơn cứu độ, chúng ta lại là những người khôn ngoan! Tình yêu nào mà chẳng đòi hỏi hy sinh, dâng hiến, trao ban! Đời sống đức tin cũng thế, cũng gập ghềnh, sóng gió, thăng trầm, nhưng có Chúa, vì Nước Trời, mọi khó khăn, gian nguy ấy sẽ được thay bởi niềm vui, vũ điệu, khúc ca mừng hoan hỉ không ngơi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy rõ điểm giống nhau giữa năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại là: họ đều cầm đèn ra đón chú rể; vì chú rể đến chậm nên đều thiếp đi, rồi ngủ cả; và khi nghe có tiếng hô: “Kìa chú rể đến, hãy ra đón người!”, thì cả mười cô đều thức dậy, sửa soạn đèn nghênh đón chú rể (x. Mt 25, 1-13). Thực tế, mỗi người chúng ta nên hồi tưởng lại giây phút thiêng liêng, trang nghiêm, thánh thiện khi chúng ta được rửa tội (hầu như chúng ta được rửa tội từ nhỏ, nên không ý thức được, nhưng nếu nói chuyện với bố mẹ mình, bố mẹ đỡ đầu thì sẽ biết!), chúng ta được lãnh nhận nến cháy sáng biểu tượng ánh sáng Chúa Ki-tô, đó là ánh sáng đức tin mà Thiên Chúa trao ban tựa như chiếc đèn luôn luôn được thắp sáng của mười cô trinh nữ. Hơn nữa, ai trong chúng ta cũng được trao cho sứ vụ: sống đức tin, sống làm chứng và sẵn sàng nghênh đón ngày Chúa lại đến như hình ảnh các cô trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể vậy. Bên cạnh đó, sự khác biệt lớn lao, chính yếu giữa năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại là: việc mang theo dầu thắp đèn; và năm cô khôn ngoan sẵn sàng đón chú rể, rồi vào dự tiệc cưới, còn năm cô khờ dại thì loay hoay đi mua dầu (x. Mt 25, 1-13). Trong đời sống đức tin, người khôn ngoan hay người khờ dại đều được dựa trên điểm khác biệt này: mang theo dầu thắp sáng ngọn đèn đức tin, kể cả khi chú rể đến muộn; và sự tỉnh thức, sẵn sàng nghênh đón chàng rể vào ngày không ngờ, vào giờ không biết (x. Mt 25, 13). Dù biết vậy, nhưng ‘dầu’ ở đây cụ thể là gì? Trước hết, ‘dầu’ chính là ân sủng, ơn lành, sự chúc phúc của Thiên Chúa ban cho chúng ta (trong Cựu ước, thường được viết là ‘thần khí’ – ơn lành, ân sủng, v.v…), nhưng trong Tân Ước, Thiên Chúa ban cho chúng ta chính ‘Thần Khí’ của Người (không phải là ơn lành hay ân sủng nữa, mà là chính Chúa Thánh Thần, chính Thiên Chúa là món quà quý giá nhất cho chúng ta); kế đến, ‘dầu’ là những phương thế, phương tiện, thời gian, sức khoẻ, khả năng, tài năng, tiềm năng, cơ hội, hoàn cảnh, gia đình, cộng đoàn, sự tương trợ của anh chị em, v.v… Nói tới đây, mỗi người chúng ta nên nhìn lại đời sống đức tin của mình! Xem lại, ngọn đèn đức tin của mình vẫn còn cháy sáng hay đang leo lét, rồi tắt lịm dần? Ngọn nến đức tin của mình đang hừng hừng cháy với cả nhiệt huyết, tâm huyết, lòng nhiệt tình, hăng say hay đang nguội dần và lạnh tanh? Hơn nữa, chúng ta cũng nên tự hỏi: mình có luôn mang theo ‘dầu’ để thắp sáng ngọn đèn đức tin? Chúng ta có sẵn sàng hy sinh như sáp nến phải tan chảy để ngọn nến đức tin luôn được cháy sáng? Chúng ta có dùng ân sủng Chúa, linh đạo của hội dòng, đặc sủng riêng biệt của cộng đoàn, khả năng, sức khoẻ, thời gian, cơ hội Chúa ban, phương thế tốt đẹp, năng lực của mình như ‘dầu’, hầu thắp sáng ngọn đèn đức tin của mình và đồng hành đức tin với anh chị em? Chúng ta có biết dùng ‘dầu’ ấy thắp sáng ngọn nến đời sống đức tin, đời sống cộng đoàn, đời sống gia đình, đời sống tu đức…trong khi chờ đợi ‘chàng rể đến’ chăng? Hay thay vì tỉnh thức chờ đợi thì chúng ta lại ngủ vùi trong những đam mê trần tục, thấp hèn, dục vọng chóng qua, thoả mãn cái tôi của mình, hoặc chúng ta cũng thức, cũng chờ, nhưng không phải chờ ‘chàng rể đến’ mà lại trông chờ danh vọng, tiếng tăm, quyền bính, tự tôn, hay chỉ tỉnh thức để vui chơi trong những sòng bạc, casino, pachinko canh khuya, trắng đêm?
Giờ đây, mỗi một người chúng ta sấp mình trước Chúa và cùng nhau thầm thỉ nguyện cầu với Người:
Tạ ơn Chúa biết bao năm qua
Dù đời con vất vả ê chề
Xa bến bờ, đam mê trần thế
‘Dầu’ chẳng mang, bước lê không nguôi
‘Đèn’ leo lét, chôn vùi dục vọng
Tỉnh lại rồi, ngủ trong mê say
Xin thức tỉnh lòng này hèn yếu
‘Đèn’ đầy ‘dầu’ bước theo chân Người!

34. “Ta không biết các ngươi”
Bữa tiệc cưới kỳ lạ khởi đầu tốt đẹp: có đến mười cô phù dâu! Chúng ta nghĩ đến những chiếc áo dài đẹp và những nụ cười, chú rể hơi vụng về, cô dâu xinh xắn.
Có điều này phá tan sự thơ mộng: năm trong số mười cô này bị coi là “khờ dại”. Người ta chú ý đến họ và vạch ra sự thiếu lương tri của họ. Đặt ra những câu hỏi về năm cô “khôn ngoan” từ chối chia sẻ dầu trong đèn của họ là điều vô ích vì đây không phải là vấn đề. Một dự ngôn vạch ra đường lối của mình mà không quan tâm tới những yếu tố không phù hợp.
Cho nên chúng ta hãy thử đi thẳng vào bài học về dầu bị thiếu. Sự thiếu sót nào có nguy cơ làm cho chúng ta trở thành nhữngkẻ khờ dại?
Người khờ dại trong dụ ngôn chính là người Kitô hữu đã lên đường nhưng không chuẩn bị. Người đó tức khắc rơi vào trong một cuộc sống tầm thường, ít có tính cách Tin Mừng. Năm cô khờ dại biểu thị cho những kẻ ít can đảm, những kẻ bị tước vũ khí do sự chờ đợi và thời gian. Họ có nguy cơ bị giật mình khi nghe la lên: “Đây là chàng rể, đây là sự gặp gỡ Chúa!”
Tuy nhiên chúng ta nghĩ đến sự gặp gỡ cuối cùng. Chúng ta biết rằng để thành công thì phải gặp được Chúa Giêsu ở dưới thế gian này, trong Kinh nguyện, Thánh thể, Tin Mừng, bí tích người anh em (Mt 25,40). Nhưng tất cả những điều này phải trả giá và chúng ta làm chậm kỳ hạn: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu”. Chúng ta làm như thể mình là chủ thời gian vậy!
Thậm chí khi đang tĩnh tâm, dưới cú sốc của một biến cố hoặc một chứng cứ gây xáo trộn, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta cũng không nghe được lời van xin lo lắng của Ngài, bởi vì Ngài biết rõ chúng ta: “Các con hãy luôn luôn tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào giờ nào”.
Do đó phải nghĩ đến giờ phút này mà thôi hay sao? Không, sẵn sàng để nghe tiếng gọi này, chính là sống hết mình điều mà chúng ta đang sống. “Linh đạo hiện tại”, có nghĩa là sử dụng tốt cuộc sống hằng ngày, trở nên những ứng viên tốt nhất để gặp gỡ Chúa. Ý nghĩa có tính cách Tin Mừng của thời gian là: hôm nay phải chuẩn bị dầu cho ngày mai, đồng thời phải luôn luôn can đảm để sống Tin Mừng vào bất cứ lúc nào trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.
Nếu không, sẽ phải đi đến cùng những bữa tiệc cưới buồn này, sẽ phải đứng ngoài cửa phòng tiệc và nghe những lời nặng nề hơn nữa, xoá tan mọi niềm hy vọng: “Ta không biết các ngươi”. Vào ngày tận thế Chúa Giêsu sẽ chỉ công nhận “những người của Ngài”, tức những kẻ đã cố gắng làm ánh sáng Tin Mừng không biết mệt mỏi bằng cách không ngừng dự trữ dầu.
Nếu câu nói dễ sợ “Ta không biết các ngươi” đập vào chúng ta như Chúa Giêsu muốn, chúng ta hãy suy niệm về hai cách xử sự: những cô khôn ngoan, những cô khờ dại. Còn chúng ta, cái đèn chúng ta ở đâu?

35. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. John Trần Khả)
Một trong những cái quan trọng khi chúng ta lái xe là phải có bánh xe xơ-cua để dự phòng cho những lúc không may bị nổ lốp hoặc xì hơi giữa đường. Đây là một sự khôn ngoan thông thường mà mọi người lái xe đều phải biết. Tuy nhiên đôi khi cũng xẩy ra cho một số người sau khi xe của họ bị bể bánh giữa đường và lúc đó mới khám phá ra là họ không có bánh xe xơ-cua hay bánh xe xơ-cua của họ đã bị xì hơi. Điều này càng làm cho họ bối rối, lo lắng và khó chịu khi nó lại xảy ra ban đêm giữa xa lộ hay ở những quãng đường hẻo lánh tối tăm và vắng vẻ. Nếu không may xảy ra chuyện như thế, thường thì chúng ta phải đi bộ một quãng thật xa để tìm người giúp đỡ. Hậu quả là sẽ bị trễ hẹn hay không đến được địa điểm đúng giờ dự định. Sau khi tìm được người giúp thì thường họ sẽ hỏi, “Tại sao không chịu kiểm soát trước khi lái xe xem bánh xe xơ-cua có ở đó, hay có còn tốt hay không?” Ai cũng biết đây là điều cần thiết mỗi khi lái xe, nhưng nhiều khi chúng ta coi thường không để ý.
Cảnh tỉnh
Đây cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ của bài Tin Mừng hôm nay. Những điểm chúng ta cần quan tâm chú ý:
– Tỉnh thức đợi chờ
– Chàng rể đến bất ngờ
– Phải có dầu đèn
Chúng ta luôn cần phải có thái độ tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa Kitô vào bất cứ ngày giờ nào. Những cô trinh nữ khôn ngoan đã biết lo liệu chuẩn bị cầm đèn và mang theo dầu do đó họ đã không trở nên nạn nhân của tình trạng bất ngờ. Những cô khác đã không biết lo liệu phòng xa; họ đã có thái độ ỷ y, dửng dưng coi thường, nghĩ rằng chàng rể còn lâu mới đến, nhưng giữa lúc đêm khuya, lúc mọi người tắt đèn đi ngủ thì không ngờ chàng rể đến. Chúa Giêsu nói rằng việc Ngài đến lần thứ hai cũng bất ngờ giống như thế. Ngài cảnh tỉnh chúng ta, “Hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, hay giờ nào!” Các Kitô hữu đầu tiên cũng đã hy vọng Chúa đến vào thời điểm của họ; nhưng cho đến nay sau 20 thế kỷ, Ngài vẫn chưa đến. Con người chúng ta dễ cảm thấy tình trạng “thức lâu chầu mỏi.” Chờ lâu quá không thấy Chúa đến, nhiều người đã coi thường, hay không tin là Ngài sẽ đến lần thứ hai. Họ bắt đầu ngủ thiếp đi trong những sinh hoạt của cuộc sống trần thế. Và Chúa Giêsu kết luận họ là những người khờ dại. Khờ dại chỉ vì không biết tỉnh thức và không biết lo liệu chuẩn bị sẵn sàng.
Khôn ngoan hay khờ dại?
Khi nói đến tinh thần và việc chuẩn bị đón Chúa Kitô đến lần thứ hai thì chúng ta một là người khôn ngoan, hai là kẻ khờ dại, một là sẵn sàng hai là không chứ sẽ không có sự dung hòa ở trung lập không khôn mà cũng không khờ. Theo như câu truyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng thì có một nửa số người khôn ngoan, và một nửa số người khờ dại. Một nửa sẽ được vào Thiên Đàng để dự tiệc cưới với Chúa Kitô và một nửa sẽ không được vào. Một nửa sẽ được hưởng hạnh phúc và một nửa thì không. Chúng ta sẽ thuộc vào một trong hai nhóm này. Như vậy chúng ta thuộc vào loại nào? “Tôi, Ông, Bà, Anh, Chị, Em, chúng ta là người khôn ngoan hay người khờ dại? Là người thuộc thành phần được vào hay không được vào phòng tiệc với Chúa Kitô?”
Sự khờ dại đây không phải là vì trí khôn ngu dốt không biết, hay là bởi không có học thức, không có bằng này hay cấp nọ, hoặc vì sự quên sót không mang dầu đốt đèn. Sự khôn ngoan đây cũng không phải là vì trí khôn thông minh sáng suốt, học cao hiểu rộng, bằng này cấp kia. Điều chính yếu là có sống trong tinh thần tỉnh thức và tin tưởng đợi chờ hay không? Đèn của chúng ta có dầu hay không có dầu?
Gần đây có những người phao đồn tin sẽ có hiện tượng tối ba ngày ba đêm và rồi sẽ tận thế. Không biết nghe mặc khải nào hay lời khuyên của ai, nhiều người ở một số nơi đã lo đi mua mấy thùng nến và nhiều thùng chứa nước để nhờ các cha làm phép đem về phòng trữ ở trong nhà. Làm như thế không phải là sự khôn ngoan phòng xa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Nến phép và nước phép đó không phải là dầu đèn của Kitô hữu chúng ta. Nếu ngày Chúa đến mà chỉ thấy chúng ta có nến phép và nước phép, thì nến phép và nước phép đó cũng không có sức mạnh để đưa chúng ta vào Thiên đàng với Thiên Chúa. Năm cô trinh nữ được gọi là khôn ngoan vì họ mang đèn và có mang theo dầu. Còn những cô khờ dại có mang đèn những không mang dầu theo.
Khủng hoảng hết dầu
Thế giới nếu không biết tự chế trong việc tiêu thụ năng lượng thì cũng có ngày bị khủng hoảng thiếu thốn dầu xăng. Trong đời sống tinh thần nếu chúng ta không cẩn thận và khôn ngoan thì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng hết dầu thiêng liêng. Có dầu thiêng liêng hay hết dầu thiêng liêng chính là lý do phân cách giữa người khôn ngoan và người khờ dại. Người được vào phòng tiệc và người phải đứng ở ngoài. Các Kitô hữu chúng ta là đèn soi thế gian. Đèn đó chỉ được cháy sáng khi có dầu. Đức tin nơi Chúa Kitô chính là dầu làm cho đèn Kitô hữu được cháy sáng. Đức tin ấy chính là lý do quyết định được vào hay ở ngoài. Giữ tình liên hệ mật thiết với Chúa Kitô qua việc sống đức tin, việc học hỏi Kinh Thánh, tham dự và cử hành các bí tích, làm những việc đạo đức; những lời kinh nguyện sớm hôm; những việc hy sinh bác ái và tình yêu đối với tha nhân, nhất là những người nghèo khổ chính là những giếng dầu tiếp tế cho đèn chúng ta được tiếp tục cháy sáng để đón và đi theo Chúa Kitô vào trong nước hằng sống.
Đối với chúng ta, đây là một bài học rất rõ ràng. Chúng ta không phải là đang đối diện với một dịp dự tiệc cưới đặc biệt ở trần gian. Chúng ta cũng không phải là đang đối diện với tình trạng có bánh xe xơ-cua hay là không. Nhưng là sự cứu rỗi đời đời của linh hồn chúng ta. Khi bị bể bánh xe giữa đường mà không có bánh xe xơ-cua, chúng ta cảm thấy bức rứt khó chịu với chính mình. Chúng ta có thể bị trễ hẹn hay trễ công việc và làm cho một số người khác phải chờ đợi. Chúng ta trách mình tại sao lại lơ đễnh thiếu cẩn thận như thế. Tuy nhiên những phiền toái đó chỉ là những phiền toái tạm thời ở đời này. Nhưng khi đối diện với sự sống đời đời; đối diện với việc Chúa Kitô bất ngờ đến lần thứ hai, nếu chúng ta cũng vô tâm không sẵn sàng cho đèn có dầu để đốt cháy sáng thì sự phiền toái đó sẽ là sự phiền toái đời đời. Giống như năm cô trinh nữ khờ dại, chúng ta sẽ phải đứng ở ngoài và nghe tiếng nói nghiêm khắc từ bên trong vọng ra, “Ta không biết các ngươi là ai!”
Trên thực tế, thật buồn và đáng lo ngại. Nhiều khi chúng ta đã dại khờ lo lắng quan tâm cho thân xác mình và cho những nhu cầu đời này hơn là lo lắng quan tâm đến Nước Trời, đến nhu cầu của người khác và đến sự sống phần linh hồn của chính mình. Nhiều khi mối bận tâm của chúng ta không phải là lo khai thác các giếng dầu thiêng liêng, nhưng mà là lo khai thác mỏ tiền mỏ bạc trần thế; lo xây dựng sự nghiệp đời này, và chểnh mảng lơ là không hết tâm chu đáo chuẩn bị cho ngày đón chúa Kitô đến lần thứ hai. Nhiều khi việc làm, việc đi chơi, đi chợ, đi shoping, hay ngủ nghỉ, thể dục thể thao, kiêng cữ, vẽ mặt vẽ mày, sửa ngực sửa mũi làm đẹp thân xác được chúng ta coi là cần thiết và ưu tiên hơn là việc cầu nguyện, đọc kinh dâng lễ tu thân, tập luyện nhân đức, và làm việc lành. Cứ nhìn vào tất cả các sinh hoạt hàng ngày của chúng ta và kiểm điểm tâm tư cũng như cách hành xử của chúng ta thì chúng ta sẽ biết mình là người khôn ngoan hay khờ dại. Chúng ta là người có dầu sẵn trong đèn hay là người khủng hoảng thiếu dầu đức tin.
217 người trên chuyến bay của hãng EgypAir 990 khởi hành từ New York ngày 31 tháng 11 năm 1999 vừa qua đâu có ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời họ. Việc đó có thể xẩy ra cho bất cứ ai trong chúng ta. Và khi đó thì chúng ta sẵn sàng hay không sẵn sàng? Đèn chúng ta còn dầu để cháy sáng hay không? Nếu đèn có dầu thì chúng ta là những người khôn ngoan, nhưng nếu đèn hết dầu thì sẽ bị xếp vào loại những cô trinh nữ khờ dại. Chúa Giêsu dạy chúng ta dụ ngôn này là Ngài muốn tất cả chúng ta là những người khôn ngoan.
Một câu truyện
Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy và nói, “Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt. Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!”
Ít năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, “Trẫm sửa soạn lên đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giã.”
Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, “Tâu bệ hạ, thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan trọng này chưa?”
Nhà vua trả lời, “Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị gì cả.”
Quan hầu cận liền nói, “Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này, bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!”
(Paul J. Wharton, Stories and Parables for Preachers and Teachers. “Preparing for Death” p. 67).

