CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C và LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

Suy niệm CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1, 6-9.13-14; Lc 17, 5-10
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN 5
1. Làm điều phải làm ….5
2. Hãy bật rễ lên …..8
3. Đức tin bằng hạt cải – ViKiNi …..11
4. Đức tin ……15
5. Đầy tớ vô dụng …….17
6. Khoảng cách – Lm Giuse Nguyễn Hữu An ……19
7. Đức tin ……23
8. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con – Dã Quỳ …..25
9. Đức tin và những điều kỳ diệu ……29
10. Tại sao phải xin thêm lòng tin …….34
11. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái …….38
12. “Nếu các con có lòng tin” (Lc 17, 5-10) ……49
13. Xin ban thêm đức tin …….58
14. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong …….72
15. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng …….74
16. Làm tròn bổn phận người tôi tớ …….79
17. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi …….82
18. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc ……..85
19. Tin hay tín thác vào Thiên Chúa ……89
20. Xin thêm lòng tin cho chúng con ……93
21. Nếu các con có lòng tin …….97
22. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi ……..101
23. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc …….105
24. Đức tin và người đầy tớ vô dụng …….107
25. Xin thêm niềm tin cho chúng con ……..110
26. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest ……113
27. Đức tin sống động – Lm. Minh Vận, CRM …….115
28. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller …….121
29. Phép lạ của lòng tin …….124
30. Đức tin – McCarthy …….128
31. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương …….131
32. Đức tin và khiêm nhường – Veritas. …….134
33. Đức tin và khiêm nhường ……..137
34. Khiêm nhường và tin tưởng ……..140
35. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ? …….143
36. Đức tin …….147
37. Niềm tin ……..151
38. Đức tin ……..155
39. Đức tin giúp con người hạnh phúc ……..158
40. Ba con đang bị đè dưới đó ……..162
41. Suy niệm của Đaminh Cao Tấn Tĩnh ……..166
42. Máy thời gian- Lm. Vũ Minh Nghiễm ……..172
43. Suy niệm của Lm. Bùi thượng Lưu ……..177
44. Nếu các con có lòng tin- Br. Minh Trân ……..179
45. Niềm tin thương mại – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền …….182
46. Cần một niềm tin- Lm. Bùi Mạnh Tín ……..185
47. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn …….187
48. Đức tin trong bóng tối …….190
49. Chú giải của Noel Quesson …….192
50. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ ……..199
51. Sức mạnh của đức tin ……..208
52. Chú giải của Fiches Dominicales ……215
53. Suy niệm của William Barclay …….219
54. Đầy tớ vô dụng – Lm. G. Phạm Văn Phượng …….224
55. Xin thêm lòng tin cho chúng con ……..228
56. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật …….231
57. Phục vụ – Như Hạ ……..236
58. Tin yêu và khiêm nhường phục vụ …….241
59. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con – Huệ Minh ……..249

Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI 254

1. Đức Chúa ở cùng Bà …….254
2. Tôi là nữ tỳ của Chúa …….257
3. Kinh Mân Côi, Lời Kinh Kỳ Diệu …….260
4. Mân côi …….265
5. Kinh Mân Côi – Lời kinh cuộc đời …….267
6. Mẹ đầy ơn phúc – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên …….271
7. Bài giảng lễ Đức Mẹ Mân Côi năm 2013 ……274
8. Người Nữ tuyệt vời ……277
9. Sức mạnh của lời kinh Kính Mừng …….281
10. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho hòa bình ……285
11. Mẹ tin cậy mến – AM Trần Bình An …….289
12. Thiên Chúa ở cùng Mẹ – AM Trần Bình An ……293
13. Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình …….297
14. Lễ Mẹ Mân Côi …….303
15. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí …….309
16. Quà tặng …….314
17. Đức Mẹ Mân Côi – Gm. Farrell ……316
18. Lễ Mẹ Mân Côi ……318
19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt …….321
20. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt. …….325
21. Lễ Mẹ Mân Côi ……..329
22. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới …….334
23. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin …….339
24. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào …….344
25. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên …….347
26. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi ……..350
27. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng …….354
28. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa ……359
29. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38) ……363
30. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng …….367
31. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu ……371
32. Tình Mẹ thật tuyệt vời …….375
33. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền …….378
34. Kinh Mân Côi ……381
35. Kinh Mân Côi ……383
36. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi …….386
37. Thánh Mẫu Mân Côi …….391
38. Suy niệm của Lm. Đỗ Xuân Quế ……393
39. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi ……397
40. Kinh Mân Côi …….401
41. Suy niệm của JKN …….404
42. Lễ Đức Mẹ Mân Côi ……410
43. Mẹ đầy ơn phước – Veritas …….413
44. Kinh Mân Côi …….416
45. Hiệu quả của Kinh Mân Côi …….418
46. Kinh Mân Côi và Phúc Âm …….420
47. Kính Mừng Maria Đầy Ơn Phúc …….422
48. Chuỗi Mân Côi và Thánh Đaminh – Robert Feeney ……..427
49. Lời kinh tuyệt vời – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An …….433
50. Chất Tin Mừng trong chuỗi Kinh Mân Côi …….442
51. Hiệu lực của Kinh Mân Côi – Lm. Đan Vinh ……447
52. Lễ Đức Mẹ Mân Côi …….456
53. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà ……459
54. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Ignatiô Hồ Thông …….462
55. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Fx. Hồ Văn Uyển ……473
56. Lễ Đức Mẹ Mân Côi …….477
57. Lễ Mân Côi tại TàPao – 13/10/2012 …….481

 

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN

1. Làm điều phải làm
Suy Niệm
Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ. Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.
Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm.
Khó biết chừng nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.
Những việc đạo đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn trước anh em.
Người anh cả chỉ thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.
Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.
Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.
Có nhiều bổn phận ta phải chu toàn.
Bổn phận của một thụ tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con cái của Cha trên trời.
Bổn phận là môn đệ trung tín của Đức Kitô.
Bổn phận là anh em của mọi người.
Yêu mến, phụng sự, tôn kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.
Giả như ta có làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn tốt lành nơi ta cũng đến từ Chúa.
Thiên đàng không phải là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.
Thiên đàng hạnh phúc vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không chọn Chúa để được thiên đàng.
Chúng ta mong thiên đàng để được gần Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dám hy sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?
Con người khao khát hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu? Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

2. Hãy bật rễ lên
Suy Niệm
Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em.”
Để làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức… Rễ chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.
Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.
Với lòng tin đơn sơ, kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi, dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.
“Xin thêm lòng tin cho chúng con”:
Lời nài xin của các tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.
Tin là nghe theo lời Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.
Tin như thế là dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.
Tin là thái độ can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.
Người có lòng tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.
Thế giới hôm nay có vẻ từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.
Có biết bao giáo phái đủ loại xuất hiện khắp nơi.
Một số thanh niên Nhật tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.
Khi thanh niên Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó rất sâu.
Con người còn khắc khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.
Chúng ta xin Chúa ban thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay, nhiều bạn trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?
Có những bạn trẻ không tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.

3. Đức tin bằng hạt cải – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Sau khi nghe Đức Giêsu nói một loạt những dụ ngôn như: Men trong bột, muối đất, con chiên lạc, người cha nhân hậu với đứa con phung phá, quản lý bất trung, ông phú hộ … và những lời khiển trách Pharisiêu ham tiền, cảnh cáo kẻ gây cớ cho người ta và nhất là kẻ bé nhỏ vấp ngã sẽ bị cối đá buộc vào cổ ném xuống biển. Đức Giêsu khuyên các môn đệ tha thứ cho nhau, đặc biệt khuyến khích các ông từ bỏ mình, vác thập mình mà theo Người. Các tông đồ đã xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Người kêu gọi các ông phải có đức tin chỉ lớn bằng hạt cải thôi, cũng có một sức mạnh chuyển núi dời non để có tinh thần khiêm tốn phục vụ như một đày tớ hết lòng chu toàn mọi việc cho chủ mà vẫn thấy mình vô dụng.
Đức Giêsu đòi các tông đồ, các môn đệ và mọi tín hữu phải có đức tin như thế. Biết bao nhiêu vị Thánh đã đáp lại lời khuyên đó.
Vị tông đồ vĩ đại như Phaolô, đức tin mạnh mẽ như sắt đá, không sức mạnh nào khuất phục được, dù binh hùng tướng mạnh của Đế quốc Rôma, dù cực hình, dù biển cả, dù sự chết, cũng không làm Ngài chùng bước phụng sự Chúa và đi cứu hàng triệu các linh hồn thuộc hàng chục quốc gia về cho Chúa. Thế mà Ngài chỉ thấy mình như một đứa trẻ sinh sau đẻ muộn, thiếu ngày tháng, luôn luôn nhận mình tội lỗi nhất. Ngài viết: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đó là Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ số một là tôi” (Tm. 1, 15). Thánh Phaolô viết thư này trong tù để, khuyến khích Timôthêu tin tưởng mạnh mẽ vào việc loan báo Tin Mừng. “Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người”. Như vậy, Thánh Phaolô muốn thúc giục Timôthêu và chúng ta tin mạnh mẽ vào Đức Giêsu, dù chúng ta gặp bất cứ khốn khó nào, cũng được Người cho chúng ta chiến thắng và đầy tràn ân sủng (Bài II).
Tiên tri Habacúc sống 600 năm trước Đức Giêsu, khi thấy dân Chúa bị quân Babilon chiến thắng, bạo tàn, phá hủy vương quốc Giuda, ông đã kêu gọi họ tin tưởng nhẫn nại chờ ngày Thiên Chúa đến cứu độ đúng kỳ Chúa hẹn (Bài I). Nhiều lần Đức Giêsu đã nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Theo bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói mạnh mẽ hơn: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Nhưng dù làm được việc lạ lùng như thế, “thì hãy nói: Chúng tôi chỉ là những đầy tớ vô dụng”.
Quả thực, chính đức tin cho chúng ta làm được những việc lạ lùng và đồng thời cho biết: Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, vì không có ơn Chúa, Chúng ta chẳng làm được gì.
Thánh Phanxicô Salê lúc 19 tuổi bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết và thấy mình thật vô dụng. Ngài đã nói với thầy dậy y khoa rằng: “Khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho sinh viên học tập mổ sẻ”. Thời đó, năm 1587, mổ xẻ xác người, ăn cắp xác người chết là thứ tội gớm ghiếc. Vì thế, trường y khoa buộc lòng phải ra nghĩa địa ăn trộm xác về cho sinh viên học tập. Nên ông thầy trả lời: “Chắc gia đình sẽ kết án thầy”. Vị thánh trẻ nài van: “Điều đó rất an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn sống, con chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì tốt”. Sau này ngài đã làm Giám mục thành Giơ-ne-vơ. Vua Louis IV phải công nhận rằng: “Giám mục Geneve có tất cả mọi nhân đức và không hề lầm lỗi! Ngài đã làm bao nhiêu việc tông đồ lớn lao và giúp giáo phái Calvin trở lại. Thế mà ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”
Ngày nay, trong thế giới văn minh hiện đại này, không ai không biết đến một bà già qua đời năm 87 tuổi (-1997). Bà không một địa vị, chức quyền trong xã hội. Thế mà từ Tổng thống, Chủ tịch các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, đến các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam Bốt đều mời bà đến viếng thăm, đó là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ chỉ là một chị Dòng Bác Ái. Năm 1948, Mẹ nhìn thấy một bà đói ăn nằm bên đống rác, một trẻ sơ sinh bị vất vào sọt rác, lòng mến Chúa và thương người mạnh mẽ của Mẹ đã khiến Mẹ xúc động vô cùng đau xót. Mẹ nhìn thấy những người đau khổ đó như Đức Giêsu bị bỏ rơi. Từ đó Mẹ đã hiến cả cuộc đời cho những người phong cùi, đau ốm, cùng khổ đang hấp hối nằm hè phố, ở ổ chuột, nơi cống rảnh để đưa về phục vụ họ như ông chủ của mình, như Chúa của mình, Mẹ đã lập gần 300 nhà dòng trên khắp thế giới và nhất là Ấn Độ để nuôi dưỡng, chăm sóc các người đau khổ, neo đơn, bệnh tật, cô nhi. Và có lẽ không ai trên thế giới này đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý bằng mẹ. Ấn Độ tặng Mẹ giải thưởng Bông Huệ tuyệt vời năm 1963. Phi Luật Tân tặng Mẹ giải thưởng Massaysay. Rôma tặng Mẹ giải Hòa Bình Gioan 23 năm 1974 và Mẹ được tặng giải Nobel Hòa Bình thế giới năm 1979. Thế mà mẹ luôn coi mình là cây bút chì nằm trong tay Thiên Chúa, không dám coi mình là đầy tớ vô dụng nữa.
Lạy Chúa, đức tin của Mẹ Têrêxa cho Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người hèn mọn đau khổ, và thấy mình chỉ là thứ đồ vật nhỏ bé chưa đáng là đầy tớ của Thiên Chúa. Đức tin đó đã làm rung chuyển cả thế giới này. Xin cho chúng con cũng được đức tin khiêm tốn tột cùng đó, mới mong làm rung chuyển lòng Người.

4. Đức tin
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ tuỳ theo lòng tin của mỗi người. Rất nhiều lần Người đã phán với các bệnh nhân: Đức tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an. Hay: Con tin thế nào thì sẽ được như vậy. Nơi khác, Chúa Giêsu còn xác quyết với chúng ta: Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải, thì các con cũng có thể làm được những việc hệ trọng như chuyển núi dời sông. Vậy chúng ta phải tin những gì?
Trước hết là hãy tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Với quyền năng ấy, Ngài đã tạo dựng vũ trụ. Với quyền năng ấy, Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc chúng ta, bởi vì nơi Ngài không có biến dịch và thay đổi. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Điều cần thiết là chúng ta phải tin tưởng chạy đến với Người như lời Thánh vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trọng, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu cũng đã bảo: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Hay như lời sứ thần Gabriel: Không có sự gì mà Thiên Chúa chẳng làm được. Tin tưởng chạy đến với Chúa để rồi được Ngài nâng đỡ và phù trợ, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn phải lo sợ điều chi nữa. Với Chúa thì màng nhện cũng có thể trở nên tường thành, trái lại, không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Tiếp đến, chúng ta hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Như chúng ta cũng đã nhiều lần xác tín Thiên Chúa là một người Cha nhân từ. Người Cha nhân từ ấy vốn hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Sự yêu thương chăm sóc ấy nhiều khi chúng ta không để ý tới. Chẳng hạn không có khí để thở, không có nước để uống, không có cơm để ăn, thì chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta sẽ không thể nào sống nổi.
Ngay cả trong những giây phút đen tối dưới con mắt đức tin, chúng ta vẫn nhìn ra bàn tay uy quyền của Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của chúng ta. Biết đâu nhờ những gian nguy thử thách ấy mà chúng ta biết ăn năn sám hối, quay trở về cùng Thiên Chúa. Biết đâu nhờ những đau khổ và buồn phiền mà nhân đức của chúng ta được củng cố và niềm tin của chúng ta sẽ được kiên vững hơn lên, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói. Các con hãy nhìm xem cánh hoa đồng nội chúng không dệt không may mà ngay như áo cẩm bào của Salomon cũng không rực rỡ cho bằng, các con hãy tin tưởng, các con càng quý giá hơn chim trời và hơn cánh hoa đồng nội rất nhiều. Hay như Thánh vịnh cũng đã bảo: Kẻ kính sợ Chúa sẽ không thiếu thốn chi. Sư tử con không kiếm ra mồi chứ người kính sợ Chúa sẽ không hề đói, bởi vì Ngài hằng đoái nhìn kẻ công chính. Bằng đó mà thôi cũng đủ để cho chúng ta an tâm cho tương lai, cho ngày mai. Bởi vì, ngày mai và tương lai lại hệ tại ở lòng tin.

5. Đầy tớ vô dụng
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô lệ của ông ta.
Thực vậy, nơi dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng, khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.
Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành, việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa thành một con nợ của mình.
Thế nhưng qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.
Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương, luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.

6. Khoảng cách – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
1. Khoảng cách đời này
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không thương ai.
2. Khoảng cách đời sau
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt.”
3. Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.

7. Đức tin
Nếu các con có được một đức tin bằng hạt cải.
Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính…
Nếu như họ hỏi: Truyền hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.
Trước những câu trả lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình thường. Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.
Thế nhưng, từ đó chúng ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được một xã hội công bằng.
Tuy nhiên với đức tin, chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên. Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Nếu các ngươi có được một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh, hận thù và nghèo đói.

8. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con – Dã Quỳ
Đức Tin là ân huệ, là món quà quí giá Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa Tội. Món quà Đức Tin ấy đã được mở ra và cần được làm cho lớn lên từng ngày, như lời thánh Phaolô khuyên Timôthê “Hãy làm sống lại Ơn Huệ nhưng không Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha.” (2Tm 1,6) Vậy phải làm thế nào? Ngay từ khi theo Chúa, các môn đệ đã được nghe nhiều lời Chúa nhắn nhủ về những gian nan, thử thách mà tất cả những ai theo Chúa sẽ gặp. Và để có thể sống được những giới răn, những giáo lý của Chúa và theo Chúa đến cùng, chắc chắn các môn đệ cũng như tất cả chúng ta rất cần một đức tin vững mạnh.
Ý thức được những khó khăn trong cuộc sống và sứ mệnh, các môn đệ đã dâng lên Chúa lời cầu xin thật đẹp: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Cuộc đời của mỗi Kitô hữu chúng ta cũng vậy. Điều quan trọng là phải quay về cầu nguyện, xin Chúa ban thêm lòng tin, ân sủng để chúng ta có thể thực hiện được những đòi hỏi của Lời Chúa. Chúa biết rõ thân phận mỏng dòn, giới hạn của ta. Chúng ta như những kẻ nghèo nàn trước Chúa! Chân thành cầu xin Chúa ban cho ta thêm đức tin lớn bằng hạt cải và trợ giúp ta trong những lúc yếu lòng “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con.” (x. Mc 9,24)
Trong đời sống thiêng liêng, đôi khi đức tin của ta sẽ bị thử thách. Ta cầu xin mà dường như chưa thấu đến tai Chúa, như lời phàn nàn của Ngôn sứ Khabacuc “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con kêu cầu mà Chúa chẳng đoái nghe?” (Kb 1,2) Những lúc ấy, chẳng phải là Chúa không nghe, nhưng là lúc Chúa dùng để tăng thêm lòng tin cho ta. Vì “Người công chính sẽ sống nhờ lòng trung tín của mình.” (Kb 2,4) Hãy kiên trì cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, tham dự các Bí tích, nhất là lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể-là Mầu Nhiệm Đức Tin, chúng ta sẽ được tăng thêm sức mạnh và đức tin của ta sẽ được nuôi dưỡng để lớn lên. Chính khi ta bền lòng, vững chí thể hiện lòng tin tưởng vào Chúa, gắn bó với Chúa, đức tin của chúng ta mới tăng trưởng và sinh hoa trái. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực, không sống đức tin và cũng không thể theo Chúa đến cùng.
Thật vậy, sống đức tin, đó là sống chứng nhân. Sống đức tin, đó là ta mạo hiểm, không sợ hãi trước những kỳ thị, những chế nhạo, chống đối,… nhất là trong đất nước của chúng ta, con số người Công Giáo chỉ có hơn 7% dân số. Sứ mệnh của chúng ta là đem Chúa vào cuộc đời, vào môi trường mình sống, mang ngọn lửa đức tin chiếu sáng thế gian. Chắc chắn Chúa sẽ trợ giúp chúng ta, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan, sức mạnh, lòng nhiệt thành và những tư tưởng để ta có thể nói về Chúa cho mọi người. Vậy chúng ta hãy cầu xin với Chúa những ơn huệ ấy, và với Chúa Thánh Thần hướng dẫn, giúp sức, ta có thể can đảm dấn thân trong mọi hoàn cảnh.
Đức tin của người Kitô hữu qua mọi thời, từ thuở Giáo Hội sơ khai đến nay, và trong nhiều quốc gia, vẫn mãi phải chịu thử thách, bách hại nhiều cách. Những anh em Kitô hữu tại các nước vùng Trung Đông, Bắc Triều Tiên,Trung Quốc, Ấn Độ…và ngay tại Quê hương Việt Nam, đã và đang sống tử đạo hằng ngày và kéo dài. Anh chị em của chúng ta đang bị bắt bớ, áp bức, tra tấn, ngược đãi khủng khiếp, bị giết chết khi mang danh Kitô hữu và sống đạo! Thế nhưng, đức tin và lòng can trường của anh em chúng ta vẫn vững mạnh, vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô cho dù cái chết gần kề. Anh chị em đã “Không hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, nhưng đã đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng.” (x. 2Tm 1,8)
Nhìn vào những tấm gương sống đức tin cách sống động và trung tín của biết bao anh chị em tại quê hương hay trên khắp thế giới, chúng ta tạ ơn Chúa và tiếp tục kiên trì cầu nguyện, xin Chúa ban cho ta lòng tin kiên vững. Chúng ta quyết chọn Chúa là Chúa và là Chủ của đời mình, để rồi trong địa vị là con, là tôi tớ, chúng ta hân hoan phụng sự Chúa. Tất cả những gì chúng ta phục vụ Chúa, đó là trách nhiệm, là bổn phận và hơn nữa là vì tình nghĩa con cái đối với Thiên Chúa. Vì sự sống, khả năng, tài trí, sức khỏe, điều kiện…ta có là do chính Chúa ban. Vậy ta hãy khiêm tốn như một đầy tớ nhỏ chỉ mong làm vui lòng Chủ.
Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ nhìn nhận mình như những “đầy tớ vô dụng”. Người cũng mong mỗi Kitô hữu chúng ta biết cởi bỏ và để “Cái Tôi” của mình sang bên cạnh. Đừng tìm kiếm sự công nhận hay chờ đợi sự biết ơn, chúc mừng và khen ngợi của người khác, nhất là khi chúng ta làm những công việc phục vụ Chúa và tha nhân. Chúng ta là tôi tớ thì luôn phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa. Tất cả thuộc về Người và chúng ta cần thi hành sứ mạng một cách tốt nhất có thể, trong đức tin và trong niềm xác tín rằng Chúa là Cha luôn yêu thương chúng ta vô biên, và những gì chúng ta làm cho Chúa sẽ mang chiều kích vĩnh cửu.
Trong Nước Trời, chính Chúa sẽ là Chủ nhà phục vụ: “Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12,37) Vậy chúng ta hãy sống như những đầy tớ trung tín, tỉnh thức và khiêm nhường. Vì trước Chúa, ta chỉ có đôi bàn tay trắng, ta không có quyền đòi cho mình có giá trị. Thế nên, đừng làm vinh danh mình về những công trình này, cơ sở nọ hay Nhà thờ kia trước mặt Thiên Chúa, cũng đừng tự cao tự đại, khoe khoang về những tổ chức lễ lạc hay công việc bác ái… Vì những gì ta làm được không phải tự sức riêng hay vật chất ta có, mà là do công sức và của cải tinh thần, vật chất của bao tấm lòng quảng đại góp lại, và ta đã chỉ làm theo lệnh của Chúa. Uớc gì mỗi Kitô hữu hãy biết nhiệt thành sống đức tin trong phục vụ và khiêm tốn thân thưa với Chúa: “Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” Chúng ta không bao giờ thực hiện đủ và cũng không thể hoàn tất việc phục vụ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết dấn thân làm chứng cho Chúa và sống đức tin cách can trường trong mọi hoàn cảnh. Xin dạy chúng con biết phục vụ Chúa và tha nhân cách vô vị lợi mà không mong chờ phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng chúng con đang thi hành Ý Chúa. Amen.

9. Đức tin và những điều kỳ diệu
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Đức tin có một sức mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng vượt xa sự mong đợi.
Một người bất toại đã lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga 9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã phục sinh (x. Lc 8,2).
Đức tin có thể mang lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.
Những điều kỳ diệu của đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái, chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn; từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh của đức tin kỳ diệu là thế.
Sức mạnh của đức tin còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý chí vươn lên.
Trong cuộc sống hôm nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những điều kỳ diệu là thế.
Người tín hữu còn có sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo, người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúng ta đang cùng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta. Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.
Một tác giả là Robert Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc sống thân yêu của chúng ta.

10. Tại sao phải xin thêm lòng tin
(Suy niệm của Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP.)
Các Tông đồ đã được Đức Giêsu mạc khải nhiều lần về Ngài qua những lời giảng dạy và nơi các dấu lạ điềm thiêng. Ngài lại còn ban cho các ông quyền năng để dẹp trừ những thần ô uế và chữa lành bệnh tật (x. Mt 10, 1-2), nhằm củng cố niềm tin cho họ. Tuy nhiên, vì mang trong mình thân phận con người, các Tông đồ thấy có những lúc còn quá yếu đuối, nên các ông mới cất tiếng xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lời cầu xin này toát lên nỗi trăn trở trước sứ mạng và sự lo sợ trước những thách đố lớn lao của sứ vụ mà các Tông đồ sẽ đón nhận sau này. Đây cũng là tâm tình của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
1. Tại sao phải xin thêm lòng tin?
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin đó của các Tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).
Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó của đức tin: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Lời cầu xin này được cất lên phát xuất từ con tim của các Tông đồ. Các ông được chứng kiến nhiều phép lạ Thầy mình đã làm, nhưng cũng cảm nghiệm được sự khó khăn, phức tạp trong quá trình loan báo Nước Trời của Đức Giêsu. Đồng thời, các ông cũng thấy được trách nhiệm quá lớn lao nơi sứ vụ mà rồi đây các ông sẽ tiếp nhận. Bên cạnh đó là những đòi hỏi quá khắt khe của luật mới nơi người môn đệ Đức Giêsu. Vì thế, các ông không khỏi những lo lắng trước trách nhiệm to lớn đó. Các ông xin Chúa ban thêm lòng tin là để giúp các ông đứng vững trước mọi cuồng phong bão tố trên hành trình loan báo Tin Mừng và để xứng đáng trong tư cách là người môn đệ chân chính.
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5) còn là một cách minh chứng cho thấy đức tin của các ông chưa đủ lớn. Và như thế, không thể đối diện với những nghịch cảnh trên hành trình theo Chúa cũng như loan truyền sứ vụ. Một cách gián tiếp, chúng ta nhận thấy các Tông đồ đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Khó khăn lớn nhất đối với các ông lúc này là thử thách về niềm tin vào chính con người Đức Giêsu. Có lẽ các ông ít nhiều vẫn mang trong mình những tâm trạng hoài nghi và tự hỏi về vị Thầy mà các ông đã bỏ mọi sự để đi theo: Đức Giêsu này có phải là Đấng mà muôn dân mong đợi hay không? Tại sao Ngài là Thiên Chúa mà vẫn chấp nhận bị người ta xua đuổi, khinh thường…? Tại sao Ngài không thiết lập và tổ chức triều đình để đem lại sự giàu sang, phồn thịnh cho nhân loại…?
Đức Giêsu thấy được tâm trạng hoang mang cũng như cái tôi ích kỷ của họ nổi lên, điều này được biểu hiện qua việc tranh nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời, rồi bà mẹ của Giacôbê và Gioan đến xin cho một ngồi bên tả, một bên hữu…! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã dạy cho họ bài học yêu thương, khiêm tốn và phục vụ. Thật thế, đức tin phải đi đôi với việc làm, nghĩa là phải “hoạt động qua đức ái” (Gal 5,6) vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17). Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (x. Ga 12,26). Đức tin không phải để khoe khoang. Vì thế, Đức Giêsu đã lấy hình ảnh người tôi tớ trong vai trò phục vụ để giáo huấn cho các ông bài học về sự khiêm tốn trong phục vụ: “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Như vậy, các ông thấy rõ những đòi hỏi của Đức Giêsu và nhận thấy con người mình yếu đuối, nên các ông cần thêm lòng tin để tin vào Chúa hơn, yêu người hơn, khiêm tốn hơn, và phục vụ cách vô vị lợi hơn.
2. Sống Đức Tin trong đời thường
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Trong cuộc sống, ngoài xã hội, nơi thương trường, nhiều lúc chúng ta cảm thấy mình bất lực hoặc hèn nhát không dám can đảm để làm chứng cho Chúa. Lý do là vì thiếu niềm xác tín nơi Chúa. Vì thế, lời cầu xin của cácTông đồ khi xưa cũng là lời cầu nguyện của mỗi chúng ta ngày hôm nay.
Quả thật, xã hội ngày hôm nay nhiều người sống rất vô cảm, ít tương trợ lẫn nhau, và nhiều khi còn cắn xé lẫn nhau, hệ quả xảy ra là: tham nhũng, bóc lột, đàn áp những người thấp cổ bé họng… đứng trước những bạo nạn đó, nhiều khi chúng ta thấy mình quá nhỏ bé nên không dám lên tiếng, không dám nói lên chính kiến của mình, không dám thể hiện một nghĩa cử liên đới với những anh chị em đang lâm nạn. Những lúc chúng ta cảm thấy bất lực vì sợ hãi như vậy, ấy là lúc chúng ta cần phải: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Câu nói của Karl Marx đáng để cho mỗi chúng ta suy nghĩ: “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại mà chăm chút bộ lông của mình”. Chớ trêu thay, sự thật này đang là chuyện rất bình thường trong một xã hội hiện đại. Chúng ta biết nó là không tốt, nhưng đôi khi chúng ta cũng sống không kém gì họ, hay không bao giờ dám đứng lên đi ngược dòng để tìm về sự thật và xây dựng tình liên đới chỉ vì sợ sự liên lụy. Đây chính là yếu đuối của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta xin Chúa mãi mà vẫn không được những ơn chúng ta xin. Những lúc đó, chúng ta hay phàn nàn trách móc Chúa vì Ngài không nhận lời. Ta thấy tâm trạng của mình lúc này có phần giống tiên tri Kha-ba-cúc trong bài đọc I, ông phải chịu đựng những điều nghiệt ngã tương tự: “Con la lên: Bạo tàn! Mà Ngài không cứu vớt”; “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu van mà Ngài chẳng đoái nghe?” (Kb 1,2-3). Tuy nhiên, chúng ta đâu biết được rằng: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Ðấng ngự trên trời, Người sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7, 9-11). Chúng ta chưa nhận được là vì chưa có niềm tin đủ mạnh. Vì thế, chúng ta cũng cần: “Xin Chúa thêm lòng tin cho chúng ta” (x. Lc 17,5).
Trên thương trường, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ làm ăn bất chính. Vẫn biết là tội, nhưng nhiều người làm như thế, nếu chúng ta không thế thì không thể sống được, và chúng ta đã sẵng sàng thỏa hiệp với gian dối, để làm ăn bất chính. Những lúc như thế, chúng ta phải xin với Chúa như các Tông đồ: “Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5).
Lạy Chúa Giêsu, lời cầu xin của các Tông đồ khi xưa cũng là lời cầu xin của chúng con ngày hôm nay: “Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con”, để chúng con vững bước trên con đường theo Chúa và sẵn sàng thi hành sứ vụ Chúa trao phó. Amen.

11. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Đức tin và Phục vụ
“Hãy bật rễ đi” (Lc 17, 6)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa “Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.
Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.
Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kb 1, 2-3; 2, 2-4)
Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.
3. Tin Mừng (Lc 17, 5-10)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu: a/ Về sức mạnh của Đức tin; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.
a. Đức tin: Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
b. Phục vụ: Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
4. Bài đọc II (2 Tm 1, 6-8. 13-14)
Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đức tin – phục vụ
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.
a. Điều thứ nhất là về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.
Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.
Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
b. Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.
Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.
Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.
* 2. Chiếc bình trống rỗng
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:
– Ông có nghe họ ca tụng ông không?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền:
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
***
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “mến Chúa yêu người”, có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
***
Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.
Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏû bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Phục vụ trong tình yêu
Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.
Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.
Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.
Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.
Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.
Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này: Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)
4. Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi:
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
– Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!
c/ Phục vụ là hạnh phúc
Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự: “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể: chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ: nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
5. Mảnh suy tư
Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa: vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.
Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng: vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.
Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.
Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.
Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.
Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, đức tin là món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.
2. Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.
3. Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.
4. Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin:
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.

12. “Nếu các con có lòng tin” (Lc 17, 5-10)
(Chú giải và Suy niệm của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm C nêu bật chủ đề về sức mạnh của đức tin được chứng thực ở nơi lòng thành tín.
Kb 1: 2-3; 2: 2-4
Ngôn sứ Kha-ba-cúc mời gọi hãy gìn giữ đức tin và lòng thành tín đối với Thiên Chúa, thậm chí ngay khi trí khôn phàm nhân của chúng ta không thể nào hiểu thấu những ý định khôn dò của Thiên Chúa đi nữa.
2Tm 1: 6-8, 13-14
Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy gìn giữ đức tin cho thật tinh tuyền và vô tỳ vết trong việc trung thành tuân giữ lời cam kết và công bố toàn vẹn Tin Mừng.
Lc 17: 5-10
Bài học của Tin Mừng hôm nay là phải ra sức tăng trưởng đức tin của mình và trung thành phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi.
BÀI ĐỌC I (Kb 1: 2-3; 2: 2-4)
Sách Kha-ba-cúc là một trong những sách Cựu Ước ngắn nhất, chỉ vọn vẹn có ba chương: hai chương đầu theo hình thức đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa, còn chương thứ ba là một thánh vịnh. Nhưng sách này nêu lên một vấn đề căn bản: sự chiến thắng của sự dữ và sự im lặng của Thiên Chúa.
1. Bối cảnh
Chúng ta không biết chút gì về thân thế của vị ngôn sứ này, tuy nhiên bản văn cho phép chúng ta định vị niên biểu sứ điệp của ông vang lên vào năm 600 trước Công Nguyên. Đây là thời kỳ Tân Ba-by-lon chiến thắng đế quốc Át-sua: phá hủy kinh thành Ni-ni-vê vào năm 610 trước Công Nguyên và tiếp tục bành trướng thế lực của mình cho đến tận miền Pa-lét-tin. Ngôn sứ Kha-ba-cúc tiên báo cuộc xâm lăng này, vì thế ông ghi lại sứ điệp của ông giữa những cuộc xâm lăng và vây hãm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào những năm 598-597 trước Công Nguyên.
Bản văn được trích dẫn hôm nay chỉ thuật lại câu hỏi đầu tiên của vị ngôn sứ (1: 2-3) và câu trả lời thứ hai của Thiên Chúa (2: 2-4) trong cuộc đối thoại giữa vị ngôn sứ và Thiên Chúa. Để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ theo đuổi diễn tiến toàn bộ tác phẩm này.
2. Thiên Chúa im lặng (1: 2-3)
Kha-ba-cúc chứng kiến chung quanh ông chỉ toàn là cảnh bạo lực, cướp bóc, tàn phá và khổ đau. Ông cầu xin Thiên Chúa ra tay cứu độ, nhưng Thiên Chúa không trả lời, như thể Ngài chẳng đoái hoài đến dân tình thế sự.
Những lời than van của con người trước việc sự ác hoành hành và sự im lặng của Thiên Chúa thường được phát biểu trong Kinh Thánh: những tiếng than van nhiều lần của các thánh vịnh gia, của ông Gióp trên giường khổ đau, của ngôn sứ I-sai-a: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…” (Is 63: 19).
Câu trả lời của Thiên Chúa cho Kha-ba-cúc giúp cho hiểu rằng Thiên Chúa để cho con người cứ mặc sức tự tung tự tác chừng nào có thể, nhưng rồi Thiên Chúa sẽ ra tay khi cho một dân tộc khác dấy lên chống lại dân tộc này:
“Này Ta khiến cho dân Can-đê nổi lên,
một dân hung hăng tàn bạo;
nó rảo khắp mặt đất mênh mông
để chiếm đoạt nhà cửa không phải của mình” (1: 6).
Lúc đó, vị ngôn sứ hỏi Thiên Chúa về số phận mà Ngài dành cho kẻ gian ác, những kẻ vênh vang tự đắc về sự chiến thắng của mình, trong khi người công chính thường bị đè bẹp nghiền nát. Ông tìm kiếm lý do tại sao Thiên Chúa không can thiệp và nêu lên câu hỏi thứ hai:
“Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền
không thể chịu được điều gian ác,
Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng,
tại sao Thiên Chúa cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh
khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?” (1: 13).
3. Kiên nhẫn và trung tín (2: 2-4)
Câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi thứ hai của vị ngôn sứ là chính yếu; nó là trọng tâm sứ điệp của sách Kha-ba-cúc. Chính Thiên Chúa mặc lấy cho câu trả lời này một tính cách long trọng:
“Đức Chúa trả lời và nói với tôi: ‘Viết lại thị kiến
và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được cho xuôi chảy” (2: 2).
Thị kiến này sẽ ứng nghiệm vào thời được ấn định không một chút sai chạy. Nếu nó chậm tới, người công chính phải đợi chờ một cách thành tín:
“Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục,
còn người công chính sẽ được sống,
nhờ lòng thành tín của mình” (2: 4).
Thánh Phao-lô trích dẫn đến hai lần bản văn Kha-ba-cúc này để hỗ trợ cho luận đề của thánh nhân về ơn công chính hóa nhờ đức tin: “Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được cứu sống” (Rm 1: 17) và “Vả lại, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Gl 3: 11). Tác giả thư gửi tín hữu Do thái cũng trích dẫn bản văn này: “Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy” (Dt 10: 38).
Thật ra, từ Hy-lạp: “pistis” này, cũng như từ La-tin “fides”, đều có hai nét nghĩa: “đức tin” và “lòng thành tín”. Kha-ba-cúc nhấn mạnh lòng thành tín, nghĩa là người công chính phải kiên trung bền vững trong đức tin bất chấp những tăm tối mà đức tin này phải đối mặt. Trong khi đó, những lời trích dẫn của bản văn Kha-ba-cúc trong Tân Ước lại nhấn mạnh đức tin hơn lòng thành tín.
BÀI ĐỌC II (2Tm 1: 6-8, 13-14)
Đây là bức thư cuối cùng của thánh Phao-lô vào lúc thánh nhân bị giam cầm một cách nghiêm ngặt ở Rô-ma. Thánh nhân nhận thức rất rõ số phận đang chờ đợi mình: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi” (4: 6). Như vậy, bức thư này một cách nào đó là di chúc tinh thần của thánh nhân. Thánh Phao-lô ngỏ lời với người cộng tác viên thân yêu của ngài bằng cung giọng thân tình trìu mến, nhưng cũng đầy tính kiên quyết của ngài. Thánh nhân để hết tâm huyết của mình vào những lời khuyên bảo này. Ông Ti-mô-thê xem ra đã là một người nhút nhát, thêm nữa bị tác động bởi những chướng ngại nổi lên trong Giáo Đoàn Ê-phê-xô, mà thánh Phao-lô đã giao phó cho ông trách nhiệm coi sóc.
1. Thần Khí đầy sức mạnh
“Anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh”. Động từ Hy-lạp được dịch ở đây là “khơi dậy”, thực ra có nghĩa “khơi lên ngọn lửa trong lòng”, tức là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mà ông Ti-mô-thê đã lãnh nhận vào lúc ông được thụ phong. Thần Khí này “không là một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh”. Lời khuyên khởi đầu này cho hiểu rằng những căng thẳng đã trở nên nghiêm trọng và ông Ti-mô-thê phải trở nên kiên quyết hơn đối với những lạc thuyết.
2. Thần Khí đầy lòng mến
Những lạc thuyết này vì gây nên những bất đồng nên không thể phát xuất từ đức mến được, như thánh Phao-lô đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Khi đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số người đừng dạy một giáo lý khác…; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình” (1Tm 1: 3-5). Ông Ti-mô-thê phải ra sức làm cho đức ái Ki-tô giáo ngự trị trong cộng đoàn.
3. Thần Khí biết tự chủ
Từ ngữ được dùng ở đây “biết tự chủ” thuộc từ vựng khôn ngoan Hy-lạp; nó gợi lên phẩm chất của một tinh thần vừa biết tự kiềm chế chính mình trước sự sợ hãi hay đam mê vừa biết uốn nắn chính mình. Đối với ông Ti-mô-thê đây là tất cả chương trình hành động. Khi thực hành nhân đức này, ông sẽ làm tan biến những lạc thuyết mà xuống dưới vài dòng thánh Phao-lô sẽ xác định là “những chuyện nhảm nhí, trống rỗng” (2: 16).
4. Biết làm chứng và chịu đau khổ
Thánh nhân nhấn mạnh rồi trong thư thứ nhất của ngài gửi cho Ti-mô-thê về tầm quan trọng của lời chứng, lời tuyên xưng đức tin trước các chứng nhân; thánh nhân thêm vào đây giá trị của sự đau khổ: “Chính vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết tôi tin vào ai, và xác quyết rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó” (2Tm 1: 12). Ông Ti-mô-thê chắc chắn phải chịu đau khổ nhiều lắm vì những bất đồng nội bộ trong cộng đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô xin ông hãy kết hiệp những đau khổ của ông với sự đau khổ của thánh nhân – sự đau khổ của một tù nhân bị giam cầm – và nghĩ đến sự hữu hiệu tinh thần của ông và ngài: những đau khổ của họ làm cho lời loan báo Tin Mừng được trổ sinh nhiều hoa trái.
TIN MỪNG (Lc 17: 5-10)
Theo văn mạch của Tin Mừng Lu-ca, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn các môn đệ của Ngài trên đường lên Giê-ru-sa-lem; nhiều lần Ngài đưa ra những yêu sách đối với những ai muốn bước đi theo Ngài. Đoạn trích chương 17 này là đoạn văn cuối cùng về đề tài này, không kém phần nghiêm khắc. Thánh Lu-ca đặt vào trong bối cảnh các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin cho họ.
1. Đức tin
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Danh xưng “Tông Đồ” thì hiếm trong các sách Tin Mừng. Thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Gioan dùng danh xưng này chỉ một lần; họ tránh dùng danh xưng này vì nó có nghĩa “người được sai đi” mà chỉ một mình Chúa Giêsu mới xứng đáng tước hiệu này: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai phái. Thánh Lu-ca dùng danh xưng “Tông Đồ” này sáu lần, nhưng có chủ ý, trong vài trường hợp. Vì thế, chúng ta được báo trước rằng câu chuyện này thì quan trọng.
Cả ba thánh Mát-thêu, thánh Mác-cô và thánh Lu-ca đều thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành một em bé bị quỷ ám mà các môn đệ đã bất lực. Tại Mát-thêu, các môn đệ ngạc nhiên nên hỏi Chúa Giêsu: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?”. Chúa Giêsu trả lời: “Tại anh em kém tin” (Mt 17: 20). Tại Mác-cô, chính cha của đứa trẻ xin Chúa Giêsu cứu giúp khi thốt lên: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” (Mc 9: 24).
Có lẽ chính vào dịp thất bại này hay thất bại tương tự khác mà các Tông Đồ đã bày tỏ lời thỉnh nguyện của mình: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Tuy nhiên, những ngôn từ được chọn lựa, cung giọng được ban cho lời thỉnh nguyện này, hướng tư tưởng về thời hậu phục sinh. Trước biến cố Phục Sinh, các sách Tin Mừng trình bày đức tin như một ân ban của Chúa Cha. Như vậy, sau lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô, Chúa Giêsu công bố: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Gần trước cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu còn công bố cho thánh Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22: 32).
Vì thế, xem ra khả dĩ hơn rằng lời thỉnh nguyện được thánh Lu-ca trích dẫn ở đây đã được ngỏ lời với Đấng Phục Sinh (vì thế, mới có những lời “Lạy Chúa”, “các Tông Đồ”). Thánh Lu-ca tham dự trước viễn cảnh hậu Phục Sinh, viễn cảnh Giáo Hội thường hằng lộ ra trong Tin Mừng của thánh nhân. Chính là Giáo Hội được mời gọi cầu nguyện với Đức Giêsu là “Chúa”, xin Ngài thêm lòng tin cho mọi chi thể của Ngài.
2. Sức mạnh của đức tin
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp lời thỉnh nguyện của các môn đệ Ngài. Nhưng nếu chúng ta cho lời thỉnh nguyện này một âm vang hậu phục sinh khi biện minh rằng thánh Lu-ca đặt ở đây những lời của Chúa Giêsu mà thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô trích dẫn trong một bối cảnh khác (x. Mt 13: 32; Mc 4: 31). Với những người sắp đảm nhận một công việc bao la là nâng dậy thế giới, Chúa Giêsu công bố rằng nếu anh em có lòng tin thì không gì là không thể, ngay cả truyền cho một cây cổ thụ có gốc rễ bám sâu trong lòng đất, mà xuống mọc dưới đáy biển đi nữa. Đức tin có quyền năng biến đổi mọi sự.
3. Phục vụ Thiên Chúa một cách vô vị lợi
Dụ ngôn tiếp theo sau không có mối liên hệ trực tiếp với giáo huấn đi trước; chắc hẳn dụ ngôn này nguyên thủy đã là độc lập. Tuy nhiên, sau lời dạy gợi ý về những điều kỳ diệu mà những người có lòng tin có thể thực hiện, Chúa Giêsu hạ xuống sự kiêu hãnh tiềm tàng của các môn đệ.
Bức tranh mang đậm nét miền Pa-lét-tin. Một nông dân, tiểu điền chủ, chỉ có một người nô lệ. Người nô lệ phải làm hết mọi việc trong nhà ngoài đồng của chủ. Dù phải mệt nhọc sau một ngày làm việc vất vả ngoài đồng, người nô lệ không được yêu sách bất cứ điều gì, dù nghỉ ngơi hay ăn uống, trước khi phục vụ chủ mình. Đó là bổn phận của một người nô lệ phải có đối với chủ mình. Dụ ngôn thì rắn rỏi, nhưng ý nghĩa thì rõ ràng: những ai cam kết phục vụ Thiên Chúa, thì phải phục vụ cách khiêm tốn: “Khi đã làm tất cả những gì theo mệnh lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”, nghĩa là đừng tự cho mình là cần thiết.
4. Bữa ăn
Tại sao Chúa Giêsu lại đưa ra một ví dụ về một bữa ăn như sự phục vụ tối hậu của người nô lệ đối với chủ mình sau khi kết thúc một ngày làm việc vất vả nhỉ? Đây không phải nhằm quy chiếu đến một bữa ăn khác sao? Thánh Lu-ca thích bức tranh bộ đôi, thậm chí nếu hai bức tranh không được kể ra trong bản văn của mình. Ở chương 12, trong bài diễn từ về việc phải sẵn sàng luôn, Chúa Giêsu gợi lên những người đầy tớ trung thành tỉnh thức đợi chủ trở về trong đêm khuya: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12: 37). Ở bàn tiệc cánh chung, chính Thiên Chúa đích thân phục vụ những tôi trung của Ngài… Nhưng trước đó, người tôi trung phải chứng tỏ là mình phục vụ Ngài một cách khiêm tốn và vô vị lợi.