36. Mười cô trinh nữ
Anh chị em thân mến,
Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh là: “sắp sẵn”. Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào, vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể sống riêng rẽ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu… Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cùng nói lên một chủ đề như thế. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Lễ cưới của người Do thái: đây là dịp người do thái tổ chức lễ lạc linh đình. Nhà giàu hoặc có địa vị, lễ cưới sẽ kéo dài đến 7 ngày, có khi hơn nữa; nhà nghèo thì 3, 4 ngày… Câu chuyện tiệc cưới ở Cana, chỉ một mình thánh Gioan thuật lại, cũng cho thấy vì tiệc kéo dài nhiều ngày, nên họ đã tiêu thụ một lượng rượu rất lớn. Sáu chum đá, mỗi chum đựng được trên 80 lít; vậy vị chi ít nữa hơn 500 lít rượu, Chúa Giêsu đã làm cho số nước đó thành rượu; đó là chưa kể rượu gia chủ đã chuẩn bị trước. Xem ra người do thái uống rượu có thua ai đâu?…
Ta lại nói tới chuyện rước cô dâu, là chuyện chính của bài dụ ngôn hôm nay: hình như việc cô dâu đợi chàng rể đến rước về nhà mới, là một nghi lễ có phần cầu kỳ và trang trọng. Toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rễ. Họ đứng hai bên đường ca hát chúc tụng. Chú rễ có vai trò quan trọng, nên mọi người phải chờ đợi và đón chú rễ. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rễ phải đến nhà gái buổi chiều để thương lượng về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn…Việc rước cô dâu có thể vào ban đêm, nên cũng có thể chú rễ trì hoản giờ đón, để cho thêm hồi hộp. Vì không dự báo trước nên các người phù dâu phải ở trong tư thế thức tỉnh, chuẩn bị sẵn sàng….
b/.- Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa thuật dụ ngôn mười cô trinh nữ, một câu chuyện khá sống động. Đọc qua, người ta có thể hiểu phần nào được nội dung Chúa muốn nói gì. Nhân vật chính trong câu chuyện, không phải cô dâu chú rễ, mà là mười cô phù dâu. Các cô trinh nữ này khi được mời làm phù dâu, họ lấy làm vinh hạnh lắm, vì thế không ai muốn việc làm của mình bị hỏng cả. Vậy mà trong tiệc cưới này, các cô lại sơ xuất chết người; vì chàng rễ đến quá trể, lại tiệc tùng suốt ngày, nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả… Bất thần, chàng rễ đến, họ đi ngay phòng tiệc rồi đóng cữa lại. Năm cô khờ dại, đã bị từ chối không cho vào dự tiệc….
Chính thái độ của các cô khôn ngoan và của các cô không phòng xa, đó là điễm chính Chúa muốn nói: Hình ảnh các cô khôn ngoan biết tỉnh thức sẵn sàng, đồng thời cũng chuẩn bị hành trang, là đầu và đèn… Ngày Nước Trời đến lần cuối cùng, sẽ là ngày bất ngờ không ai biết trước được, nên mọi người phải sẵn sàng tỉnh thức, và mang đầy đủ hành trang, vì lúc đó chẳng ai có thì giờ để giúp đỡ ai được nữa… Nếu không tỉnh thức, không sẵn sàng, đợi đến khi sự việc ập đến, rõ ràng quá trễ; có hối tiếc cũng quá muộn rồi!
Câu chuyện: Con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm, đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với 2.200 hành khách, ngày 10/04/1912. Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó nữa…Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ, khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều Chúa Nhật, nó chìm hẳn, mang theo 1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con. Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác, dù nó to lớn…. 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không? Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Trên đời này, ai biết chuẩn bị trước, biết tính toán kỷ lưỡng, biết đề phòng xa, họ sẽ có nhiều cơ may để thành công trong cuộc sống lắm. Về cuộc sống mai sau, ai biết tỉnh thức, biết chuẩn bị hành trang sẵn như mấy cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin mừng Chúa Nhật hôm nay, họ sẽ nhiều cơ may được vào Nước Trời. Phần chúng ta, chúng ta nghĩ làm sao đây?

37. Mười người trinh nữ
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng.
Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.
Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: “Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa”. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chúa có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: “Lạy Chúa, này con xin đến”. Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa?
Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:
– Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
– Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.

38. Khôn và dại
Nước Trời là tiệc cưới. Ăn tiệc cưới thì phải có y phục lễ cưới xứng đáng. Nói khác hơn là trinh nữ khôn có đèn và dầu đầy bình “sẵn sàng” mọi lúc dù chàng rể đến muộn. Chúng ta hãy xem xét chi tiết của dụ ngôn các cô trinh nữ khôn và dại. Là trinh nữ chưa đủ còn phải khôn “có đèn có dầu”. Sạch như trinh nữ còn cần phải có việc lành có thưởng.
Vài điểm chú giải
– Các cô dại có đèn mà không có dầu còn các cô khôn có đèn và dầu đầy đủ: đèn hết dầu đèn tắt, thiếu dầu thì không đồt đèn cho sáng được.
– Chàng rể đến muộn: Theo tục lệ Do thái rước dâu ban đêm vào lúc bên gái bất ngờ để có cớ chọc “quê” mà vào tiệc nhậu cho ngon rồi động phòng (nên đàng gái phải cho người cầm đèn chạy tới chạy lui ngoài đường luôn để “trinh sát” bên trai không thấy có bất ngờ).
– Các cô dại nói với các cô khôn rằng “xin cho chúng em chút dầu”: Không được hiểu là chuyện đời thường “đèn đuốc rước dâu” mà là chuyện cánh chung, là ngày phán xét.
– E không đủ cho chúng em và các chị: Giờ phán xét mỗi người lo cho mình còn không xong, dư đâu mà cho. Những người đợi giờ chót mà xin thì hãy nhìn đây.
– Các chị ra hàng mà mua: dầu, áo cưới thì có thể ra hàng mà mua còn việc lành, bác ái thì đi đâu mà mua. Vả lại hết giờ rồi. Hối cũng không kịp.
-….Chàng rể đến, các cô sẵn sàng thì cùng vào phòng tiệc cưới và cửa đóng lại: Nước trời không có cửa. Ý nói hết giờ. Không còn làm gì được nữa.
– Thưa ngài xin mở cửa cho chúng tôi với, tôi không biết…: Các cô ấy không có đủ diện mạo để “được nhận biết” (thiếu dầu, đèn không cháy sáng, nhìn không thấy, không biết). Đi xuống luyện ngục mà luyện cho sáng rồi trở lại thì được vào.
– Vậy anh em hãy sẵn sàng vì anh em không biết ngày nào giờ nào: Lời căn dặn cuối cùng được lập lại như một “điệp khúc” không nhàm tai “sẵn sàng”.
Giờ phán xét các cô “khôn” được theo chàng rể vào phòng ăn tiệc cưới. Các cô “khờ” bị không biết, bị bỏ ở ngoài.
Khôn là có đèn có dầu đầy đủ. Dại là có đèn mà không đủ dầu khi chàng rể đến, không đốt đèn sáng lên được, không được nhìn thấy, không được cho nhập đoàn rước vào nhà tiệc ăn cưới. Cách nói tượng trưng. Đủ là khôn, thiếu là dại.
Là sao? Trinh nữ là có đời sống trong sạch, không có tội. Có đèn, là tín hữu, là kẻ tin. Không có dầu là đức tin không có có việc làm như lời thánh Giacôbê. Việc làm cùa đức tin là làm những điều Đức Giêsu dạy. Chúa Nhật 31 chúng ta đã nghe Đức Giêsu dạy là khiêm tốn phục vụ. Chúng ta sẽ chịu phán xét về tình yêu (mẹ Têrêsa Calcutta).
Xin các chị cho chúng em chút dầu! Sao không chia sẻ, người một chút để đốt đèn lên cùng vào ăn tiệc cho vui cả nhà. Tới đó mà còn ích kỷ! Ích kỷ mà vào thiên đàng? Dạy người ta ích kỷ? ai nấy lo, đèn nhà ai nấy sáng? Những người không lo đợi nước tới trôn mới nhảy thì lý luận như vậy. Thưa không phải là chuyện “giờ đây” mà là chuyện giờ cánh chung, ngày phán xét, khi không còn làm được gì nữa. Hết giờ. Kẻng đã đổ. Mỗi người có đủ thời giờ và phương tiện Chúa ban để “có đủ dầu” mà hời hợt, ơ hờ, cả cố chấp, chỉ lo làm bậy, quýnh quá thì xin xỏ.
E không đủ cho các em và các chị. Giờ phán xét mỗi người lo cho bản thân còn chưa xong. Chỉ các thánh tử đạo là được “tuyển thẳng”. Têrêsa Hài Dồng Giesu còn phải bay ngang luyện ngục, nếm thử hơi nóng của lửa rồi mới lên thiên đàng. Đừng đợi tới “bến” rồi xin. Những người “đợi giờ chót” mà xin Chúa hãy coi đây mà biết lo.
Đập cửa kêu xin thì chàng rể là Chúa Giêsu sẽ trả lời “lạnh ngắt” ta không biết là ai vì không có đèn sáng, tối thui làm sao thấy mà nhận cho ra. Còn một vài hạt bụi cũng không sáng đủ. Xuống luyện ngục mà thanh luyện cho trắng tinh rồi trở lại sẽ được nhận thấy.
Quá khắt khe, quá hẹp làm sao ai lên được! Có. Chúa ban cho tất cả đủ thời giờ và phương tiện. Khi cho thì Chúa vô cùng rộng rãi và Chúa phán xét theo như đã cho. Khi Chúa hỏi “sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới” thì người ấy cứng họng”. Hãy thực tế, đừng vớ vẩn. Chúa công bình, không hẹp hòi, không khắt khe. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy nhớ đủ ba điều kiện: là Trinh nữ (trong sạch), có đèn (có đúc tin), có dầu đủ (đời sống bác ái phục vụ nhiệt tình). Tóm tắc là sẵn sàng. Giờ phán xét là vậy. Chỉ có sẵn sàng. Có bao nhiêu người sẵn sàng? 5/5? Không thấy ai sẵn sàng trừ một ít các thánh.

39. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm GB Phạm Hồng Thái)
Hôm nay chúng ta dược nghe dụ ngôn về 10 cô trinh nữ được giao công tác cầm đèn đi đón chàng rể: đám cưới ở nước Do thái xưa thường được tổ chức vào ban đêm nên rất cần có những người cầm đèn vừa để cho cuộc rước cô dâu chú rể có ánh sáng và cũng để cho đám cưới được đẹp đẽ sang trọng. Người ta thường giao công tác này cho các cô trinh nữ. Nhưng dụ ngôn cho chúng ta biết trong 10 cô thì có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Con số 50/50 không có ý nói lên sự cân bằng giữa kẻ khôn người dại nhưng để nói lên điều thường xảy ra trong cuộc sống là tốt xấu đan xen nhau và chúng ta phải canh chừng để mình đừng vào số kẻ xấu, số người dại.
Nhiệm vụ của các cô trinh nữ này là cầm đèn đi đón chàng rể, nếu như đèn cháy sáng lúc chàng rể đến là đạt yêu cầu, trái lại nếu để đèn tắt, dầu khô là tắc trách không chu toàn nhiệm vụ của mình, cho nên các cô phải lo chuẩn bị dầu đèn của mình cho được đầy đủ. Chàng Rể trong dụ ngôn này chỉ Đức Kitô. Chàng Rể đến chậm chỉ việc Chúa Giêsu sẽ trở lại trần gian nhưng Chúa đến chậm tức là Chúa còn trì hoãn không đến tức thời như nhiều người mong đợi. Tuy nhiên như chàng rể đến chậm, thì sớm muộn gì Chúa sẽ đến và đến bất ngờ. Yếu tố bất ngờ là nét đặc trưng của dụ ngôn qua việc chàng rể bất ngờ nửa đêm bất ngờ tới thì Chúa Giêsu sẽ trở lại bất ngờ trong ngày tận thế như vậy.
Vì chàng rể đến chậm nên cả các cô khôn ngoan và các cô khờ dại đều thiếp đi và ngủ cả. Dụ ngôn kết luận: “Vậy hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”. Như thế tỉnh thức không nhất thiết là phải kiêng không ngủ nhưng là làm việc mình phải làm đó là dự liệu dầu đèn cho đầy đủ: tức là giữ được đức tin sự bền đỗ như lời Chúa Giêsu: “Ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ (Mt 10,22)”
Một chi tiết chúng ta cũng cần làm sáng tỏ: Đó là khi chàng rể tới, các cô khờ dại thấy đèn của mình tắt dầu khô, nên ngỏ lời với các cô khôn ngoan: “Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả” nhưng các khôn ngoan từ chối: “E không đủ cho chúng em và các chị , các chị ra hàng mà mua thì hơn”: điều này Chúa có ý nói ơn cứu độ và các việc lành không thể cho vay mượn được khi con người ra trước tòa Chúa phán xét và chúng ta phải lo tìm kiếm khi còn sống, tới lúc chết, ta sẽ phải trình diện trước mặt Chúa với tất cả những gì mình có, và nếu không đạt được thì chúng ta phải nghe những lời nghiêm khắc của Chúa: “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi”.
Dụ ngôn Chúa Giêsu muốn gợi ý cho chúng ta một linh đạo của người tín hữu: đó là “linh đạo hôm nay”: Chúng ta hãy trân trọng giây phút hiện tại Chúa cho sống để làm những việc có ích cho mình và cho Nước Chúa ngay ngày hôm nay: đừng có chờ tới ngày mai; hãy làm việc lành ngay hôm nay, hãy chu toàn bổn phận hiện tại, hãy có tinh thần phục vụ Chúa và anh em ngay hôm nay và hãy sử dụng tốt thời giờ của cuộc sống hằng ngày để chuẩn bị cho ngày được sẽ được gặp Chúa: Chúa sẽ đến và đến bất ngờ: Giờ Chúa đến là giờ chết của mỗi người chúng ta và cũng là ngày tận thế: cả hai đều tiềm ẩn yếu tố bất ngờ như lời Chúa dạy: “Các con hãy tỉnh thức vì các con không biết ngày nào Chúa các con sẽ đến (Mt 24,42)”. Trong dụ ngôn nói những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại: cửa đóng lại khi các cô khờ dại tới gõ xin vào có ý nói giờ chết chấm dứt số phận của mỗi người không còn thời gian để mà van xin nữa.
Câu chuyện : Một ngày kia quỉ vương họp toàn thể các quỉ lại để bàn kế làm sao lôi kéo được nhiều người xuống hỏa ngục. Có một tên quỉ già giơ tay xin phát biểu ý kiến: “Thưa hội nghị, tôi nghĩ là nên rỉ tai mọi người là: Chẳng có Thiên Chúa, chẳng có thiên đàng, hỏa ngục gì đâu, cứ tha hồ phạm tội đi không có phải sợ sệt gì hết!”. Quỉ vương phê bình: “Ý kiến này xưa rồi và đa số người ta không có tin lời dụ dỗ đó đâu”. Một lúc sau có tên quỉ trẻ giơ tay xin phát biểu: “Thưa hội nghị, tôi nghĩ là nên rỉ tai mọi người là giờ chết còn lâu mới tới, nên cứ việc chơi bời phạm tội thoải mái đến khi bệnh nặng, ăn năn tội cũng còn kịp, không cần phải ăn sám hối trở lại sớm làm chi cho uổng thời gian”. Quỉ vương vỗ đùi khen hay và yêu cầu các quỉ hãy cám dỗ nguời ta theo kế này.
Vậy mỗi người chúng ta theo lời Chúa dạy hãy sống tốt giây phút hiện tại, làm sao giữ cho ngọn đèn đức tin của ta luôn luôn có đủ dầu để cháy sáng hầu khi tới giờ, Chúa sẽ đến đón nhận ta vào dự Tiệc Cưới Con Chiên trong Nước Thiên Chúa. Amen.

40. Chúa sẽ đến
Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?
Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.
Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.
Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.
Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:
– Kìa chàng rể đến.
Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.
Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.
Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.

41. Cho ngày hôm nay
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Trong mục “cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi trẻ có đăng một bài với tựa đề “cho ngày hôm nay” như sau:
Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiểu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát điên rồi – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.
***
“Năm cô trinh nữ khôn ngoan” là những con người của ngày hôm nay. Các cô không hối tếc cho ngày hôm qua, cũng không lo lắng cho ngày mai, vì ngày hôm nay, các cô đang cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào dự tiệc cưới.
“Năm cô trinh nữ khờ dại” mãi mãi là những con người của ngày hôm qua. Cho dù các cô có đi mua thêm dầu, rồi cầm đèn cháy sáng trong tay, nhưng đã quá muộn, vì cửa đã đóng. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sang chờ chàng rể đến, để vào dự tiếc cưới Nước Trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sang? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,4). Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn ngoan vừ amang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là Ánh Sáng Đức Tin luôn chiếu tỏa từ này chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu BÁc ái yêu thương. Chỉ có dầu Tình yêu mới thắp sáng được cây đèn Đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matheu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ “tỉnh thức” trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu với lại đầy.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! – Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cũng cạn. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi, lời kinh có khi cũng phôi pha, cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi Suối Nguồn Yêu Thương, chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
***
Lạy Chúa, xin thương đổ tràn vào long chúng con dầu Tình yêu của Chúa, để chúng con thắp sáng mãi ngọn đèn Đức tin mà Chúa đã cho mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là ngày hôm nay chúng con đang chờ đón Chúa đến trong cuộc đời chúng con. Amen.

42. Sẵn sàng
Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết:
– Chàng rể sắp đến.
Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.
Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau:
– Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…
Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay.
Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.
Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.
Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.
Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.
Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.
Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.
Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không?

43. Tỉnh thức
Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan. Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp hàng dọc theo bờ tường; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế. “Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu?” Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu?” “Đồ dùng của con?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách đến đây, trọ qua đường”. “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời, “tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu diễn tả thái độ sẵn sàng của năm cô trinh nữ khôn ngoan và sự ngu xuẩn của năm cô trinh nữ khờ dại. Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào cho thích hợp đối với cuộc sống trần gian?
Sự khôn ngoan là một tặng phẩm được Thiên Chúa ban cho con người để biết cách sống thánh thiện theo đường lối của ngài. Sự khôn ngoan không thể bị nhầm lẫn với sự hiểu biết hay kiến thức của trí óc con người. Kiến thức của con người rất giới hạn, và cuộc sống lại đầy những huyền bí. Sự huyền bí tối cao là Thiên Chúa. Và người khôn ngoan là con người biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh của Chúa Giêsu đến trần gian, cũng có thể cắt nghĩa đó là những lần Chúa Giêsu đến với chúng ta trong cuộc đời, và cũng có thể hiểu đó là lần chúng ta phải đối diện với Thiên Chúa qua cái chết.
Những du khách tới Paris và Rheims đã chiêm ngưỡng những bức tượng điêu khắc bằng đá từ thời Trung Cổ minh hoạ dụ ngôn hôm nay. Chúa Giêsu được đặt ở chính giữa giống như chú rể. Ở bên phải của Ngài là năm cô trinh nữ khôn ngoan dưới ánh đèn tươi sáng tượng trưng cho dân ngoại. Họ đứng vây quanh Đấng Thiên Sai. Ở bên trái là những cô trinh nữ khờ dại, những người Do thái, đang nhìn buồn bã vào những cái đèn dầu tối om. Họ bước đi trống rỗng và quay lưng lại với Đức Giêsu.
Thánh Bênêđictô đã muốn các tu sĩ trong nhà dòng của ngài mỗi ngày phải nghĩ về sự chết. Ngài đã dạy các tu sĩ rằng: “Hãy giữ cái chết trước mặt của các bạn hằng ngày”. Đây chính là truyền thống của sự khôn ngoan. Nếu chúng ta nhận ra rằng ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của mình trên trái đất, chúng ta sẽ cố gắng làm những việc tốt đẹp, phải sống thế nào cho xứng đáng, không phải vì sợ, nhưng vì chúng ta muốn ra đi bằng an, muốn chết thánh thiện và thảnh thơi.
Tướng Baden Powell of Gilwell (1857-1941) của Anh Quốc, người sáng lập phong trào Hướng đạo đã để lại “Thông Điệp Cuối Cùng Của BiPi” cho các hướng đạo sinh như sau:
Các Hướng Đạo sinh thân mến.
Nếu các bạn đã có bao giờ xem vở kịch “Peter Pan” thì hẳn sẽ nhớ rằng lão tướng cướp đã luôn luôn làm sẵn bài diễn văn giã biệt cõi đời của mình vì e ngại rằng khi quỷ vô thường đến lão sẽ không có thì giờ để thực hiện điều ấy nữa. Đối với tôi cũng hầu như vậy, cho nên, mặc dầu chưa đến lúc, tôi cũng muốn làm như thế trong những ngày này và tôi xin gửi đến các bạn vài lời từ biệt.
Xin nhớ rằng đây là những lời cuối cùng của tôi – nên mong các bạn hãy để tâm suy nghĩ. Tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc nhất và tôi mong muốn mỗi bạn cũng có một cuộc đời hạnh phúc như thế.
Tôi tin tưởng rằng Đấng Tạo Hóa đặt để chúng ta trong thế giới tươi vui này để được hạnh phúc và hưởng cuộc sống. Hạnh phúc không đến từ sự giàu sang, cũng chẳng phải nhờ thành công trong sự nghiệp, cũng không phải sự tự do buông thả. Một bước dẫn đến hạnh phúc là các bạn cần giữ mình khoẻ mạnh khi còn niên thiếu, như vậy các bạn sẽ trở nên hữu ích và có thể hưởng cuộc đời khi trưởng thành.
Việc học hỏi thiên nhiên sẽ cho các bạn thấy có biết bao nhiêu điều đẹp đẽ và kỳ diệu mà Đấng tạo Hoá đã lập ra thế giới này để các bạn thụ hưởng. Hãy thỏa mãn với những gì các bạn đã đạt được và hãy tận dụng nó. Hãy nhìn khía cạnh sáng sủa của sự vật thay vì mặt phía trái.
Nhưng con đường thật sự để được hạnh phúc là đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Hãy cố gắng lưu lại cho thế giới này một chút gì đẹp hơn là các bạn đã tìm thấy và khi đến phiên các bạn từ giã cõi đời, các bạn có thể ra đi trong hạnh phúc với sự cảm thụ rằng với bất cứ giá nào, các bạn đã không phung phí thời gian và đã làm hết sức mình.
Hãy “sắp sẵn” trong lối này, là sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Hãy luôn luôn thực hành lời hứa hướng đạo ngay cả sau khi các bạn không còn là một thiếu niên và Thượng Đế giúp các bạn thực hiện điều đó. Bạn của các bạn.
Theo câu châm ngôn “sắp sẵn” của các hướng đạo sinh, chúng ta phải sống giống như những cô trinh nữ khôn ngoan, luôn luôn sẵn sàng đáp trả điều sẽ xảy ra trong cách tốt đẹp nhất và đem lại hạnh phúc cho tha nhân.

44. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
SỢI CHỈ ĐỎ
Chủ đề: Hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng
“Những cô khôn ngoan vừa mang đèn vừa mang dầu theo” (Mt 25,3)
* Sợi chỉ đỏ: Ý tưởng “tỉnh thức” được khai triển trong cả 3 bài đọc hôm nay:
– Bài đọc I: Tỉnh thức để gặp được sự khôn ngoan.
– Đáp ca: “Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi, tôi thao thức chạy kiếm Ngài”.
– Tin Mừng: Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể, kết thúc bằng lời khuyên: “Vậy hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào giờ nào”.
– Bài đọc II: Tỉnh thức để đón Chúa quang lâm.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến,
Nhịp sống đều đều dễ ru ngủ chúng ta trong thói quen, thụ động và an phận… quên mất nhiều vấn đề quan trọng thiết yếu. Bởi vậy, Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta phải luôn tỉnh thức.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa và xin Ngài giúp chúng ta sống theo Lời dạy của Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta mải mê làm ăn sinh sống, đến nỗi không nghĩ đến cuộc sống mai sau.
– Chúng ta mải mê lo cho bản thân mình, đến nỗi không nghĩ gì đến tha nhân.
– Chúng ta miệt mài tìm hưởng thụ sung sướng mà không nghĩ đến vấn đề tội phúc.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Kn 6,13-17)
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi.
Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm.
2. Ðáp ca (Tv 62)
Thánh vịnh này bày tỏ tâm tình của một người đang sống kiếp lưu đày, tâm tình thao thức kiếm tìm Chúa.
Sự thao thức kiếm tìm được mô tả như người khát mong gặp được nước, người đói mong được của ăn, như người nằm trên giường mà không ngủ được vì mãi nhớ kẻ mình thương.
3. Tin Mừng (Mt 25,1-13
Dụ ngôn 10 trinh nữ đón chàng rể nói đến sự tỉnh thức để đón Chúa khi Ngài quang lâm.
“Tỉnh thức” ở đây, qua hình ảnh chiếc đèn đầy dầu, có nghĩa là lúc nào cũng ở trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng.
Dụ ngôn này cũng có một chi tiết rất ý nghĩa: 5 cô khôn ngoan không cho 5 cô khờ dại mượn dầu. Ðây không phải là thái độ ích kỷ không giúp nhau. Chi tiết này muốn nói rằng trước số phận đời đời, không ai có thể giúp ai được. Vậy mỗi người phải tự lo bằng một cuộc sống lúc nào cũng sẵn sàng trả lẽ trước mặt Chúa.
4. Bài đọc II (1 Tx 4,12-17)
Tín hữu Thêxalônikê rất mong tới ngày tận thế, vì khi đó họ sẽ được gặp lại Chúa. Nhưng mong mãi mà chưa tới tận thế, họ sợ rằng mình sẽ chết trước ngày đó và không gặp được Chúa.
Thánh Phaolô trấn an họ: Khi Chúa đến, tất cả mọi người dù còn sống hay đã chết đều được gặp Ngài và sau đó được sống hạnh phúc bên Ngài mãi mãi.
Tâm trạng này của tín hữu Thêxalônikê rất lạ đối với chúng ta. Nhưng nó cho thấy điều này là: Chỉ khi nào người ta luôn tỉnh thức sẵn sàng thì người ta mới có thể không sợ mà còn nôn nóng chờ ngày tận thế (hay ngày chết của mình).
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn
Ðối với những việc còn mơ hồ, nghĩa là không chắc sẽ đến hay không, thì không chuẩn bị là việc có thể thông cảm được. Nhưng đối với những việc mình biết chắc chắn sẽ đến, thì chuẩn bị sẵn sàng luôn là điều tốt hơn.
Trong tương lai, bạn sẽ lên chức giám đốc, sẽ lãnh đạo một công ty lớn chăng? Chưa biết. Vì thế, chưa cần phải nghĩ ngợi lo lắng nhiều. Tới chừng đó sẽ tính.
Hai tháng nữa là đám cưới của con trai bạn. Nếu bạn cẩn thận và khôn ngoan thì chắc hẳn bạn sẽ lo ngay từ hôm nay.
Trong tương lai, có thể xa mà cũng có thể gần, bạn sẽ chết chăng? Chắc chắn rồi. Vậy sao bạn không lo trước? Ðành rằng không ai biết ngày chết của mình, như Ðức Giêsu đã nói rõ “Các con không biết ngày nào, giờ nào”, nhưng chuẩn bị sẵn sàng trước luôn là điều tốt hơn. Vả lại biến cố này vô cùng hệ trọng, hệ trọng hơn cả việc chuẩn bị cho một tiệc cưới.
2. Không nghĩ tới không phải là cách trốn tránh được
Chết là một chuyện rất buồn và rất đáng sợ. Vì thế nhiều người không muốn nghĩ tới nó. Họ giống như con đà điểu sợ người thợ săn nên giấu đầu trong cát.
Nhưng việc con đà điểu chúi đầu vào cát không hề ngăn cản được bước chân người thợ săn càng lúc càng tiến gần tới nó. Cũng thế, việc không nghĩ tới cái chết không giúp người ta trốn được tử thần.
Tốt hơn cả là hãy tỉnh thức chuẩn bị sẵn sàng, như gương các tín hữu Thêxalônikê. Càng chuẩn bị thì ta càng bình an khi cái chết đến. Chuẩn bị hoàn toàn chu đáo thì ta còn có thể vui mừng nôn nóng mong cho ngày chết mau đến nữa.
3. Chờ đợi trong tình yêu
Ðời người là một cuộc đợi chờ, và đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng. Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc con mình; một người chờ đợi bạn đến thăm bằng cách chuẩn bị thật chu đáo để đón tiếp bạn.
Chúng ta mong đợi Chúa đến. Nhưng khi nào Ngài đến, chúng ta không biết. Có điều chắc chắn là Ngài sẽ đến trong một cuộc viếng thăm thân tình, bởi vì chỉ những người thân tình mới dành cho nhau những cuộc viếng thăm bất ngờ. (“Mỗi ngày một tin vui”)
4. Mảnh suy tư
– Các thánh không nên thánh vì nói tiên tri hay làm phép lạ. Các ngài đâu làm gì lạ! Họ chỉ chu toàn bổn phận. (ÐHV 25)
– Bổn phận là giấy vào Nước Trời: “Ai thực hiện ý Cha Ta trên trời, sẽ vào Nước Trời”. (ÐHV 27)
– Nếu ai cũng nên thánh trong bổn phận, thì tâm hồn mới, gia đình mới, thế giới mới. (ÐHV 20)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến,
Chúa có thể đến vào lúc chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Do đó tỉnh thức là việc mỗi Kitô hữu cần phải làm thường xuyên cả cuộc đời mình. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh không ngừng nhắc nhở các Kitô hữu/ cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Ðức Kitô./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh/ biết cố gắng sống thánh thiện/ để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ này.
2. Ðứng trước cái chết/ mọi người đều sợ hãi/ nhất là đối với những ai chưa chuẩn bị để gặp gỡ Chúa./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi Kitô hữu hiểu rằng/ phải làm thật nhiều việc lành phúc đức/ để khi Chúa gọi ra trình diện trước tòa Chúa/ sẽ không bị Chúa khiển trách bất cứ điều gì/ trái lại còn được vui hưởng hạnh phúc trên trời.
3. Tỉnh thức trong bổn phận đối với Chúa và tha nhân/ là những điều căn bản trong đời sống đức tin của những ai tin Chúa./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu/ luôn tỉnh thức như Chúa đã dạy.
4. Dầu cần cho đèn thiêng liêng chính là lời cầu nguyện/ đồng thời cũng là những việc bác ái yêu thương/ như giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh./ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết cầu nguyện không ngừng/ và quảng đại giúp đỡ anh chị em nghèo đói đang sống chung quanh mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, cuộc sống thường ngày có quá nhiều thử thách gian nan, khiến chúng con dễ sao lãng bổn phận tỉnh thức. Vậy xin Chúa ban ơn giúp sức, để chúng con luôn tỉnh thức giữa biết bao phiền toái của cuộc sống thường ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy nói với Cha chúng ta ở trên trời rằng chúng ta yêu mến Cha và lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng để về nhà Cha khi Cha đến rước chúng ta.
– Sau kinh Lạy Cha: “… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng đang khi chúng con đợi chờ ngày hồng phúc…”
VII. GIẢI TÁN
Hôm nay chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu dạy: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết ngày nào, giờ nào”. Thánh lễ đã xong, nhưng lời Chúa vẫn còn đó. Chúng ta hãy luôn tỉnh thức theo lời Chúa dạy.

45. Chúa Nhật 32 Thường Niên
HÃY SẴN SÀNG VÀO DỰ TIỆC NƯỚC TRỜI
Chúa Giêsu là một vì Thiên Chúa cao trọng nhưng cũng là một Con Người bình dân, yêu mến quê hương. Ngài gắn bó với quê hương của Ngài nên Phúc âm hôm nay trình bày Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc của quê hương, hình ảnh về cưới xin mà ai cũng có thể nhận ra bài học mà Ngài muốn nói đến. Bài học đó là chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.
Thông thường trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết muốn nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nhưng ngày nào Chúa đến thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Hơn nữa, dụ ngôn này còn muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy đến bất ngờ, bất ngờ đến nỗi không ai không ai biết trước được. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chứng kiến những cái chết, có người chết già là chuyện đương nhiên, nhưng cũng có nhiều người chết khi tuổi còn trẻ trung, cuộc đời họ lên như diều gắp gió. Cái chết không buông tha cho bất cứ một ai! Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ngờ, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, chúng ta có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải thực hành đạo, sống đạo và ghi nhiều công phúc nữa. Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại.
Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sống đạo và có công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn Chúa ban cho người nào là của riêng người đó, không cho được, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại ơn Chúa cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sống đạo và ơn Chúa cần phải sắm sửa hằng ngày hằng giờ cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải đứng ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Vì thế, qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, là các việc lành, việc tốt, việc bác ái, việc thương người, việc chia xẻ cho những người thiếu thốn bất hạnh vv… Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn rồi.
Mỗi khi lên giường ngủ, chúng ta nên kết sổ cuộc đời chúng ta. Hãy Xét mình, sám hối, ăn năn tội cách trọn hằng ngày trước đi ngủ. Hãy tạ ơn Chúa, xin Chúa tha tội và phó dâng cuộc đời trong tay Chúa và Đức Mẹ. Hãy sám hối và phó thác cho Chúa, sẵn sàng vào tiệc cưới. Đừng chậm trễ nữa, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” Câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phán xét cuối cùng.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây.., thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Hôm nay vẫn còn thờ giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thờ giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thờ giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rễ cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để khi Chúa đến, Chúa sẽ vui mừng khi thấy chúng con tỉnh thức, và Chúa sẽ đưa chúng con vào dự tiệc trong vương quốc vĩnh cửu của Chúa. Amen.

46. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
LẠY CHÚA, XIN DẠY CHÚNG CON ĐẾM THÁNG NGÀY MÌNH SỐNG
Chủ đề: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, Ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90, 12).
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Khôn ngoan là báu vật giá trị nhất, hơn tất cả những gì lòng người dám ước mơ. Tất cả đều ra công tìm kiếm, cho dù có phải trả giá đắt. Đức khôn ngoan không bao giờ để người mến yêu tìm kiếm phải về tay không, tuy mức độ sở hữu vẫn luôn khác biệt.
Kinh nghiệm cuộc sống làm chứng sự khôn ngoan ban tặng mỗi người theo một phẩm trật: lớn nhỏ, hơn kém, tùy thái độ mở lòng đón nhận.
Kinh Thánh còn mạc khải, có sự khôn ngoan đến từ “Trời”, cũng có sự khôn ngoan sinh ra từ “Đất”; sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối nghịch với sự khôn ngoan thế gian. Cái mà thế gian coi là khôn, Thiên Chúa lại cho là “dại dột”; cái thế gian cho là dại dột, Chúa lại chứng tỏ là khôn ngoan thật.
Mầu nhiệm thập giá là sự khôn ngoan của Trời, nhằm cứu cả thế gian, nhưng lại đối nghịch với sự khôn ngoan loài người.
Con người giải quyết mọi vấn đề dựa trên danh lợi thú, còn Đức Giê-su giảng hòa thế gian với nhau và với Thiên Chúa bằng thập giá.
Kết quả: cách của con người làm vấn đề vốn đã phức tạp, lại phức tạp hơn; cách của Thiên Chúa tạo nên một “Trời mới/Đất mới”, nơi công lý và tình thương ngự trị.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách thức tìm kiếm và thực hành đức khôn ngoan để đạt tới sự trọn lành Tin Mừng.
Bài đọc I, trích sách Khôn Ngoan, là những sưu tầm lời dạy của các hiền nhân Israel, ca tụng sự hoàn hảo, thông suốt của đức khôn ngoan, được đặt ngang hàng với Đấng Tối Cao. Bởi lẽ, đức khôn ngoan biết được ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa trong chính quyết định cội nguồn: sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa mọi loài thọ sinh.
Điểm đặc biệt xuyên suốt lời dạy khôn ngoan là sự ban tặng. Khôn ngoan trao ban hết những thiện hảo cho người ra công tìm kiếm học hỏi. Ai mến chuộng, khao khát, tìm kiếm, thì đức khôn ngoan sẽ tỏ mình ra và cho họ sở hữu nó như một gia sản riêng.
Salomon được coi là vị vua khôn ngoan nhất lịch sử Israel. Được chọn lên kế vị vua cha là David, Salomon đã đi Ga-ba-on dâng của lễ cho Thiên Chúa. Ông không cầu xin cho được sống lâu, giầu sang, chiến thắng quân thù, nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết cách lãnh đạo dân Chúa.
Điều Salomon xin đẹp lòng Chúa, nên ông được Chúa ban sự khôn ngoan, đến nỗi trước và sau ông không có ai sánh bằng, ngay cả nữ hoàng Sabat cũng phải tìm đến nghe lời khôn ngoan của vua.
Noi gương Salomon, chúng ta cũng hằng cầu nguyện: xin cho chúng con được biết việc phải làm và khi làm xin Chúa giúp đỡ cho hết mọi việc chúng con làm từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Đó là cầu xin sự khôn ngoan của trời, chúng ta sẽ nhận lãnh chính cội nguồn sự khôn ngoan “Ngôi Lời hằng hữu”, Đấng khôn ngoan vượt trội Salomon bội phần.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng hôm nay, là chính Đấng Khôn Ngoan của Thiên Chúa, đã “Nhập thể làm Người” ở giữa chúng ta. Ai tin và đón nhận Người được kể vào sổ của những trinh nữ khôn ngoan, được quyền làm con Thiên Chúa, vì đã bởi Thiên Chúa mà sinh ra.
Dụ ngôn những cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể được chia thành hai nhóm khác nhau: “khờ dại” và “khôn ngoan”. Nhóm khờ dại mang đèn, không dầu dự phòng; nhóm khôn ngoan mang đèn đầy dầu.
Kết cục trái ngược: những trinh nữ khôn ngoan theo chàng rể vào dự tiệc cưới, các cô kia bị loại khỏi phòng tiệc vì đèn của họ không cháy sáng, vì đã cạn dầu.
Bài học rút ra từ dụ ngôn này là gì?
Là thái độ tỉnh thức và sẵn sàng của người môn đệ. Đèn là con người, đèn cũng là đức tin được ban trong ngày chịu phép rửa tội và còn nhiều hồng ân khác nữa. Tất cả đều không đảm bảo cho phép tham dự bàn tiệc Nước Trời, trừ phi kẻ được mời phải có áo cưới và dầu nhân đức.
Dầu nhân đức trước tiên phải kể, đó là đức tin nồng nàn, đức cậy trung kiên và đức mến tha thiết. Dầu nhân đức là đời sống kitô hữu hoàn hảo, luôn biết lắng nghe và thực thi ý Chúa, luôn biết chu toàn bổn phận thuộc đấng bậc mình cách vui tươi hạnh phúc. Dầu nhân đức còn là tình liên đới hiệp thông, biết chạnh lòng xót thương, biết sẻ chia với lòng quảng đại và luôn biết chia vui cùng lòng chân thật.
Thực thi những điều đó, chúng ta làm phải, ánh sáng trong ta trở nên rực rỡ và khi cầu nguyện sẽ được nhận lời. Đó chính là những người khôn ngoan, luôn biết kiếm tìm đức khôn ngoan và Chúa sẽ cho họ được thỏa chí toại lòng.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, cắt nghĩa hạnh phúc gặp Chúa trong nhãn quan của ngày chung thẩm: ngày chúng ta vượt qua cuộc sống này mà về với Chúa.
Đức Kitô sẽ gọi và đón chúng ta về với Ngài. Tất cả sẽ đi đón Chúa Kitô trên các tầng mây, nghĩa là sự phục sinh từ trong cõi chết.
Tuy nhiên, việc được ở cùng Chúa luôn mãi tùy thuộc thái độ của mỗi người sống niềm hy vọng phục sinh trong cuộc sống hiện tại.
Thưa anh chị em,
Đối với Phao-lô, sống niềm hy vọng phục sinh là phải cố gắng nên giống Chúa, phải đạt tới tầm vóc con người hoàn hảo trong Đức Kitô, mới có đủ yếu tố vui mừng và hy vọng đi đón Chúa trên các tầng mây và được ở cùng Chúa luôn mãi.
Điều Phao-lô khuyên nhủ giáo đoàn sống niềm hy vọng trông chờ Chúa đến, cũng như phương thức tìm kiếm sự khôn ngoan đích thực. Được Chúa Giê-su là được nguồn sung mãn của đức khôn ngoan, đảm bảo cho sự kết hợp nhiệm mầu giữ Chúa Kitô và Hội Thánh, là Mẹ và cũng là chính mỗi người chúng ta.
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho chúng ta trong hành trình tìm kiếm đức khôn ngoan, để như những trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị đèn dầu sẵng sàng theo Giê-su vào dự tiệc cưới Nước Trời. Amen!