13. Xin ban thêm đức tin
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Các Tông đồ đã đi theo Đức Giêsu, nghe Ngài giảng dạy, xem những phép lạ Ngài làm và được trao trách nhiệm đi rao giảng Tin mừng. Trước sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa và trước những đòi hỏi của Luật mới (x. Lc 17.1-4) cũng như trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn, các ông cảm thấy mình còn yếu kém và bất lực nên các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông, lòng tin mà trước đó các ông bị Chúa trách là yếu kém: ”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Đức Giêsu hài lòng với lời cầu xin đó và Ngài cho biết: với đức tin nhỏ bé thôi, các ông có thể làm được những việc lớn lao. Với đức tin, các ông có thể biến cái không thể trở thành có thể, cái tầm thường trở nên phi thường. Bởi vì với lòng tin, các ông đặt niềm tín thác vào Chúa, cậy dựa vào quyền năng của Ngài và Chúa dùng quyền năng ấy mà làm được mọi sự, chứ không phải do quyền năng của các ông: ”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Nhân dịp này, Đức Giêsu muốn ngầm nối kết đức tin của các ông với sự phục vụ (Ga 12,26), điều mà các ông không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của các ông, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Các ông chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Các ông cũng muốn làm như vậy. Các ông muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó, khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó. Hình ảnh này nhắc cho các ông biết rằng các ông không được kể công với Chúa như người biệt phái cầu nguyện nơi Đền thờ mà phải phục vụ Thiên Chúa và anh em mình như những người đầy tớ với tình con thảo đối với Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hb 1,2; 2.2-4.
Trong một thời buổi đặc biệt nhiễu nhương, tiên tri Habacúc than thở và cũng như chất vấn Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và người ác cứ nhởn nhơ, không bị phạt. Và Chúa đã trả lời, đã chỉ ra con đường duy nhất đưa đến giải thoát: ấy là tin tưởng vào Chúa và trung tín với Giao ước trong suốt cuộc đời của mình, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
+ Bài đọc 2: 2Tm 1,6-8.13-14.
Thánh Phaolô khuyên Timôthêô hãy kiên vững trong đức tin. Thánh Thần Thiên Chúa mà Timôthêô nhận trong ngày thụ phong sẽ giúp ông trở nên chứng nhân của Chúa ngay trong những gian nan thử thách. Không được sống trong tinh thần nhát sợ nhưng phải sống trong tinh thần mạnh mẽ hiên ngang, và hãy cậy dựa vào Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
+ Bài Tin mừng: Lc 17,5-10.
Bài Tin mừng hôm nay có hai lời giáo huấn:
a) Đức tin: Đức Giêsu muốn các tông đồ trông cậy tuyệt đối vào quyền năng cũng như lòng nhân hậu Chúa. Câu nói về cái cây bật rễ không nên hiểu theo nghĩa đen. Đây là cách nói diễn tả mạnh mẽ của người Đông phương và có ý nghĩa là đức tin có sức mạnh lớn lao, với đức tin việc gì xem ra không thể lại trở thành có thể.
b) Phục vụ: Đàng khác, một đức tin trần trụi không tính toán thì đặt tất cả tin yêu vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức mình, rồi đòi trả công. Như thế mọi chức vụ trong Giáo hội chỉ là một việc làm nhỏ bé để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người. Đừng lấy đó làm vênh vang, vì ta chỉ là đầy tớ vô dụng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đức tin và phục vụ.
I. CÁC TÔNG ĐỒ XIN THÊM ĐỨC TIN.
1. Hoàn cảnh.
Trên đường tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ nhiều bài học như nguy hiểm của tiền bạc, cớ vấp phạm cho người khác, bác ái huynh đệ và tha thứ. Các tông đồ, ở đây chỉ là 12 ông, chứ không phải nói chung các môn đệ – là những người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Đứng trước những đòi hỏi của luật mới (x. Lc 17,1-4) và sứ mạng mở rộng Nước Thiên Chúa, các ông cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu ban thêm lòng tin. Lòng tin mà trước đó các ông đã bị Ngài khiển trách yếu kém. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, các ông trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin Chúa: ”Xin Thầy thêm lòng tin cho chúng con”.
2. Đức tin và hạt cải.
Đức Giêsu không trực tiếp trả lời mà chỉ dùng một hình ảnh rất sống động để nói lên ý kiến của Ngài: ”Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải thì dù các con có bảo cây dâu này: ”Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc”, nó cũng sẽ vâng lời các con” (Lc 17.5-6).
Hạt cải là hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Đức Giêsu so sánh đức tin với hạt cải, là có ý nhấn mạnh về mặt phẩm chất hơn là về số lượng của đức tin. Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở Palestine, hạt nhỏ hơn cả hạt quả của cây trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khỏang 4-5 mét. Hình ảnh đó nói lên một sự phó thác dù nhỏ đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng nhờ quyền ăng của Thiên Chúa.
3. Sức mạnh của Đức tin.
Hôm nay Đức Giêsu khuyên các tông đồ nên dùng cái đức tin nhỏ bé sẵn có để đối phó với những thử thách của cuộc sống và làm những việc vĩ đại: ”Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, thì dù các con bảo cây dâu này: ”Hãy bật rễ lên, xuống biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời các con” (Lc 17,6).
Cây dâu là một cây đại thụ, rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi đất để xuống mọc trong lòng biển. Ở đây, Đức Giêsu không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân. Chắc chắn Ngài không khi nào thực hiện việc dời cây dâu trồng xuống biển. Nhiều lần Ngài đã từ chối làm các phép lạ để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa như các đầu mục yêu cầu. Tóm lại, đây là một kiểu nói chỉ nhằm để đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
Những người có đức tin mạnh cũng đã làm được những việc tương tự cả thể. Chẳng hạn thánh Grêgôriô đã có lần di chuyển núi non để xây nhà thờ. Thánh Raymunđô có lần lấy áo làm thuyền vượt qua biển cả. Còn thánh Phêrô đã theo lệnh Chúa đi trên mặt biển. Ông ta chỉ chìm xuống khi bắt đầu hồ nghi mà thôi.
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông đã thực hiện: một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi công việc của con người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại là không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử.
Trong Kinh thánh, có nhiều tấm gương của những con người bé nhỏ, hay một nhóm nhỏ, với đức tin đã làm nên những việc vĩ đại. Đavít, cậu bé chăn chiên đã hạ tên khổng lồ Golíat bằng dây phóng và hòn đá (1Sm 17,50) Trong sách Công vụ Tông đồ, những nhóm nhỏ người Kitô hữu đầu tiên họp nhau lại, cầu nguyện, chia sẻ của cải, đã làm cho con số Kitô hữu gia tăng (Cv 2,43-45). Timôthêô được thánh Phaolô nhắc nhở rằng mặc dù còn trẻ, anh có thể làm một người lãnh đạo cộng đòan vì đức tin và lòng đạo hạnh của anh (1Tm 4,12). Thánh Phaolô coi mình là “kẻ hèn mọn nhất”, và các Tông đồ xưng mình là “rác rưởi của thế gian” (1Cr 4,13).
Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu tự coi mình như “bông hoa nhỏ bé của Chúa Giêsu” với đường lối nên thánh rất đơn sơ, nhỏ bé, đã trở nên thánh Tiến sĩ của Hội thánh. Thánh Phanxicô Assisi đã đặt tên cho các môn sinh của mình là “Dòng Anh em Hèn mọn”.
Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp và phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện .
4. Đức tin trong cuộc sống.
Đức Giêsu nói về đức tin khi các môn đệ xin Ngài “gia tăng đức tin” của họ. Ngài không đòi đức tin của họ phải to lớn, chất đầy chiếc xe tải. Ngài chỉ cần bằng hạt cải thôi nhưng phải được sử dụng. Làm thế nào để sử dụng nó? Qua việc trở nên những người đầy tớ vâng lời và trung kiên của Thiên Chúa (Dt 5,8-9). Bởi “Tin là gắn bó bản thân của con người với Thiên Chúa” (Giáo lý Công giáo, số 150).
Với đức tin, chúng ta có thể biến cái không có thể thành cái có thể. Thiên Chúa dùng quyền năng của mình để biến tất cả mọi sự thành có thể cho những ai có đức tin. Ngay trong lãnh vực khoa học, những người trong những thế kỷ trước không thể tin được những phát minh kỳ diệu trong những thế kỷ sau. Chúng ta thử nói chuyện với những người cách đây 3 thế kỷ.
Bây giờ, giả sử họ hỏi bạn truyền hình là gì? Chắc hẳn bạn sẽ nói rằng đó là một phương cách nhìn xem một chuyện gì đó ở tận Trung hoa đúng lúc nó đang thực sự xẩy ra tại đó. Giả sử họ hỏi bạn hỏa tiễn hạch nhân tầm xa là gì? Chắc hẳn bạn sẽ trả lời đó là dạng một trái đạn khổng lồ bắn tại Mỹ, nhưng lại tiêu diệt được bất cứ thành phố nào ở Nga mà bạn muốn. Giả sử họ lại hỏi bạn đổ bộ lên mặt trăng là sao thì hẳn bạn sẽ diễn tả cho họ là có người trên mặt đất leo vào phi thuyền không gian bay tới mặt trăng rồi đổ bộ ở trên đó.
Chà! Bạn thử nghĩ xem dân chúng ở cách đây 300 năm đó sẽ nói gì với bạn? Chỉ cần hiểu biết chút ít thì họ cũng đã cho bạn là điên cuồng, mất trí rồi, vì bất cứ người nào còn tỉnh táo đều cho rằng bạn không thể nào ngồi tại một phòng khách ở New York mà lại thấy được một chuyện nào đó đang xẩy ra tại Trung hoa. Bất cứ ai khờ mấy thì cũng cho rằng một trái đạn bắn từ Mỹ thì dù to bự đến đâu cũng không thể nào tiêu hủy toàn thành phố Matscơva được. Và họ cũng cho rằng bạn không thể nào bay được như một con chim lên tới tận mặt trăng trong một phi thuyền giống như cỗ xe ngựa kéo, rồi bước ra đi bộ vòng vòng, và sau đó lại trở về trái đất được.
Chủ điểm của trò chơi trên cho thấy điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thương, điều mà dân thế kỷ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân ở thế kỷ khác lại là chuyện rất bình thường (M. Link).
Bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn dạy chúng ta: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải, các con cứ nói với cây dâu này: ”Hãy nhổ gốc lên và xuống mọc dưới biển”, nó sẽ nghe lời các con”. Tin mừng hôm nay cho thấy nhờ đức tin mà chúng ta có được quyền năng Chúa nằm nơi tầm tay của mình. Từ đó, không có điều gì là không thể được – kể cả một thế giới không có chiến tranh, không còn nghèo đói, không còn hận thù.
Đức tin mở cho chúng ta cánh cửa đi vào thế giới mới, thế giới khác, thế giới của Thiên Chúa mà mắt phàm không thể thấy được. Cái nhìn của đức tin là cái nhìn luôn hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp của con người, mới có sức mạnh chuyển núi dời non, mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu. Nhưng khốn thay, đức tin của chúng ta thường mang tính quá chủ quan, nặng cái tôi kiêu căng: nghĩa là để tin và chấp nhận được chúng ta hay đòi hỏi đức tin phải hợp tình hợp lý, phải rõ ràng minh bạch, phải đúng như lòng trí ta suy tưởng. Thế thì ta coi cái tôi, ý riêng mình quan trọng hơn ý Chúa, làm sao có thể gọi đó là đức tin chân chính được.
Tóm lại, bao lâu chúng tin và yêu Chúa mà không nhìn vào Chúa như cùng đích của đời mỗi người, mà lại nhìn vào tấm gương phản chiếu cái tôi của mình thì bấy lâu chúng ta mãi mãi là những kẻ khốn khổ và bất hạnh nhất trên đời.
II. ĐỨC TIN VÀ PHỤC VỤ.
1. Ý nghĩa “người đầy tớ”.
“Ai trong các con có người đầy tớ đi cầy hay đi chăn chiên, mà khi ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ”Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: ”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn xong đã rồi anh hãy ăn uống sau” (Lc 17,7-8). Thường các bản văn dịch chữ “Servus” của tiếng La tinh là “đầy tớ”, nhưng ngày xưa chữ servus của tiếng La tinh còn có nghĩa là ‘nô lệ”. Hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở thế giới La Hy vào thời của thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát, đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là vật sở hữu của ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Như vậy, theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cầy ruộng về, hay dẫn đàn chiên từ đồng cỏ về, ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ ông ăn bữa tối trước đã. Bổn phận của người đầy tớ là làm theo ý chủ dạy, làm hết việc này sang việc khác mà không có quyền đòi hỏi chủ phải biết ơn.
2. Người đầy tớ vô dụng.
“Chẳng lẽ ông chủ phải biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao”? Đối với các con cũng vậy: khi đã làm hết tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,9-10). Khi dùng hình ảnh “đầy tớ vô dụng” thì chỉ là kiểu nói khiêm tốn. Nhưng xét cho cùng, con người chỉ là vô dụng đối với Thiên Chúa. Vì Ngài là Đấng trọn hảo và quyền năng vô biên. Ngài chẳng cần chúng ta ca tụng, và cũng chẳng cần chúng ta cộng tác. Tuy nhiên, vì thương yêu chúng ta mà Ngài đã liên kết và còn trở thành người phục vụ chúng ta.
Qua hình ảnh đầy tớ, Đức Giêsu muốn dạy các tông đồ đừng bao giờ vênh vang như thể mình có quyền đòi hỏi Chúa phải biết ơn sau khi mình đã làm xong bổn phận. Khi nói “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được việc gì. Các tông đồ cũng làm cho nhiều người tin theo Chúa. Tuy nhiên ở đây, “đầy tớ vô dụng” chỉ là kiểu nói có tinh cách cường điệu và có nghĩa là “thân phận hèn kém”. Người tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì thành quả tuy do các ông làm, nhưng đều nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, như là Ngài phán: ”Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
3. Người đầy tớ và phục vụ.
Đức tin đi đôi với sự trung thành phục vụ (Ga 12,26). Có lẽ các môn đệ đã không nghĩ như vậy. Trong tâm thức của họ, đức tin đồng nghĩa với quyền lực (Cv 1,6). Họ chứng kiến Đức Giêsu làm các phép lạ lớn lao bằng đức tin. Họ cũng muốn làm như vậy. Họ muốn sự vinh quang của quyền lực (Lc 9,49). Do đó khi cắt nghĩa về đức tin, Đức Giêsu dùng hình ảnh của người đầy tớ hết lòng phục vụ chủ của nó, nếu hiểu rõ, có lẽ các ông không vui vẻ cho lắm: ”Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ”Chúng tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều phải làm”.
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta bị đòi buộc phải phục vụ Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình như những đầy tớ. Đức Giêsu đã đến phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngay cả Ngài là chủ, là Chúa mà Ngài còn rửa chân cho các môn đệ. Ngài cũng mời gọi chúng ta buớc theo con đường phục vụ khiêm tốn. Nếu chúng ta có đức tin bằng hạt cải, chúng ta có thể di chuyển cả núi đá kiêu hãnh cản trở chúng ta sống như những “đầy tớ của các đầy tớ Thiên Chúa” (Nguyễn văn Thái).
Truyện: Nghệ nhân và cục đất sét.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đàng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, đã viết câu này: ”Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao”?
Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sư đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất được một quyển bách khoa tự điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm An độ, học giả hỏi đạo sư xem liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi: ”Ông dùng phương tiện nào để viết: bút, máy chữ hay điện toán”? Ông cho biết ông luôn sử dụng bút. Đạo sư nói ngay: ”Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cảm ơn cây bút mà ông đã dùng không”?
Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.
Còn thánh Phaolô trong thư gửi cho Timôthêô (bài đọc 2) căn dặn ta phải canh giữ đức tin và bền vững trong việc tuân giữ lời hứa khi chịu phép Rửa tội. Tin vào lời Chúa là sẵn sàng làm theo ý Chúa, để Chúa làm chủ đời sống và tìm vinh danh Chúa. Tuy nhiên trong thực tế ta thường giữ đạo theo lối tính tóan: có đi có lại. Đó là những khi chúng ta mặc cả hoặc đòi điều kiện với Chúa như khi nói: Nếu con phụng sự Chúa, nếu con làm việc này việc nọ cho Chúa, thì con sẽ được phần thưởng gì? Người ngọai giáo trong đế quốc La mã thời xưa tôn thờ, khấn vái chư thần của họ trong lối mặc cả có đi có lại “DO UT DES”. Còn bổn phận người con hiếu thảo với Chúa không thể nằm trong cái lối mặc cả ti tiện đó. Nếu cha mẹ không thích lối mặc cả của những đứa con khi làm việc nọ việc kia như quét nhà, đổ rác để nhận phần thưởng, thì Thiên Chúa cũng không ưa gì lối mặc cả đó của ta. Cha mẹ nào mà thí dỗ con làm việc để lãnh phần thưởng, có thể sẽ tạo ra những đứa con sau này cũng mặc cả với Chúa khi làm việc phụng sự Chúa và phục vụ đồng lọai (TBT).
Nếu ta sống trọn niềm tin thì khi làm việc phụng sự Chúa hay phục vụ đồng lọai, ta không được nghĩ rằng ta làm ơn cho Chúa, mà chỉ tâm niệm rằng mình đang làm bổn phận người con thảo. Bổn phận người con thảo là không cần mặc cả, cũng không đặt điều kiện. Nếu người cha ruột thịt thương và lo liệu săn sóc cho đứa con hiếu đễ, thì Thiên Chúa cũng thường lo liệu, săn sóc cho những người con hiếu thảo và quảng đại.
Truyện: Thánh Phanxicô Assisi.
Có người hỏi thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà Ngài đã làm được những việc làm to lớn như thế? Thánh nhân trả lời: ”Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống cõi trần và tự hỏi: ”Ta tìm đâu ra một người yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ nhất để Ta sai làm việc đây”? Thế rồi Thiên Chúa đã tìm thấy tôi. Người lại tự nhủ: ”Ta đã tìm được đứa đó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ với những việc nó đã làm, vì nó biết rằng: Sở dĩ ta dùng nó chỉ vì nó là đứa yếu đuối nhỏ bé và hèn hạ mà thôi”.
4. Phục vụ trong khiêm nhường và thành thật.
Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về tinh thần phục vụ. Trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã nói: ”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Đức Giêsu đã thực sự trở nên người phàm như chúng ta mà còn hạ mình xuống làm nô lệ để phục vụ phần rỗi cho chúng ta. Đúng là Chúa đã xuống thế làm người để chúng ta làm Thiên Chúa, Ngài đã hoán đổi địa vị cho chúng ta, thử hỏi còn thái độ nào khiêm nhường hơn được nữa không?
Truyện: Khiêm nhường giả tạo.
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lòng ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: ”Từ thời Salômôn đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: ”Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của Abraham”. Người thứ ba nói: ”Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua kém sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: ”Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi:
– Ông có nghe họ ca tụng ông không?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền:
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm nhường của tôi.
Câu trả lời của vị Rabbi muốn các đồ đệ ca tụng sự khiêm tốn của ông cho thấy ông chẳng khiêm nhường chút nào. Vì nếu người ta làm việc tốt với thái độ khoe khoang thành tích như người biệt phái đã làm trong đền thờ, thì họ thực sự không phải là người khiêm tốn! Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy cần Chúa. Họ luôn tự mãn với thành quả đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do công khó của họ. Trái lại, người khiêm tốn luôn hãnh diện về những thiếu sót và lầm lỗi của mình. Vì ý thức mình còn thiếu sót nên họ lại càng cậy nhờ vào ơn Chúa trợ giúp. Do đó, khi được thành công thì họ coi đó là món quà Chúa ban, chứ không nghĩ là công lao tài sức của mình.
Vấn đề đức tin còn phải đặt ra mãi cho mọi thời đại và cho mỗi người chúng ta, nhất là cho thời đại chúng ta đang sống. Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin hôm nay? Không còn cách nào khác nếu không phải dựa vào Lời Chúa và ơn thánh của Ngài. Chúng ta sẽ bị thử thách vì đức tin như các tông đồ xưa. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tầu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa: ”Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”.
Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ơn Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ơn thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường: ”Phần các con, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi làm những điều chúng tôi phải làm”.

14. Tin Tưởng Vào Chúa – An Phong
Ngôn sứ Kha-ba-cúc thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái nhìn: “Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?”
Và Thiên Chúa, qua miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: “Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình”.
Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: “Thưa Thầy, xin cho chúng con được thêm lòng Tin”. Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những điều thuộc trách vụ của mình.
Nhìn lại chính mình, chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhủ: “Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi…”. Nếu chúng ta nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ “làm việc bổn phận mình”, thì Thiên Chúa sẽ chẳng “thua” lòng trung tín của chúng ta.
Thiên Chúa không ban cho chúng ta một “kho Đức Tin” để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng… “chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ” (Lc 12,37).
Lạy Chúa Giêsu,
Chẳng có chi của chúng con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.
Chẳng có chi trong chúng con có thể “chứa đựng” được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn, khởi sự từ một “Đức Tin bằng hạt cải” của chúng con.
Chẳng có chi do chúng con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính “Thịt và Máu” Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.

15. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta biết rằng đức tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi Châu giảng đạo. Ngài muốn chuyển dịch phúc âm thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ. Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông ‘to bebieve – tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart- lắng nghe với trái tim’.
Một số người nghĩ rằng họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? (Kb 1, 2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát. Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh. Người làm ác sẽ bị oán phạt: Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín (Kb 2, 4).
Trong đời sống đạo, đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ, tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc. Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.
Có lần nghe có vị đại diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa. Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con (Lc 17, 6).
Chúng ta tin vào Kinh Thánh mạc khải và tin vào Đấng Trung Gian được sai đến. Chúa Giêsu đến từ Chúa Cha và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi và chương trình cứu độ nhân loại. Tất cả những điều mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là nguồn mạch và cốt lõi của đạo. Tìm đọc lại từng chi tiết trong Kinh Tin, chúng ta sẽ thấy sự quan phòng của Thiên Chúa cách đặc biệt cho sự sống con người. Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom. Con người được tạo nên giống hình ảnh của Thiên Chúa nên cũng được mời tham dự vào sự sống đời đời. Chúng ta hãy lắng nghe và thực hành tin mừng của Chúa. Vì Lời Chúa là lời hằng sống ban cho chúng ta sự sống đời đời. Tất cả là hồng ân.
Đức tin là nhân đức đối thần. Tin là lần bước trong đêm tối của sự phó thác. Tin như tổ phụ Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tin là thái độ không nghi ngờ, không cần lý luận và không đòi hỏi phải hiểu thấu. Nếu mọi sự nhãn tiền trước mắt, chúng ta không cần phải có đức tin. Trong đời sống tôn giáo, niềm tin là cột trụ và là tâm điểm của mọi sinh hoạt sống đạo. Tiên tri Khahabúc kêu cầu Chúa trong sự mong mỏi đợi chờ. Hầu như Chúa vẫn lặng im nhưng ông luôn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Sống đức tin là biết sống phó thác mọi sự trong tay Chúa.
Con người là loài thụ tạo giống như chiếc bình gốm mỏng dòn dễ bể. Người thợ gốm muốn nắn nên hình thể nào mặc ý, bình gốm không có quyền đòi hỏi. Bình gốm được trưng bày trang trí mỹ thuật là một hạnh phúc tuyệt vời. Con người cũng thế, được hiện hữu là một ơn trọng. Tất cả những gì chúng ta làm chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang lại lợi ích cho chính chúng ta. Chúa Giêsu nói: Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’ (Lc 17, 10). Nhận ra chân giá trị của đời sống để chúng ta tôn thờ Chúa cho phải đạo.
Truyện kể: Có một bà cụ già trải qua thời gian rất nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà bồn chồn lo lắng vì chưa bao giờ xảy đến với bà như thế. Trong thất vọng, bà chạy đến với một vị linh mục xin lời khuyên. Bà hy vọng vị linh mục sẽ lý luận để chứng minh cho bà là Thiên Chúa hằng sống và tốt lành. Bà rất ngạc nhiên rằng linh mục chẳng nói gì về vấn đề này. Lời khuyên rất đơn sơ và xem ra không ăn nhập gì cả. Linh mục nói với bà hãy ra đi và thực hành những nghĩa cử yêu thương, tử tế và cảm thông với những người bà gặp trong đời, mọi sự sẽ tốt đẹp. Bà thực hành lời khuyên và thời gian trôi qua, tất cả những nghi ngờ về Thiên Chúa hoàn toàn biến mất.
Thánh Phaolô là tông đồ nhiệt thành luôn khuyến khích mọi người liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Kêu gọi sống kiên tâm và vững mạnh trong ơn nghĩa của Chúa. Phaolô phó dâng hoàn toàn cuộc đời trong Chúa. Những thơ viết cho cá nhân hay các giáo đoàn luôn là những lời khuyên răn, khích lệ và hướng dẫn sống đạo: Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ (2Tm 1, 7). Phaolô say mê trong việc rao truyền Chúa Kitô phục sinh và mọi sự đều qui hướng về Đức Kitô. Đến nỗi ngài đã phải thốt lên rằng tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Ngài tiếp tục khuyên răn môn đệ luôn sống trong sự thật của đức ái: Con hãy lấy những lời lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô (2Tm 1, 13).
Lạy Chúa, chúng con chỉ là đầy tớ vô dụng. Tất cả cuộc sống đều nhờ bởi ơn Chúa. Xin Chúa đừng để chúng chìm đắm trong sự hão danh và háo thắng. Mọi công trình vĩ đại thuộc tinh thần cũng như vật chất đều qui hướng để làm sáng danh Chúa hơn nữa. Xin Chúa chúc lành cho mọi công việc bổn phận hằng ngày của chúng con. Amen.

16. Làm tròn bổn phận người tôi tớ
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Thiên Chúa hạ mình làm tôi tớ nhân loại
Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm và đã hiến thân phục vụ muôn người như một người tôi tớ.
Khi thấy đoàn dân đông đảo đang đói, Ngài lo cho họ được ăn no. Khi thấy những người phong hủi bị chứng bệnh nan y hành hạ và bị loại trừ ra khỏi làng mạc, Ngài chữa họ được lành để đoàn tụ với gia đình. Ngài làm cho người câm được nói, cho người điếc được nghe, cho kẻ què được đi và cho người chết sống lại.
Ngài sẵn sàng hầu hạ phục dịch mọi người. Ngài nói với các môn đệ: “Giữa người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ” (Lc 22, 27).
Chúa Giêsu đã thực sự làm tôi tớ hầu hạ, khi trong bữa tiệc ly, chính Ngài đã lấy nước đổ vào chậu rồi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó là công việc của người nô lệ phục vụ chủ mình.
Và sau khi sống lại, Chúa Giêsu đến với các môn đệ trên bờ biển Galilê ngay khi trời hừng sáng. Ngài không đến với hai bàn tay không nhưng mang theo than, củi, bánh và cá. Rồi Ngài nhóm lửa trên bãi biển, nướng bánh và cá rồi mời các môn đệ lại ăn. Ngài phục vụ y như người tôi tớ trong gia đình (Ga 21, 4-14).
Cao điểm của phục vụ là Ngài hiến mình như chiên đền tội. Ngài làm chiên gánh lấy tội lỗi thế gian, cho người ta trút tội lên đầu Ngài, Ngài mang lấy tội lỗi muôn người để đền tội cho mọi người, chết thay cho mọi người.
Còn chúng ta thì sao?
Chúa Giêsu là Chúa tể mà lại đem thân làm tôi mọi cho loài người như thế đó; còn chúng ta là tôi tớ hèn mọn lại thích làm như thể mình là chủ của Thiên Chúa, muốn Thiên Chúa làm theo mọi ước vọng của mình, muốn Thiên Chúa phục dịch mình mọi mặt.
Chẳng hạn khi đau yếu, người ta yêu cầu Chúa chữa họ mau lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công! Khi phải sống cảnh nghèo, người ta xin Chúa cho trúng số… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!
Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước.
Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta trở về vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và dạy ta hãy làm tròn nhiệm vụ tôi tớ của mình. Ngài nói: “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi. ”
Lạy Chúa Giêsu,
Từ lâu nay, chúng con ước mong, kêu cầu Chúa thực hiện rất nhiều điều theo ý chúng con muốn, nhưng thử hỏi: Chúng con đã làm theo điều Chúa muốn chúng con làm hay chưa?
Chúa muốn chúng con sống bác ái, yêu thương, phục vụ, tôn trọng mọi người… chúng con đã làm những điều đó chưa?
Nếu chúng con chưa làm được những việc Chúa giao thì làm sao chúng con dám đòi Chúa thực hiện điều chúng con muốn.
Trước khi kêu cầu Chúa thực hiện điều con muốn, xin cho chúng con chu toàn mọi điều Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng con.

17. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”
Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.
Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.
Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được. Chúa là Chủ, con người là tôi tớ. Chúa là Hình, con người là bóng. Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.
Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!
Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.
Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa
Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.
Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.

18. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Cha Jacques Loeuw, trong một bài giảng đã nói một câu làm mọi người sửng sốt: “Có thể bạn là một vị khổ tu, bạn cũng có thể là người “không có Chúa”. Một linh mục khác cũng nói: “Có những người công giáo vô thần và có nhiều người không giữ đạo mà lại tin Chúa”.
Điều nầy là một sự thật. Tại sao thế?
Vì nhiều người công giáo chỉ giữ một thứ đạo “ngoài da”, một thứ đạo không hồn: đọc kinh, dự lễ, xưng tội, chịu lễ, nhưng cuộc sống hoàn toàn không có Chúa. Nhìn vào cuộc sống của họ, người ta chỉ thấy tiền bạc, mua sắm, tranh giành, nói xấu…Như thế có thể nói là có đức tin không?
Tin không phải chỉ là chấp nhận một số giáo điều, làm một số việc, mà nhìn nhận sự có mặt của một người trong đời mình, đó là Chúa Giêsu, Đấng Tuyệt Đối, nắm trọn quyền trên tôi và tôi hoàn toàn thuộc về Ngài, vô điều kiện.
Tin là trao phó tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa để Ngài dẫn dắt, và chúng ta chỉ vâng nghe. Nhưng trước hết, tin là lãnh nhận một hồng ân nhưng không Chúa trao ban. Con người có thể tìm thấy Chúa nhờ trí khôn của mình, thánh Phaolô đã nói như thế, nhưng tin vẫn là một hồng ân. Các Tông đồ đã xin Chúa thêm lòng tin, nhưng Chúa không nói đến lời yêu cầu của các ông mà bảo: “Nếu anh em có niềm tin lớn bằng hột cải thôi, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy xuống biển, nó cũng vâng lời anh em”. Thế nghĩa là sao?
Hạt cải ở xứ Do thái là một thứ hột li ti. Chúa muốn nói rằng, chúng ta chỉ cần tin thôi, nghĩa là chấp nhận để Chúa làm tất cả. Cây dâu kia vâng lời chúng ta, nhưng thực sự nó vâng lời Chúa chứ không phải chúng ta. Chính Chúa bảo nó xuống mọc dưới biển qua lòng tin của chúng ta chứ không do quyền năng của chúng ta.
Khi chúng ta trao trọn mọi sự trong tay Chúa, chính Chúa sẽ sử dụng chúng ta để làm công việc của Ngài.
Trong lịch sử Giáo Hội, các thánh đã làm những việc vĩ đại, nhưng cá nhân của các ngài chỉ là những con người như chúng ta thôi. Họ đã làm được vì họ đã tin.
Thánh Phanxicô Assisi, với hai bàn tay trắng, với một cái áo dính da, đã lập ra dòng Anh Em Hèn Mọn, và từ hơn mười thế kỷ nay, những anh em hèn mọn ấy đã mang lại biết bao nhiêu kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội và cho các linh hồn. Ngài đã chuyển núi dời non, với hai bàn tay trắng.
Đức Mẹ đã hiểu điều đó khi Ngài nói: “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” chứ không phải tôi. Chúa đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Ngài”. Đức tin bằng hạt cải là như thế, là cảm thấy mình nhỏ bé trong tay quyền năng của Chúa, trao phó cho Chúa tất cả và để Chúa sử dụng theo ý Ngài.
Không có gì đơn sơ hơn, nhưng cũng không có gì khó hơn.
Nói như thế không phải là thụ động, mà đem tất cả sức lực, khả năng làm những việc Chúa muốn. Kết quả không do nỗ lực của chúng ta mà do Chúa: “Vì không có gì mà Tiên Chúa không làm được”.
Con người thường tự hào về những thành công của mình. Họ nghĩ rằng họ thông minh. Họ không biết rằng chỉ cần một gân máu nhỏ bị đứt trong não, là mọi sự tiêu tan. Thánh Phaolô nhìn nhận: “ Tôi không xứng đáng được gọi là Tông đồ vì tôi đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Nơi khác ngài nói: “Tôi trồng, Apôlô tưới và Chúa cho mọc lên”.Tất cả là do quyền năng của Chúa.
Còn tôi, tôi có tin không? Đức tin của tôi có tầm vóc của một hạt cải chưa? Vì chúng ta không tin, chúng ta không thể chuyển núi dời non như Chúa nói, chúng ta chưa làm được gì.
Chuyển núi dời non cũng còn dễ, hoán cãi một tâm hồn càng khó hơn. Chúng ta đã làm được gì? Chúng ta đừng ngạc nhiên, vì chính chúng ta cũng chưa tin Chúa đủ, chưa yêu mến Chúa.
Chúa Giêsu lại nói đến người đầy tớ. Tên đầy tớ chính là chúng ta. Chúa đặt chúng ta vào cuộc sống nầy, không phải để rong chơi, hưởng thụ, nhưng để xây dựng hạnh phúc cho chúng ta và cho anh em.
Hạnh phúc từ đâu đến? Hạnh phúc không có sẵn như một món hàng chỉ cần có tiền là mua được. Hạnh phúc là một công trình phải xây dựng từng ngày, từng lúc. Xây dựng bằng gì? Không phải bằng gạch đá hay cẩm thạch, nhưng bằng vâng phục.
Vâng phục như một đầy tớ vâng phục chủ mình. Nhiều người cho như vậy là mất phẩm giá, là lệ thuộc. Trong thực tế, cuộc sống chúng ta vẫn là một lệ thuộc liên lỉ. Chúng ta phải tuân theo luật của sự sống, phải thở, phải ăn…Đó chẳng phải là một lệ thuộc sao? Ông Frédéric Nietzsche, một triết gia vô thần đã nói: “Các anh, người công giáo, như những con lạc đà, quỳ gối xuống để người ta chất lên lưng những gánh nặng và lê lết suốt đời dưới gánh nặng đó”. Ông ấy đã sai lầm. Cuộc sống vẫn là một gánh nặng rồi.Chúng ta không thể né tránh. Hơn nữa, còn một gánh nặng khác ghê gớm hơn là gánh nặng của đam mê, của nết xấu và tội lỗi. Vâng lời Chúa, chúng ta mới có thể chiến thắng tội lỗi và những đam mê xấu xa,bẻ gãy xiềng xích của gian ác, chúng ta mới thực sự tự do.Bao lâu con người còn tội lỗi và gian ác, con người vẫn còn nô lệ.
Chúa Giêsu đã đến giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Chúng ta chỉ được tự do khi chúng ta đi theo Ngài, vâng theo Ngài tôi, và nếu chúng ta có làm được gì, thì cũng nhờ Ngài mà thôi. Chúng ta chỉ là “những đầy tớ vô dụng”; “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì”.
Thánh Phaolô đã kiệt lực vì Nước Trời, phục vụ Tin Mừng cho đến chết, nhưng cuối cùng ngài nhìn nhận: “Tôi có là gì là nhờ ơn Chúa mà thôi” và chúng ta cũng có thể thêm: “Vì tôi chỉ là đầy tớ vô dụng thôi”.
Càng ý thức mình nhỏ hèn Chúa mới sử dụng chúng ta để làm những việc trọng đại nơi “ những đầy tớ vô dụng” đó: “Nếu Chúa kông xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổn công”.
Vì thế, chúng ta mãi mãi là những “đầy tớ vô dụng”. Hãy làm những gì chúng ta phải làm với tất cả tình yêu và phó thác cho Chúa, Ngài sẽ biến mọi cố gắng của chúng ta thành hồng ân.
Chúa Giêsu, Đấng làm được mọi sự, sẽ đến với chúng ta qua tấm bánh Tình Yêu của Ngài. Hãy ăn lấy Ngài với tất cả yêu thương và trao trọn cho Ngài cuộc sống nhỏ hèn của chúng ta, để Ngài dùng chúng ta “chuyển núi dời non”, để hoán cải bao nhiêu tâm hồn đang còn quá xa lạ với Ngài. Chúng ta sẽ thấy cuộc đời chúng ta tươi sáng, mặc dù khó khăn vẫn còn và không thiếu. Hãy là những đầy tớ vô dụng nhưng tràn trề phó thác và tình yêu.

19. Tin hay tín thác vào Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rẽ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’ nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc17,6).
Làm sao đức tin nhỏ xíu, chỉ bằng hạt cải mà lại có thể chuyển cây dâu đi một cách thần kỳ như vậy. Trong lịch sử Giáo hội cũng chưa thấy vị thánh nào lại thể hiện lòng tin một cách ngoạn mục theo kiểu này!
Một em bé đang rơi từ trên cao xuống, không biết có vị thánh nào, có lòng tin bằng hạt cải, ra lệnh: “Hãy dừng lại, đừng rơi nữa”. Kết quả là em bé ngưng rơi xuống chăng?
Vậy thì, cần phải hiểu làm sao về giáo huấn của Chúa Giêsu về đức tin lớn bằng hạt cải?
Trước tiên, lời dạy của Chúa Giêsu không có ý dạy về quyền năng của con người nhờ sự tin tưởng của mình. Điều tin tưởng này được thấy nơi những nhà ma thuật, những phù thủy, mà ta thường nghe nói hay đọc trong những chuyện cổ tích. Họ có thể hô biến, tức thì cục đã hóa ra bánh, cục sắt hóa ra thỏi vàng, cây gậy hóa ra con rắn như các thầy phù thủy của các vua Ai Cập ngày xưa.
Chúa Giêsu cũng không có ý dạy về một đức tin, kiểu như cậy nhờ vào danh hay quyền năng của Thiên Chúa, để làm một điều lạ lùng để biểu diễn, để chứng tỏ mình là có ơn Chúa, như được thấy qua lời cám dỗ của ma quỷ: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!” (Mt 4,3) “Nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy biến đá thánh bánh đi”. “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi…” (Mt 4,6).
Chúa Giêsu đã không hóa đá ra bánh; đã không gieo mình xuống để chứng tỏ đức tin của mình đối với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu cũng không có ý dạy về một đức tin, kiểu như bắt Chúa phải làm theo ý muốn của con người, hoặc có vẻ mù quáng, kiểu như các bà hiếm muộn cầu nguyện xin Chúa cho mình có con trong câu chuyện về các bà bầu, khoảng mười năm trước đây. Các bà đi cầu nguyện và sau khi cầu nguyện, thì các bà phải tin rằng mình đã có thai, và không được đi siêu âm. Theo giải thích của họ, nếu đi siêu âm thì mình còn nghi ngờ; mà còn nghi ngờ thì Chúa sẽ không ban cho.
Đó quả là một đức tin mù quáng. Một bà bị hiếm muộn, đã nói chuyện với tôi, kể rằng bà thấy mình mang thai, vì bụng đã to ra. Nhưng sau chín tháng mười ngày mà vẫn chưa thấy mình sinh nở gì cả. Rồi hai ba năm sau cũng chẳng thấy sinh con gì cả. Đặt biệt là bà cũng không đi siêu âm để biết mình có thai thật không. Sau này, bà mới vỡ lẽ, nhận ra rằng mình chẳng có thai gì cả, bụng mình to ra chỉ vì mình ăn uống bồi bổ, nghĩ ngơi để dưỡng thai. Bụng nó to ra không phải vì có thai, mà vì có nhiều mỡ tích tụ.
Câu chuyện của các bà bầu ở đây cho thấy một đức tin mù quáng, muốn bắt Chúa làm theo niềm tin của mình.
Vậy đoạn Tin Mừng muốn giáo huấn ta về một đức tin như thế nào?
Chúa Giêsu đã dạy, sau khi các môn đệ cầu xin Ngài ban thêm ơn đức tin. Chắc là lúc đó, các môn đệ cảm thấy mình rất yếu đuối, rất khó khăn để có thể tin vào Chúa Giêsu. Phải tin Ngài là Đấng Kitô, trong khi Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria ở làng quê Nazaret; phải tin Ngài là Con Thiên Chúa, trong khi họ luôn tin tưởng rằng, Thiên Chúa là độc nhất, một Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
Phải tin vào Ngài khi các môn đệ không thấy được tương lai sáng sủa huy hoàng mà chỉ thấy những tối tăm hoạn nạn. Khi Phêrô tuyên xưng rằng: Đức Giêsu là Đấng Kitô là Con Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su khen ngợi: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc…” (Mt 16,17). Nhưng ngay sau đó khi Chúa Giêsu loan báo: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”, thì Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài: Thưa Thầy, không thể như vậy được (xem Mc 8,27-35).
Quả là rất khó mà các môn đệ có đức tin, ngay cả Thánh Phêrô. Gần trước cuộc Thương Khó, Chúa Giê-su còn nói với thánh Phê-rô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32).
Vậy đức tin mà Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là tin vào Ngài, vào Thiên Chúa Cha với một niềm tín thác.
Ở đây, chúng ta cũng nên tìm hiểu tin hay “tín thác” có ý nghĩa là gì?
Chúng ta vẫn thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa”, nhưng thật sự chúng ta có tín thác vào Chúa không?
Một bà bị hiếm muộn, không có con, bà cầu xin Chúa cho mình được có con, nhưng bà cũng cầu nguyện thêm: “Nhưng nếu Chúa muốn, con cũng vui lòng sống hiếm muộn; con sẽ dâng Chúa thời gian chăm sóc những người già yếu bệnh tật thay vì chăm sóc con cái”.
Bà này quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Ông nọ, bị bệnh nan y, chạy chửa nhiều thầy nhiều thuốc mà vẫn không khỏi, cầu xin Chúa cho mình được khỏi bệnh những ông cũng cầu nguyện thêm: “Nhưng nếu Chúa muốn, Chúa cứ vẫn để con bệnh tật, con xin dâng Chúa những đau đớn, mệt nhọc để cầu cho gia đình con được an vui khỏe mạnh, để đền bù những tội lỗi của con”.
Ông này quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Cô gái trẻ nọ lỡ mang thai, hoặc một người vợ mang thai kèm theo nguy hiểm cho sức khỏe, mạng sống của mình, hoặc thai nhi bị dị tật. Họ vẫn kiên quyết không phá thai, mặc dù phải chịu những hy sinh mất mát trước mắt.
Họ quả đúng là có sự tín thác vào Chúa!
Cha mẹ Công giáo nọ, nghèo nàn, làm ăn vất vả nhưng vẫn sinh và nuôi nấng giáo dục con cái. Họ cũng bỏ ra thời gian công sức để giúp đở người hàng xóm, không sợ mình sẽ nghèo thêm, sẽ đói thêm. Gia đình này quả đã tín thác vào Chúa.
Họ quả là theo gương Chúa Giêsu, tín thác vào Thiên Chúa Cha. Trong vườn Cây Dầu, trước viễn cảnh mình sẽ bị bắt, bị tra tấn, bị sĩ nhục và bị đóng đinh vào thập giá, Chúa Giêsu đã sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Đức Giêsu chính là mẫu của những ai tin hay tín thác vào Thiên Chúa, tin rằng mình luôn ở trong bàn tay quan phòng đầy yêu thương của Thiên Chúa, tin rằng những thiệt hại, những đau đớn bệnh tật, những nghèo nàn khổ sở, những thất bại sĩ nhục là như hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt.
Tín thác vào Chúa theo gương Đức Kitô cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chết đi cho thế gian để sống cho Thiên Chúa.

20. Xin thêm lòng tin cho chúng con
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đức tin là chủ đề nổi bật trong phụng vụ Chúa Nhật tuần này. Đức tin được đề cập đến trong bài đọc I: “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Kb 1,4). Ý tưởng này được Thánh Phaolo lấy để khuyên môn đệ mình là Thimôthê: “Con hãy lấy những lời lành lẽ phải… làm mẫu mực trong đức tin…” (2Tm 1,13-17). Bài Tin Mừng bắt đầu với lời cầu xin của các tông đồ cùng Chúa Giêsu: “Xin thêm lòng tin cho chúng con!” (Lc 17, 5-6).
Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn. Người nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: “hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biến’, nó liền vâng lời các con” (Lc 17,6). Chúng ta lấy câu này làm lời cầu xin của mình trong thế giới hôm nay. Chúa Giêsu có ngoa ngữ hay không khi nói đức tin của các môn đệ chỉ bằng hạt cải thôi, cũng có thể làm những điều con người không bao giờ nghĩ tới. Đúng như vậy, người đơn sơ, khiêm tốn nhưng có đức tin mạnh mẽ thì có thể chuyển núi dời non. Chẳng hạn như, một người cha hay một người mẹ, lúc phải đối mặt với những khó khăn nặng nề hay một ai đó đang lâm bệnh rất nặng mà có đức tin, thì những người đến thăm họ sẽ cảm nhận được sự thanh thản và bình an. Quả thật, những người ấy, nhờ đức tin của họ, đã không tự hào về những gì mình làm, nhưng, như Chúa Giêsu bảo họ: “Chúng con chỉ là những người tôi tớ. Chúng con chỉ làm những điều phải làm” (Lc 17,10).
Sống trong thời buổi ngày hôm nay, hỏi bao nhiêu người trong chúng ta có được đức tin mạnh mẽ để làm được những điều cả thể.
Đức Tin là gì?
Đức tin không phải là một vấn đề phức tạp. Những hoàn cảnh vốn phức tạp, nhưng bản thân đức tin lại rất đơn giản. Tin chính là biết Thiên Chúa là ai, biết Ngài hằng yêu thương và muốn giúp đỡ chúng ta, Ngài sẽ thực hiện cho dù sự hiểu biết ấy trái ngược với những hiểu biết thông thường của chúng ta và biết rằng Ngài nghe lời chúng ta cầu nguyện.
Đức tin thì không giao động hoặc hoài nghi. Thiên Chúa biết chúng ta không hoàn hảo. Khi chúng ta có lòng tin, chúng ta sẽ vững vàng tin tưởng vào Chúa, không bị lay động bởi những tin tức xấu hoặc xu hướng xấu (x. Tv 112,7). Mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho (x. Rm 12,3). Vì thế, chúng ta phải xin Chúa ban cho món quà của Thần Khí là ơn đức tin (x. 1 Cr 12,9). Xin Thiên Chúa gia tăng lòng tin nơi chúng ta (x. Lc 17, 5).
Sự cần thiết của Đức Tin
Còn sống là còn cần đến đức tin. Đức tin để tin tưởng và đón nhận Lời được viết; để nghe những Lời từ Thiên Chúa; để vâng phục và thi hành ý Chúa; tin vào Chúa trong những lúc ngặt nghèo; phó thác mọi sự trong tay Chúa; đương đầu với những thử thách và ngay cả những hoàn cảnh không thể. Tiên tri Khabacuc mô tả người có đức tin, cậy dựa vào Chúa, nhưng bị thử thách quá sức: “Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng” (Kb 1,2-3). Chúa bảo: “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Kb 1,5). Đức tin cho ta rất nhiều thứ.
Để hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời ta, chắc chắn chúng ta phải cần đến đức tin. Làm sao để đức tin của chúng ta lớn mạnh là việc chúng ta phải làm ngay hôm nay. Chúng ta sẽ không có được đức tin để chuẩn bị cho tương lai nếu chúng ta không bắt đầu luyện tập và củng cố thêm đức tin của chúng ta ngay từ bây giờ.
Tháng truyền giáo, tháng Mân Côi
Bước vào tháng Mười, tháng dành riêng cho việc truyền giáo, với chủ đề: “Được Rửa tội và được sai đi. Giáo Hội của Chúa Kitô với sứ mạng truyền giáo trên thế giới”. Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành “Tháng ngoại thường về truyền giáo” này để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.
Chúng ta nhớ đến các nhà truyền giáo đang hăng say rao giảng và mang Tin Mừng đến cho người khác, họ đã phải vượt qua những khó khăn đủ loại, kể cả trao ban sự sống. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho họ ơn can đam, nâng đỡ họ, để họ can đảm, như thánh Phaolo nói với Timôthê: “Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa” (2Tm 1,8). Mỗi chúng ta cũng có thể làm chứng cho Chúa, với sức mạnh của Thiên Chúa, sức mạnh của niềm tin. Ðức tin của chúng ta nhỏ bé nhưng mạnh mẽ: với sức mạnh đó chúng ta làm chứng cho Chúa Giêsu, là những người Kitô hữu bằng đời sống, bằng chứng ta của chúng ta.
Và làm thế nào để chúng ta có được sức mạnh ấy? Chúng ta phải cầu xin. Lời cầu nguyện là hơi thở của đức tin. Lời cầu nguyện, đức tin, tình yêu liên kết với nhau vốn là điều không thể thiếu, lời cầu nguyện là thưa chuyện với Thiên Chúa.
Tháng 10 cũng là tháng Mân Côi, chúng ta hiệp ý cùng nhau cử hành hành vi đức tin với Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh Mân Côi, Mẹ chúng ta, đồng thời xin Mẹ là cô giáo của trường cầu nguyện, trường đức tin dạy chúng ta siêng năng lần chuỗi Mân Côi để cầu cho thế giới được muôn muôn sự lành. Amen.

21. Nếu các con có lòng tin
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khi nghe giáo huấn của Chúa Giêsu về điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy mình bất xứng. Xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, các ông thấy cần phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, nên đã kêu lên: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!” (Lc 17,5).
Bài Tin Mừng Chúa Nhật này bắt đầu bằng lời van xin các tông đồ với Chúa Giêsu là xin ban thêm lòng tin. Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức tin lớn mạnh hơn, nên Ngài nói: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải…”
Đức tin là chủ đề nổi bật của Chúa Nhật này, Chúng ta cũng nghe về đức tin trong bài đọc thứ nhất, trong hàng danh tiếng của Khabacúc, được Thánh Phaolo lấy lại trong thơ gởi tín hữu Roma: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống” (1,17).
Các môn đệ hiểu rằng lời dạy của Thầy Giêsu không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy”. Đức Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi đối diện với lời van xin của họ là gia tăng về số lượng, Ngài liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con”.
Đức tin không hành động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất ngờ và không thể dự kiến trước được, như: “Gió muốn thổi đâu thì thổi: ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy”. (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí.” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp với Thiên Chúa và cho phép chúng làm điều tưởng chừng như không thể.
Tiếp theo Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một dụ rất thường ngày, có tính so sánh trong tương quan giữa chủ nhà và đầy tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn, từ ‘hầu hạ’ bắt nguồn từ chữ “phó tế” trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.
Ông chủ được phục vụ nhưng lại không mang ơn người đầy tớ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi khắt khe, nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được được cất nhắc lên, nhưng không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.
Từ những lời dạy trên, Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra trong đức tin, mình không phải là “quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ; Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau
khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17) ).
Qui chiếu về khổ đau có thể làm chúng ta lo sợ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi những thất bại của thế gian này; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.
Trong khi đợi chờ sự can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến là điều chắc chắn như lời Ngài hứa: “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết trên trái đất của chúng ta (Mt 25, 13). Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục cuộc hành trình trên thế gian này, trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành của chúng con. Amen.

22. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi
Chúa Giêsu mời gọi ta tin vào Người. Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của Người. Trái lại, các môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin Chúa thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của ta?
a) Lòng tin là một ân huệ Chúa ban
Giáo lý Công giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người muốn ta phải tin vào Người? Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa Người với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người là Đấng “trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.
Đức tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin vào Thiên Chúa” (St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và thi hành những điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).
Như vậy, đối với một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về Chúa Kitô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.
b) Sức mạnh của lòng tin
Các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người. Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người. Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em.” Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Chúa Giêsu bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
c) Phục vụ trong khiêm tốn
Đức tin luôn ràng buộc với sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng một bài học ấy: “Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tỷ dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta có được lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như Chúa Giêsu đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho tôi “được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày một trung thành hơn”?
Tôi thử nhìn lại lịch sử đức tin của tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?
“Những cây dâu” nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)

23. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không? – Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền: – Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
***
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.

24. Đức tin và người đầy tớ vô dụng
(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:
– Sức mạnh của ĐỨC TIN
– Khiêm tốn khi phục vụ
Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.
Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.
Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ
Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.
Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.

25. Xin thêm niềm tin cho chúng con
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng, giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng. Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.
Để nói về đức tin, Đức Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.
Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.
B. Bessière kể: Tôi biết một người nhờ ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng. Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề, đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.
Trong các nhân đức đối thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả, bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự hỏi người dự tòng: “Con xin sự gì cùng Hội thánh?” Người dự tòng thưa: “Con xin đức tin”. Linh mục hỏi tiếp: “Đức tin sinh ơn ích gì cho con?” Người dự tòng đáp: “Thưa đức tin đem lại cho con sự sống đời đời “.
Thật may mắn cho ta, được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.
Bởi thế, đức tin không chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.
Tuy nhiên, ta đừng mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”.

26. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ ‘những người đầy tớ vô dụng’, do một sự phiên dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. ‘Đầy tớ vô dụng’ ở đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ người có đức tin.
1) Trước hết chúng ta ý thức rằng đức tin là một ân huệ.
Khi các tông đồ nài xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa. Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.
2) Đức tin phải ở trong thế hành động
Nhân danh đức tin mình, Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần thưởng vậy.