47. Được gọi để gặp gỡ
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thiên Chúa ‘làm người’ để gặp gỡ ‘con người’ theo những cách thức ‘rất người’; cuộc gặp gỡ này không xa xôi, chóng vánh hay hời hợt nhưng là một cuộc gặp gỡ thân mật suốt cả cuộc đời của mỗi người và của từng người. Mỗi người chúng ta được tạo dựng, được gọi, không chỉ để sống nhưng còn để gặp gỡ, để nhập đoàn với con Thiên Chúa đi vào tiệc cưới Nước Trời, tiệc thiên đàng. Đây cũng là một trong những chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, ‘Được gọi để gặp gỡ’.
Thiên Chúa tổ chức tiệc cưới; Con Thiên Chúa tự giới thiệu mình như một ‘Chàng Rể’, Ngài là lý do của niềm vui, lý do của tiệc mừng; mười trinh nữ phù dâu, đại diện cho cô dâu, chia sẻ niềm vui của nàng. Nhiệm vụ duy nhất của họ là chào đón chàng rể và cùng chàng rể đi vào dự tiệc; không ai có thể thay thế vị trí của họ. Việc họ nghiêm túc thực hiện vai trò của mình thế nào, sẽ quyết định hạnh phúc đời đời của họ thể ấy. Hội Thánh là hiền thê của Chúa Kitô; như các trinh nữ phù dâu, mỗi người chúng ta sẽ không hiểu được một cách sâu sắc tình yêu của Chúa Kitô đối với Hội Thánh, nếu Ngài và Hội Thánh đã không trở nên niềm vui cho mỗi người vốn ‘được gọi để gặp gỡ’ và không ai có thể thay thế vị trí của ai.
Cuộc sống là một sự chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ‘Chàng Rể’ và thời gian là một trong những quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa ban cho mỗi người; một khi thời gian mất, nó không bao giờ được phục hồi. Vì ‘được gọi để gặp gỡ’, nên mỗi người nhận ra rằng, khoảnh khắc quan trọng nhất của cuộc đời là khoảnh khắc ‘Chàng Rể’ đến và thực chất, đó cũng là khoảnh khắc chúng ta từ giã cuộc đời. Phút cuối ấy, một cách nào đó, sẽ là kết quả và bản tóm tắt của tất cả giờ ngày chúng ta đã sống cho đến thời điểm đó. Mỗi giây phút là một sự chuẩn bị để gặp ‘Chàng Rể’ Giêsu, Đấng yêu thương chúng ta, hiến mạng sống để đổi lấy sự sống đời đời cho chúng ta; thế nhưng, chúng ta sẽ không tài nào xoay xở ứng biến khi thời khắc Ngài đến nếu mỗi người thiếu khôn ngoan như năm trinh nữ khờ dại mang đèn mà lại không mang theo dầu. Mỗi hành động của đức tin, mỗi hành vi của lòng trông cậy và mỗi hành xử của lòng yêu mến để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, sẽ thiết lập một mối quan hệ của chúng ta với ‘Chàng Rể’. Cuộc sống của chúng ta phải là một cuộc tìm kiếm Giêsu, học biết Giêsu và yêu mến Giêsu; trái tim chúng ta sẽ sẵn sàng, cởi mở để canh cánh chờ đợi Ngài như năm trinh nữ khôn ngoan vừa mang đèn lại vừa mang đầy dầu. Để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy, chính Con Thiên Chúa mỗi ngày đích thân đến tìm gặp con người, ban Lời Ngài, ban Mình Ngài để bất cứ ai muốn gặp gỡ Ngài bất cứ giờ nào cũng có thể gặp được; nhờ đó, vào buổi gặp gỡ cuối cùng của mỗi người, không ai nhìn ai là người xa lạ. Được như thế, bấy giờ, mỗi người sẽ lắng nghe những lời yêu thương của ‘Chủ Tiệc’, “Hỡi tôi tớ tốt lành và khôn ngoan, hãy vào mà hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
Cả một đời theo Chúa, cả một đời tìm kiếm Ngài, một cuộc đời ‘được gọi để gặp gỡ’ ‘Chàng Rể’ Giêsu… thế mà rốt cuộc, thử hỏi ai trong chúng ta muốn mình nói những lời tuyệt vọng như năm cô trinh nữ khờ dại đã nói, “Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi”; và còn gì bi thảm hơn khi mỗi người phải nghe những lời từ bên trong vọng ra rằng, “Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai”. ‘Chàng Rể’ chắc chắn biết cô dâu, người mà chàng đã trao cả cuộc đời mình; và ‘Chàng Rể’ biết cả bạn của cô dâu, những người đã hiểu được tình yêu của chàng và nàng, những người đã yêu mến họ. Vì vậy, ‘Chàng Rể’ không thể không biết chúng ta trừ khi chúng ta ‘hết yêu’ hai người hoặc đã cạn tình cạn nghĩa như đèn cạn dầu với ‘Chàng Rể’ và Hiền Thê của Đức Lang Quân. Vì thế, sự chuẩn bị trong khi chờ đợi ‘Chàng Rể’ là cả một cuộc đời chờ đợi trong tin yêu, hy vọng và biết ơn; dầu trong đèn, dầu mang theo đầy bình chính là lòng bác ái của đời người Kitô hữu.
Dầu là biểu tượng của lòng bác ái, Kitô hữu ‘được gọi để gặp gỡ’ chuẩn bị gặp Chúa bất cứ lúc nào, bất cứ ngày nào vì người ấy luôn luôn có lòng bác ái trong đời sống mình. Bác ái không chỉ là niềm đam mê hay một cảm xúc tức thời; bác ái là một cam kết triệt để yêu thương; bác ái là một nếp sống, một cách sống luôn luôn yêu thương người khác bằng trái tim của Chúa Giêsu; bác ái là thói quen hàng ngày mà người Kitô hữu hình thành bằng cách chọn đặt tha nhân trên mình, cống hiến cho tha nhân tất cả những gì Chúa Giêsu đòi hỏi; đó có thể là một hy sinh nhỏ hoặc một hành động anh hùng của thứ tha; nhưng dù trường hợp nào xảy ra, Kitô hữu cũng cần có lòng bác ái thường xuyên để sẵn sàng đón Chúa, gặp Chúa; và đó là khôn ngoan như bài đọc sách Khôn Ngoan nói đến, “Những ai tìm kiếm sự khôn ngoan, sẽ gặp được nó”; đó cũng là khao khát Thiên Chúa như Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thổ lộ, “Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa”.
Một trợ sĩ nọ sống êm đềm hạnh phúc nhiều năm trong một tu viện cổ kính. Hằng ngày, thầy làm những việc lặt vặt, phục vụ cộng đoàn với lòng yêu mến. Hôm ấy, khi đang rửa chén, một thiên thần hiện đến nói với thầy, “Chúa sai tôi đến nói với thầy rằng, thời gian của thầy đã mãn; hôm nay, thầy được gọi vào vương quốc vĩnh cửu của Chúa”. Trợ sĩ tươi cười trả lời, “Ôi, thú vị và sung sướng thay, Chúa nhớ đến tôi. Nhưng, thiên thần ơi, ngài thấy đó, còn rất nhiều chén đĩa chưa rửa; tôi thật có lỗi với anh em nếu bỏ ngang công việc mà biến mất. Có lẽ Chúa cũng vui lòng cho phép tôi bước vào cõi đời đời trễ hơn một chút khi đã rửa xong mớ chén đĩa này”. Thiên thần nhìn vào mắt thầy, đầy cảm thông, “Thầy có lý, tôi sẽ trình với Chúa”; rồi thiên thần biến mất, thầy trợ sĩ tiếp tục rửa chén. Bữa khác, thầy đang làm vườn, thiên thần lại hiện đến. Thầy huơ huơ lưỡi cuốc về phía đám cỏ và nói với thiên thần, “Cỏ mọc um tùm thế này, chắc Chúa có thể chờ tôi thêm chút nữa”; thiên thần lại mỉm cười và biến đi. Một sáng nọ, thầy chăm sóc bệnh nhân, thiên thần lại xuất hiện. Thầy nói, “Ngài thấy đó, còn rất nhiều bệnh nhân chờ tôi”; thiên thần lại mỉm cười và biến đi. Tối hôm ấy, về nhà, thầy trợ sĩ ngả lưng trên chiếc giường đơn sơ của mình, mệt nhọc sau một ngày làm việc cần cù, thầy nhớ lại những lần xin khất hẹn và bất chợt, thấy mình kiệt sức. Thầy quỳ xuống bên giường và cầu nguyện, “Lạy Chúa, giờ đây xin sai thiên thần Chúa đến với con. Con xin hứa, lần này con sẽ không khất nữa”. Tức thì, thiên thần hiện ra đứng kề bên. Thầy nói, “Lần này, nếu ngài đưa tôi đi, tôi hoàn toàn sẵn sàng để đi với ngài vào vương quốc của Chúa”. Thiên thần nhìn sâu vào đáy mắt thầy trợ sĩ, mỉm cười rồi nói, “Thế bấy lâu nay, thầy nghĩ là thầy đang ở đâu?”.
Anh Chị em,
Thầy trợ sĩ bấy lâu hưởng nếm thiên đàng dưới thế mà thầy không hay biết. Một nhà thần học đã viết, “Thiên đàng không phải là nơi có Chúa, nhưng nơi nào có Chúa, nơi đó là thiên đàng”. Như vậy, sống với Chúa, yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân trong bổn phận của đấng bậc mình là sống một đời sống ân sủng, là sống cuộc sống thiên đàng như các trinh nữ khôn ngoan với đèn sáng trưng, với dầu đầy bình; đó là những con người ‘được gọi để gặp gỡ’, gặp Thiên Chúa, gặp con người; cũng là những con người sẵn sàng đón Chúa đến trong đời mình bất cứ lúc nào.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, xin biến trái tim con thành nơi tích hợp mọi sự nhân lành của trái tim Chúa; cho con biết trân quý giây phút hiện tại, yêu mến bổn phận Chúa trao và luôn luôn nhớ, con ‘được gọi để gặp gỡ’, gặp Chúa và gặp anh em; và như thế, con biết mình đang ở đâu, thật hạnh phúc cho con!”, Amen.

48. Chàng rể đến trễ
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Ngữ cảnh của đoạn 25, 1-13 là Chúa Giêsu kêu gọi hãy luôn luôn tỉnh thức vì không ai biết ngày Người đến (24:36-25:46). Ý tưởng nầy được lập lại nhiều lần dưới nhiều dạng khác nhau (24:36.42.50; 25:13). Liên kết với hai dụ ngôn đi trước, đoạn 25:1-13 có chung một số từ ngữ như phronimos, “khôn ngoan” (24:45; 25:2), kurios, “Chúa”, “chủ” (24:42.45-50; 25:11), chronizò, “đến trễ” (24:48; 25:5), hetoimos, “sẵn sàng” (24:44; 25:10). Chủ đề của đoạn nầy tiếp tục là sự sẵn sàng để chờ đón Chúa đến.
Về bố cục có thể phân chia như sau: 1/ Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (25:1-5); 2/ Hành động của các trinh nữ (25:6-9); 3/ Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13). Cách phân chia nầy dựa trên sự xuất hiện và phân bố của động từ exerchomai (c. 1.6), aperchomai và eiserchomai (c. 10). Tất cả đều diễn tả hành động “đi” của các trinh nữ. Hai lần đầu (c. 1 và 6) họ cùng chung một hướng là đi đón chàng rể. Lần cuối cùng (c. 10) họ đã chia tay và đi hai hướng khác nhau. Năm cô khờ dại ra đi để mua dầu và sẽ đứng ngoài cửa, còn năm cô khôn ngoan đi vào phòng tiệc cưới với chàng rể.
Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (cc. 1-5)
Matthêô lấy dụ ngôn sắp được kể để so sánh với Nước Trời. Đặc biệt ở đây Matthêô dùng động từ homoioò ở thì tương lai thụ động (x. 18:23; 22:2), “Nước Trời sẽ được ví như …”. Nước Trời không được so sánh như mười cô trinh nữ, nhưng như những gì sẽ xảy ra cho các cô ấy vào kết thúc dụ ngôn. Nước Trời sẽ đến một thời điểm quyết định: những ai sẵn sàng thì được vào, những ai không sẵn sàng thì phải đứng bên ngoài cửa.
Theo phong tục, vào ngày cưới chàng rể đi về nhà cha mẹ cô dâu để rước nàng. Rồi các trinh nữ rước đôi tân hôn về tận nhà chàng rể và ở đó họ tổ chức lễ cưới và tiệc cưới. Các trinh nữ phải mang theo đèn và dầu khi phải rước vào ban đêm. Mục đích của việc mang đèn theo là “đi ra đón chàng rể”. Ngoài bản văn nầy, nymphios, “chàng rể”, chỉ xuất hiện thêm một lần khác ở 9:15, và ám chỉ Chúa Giêsu.
Mười cô trinh nữ được chia làm hai nhóm: năm cô khờ dại tương phản với năm cô khôn ngoan (c. 3). Cặp “khờ dại” (7:26) và “khôn ngoan” (7:24) gặp lần đầu tiên ở dụ ngôn xây nhà. Và gần hơn Matthêô nói đến người đầy tớ khôn ngoan (24:45). “Khờ dại” hay “khôn ngoan”, không quy chiếu về các khả năng trí tuệ, nhưng hệ tại sự thận trọng và quyết định. Sự khôn ngoan hay khờ dại của các cô trinh nữ như là một tình trạng; động từ “là” ở thì quá khứ chưa hoàn thành (imperfect). Câu chuyện trong dụ ngôn nầy là một thí dụ điển hình: các cô khờ dại “không mang theo dầu”, trong khi các cô khôn ngoan “mang theo dầu” (c. 4).
Chàng rể đến chậm, trái với sự mong đợi của các trinh nữ; “de”, “nhưng” mang tính cách trái ngược (adversative). Không một lý do nào đưa ra giải thích sự chậm trễ nầy. Sự chậm trễ của chủ/Chúa cũng được nói đến trong dụ ngôn trước (24:48). Trong khi chàng rể chưa đến, các cô trinh nữ đều rơi vào tình trạng như nhau là buồn ngủ và ngủ thiếp đi. Không giống với dụ ngôn trước, người đầy tớ khôn ngoan là người phải thức tỉnh chờ đợi cho đến khi chủ về và mở cửa cho chủ. Vậy sự khác biệt giữa các cô trinh nữ là mang theo dầu cho đèn của mình hay không.
Hành động khác biệt của các trinh nữ (25:6-9)
Phần thứ hai mở đầu bằng tiếng kêu báo chàng rể đến lúc nửa đêm (c. 6). Đến “nửa đêm” là đến bất ngờ lúc mà các trinh nữ đều ngủ say. Điều nầy liên hệ đến câu kết là không ai biết “ngày và giờ” của Chúa đến (c. 13; x. 24:48.50.51). Bởi việc đến bất ngờ nầy mà sự khôn ngoan và khờ dại của các trinh nữ sẽ được tỏ lộ.
Lần cuối cùng nhắc đến hành động chung của họ là tất cả các trinh nữ đều “chỗi dậy và sửa soạn đèn của họ” (c. 7). Hai câu kế tiếp 8 và 9 là cuộc đối thoại giữa hai nhóm, và nội dung liên quan đến đèn và dầu của họ. Lúc nầy các động từ chuyển sang thì hiện tại diễn tả hành động đang diễn ra. Đèn của các trinh nữ khờ dại đang bị tắt, và họ xin các trinh nữ khôn ngoan dầu bằng một mệnh lệnh “Hãy cho chúng tôi dầu” (c. 8). Đáp lại các trinh nữ khôn ngoan dùng hai mệnh lệnh: “hãy ra đi” và “hãy mua” (c. 9). Bên sau hình ảnh đèn ngún tắt của các trinh nữ khờ dại là sách Châm ngôn 13:9; Gióp 18:5.
Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13)
Sang phân đoạn cuối nầy các trinh nữ không còn đi chung một hướng và làm chung một hành động nữa; họ đã cùng đi ra, exerchomai, đón chàng rể (c. 1.6). Trong câu 10, động từ “đi” được dùng đến 3 lần để diễn tả những gì xảy ra cho các trinh nữ. Khi các trinh nữ khờ dại ra đi, aperchomai, chàng rể đến, erchomai, và các trinh nữ khôn ngoan đi vào, eiserchomai, dự tiệc cưới với chàng rể. Lúc nầy các trinh nữ khôn ngoan được gọi là những người đã chuẩn bị/sẵn sàng, hetoimos. Từ nầy được dùng trong dụ ngôn trước khi trong lời kêu gọi phải sẵn sàng vì không biết giờ nào Con Người sẽ đến (24:44). Vậy “khôn ngoan” có thể hiểu là “sẵn sàng/đã chuẩn bị” cho ngày giờ Chúa đến. Các trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị cho việc chàng rể đến trễ. Hình ảnh “cửa đóng lại” nhấn mạnh sự kiện là người đứng ngoài không thể vào được hơn là những người đã vào dự tiệc cưới bên trong.
Câu 11 và 12 là cuộc đối thoại giữa chàng rể bên trong cửa và các trinh nữ khờ dại đứng bên ngoài. Một mẫu tương tự như thế tìm thấy trong Lc 13:25. Sự tương phản giữa các trinh nữ ở đây vẫn còn: trong khi cửa đóng lại với các trinh nữ khôn ngoan ở bên trong, còn các trinh nữ đứng bên ngoài thì xin mở cửa, “Hãy mở cửa cho chúng tôi!”. Họ đã bị từ chối. Chàng rể bây giờ được gọi là “Chúa”. Tiếng kêu của các trinh nữ khờ dại Kurie, kurie, “Lạy Chúa, lạy Chúa” lúc nầy là áp dụng cụ thể cho lời Chúa Giêsu đã nói trước về những người không thực hành ý muốn của Chúa (7:20-23). Những ai không thực hành ý Thiên Chúa thì không được Thiên Chúa nhận biết. Cũng thế, các trinh nữ khờ dại bị chàng rể tuyên bố là không biết họ, vì họ đã không quan tâm chuẩn bị cho mình để có thể đón rước chàng rể bất cứ tình huống nào.
Dụ ngôn kết thúc bằng một huấn dụ “Vậy hãy tỉnh thức…” (c. 13). Liên từ oun, “vậy”, chỉ huấn dụ nầy rút ra từ dụ ngôn trên. Động từ grègoreò, “tỉnh thức”, Matthêô chỉ dùng trong các dụ ngôn nói về việc Chúa đến vào ngày giờ không ai biết (24:42.43; 25:13) và trong đoạn Chúa Giêsu và các môn đệ trong vườn Cây Dầu (26:38.40.41). Trong cả hai trường hợp, “tỉnh thức” có nghĩa là “sẵn sàng”, như chủ nhà phải chuẩn bị nếu như biết kẻ trộm sẽ đào ngạch vào nhà, hay như các tông đồ phải sẵn sàng để trợ lực Chúa Giêsu khi Người đang “buồn sầu cho đến chết” (26:38), và để chống lại cám dỗ mà các ông rất dễ sa vào là bỏ rơi Chúa (c. 26:41). Vậy “tỉnh thức” có nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng những gì cần thiết cho chính mình để có thể vào dự tiệc Nước Trời khi Chúa đến.
Khi viết dụ ngôn về các cô trinh nữ, Matthêô nhắm đến những người Kitô hữu. Họ như các trinh nữ đang cầm đèn đi đón Chúa Kitô. Họ có thể là những người khờ dại và khôn ngoan. Việc vào Nước Thiên Chúa còn tùy vào mỗi người. Khởi đầu ai cũng giống nhau, nhưng kết thúc có thể hoàn toàn khác. Sự khôn ngoan đích thực là chuẩn bị cho mình những điều Thiên Chúa mong muốn để có thể đón tiếp Người.
Mặc dù Chúa Giêsu vẫn mời gọi kiên trì trong việc cầu nguyện và gõ cửa, “ai gõ cửa sẽ được mở cho” (7:7), cửa sẽ không mở ra cho những ai đã không sẵn sàng.

49. Tỉnh thức
Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.
Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.
Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi!
Thánh Augustinô đã chú giải như sau: “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này!
Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.
Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.

50. Sẵn sàng
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.

51. Một chủ đề về sự chết và sự sống
Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, “Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ.”
Có một điều chủ yếu giá trị và sâu xa của Thánh Kinh nơi làm việc trong đoạn đơn giản này. Một trong những tường thuật rõ ràng nhất của chủ yếu này thì đã được tìm thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan — Phúc Âm của “Sự Sống Lại”. Phúc Âm Thánh Gioan chia ra làm hai phần. Phần đầu, Gioan kể lại câu chuyện về sứ vụ công khai của Chúa Giêsu vòng quanh những dấu hiệu sống lại. Những dấu hiệu đầu tiên này xẩy ra khi Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Sự biến đổi mầu nhiệm nước thành rượu là một dấu hiệu của Chúa đang làm trong cuộc sống chúng ta đó là biến đổi đau buồn thành niềm vui, thất vọng thành hy vọng, sự chết thành sự sống. Trong bẩy chương đầu của Thánh Gioan, chúng ta tìm thấy sự tham khảo về sự sống lại được lập đi lập lại. Điểm cao nhất trong chương bẩy vẫn còn một dấu hiệu sống lại vĩ đại khác đó là sự sống lại của Lazarô từ cõi chết. Giữa đoạn này, Chúa Giêsu nói, “Ta là sự sống lại.” Lúc đó, có một sự thay đổi: Từ chương mười hai trở đi các tông đồ kể về sự chết và sự sống lại của Chúa. Đặt giữa hai đoạn này của Phúc Âm giống như một hạt kim cươmg trong một khung cảnh đẹp, Chúa Giêsu đã nói một câu rất hợp với lẽ thường tình tự nhiên: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mỉnh, nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hoa trái” (Jn 12:24). Thiên nhiên làm chứng cho chu kỳ sáng tạo của sự chết và sự tái sinh. Chúa Giêsu, qua sự chết và sự sống lại, làm chứng cho sự hiện diện của chu kỳ này trong mỗi người chúng ta.
Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm lạnh. Cô y tá nói với bé: “Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây.” Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: “Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ.” Thật ra, định mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh trong thân xác thiêng liêng sáng láng.
Lãnh vực nào trong cuộc sống của bạn nơi mà một vài người chết đang xẩy ra? Người đàn bà khóc lóc đau buồn mổi lần phải rời tới khu nhà mới trong câu chuyện trên là một thí dụ điển hình. Có thể vì cao niên mà những khả năng, sức mạnh, cảm tình đang bị chết dần. Cũng có thể là vì cắt đứt tình bạn hữu. Cũng có thể vì một vài tình trạng nơi làm việc hoặc hàng xóm. Dù bất cứ là cái gì và bất cứ ở đâu liên quan tới nó bây giờ và bắt đầu hiểu cái gì Chúa Giêsu đang nói với bạn rằng: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nót thối đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái.” Khi chúng ta nhận ra tiến trình này trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần hiểu sự cần thiết của sự từ bỏ cái gì mà đang mất hoặc đã mất.
Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, “Bạn là một vũ khí lợi hại nhất tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này.” Một vài năm trước đây, cô Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, “Tôi từ bỏ những thứ đó để tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời.” Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về trời! Sự chết và tái sinh!
Bất kể chúng ta thế nào, thì ngày giờ chúng ta cũng đã được ghi sổ. Giầu hay nghèo, nổi tiếng hay không. Không trừ một ai. Sự chết tuyên bố chiến thắng tất cả. Tuy nhiên trong sự chiến thắng hiện nay chúng ta phải vượt qua. Chúng ta chỉ học được cái gì để sống bởi sức mạnh của Thiên Chúa khải hoàn để có khả năng nói như Thánh Phaolô, “Ô sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu… Tạ ơn Chúa, Người đã cho chúng ta sự chiến thắng trong Đức Giêsu Kitô” (1 Cor 15:55,57). Trong sự liên kết với những người Kitô hữu trung thành của mọi thời đại chúng ta có thể tiếp tục cuộc hành trình, hy vọng nhắm tới sự chiến thắng của cuộc sống trong ngày hạnh phúc cuối đời.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm ngày hôm nay nói về ngày thế mạt liên quan đến sự biết trước được giờ nào chú rể đến tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này tượng trưng cho ngày giờ sắp đến của bữa tiệc đời đời của chúng ta là những người bạn thân vĩnh viễn của Ngài. Đây là cảnh tái sinh của chúng ta trong “trời mới và đất mới khi trời cũ, đất cũ đã qua đi” (Rev 21:1). “Vậy, hãy tỉnh thức” Chúa Giêsu khuyên, “vì các ngươi không biết ngày cũng chẳng rõ giờ” mà chú rể sẽ đến và bữa tiệc sẽ bắt đầu.
Những cây đèn bằng chứng của chúng ta đã đươc đổ đầy dầu hy vọng. Hãy vang dội lại những tiếng kèn reo mừng của các thánh và thiên thần, đóng dấu bằng máu tử đạo, và tin tưởng chắc chắn vào lời nói hy vọng này của Đấng Cứu Thế là ở giữa sự chết này chúng ta đang sống.

52. Sống khôn ngoan
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Dụ ngôn mười cô trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan là dụ ngôn có thể nói rất quen thuộc với Kitô hữu. Và chúng ta lại dễ dàng đón nhận bài học là phải tỉnh thức sẵn sàng một cách rất tự nhiên khi chúng ta đã nhìn nhận rằng không ai biết được “cái giờ Chúa đến” với mình, nghĩa là cái giờ mình phải giả từ trần gian. Tuy nhiên, thử hỏi thế nào là khôn ngoan thì hẳn không ít người phải chần chừ hoặc ngần ngại trả lời cách dứt khoát và rõ ràng.
Dưới cái nhìn nhân loại thì khôn ngoan là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí. Theo viễn tượng này thì người khôn ngoan là người biết sử dụng trí khôn để phân biệt cái này với cái kia, sự vật này với sự vật khác, biết phân biệt điều đúng với điều sai, cái tốt với cái xấu, điều hơn với điều kém… Người khôn ngoan còn biết phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, cái gì là bản chất, cái gì là hiện tượng… Sự khôn ngoan dưới góc nhìn này được thủ đắc bằng luyện tập và một vài môn học giúp rèn luyện khả năng phân biệt đó là môn toán học, môn luận lý học…
Vì là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí, mà trí khôn con người xem ra bị điều kiện hoá bởi thời gian, tuổi tác. Qua cái ngưỡng cửa tuổi bảy mươi thì nói chung khả năng phân biệt, phán đoán của con người giảm dần. “Càng già, càng lẩn thẩn” là một hiện thực như tất yếu. Thế mà Kitô hữu chúng ta mỗi lần tham dự lễ an táng một người cao niên lại được nghe trích đọc bài trích sách Khôn ngoan: “Người đầu bạc thì khôn ngoan và tuổi già là một cuộc đời thanh sạch” (Kn 4,9) (*). Không thể hiểu sự khôn ngoan của câu trích Lời Chúa này theo nhãn quan nhân loại mà cần phải có cái nhìn khác.
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật 32 TN A trình bày về Đức Khôn Ngoan như sau: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…” (Kn 6,12 tt). Đức Khôn Ngoan ở đây như được nhân cách hoá. Nó không còn là một thuộc tính của trí khôn mà là một ai đó. Nếu ta thay cụm từ “Đức Khôn Ngoan” bằng cụm từ “Thiên Chúa” thì ý của đoạn văn sẽ rõ ràng và dễ hiểu. Như thế, dưới ánh sáng Lời mạc khải thì Đức Khôn Ngoan được đồng hoá với chính Thiên Chúa, Đấng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Ái. Đoạn trích sách Khôn ngoan còn tiếp rằng để đạt tới Đức Khôn Ngoan thì cần chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan và yêu mến là tuân giữ lề luật (x.Kn 6, 17-18).
Như thế người khôn ngoan không chỉ là người biết phân biệt mà trên hết là người có tấm lòng biết yêu mến. Dưới cái nhìn này thì chúng ta mới hiểu được người đầu bạc là người khôn ngoan. Tuổi đời càng cao thì con tim người ta càng dễ mở rộng. Tấm lòng của các cụ ông, cụ bà dành cho cháu con thì hẳn ta đã rõ. Nhiều vị dường như chưa chịu nhắm mắt, xuôi tay, khi chưa thấy cháu con yên bề gia thất. Sốt sắng với việc Nhà Chúa thì ít ai bì với người cao tuổi. Quả thật, dù cho “đa thọ thì đa nhục”, nghĩa là tuổi đời càng chồng chất thì lỗi lầm càng thêm nhiều, nhưng chính khi biết lấy những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho chúng ta, chứ không phải do bởi lau chén dĩa bên ngoài (x.Lc 11,37-41).
Trở lại với năm cô trinh nữ khôn ngoan của bài dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Các cô được gọi là khôn ngoan vì các cô có tấm lòng với cô dâu, chú rể, với dòng tộc hai họ. Đi đón chàng rể với đèn đầy dầu là một động thái của người có tấm lòng biết lo xa, liệu trước. Các cô tính trước, lo xa không phải vì mình mà vì chính cô dâu, chú rể…Trái lại, năm cô trinh nữ khờ dại là những cô phù dâu ít có tấm lòng với chú rể, cô dâu. Vẫn có đó nhiều cô phù dâu trong các tiệc cưới ngày nay chỉ lo “xoe xua” làm nổi cho bản thân mà chẳng để ý gì đến người khác. Quả là một sự khôn lanh theo kiểu thế gian là tìm mọi dịp để lăng xê chính bản thân mình.
Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay: “dầu đèn” theo văn hóa thời bấy giờ có ý nghĩa là những việc tốt, việc lành. Người đã có tấm lòng biết yêu mến thì không bỏ qua một cơ hội dù nhỏ, để làm điều tốt, việc lành cho tha nhân. Và những việc tốt, những việc lành chính là hành trang của người tỉnh thức sẵn sàng khi Chúa đến. Dù Chúa đến bất cứ giờ nào họ luôn có đủ đầy hành trang là các việc tốt để trình diện Vua các vua, Chúa các chúa, Đấng đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Không ai muốn làm người ngu dại. Ai cũng thích được nhìn nhận là khôn ngoan. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa, dĩ nhiên là để làm đẹp lòng Chúa và vì chính hạnh phúc đời đời của chúng ta.
——————-
(*) Đoạn trích sách Khôn Ngoan 4,9 Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là: “Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ”.
Một vài bản văn Anh ngữ về đoạn trích Kn 4,9 như sau: “But wisdom is the gray hair unto men, and an unspotted life is old age.” Hoặc “But the understanding of a man is grey hairs. And a spotless life is old age.”
Một bản Pháp ngữ dịch: “Mais la prudence de l’homme lui tient lieu de cheveux blancs, et la longue vieillesse, c’est une vie sans tache.”
Bản dịch khác: “c’est cheveux blancs pour les hommes que l’intelligence, c’est un âge avancé qu’une vie sans tache.” (La Bible de Jérusalem)
Không biết nguyên bản thế nào, nhưng so với một vài bản văn Anh ngữ và Pháp ngữ trên đây thì nội dung đoạn trích Kn 4,9 của bản dịch đang dùng trong sách bài đọc hiện hành khá tương đồng với nhau hơn là bản văn dịch của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh.

53. Chuẩn bị sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại, làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày, nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.
Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì chúng biết dự trữ, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như thế.
Chúa Giêsu mời gọi mọi người suy nghĩ về dụ ngôn những trinh nữ đi đón chàng rể, trong số đó có những cô biết chuẩn bị chu đáo, còn có những cô chỉ lo những gì hào nhoáng bên ngoài. Tất cả các cô đều được mời gọi và chuẩn bị. Nhìn bên ngoài mọi người như nhau, mọi người đều lo công việc của mình, công việc đáp lại lời mời gọi. Nhưng để lời đáp có giá trị hay không, đến giờ phút quyết định thì mọi việc mới sáng tỏ. Trong giờ phút đó những người được gọi là khôn ngoan, là những người biết đáp lại lời mời cách trọn vẹn, họ biết chuẩn bị thật chu đáo cho lúc cần thiết. Còn những người bị gọi là khờ dạy, họ cũng chuẩn bị, nhưng chỉ chuẩn bị với hình thức bên ngoài, họ cũng lo lắng, cũng làm việc, nhưng chỉ làm những gì mà bao nhiêu người nhìn thấy, chỉ làm những gì mà họ thích, chứ không phải làm những gì cần thiết.
Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai.
Lời nói lạnh lùng khô khan cho những người không biết chuẩn bị xứng đáng. Lời nói đó trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói khi xưa, nhưng lời đó cũng là lời mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu không chỉ nói cho những người ngày xưa mà thôi, nhưng cho mọi người và mọi thời.
Chúng ta để một ít phút hồi tâm, nhìn lại con người của mình, nhìn lại lời mời gọi mà chúng ta đã lắng nghe từ khi lãnh Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta cũng nhìn lại sự chuẩn bị của mỗi người cho đến ngày hôm nay như thế nào? Hằng ngày mỗi người làm việc không có thời gian nghĩ ngơi, làm việc thật vất vã. Mỗi người lo cho cuộc sống riêng tư, lo cho bản thân, còn lo cho gia đình, cho những người thân. Ngoài ra còn có lúc cũng lo giúp cho những người xa lạ, cũng có lúc làm những việc gọi là bác ái. Hơn thế nữa mỗi người đang là người Công Giáo, ngoài đời sống vật chất gia đình, còn phải có bổn phận với Chúa: dự lễ ngày Chúa nhật, cũng có xưng tội, rước lễ, cũng sống bình thường. Không có làm gì đáng trách, cũng không phiền hà trách móc người khác bao giờ. Nếu chỉ như thế, thì ngọn đèn cuộc đời của chúng ta giờ đây, cần cho cháy sáng, không biết nó sẽ ra sao? Vì nó chỉ là chiếc đèn, nhưng bên trong nó không có gì hết thì làm sao nó có thể cháy sáng được.
Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm thật sự của mình mà chu toàn, nếu chúng ta còn nhìn thấy được những cảnh thương tâm trước mắt mà con tim thổn thức, để rồi đôi tay phải hành động, đôi chân không thể ngồi yên vì đang có người cần đến chúng ta. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng thở than để an ủi, lắng nghe những lời phiền trách để biết sữa đỗi cho tốt hơn, lắng nghe những lời tốt đẹp để sống tốt hơn theo thánh ý Chúa; lúc đó chúng ta đang tìm chất dầu dự trử cho ngọn đèn cuộc đời của mình. Những lúc đó chúng ta làm việc như con kiến, không cần ai biết đến, nhưng đây là việc cần thiết phải làm. Như thế thì bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng không sợ hoàn cảnh bất ngờ xảy đến.
Xin Chúa ban sự khôn ngoan của Chúa cho mỗi người chúng con để biết chuẩn bị cho mình luôn cháy sáng trước mặt Chúa.

54. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề về điều kiện không có không được để về được Quê Trời là gì không? Nếu không có điều kiện cần thiết ấy thì việc lữ hành vất vả của ta có ích lợi gì không? Vấn đề quan trọng như thế tại sao ta lại không quan tâm?
2. Nếu Thiên Chúa cho cả những người không có tình yêu, vẫn còn ích kỷ, ghen ghét, hận thù… vào Thiên Đàng, thì Thiên Đàng ấy có hạnh phúc được không? Thiên đàng ấy có khác gì trần gian không?
3. Đức tin hay tình yêu là “vé” để vào Nước Trời. Nhưng thứ đức tin không việc làm, chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, thứ tình yêu không cụ thể, chỉ nói ngoài môi miệng, có thể dùng làm “vé” vào Nước Trời được không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Mô tả lại dụ ngôn
Theo phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn. Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp, chờ đợi… trở thành “công cốc”!
2. Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở thành “sôi hỏng bỏng không”, “nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Dụ ngôn trên có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng. Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu… để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.
Rất nhiều Kitô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin cho mình được “ái mộ những sự trên trời” (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Kitô hữu ấy có được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Kitô hữu đang cố gắng thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Kitô hữu được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7, 23). Để tránh tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.
3. Nước Trời là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống vị tha
Nước Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền – không vương chút đau khổ – của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét, hận thù… thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người mới vào được Nước Trời.
4. “Đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì “người ta được trở nên công chính nhờ đức tin” (Rm 3, 22); “Ápraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (4, 3). Chúng ta, những Kitô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Giacôbê thì đó là “đức tin có việc làm” và “đức tin không việc làm”. Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là “đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”.
“Đức tin đắt giá” là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là “đắt giá” là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn “đức tin rẻ tiền” là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: “Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,14.17). “Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng” (2,20).
Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: “tình yêu đắt giá” và “tình yêu rẻ tiền”, nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Giacôbê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).
Tóm lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm, tức thứ “đức tin đắt giá”. Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).
Vậy cái “vé” cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là “đèn có dầu” để chúng ta – những “cô phù dâu” – thắp sáng lên khi đón “chàng rể” – là Đức Kitô – vào “tiệc cưới Nước Trời”.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con. Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.

55. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hòa)
CẢNH GIÁC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.
Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.
Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Kitô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!
Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Kitô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.
Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Kitô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.
– Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.
– Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Kitô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?
Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Kitô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang…), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.

56. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Augustine S.J.)
Cô gái người Ðức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 khi vừa tròn 24 tuổi, giữa lúc cuộc đời còn tràn đầy sức sống. Trước lúc từ trần, cô đã để lại những dòng chữ thật tuyệt vời trong quyển nhật ký của mình.
“Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người.” (Rm 8,28)
“Cách đây một năm, lúc đó tôi vừa phải dọn bài thi y khoa khá quan trọng, vừa cùng các bạn sửa soạn cho ra một tờ báo trẻ. Tôi cảm thấy mệt mỏi nên đã đi khám bệnh và phải trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Sau lần siêu âm đầu tiên, tôi biết chắc mình đã mắc một chứng bệnh khá trầm trọng. Tôi cảm thấy bất lực. Mọi việc tôi làm trở thành vô dụng và không còn gì đáng kể nữa. Mới được 22 tuổi, không nghĩ mình có thể chết trẻ như vậy được, tất cả con người tôi nổi dậy chống lại viễn cảnh đen tối ấy.
Ngày hôm sau bác sĩ đến cho biết tôi mắc bệnh Hodgkin, một chứng bệnh gây sưng lá lách, gan và thận. Tôi không cầm được nước mắt vì biết đó là một căn bệnh nan y. Nhưng ngay lúc đó tôi nhớ đến lời của thánh Phaolô: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28). Tôi cũng nghĩ đến Chúa Giêsu lúc Ngài phải vác thánh giá và xin vâng theo thánh ý Chúa Cha, tâm hồn tôi tràn ngập bình an.
Nhiều khi vừa học bài tôi vừa nghĩ: “Nhưng Chúa Giêsu sẽ hỏi mình điều gì trong kỳ thi cuối cùng? Ta đói và con đã cho ta ăn… Ðiều này đã giúp tôi không chú trọng vào chuyện thi cử, nhưng vào chuyện yêu thương người khác, sửa soạn một bữa điểm tâm chẳng hạn, hay làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào với tình thương yêu.
Cô Johanna cầm đèn sáng đi đón chàng rể: “Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu”
Có lúc tôi muốn bỏ hẳn việc học hành vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp hành nghề. Nhưng tôi đã xua đuổi ý nghĩ này ngay, vì thánh ý của Chúa rất rõ với tôi trong phút hiện tại: tôi phải tiếp tục học. Học mà không cần nghĩ đến đậu hay rớt. Cứ thế tôi sửa soạn mỗi ngày cho cái chết của tôi: Vâng theo thánh ý Chúa, chẳng ai tự dưng mà nên thánh. Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu: việc học, cách cư xử với người khác, mọi chuyện lặt vặt, vì tôi không thể làm những việc lớn.
Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sự, nhưng trước hết, tôi mong chờ tình thương yêu của Chúa như một chút mùi vị của Thiên Ðàng được nếm trước…” (trích theo Ðỗ Minh Trí, SJ., Ði Tìm Anh Em; trang 177-178)
Những dòng chữ trên đây của cô Johanna phần nào giúp ta dễ lãnh hội nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, nhất là tinh thần sẵn sàng đón Chúa của người Kitô hữu.
Có một điều chắc chắn đó là ai cũng phải đối diện với cái chết một lần, nhưng điều này xảy ra vào lúc nào thì không ai lường trước được cả. Ðối diện với sự thật này, con người có những thái độ khác nhau. Có người thì sợ hãi đến nỗi tìm cách chối bỏ, coi như không có cái chết, bằng việc lao vào những thú vui xác thịt, thế trần… Nhưng cũng có người bình thản đón nhận cái chết y như ý Chúa muốn.
Niềm tin Kitô cho ta biết ý nghĩa của sự chết, đó chính là lúc Ðức Kitô trở lại để đem ta về với Ngài, để Ngài ở đâu thì ta cũng sẽ ở đó cùng Ngài (x. Ga 14,3). Ðó cũng là lúc Ngài cất khỏi lòng ta mọi buồn phiền lo lắng và ban cho ta niềm vui trọn vẹn (x.Ga 16,22).
Việc đón chờ Ðức Kitô của người Kitô hữu, được sánh với việc các cô trinh nữ cầm đèn sáng đi đón chàng rể trong dịp lễ cưới. Các cô là những người được tuyển chọn và được mời vào hưởng niềm vui của bàn tiệc. Như các cô trinh nữ trong dụ ngôn, người Kitô hữu cũng được tuyển chọn bởi Cha (x.Ga 17,6) và bởi Ðức Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16). Ðáp lại điều “được tuyển chọn”, các cô trinh nữ phải chăm lo chu toàn bổn phận được trao phó cho mình, đó là sửa soạn dầu đèn cho chu đáo. Cũng vậy, người Kitô hữu đáp lại tình yêu Chúa dành cho mình, qua việc Ngài tuyển chọn mình, bằng nỗ lực chu toàn bổn phận của người môn đệ đi theo Ðức Kitô.
Ðức Kitô hằng vâng theo thánh ý Cha, bất chấp những đau khổ và cái chết mà Ngài phải nếm chịu, trải qua. Bước theo Ngài, người Kitô hữu cũng không ngần ngại trải qua nhiều đau khổ để học thưa tiếng xin vâng ý Cha như Ngài (x.Dt 5,8). Chỉ có những cô trinh nữ chu toàn bổn phận chăm lo đèn dầu đầy đủ mới được hưởng niềm vui của bàn tiệc cưới. Cũng vậy, chỉ có những Kitô hữu nào sống trọn tinh thần xin vâng ý Chúa như Thầy của mình mới được vui hưởng chính hạnh phúc Thiên Ðàng của Thầy (x. Ga 17,13).
Khi Thiên Chúa tuyển chọn một ai, Ngài không đòi người đó phải làm những điều lớn lao vượt sức mình; ngược lại, Ngài mời họ làm những công việc bổn phận bé nhỏ bằng một tình yêu vĩ đại. Làm việc vì yêu mến là cách thế tuyệt hảo của sự đáp trả trước sự kiện được tuyển chọn vì yêu. Người Kitô hữu biết chắc rằng, Ðức Kitô đang đợi chờ mình ở cuối đường đời, tựa như chàng rể sẽ có lúc gặp gỡ những cô trinh nữ đang cầm đèn cháy sáng, để chính Ngài ngỏ lời cùng họ: “Hỡi kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa…” (Mt 25,34). Hạnh phúc thay cho những ai đã không ngừng sống đời yêu mến, luôn thưa tiếng xin vâng ý Chúa! Họ quả thực là những cô trinh nữ khôn ngoan: luôn chăm lo cho bình dầu tình yêu hằng ở mức dư tràn, để lòng mình hằng hướng về việc đón chờ Chúa Kitô trở lại.
Giáo Hội nhắc nhở các Kitô hữu: Quê hương chúng ta ở trên trời (x. Pl 3,20)
Chúng ta đang sống trong những tuần lễ cuối năm phụng vụ. Khi sử dụng đoạn Mt 25,1-13 làm bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật 32 Thường Niên này, Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta đích điểm của đời mình là vui hưởng hạnh phúc Quê Trời. Như bao con người khác, người Kitô hữu chúng ta cũng có một lần giã biệt cõi đời. Thế nhưng đó không phải là điều kinh hoàng khiến ta hoảng sợ. Ngược lại, đó là ngày vui mừng khôn tả, ngày ta được trọn vẹn đi vào kết hiệp với Chúa. Thái độ của người Kitô hữu đứng trước cái chết phải là thái độ thanh thản, tin yêu và đợi chờ. Ðức Kitô chắc chắn sẽ trở lại để gặp gỡ mỗi người chúng ta trong giờ chết của mình. Vậy chúng ta cần nỗ lực chờ đợi Ngài với đôi tay luôn cầm đèn cháy sáng, đó chính là việc luôn chu toàn thánh ý Chúa bằng một tình yêu trổi vượt.
Như cô Johanna, cũng có lúc ta thấy mình ham sống và sợ chết, nhất là khi đời ta còn trẻ, việc ta còn nhiều… Cô Johanna đã biết nhìn lên Ðức Giêsu để học với Ngài thái độ vâng phục kế hoạch nhiệm mầu mà Chúa muốn dành cho cô. Cô cũng sẵn sàng để cho Lời Chúa dìu dắt mình đi, giữa lúc bản thân mình gần như bất lực. Cô đã tìm thấy sự bình an đích thực khi buông mình cho thánh ý Chúa, một sự bình an do chính Ðức Kitô ban tặng (x. Ga 14,27). Cô đã cảm nhận hạnh phúc Thiên Ðàng ngay khi còn tại thế. Gương sống của cô Johanna cũng là lời mời gọi cụ thể của Chúa muốn ngỏ cùng ta là những môn đệ của Ngài: Hãy phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa, đó là cách duy nhất ta đáp lại tình yêu Ngài. Sự phó thác trọn vẹn này phải được cụ thể hoá qua cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại của ta trong tình yêu. Lòng ta chắc chắn sẽ cảm nhận niềm vui náo nức của Thiên Ðàng ngay tại thế, khi ta hướng trọn về Ðức Kitô, tựa như các cô trinh nữ đã sẵn sàng dầu đèn để đón chờ chàng rể đến, bất chấp sự trễ muộn.
Tình yêu Chúa nơi lòng ta cũng có thể bị tàn lụi khi ta không hâm nóng nó bằng những công việc phục vụ anh em mình. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng tình yêu đó là sống tình yêu. Nhờ tình yêu mãnh liệt, người Kitô hữu can đảm sống đời mình từng ngày trong niềm hy vọng vui hưởng Nước Trời, đó là hạnh phúc bất tận mà Thiên Chúa hằng dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài.