27. Đức tin sống động – Lm. Minh Vận, CRM
Trên một chuyến xe lửa từ Lion đến Paris, có một chàng sinh viên trẻ tuổi ngồi bên cạnh một cụ già có vẻ quê mùa chất phác, mặc một bộ đồ bình dân, mang một đôi giầy cũ kỹ, mái tóc cắt vắn và gương mặt nhân từ đạo hạnh. Điều làm cho chàng sinh viên này khó chịu là thấy trên tay cụ già một cỗ tràng hạt, lộ vẻ đạo đức sùng mộ, miệng lâm râm cầu nguyện. Chàng ta không nén nổi lòng bực rọc khó chịu, lên tiếng hỏi móc cụ già:
– Tôi thấy cụ còn tin tưởng những điều có từ thời trung cổ về chuỗi tràng hạt? Chắc cụ cũng tin Bà Maria Đồng Trinh và một mớ tín điều tôn giáo, do mấy ông cố đạo dạy chứ gì?
– Đúng thế, còn cậu thì sao? Cụ già điềm tĩnh trả lời.
– Tôi mà lại tin những điều vô lý và dị đoan như thế à! Chàng sinh viên cười rộ lên cách ngạo nghễ đáp lời, tôi đã tìm được sự thật nơi trường đại học. Nếu cụ muốn sống hợp thời hơn, cụ hãy ném xâu chuỗi này đi và ghi tên học một vài khoa học tân tiến của thời hiện đại.
– Khoa học tân tiến à? Cụ già hỏi lại và nói tiếp: Tôi sợ tôi không hiểu nổi khoa học, chắc cậu có thể giúp tôi được chứ?
– Được, nếu cụ biết đọc, chàng sinh viên cao hứng nhận lời, tôi rất sung sướng được gởi tặng cụ một số sách.
– Tôi cũng biết đọc sách mà, cụ già khiêm tốn đáp lời.
– Tốt, vậy tôi phải gởi theo địa chỉ nào? Chàng sinh viên hỏi lại.
Cụ già lấy trong túi áo ra một tấm danh thiệp trao cho cậu. Trên tấm danh thiệp ghi rõ địa chỉ, số phone, với danh tánh và chức vị như sau:
LOUIS PASTEUR
Viện Nghiên Cứu Khoa Học Paris
Phải chăng khi đọc mấy hàng chữ trên tấm danh thiệp, chàng sinh viên trẻ tuổi kiêu hãnh này đã phải đứng tim và hối hận, vì cái thông thái rởm và thái độ tự kiêu lố bịch của mình, trước sự hiện diện của Louis Pasteur, một nhà bác học nổi danh của thế giới trong thời hiện đại.
I. ĐỨC TIN CẦN THIẾT CHO CUỘC SỐNG
Nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay, nhất là nơi những người theo thuyết vô thần duy vật và hiện sinh; hẳn chúng ta thấy không thiếu những hạng người thông thái rởm, họ tự hào mình thông biết mọi sự, họ chỉ cậy dựa vào trí khôn hữu hạn và nông nổi của mình, mọi sự đều phải được khoa học giải quyết, điều gì khoa học không chứng minh được, họ cho là mê tín dị đoan. Do đó, họ từ chối tất cả những chân lý siêu nhiên như linh hồn bất tử, hạnh phúc đời sau, Thiên Chúa hiện hữu và các phép lạ Ngài đã thực hiện, những ơn phúc Ngài đã ban cho nhân loại… Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã ra tối tăm mê muội, trở nên nô lệ cho thú tính, cho đam mê, cho dục vọng. Chính vì thiếu niềm tin vào Thiên Chúa, con người đã chúi đầu xuống với kiếp sống thú vật, họ chỉ biết tận hưởng cho thỏa mãn những thú vui đê hèn, những cảm giác mau qua, những của cải tạm bợ phù ảo đời này. Chính vì thiếu niềm tin mà xã hội đã phát sinh biết bao tội ác, gây nên biết bao đồi phong bại tục, phá đổ nền luân lý lành mạnh của các dân tộc… Lòng con người đã ra đồi bại, họ dùng mọi mánh lới quỉ quyệt, man trá, lừa đảo, tranh dành, giết người cướp của… Đó là cái ác quả bi đát của sự thiếu niềm tin nơi Thiên Chúa và các giáo huấn của Ngài.
Vì vậy, niềm tin rất cần thiết cho cuộc sống con người trên trần gian. Chính niềm tin nâng cao phẩm giá con người, giúp chúng ta hiểu biết giá trị đích thực của cuộc sống, nó mở rộng trí khôn, tăng triển lòng muốn, củng cố ý chí; nó đưa chúng ta lên cao, vượt lên trên vạn vật, xứng danh một thụ sinh siêu đẳng, được Tạo Hóa ban quyền thống trị vạn vật do Người tạo dựng. Nhờ niềm tin, chúng ta có thể hướng tâm hồn lên cao, khát khao những sự cao siêu trên trời, những chân lý vĩnh cửu của cuộc sống và đạt được hạnh phúc trường tồn của đời sống mai hậu, mà Thiên Chúa đã hứa ban cho các con cái trung thành của Người.
Đức Giám Mục Gay đã rất hữu lý khi quả quyết rằng: “Nhờ Đức Tin, sự thông sáng của Chúa nên sự thông sáng của chúng ta, sự khôn ngoan của Chúa nên sự khôn ngoan của chúng ta, tinh thần của Chúa nên tinh thần của chúng ta, sự sống của Chúa nên sự sống của chúng ta”.
II. MÃNH LỰC VÔ SONG CỦA ĐỨC TIN
Thánh Công Đồng Tridentinô đã dạy: “Đức Tin là phương thế khẩn thiết, vì mọi người cần có Đức Tin thường xuyên, đến nỗi thiếu nó, con người không thể được cứu độ” (Dz # 1793). Do đó, Thánh Phaolô Tông Đồ đã quả quyết: “Không có Đức Tin, chúng ta không thể đẹp lòng Thiên Chúa” (Heb 11:6). Còn Thánh Gioan lại nhấn mạnh với chúng ta rằng: “Đức Tin của anh chị em là một chiến công thắng được cả trần gian” (I Jn 5:4). Quả thật, nếu chúng ta đặt trót niềm tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ được Chúa ban cho chúng ta một sức mạnh vô song, chiến thắng được cả trần gian, chiến thắng mọi mưu thâm chước độc của Satan hỏa ngục; và hơn nữa, chúng ta còn có thể thắng được cả Thiên Chúa, vì Chúa không bao giờ từ chối ban những ơn cần thiết cho con cái hết lòng tin tưởng nơi Người, lại ban chính mình Người là nguồn mọi ơn phúc cho chúng ta nữa.
Biết bao phép lạ Chúa đã thực hiện do niềm tin tưởng con người đặt nơi Chúa. Biết bao ơn phúc Chúa ban xuống cho nhân loại do lời cầu bầu của Đức Mẹ và các Thánh, cũng như của những tâm hồn đẹp lòng Chúa. Mở sách Tin Mừng, đọc hạnh tích các Thánh, tìm hiểu các sự lạ xảy ra tại các trung tâm hành hương trên thế giới, chúng ta sẽ thấy biết bao sự lạ lùng, cả trong lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên, Chúa đã thực hiện do lòng tin tưởng con người đặt nơi Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa đã quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể truyền cho cây dâu bứng rễ lên, đem trồng dưới đáy biển, nó cũng sẽ vâng nghe” (Lc 17:6). Nơi khác, Chúa còn quả quyết: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con còn có thể chuyển rời cả núi đồi nữa”. Tóm lại, nếu chúng ta hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa, tín thác và hy vọng mọi sự nơi Chúa, sống đẹp lòng Người; chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng trọn vẹn lời Chúa hứa: “Chẳng có việc gì mà các con không làm được” (xem Mt 17:19).
Thánh Benedictô dự định xây cất một Tu Viện trong khu đất của Hội Dòng, nhưng lại bị một quả đồi cản trở; hồi đó đâu có xe ủi như ngày nay. Ngài sực nhớ lại lời Chúa phán: “Nếu các con có Đức Tin bằng hạt cải, các con có thể chuyển rời được núi đồi”. Rồi ngài đi cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào Chúa, ngài truyền: “Quả đồi này hãy rời đi chỗ khác, để chúng ta có chỗ xây cất Tu Viện”. Ngài rất tin tưởng lời truyền đó sẽ được thực hiện, rồi ngài an tâm đi nghỉ đêm. Sáng hôm sau khi thức dậy, ngài thấy quả đồi đã chuyển đi chỗ nào không rõ.
III. ĐỨC TIN TRONG CUỘC SỐNG CHÚNG TA
Thánh Giacobê dạy: “Nếu ai trong anh chị em xưng mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin thì nào có ích gì? Đức Tin như thế có cứu họ được không?” (Jac 2:14). Thánh nhân còn quả quyết: “Cũng như xác không hồn là xác chết, thì Đức Tin không việc làm cũng là Đức Tin đã chết tận gốc rễ” (Jac 2:17).
Vậy làm thế nào để Đức Tin được sống động, được duy trì và tăng triển trong bản thân và trong cuộc sống của chúng ta? Chúng ta cần sống theo các nguyên tắc Đức Tin, để Đức Tin trở nên hồn sống, chỉ huy, hướng dẫn và điều khiển mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của chúng ta trong trót cuộc sống, xứng với danh nghĩa chúng ta là con cái Chúa; hơn nữa, còn là những linh hồn đã được Chúa tuyển chọn sống Đời Thánh Hiến, được Chúa ủy thác sứ mạng làm tông đồ, trở nên chứng nhân và nên ánh sáng chiếu soi các linh hồn, để chinh phục họ trở về với Chúa, bằng chính đời sống thánh thiện gương mẫu của chúng ta.
Đức Tin sống động đó phải được hiện thực qua các tư tưởng, lời nói và việc làm hằng ngày của chúng ta:
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra thánh ý Chúa nơi luật pháp, nơi tinh thần Dòng, nơi giáo huấn của Giáo Hội, nơi mệnh lệnh của các vị Đại Diện Chúa, nơi tiếng lương tâm chân chính, để chúng ta biết mau mắn thi hành sao cho Chúa được hài lòng.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra sự quan phòng khôn ngoan của Chúa, nơi các biến cố may rủi xảy đến cho bản thân, cho gia đình, cho Hội Dòng, cho dân tộc, để chúng ta biết vui lòng chấp nhận và thuần phục thánh ý Chúa, đồng thời nhận ra tình thương của Người.
* Đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa nơi tha nhân, nhất là nơi những người nghèo khó tàn tật, để yêu mến và phục vụ họ như phục vụ chính Chúa đang ẩn thân nơi họ.
* Đức Tin sống động đó sẽ giúp chúng ta không tin kiêng dối trá, không mê tín dị đoan, không tin bói toán, đồng bóng, hên xui như dân ngoại… Ví dụ: Tin thần tài, tin thầy bói nói mò, tin hên xui tốt xấu, tin ngày lành tháng tốt, tin phương hướng mồ mả, hoặc nhiều điều nhảm nhí khác tương tự.
Kết Luận
Cũng như các Tông Đồ xưa, chúng ta hãy cầu xin Chúa: “Lạy Chúa xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con được hân hoan hạnh phúc sống theo thánh ý Chúa; can đảm đón nhận những khó khăn nghịch cảnh, Chúa quan phòng khôn ngoan gởi đến, như những món quà Chúa yêu thương ban tặng, hầu chứng tỏ được lòng chúng con yêu mến Chúa”.
Lạy Mẹ là Mẹ của niềm tin, xin Mẹ củng cố niềm tin cho chúng con, để chúng con được noi theo gương Mẹ, sống vững mạnh trong niềm tin, ngay cả những lúc theo lý trí tự nhiên của con người không còn lý do để tin, hầu chúng con được Chúa chúc phúc: “Phúc cho những ai đã không thấy mà vốn vững niềm tin”.

28. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng. Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?
Habacuc, một tiên tri Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop. Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.
Habacuc là một vị tiên tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta đã cầu nguyện: “Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã không can thiệp”.
Những người khác có thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Thiên Chúa không hỏi: “Tại sao con dám nói với Ta cách như thế”. Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: “Người công chính, bởi vì đức tin của ngươi sẽ được sống”.
Habacuc là một con người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là một người có đức tin lớn lao.
Đức tin là một đặc ân. Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho chúng con”. Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái trong xã hội của chúng ta.
Sự cầu nguyện của chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;”Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu thương và khôn ngoan”. Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.

29. Phép lạ của lòng tin
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:
“Thưa quý vị, tôi vừa mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi. Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa”. Nói xong, ông lấy một thứ bột khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.
Trong đám cử tọa, một người đứng lên phát biểu: “Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?” Quả thực, ông giáo sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:
“Thưa quý vị, đây là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc”.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển”. Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.
Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết rồi” (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: “Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: ‘chúc anh chị em đi bình an, ăn no mặc ấm’, mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin đã chết mất rồi” (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô điều kiện.
Thưa anh chị em,
Sống đức tin là sống phục vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm phong kiến đó. Chính Ngài đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi tớ mọi người” (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: “Ai lớn nhất trong anh em phải làm tôi tớ mọi người” (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”
Anh chị em thân mến,
Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển” cũng được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã nói: “Điểm tựa ấy chính là đức tin”. Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày Cánh Chung.

30. Đức tin – McCarthy
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Maurice là một người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi chia tay.
Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp cò.
“Con vẫn còn tin Thiên Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.
“Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.
“Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô ấy”.
“Anh đã đau khổ nhiều phải không Maurice?” linh mục nói.
“Cha khỏi phải nói điều đó”, anh đáp.
“Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.
“Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.
Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.
Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.
Chúng ta không thể không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:
Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.
Niềm tin không hợp lắm khi thường hay biến đổi.
Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.
Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.
Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.
Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.
Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.

31. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương
(Trích dẫn từ ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’ – McCarthy)
Trong số những người có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.
Sự thật nổi bật là: chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được (và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.
Chân lý nền tảng về Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.
Quả là một niềm vui lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta không giữ các giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới răn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn phận. Vì thế, đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.
Các công việc quảng đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem xét tấm gương sau đây.
Buổi chiều muộn của một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một tiếng kêu vang lên: “Có một người dưới lòng sông”. Người ta chạy đến bờ hè và nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong tiếng ồn ào của xe cộ.
Rồi với một tiếng két của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè, quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công, anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.
Trên lề đường, một đám đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó, xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.
Điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.
Sự cứu chuộc là một ơn huệ chứ không phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân huệ.

32. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.
Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác được.
Quả thật, giữa con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.
Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.
“Lạy Chúa xin thêm đức tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.
Lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.
Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

33. Đức tin và khiêm nhường
Có một vị ẩn tu nổi tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ chạy.
Vài năm sau, vị ẩn tu đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:
– Thưa cha, hẳn cha còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha cũng run sợ như chúng con.
Con người thánh thiện ấy trả lời như sau:
– Không! Cha không hề sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.
Vị ẩn tu đang hấp hối giải thích như sau:
– Lúc ấy cha nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong cha sau này.
Kitô giáo đề cao sự khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng bội hậu cho họ.
Sự giàu có và địa vị cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa đang đè nặng trên họ.
Đối lại với những tính toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên: “Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng”.
Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm niệm: “Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện”.

34. Khiêm nhường và tin tưởng
Trong phạm vi đời sống tự nhiên cũng như siêu nhiên, tôi nhận thấy có nhiều người quá tự tin, luôn ỷ lại vào sức riêng của mình. Họ cho rằng những nhân đức hay những thành công họ gặt hái được, hoàn toàn do sức lực và tài năng riêng của họ, để rồi họ vênh vang tự đắc, coi trời bằng nửa con mắt.
Dĩ nhiên, tôi không phủ nhận rằng: tin tưởng vào sức lực và tài năng riêng của mình là điều tốt trong một phạm vi nào đó. Vì tục ngữ tây phương vốn thường bảo:
– Vouloir c’est pouvoir. Muốn là được.
Một khi mình đã dứt khoát lập trường và tiến hành không nghi ngại, thì kể như đã giải quyết được một nửa vấn đề. Vì thế, người xưa đã bảo:
– Thành như quả quyết, bại như do dự.
Hơn thế nữa, kinh nghiệm cũng cho thấy:
– Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu.
Bụng đói mà cứ nằm chờ cho sung rụng vào miệng, thì đến bao giờ một nhận được một trái.
Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy: tài năng và sức lực riêng của mình là điều cần, nhưng không phải là điều quyết định. Yếu tố căn bản cho mọi thành công, đó là tình thương và sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn trong đời sống tự nhiên, chúng ta ra sức cày sâu cuốc bẩm, vất vả đổ mồ hôi xuống trên ruộng đồng, nhưng nếu Chúa không cho mưa thuận gió hòa, thì mùa màng lúa thóc của chúng ta cũng khó mà trúng được. Vì thế, thánh Phaolô đã quả quyết:
– Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là đấng làm cho đâm bông kết trái.
Chẳng hạn trong đời sống trí thức, chúng ta chăm chỉ căm cụi học hành để được thi đỗ, để được trau dồi thêm những kiến thức cần thiết, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc đời, nhưng nếu Chúa không ban cho khỏe mạnh, nay yếu mai đau, thì công việc học hành của chúng ta cũng sẽ bị cản trở.
Chẳng hạn trong đời sống siêu nhiên, chúng ta muốn khử trừ một nết xấu, nhưng nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì điều chúng ta dốc quyết chưa chắc đã được ba bảy hai mươi mốt ngày, để rồi cuối cùng bị rơi vào quên lãng, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ mực và chúng ta vẫn chứng nào tật ấy.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã phán:
– Không có Thầy, các con không thể làm gì được.
Hay như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã xác quyết:
– Mưu sụ tại nhân, thành sự tại thiên.
– Không thầy đố mày làm nên.
Trong mọi hoàn cảnh, hãy khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, cùng với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta dù tài năng thấp kém cũng có thể làm được những việc kỳ diệu.
Năm 1683, đoàn quân Thổ Nhĩ Kỳ tiến đến kinh thành Vienne, đe dọa toàn thể thế giới công giáo. Tình hình đen tối. Phương tiện lại thiếu thốn. Mặc dầu vậy, Đức thánh cha Innôcentê XI, một mặt kêu gọi mọi người cầu nguyện, nhất là lần hạt mân côi. Một mặt hoài giải những bất đồng giữa các vua chúa, kêu gọi họ sát cánh bên nhau để chiến đấu, cũng như tin tưởng Chúa sẽ phù trợ.
Khắp nơi đều vang lên những tiếng khẩn cầu tha thiết. Và sự gì phải đến, đã đến. Đoàn quân công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, giải thoát toàn thể Âu Châu khỏi sự tàn phá của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chúng ta đừng bao giờ quên rằng:
– Không có Chúa, chúng ta không thể làm gì được. Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự.
Hãy tin tưởng và phó thác vào Chúa, như lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô:
– Chúng ta có thể hái những bông hoa bên vệ đường, miễn là bàn tay phải nắm chặt lấy Chúa.
Cũng vậy, trong khi thu lượm những thành quả trần thế, hãy giơ một bàn tay cho Chúa, đừng bao giờ rời xa Ngài, vì nếu Ngài không gìn giữ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ té ngã.
Hãy làm việc như chỉ có mình chúng ta. Đồng thời hãy tin tưởng như kết quả chỉ do một mình Thiên Chúa ban mà thôi.

35. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn hay nhỏ?
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Có lẽ để chọc quê các tông đồ mà Chúa Giêsu đã có một so sánh kỳ lạ: râu ông cắm cầm bà! Khi các tông đồ xin thêm đức tin, Chúa Giêsu đã so sánh: “nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…” Ngài có so sánh kỳ lạ, bởi vì làm sao so sánh đức tin với hạt cải được, làm sao so sánh phẩm chất với khối lượng được. giống như làm sao ta có thể nói nếu ngươi đẹp bằng 200g thì ngươi sẽ thành tiên. Nếu ngươi có lòng tốt dài 5cm thì ngươi sẽ thành thánh. Nếu ngươi có lòng đạo đức hình tròn thì ngươi sẽ được vào Nước Chúa. Vậy khi Đức Giêsu nói: nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, Ngài có lộn phạm trù không? Có phải Ngài chọc quê các tông đồ không vì chính các ông cũng có lẽ hiểu như vậy: xin thêm đức tin; có một ít rồi, xin thêm nữa, nên Ngài hùa theo coi đức tin là vật có thể cân đo đong đếm giống như một hạt cải, hai hạt cải…
Có lẽ Đức Giêsu không lộn phạm trù, không chọc quê các môn đệ đâu. Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố: “Nếu các con có đức tin bằng hạt cải.”
1. Đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm
Không biết có phải Đức Giêsu tiên báo trước hay không, chứ sau này chính nhà bác học Einstein đã tìm ra công thức liên hệ giữa phẩm chất và khối lượng, giữa ánh sáng và vật chất. Công thức E = mc2 nổi tiếng của Einstein được dùng để tính toán năng lượng phát ra khi nguyên tử (vật chất) biến thành ánh sáng (phẩm chất). E = mc2 (trong đó E là năng lượng phát ra, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng). Vận tốc ánh sáng mà bình phương lên sẽ là 90 ngàn triệu triệu. Vì thế tuy khối lượng rất nhỏ – ta ví những hạt cải – nhưng giải phóng một năng lượng rất lớn (nhờ nhân với vận tốc ánh sáng bình phương). Ta thấy các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, chỉ cần một khối lượng nhỏ bé, mà phát ra một sức nổ kinh khiếp, một sức nóng trên một triệu độ. Các nhà máy điện nguyên tử chỉ cần một thỏi nhỏ Plutanium mà phát ra biết bao năng lượng, biết bao điện lực thay cho bao nhiêu triệu triệu tấn dầu, bao nhiên tỉ tỉ mét khối hơi đốt. (Việt Nam cũng đang muốn ngấp nghé làm nhà máy điện nguyên tử tại Bình Thuận). Ngược lại cũng thế, để phẩm chất có thể kết thành khối lượng, cho dù rất nhỏ cũng đòi hỏi một năng lượng lớn lao. Cha ông chúng ta thường kể khi sấm sét (tia sáng) đánh xuống một nơi nào đó, tia chớp đó phải mạnh lớn lắm mới để lại trên đất một lưỡi tầm sét. Ánh sáng phải lớn lắm phải nhiều lắm mới có thể kết tinh thành một vật, một khối (tức có thể cân đo đong đếm).
Đức tin ví như ánh sáng, như phẩm chất. Để có thể kết tinh lại, cho dù là kết tinh lại chỉ bằng một hạt cải thôi, cũng phải có “nhiều” đức tin lắm mới thành được. Chẳng thế mà ít ai có được đức tin bằng hạt cải để có thể bảo cây dầu to lớn nhổ rễ mọc dưới nước, hay kiểu nói của Matthêu: chuyển núi dời non, khiến cả ngọn núi lớn to nhào lăn xuống biển.
Tuy nhiên đức tin bằng hạt cải cũng có nghĩa là đức tin nhỏ bé.
2. Đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ lắm.
Cắt nghĩa này xem ra nghịch với giải thích chúng ta vừa phân tích: đức tin bằng hạt cải là đức tin lớn lắm. Ở đây đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Ta thử tìm hiểu.
Nếu Đức Giêsu là người Việt Nam, thì Ngài sẽ nói: Nếu đức tin của anh em bằng con kiến. Khi người Việt Nam ta so sánh cái gì với vật nhỏ nhất thì ta thường đem con kiến ra. Nhỏ như con kiến. Mỗi dân tộc có lối sánh vì riêng. Việt Nam nói: câm như hến. Tây nói: câm như cá chép. Ta nói điếc như trâu, thì Tây nói: điếc như hũ (sourd comme un pot). Vậy ta nói nhỏ như kiến, thì người Do thái ví nhỏ như hạt cải.
Đức tin bằng hạt cải, tức là đức tin nhỏ bé. Nếu anh em có một chút xíu đức tin thôi, cho dù là một chút xíu, nhưng nó là có, chứ không phải là không, Nó là ranh giới giữa có và không.
Tin Mừng Marcô 9,17tt ghi: Một người cha có đứa con bị quỉ ám từ bé. Quỉ làm cho đứa bé xùi bọt mép, đổ nhào xuống đất, nhiều lần quỉ dẫn bé xuống nước để bé suýt chết chìm, dẫn vào lửa suýt chết cháy. Người cha chữa chạy nhiều nơi mà không khỏi. Cuối cùng mới dẫn tới Chúa Giêsu với lời xin: Nếu Thầy có thề, xin thương tình cứu giúp chúng tôi. Chúa Giêsu nói: Nếu có thể thôi à, mọi sự đều có thể cho kẻ nào tin. Và người cha thưa lại: Thưa Thầy, tôi tin, nhưng xin Thầy giúp tôi vì lòng tin của tôi còn yếu lắm. Và Chúa Giêsu đã chữa lành. Ngài không cần chờ đến lúc đức tin của người cha lớn mạnh lên rồi mới chữa. Miễn là tin, dù một chút xíu thôi, bằng hạt cải, bằng râu của con kiến cũng đủ.
Khi Chúa Giêsu nói: đức tin bằng hạt cải, ta giải thích là đức tin lớn lắm. Rồi ta lại giải thích đức tin bằng hạt cải là đức tin nhỏ bé. Làm sao dung hoà? Dung hoà là: đức tin nhỏ bé như hat cải nhưng phải lớn lên không ngừng. Lúc khởi sự thì bé nhỏ như hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các thứ hạt (đức tin nhỏ bé), nhưng khi mọc lên thì trở thành cây to lớn đến nỗi chim trời có thể đến nương náu (đức tin lớn lao). Ta có thể xem lối giải thích này như một dung hoà cho hai cực mà chúng ta vừa tìm hiểu trên. Nhà giảng thuyết nổi tiếng của Mỹ H.Spurgeon đã nói: “Anh em hãy có đức tin. Đức tin nhỏ bé sẽ đưa anh em về Thiên đàng. Đức tin to lớn sẽ đưa thiên đàng đến với anh em.” Rõ ràng cả hai cùng đưa tới một mục tiêu, một cùng đích.
Tại Lộ Đức, người ta thấy bức tượng cẩm thạch tạc một người mù được phép lạ của Đức Mẹ chữa cho sáng mắt. Nhưng bức tượng này không phải do người mù được sáng mắt trở lại dâng tặng tạ ơn, mà do một bà quí phái cho tạc và dựng tại Lộ Đức, với dòng chữ đáng lưu ý: “Tìm lại được đức tin còn vĩ đại hơn là được sáng mắt.” Bà này đã mất đức tin. Tình cờ đi qua Lộ Đức thấy cảnh tượng nhiều người tin tưởng chạy đến với Đức Mẹ, nên bà tìm lại được niềm tin. Chúng ta những kẻ đến nhà thờ đây, có lẽ không phải là kẻ mất đức tin. Chắc là còn, dẫu một chút như hạt cải. Lời xin của chúng ta sẽ là bắt chước các tông đồ: xin thêm đức tin, đặc biệt trong hai tháng cuối của Năm Đức Tin này, để ta có thể tin trọn vẹn, tin mạnh mẽ những điều ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính đây.

36. Đức tin
Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ và thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại so sánh đức tin với hạt cải? Hạt cải đây không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở xứ Palestin, nhỏ hơn hạt quả trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao khoảng 4 – 5 thước. Hạt cải nhỏ bé như vậy mà chẳng lẽ người tín hữu Chúa lại không có được một lòng tin nhỏ bé như thế sao? Nếu có, thì tại sao họ không thực hiện được những việc vĩ đại kỳ lạ như Chúa đã hứa? Vậy, hoặc là họ không có một chút đức tin nào, dù chỉ bằng hạt cải. Hoặc là lời Chúa phải có ý nghĩa khác?
Đúng vậy, khi lấy hạt cải làm thí dụ, Chúa không có ý dạy rằng đức tin có thể đo lường được, vì không những đức tin thuộc lãnh vực tinh thần, thiêng liêng mà còn là một yếu tố siêu nhiên, siêu phàm mà chúng ta chỉ lãnh hội được qua dấu hiệu hay việc làm bên ngoài thôi. Thực vậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, vì nó không phải là vật chất. Nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc thế giới tính thần. Người ta không thể thấy được nó, nhưng có thể biết nó có, nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Thí dụ: tôi có đức tin không, chẳng ai biết nhưng khi thấy tôi đi lễ, thấy tôi đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được tôi là người có đức tin. Vì tin có Chúa, tôi mới đi lễ để thờ phượng Ngài, tôi mới nghiêm trang để tôn kính Ngài. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ, mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Tuy nhiên, đức tin không phải là một năng lực diệu kỳ ban cho chúng ta để chúng ta làm những chuyện động trời, giật gân như những nhà ảo thuật, pháp sư hay phù thủy cao tay ấn hầu trình diễn cho mọi người giải trí. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói đức tin bằng hạt cải có năng lực chuyển núi rời non, truyền khiến cho cây khô héo, hoặc tự bứng đi xuống sống dưới biển, Ngài chỉ có ý đề cập tới sức mạnh siêu phàm của đức tin mà thôi. Cũng như người ta không thể đo lường đức tin như đo lường hạt cải, thì đức tin cũng không phải dùng để làm trò ảo thuật. Việc chuyển núi rời non không phải chỉ tùy thuộc vào đức tin mà còn tùy ở nhiều yếu tố khác nữa.
Chúng ta có đức tin không? Chúng ta cần phân biệt niềm tin và đức tin. Niềm tin thì ai ai cũng có. Còn đức tin thì chỉ những ai đã lãnh bí tích rửa tội mới có mà thôi. Vậy tất cả chúng ta đều có đức tin. Nhưng hiện giờ đức tin của chúng ta thế nào? Có lẽ vẫn còn rất yếu kém phải không? Có bao giờ chúng ta noi gương các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin cho chúng ta không? Các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin, có nghĩa là các ngài đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta cũng vậy, chúng ta đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta phải xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta sống và hành động theo đức tin.
Người ta kể rằng: tại một giáo xứ kia, người ta tụ họp nhau rất đông trong nhà thờ để cầu xin Chúa cho trời đổ mưa, vì trời hạn hán quá lâu rồi, trong khi mọi người đến nhà thờ cầu nguyện thì có một em thiếu niên cũng đến và đem theo một cái dù. Mọi người thấy em cầm cây dù tới nhà thờ thì xì xào với nhau: “Thật là dở hơi, trời đang hạn hán ai mà lại mang dù đến thế kia”. Cậu bé trả lời: “Ông bà cầu xin Chúa cho mưa, ông bà tin như thế phải không? Chắc chắn là Chúa sẽ cho mưa, nên tôi phải đem dù theo để lát nữa còn về được”. Quả thật, Chúa liền cho một trận mưa thật lớn sau giờ cầu xin của mọi người. Nhưng có lẽ không phải vì đức tin của những người khác mà là do đức tin vững chắc của em thiếu niên đem theo cây dù kia.
Tôi xin nói thêm một chút nữa: cũng giống như mọi tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được sinh lợi. Năng khiếu không được rèn luyện sẽ mai một với thời gian, một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta diễn tả đức tin bằng những việc đạo đức, và chúng ta còn phải nuôi dưỡng đức tin bằng nhiều cố gắng khác nữa, nhất là sống quảng đại, vị tha và yêu thương.
Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó, hẹp hòi của chúng ta, và không ngừng nhận ra Ngài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất ngờ và nghịch thường nhất. Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những người thấp hèn, những người bất hạnh, và ngay cả nơi những người thù ghét chúng ta.
Người Kitô hữu tin vào tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Đức tin ấy không chỉ là hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một đức tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Người Kitô hữu luôn được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình. Đức tin là một mầm sống phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên mỗi ngày. Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa vây chúng ta, có thể làm chúng ta sợ hãi. Những lúc ấy đức tin non yếu của chúng ta dễ dàng bị lung lay. Chính vì thế chúng ta luôn phải cầu xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

37. Niềm tin
Thử thách đau khổ là điều chúng ta không thích lắm. Vậy mà chúng ta vẫn gặp trong cuộc đời. Thế nhưng nếu biết tín thác vào Thiên Chúa, vươn lên bằng một sức mạnh của niềm tin. Sứ điệp lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta củng cố và khám phá lại xem niềm tin của mình lãnh nhận từ đâu? Và chúng ta đón nhận sức mạnh niềm tin đó bằng cách nào và thể hiện niềm tin đó ra sao trong môi trường sống của mình. Tôi đã chấp nhận điều mình không thấy dựa vào lời chứng của người khác đáng tín nhiệm hơn. Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người trong việc thể hiện niềm tin, nếu Ngài không giúp, không ban sức mạnh, chúng ta không thể dấn thân và hướng về Ngài được. Bởi vậy, đức tin trước hết là một hồng ân, một món quà chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa một cách nhưng không, nhưng rất có giá trị. Vì thế, người Kitô hữu không được tự mãn với giá trị đó nhưng phải khao khát tìm kiếm như các tông đồ hôm nay trong bài Tin Mừng này, tìm Ngài xin Ngài hướng đi.
Trong những năm tháng đi theo Thầy, sống bên Thầy, học cùng Thầy, các tông đồ vẫn chưa đặt trọn cả con tim, tấm lòng của mình vào Thầy, bởi thế đứng trước những khó khăn, điều khiển cộng đoàn, các ông cảm thấy chưa đủ can đảm để chu toàn bổn phận cao cả ấy, nên đã chạy đến cầu cứu Thầy gia tăng sức mạnh để gánh vác cộng đoàn. Tại sao các ông lại khao khát đến thế? Bởi vì các ông đang cần, đang thiếu nên mới xin Thầy ban cho, ban thêm đức tin cho mình. Trong khi các ông đang khao khát một lòng tin vững mạnh thì Thầy lại ban cho một hạt đức tin bé nhỏ như hạt cải. Trước lời cầu xin đó Chúa mời gọi các ông ý thức lại tầm quan trọng và giá trị của niềm tin mình. Bằng cách hãy rời bỏ chỗ đứng của mình chuyển sang chỗ đứng đức tin, rời xa tầm nhìn của mình chuyển đến tầm nhìn đức tin. Ngày nay khi khoa học ngày càng phát triển, người ta tin vào nỗ lực tri thức mình hơn là tin Chúa. Theo bạn nghĩ gì về vấn đề này? Như thế để có được sức mạnh của niềm tin người tông đồ phải làm gì? Thiết nghĩ rằng cần mở lòng đón nhận qua sự gặp gỡ và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Cảm nhận sự hiện diện Thiên Chúa sẽ giúp người ta đón nhận được niềm tin đối diện với thử thách trong việc lựa chọn: dấn thân hay lùi bước, củng cố niềm tin hay đành đánh mất niềm tin. Cần sống tích cực hơn để tránh rơi vào tình trạng ngã lòng, kêu trách Thiên Chúa như dân Cựu ước năm xưa mà ngôn sứ Habacúc trong bài đọc I vừa nêu lên cho chúng ta. Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa còn là tin Chúa, để Chúa lôi kéo, dẫn đi, biến đổi và gia tăng sức mạnh giúp người tông đồ can đảm chịu đựng đau khổ, không hổ thẹn làm chứng cho Tin Mừng như bài đọc II trong thư thứ 2 thánh Phaolô tông đồ gửi cho Timothê vừa nhắn gửi chúng ta tư tưởng này. Vì thế đón nhận niềm tin là dịp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tín thác vào Ngài.
Gặp gỡ Thiên Chúa là tín thác vào Ngài để lãnh nhận một sức mạnh mới thôi thúc người tông đồ dám mạo hiểm trong cách nghĩ, dám hành động trong cách làm ngay cả những công việc vượt sức con người. Gặp gỡ Chúa trong niềm tin giúp người ta dễ dàng qui hướng về Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình. Lúc đó, người ta mới có đủ sức mạnh để chuyển núi dời non… mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu trong cuộc sống và thể hiện hoa trái của niềm tin.
Sống đức tin đòi người ta phải hành động như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không hành động là đức tin chết”. Hành động ở đây là hành động vô vị lợi, phục vụ nhưng không. Cách phục vụ này ngoài đời rất khó gặp, bởi vì không ai làm công không cho người khác bao giờ. Để đức tin sinh ơn ích, người Kitô phải sống như người đầy tớ tầm thường trước mặt Chúa, phải hành động như người làm công vô dụng, vô dụng không phải là vô tích sự nhưng có nghĩa là chu toàn bổn phận những công việc hàng ngày một cách khiêm nhường không cần ai biết đến, không tìm quyền lợi cho mình. Đó là cách trao ban niềm tin, phục vụ niềm tin cho người khác.
Đã đón nhận thì phải có trao ban, trao ban với tinh thần trách nhiệm: Không đòi Chúa trả công, bắt người ta đền ơn mình. Vì đức tin chúng ta lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì giờ đây chúng ta phải trả lại nhưng không trong việc trao ban tình thương, chia sẻ tình bác ái cho tha nhân.
Là người Kitô hữu: không phải lúc nào niềm tin của chúng ta cũng vững mạnh cả đâu: có những lúc tôi cảm thấy có Chúa, tin Chúa, yêu Chúa bởi vì tôi gặp điều tốt lành, nhận nhiều hồng ân…
Có những lúc tôi cảm thấy không có Chúa, chán Chúa, đâm ra nghi ngờ không tin Chúa nữa bởi vì tôi gặp nhiều bất hạnh đau khổ, thử thách: cháy nhà, gặp tai nạn, thiên tai, lũ lụt, mất mùa, mất nhà, mất của mất người thân, hoặc thất nghiệp, thất bại, thất tình… Những lúc đó chúng ta đừng quá bi quan nhưng cần phải bình tĩnh suy nghĩ lại cho dù ta có đay nghiến ông trời, nguyền rủa Thiên Chúa, than thân trách phận, chúng ta cũng không tránh khỏi những đau khổ thử thách. Cho bằng chúng ta:
. Hãy lắng nghe tiếng Chúa, ý Chúa muốn tôi trong hoàn cảnh nào?
. Cầu nguyện, đón nhận, phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.
Niềm tin luôn là một ân huệ Chúa ban: nên để có được sức mạnh niềm tin mình, người tông đồ cần phải biết mở lòng đón nhận, khao khát tìm kiếm ơn Chúa và thể hiện trong cuộc sống để niềm tin chúng ta mỗi ngày càng sinh nhiều hoa trái. Hoa trái này cần phải cụ thể bằng một quyết tâm cho mình: “Sống điều mình tin bằng việc yêu thương, giúp đỡ, nâng đỡ anh em đang gặp thử thách bên chúng ta”.

38. Đức tin
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.
Điều thứ nhất về đức tin: Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.
Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin? Như thế đủ biết đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin. Còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thì đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường: ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngỏ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi: Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh? Cô gái đáp: không. Anh chàng hỏi thêm: Tại sao? Và cô gái trả lời rất gọn: vì em yêu anh.
Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là: người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.
Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức Giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.
Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ: trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một thánh lễ nối dài.

39. Đức tin giúp con người hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Trong một lần đi chia sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em sinh viên khi chia sẻ trả lời câu hỏi “Là Kitô hữu, bạn được gì?” nói: “người bạn trong phòng của em thấy em thường cầu nguyện ban tối trước khi ngủ cũng như đi lễ Chúa Nhật, có lần đã nói với em: bạn có đạo, bạn hạnh phúc hơn mình, vì bạn có Chúa. Khi bạn buồn bạn có Chúa để nói, còn mình không có Chúa và bạn thân không ở gần, nên khi có điều buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai”. Đức tin không vô bổ như có một số người hay “rêu rao”. Đức tin giúp con người vượt qua những khủng hoảng trong cuộc sống, giúp người ta sống an bình và chấp nhận cuộc đời.
Nhờ tin, được sống
Đức tin cứu độ không chỉ là tin có Thiên Chúa. Vì tin có Thiên Chúa, ngay cả ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa (Gc.2, 19). Tin có Thiên Chúa, chưa đủ để giúp con người vượt qua những khó khăn và được bình an trong cuộc sống. Đức tin cứu độ, là tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài đang làm những điều tốt nhất cho mình.
Đức tin cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Không có ơn Thánh Thần, con người không thể tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chính đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa này, mà con người xin Thiên Chúa “gia tăng lòng tin của chúng con”. Đức tin, cũng bao hàm thái độ phó thác tất cả nơi Thiên Chúa. Thái độ phó thác chỉ có, khi tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Chính thái độ tin này, làm con người bình an ngay trong nghịch cảnh, ngay khi những điều trái ý đang xảy ra với mình, ngay cả khi dưới con mắt nhân loại đó là tuyệt vọng.
Trong cuộc sống, ai lại không gặp những khó khăn. Có những lúc, ngay cả những người thân yêu cũng như thể chẳng hiểu mình, như thể mình cô độc trên đời. Tin vào Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình, Ngài sẽ giúp mình vượt qua sự cô độc đó. Có nhiều trường hợp gặp quá nhiều khủng hoảng, một người muốn tự tử để “được giải thoát” khỏi tất cả. Tuy vậy, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương và Ngài tạo dựng mình, Ngài yêu thương mình, và nếu có ai làm hại mình thì Thiên Chúa vẫn có thể lèo lái để ngay cả điều hại cũng thành tốt cho mình, nên người đó đã vượt qua khủng hoảng kinh khiếp đó. Cũng có thể mình và gia đình mình gặp gian nan thử thách như thể không thể vượt qua, tin vào Thiên Chúa yêu thương và phó thác tất cả cho Ngài, sẽ giúp mình và gia đình vượt qua những gian nan thử thách.
Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều trình thuật cho thấy lòng tin của con người đối với Thiên Chúa. Chẳng hạn ông Nô-ê đóng tàu trong một hoàn cảnh không có gì đe dọa, và cam chịu những tiếng cười chê khinh bỉ (St.6, 5tt). Khi lụt hồng thủy đến, ông và gia đình đã sống nhờ chiếc tàu. Chính nhờ tin và vâng lời Thiên Chúa, mà ông và gia đình đã được cứu.
Đức Maria- người tin tuyệt đối vào Thiên Chúa
Hôm nay là lễ Mân Côi (07.10.01), cũng là dịp chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, để thấy Mẹ tin vào Thiên Chúa như thế nào. Nhiều người Công Giáo chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Đức Maria được Thiên Chúa yêu thương và được chuẩn bị cho là Mẹ Thiên Chúa, nên nhìn Đức Maria như thể rất xa vời với mình, bởi vậy khó nhận ra Đức Mẹ có những điểm giống mình và mình được mời gọi nhìn lên Mẹ để noi gương bắt chước.
Hãy nhìn Mẹ trước biến cố truyền tin, như bất kỳ một cô gái nhà quê nào khác ở Nazarét. Maria đã yêu Yuse và muốn lập gia đình với Yuse như chuyện thế gian thường tình. Nhưng Thiên Chúa đã can thiệp, và Maria đã chấp nhận đề nghị của Thiên Chúa bất chấp:
Nguy cơ mất người mình yêu mến là Yuse, vì làm sao Yuse có thể hiểu “tự nhiên” mà Maria có thai;
Nguy hiểm đến tính mạng, vì chỉ cần Yuse nói sự thật, cái thai đó không phải của Yuse, thì tính mạng Maria vô cùng nguy hiểm. Luật Do Thái truyền ném đá những người ngoại tình;
Danh tiếng gia đình bị ô nhơ, vì con gái “không chồng mà có con”.
Với tất cả những điều này, Maria vẫn thưa tiếng xin vâng, nghĩa là, Maria chọn Thiên Chúa trên tất cả, trên cả tình yêu riêng của mình, trên cả danh giá gia đình, trên cả mạng sống của mình. Maria chỉ có thể thưa tiếng xin vâng, khi Maria tin tuyệt đối rằng Thiên Chúa sẽ lo tất cả cho mình.
Mẹ Maria tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, và sẵn sàng để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời mình. Chính điều này, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời. Thái độ này không chỉ xảy ra một lần trong cả đời của Mẹ, nhưng đã liên tục xảy ra suốt đời của Mẹ, chẳng hạn như lúc sinh hạ Con trong chuồng chiên cừu, khi Đức Giêsu cố tình ở lại đền thờ, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Cuộc đời của Mẹ, có lẽ còn nhiều gian nan và thập giá hơn cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta được mời gọi, để có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa như Mẹ.
Nếu có đức tin bằng hạt cải
Đức Giêsu nói: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây dâu này, nhổ rễ và chuyển xuống biển mà mọc, thì nó sẽ vâng lời”. Không ai đã làm như vậy, hoặc vì không ai có đức tin bằng hạt cải, hoặc vì những điều “lạ thường” đó vẫn đang xảy ra mà con người không nhận ra thôi. Chính Đức Giêsu cũng không chuyển núi dời non, nhưng Ngài đã làm những điều rất “không bình thường” trong cuộc sống: Ngài đã chấp nhận cái chết, cái chết ô nhục trên thập giá, vì yêu.
Xin Chúa cho chúng ta có đức tin “bằng hạt cải”, hầu có thể khiêm tốn và kiên nhẫn phục vụ anh em trong cuộc sống thường ngày. Xin cho chúng ta có đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa tình yêu, hầu chúng ta sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này và ở đây, giây phút này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Để có thể phục vụ cách khiêm tốn, có cần đức tin không? Tại sao?
2. Không đức tin, con người có thể sống hạnh phúc không? Tại sao?
3. Với kinh nghiệm bản thân, đức tin (tin vào Thiên Chúa) giúp gì cho bạn?

40. Ba con đang bị đè dưới đó
Có một câu chuyện hay về một bác nông dân đi tản bộ trên đường. Ông gặp một cậu bé đang nhìn chán nản vào một bó cỏ khô rơi từ chiếc xe ngựa của cậu. Bác nông dân thương xót cậu bé và nó với cậu, “Cậu trẻ, tôi đang trên đường đi ăn trưa, đi với tôi. Sau khi đã ăn uống nghỉ ngơi rồi, tôi sẻ trở lại đây với cậu rồi chúng ta hợp sức đưa bó cỏ này lên xe của cậu.” Cậu bé trả lời, “Con không nghĩ là ba con muốn con làm như thế.” Thế nhưng ý chí của bác nông dân sau cùng cũng thuyết phục và cậu bé đã đi ăn trưa với bác nông dân. Hai tiếng đồng hồ sau, sau khi đã nghỉ ngơi và khoẻ mạnh lại, họ đã trở lại chỗ chiếc xe ngựa. Trong khi họ ra sức đưa bó cỏ lên xe, bác nông dân thầm nghĩ rằng tại sao một cậu bé lại chịu một trách nhiệm di chuyển một bó cỏ nặng này. Ông liền hỏi cậu bé, “Ba con đâu?” Cậu bé trả lời, “Ba con đang bị đè dưới bó cỏ!” Tôi xin mạo muội nói rằng có rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy cả một gánh nặng đang đổ ập trên chúng ta và chúng ta cần Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta.
Sau khi đã suy niệm kỹ càng về những nghi vấn này, nhà tâm lý học Carl Jung đã viết, “Tôi chỉ còn mong ước mọi Kitô hữu ngày nay có thể nhìn thấy rằng những gì mà họ nắm giữ thật sự không phải là Kitô Giáo tý nào cả mà là một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp của một Thiên Chúa kinh khiếp.” Nói đơn giản, nó có nghĩa là nhiều người đang muốn sống một đời sống Kitô giáo và ra sức ủng hộ Giáo Hội của Chúa Kitô, thì lại đi lầm đường lạc lối. Họ đang đi trên đường của một “tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp về một Thiên Chúa kinh khiếp” Đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã đến để giải thoát họ.
Nhìn lại kinh nghiệm Cựu Ước giúp chúng ta hiểu được luận đề này. Dân Israel thấu hiểu được chính họ có một mối liên hệ Giao Ước với Thiên Chúa. Họ đã nhận biết Giao Ước chính là một bản hợp đồng giữa hai phe không bằng nhau: Thiên Chúa và Dân Ngài Chọn. Theo những điều kế ước của bản Giao Ước, Thiên Chúa sẽ là người bảo hộ và che chở Dân Ngài và đưa dân Israel đến hoàn hảo trọn vẹn. Còn về phần họ, dân Ngài phải luôn trung tín với Ngài và vâng giữ những lề luật của Ngài. Như thế, “một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp” – tôn giáo mà trong đó con người kiếm được ân huệ của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa chính là phần thưởng cho tín hữu còn vâng phục với Lề Luật. Đây chính là phương thức mà Thánh Phaolô đã nhìn thấy, trước khi ông trở lại với Đức Kitô.
Thánh Phaolô đã theo chủ nghĩa hợp pháp chân chính và nhiệm nhặt. Ông đã gọi chính mình là “Biệt phái của những người Biệt phái.” Biến cố Đamát đã hoàn toàn biến đổi cách sống của ông. Đức Kitô Phục Sinh chính là sứ điệp, câu chuyện, bài ca, giáo huấn, và giảng dạy của ông. Thánh Phaolô muốn cho toàn thể thế giới nhìn thấy Đức Giêsu y như ông đã thấy Ngài. Cái cảm nghiệm làm nguyên nhân cho sự biến đổi cuộc sống của ông cũng làm cho ông đổi tên từ Saolô thành Phaolô như ta đều biết: “Tôi trở nên người mới. Tôi không còn là người như trước nữa. Quan điểm của tôi về Đức Giêsu đã biến đổi tôi triệt để.” Thánh Phaolô nói rằng giờ đây ông đã thấu hiểu rằng chúng ta không cần phải tìm kiếm để đạt được những ân huệ của Thiên Chúa qua việc đi Nhà Thờ hay cho tha nhân ăn hoặc chỉ biết tuân phục những lề luật. Thiên Chúa ưu đãi chúng ta, yêu thương chúng ta, trước cả khi chúng ta làm những việc này. Tất cả chúng ta chỉ cần làm một việc để lãnh nhận tình yêu của Thiên Chúa chính là nhận lãnh nó, nhận biết nó, chấp nhận nó như là ơn huệ tuyệt đối. Đây chính là cảm nghiệm giải thoát cho những người thực tập một tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp. Các bạn có thể cảm nghiệm được cái gánh nặng của lề luật đang trượt khỏi vai của các bạn và các bạn cảm nghiệm được một cuộc giải phóng mới trong đời sống của các bạn.
Thánh Phaolô đã hy hiến trót cuộc sống của ông kêu gọi dân chúng chấp nhận món quà Tình Yêu vĩ đại trong Đức Tin mà Thiên Chúa hằng luôn luôn ban phát. Chúng ta không thể cố gắng để xứng đạt được. Chúng ta không thể cố gắng giành được nó! Chúng ta không thể mang cái gánh nặng ấy được. Thánh Phaolô đã chỉ rõ cho chúng ta biết rằng mọi Kitô hữu được kêu mời làm một quyết định Đức Tin để tin cậy vào lòng Nhân Hậu của Thiên Chúa, lòng Khoan Dung của Thiên Chúa, lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và vào Tình Thương của Thiên Chúa. Quyết định này có thể xảy ra trong những trường hợp gây sâu sắc như đã xảy ra cho Thánh Phaolô, hay trong những trường hợp thật là bình thường, giống như đã và đang xảy ra cho chúng ta. Và chúng ta thật là lầm lạc khi nghĩ rằng hành động duy nhất của Đức Tin thì kém chân thật bởi vì chúng ta không được nghe thấy ca đoàn thiên thần ca hát hay vì chúng ta không bị kinh sợ và hãi hùng như cảm nghiệm của Thánh Tông Đồ Phaolô. Cái cốt yếu chính là sẽ có lúc chúng ta phải thưa, “Vâng! Chính nó! Tôi thấy! Tôi hiểu. Tôi sẽ xin thưa ‘Vâng!’ với Thiên Chúa trong phương thức mới. Tôi sẽ thôi không sống trong phương thức của chủ nghĩa hợp pháp cũ nữa. Tôi sẽ thôi khiếp sợ rằng Thiên Chúa sẽ đánh phạt tôi nếu tôi không làm cái này hay cái nọ. Tôi sẽ thôi không còn nghĩ rằng tôi phải đi Nhà Thờ nữa. Trong chính thâm tâm sâu thẳm của tôi, tôi biết rằng từ muôn đời tôi đã được sủng ái bởi Thiên Chúa và yêu mến bởi Ngài. Tôi sẽ nhận biết rằng có một chân lý đã giải thoát tôi. Tôi sẽ biết rằng Chúa Giêsu đang nâng cái gánh nặng của tôn giáo theo chủ nghĩa hợp pháp khỏi vai tôi khi tôi chấp nhận thực tại này.”
Nhiều người đã hiểu sai lời Thánh Tin Mừng hôm nay. Tôi nói đến những người nghe Tin Mừng hôm nay rồi nói, “Tôi không còn phải tuân giữ những giới răn nữa. Tôi không còn lo lắng về “Chớ ngoại tình”, “Chớ ăn cắp”, và về Tám Mối Phúc Thật nữa. Tôi được giải thoát khỏi những ràng buộc đấy rồi bởi vì tôi đã làm một việc Đức Tin, tin vào Thiên Chúa thương xót và yêu thương mà thôi.” Có đúng không?… Sai! Các bạn đã nhận sai vấn đề! Đức Tin không việc làm là đức tin chết. Các bạn cần phải biết rằng sự tuân phục kỷ luật, và những việc lành thật là quan trọng cốt yếu, thế nhưng chúng chỉ là những phương thức mà chúng ta nói với Thiên Chúa, “Con xin cảm tạ Chúa vì yêu thương chúng con!” Chúng chỉ là những phương thức bày tỏ rằng đức tin của chúng ta thì đích thực. Chúng ta trở nên những Kitô hữu trung thành không chỉ gắng chiếm lấy tình yêu Chúa nhưng qua việc chấp nhận tình yêu Ngài, rồi sau đó, phản chiếu theo cách thức chúng ta sống và theo cách thức chúng ta yêu! Không thể nào thành thực chấp nhận Tình Yêu Chúa mà không phản chiếu nó trong lòng yêu tha nhân.