57. Khôn ngoan và khờ dại
(Chú giải và Suy niệm của Lm. PX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong ngữ cảnh là các chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này được liên kết với hai dụ ngôn trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x. 24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng” ([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu truyện có đề tài là một cuộc rước dâu, nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói về người tôi tớ trung thành và người tôi tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ, khoảng thời gian này được nêu bật do sự chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của người đóng vai trò đó.
Đọc từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu ở ngay giữa thời gian Israel đã từ khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ khước các sứ giả của Người (23,34) và thời gian chờ đợi Con Người ngự đến (24,4b-14).
2.- Bố cục
Khi đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ đến một vở kịch với hành động ngắn và nhanh, với những thay đổi thường xuyên và với một điểm mở nút xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ. Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
1) Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ);
2) Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và giấc ngủ;
3) Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung đột;
4) Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô được vào và những cô không được vào;
5) Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ chối;
* Kết luận (25,13).
Trạng từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về “khung bên ngoài”.
3.- Vài điểm chú giải
– Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có nghĩa là Nước Trời giống như các trinh nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận của loài người cũng giống như số phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người” (25,31).
– trinh nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa lập gia đình, là bạn của cô dâu.
– dại … khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt 7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên đá”; ở 24,45, người khôn là người biết sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
– đèn … dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho thêm phần trang trọng.
– vì chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể đến chậm do phải điều đình vào phút chót về những điều khoản của khế ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha mẹ cô dâu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của Người. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này, vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà thôi.
Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều xảy ra như nhau cho cả mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ, và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo tích cực và tiêu cực để họ có thể ướm cho mình.
* Cảnh 2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và giấc ngủ
Vì chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như không có một hành động nào, hành động bị “treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh 3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung đột
Đến đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt mọi sự chuyển động. Một lời loan báo, một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có thể nghe được từ đàng xa. Đàng này, tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh khắc của sự thật đã đến. Chú rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số dầu dự trữ không đủ cho cả mười chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng mới được theo đoàn rước và dự tiệc cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”. Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột, nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột. Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ, thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô diễn tả một tình trạng bất khả kháng thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm tay.
* Cảnh 4: Điểm mở nút (10): những cô được vào và những cô không được vào
Các biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó, động cơ của bài tường thuật được thực hiện: chàng rể đến và đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới được đi theo chú rể. Cửa được đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả. Cửa đưa vào tiệc cưới không được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có thể đi vào được.
* Cảnh 5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô nại tới sự quen biết đã từng có với chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi cửa có nét bi thương; dường như các cô nại tới lòng từ bi thương xót của chú rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước; chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt 7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện được mời vẫn không tránh cho người kia khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới (22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành người gác cửa cứng rắn, khẳng định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây, dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể (nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi với chú rể cũng như lời chú rể trả lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung. Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế, được vào/không được vào tiệc cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết luận (13)
Câu kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ, câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu truyện không trực tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa đến. Thật ra, sự canh thức ở đây chủ yếu hệ tại quyết định của các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù được chờ đợi, Đức Kitô sẽ đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc 13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ sở cả.
Thuộc về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không đương nhiên là đồng đều với mỗi người. Để được như thế, mỗi người cần phải sống phù hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết đối với mỗi người. Người ta có thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự khờ dại.
Nếu trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là một lễ cưới. Để cho các hình ảnh được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm thường. Đời sống trên trời là một cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng trinh khiết (x. 19,12).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô hữu là người ta đã có được mọi phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình đang sống và có một ý chí cương quyết hành động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
2. Kết thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi, hẳn là người ta chẳng để ý là đèn của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì. Hẳn là người ta cũng không từ chối mở cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ, hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
3. Phán quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta, nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống này mà thôi.
4. Chúng ta không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ thiếu trong đèn của chúng ta.
5. Mục tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo huấn cho Hội Thánh. Độc giả được biết rằng không phải tất cả những người được gọi đến với lễ cưới của chú rể sẽ thật sự được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các tín hữu để tách những người được chọn với những người được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là được gọi nhưng là được thử thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc làm.

58. Suy niệm của Mark Link
VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
Chủ đề: Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng.
1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.
Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. “Như một tên trộm viếng vào ban đêm”. (1 Tx 5: 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.
Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Điều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: “Ta không biết các ngươi”. Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?
– Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?
– Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?
– Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?
Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Đây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; “Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ” (Dt 4: 12-13).
Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Đây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?
Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.
Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là “Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh” thường đọc sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: “Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra”.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

59. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Chú giải của Noel Quesson)
Trong tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc. Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)… kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của Con Người (Mt 24,26-44)… ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về, Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 – 25,30)… Cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46)…
Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể…
Ngay từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là “parthènoi”. Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.
Khi Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể… và Giáo Hội, mọi người chúng ta là người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.
Trong mười cô đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.
Chúng ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày, một cái chết tàn bạo.
Người vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)… Giờ đây “vụ án” của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23, 34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô “lơ đễnh”, dại dột, những người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn đề người điên dại “môrai” và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên” không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch đạo”, kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm chi có Chúa ‘Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để chỉ “người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực hành”: (Mt 7,24) – “những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17). Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc trống rỗng hoặc lơ đễnh.
Đây là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa được đặt ra… một sự “được thua” được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?
Vì chú rể đến chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.
Nếu câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong “bài giảng thời cánh chung”, những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn “người đầy tớ chờ chủ”, người đầy tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).
Hãy chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.
Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
“Nửa đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20; Mc 13,35-36). “Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). “Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ mà người ta không ngờ” (Mt 24,44), “lóe sáng như tia chớp” (Mt 24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây phút của Thiên Chúa… giây phút của cuộc gặp gỡ… giây phút mà, đối với mỗi người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một tiếng kêu thảng thốt.
Không một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…
Trong lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi giật mình không?
Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Trong câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại… Tất cả đều thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con. Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?
Chỉ cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn thê trong Diễm Ca (5,2). “Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức”. Vâng, lạy Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.
Các cô dại nói với các cô khôn rằng: “Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn”.Đúng lúc các cô đi mua, thì chú rể tới…”
Vào đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.
Rõ ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi… anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu… anh em hãy giữ lại cho mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói khá nhiều điều ngược lại.
Nhưng Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu! Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta hãy nghe phần cuối của câu chuyện.
Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”
Các cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc, nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn giờ.
Rõ ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên Chúa: “Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!”. Thế đấy không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời” (Mt 7, 21-23).
Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Câu nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người. Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ. Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi có canh thức không?

60. Dọn lòng đón Chúa
Cái chết làm loài người sợ hãi nhưng không tránh khỏi được. Nhiều người cố gắng kéo dài sự sống bằng nhiều phương pháp khác nhau để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận nó. Đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là đi vào một cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta sống theo lời dạy của Thầy Giêsu Chí Thánh, đời đời chúng ta sẽ được một cuộc sống hạnh phúc vô vàn. Nếu chúng ta không tin giữ lời Đức Giêsu, mãi mãi chúng ta sẽ phải hối hận! Biết chắc điều đó sẽ đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn để được nghênh đón Chúa Giêsu ngự đến và vui mừng nhận phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ trung thành với Người.
Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn đều biết mình đang chờ gặp chàng rễ và mong được vào dự tiệc với Người. Tuy nhiên, các cô không biết giờ chàng rễ đến, năm cô khôn ngoan biết chắc chàng rễ sẽ đến nên đã chuẩn bị sẵn sàng. Khi chàng rễ đến, tất cả đều muốn được đón chàng rễ vào dự tiệc. Thế nhưng, 5 cô khờ dại vì không chuẩn bị trước nên không có dầu thắp đèn để đón chàng rễ! Chúng ta biết cuộc đời này có hạn và chúng ta sẽ phải tiến đến đời sau, nhưng có một số người lại không lo chuẩn bị cho cuộc sống đời đời, chưa lo làm việc lành dù được Chúa nhắc nhở thường xuyên.
Nhiều người vì không muốn cực khổ nên không chịu học hỏi, không muốn phục vụ, không dệt nên một cuộc đời có ý nghĩa, không cố gắng sống tốt nên mất luôn cả đời này và đời sau. Để biết đúng hay sai, chúng ta hãy trở về với lòng mình mình và cầu nguyện với Chúa. Lúc đo, lương tâm chúng ta sẽ mách cho chúng ta biết mình như thế nào, đang được dồi dào ơn nghĩa Chúa hay đang sống èo uộc vì thiếu sót bổn phận với Chúa, với tha nhân hay với chính mình. Khi chúng ta không lo tròn bổn phận thì lương tâm trách móc, khi chúng ta làm điều lành thì tâm hồn bình an. Ai chểnh mảng bổn phận trong đời sống, thì trong giờ chết có đủ công phúc để vào nước Trời không? Vậy, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa và thực hành đầy đủ, làm tròn mọi bổn phận trong cuộc sống trong niềm Tin Cậy Mến. Nếu Chúa có đến chậm thì chúng ta cũng hãy kiên tâm giữ đạo, không được buông lơi, nhưng biết lo làm việc lành phúc đức và việc bổn phận hàng ngày. Nếu chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì giờ Chúa đến bất ngờ cũng sao, vì chúng ta luôn luôn ở trong ân nghĩa Chúa.
Chúng ta đừng bắt chước năm cô khờ dại. Các cô này đã dại đến cả hai lần: từ đầu các cô đã không mang dầu theo và khi chàng rễ đến muộn cũng không biết lợi dụng thời gian chờ đợi để sắm sửa cho đủ dầu. Chính sự chểnh mảng không đem dầu theo đã khiến các cô bị loại trừ, không còn là người trong tiệc cưới với chàng rễ nữa. Những ai không sống đạo tốt và không lo cho phần rỗi đời sau của mình thì cũng vậy.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong đợi chờ, cho đến giờ chết của chúng ta. Nhưng chúng ta không đợi chờ cách thụ động mà phải tranh thủ lập công, đền tội, luôn trung thành với ơn nghĩa Chúa. Đến lúc chết mới sám hối thì không còn kịp nữa! Khi cửa đã đóng lại thì muôn đời không vào được nữa, những lời van xin trong giờ phán xét là không còn giá trị và Chúa sẽ không đón nhận.
Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến, vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức, trung thành sống trong ơn nghĩa Chúa và tin tưởng phó thác vào sự quan phòng và tình thương của Chúa.

61. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm Chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa Chúa nhật hôm nay là cuộc gặp gỡ của mỗi người với Chúa. Không ai trong chúng ta biết được ngày giờ Chúa gọi mình ra khỏi cuộc đời này, vậy, điều khôn ngoan nhất là phải luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, trong đó tác giả minh họa Đức Khôn Ngoan qua những phẩm tính thần linh. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người ra sức tìm kiếm và khao khát được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh Phao-lô khẳng định rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả, một người Do thái gắn bó với niềm tin của cha ông, sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, một nền văn hóa đề cao sự khôn ngoan và sản sinh nhiều trường phái triết học.
Lý do tác giả viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn hóa Hy-lạp rực rỡ đồng hóa. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống Minh Triết Do thái, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca. Trên bình diện thần học, sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm (ch. 6-10), ca ngợi Đức Khôn Ngoan. Trong phần trích dẫn này, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị qua bốn phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
1. Đức Khôn Ngoan hiện thân Thiên Chúa (6: 12)
Trong câu đầu tiên của đoạn trích hôm nay, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua hình ảnh ánh sáng vĩnh cửu: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, Ngôi Lời Thiên Chúa cũng được minh họa qua hình ảnh như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan
thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc gặp gỡ mình:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1: 18).
2. Đức Khôn Ngoan đi bước trước (6: 13-14)
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan tự tìm đến và tỏ mình ra cho người ấy:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, “ngồi ngay trước cửa nhà”. Một hình ảnh gợi lên những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (6: 14).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan cũng mô tả Ngôi Lời đi bước trước như vậy:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người
là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
3. Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện sự hiểu biết (6: 15)
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn khỏi con người:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo.
Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
4. Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai yêu mến mình (6: 16)
Mục đích của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm những ai yêu mến mình để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan,
thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan mô tả Ngôi Lời cũng tương tự như vậy:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 11-12).
Nói tóm lại, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua những phẩm tính thần linh như trên là hình bóng của “Ngôi Lời nhập thể”. Chính Đức Giê-su cất tiếng kêu mời con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài, đón nhận Lời Ngài, nội tâm hóa Lời Ngài để Lời Ngài trở thành nguồn mạch phun trào sự sống đời đời trong lòng mình. Với ai yêu mến Ngài, Ngài sẽ tỏ mình ra cho người ấy biết chân tính thần linh của Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Những người Ki-tô hữu tiên khởi tin rằng ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào lời quả quyết của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34). Ngoài ra, vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người Ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nóng chờ đợi này. Chúng ta có thể cảm nhận tâm trạng đầy xao xuyến của những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca khi họ nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời trước ngày Chúa quang lâm: làm thế nào những người này có thể được Ngài dẫn vào Nước Trời? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc cho họ nhớ rằng niềm tin của họ đặt nền tảng trên cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu dựa vào niềm xác tín rằng được nên một với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ được chung phần vào cùng một vận mệnh với Ngài.
1. Không ai được mất niềm hy vọng
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”: Chắc hẳn nhiều lương dân được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như linh hồn bất tử của người Hy-lạp hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín như vậy hay không? Họ có dự kiến về sự phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”: Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô không nhắm đến một lời chính xác nào đó của Chúa Giê-su, đúng hơn đây là giáo huấn Tin Mừng, dựa trên đó thánh Phao-lô công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
2. Một niềm xác tín không lay chuyển
Kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng kiểu nói này cũng có thể được hiểu một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” đem lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống vào ngày Chúa quang lâm sẽ không được hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những người vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Khi đọc đoạn thư này, đừng quá chú trọng đến cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch bắt đầu với phần Mở và chấm dứt với phần Kết, ở giữa được phân chia thành ba cảnh theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
– Mở (25: 1-4)
Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngũ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5).
Cành 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9).
Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
– Kết (25: 13)
– Mở (25: 1-4):
Phần Mở giới thiệu các nhân vật. Các cô được chọn làm phù dâu để rước cô dâu về nhà chú rể. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm, vì thế các cô phải tự mình tiên liệu những điều cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ đã được giao phó cho mình.
Chắc hẳn Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi đôi điều để diễn tả giáo huấn của riêng Ngài. Theo tập tục lễ cưới của người Do thái, chàng rể cùng với đoàn rước đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô, rồi long trọng rước cô dâu về nhà mình, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Ở đây, Đức Giê-su không đề cập đến cô dâu, vì Ngài có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mà thôi.
Ngay trong phần “Mở” này, Đức Giê-su cung cấp cho thính giả của Ngài chìa khóa để hiểu câu chuyện. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là “khờ dại” vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là “khôn ngoan” vì biết tiên liệu: không chỉ mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
– Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngủ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5):
Khi màn sân khấu được kéo lên, khung cảnh vắng lặng, không một tiếng động, các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Sự kiện các cô ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đến trễ hơn dự kiến. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là sau khi đã chuẩn bị mọi việc cách chu đáo, dự phòng những điều bất ngờ có thể xảy ra, các cô có quyền nghỉ ngơi.
– Cảnh 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vở diễn. Có tiếng la vang lên giữa đêm vắng: “Chàng rể kia rồi, ra đón đi!”. Khung cảnh vắng lặng bổng nhiên chuyển động dồn dập đem lại kịch tính cho vỡ diễn. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, lời loan báo bất ngờ vang lên đánh thức mười cô trinh nữ. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ được tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới.
Khi thấy đèn mình hết dầu, các cô khờ dại năn nỉ năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình. Thật kỳ lạ, năm cô khôn ngoan, mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu, lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Đây không phải là chuyện dầu đèn bình thường. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Vì thế, để nuôi dưỡng ngọn đèn đặc biệt này, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến của mình với người khác. Khi từ chối, các cô khôn ngoan chỉ nêu lên hậu quả do thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình.
– Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan với đèn cháy sáng trong tay tháp tùng chàng rể vào dự tiệc cưới. Cửa phòng tiệc đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến khẩn khoan van xin: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, nhưng chàng rể đáp lại: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Cuộc đối thoại ngắn này cho thấy sự thiếu sót lúc đầu tưởng rằng đây chỉ là một lỗi sơ xuất vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể. Bài học được rút ra: đừng ai nghĩ rằng hễ đã được chọn vào đoàn rước là đảm bảo cho mình được tham dự tiệc cưới. Các cô khờ dại, vì sự chểnh mảng không dự phòng dầu để giữ cho đèn cháy sáng, đã bị loại ra khỏi tiệc cưới.
Đến đây dụ ngôn trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” là hình ảnh Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” diễn tả ngày Quang Lâm bị trì hoãn lâu dài, dù các Ki-tô hữu cứ tưởng là gần kề; tham dự tiệc cưới là được dự phần vào hạnh phúc Nước Trời; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác’” (Mt 7: 22-23).
– Kết (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ. Vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây hệ tại ở nơi quyết tâm của người môn đệ là trung tín chu toàn những gì mình đã được giao phó.

62. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:
Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, “diễn từ về thời cánh chung”. Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: “khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.
Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): “Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: “thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng”, Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.
Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: “nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Và kết luận: “Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”. Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!
Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:
Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.
Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
Hồi l: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ “được mời dự tiệc cưới”. Cầm đèn “ra đi đón chú rể”. Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô “thiếp đi rồi ngủ cả”.
Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình “nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi”. Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi nào là “biết phòng xa”, “thận trọng”, “khôn”. Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là “khôn” những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này “vừa mang đèn, vừa mang dầu theo”. Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là “dại”. Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là “dại” kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ?
Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: “Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi’ với!, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: “Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa… Bấy giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).
Màn kết: với lời khuyên: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”. Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus l’histoire vraie”, Centurion, trang 383).
2. Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước “giờ” chú rể đến, “ngày” Chúa trở lại. Cl Tassin nhận xét: “Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa”. Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ “nhận ra” thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là “người khôn”, theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp: “Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày” (“L’evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong “Le Règne des cieux s’est approché, Desclee de Brouwer, trang 335- 336).
“Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ” (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo… Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!”. Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: “Kìa chú rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì… “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào…” Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (25,40).
2. “Con ve và con kiến” (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự “khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa… và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi”.

63. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Trình thuật này phải chăng chỉ là một dụ ngôn thuần túy? Hay là một dụ ngôn với nhiều nét ẩn dụ (các nét nào và chúng chỉ cái gì)? hay là một ẩn dụ (nếu thế thì dầu, đèn, con số mười trinh nữ chỉ cái gì)?
2. Các hình dung từ khờ – khôn có xuất hiện nơi nào trong Tin Mừng Mt nữa không?
3. Lời răn bảo hãy tỉnh thức (c.13) có mâu thuẫn với sự kiện mười trinh nữ đều ngủ thiếp đi, ngay cả năm cô khôn ngoan không?
1. Thay vì nói mười trinh nữ, có lẽ nên nói là mười cô thiếu nữ, bạn gái của cô dâu, “các cô phù dâu”. Chữ Hy lạp được dùng quả thực có nghĩa là trinh nữ, nhưng ở đây nó chỉ nhằm diễn tả một thiếu nữ chưa chồng, chứ chẳng phải là một nữ tu đã tận hiến, như ta có thể hiểu. Dụ ngôn cảm hứng từ các hôn lễ tại Palestine thời Chúa Giêsu. Các dữ kiện lịch sử ta có về đề tài này rất muộn màng và khác biệt nhau. Mt không cho ta biết nhiều về phong tục đó và chỉ nêu lên những gì ông cần để xây dựng dụ ngôn của ông: một đám rước hôn lễ Đám rước đi đón chàng rể đang đến tìm cô dâu tại nhà cha mẹ cô ta, hay đang dẫn nàng về nhà riêng mình: ở đây không xác định công việc xảy ra lúc nào trong nghi lễ. Thật lạ lùng khi người ta chẳng hề nhắc đến cô dâu (ít là trong các thủ bản đáng tin cậy nhất); có thể cắt nghĩa là vì, trong đám rước, chỉ chàng rể mới đóng vai trò quan trọng xét theo ý nghĩa giáo thuyết của trình thuật. Một vài nhà chú giải đã nêu lên tính cách giả tạo và không có vẻ thực của nhiều nét trong dụ ngôn: đám rước khởi hành quá khuya, việc tiếp đón chàng rể với đèn đuốc, việc chàng rể nửa đêm mới đến và việc chờ đợi lâu giờ làm các thiếu nữ thiếp đi. Thực ra, như nhiều tác giả khác nhận xét (vd Jeremias), hình như các chi tiết đó phù hợp với các tập tục được xác nhận trong văn chương giáo sĩ và dân ca Palestine. Đặc biệt, việc chàng rể đến chậm có thể hiểu được như là do cuộc mặc cả vào phút chót về các điều kiện trong khế ước hôn nhân và về các sính lễ phải dâng cho nhà gái.
Dù các nét đó có vay mượn từ một đám cưới thực sự hay không, thì hình như chắc là, theo sự soạn thảo của Mt, chàng rể tượng trưng cho Chúa Kitô, y như ông chủ trong dụ ngôn nén vàng và vị vua trong cuộc phán xét cùng tận. Quả thế, trong văn bản dụ ngôn tiệc cưới của ông, Mt so sánh Nước Trời với vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử (22, 2), một ám chỉ rõ ràng đến Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong lúc nơi Lc (14, 16- 24), chỉ là vấn đề người kia dọn một tiệc cưới lớn đãi khách. Mười thiếu nữ tượng trưng cho cộng đoàn Kitô hữu chờ ngày Chủ quang lâm (hình ảnh biểu trưng này phải hiểu như vậy, chiếu theo văn mạch chung của tất cả phần, ch. 24-25). Trái lại, không thể gán một nghĩa biểu trưng đặc biệt nào cho dầu, đèn (vì trong trình thuật, các chi tiết đó hoàn toàn có vẻ thực và tự nhiên; hơn nữa, chúng chẳng gợi lên một âm hưởng Cựu ước nào đặc biệt). Đèn được nói ở đây là những đèn bằng đất nung hay những cây đuốc bằng gỗ rỗng có tim nhúng trong dầu. Thành thử đó chỉ là những dụng cụ cần thiết để chiếu sáng đám rước chàng rể cho đàng hoàng long trọng.
2. Dịch đúng hai hình dung từ diễn tả thái độ của hai nhóm thiếu nữ: môros và phronimos không phải là chuyện dễ. Tuy nhiên người ta vẫn biết đức tính hay khuyết điểm của họ hệ tại chỗ nào: các cô này thì nghĩ đến việc đem dầu dự trữ, các cô nọ thì không. Lối dịch khá phổ biến: trinh nữ khôn ngoan và trinh nữ điên dại xem ra quá mập mờ. Chữ “điên” lại không đúng hơn vì có một âm hưởng bệnh lý; tốt hơn nên nói là năm cô trong bọn thì khờ khạo, chẳng biết phòng xa. Nơi Mt, cùng một tĩnh từ moros ấy chỉ con người xây nhà mình trên cát, nghĩa là chỉ kẻ nghe lời Chúa Giêsu mà không đem ra thực hành. Sự chểnh mảng và bất tiên liệu của y đã làm nhà y phải sụp đổ (7, 26-27). Rồi, trong lời châm biếm Biệt phái, Chúa Giêsu cũng đã gọi họ là khờ dại (môroi) và mù quáng (23, 17) vì do thói phân tích tỉ mỉ, họ đã đi đến chỗ đảo lộn bậc thang giá trị đích thực. Thành thử hình dung từ xấu nghĩa được dùng khi nói về năm thiếu nữ đầu tiên bao hàm một sự suy biến hay thiếu phán đoán nặng nề, một thứ vô ý thức đương nhiên ảnh hưởng đến thái độ sống và gây nên nhiều hậu quả tai hại.
Nhưng năm cô kia thì khôn ngoan. Mt cũng dùng lại các tĩnh từ đã sử dụng để nói về người xây nhà trên đá, kẻ biết nghe và đem lời Đức Giêsu ra thực hành (7, 24). Chữ này cũng gặp thấy trong lời Chúa Giêsu khuyên nhủ môn đồ: “Hãy ở khôn (phronimoi) như con rắn và chân thực như chim câu” (10, 16) và ở chỗ nói về người tôi tớ trung trực cùng khôn ngoan (phronimos) chủ đã đặt trên gia nhân ông để phân phát lương thực cho phải thời (24, 45). Thành thử ta không được coi đây như là một sự khôn khéo tránh thoát chuyện khó khăn hay lợi dụng thời cơ tốt, nhưng là một sự khôn ngoan đích thực trong cuộc sống, một óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại kèm theo một ý chí cương quyết hành động. Trong dụ ngôn người gieo giống, Chúa Giêsu cũng minh định cùng một sự kiện và cùng một yêu sách khi Người nói: “Thuộc hạng gieo vào đất tốt là kẻ nghe Lời và hiểu, kẻ ấy sinh hoa kết quả và làm ra có hạt thì một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi” (13, 23). Việc thấu hiểu mà Chúa Giêsu nói còn đi xa hơn sự tán đồng của lý trí, nó giả thiết một sự thấm nhập hoàn toàn Lời Chúa và tạo nên trong ta một kết quả hữu hiệu.
Hãy lưu ý: Lúc khởi hành, hai hạng thiếu nữ đều thuộc về đám rước đi đón hôn phu, cái đám rước tượng trưng cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu; thế mà năm cô trong họ, nghĩa là phân nửa, là những kẻ dại khờ, điều này làm nên cho các Kitô hữu một lời cảnh giác nghiêm trọng: không phải hễ được gọi gia nhập cộng đoàn là đương nhiên có các đức tính cần thiết.
3. Cho dù việc chàng rể đến chậm có thể giải thích dựa vào dân ca Palestine, vẫn rõ ràng là ở đây sự kiện đó muốn nói tới việc Chúa Kitô hoãn lại ngày quang lâm mà các Kitô hữu đầu tiên tưởng là sắp đến. Chờ đợi lâu dài, phải chăng sẽ kéo theo một sự buông lơi lòng nhiệt thành và tỉnh thức? Đúng! Và mối nguy là có người sẽ lợi dụng sự trì hoãn như vậy: đó là thái độ bị tố cáo nơi tên đầy tớ gian ác nghĩ thầm trong lòng: “Chủ ta về trễ”, và tra tay đánh đập bạn bè cùng ăn uống với lũ say sưa.
Theo Mt, thời gian này sẽ kéo dài lâu lắm. Thật là ý nghĩa khi trong dụ ngôn nén vàng của ông, người chủ đã ủy thác của cải cho các đầy tớ mình cũng chỉ trở về sau một thời gian đằng đẵng (25, 19 ; điểm này không có trong dụ ngôn song song về các yến bạc của Lc 19, 15). Các môn đồ chân chính phải biết lợi dụng sự trì hoãn của ngày Quang lâm để sinh lời các nén vàng đã nhận được và nhờ đấy minh chứng lòng trung thành của mình đối với Chúa Kitô. Nhưng vì hình như chủ sẽ trở về trễ nên phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng đón tiếp ông bằng cách ra sức hoạt động cho Nước Trời hơn là cứ ngồi canh gác chẳng hạn như ông chủ nhà trong Mt 24, 43-44; Lc 12, 39-40. Sự tỉnh thức không còn giới hạn ở việc đợi chờ cách thụ động hoặc chỉ có tính cách “phòng vệ” nữa, mà đòi buộc một sự vâng lời cụ thể thánh ý Chúa Kitô.
Theo nhãn giới đó, thì giấc ngủ của mười thiếu nữ chẳng có gì đáng trách. Cả năm cô khôn ngoan cũng ngủ, và ngủ một cách ngon lành vì đã tiên liệu và dự trữ đầy đủ dầu đèn. Cũng vậy, người khôn xây nhà trên đá có thể bình thản đứng nhìn mưa đổ, gió ùa vào nhà mình, vì đã làm mọi thứ cần thiết để ngôi nhà được vững chắc (7, 24- 25).
4. Việc chàng rể đến giữa khuya rõ ràng phản ảnh niềm tin vào việc Chúa Kitô sẽ trở lại vào lúc không ai ngờ (Mt 24, 44; Lc 12, 40). Niềm tin này, ta gặp nhiều lần trong Tân ước (Mt 24, 50; Lc 12, 46 ; Mc 13, 33- 37 ; Lc 12, 20 ; 1Tx 5, 2). Dù đã được chờ đợi, Chúa Kitô vẫn luôn đến cách bất chợt, thình lình trong dụ ngôn ta đang nghiên cứu, giờ chàng rể đến tuyệt đối không thể biết trước được; sự chậm trễ quá độ của ông đã khiến mọi phỏng đoán ra vô ích, và giấc ngủ xâm chiếm cả đoàn kiệu đã làm cho đoạn kết càng thêm tàn nhẫn và không thể nào tránh. Tiếng kêu thình lình xé toang màn đêm khiến cảnh trở nên bi thảm. Vì thường thường, lúc chàng rể đến là có tiếng đàn hát xướng ca của đám rước báo hiệu. Người ta nghe ông đến từ xa và ông dần dần tiến lại, chẳng có một chút bất ngờ nào. Ở đây, tiếng kêu đánh thức đột ngột các cô đang ngủ mê mệt, nên không phải là lời báo tin mà là một dấu hiệu cho thấy đã trễ rồi, chẳng còn làm gì được nữa (24,45). Không còn có phép nghi ngờ, không còn một giây phút nào được mất: chàng rể đã đứng đó, các cô phải lập tức sửa soạn đèn đuốc sẵn sàng (c.7). Chỉ một phút là đủ cho các cô khôn ngoan. Sự bất ngờ không làm họ khó chịu: dù ngủ, họ cũng đã sẵn sàng đón chủ đến; được trữ đầy dầu, đèn họ vẫn sáng luôn luôn (xem thêm Lc 12, 35-38). Óc tiên liệu của họ giờ đây mang lại kết quả.
5. Các cô khờ trái lại thật vô cùng lúng túng: đèn họ tắt rụi (c.8). Họ phải trả giá thói chểnh mảng của mình, thế nhưng họ vẫn còn tìm lối thoát bằng cách lợi dụng tính tiên liệu của những kẻ khác: “Xin cho chúng em chút dầu của các chị”. Các cô khôn trả lời: “E không đủ cho cả chúng em và các chị đâu; chi bằng các chị hãy ra hàng buôn mà mua lấy” (c. 9).
Không được xem các cô này thiếu lòng tốt đối với bè bạn. Câu trả lời của họ có nghĩa là, vào phút chót, chẳng còn phương thế nào để bù trừ cho những thiếu sót của mình bằng cách chạy đến những kẻ khác và cố gắng lợi dụng cái họ có. Rõ ràng là quá trễ. Vào giờ Phán xét, con người sẽ không còn có thể giúp nhau dù những việc lặt vặt. Các toan tính hay các biện pháp tạm thời nghĩ ra bấy giờ để che đậy sự thất bại của mình hóa nên vô ích, các lời bào chữa bịa ra không thay đổi gì hoàn cảnh, những quyết định tốt đẹp nhất cũng hoàn toàn và mãi mãi vô giá trị. Và đây các cô ngu ngốc phải chạy đi mua dầu. Dĩ nhiên, chàng rể đến vào thính lúc đó. “Những kẻ sẵn sàng thì theo vị lang quân vào tiệc, và cửa đóng lại” (c.10).
6. Nơi đoạn kết, trình thuật hoàn toàn rời xa một cảnh đám cưới ở Palestine. Trong bầu khí lễ lạc vui vẻ ấy, có lẽ người ta sẽ không để ý đèn của một vài cô tùy tùng bị tắt rụi và cũng chẳng khiển trách họ gì. Cửa cũng không đóng đẻ những kẻ đến trễ bất cứ lúc nào cũng có thể vào được. Và vì bận tiệc tùng vui vẻ, chàng rể cũng sẽ chẳng phật ý về những chuyện tầm phào như vậy đâu. Nhưng trong, ở dụ ngôn chúng ta mà câu kết luận rõ ràng gợi lên cuộc phán xét sau cùng, sự việc không phải thế.
Lời nài nỉ của các cô: “Lạy Ngài, lạy Ngài, xin mở cho chúng tôi với”, phải được liên kết với một đoạn của Diễn từ trên núi trong đó Chúa Giêsu bảo: không phải mọi kẻ nói với Ta: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là sẽ vào được Nước Trời. Trong ngày ấy, nhiều kẻ sẽ nói với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa, há chúng tôi đã không nhân danh Ngài mà nói tiên tri, nhân danh Ngài mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Ta sẽ tuyên bố với chúng rằng: Ta không hề biết các ngươi; hãy xéo đi xa Ta, hết thảy phường tác quái” (Mt 7, 21-23). Thành thử lời nài nỉ của năm cô đến trễ hoàn toàn vô vọng. Trong dụ ngôn tiệc cưới lời mời vào tham dự không bảo đảm khỏi bị đuổi ra ngoài vì chẳng mặc áo cưới (22, 12-13); ở đây cũng vậy, việc được chọn đi vào đoàn rước chàng rể không bảo đảm cho các cô khờ quên dự trữ dầu quyền được vào phòng tiệc.
Biến thành người giữ cửa sắt đá, chàng rể quả quyết mình không biết các cô và chẳng muốn liên hệ gì với họ. Sự chểnh mảng của họ đã khiến họ bị loại trừ, không còn là người của ông gia đình ông (12, 49- 50), không còn gì chờ đợi ở ông nữa. Trong cả phần cuối cùng này (Mt 25, 10c- 13), nhân vật hôn phu trong dụ ngôn đã gần như hoàn toàn biến mất để nhường chỗ cho Chúa Kitô. Dụ ngôn trở thành ẩn dụ. Thật thế, Đấng mà người ta kêu cầu với tước hiệu của Chúa Kitô Phục sinh: lạy Chúa, lạy Chúa (Kurie eleison), Đấng tuyên ra lời phán quyết : “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không biết các ngươi”, chẳng còn tương ứng với nhân vật trong dụ ngôn nữa, có chàng rể nào mà lại nói thế trong ngày hôn lễ của mình ! – Đó chính là Chúa Giêsu Kitô uy nghi công bố lời phán xét tối hậu! án quyết có thể xem ra nghiêm khắc, nhưng chẳng qua chỉ là phê chuẩn sự lựa chọn hữu trách của con người và rút ra các hậu quả của việc lựa chọn đó mà thôi. Dụ ngôn là dấu chỉ của cuộc phán xét không do Thiên Chúa thi hành trước tiên, nhưng do con người thực hiện trong bản thân bằng chính thái độ sống của mình: các kẻ khờ khạo tự loại bỏ chính mình vậy.
7. Câu châm ngôn cuối cùng “Vậy các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” một lần nữa tái khẳng định ý nghĩa của đoạn văn. Câu đó đã nằm ở phần đầu dụ ngôn chủ nhà (24,42) nhưng dưới một dạng thức hơi khác chút xíu. Ở đây, thoạt nhìn qua không mấy ăn hợp với phần còn lại của đoạn văn, vì bản văn không trực tiếp yêu cầu hãy tỉnh thức – các cô khôn ngoan cũng đã ngủ mà – nhưng yêu cầu trữ đèn đầy dầu để sẵn sàng khi Chúa đến. Tuy nhiên đây không phải là một thứ kết luận được chắp vá, có phần giả tạo, vì đối với Mt, sự tỉnh thức chủ yếu hệ tại việc các môn đồ kiên trì quyết định thực hiện trong cụ thể điều mà họ được mời gọi thực hiện. Do đó, đối với họ, sự chờ đợi không phải là một thời gian trống rỗng trong đó lịch sử cứu rỗi chẳng tiến thêm bước nào, mà là một thời gian hăng say chuẩn bị. Tổng động viên không ngừng mọi năng lực của cộng đoàn để làm tăng giá trị đến mức cao nhất lịch sử hiện tại. Niềm xác tín Chúa sẽ đến, cho dù còn lâu, ban cho đời ta ý nghĩa đích thực; một cách nào đó, ta lợi được thời gian của ta, ngày qua ngày, giờ qua giờ, bao lâu ta còn sống trung tín. Ta không được phép tính toán nỗ lực của ta theo kỳ hạn đã ấn định hay thu giảm nó tùy thích vì những mục tiêu giới hạn hơn. Bởi không biết ngày giờ nên ta bị bắt buộc phải luôn sẵn sàng, phải vâng lời đến kỳ cùng và càng lúc càng hơn nữa. Và đời ta sẽ không thiếu dầu miễn là ta luôn tỉnh thức.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ”: Công thức nhập đề này, duy nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ, nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một nghĩa với câu 31: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người… “.
“Đi đón lang quân”: Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
“Các cô thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian cuộc lễ.
“E không đủ cho cả chúng em và các chị”: Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23) và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải “thức dậy” (sống lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành; nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang bình thản tâm hồn.
Ta cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên nhẫn của’ ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
2. Chúa đến, và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ. “Nửa đêm, có tiếng kêu…” như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ. Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một “con đường Đamas” xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
3. Nhưng hăng hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ “bé mọn” quanh ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta. Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.

64. Dự liệu, phó thác và tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. An Phong)
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới. Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.

65. Người khôn kẻ dại
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Tỉnh thức trong tình yêu
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ “đến trễ”, nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự “tỉnh thức”. Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phao-lô: “ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết “lắng nghe và thi hành” những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành “”trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này”” (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguổn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. “”Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô.”” (Ga 17,3)
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.”
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khỗ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: “vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn,
ngọn đèn tạo ánh sáng,
kho báu trong ngăn tủ,
Man-na trong Hòm Bia.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con. H. Suso.