41. Suy niệm của Đaminh Cao Tấn Tĩnh
“NẾU CÁC CON CÓ ĐỨC TIN BẰNG HẠT CẢI”
Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C tuần trước, đối với các người Pharisiêu không tin lời Người khẳng định với các môn đệ rằng “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn người phú hộ và Lazarô để cảnh giác họ là vấn đề công chính không phải chỉ ở tại việc giữ cặn kẽ luật Chúa mà còn hệ tại việc giữ nghĩa với tha nhân nữa, vì lề luật được trọn vẹn nơi đức bác ái. Cũng trong bài chia sẻ tuần trước, chúng ta đã đề cập đến lý do sâu xa tại sao người phú hộ bị hư đi đời đời, không phải chỉ vì ông ta không chịu làm việc bác ái khi có thể mà còn chính vì bởi ông thiếu đức tin, một đức tin cứu rỗi chẳng những cần cho người phú hộ mà còn cần cho cả Lazarô bần cùng khốn khổ nữa. Chính vì hiểu được tầm mức tối hệ trọng của một đức tin cứu độ như thế, các tông đồ, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã tha thiết nài xin Thày của mình: “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay “Xin Thày hãy làm cho đức tin của chúng con tăng tiến”. Ở đây, chúng ta thấy các tông đồ không xin Chúa Giêsu ban cho các vị đức tin, mà là “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, một đức tin các vị đã có. Tức là, các vị thâm tín được rằng, dù các vị đã thực sự tin vào Người: “Thày là Đức Kitô của Thiên Chúa”, như bài Phúc Âm Thánh Luca ở Chúa Nhật XII cách đây 15 tuần thuật lại, song đức tin ấy vẫn còn yếu kém, chưa hoàn toàn, cần phải vững mạnh hơn nữa. Tại sao? Nếu không phải tại vì các vị đã cảm nghiệm thấm thía dụ ngôn Chúa Giêsu nói với các vị ở bài Phúc Âm hai tuần trước, về trách nhiệm của các vị đối với những gì được Người ủy thác cho, dụ ngôn về người quản gia phải thanh toán với chủ vì người quản gia này đã làm thiệt hại chủ của mình. Thế nhưng, vấn đề ở đây là Chúa Giêsu có đáp ứng lời các môn đệ khẩn thiết kêu nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” hay chăng? Nếu không thì tại sao và nếu có thì như thế nào??
Đọc kỹ bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu hình như không đáp ứng lời yêu cầu chính đáng của các môn đệ gì cả. Bởi vì, trong khi các vị “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, thay vì Người để tay lên đầu các vị để nhờ đó các vị được đầy Thần Linh, cũng nhờ đó các vị được thêm đức tin tỏ tường ngay lập tức, thì Người lại vòng vo nói với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Chưa hết, sau khi khẳng định như thế rồi, Người còn dạy các vị một dụ ngôn khác nữa, về vai trò của một người đầy tớ, người đầy tớ mà cho dù đã hết mình phục vụ chủ, chứ không phải như người quản gia bê bối của dụ ngôn trong bài Phúc Âm hai tuần trước, cuối cùng phải thành thực thú nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Qua thái độ và câu trả lời của Chúa Giêsu trong việc Người tỏ ra đáp ứng lời các môn đệ khẩn nài “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” như thế, chúng ta thấy như thế nào? Hình như Người muốn đẩy trách nhiệm phát triển đức tin, tăng tiến đức tin cho chính các vị, thành phần đã lãnh nhận đức tin từ Người, hay nói cách khác, thành phần đã được Người ban cho đức tin, bằng việc Người đã tỏ mình ra cho các vị. Đó là lý do, theo bài Phúc Âm cách đây 15 tuần, sau một thời gian tỏ mình ra cho các môn đệ, thành phần được Người tuyển chọn theo Người để sau này làm chứng nhân cho Người, Người đã muốn các vị tự trắc nghiệm xem các vị đã tin vào Người tới đâu, đã hiểu Người thế nào, bằng câu hỏi “Phần các con, các con nghĩ Thày là ai?”.
Đúng thế, đối tượng của “đức tin tuân phục” (Rm 1:5) chính là mạc khải thần linh, và nếu mạc khải thần linh được Thiên Chúa thực hiện như “một người gieo giống tốt trong ruộng của mình” (Mt 13:24), thì đức tin tuân phục cần phải được con người tỏ bày ra như một mảnh đất tốt, để hạt giống mạc khải thần linh có thể trọn vẹn trổ sinh tối đa tầm vóc cứu độ của mình. Như thế, việc đức tin tăng triển hay lớn lên thực sự là trách nhiệm của mảnh đất nhận được hạt giống mạc khải thần linh, đến nỗi, chính Chúa Giêsu đã đồng hóa hạt giống mạc khải thần linh với mảnh đất nhận lãnh hạt giống này, khi Người dẫn giải về số phận của các hạt giống rơi vào bốn môi trường khác nhau trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13, câu 18, 20, 22 và 23 như sau: “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”. Chúng ta hãy để ý là, trước khi rơi xuống các loại đất, nghĩa là khi còn trong lòng bàn tay của người gieo giống, hay trong dự án cứu độ của Thiên Chúa, thì hạt giống đây là biểu hiệu cho mạc khải thần linh Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về Ngài để họ tin mà được sống, thế nhưng, một khi đã tỏ cho loài người rồi, nghĩa là một khi hạt giống mạc khải thần linh đã được gieo xuống đất rồi, thì hạt giống mạc khải thần linh liền bị đồng hóa với loài người, với các loại đất, chẳng khác gì như đã xẩy ra nơi mầu nhiệm và biến cố “Lời đã hóa thành nhục thể” được Phúc Âm Thánh Gioan chân nhận ở đoạn 1 câu 14. Do đó, như vừa nhận định, Chúa Giêsu mới đồng hóa “Hạt rơi trên vệ đường là người… hạt rơi trên đá sỏi là người… hạt rơi vào bụi gai là người… hạt rơi xuống đất tốt là người”.
Tuy nhiên, dù bị đồng hóa với môi trường, hay bị lệ thuộc vào môi trường để có thể tồn tại và phát triển như thế, không có nghĩa là hạt giống mạc khải thần linh tự mình không thể nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái. Trái lại, sự kiện đất tự mình không thể trổ sinh hoa trái nếu thiếu hạt giống chính là dấu chứng tỏ hạt giống tự mình có thể tự nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái, miễn là gặp môi trường tốt đất. Vậy trách nhiệm của mảnh đất chất chứa hạt giống chỉ là trách nhiệm của một người quản gia mà thôi, trách nhiệm chẳng những gìn giữ những gì mình có, phải bảo toàn những gì được ủy thác cho mình, mà còn phải phát triển những gì mình có, còn phải sinh lợi những gì được ủy thác cho mình nữa. Chính vì không trực tiếp dính dáng gì đến khả năng tự mình nẩy mầm, phát triển và trổ sinh hoa trái của hạt giống mạc khải thần linh nơi mình, với thân phận chỉ là một mảnh đất quản gia như thế, mà mảnh đất nhân tính con người chỉ đóng vai trò như một người đầy tớ trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Đến đây, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa của phản ứng Chúa Giêsu tỏ ra, khi các môn đệ khẩn nài Người “Xin Thày hãy tăng thêm đức tin cho chúng con”, bằng việc Người khẳng định với các vị rằng: “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải thì các con có thể nói với cây sung này rằng ‘Hãy bật rễ lên xuống biển mà mọc’ thì nó sẽ tuân lệnh các con”. Đúng thế, qua lời khẳng định này, Chúa Giêsu ngầm chỉ cho các môn đệ biết bí quyết làm cho đức tin các vị đã có được tăng phát, theo lòng ước mong của các vị.
Phải, “hạt cải là hạt nhỏ nhất trong các hạt giống”, như lời Chúa Giêsu cắt nghĩa trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 13 câu 32. “Nếu các con có đức tin bằng cỡ hạt cải”, nghĩa là có đức tin ở cỡ nhỏ nhất, thì câu này nghĩa là gì, nếu không phải nghĩa là “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”. Vậy bí quyết Chúa Giêsu dạy các môn đệ để có thể tạo môi trường thuận lợi cho hạt giống đức tin nơi các vị có thể tăng phát đây chính là việc các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ”, như Người khuyên các vị ở Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 18 câu 3, một lời khuyên Người muốn đề ra để giải quyết vấn đề tranh chấp giữa các vị về ngôi thứ được các vị đặt ra với Người: “Ai là kẻ lớn nhất trong Vương Quốc của Thiên Chúa?”. Nếu “Vương Quốc của Thiên Chúa” đã được Chúa Kitô, Lời Nhập Thể, thiết lập trên thế gian bằng chính cuộc Vượt Qua của mình, và Vương Quốc này còn cần phải được “trị đến” (Mt 6:10) “cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8), tức cho đến khi được hoàn toàn tỏ hiện trong ngày cánh chung, hay cho đến khi Người đến trong vinh quang, thì quả thực thành phần được Người sai đi sau khi Người phục sinh từ trong cõi chết (x Mt 28:19; Mk 16:15) phải có trách nhiệm là những vị quản gia “trung thành và khôn ngoan” (Mt 24:45), một quản gia với tinh thần của một người tôi tớ xin vâng như Mẹ Maria (x Lk 1:38), thành phần bao giờ cũng thâm tín và tuyên nhận: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Theo lời Chúa Giêsu khuyên các môn đệ là thành phần theo Người trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C hôm nay “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”, chúng ta có thể áp dụng vào trường hợp đừng tự phụ khi chúng ta làm được một việc gì lành, nhất là khi đóng góp hữu hiệu vào việc chung, đến nỗi đừng có tự đắc là nếu không cò mình thì không ai có thể làm được việc đó. Bởi vì, nếu thực sự là việc của Chúa thì Ngài có thể hoàn thành bằng bất cứ cách nào và qua bất cứ ai. Thế nhưng, trên thực tế, nếu quả thực chúng ta cố gắng chu toàn phần vụ của mình, thì tại sao Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải phủ nhận công trạng của mình, cho rằng mình là đồ vô dụng? Nếu vậy phần rỗi đời đời của chúng ta hoàn toàn là do ơn Chúa, chứ chúng ta chẳng có công gì hay sao?

42. Máy thời gian- Lm. Vũ Minh Nghiễm
“Nếu đức tin bằng hạt cải”
Hôm nay, kính mời bà con cô bác cùng làm một chuyến du hành.
Chúng ta hãy ngồi vào máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776, trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.
Đến nơi rồi, chúng ta hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân…
– Nầy các cháu, xe hơi nghĩa là gì? các ngài hỏi.
– Kính thưa tiên tổ, xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác, không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.
– Xe mà không cần ngựa hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?. Tiên tổ hỏi tiếp.
– Thưa tiên tổ, máy bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang nước khác, châu họ sang châu kia.
– Xe hay tàu, bay sao được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?
– Thưa, TV là một cái máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn.
– Thôi! Thôi! Tổ tiên các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước khi quá trễ.
Thấy ông bà tổ tiên chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí hiện thời của chúng ta.
Bấy giờ chúng ta thấy rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.
Và đây là bài học của chuyến du hành đi về quá khứ.
Sống trên đời, nếu chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là chúng ta sẽ thất bại.
Bây giờ mời bà con cô bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.
Nầy đây có một đứa chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng, tương trợ, tương ái, tương thân.
Đọc qua tờ báo, chúng ta có cảm tưởng như thế nào?
Hẳn chúng ta sẽ nói với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:
– Này cháu, những gì nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện… thế giới đó chỉ có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh…
Thấy chúng ta là tổ tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư…
Sau hai cuộc thử nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776 cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.
Vậy những điều người chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường, biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?
Bài học quan trọng của hai cuộc thử nghiệm trên là đây:
Trước hết, nếu chúng ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được, chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.
Thứ hai, nếu chúng ta sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.
Sau cùng, nếu chúng ta sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.
Vậy, chúng ta phải kết luận rằng:
– Hoà bình trên quả đất nầy có thể có được.
– Tình tương thân tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được.
– Sự thuận an giữa các quốc gia có thể kiến tạo được.
Lý do khiến những viễn tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm người.
Lý do khiến giấc mơ hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy. Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng: Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Đây cũng là chính điều Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.
“Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”
Tin Mừng của Phúc Âm hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.” Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận thù nữa.
Chúng ta hãy nhớ lại cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có, thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển…
Chỉ vì các Ngài đã có lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hạt cải thôi…”
Vậy trong tất cả mọi sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi.
Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.

43. Suy niệm của Lm. Bùi thượng Lưu
Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải
Ngôn sứ Khabacúc rao giảng cùng thời với ngôn sứ Giêrêmia. Ông than thở và chất vấn Thiên Chúa vì Chúa để cho dân hung ác đe dọa Dân Chúa:
“Lạy Chúa, tôi kêu cầu Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Tôi phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu tôi sao? Cớ sao Chúa tỏ cho tôi thấy sự gian ác và lao khổ, cướp bóc và bất lương trước mặt tôi? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.”
Thiên Chúa đã trả lời Ông: “Người công chính sẽ được sống nhờ lòng trung tín.” Tiếng kêu của ngôn sứ Khabacúc cũng là những nỗi lòng ai oán của con người trước cuộc sống đầy bất công và phi lý. Thi hào Nguyễn Du đã diễn tả nỗi niềm bi thương ấy qua hai vần thơ sau:
“Trải qua những cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
Ai trong chúng ta mà không phẫn uất trước cái chết tức tưởi oan trái của bao nhiêu nạn nhân trong các tai nạn máy bay, trong các thiên tai, hạn hán, động đất khủng khiếp vẫn hằng xẩy ra đó đây trên thế giới? Hàng trăm ngàn trẻ em vô tội bị sát hại trong những cuộc chiến đẫm máu. Hàng ngàn vạn những thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm tự do đã bị chôn vùi xuống lòng đại dương… Bút mực nào ghi hết cảnh khốn cùng của cuộc sống, những ngang trái đoạn trường mà mỗi người chúng ta cảm nghiệm được.
Phản ứng tự nhiên của mỗi người chúng ta trước những gian truân thử thách là những lời than vắn thở dài hoặc kêu trách Thiên Chúa. Đức tin chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội bị lung lay. Những nghi vấn về sự hiện hữu và lòng nhân lành của Thiên Chúa bắt đầu xuất hiện trong tâm trí chúng ta. Dần dần, người tín hữu bỏ đọc kinh cầu nguyện, lơ là việc chịu phép bí tích, mất niềm tin vào Chúa!
Tìm đâu ra lối thoát cho cơn khủng hoảng đức tin ấy, nếu không phải là chính Lời Chúa và ân thánh của Người. Timôthê, người môn đệ thân tín của thánh Phaolô, sắp bị ngã quỵ vì thử thách và thất vọng, đã bừng tỉnh lại nhờ những lời khuyên của Phaolô:
“Cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của Cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần trí nhát sợ, mà là thần trí dũng mãnh, bác ái và tiết độ. Con hãy lấy những lời lành lẽ phải con đã nghe Cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Đấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ kho tàng tốt đẹp.”
Lời khuyên cũng như gương sáng của những người công chính sẽ nâng đỡ những tâm hồn đang bị thử thách: Chị ngã em nâng. Bởi đó, lúc bị thử thách gian truân, chúng ta đừng khép kín, đừng thất vọng. Lời cầu nguyện cũng như đức tin của cộng đoàn, của Hội Thánh là những chiếc phao trong cơn bão tố, khi chiếc tàu hòng chìm xuống. Các tông đồ đã thưa với Chúa: “Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” Trong bất cứ thử thách và đau khổ nào, chúng ta đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Vì đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích rửa tội. Nếu đức tin bị thử thách, thì chính ân Chúa sẽ là sức mạnh củng cố chúng ta. Cũng như nguồn nước tuôn chảy xuống thung lũng để làm cho đất thêm phì nhiêu và cây cối xanh tươi, ân thánh Chúa sẽ tràn đổ xuống tâm hồn khiêm nhường: “phần các con, khi các đã làm xong mọi điều đã truyền dậy các con, thì các con hãy nói rằng: chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm những điều chúng tôi phải làm.”

44. Nếu các con có lòng tin- Br. Minh Trân
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay gồm hai phần: Đức tin (17:5-6) và Đầy tớ vô ích (17:7-10). Cả hai phần đều nói đến Đức tin Chúa muốn các môn đệ Ngài phải có.
Phần thứ nhất, qua dụ ngôn hạt cải, Chúa nói rõ với các môn đệ là Chúa không cần lượng cho bằng phẩm. Chúa không muốn các môn đệ có thêm Đức tin hay nhiều đức tin, nhưng điều Chúa muốn là Đức tin của các môn đệ phải vững mạnh, và tinh ròng. Có nghĩa là tin không chút hồ nghi, tin hoàn toàn, tin tuyệt đối.
Khi nghe nói đến đức tin bé bằng hạt cải mà lại có sức chuyển núi dời non, chúng ta thấy cũng tựa như kiểu nói lạc đà chui qua lỗ kim vậy. Xét ra đây là cách ví von người ta muốn nói đến những chuyện không hề có thể xảy ra. Tuy nhiên, với ơn Chúa, chúng ta tin không gì là không có thể cả.
Nói đến đây chúng ta liên tưởng đến một vài trường hợp liên quan đến đức tin Chúa đề cập đến trong Phúc âm. Trường hợp thứ nhất, Chúa đi trên mặt biển đến với các môn đệ vào lúc ban đêm biển động. Phêrô, với lòng đơn thành, xin Chúa cho được đi trên mặt biển đến với Chúa. Chúa cho, và ông tỉnh bơ đi đến với Chúa. Nhưng vừa khi chợt hoài nghi, thiếu tin tưởng, thì ông liền hụt chân, chìm xuống nước, và kêu cứu (Mt 14:22-33)
Trường hợp thứ hai, Chúa nói về sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Ông không tin Chúa đã sống lại vì chính ông không được mắt thấy tai nghe, tay thọc vào cạnh sườn Chúa, và ngón tay xỏ vào lỗ đinh nơi chân tay Chúa (Jn 20:24-29). Thánh Tôma muốn thấy, muốn biết rõ đã, rồi mới tin. Nhưng, như chúng ta đã biết, nếu đã thấy rồi thì đâu còn là tin nữa vì sự thật đã hiển nhiên rồi. Trong thư gửi tín hữu Do thái có nói rõ “Đức Tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Hb 11:1)
Tóm lại, qua phần này, chúng ta ghi nhận được hai điểm: thứ nhất, Chúa quả quyết chắc chắn rằng Đức tin có một mãnh lực vô song, tuy chỉ bé bằng hạt cải mà thôi, nhưng cũng đủ làm xảy ra nhiều việc lạ lùng. Thứ hai, Chúa mặc nhiên nói rằng Đức tin của các môn đệ chưa bằng hạt cải. Nghiệm về điều nầy chắc mỗi người chúng ta cũng chẳng lấy làm lạ cho lắm vì trong lịch sử loài người đâu mấy khi thấy hiện tượng “cây cối tự bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển” xảy ra đâu mà.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp Thánh Kinh ghi lại là chính Chúa cũng phải ngạc nhiên và cảm phục đức tin mãnh liệt của một số người. Thí dụ, như trường hợp người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15: 21-28), hoặc viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông (Mt 8:5-13). Chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy.” (Mt 15:28), và “Ta chưa hề thấy ai trong Israel có được đức tin mạnh như thế.” (Mt 8:10). Và kết quả là phép lạ đã xảy ra – con của bà goá thành Canaan cũng như người đầy tớ của viên sĩ quan đều được lành.
Sang phần thứ hai, qua dụ ngôn người đầy tớ vô ích, Chúa muốn dạy các môn đệ luôn nghĩ đến sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy trông nơi ơn Chúa. Chúa muốn các môn đệ luôn thâm tín rằng cho dầu đức tin của mình có tinh ròng thế nào đi nữa, có bảo cây nhổ lên rồi đi trồng dưới biển và cây liền vâng theo, thì cũng chớ tự hào là do tài sức riêng mình; nhưng chính là nhờ ơn Chúa. Hay nói một cách cụ thể hơn là việc chúng ta chu toàn bổn phận làm Kitô hữu không hẳn bảo đảm phần rỗi cho chúng ta, nhưng chúng ta phải luôn chân nhận rằng vận mệnh đời đời của chúng ta là do chính ơn Chúa ban, do tình Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Đức tin can trường, một đức mến nồng nàn, và một đức cậy vững vàng, hầu chúng con luôn chân nhận phận mình là những đầy tớ vô ích, và luôn tin tưởng, cậy trông tuyệt đối vào lòng thương yêu bao la hải hà của Chúa luôn dành cho từng người chúng con. Amen.

45. Niềm tin thương mại – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao có câu: Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Câu ca ngàn đời này ca ngợi công lao của cha mẹ lớn như trời biển, khi sinh thành và dưỡng dục con cái nên người. Và cũng từ đó giáo dục cho các thế hệ sau phải biết: “Một lòng thờ mẹ, kính cha – cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con”.
Thế nhưng, cuộc sống bộn bề những gánh nặng chồng chất bởi cơm áo gạo tiền, bởi kiếm kế sinh nhai khiến con cái ngày nay xem ra thực dụng hơn. Họ toan tính thiệt hơn khi phải chăm sóc mẹ cha và đôi khi tàn nhẫn phủi tay trách nhiệm với cha mẹ. Có những người con coi khinh cha mẹ già yếu, thậm chí còn ngược đãi, hành hạ cha mẹ… .
Có một câu chuyện mang tựa đề “Ngày thứ 31” viết về một gia đình sinh ra được ba, bốn người con. Tuy điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng đôi vợ chồng này vẫn cần mẫn nuôi con khôn lớn. Tới khi con cái trưởng thành, cũng là lúc ông bà kiệt sức bởi tuổi già và bệnh tật.
Việc chăm sóc nuôi dưỡng bố mẹ già dường như đã trở thành gánh nặng với các con, chúng đùn đẩy cho nhau. Không ai chịu ai nên chúng bổ đều mỗi người phải nuôi bố mẹ ba mươi ngày luân phiên, bi kịch đã xảy ra khi vào tháng có 31 ngày, không đứa con nào chịu nuôi bố mẹ cái ngày dôi ra ấy, ông bà đành chịu đói nằm chờ qua ngày để đến tháng tiếp theo.
Gần đây có biết bao chuyện đau lòng khi con cái bất hiếu với mẹ cha. Thí dụ như chuyện một đôi vợ chồng già do con cái tranh chấp nhà cửa mà bị đẩy ra sống vất vưởng ngoài đường. Rồi chuyện đứa con ngang ngược hành hạ mẹ già, chỉ vì không cấp đủ tiền cho chúng ăn chơi, hoặc đau lòng hơn, vì mâu thuẫn mà có những đứa con nhẫn tâm đoạt cả mạng sống của chính người đã sinh ra mình… Để lại vết thương lòng nhức nhối trong xã hội.
Đây là kiểu sống không có tình; chỉ có tính thương mại. Đúng như người xưa nói: ‘Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày’.
Đây cũng là lối sống đạo đầy toan tính của con người thời đại hôm nay. Theo đạo để tìm lợi lộc vật chất như có người vẫn mong cầu trúng số, trúng thưởng hay được trả công bội hậu. Và cũng không thiếu những người xa rời đạo vì theo đạo chẳng được lợi lộc gì! Có người còn toan tính thiệt hơn khi cho Chúa, cho Giáo Hội họ sẽ nhận lại điều gì?
Các tông đồ năm xưa cũng từng hỏi Chúa Giêsu, họ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa, họ sẽ nhận lại điều gì? Họ vẫn toan tính thiệt hơn theo kiểu thế gian “có qua có lại cho vừa lòng nhau”. Đây là loại người đức tin còn non yếu. Một đức tin chưa đủ trưởng thành để có thể tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Một đức tin chưa đạt đến mức độ dấn thân để bước đi theo đường lối của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: đức tin sẽ giúp chúng ta đạt được những điều ngoài sức tưởng tượng và ngoài khả năng của chúng ta. Một đức tin có thể chuyển núi dời non. Một đức tin có thể làm những chuyện phi thường. Niềm tin chân thành cũng đòi hỏi chúng ta dấn thân hoàn toàn cho Chúa. Một sự dấn thân phó thác mọi sự trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm mọi sự theo ý Ngài, thế nên hãy để ý Chúa được hiển trị trong cuộc đời chúng ta khi chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Hãy để quyền năng Chúa hiển trị trên sự yếu hèn của chúng ta khi chúng ta tín thác nơi Chúa.
Điều quan yếu để đức tin mang lại hoa trái cho cuộc đời chúng ta chính là nhìn nhận sự nhỏ bé, bất toàn của mình để cậy trông vào Thiên Chúa. Nhìn nhận mình chỉ là một đầy tớ vô dụng nhưng được Thiên Chúa yêu thương ân ban biết bao ơn lành hồn xác. Sức khỏe, trí tuệ, sắc đẹp, công việc đều là ân ban của Thiên Chúa. Thử hỏi:
– Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.
– Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
– Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
– Ta đẹp ư?: cũng thế.
– Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi. Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra sự yếu hèn của mình để biết trông cậy vào ơn Chúa và biết tạ ơn mỗi khi được nhận lãnh. Amen.

46. Cần một niềm tin- Lm. Bùi Mạnh Tín
Mọi tôn giáo đều được đặt nền trên một niềm tin, dù niềm tin ấy rõ ràng hay mơ hồ, có hệ thống hay chắp nối góp nhặt. Không có niềm tin, sẽ không có tôn giáo. Chính vì thế, những người chấp nhận và bước theo một tôn giáo được gọi là tín đồ hay tín hữu. Vì tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành những tín đồ Kitô giáo. Niềm tin Kitô này mỗi ngày thêm mạnh mẽ cứng cát hay yếu kém mong manh, phần lớn tùy thuộc vào sự cộng tác của mỗi tín hữu đối với ơn Chúa. Chính qua sức mạnh của lòng tin, chúng ta có thể thực hiện được những công việc lạ lùng, vượt trên khả năng và lý luận của con người như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu chúng con có đức tin bằng hạt cải, chúng con có thể nói với cây dâu: hãy bứng rễ lên và đi trồng dưới biển, nó liền nghe lời chúng con”. Ở đây, chúng ta nhắc lại một số phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện liên quan đến đức tin:
– Khi người đàn bà bị băng huyết đến xin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9:22).
– Khi gặp những người nhà của ông trưởng hội đường có đứa con gái vừa chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:39), và Người đã làm cho em bé gái sống lại.
– Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể…” (Mc 9:23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành.
– Không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mắt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Luca nói: “Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này Anh, Anh đã được tha tội rồi” (Lc 5:20)
– Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã ‘khảo sát’ đức tin của Matta. Khi đã thấy rõ niềm tin của cô, Chúa mới thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Lazarô sống lại (Gio 11:26-27).
Tất cả phép lạ đều được thực hiện do quyền năng và lòng nhân hậu của Chúa, đúng vậy. Nhưng đối với Chúa, “hình như “ các phép lạ không tùy thuộc vào Ngài cho bằng tùy thuộc vào lòng tin nơi con người, nên trước khi thực hiện một phép lạ, Chúa Giêsu thường nói: “Đức tin của con đã cứu con”. Nói thế, Chúa muốn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của con người trong lãnh vực đức tin. Đàng khác, khi nói đến đức tin, chúng ta cũng không chỉ hiểu đó như một sự chấp nhận các tín điều lý thuyết, trong tư tưởng, hoặc việc đọc thuộc lòng một công thức nào đó như kinh Tin Kính, kinh Tin Cậy Mến mà thôi, nhưng hơn thế, đức tin còn phải được thực hành qua cuộc sống hằng ngày. Chính qua việc thực hành và những thử thách hy sinh, mà đức tin trở nên mạnh mẽ, sống động. Không vậy, đức tin sẽ chẳng tồn tại. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, việc thực hành này không dễ dàng, vì đức tin luôn hướng tới những điều cao siêu, thánh thiện, trong khi con người lại yếu đuối, hạn hẹp và dễ dàng lầm lạc. Do đó, ước gì chúng ta luôn biết bắt chước các tông đồ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thầy, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.”

47. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn
“Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng tôi” (Lc 17:5).
Khi trở thành người Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng lão (Presbytarian church), đã tâm sự: “Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô.” Việc nhận biết này kèm với những khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.
Nói đến trở lại là nói đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình, bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?
Biết bao vấn đề được nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không thấy được những gì mình được thấy.
Ngoài những thách đố trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống. Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh gia đình.
Khi đọc qua những thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm cha mẹ, vợ con?
Phải chăng vì những con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài” (Phil 3:8-9).
Lợi được Đức Kitô, và là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.
Thánh Phaolô là người đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại, tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một đời sống mới bắt đầu.
Ngày hôm nay, được chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?
“Lạy Chúa, xin củng cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con.” Xin cho chúng con gặp được Chúa như Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người. Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen.