66. Khôn hay dại
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta đang sống vào những tuần cuối cùng của năm phụng vụ, vì thế các bài Tin Mừng của những Chúa Nhật cuối năm, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay, đều hướng chúng ta về thời gian tận cùng, về cái chết. Khi nào, lúc nào sự kiện đó xảy đến? Không ai biết trước, cho nên, phải khôn ngoan tính toán, để luôn luôn sẵn sàng. Đó là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta qua dụ ngôn mười cô trinh nữ phù dâu cầm đèn đi đón chàng rể.
Trước hết, chúng ta nên biết qua tục lệ của người Do Thái về vấn đề rước dâu. Tục lệ Do Thái thường rước dâu về ban đêm, trước khi rước dâu, hai họ đôi bên đã có những bữa tiệc linh đình khoản đãi bà con họ hàng. Rồi một ngày nào đó, đàng trai chọn một giờ tốt nhất từ sau khi hoàng hôn xuống, để đến rước cô dâu về. Khi đi rước, họ thường chọn con đường xa nhất để đi cho người ta biết mặt cô dâu, chú rể, và người ta có thể chúc mừng đôi tân hôn ngay trên đường đi. Nhóm phù rể mang đuốc soi đường, nhóm phù dâu cầm đèn soi mặt đôi tân hôn cho thêm lộng lẫy. Có khi có ban nhạc đi theo giúp vui ca hát lôi kéo sự chú ý của nhiều người. Tới nhà trai, mọi người vào dự tiệc cưới.
Trong dụ ngôn hôm nay, đặc biệt nhấn mạnh đến những cô phù dâu, đó là mười cô trinh nữ, đang cùng với cô dâu chờ nhà trai đến rước dâu về. Có năm cô khôn và năm cô dại. Chúng ta nên nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn mà thôi, chứ làm gì lại có những cô phù dâu khờ dại đến thế: quần áo chỉnh tề và trang sức lộng lẫy, mà lại quên đổ dầu vào đèn, nhất là đang lúc vui vẻ như vậy mà lại ngủ mệt làm sao được? và giả như không có dầu thì đi chung dưới ánh sáng của những cô bạn khác, chứ ai lại khờ đến nỗi lúc đó còn đi mua dầu?
Cũng thế, làm gì có chuyện nhà trai chậm trễ đến nỗi mãi nửa đêm mới tới? Và khi tới chẳng lẽ không có tiếng kèn, tiếng hát, tiếng nói chuyện để làm cho nhà gái biết đã đến hay sao mà lại phải có tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón”, rồi khi đã vào phòng tiệc, cần gì phải đóng cửa, và chú rể tỏ ra quá khắc nghiệt đối với các cô phù dâu đi mua dầu đến trễ? Xin nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn, chứ không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào như thế. Dụ ngôn dựa vào tục lệ cưới xin để diễn tả một chân lý hay để dạy một điều gì đó.
Thực vậy, ở đây Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thụôc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy một bài học là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể, nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại. Ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày tận số, ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên, đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Nói rõ hơn, Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người đều có hai kiếp phải sống và được sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết một lần, đó là điều tất nhiên, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra một lần. Sự chết đến với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày giờ chết, còn hầu hết đều không hay biết gì cả. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn sẵn sàng, và do đó cố gắng sống tốt lành, thánh thiện.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? năm cô phù dâu bị gọi là dại, vì đã không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, nghĩa là ơn cứu độ của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng, sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời, sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, mình khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời ”, chẳng hạn trong vụ hỏa hoạn thảm khốc tại trung tâm thương mại quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng mười, hơn 50 người đã thiệt mạng, những người ấy có biết hôm ấy là ngày cuối cùng của mình không? Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng định được tuổi nao mình sẽ từ biệt cõi đời, đó là quyền phép trong tay Chúa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta hãy nhớ: đời sống hiện nay, tuy là tạm bợ, nhưng sẽ quyết định đời sống mai sau của chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để đem lại cho mình hạnh phúc ở đời này và cả hạnh phúc đời sau. “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Được bao nhiêu người khôn biết tìm về quê thật để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu? Đồng thời cũng biết bao người dại đến nỗi phải sa hỏa ngục trầm luân muôn đời? Khôn hay dại là tùy mỗi người chúng ta.

67. Sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu “Sau sáu…”nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.

68. Hãy tỉnh thức và chờ đợi
(Suy niệm của Phêrô Mai Viết Độ, OP)
Một cách thế, Chúa Giêsu thường dùng để giảng dạy dân chúng là dùng các dụ ngôn. Những hình ảnh rất đỗi quen thuộc và gần gũi với họ để nói về nước trời hoặc thời cánh chung. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng hình ảnh các trinh nữ sẵn sàng đón rước Tân lang, để nói với chúng ta đang hiện diện nơi trần thế cũng là thời điểm sẵn sàng để đón Chúa, và ngày ấy không ai biết ngoài Thiên Chúa. Vì thế: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12, 40)
Khi mặc lấy thân phận con người, Chúa Giêsu đã thấy rõ những yếu đuối, bất toàn của nhân thế. Vì vậy Chúa đã có những lời khuyên nhủ, dạy dỗ, hầu mong con người được nên trọn lành. Hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười trinh nữ để cảnh giác con người: “vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”, (Mt 25, 13). Chấp nhận làm người là chấp nhận bản tình yếu đuối, bất toàn, chưa hoàn thiện nghĩa là còn nhiều thiếu xót. Sống trên đời, con người phải chiến đấu không những mưu mô của ma quỉ, cám dỗ của thế gian mà còn cả với chính bản thân mình. Không vì thế mà ta nản lòng, buông xuôi, chính Chúa Giêsu đã đi qua con đường ấy và Ngài đã chiến thắng khải hoàn. Vậy bước theo chân Chúa chúng ta còn sợ hãi chi.
Chính Chúa Giêsu đã khuyên bảo chúng ta hãy sẵn sàng để đón chờ Ngài trở lại. Chúa Giêsu có ý nhắc nhở ta sửa soạn ngày “con Người sẽ đến”. Chúa nhấn mạnh đến tính cách bất ngờ, Chúa sẽ đến vào lúc chúng ta đang làm việc này, việc nọ, ở ngoài đồng hoặc ở trong nhà, đang làm hay ở bất cứ một nơi nào khác. Cái chết thình lình của những người chung quanh chúng ta là một bằng chứng. Ngài đến với mỗi người và với tất cả mọi người, nhưng Chúa chỉ ban ân phúc vinh quang cho những ai tỉnh thức và tin tưởng nơi Ngài. “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” (Mt 24, 40). Thật vậy, nếu không biết trước ngay giờ Chúa đến thì còn gì hơn là chúng ta hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng trong mỗi phút giây của cuộc sống.
Hãy tỉnh thức đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu qua mọi thời, mọi hoàn cảnh. Tỉnh thức là thái độ luôn giữ tâm hồn trong sạch, biết sống như Đức Kitô đã sống, biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích giao hoà. Trên hết, luôn y thức được mục đích đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh, và con cái Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta mới có thể luôn sẵn sàng và ra đi để đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chia sẻ cơm áo cho những người kém may mắn; nghèo đói, bệnh tật, đó mới là điều Chúa muốn chúng con thực hiện. Qua đó chúng con mới thể hiện được tình lên đới, sự hiệp nhất trong tình bác ái. Hiệp nhất là chúng con biết góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng một gia đình nhân loại, biết yêu thương. Đó mới là tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến sửa lại trong ngoài chúng con, để chúng con xứng đáng đón mừng ngày Chúa đến với mỗi người chúng con. Và xin giữ hồn chúng con luôn tỉnh thức để chúng con nhận biết Chúa đang đến và ở với chúng con, qua những dấu chỉ của cuộc đời này. Amen.

69. Chúa Nhật 32 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
KHÔN NGOAN CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẤT NGỜ
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Đức Giêsu sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét và mở Tiệc cưới Nước Trời. Chỉ những người khôn biết luôn tỉnh thức và trong tư thế sẵn sàng mới được vào dự. Còn những người dại không thực hành tình mến Chúa yêu người, sẽ bị lọai ra bên ngòai. Đức Kitô sẽ đến bất ngờ vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung cả nhân lọai. Do đó, mọi tín hữu cần luôn tỉnh thức và chuẩn bị sẵn dầu đèn là ơn thánh để bất cứ khi nào Chúa đến, họ cũng được vào tham dự bữa tiệc vui với Người
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Mười cô trinh nữ: Trinh nữ là các thiếu nữ chưa chồng. + Cầm đèn của mình ra đón chú rể: Dụ ngôn dựa theo phong tục cưới xin của dân Do thái thời Đức Giêsu. Việc cưới xin thường diễn ra vào ban đêm. Mấy hôm trước ngày cưới, hai bên đàng trai đàng gái đặt tiệc riêng đãi bà con bạn bè của mình. Rồi đến chính ngày cưới, hai họ nhập lại chung để ăn uống tại bên họ nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất trong đêm rước dâu như sau: khoảng 6 giờ chiều bắt đầu ngày mới, chàng rể cùng các phù rể cầm đuốc lên đường đến nhà đàng gái. Khi đó cô dâu và các cô phù dâu sẽ sửa soạn cây đèn để chờ đón họ đàng trai. Khi chàng rể đến đón dâu, đám rước sẽ khởi hành đi về nhà trai và nhập bàn tiệc. Các cô phù dâu phải mang theo bình dầu và cầm đèn cháy sáng đứng chung quanh cô dâu chú rể trong nghi thức khai mạc tiệc cưới. Ở đây Đức Giêsu mượn phong tục lễ rước dâu này để dạy môn đệ “Phải luôn canh thức và sẵn sàng”. Người tự ví mình giống như chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày tận thế để phán xét và mở tiệc cưới Nước Thiên Đàng cho nhân loại. Chỉ những người nào khôn ngoan, thể hiện qua thái độ luôn tỉnh thức và trong tư thế sẵn sàng mới có đủ điều kiện được vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời. Còn những người dại biểu hiệu qua thái độ thiếu chuẩn bị, không sống tình mến Chúa yêu người, sẽ không được vào tham dự bữa tiệc cưới Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng nhấn mạnh việc “Chàng rể Giêsu sẽ đến bất ngờ” trong giờ chết của mỗi người hay vào ngày tận thế chung của nhân loại. Do đó, mọi tín hữu phải luôn canh thức chờ đợi Đức Giêsu sẽ đến lần thứ hai bất cứ vào lúc nào.
– C 3-4: + Năm cô dại: Dại vì không biết tiên liệu nên đã không đem bình dầu theo, hoặc có đem mà không đủ dùng, nên khi chàng rể đến thì đèn đã bị tắt. Thái độ khờ dại thể hiện qua hành vi tắc trách: có nhiệm vụ đi đón chú rể, nhưng lại không quan tâm chuẩn bị dầu cho cây đèn của mình. Đây là những kẻ cố chấp không tin Đức Giêsu hay là những người tuy có đức tin nhưng lại lười biếng cầu nguyện dâng lễ và không thực hành Lời Chúa, nên không đủ điều kiện để được Chúa tiếp nhận vào dự bàn tiệc Nước Trời đời sau. + Năm cô khôn: Khôn vì biết tiên liệu nhìn xa, nên đã mang đền có đủ dầu để chờ đón chàng rể đến vào giữa đêm khuya. Đây là những tín hữu đã xây tòa nhà đức tin trên nền đá vững chắc là nghe và thực hành Lời Chúa (x. Mt 7,24). Họ có nếp sống đạo đức và được dồi dào ân sủng của Chúa, luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cây và đức mến. Họ xứng đáng được Chúa cho vào thiên đàng trong giờ chết của họ và trong ngày tận thế chung của toàn thể nhân lọai.
– C 5-6: + Vì chàng rể đến chậm: Chàng rể là Đức Kitô sẽ đến bất ngờ trong giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế để phán xét chung nhân loại. + Nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả: Thiếp đi và ngủ diễn tả sự “thức lâu chầu mỏi!”. Tuy vậy các cô khôn vẫn có thể ra đón Chúa đến bất ngờ vì luôn mang theo đèn chứa dầu đầy bình. Cũng vậy, những người công chính sẽ luôn có thái độ sẵn sàng do thường xuyên lãnh nhận các phép bí tích và thực hành giới răn mến Chúa yêu người. + Nửa đêm: Là thời gian nối tiếp giữa ngày hôm trước với ngày hôm sau, tượng trưng cho giờ chết là sự chuyển tiếp từ cuộc sống trần gian sang cuộc sống đời sau. Ngòai ra nửa đêm còn là lúc người ta dễ ngủ say và mất cảnh giác nhất. + Kìa chú rể, hãy ra đón đi: Chú rể ám chỉ Chúa Kitô sẽ đến trong giờ chết của mỗi chúng ta hoặc đến với cả nhân loại vào ngày tận thế.
– C 7-9: + Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị: Tới giờ chết các cô dại mới ý thức về sự thiếu dầu trong đèn thì đã quá muộn. + Các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn: Vì trong giờ chết họ sẽ không thể cậy nhờ được người khác giúp đỡ.
– C 10-11: + Chính khi họ đi mua dầu là lúc chú rể đến: Câu này cho thấy: Đừng đợi tới giờ chết mới sám hối thì đã trễ. Chúng ta cần ý thức và luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa ngay lúc còn đang sống. + Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới: Những người luôn kết hiệp với Chúa sẽ có thể ra đón Đức Kitô đến vào bất cứ khi nào. + Và cửa đóng lại: Giờ chết là lúc chấm dứt số phận mỗi người. Những ai được vào dự tiệc cưới sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời. Còn những kẻ đang từ chối gia nhập Hội thánh sẽ không được hưởng ơn cứu độ. + Thưa Ngài xin mở cửa cho chúng tôi: Lời cầu xin này nhắc lại lời Đức Giêsu: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa! Là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Cũng như trong dụ ngôn “Tiệc cưới”, Những ai cố tình chống lại Thiên Chúa, hoặc không tin và không chịu sống giới răn yêu thương sẽ bị loại khỏi thiên đàng đời sau (x. Mt 22,13).
– C 12: + Tôi không biết các cô: Giờ chết là giờ phán xét công thẳng và những ai cố tình không tin sẽ không thể được hưởng ơn tha thứ nữa. + Vậy anh em hãy canh thức: Đây là chủ đích của Đức Giêsu khi dạy dụ ngôn này. + Vì anh em không biết ngày nào, giờ nào: Không biết giờ Chúa sẽ kêu gọi là giờ chết. Chính thái độ tỉnh thức sẵn sàng sẽ giúp người ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa và quyết tâm làm các việc lành.
CÂU HỎI:
1) Hãy cho biết phong tục lễ rước dâu của người Do thái diễn ra thế nào? 2) Mười cô trinh nữ được phân thành hai lọai khôn dại là do đâu? 3) Chi tiết các cô trinh nữ không được vào dự tiệc cưới Nước Trời nhằm dạy chúng ta bài học gì về đức tin?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13).
2. CÂU CHUYỆN: Đón Chúa đến thăm
Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy từ sáng sớm. Sau khi dọn dẹp cửa hàng ngăn nắp, bác vào phòng khách ngồi đợi đón vị khách quý là Chúa Giêsu, mà đêm hôm ấy bác đã nằm mơ gặp mặt Người và Người hứa sẽ ghé nhà thăm bác vào lúc ban ngày. Đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp. Bác thợ giày vui sướng vì không ngờ Chúa lại đến thăm bác vào lúc sáng sớm. Nhưng khi cửa mở thì người đứng ngòai không phải là Chúa Giêsu, mà là ông lão phát thư quen thuộc. Mặt ông ta bị tím tái do thời tiết ngoài trời băng giá. Bác liền mở rộng cửa đón ông vào ngồi bên lò sưởi ấm áp. Rồi bác đi pha bình trà nóng mời khách. Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày lại ngồi chờ. Nhìn qua khung kính cửa sổ, bác thấy một bé gái đang đứng khóc ngoài hiên. Bác ra mở cửa đón em vào nhà hỏi chuyện. Em cho biết đã đi vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi khô về nấu nước xông giải cảm cho mẹ em. Do trời mưa tuyết trắng xóa khiến em bị lạc không tìm ra đường về nhà. Nghe vậy, bác thợ giày vội viết vài chữ dán ngòai cửa thông báo cho vị khách quý là Chúa Giêsu biết mình sẽ vắng nhà đến chiều, để đưa cô bé về nhà của cô. Khi tìm thấy ngôi nhà của em và thấy mẹ em đang bị sốt run rẩy nằm trên giường, bác vội đi mời ông bác sĩ gần đó đến thăm bệnh và cho toa, rồi bác đi mua thuốc mang về cho người bệnh uống. Khi bệnh nhân đã hồi phục sức khỏe bác mới vội về nhà thì trời đã khuya. Bác thợ đóng giầy chẳng còn thiết gì đến ăn uống, nằm vật ra giường nhắm mắt ngủ say như chết. Trong giấc ngủ, một lần nữa bác lại nằm mơ gặp được Chúa Giêsu. Người vui vẻ nói với bác: “Ta cám ơn con hôm nay đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm khi Ta đang lạnh cóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà, đã chăm sóc giúp ta đang đau được sớm bình phục. Vì mỗi khi con phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, là con đã phục vụ cho chính Ta đó” (x. Mt 25,40-42).
3. SUY NIỆM:
1) Cần khôn ngoan chuẩn bị đón chàng rể đến bất ngờ:
Dụ ngôn diễn tả khung cảnh một cuộc rước cô dâu về nhà chồng. Chú rể bắt đầu rời nhà vào lúc chập tối để đến nhà cô dâu. Khi đến nơi thì đã khuya, có mười cô trinh nữ cầm đèn cùng cô dâu ra đón chú rể. Rồi bỗng nhiên năm chiếc đèn của năm cô khờ tự nhiên bị tắt ngúm vì hết dầu. Bấy giờ chỉ còn năm cô khôn các cô dại nên các cô dại phải đi mua thì đã trễ. Khi các cô trở về đã bị chú rể từ chối tiếp nhận. Dụ ngôn ám chỉ Đức Giêsu ví như chàng rể sẽ bất ngờ đến với mỗi người chúng ta vào giờ chết. Để được tham dự vào bàn tiệc cưới là thiên đàng đời sau, chúng ta cần luôn tỉnh thức giống như năm cô trinh nữ khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn chứa dầu đầy bình. Phải tránh thái độ như năm cô trinh nữ khờ dại mang đèn mà không chuẩn bị có dầu sắn trong đèn. Số phận của hạng người này là sẽ bị Vua Thẩm Phán Giêsu từ chối: “Tôi bảo thật các cô: Tôi không biết các cô!”.
2) Bài học về sự khôn ngoan:
– Cần thực hành Lời Chúa: Nếu người tín hữu chỉ tuyên xưng đức Tin thì chưa đủ, nhưng cây đèn đức tin phải chứa đầy dầu ân sủng là đức Cậy, để có thể tỏa chiếu ánh sáng đức mến qua các việc lành thực thi Lời Chúa. Chúa sẽ đến bất ngờ với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta phải luôn tỉnh thức nhờ việc năng đọc và suy niệm Lời Chúa, để nhận ra ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51b).
– “Hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào!”: Canh thức không phải là không ngủ. Trong dụ ngôn hôm nay, tất cả các cô trinh nữ đều đã ngủ. Thế nhưng các cô khôn ngoan vẫn có thể sẵn sàng ra đón chàng rể đến bất ngờ nhờ biết canh thức. Qua đó Chúa muốn dạy chúng ta: Phàm làm bất cứ việc gì, nếu muốn thành công cũng cần phải biết tiên liệu, nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng để kịp thời ứng phó với mọi hoàn cảnh bất ngờ. Một học sinh muốn thi đậu phải biết chăm chỉ học hành ngay từ đầu năm học. Một doanh nhân muốn làm ăn phát đạt cần có tầm nhìn xa để chuẩn bị trước các yếu tố cần cho việc kinh doanh, hầu kịp thời nắm bắt cơ hội làm ăn. Bác nông dân muốn có một mùa gặt bội thu cũng phải chuẩn bị trước giống lúa tốt ngay từ vụ mùa trước… Nói chung, trong bất cứ ngành nghề nào, nếu không biết tiên liệu thì sẽ khó đạt được thành công. Riêng về sự sống đời sau, chúng ta cần ý thức về cái chết và chuẩn đón Chúa đến bằng viếc xét mình sám hối trước khi đi ngủ. Nỗi ngày ngay từ khi thức dậy cần tập thành thói quen dâng ngày mới cho Chúa. Rồi trong ngày năng dâng lên Chúa những lời nguyện tắt kèm theo một việc làm cụ thể để chu toàn các bổn phận đối với bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội.
– Cần chuẩn bị loại dầu nào cho đèn đức tin của mình? Lời Chúa hôm nay cho ta biết điều cần thiết để được hưởng hạnh phúc đời đời là thực hành mến Chúa yêu người, yêu người cụ thể từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm. Vì chúng ta không thể sống trong «Thiên Chúa là Tình Yêu» (1 Ga 4,8.16), nếu chúng ta không có tình yêu của Thiên Chúa trong tâm hồn. Tông đồ Phao-lô đã dạy các tín hữu điều cần để được vào Nước Trời đời sau là phải sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mên. Trong ba nhân đức ấy, đức Mến là cao trọng nhất (x. 1 Cr 13,13).
4. THẢO LUẬN: 1) Dầu chúng ta cần chuẩn bị cho cây đèn đức tin là gì? Ánh sáng phát ra từ cây đèn đức tin là lọai ánh sáng nào? 2) Hôm nay tôi phải làm gì để chứng tỏ mình là người khôn luôn chuẩn bị để sẵn sàng chờ đón Chúa đến bất cứ lúc nào?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Nếu ngày mai Chúa đến gọi con về thì chắc con sẽ vô cùng lúng túng. Con lúng túng vì đến giờ này con vẫn chưa chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng được Chúa trao qua phép rửa tội và thêm sức! Cây đèn đức tin của con hiện vẫn đang thiếu dầu ân sủng, nên chưa thể chiếu tỏa ánh sáng tình thương của Chúa, chưa chiếu soi cho anh em lương dân nhận biết ánh sáng Tin mừng để giúp họ nhận biết tin thờ và yêu mến Chúa.
– Lạy Chúa. Xin cho con mỗi tối quyết tâm dành ra ít phút để kiểm điểm cây đèn đức tin của mình để kịp thời khắc phục sửa chữa. Xin cho con mỗi ngày làm ít nhất một việc tốt để giúp anh em lương dân nhận biết Chúa là Tình Yêu đang hiện diện trong lòng con, hầu sau này họ cũng được tham dự bàn tiệc Nước Trời với con. Xin cho con thực hành theo lời của một người cha đã khuyên đứa con trai thân yêu của ông như sau: “Con ơi, ngày con sinh ra, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh sáng, mọi người đều vui cười với con mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào, để một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại có thể mỉm cười” (Guy de Larigandie).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.