48. Đức tin trong bóng tối
Một buổi chiều nọ, nhà khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một khu rừng ở nước Peru. Họ cảm thấy lo sợ vì nếu họ không tìm được doanh trại của họ thì sẽ phải chết trong khu rừng này. Họ chạy toán loạn đi tìm con đường mòn đã dẫn họ đi vào rừng. Thình lình họ nhận thấy rằng sự hỗn loạn đi tìm con đường mòn chỉ làm tăng thêm sự mệt mỏi vô ích. Họ lấy lại bình tĩnh và đứng yên lặng suy nghĩ. Một tia sáng đã bừng lên trong trí óc. Savoy ghi lại điều đó: “Tôi đưa mắt nhìn vào một thế giới đẹp đẽ của những cánh hoa xinh xắn, mùi hương thơm từ những cánh hoa nở rộ, và những con chim hót líu lo. Đúng thế, Thiên Chúa ở đây. Tâm hồn tôi trầm tĩnh. Tôi bình tĩnh bước vài bước về bên trái và tôi tìm thấy con đường mòn.”
Câu chuyện trên ăn khớp với các bài đọc hôm nay. Trước hết, nó minh chứng những lời trong sách Khabacúc, “Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín.” Thứ đến, nó minh chứng cho những lời Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiếu cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’ nó liền vâng lời các con.”
Đây là điểm thường làm cho chúng ta phải lo lắng, liệu đức tin của chúng ta có bằng được hạt cải? Cho dù đức tin của chúng ta rất mạnh mẽ đến đâu, thì cũng có lúc nó mịt mù yếu ớt. Điều mà hôm nay trong sáng, mai lại có thể tối tăm mù mịt. Giống như mặt trời có lúc ẩn sau đám mây, rồi lại hiện ra trong sáng.
Đức tin chúng ta tăm tối thường thì bởi ba lý do sau: Bản tính con người, chính chúng ta, hoặc Thiên Chúa.
Trước hết, nó có thể là do bởi bản tính con người nghĩ là có lúc “hứng cao” lúc “cụt hứng”. Nói cách khác, đức tin của chúng ta bị ảnh hưởng bởi tâm trạng hoặc mất hứng trong con người.
Một tác giả đã viết về cảm nghiệm này như sau: “Một ngày kia, cuộc sống thật đẹp đẽ, chúng ta cảm kích mọi sự và mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những gian truân đau khổ trong cuộc đời. Một ngày khác, cuộc sống thật đen tối, đó là lúc chúng ta có thể đếm được rất nhiều kẻ thù, tìm ra được khuyết điểm của mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những lúc vui vẻ trong cuộc đời” (Anthony Padovano, Belief in Human life).
Thứ hai, nguyên nhân đức tin chúng ta trong đêm tối là bởi do chính chúng ta. Chúng ta có thể coi trọng thân xác bên ngoài hơn là linh hồn bên trong. Nghĩa là, chúng ta để cho đời sống đức tin yếu dần đi do bởi vì chúng ta phạm tội và không dùng những của ăn thiêng liêng. Cũng giống như thân xác không ăn uống gì, lại còn thêm bệnh tật nữa thì chết dần chết mòn.
Thứ ba, đức tin trong đêm tối có thể là do chính Chúa an bài như thế. Nghĩa là, Thiên Chúa để cho xảy ra như vậy để chúng ta đào sâu và tăng cường hơn trong đời sống đức tin. Thiên Chúa dùng đêm tối này để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đời sống đức tin, như Ngài đã từng thử thách Abraham khi Ngài nói phải sát tế người con duy nhất.
Trong những hoàn cảnh này, chúng ta hãy biết chấp nhận và dùng nó như là điều mà Chúa đã an bài cho chúng ta. Đó là sứ điệp mà chúng ta nhận được qua bài đọc hôm nay.

49. Chú giải của Noel Quesson
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng
Thánh Luca vẫn luôn tả lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.
Sau khi đã nói với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “những người được sai đi”.
Trong đời sống hằng ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười Hai: Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của việc “sai đi” do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các “chứng nhân” của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng trời cuối đất.
Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các “tông đồ”. Nhưng những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi… để trở thành chứng nhân của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”
Danh xưng “Chúa” chỉ xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu xin của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời “cầu xin”, “như thể” Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.
“Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Trở thành tông đồ, không đơn giản là một quyết định của con người.
Trở thành chứng nhân của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.
Chỉ có đức tin mới mở ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy lý của khoa học. Và đức tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!”
Vậy thì ai, nếu không phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ thảm hại của họ?
Vậy thì ai nếu không phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can đảm” đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm gì cả: “đón nhận” là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời. Một “ơn” luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. “Ơn của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được “cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con…”
Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em
Một hình ảnh khó quên theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải là loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các “dấu chỉ” kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.
Một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả… thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất… để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.
“Các bạn hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc… Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng… Các bạn hãy nhìn: nước biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn đói nữa… chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn…”. Chỉ cần một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh… vâng, cây mọc trong biển, núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin… Gia đình đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và Người đứng đó, bên kia biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng” (Thánh Vịnh 95).
Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: ‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng ta cứ để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là “vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Cần phải nói thêm rằng chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.
Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy Chúa, phải đấy. Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như chúng con.
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm
Lạy Chúa, Chúa muốn nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước mặt Người.
Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”! Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một “người cha”, một “người chồng”, kể cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ “ (Lc 12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc đã nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”. Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa”.
Hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).
Những người Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một “thần tượng” chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.
Thái độ chân thật duy nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống trị!

50. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ
(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.
Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với họ.
Lời than thở này của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm “vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức tin (17,5-6);
2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
– xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
– Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.
– cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là “cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.
– đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công
– lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
– Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
– vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức tin (5-6)
Chúng ta không biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non” (x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)
Với công thức Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.
Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng… Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là
Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao làm nổi.
2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.
6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).

51. Sức mạnh của đức tin
(Suy niệm và Chú giải của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
1. Người ta muốn liên kết cc.5-6 với các phần trước, như thế các tông đồ, vì cảm thấy khó thi hành toàn vẹn việc tha thứ các điều xúc phạm đến mình, đã xin Chúa Giêsu thêm đức tin để vượt thắng khó khăn đó. Nhưng không chắc là có tương quan đó và cũng không chắc là tác giả phúc âm bàn đến chủ đề mới mà không có câu chuyển mạch. Chữ và (kai) ở đầu c. xem ra khẳng quyết ý tưởng đó.
2. “Xin thêm lòng tin cho các con”. Về phía các tông đồ, là những người có sứ mệnh mở rộng Nước Thiên Chúa, lời cầu xin này rất hợp thời (cũng xin rất hợp thời đối với tất cả mọi tông đồ hiện đại và mọi Kitô hữu). Đức tin mà các Ngài ao ước hằng tăng trưởng không phải chỉ là một liên kết thuần tri thức vào sứ điệp cứu rỗi Chúa Giêsu mang đến, nhưng là niềm xác tín đặc biệt và tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ban cho nó sứ mệnh loan truyền tin mừng trong thế giới qua việc rao giảng và làm phép lạ. Đó là đức tin toàn diện, là ân huệ căn bản của ơn cứu độ.
Câu Chúa Giêsu trả lời có thể hiểu hai cách:
a/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đồ đã nói đến bằng các từ ngữ chỉ lượng tính điều phải được định giá bằng phẩm tính. Có lẽ Chúa Giêsu muốn sửa sai cái nhìn đó: khi có đức tin đích thực, toàn diện, thì vấn đề lượng tính không quan trọng; nhưng nếu chỉ có một số lượng đức tin nhỏ nhoi như hạt cải, người ta cũng đủ năng lực để hoàn tất các công việc xem ra không thể làm được.
b/ Khi xin thêm lòng tin, các tông đo nhắm đến niềm tin – phó thác hoàn toàn của một tín hữu hoàn thiện. Câu Chúa Giêsu trả lời có lẽ cho thấy các Ngài đã có lý khi nghĩ rằng một đức tin như thế thật đáng ước ao chừng nào vì đức tin đó thật mạnh mẽ, quyền uy. “Nếu các con có đức tin lớn như hạt cải”, nếu các con có được một chút đức tin toàn thiện mà các con cầu xin, điều đó đã đủ để cây dâu tróc rễ, xuống mọc dưới biển, theo lệnh các con truyền… Vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.
Khó mà theo cách chú giải nào. Dù sao, hình như tác giả muốn nhấn mạnh đến phẩm tính của đức tin hơn là lượng tính, vì ông đã cố ý lựa một hình ảnh thật qua đáng (hạt cải chỉ lớn bằng đầu cái kim). Một sự phó thác dù nhỏ mọn đến đâu, miễn là được thể hiện trong đức tin, có thể chiếm hữu được nhiều điều lớn lao do Thiên Chúa ban. Cây dâu là một cây đại thụ: rễ rất lớn, có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác đích thực vào Thiên Chúa cũng có thể bứng cây dâu này khỏi đất để mọc trong lòng biển Galilea.
Mt 17,20 và Mc 11,23 diễn tả cùng một giáo huấn này, bằng nhiều câu khác biệt, ví dụ thay cây dâu bằng hình ảnh một ngọn núi tróc chân và xuống mọc dưới biển. Tuy nhiên những lời đó không có nghĩa theo lối tả chân đó. Phải hiểu chúng trong một nghĩa rộng rãi hơn. Những lời đó cho thấy phép lạ vĩ đại nhất của lòng tin sẽ được thể hiện nhờ vào sức mạnh chinh phục của Phúc âm, phép lạ đó không những chỉ dời cây dâu hay ngọn núi, nhưng toàn thế giới. Dù sức mạnh ấy chỉ ở trong con người, và con người chỉ ở trong một góc bé nhỏ của vũ trụ, sức mạnh của đức tin sẽ chiếu sáng bằng những chuỗi công trình kỳ diệu. Một Kitô hữu đích thực bất cứ ở đâu cũng là một sức mạnh. Môi trường của người Kitô hữu đó sẽ thế nào nếu người đó là một vị thánh? Vì thế cha sở xứ Ars đã nói với Đức Giám mục của Ngài: để biến đổi toàn giáo phận, chỉ cần đặt ở mỗi xứ một cha sở thánh thiện là đủ.
3. Lc đặt dụ ngôn về “người tôi tớ hèn mọn” trong một loạt câu chuyện xem ra không liên hệ gì với nhau. Các câu chuyện này tản mác nhiều chỗ trong Mt và Mc.
“Nào ai trong các ông …” là câu hỏi đưa ra cách tổng quát một sự kiện thường có trong cuộc sống hàng ngày, trong đó có nhiều điểm để so sánh. Lý chứng cho thấy câu chuyện Chúa Giêsu nói không phải là một ẩn dụ, nằm trong câu áp dụng (“các ông cũng thế…”). Rõ ràng là Chúa Giêsu so sánh hai toàn cảnh, chứ không lấy một thực tại này thay thế một thực tại kia. Trình thuật đưa ra trường hợp của ông chủ, còn việc áp dụng dựa trên các sự kiện thái độ của người tôi tớ: hình ảnh xem ra không được cân đối, nhưng có thể hiểu được nhờ một lý do tâm lý. Cử tọa đang nghe Chúa Giêsu rất có thể gồm những người nuôi tôi tớ, hơn là gồm chính những người tôi tớ. Vì thế ngài bắt đầu bằng câu: “Ai trong các ông, có một người tôi tớ”, chứ không nói: “Ai trong các ông là nông dân hay mục đồng…”
Dụ ngôn giới thiệu một ông chủ đã hai lần gặp thấy tôi tớ mình chu toàn tốt nhiệm vụ. Lần thứ nhất, khi người tôi tớ đi cày ruộng về hay dẫn gia súc của chủ từ đồng cỏ về. Phải chăng ông sẽ quên ai là chủ ai là tớ? Không, ông chủ sẽ đòi người tôi tớ tiếp tục phục dịch ông. Do đó người tôi tớ sẽ lo dọn bữa cho chủ trước khi nghĩ đến bản thân mình. Sau đó, người tôi tớ sẽ có quyền đòi thay đổi địa vị? Không, chủ luôn luôn xem y như là tôi tớ của ông.
Người ta chờ câu áp dụng cho Thiên Chúa và câu áp dụng tương phản, như các dụ ngôn khác đã làm. Ông chủ trần thế đã xử sự như thế, còn Cha các con trên trời sẽ hành động khác. “Ông chủ sẽ làm gì? Thật, Ta nói thật chủ sẽ thắt lưng, sẽ đặt người tôi tớ vào bàn tiệc, và đi lại hầu hạ nó” (theo cách nói của Lc 12,37).
Nhưng ở đây Chúa Giêsu không muốn đưa ra bài học về cách thức mà Cha trên trời tưởng thưởng các tôi tớ Ngài. Ngài muốn dạy các tôi tớ phải phục vụ trong tâm tình khiêm tốn nào? Như thế Chúa Giêsu đi từ việc quan sát ông chủ, đến việc chú ý đến người tôi tớ và so sánh dựa trên lối cư xử của người tôi tớ.
Theo tập tục thời đó, tôi tớ không được thuê làm ban ngày, nhưng vẫn ở nhà, thì không được tự do sử dụng thì giờ theo ý mình, ông luôn luôn bị đặt dưới sự xử dụng của chủ. Khi làm xong một công việc chủ trao người tôi tớ phải sắp sẵn để làm một việc khác. Ông luôn luôn là một tùy viên không khi nào vượt qua khỏi thân phận tôi đòi của mình.
Dù làm nổi bật ông chủ, dụ ngôn cũng mô tả vừa đủ thân phận người tôi tớ để đưa ra một cách áp dụng dựa trên thân phận đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng bao giờ vênh vang trước mặt Thiên Chúa như thể chúng ta có quyền đòi Thiên Chúa đặc biệt tưởng thưởng, sau khi đã làm xong một vài công việc; trái lại Ngài cho thấy chúng ta phải luôn ý thức thân phận tôi tớ của mình, và khi đã làm xong một việc gì, chúng ta phải vui lòng chấp nhận việc Chúa sẽ gởi công việc khác cho chúng ta thi hành. Dụ ngôn hoàn toàn không nhắm đến hậu kết của thái độ như thế (như trong Lc 12,37). Đây không phải là giáo huấn về thưởng phạt, nhưng là bài học khiêm tốn.
Bài học khiêm tốn này còn rõ ràng hơn nếu chúng ta dịch đúng tĩnh từ axhreios là chữ được ghép cho các tôi tớ trong bài học mà Chúa Giêsu rút từ c.10. Đa số các bài chú giải đều dựa trên bản dịch: “chúng tôi đều là những tôi tớ vô dụng”, và khai triển ý tưởng đó cho rằng các điều chúng ta làm đều vô ích trước mặt Thiên Chúa. Đây là một ý tưởng đúng về mặt siêu hình, nhưng không được dụ ngôn trực tiếp gợi ý. Vì trong dụ ngôn, người tôi tớ không phải là vô dụng đối với chủ. Làm sao có thể tuyên bố là vô dụng, một người tôi tớ sửa soạn bữa ăn, mang thức ăn của uống theo lệnh chủ? Người ta sẽ cho rằng tĩnh từ achreios chỉ áp dụng cho người tôi tớ của Thiên Chúa, vì với Thiên Chúa không ai là người hữu dụng thực sự; đúng thế, nhưng vì người tôi tớ đó của Thiên Chúa ở đây được so sánh với người tôi tớ trong dụ ngôn đâu có vô dụng.
Do đó, tĩnh từ achreios không có nghĩa là “vô dụng” mà còn có nghĩa “bản thân hèn kém, vô nghĩa, không đáng kể…”. Cho nên người tôi tớ, vì chỉ thực hành lệnh của chủ, nên không có tham vọng được chủ biết ơn hay tưởng thưởng: vì ông đơn thuần chỉ là một người tôi tớ; ông không làm gì hơn, ngoài việc bổn phận tôi tớ của mình. Đối với Thiên Chúa, con người không phải là người đồng hàng có thể tự do ký kết với Ngài các thỏa ước hay giao dịch trao đổi; cũng không phải là kẻ ngang hàng đã phục vụ Ngài vì tình bằng hữu, nên có quyền chờ đáp trả, vì con người chỉ là tôi tớ Thiên Chúa.
KẾT LUẬN
Người tông đồ phải phục vụ Thiên Chúa với tinh thần khiêm tốn như người tôi tớ, sau khi đã chu toàn ý của chủ, không nghĩ rằng mình làm một công việc phi thường. Các môn đệ Chúa Giêsu phải giữ mình đừng kiêu ngạo vì những công việc tông đồ của mình, và phải tự xưng mình chỉ là tôi tớ: điều này không muốn nói họ là những tôi tớ không làm được gì, vì Thiên Chúa sử dụng họ, nhưng là những tôi tớ không mấy kết quả, vì thế đừng vênh mặt vì các công việc mình đã làm như thể các công việc đó là những kỳ công tầy trời. Dù có làm được gì họ phải luôn nói: “Chúng tôi đã chỉ làm điều chúng tôi phải làm”.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Lời cầu xin của các tông đồ “xin thêm lòng tin cho chúng con” cũng phải là lời cầu xin của chúng ta vào thời thử thách xao xuyến, như thời chúng ta đang sống cũng như trong bất cứ thời nào. Các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại làm chúng ta tiếp xúc nhiều với biết bao sự dữ và đau khổ, khiến chúng ta phải có một đức tin dồi dào, mới có thể nhìn thấy qua tất cả các sự kiện đó Nước Thiên Chúa đang từ từ được kiến tạo. Cũng như các tông đồ ngày xưa, chúng ta hãy xin Chúa thêm sức mạnh nội tâm cho chúng ta hôm nay.
2. Qua việc so sánh với hạt cải, Chúa Giêsu không còn cách nào tuyệt hảo hơn nói lên tầm quan trọng và hiệu năng của đức tin. Nếu bạn có đức tin, dù rất khiêm tốn, như một hạt giống nhỏ bé nhất, một đức tin không có gì đáng kể, nhưng chỉ một tiếng bạn có thể làm trốc rễ một cây đại thụ và đem trồng dưới biển. Không còn cách nói nào hay hơn để mô tả sức sáng tạo và quyền thống trị của con người trên vạn vật, nhờ đức tin. Như thế đức tin làm cho con người được thông vào một quyền năng siêu nhiên. Quả thực, sau khi lời cầu xin của các tông đồ được chấp thuận do việc Thánh linh biến đổi nội tâm các Ngài dịp lễ hiện xuống, các Ngài đã làm chứng có một đức tin không những chỉ lay chuyển các cây cối, rừng rú, mà toàn thế giới.
3. Dụ ngôn người tôi tớ chấm dứt bài phúc âm hôm nay. Không nhằm vẽ chân dung Thiên Chúa, nhưng muốn nói lên thái độ con người đối với Ngài. Phục vụ Thiên Chúa, chính là công việc của người tôi tớ. Thiên Chúa ra lệnh con người phải tuân nghe. Luật buộc phải vâng lời như là món nợ phải của con nợ. Thiên Chúa không mắc nợ ai, chính con người mới mắc nợ Thiên Chúa. Con người không có quyền đòi buộc Thiên Chúa gì hết, vì con người là kẻ mắc nợ. Thiên Chúa không phải trả lương, không cần biết ơn con người. Ngay cả khi người tôi tớ hoàn tất tốt mọi điều chủ đã ra, nó cũng chỉ làm việc nó phải làm. Tôi tớ là tôi tớ. Nếu vì lòng tốt Thiên Chúa muốn tưởng thưởng tôi tớ, điều đó chỉ lòng tốt của Ngài mà thôi; tôi tớ không có quyền đòi được thưởng công, vì nó chỉ làm điều nó phải trong thân phận tôi tớ.
4. Các người Biệt phái (và ai trong chúng ta lại không có một chút đặc tính của người biệt phái trong tâm hồn mình?) quan niệm mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người dưới hình thức một khế ước: ăn miếng trả miếng, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Khi hoàn tất lề luật, khi chu toàn điều Thiên Chúa dạy, bấy giờ chúng ta đòi tưởng thưởng, được trả công. Dụ ngôn Chúa Giêsu loại bỏ cách suy nghĩ đó. Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta, ngay cả lòng biết ơn. Con người chỉ là một tôi tớ hèn mọn. Trong bản văn Lc, dụ ngôn này, được kể cho các tông đồ nghe – dù các Ngài đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu (5,11) các Ngài đã vui lòng thực hiện các yêu sách tận căn đó. các tông đồ dù đã bỏ tất cả cũng chỉ có thể thưa lên: chúng con đã chỉ làm điều chúng con phải làm để trả nợ. Khi phục vụ Thiên Chúa, các Ngài là những tôi tớ hèn mọn, làm điều phải làm. Mọi Kitô hữu cũng phải bắt chước như thế, phải làm trọn bổn phận Kitô hữu của mình tốt hết sức có thể. Dĩ nhiên, một ngày kia họ sẽ được tưởng thưởng (và ngay đời này bằng sự bình an tâm hồn), nhưng họ biết rằng họ chả có quyền được hưởng như thế: phần thưởng chỉ do lòng tốt của Thiên Chúa mà thôi.

52. Chú giải của Fiches Dominicales
NHỮNG ĐẦY TỚ BÌNH THƯỜNG
CỦA ÔNG CHỦ TOÀN NĂNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Với đức tin, có thể làm được những việc không ai nghĩ tới.
Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu vừa mới giảng cho các môn đệ về đởi sống huynh đệ: Người nói đến cớ vấp ngã cho những anh em yếu đuối (l7, 1-4), đến sự tha thứ lỗi lầm. Là những người gánh trách nhiệm của cộng đoàn, “các tông đồ” trăn trở về cách thế để thực hiện đời sống huynh đệ này, nên các ông cầu xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.
Như thường lệ, Đức Giêsu không trực tiếp trả lời, mà sử dụng một hình ảnh dường như không thể có – hình ảnh cây dâu vâng theo lời truyền của kẻ có lòng tin tự bật rễ, xuống dưới biển mà mọc. Người xác quyết rằng đức tin, “dù nhỏ bé bằng hạt cải”, cũng đủ để thực hiện việc coi như không có thể. H. Cousin giải thích: Hình ảnh ngộ nghĩnh về ‘cây dâu vâng lời’, là đi mọc dưới biển, có nói đức tin có thể làm được những việc không ai làm được. Tác giả còn nêu rõ: đã hẳn cần phải hiểu đức tin là việc con người đáp lại sáng kiến của Thiên Chúa, chứ không phải là cách phù phép nào đó bắt ép Chúa phải thực hiện những điều kỳ diệu (“L’Evangile de Luc”, Centurion, trg 226).
2. Là những đầy tớ cần thiết, nhưng vô dụng.
Dụ ngôn sau đó nói tiếp bài học về đức tin và đặt ưu tiên cho sáng kiến của Thiên Chúa. Trong một bài viết, đăng ở tạp chí Kinh Thánh số tháng 4, 1992, Pierre Houzet nêu lên rằng: dịch thuộc từ chỉ phàm chất người đầy tớ là “vô dụng” hay “tầm thường” như trong sách Bài đọc, dịch như thế là sai và hạ thấp giá trị của nó. Nên thay thế bằng từ “bình thường”: những đầy tớ bình thường”.
Phải cảm ơn Pierre Houzet đã lưu ý chúng ta trong bài viết rất sáng sủa của ông. Ông còn trình bày lại cách Đức Giêsu lập luận để đáp lời cầu xin của các tông đồ như sau. “Nếu với đức tin yếu kém đáng phàn nàn, mà anh em còn có thể làm được diều coi như không có thể, (thì càng có lý tin rằng: cũng với đức tin yếu kém ấy) anh em cũng có thể chu toàn ơn gọi làm đầy tớ của mình bằng cách cảm thấp hài lòng trong khi thi hành chức vụ, mà không cần ông chủ phải bày tỏ lòng ưu ái đạc biệt”. Rồi tác giả kết luận: “Chúng ta là những đầy tớ bình thường, sung sướng được thi hành chức vụ và hạnh phúc được chu toàn chức vụ ấy, dưới ánh mắt của Chúa, mà vinh quang của Người không đòi hỏi điều gì nơi ta ở trên trời, nhưng chỉ muốn con người ở dưới thế lấy việc phục vụ nhau mà ca tụng vinh quang ấy” (Sđd. trg 364 và 372).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức tin, cái nhìn mới sức mạnh mới
(“Dieu a visité son peuple” DDB, trg 128).
“Xin thêm lòng tin cho chúng con”. Thánh sử Luca thuật lại khá dài những giáo huấn của Đức Giêsu liên quan đến mọi phương diện của đời sống mới, mà Người muốn đưa ta vào.
Người mở cho ta thấy thực tại của một thế giới khác, mặt trái của các sự vật, mà mắt người phàm không thể thấy được. Đức tin mở cánh cửa của thế giới mới ấy, thế giới của Thiên Chúa. Đức tin trở nên nguồn sức mạnh khiến cho kẻ có lòng tin thực hiện được điều không có thể đối với sức người phàm. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, dù anh em có bảo cây sung này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Đức tin làm nẩy sinh hoa quả của Nước Trời. Đức tin là cái nhìn mới và sức mạnh mới. Chúng ta thường đóng khung trong giới hạn sự khôn ngoan và trong khả năng quá ư phàm trần của ta. Giống như các tông đồ, ta cần phải không ngừng van xin: “Xin thêm lòng tin cho chúng con”.
2. “Một cọng cỏ dại”
(B. Bessière trong “Dieu si proche”, DDB, trg 155-156).
Tôi biết một người nhờ một cọng cỏ mà sống. Tai họa đã dồn dập đổ trên người ấy, mọi sự chỉ là đen tối, nhiều phen người ấy muốn kết liễu đời mình cho xong.
Đang lê bước chân vô định trên lề đường, cô chợt trông thấy, một cọng cỏ vươn lên trong kẽ nứt lề bê tông. Sự sống, nhỏ nhoi, xanh tươi, mạnh mẽ hơn cả tấm “thảm” bằng xi măng nặng phịch đang ra dấu cho cô. Cô lấy lại can đảm để đương đầu với những năm tháng lê thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận ra sứ điệp. Lời tâm sự khiêm tốn này luôn khích lệ tôi. Tôi luôn chăm chú nhìn trên lề đường và trên những bức tường, công trình can đảm của cây cỏ. Và trong cuộc sống con người, tôi cũng thích quan tâm đến biết bao sáng kiến nhỏ nhoi bất ngờ. Hạt cải… Đức Giêsu thật là khéo khôi hài. Các tông đồ khổ sở muốn được “thêm” đức tin, muốn đo đếm được nó, muốn cảm thấy nó dư dật theo lòng sốt sắng của các ông. Vậy mà Đức Giêsu lại hướng chú ý của họ vào một hạt giống bé xíu rồi lại đặt nó đối chọi với một cây lớn! “nếu anh em chỉ có đức tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em bảo cây to kia. Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó sẽ vâng lời anh em”. Cọng cỏ và nền bê tông, Đavít và Goliát, cùng bà Sara cao niên hiếm muộn mà sinh đẻ trong nụ cười…
Đức Giêsu thường nói về cái hạt giống bé nhỏ, được gieo vào các loại đất khác nhau, xem như bị chết héo nhưng vẫn sinh hoa kết trái. Như vậy, Thiên Chúa gieo vung vãi, giống như một đứa trẻ đùa nghịch, và người mời gọi ta hãy đón nhận để rồi lại đi gieo nhưng không. Đức tin, là một giọt nhựa trong cây, một hạt giống vô hình, một ngọn lửa âm ỉ trong ánh mắt. Nhưng đủ để thay đổi cả cuộc đời, để chuyển núi dời non. Tin thiết tưởng là chấp nhận một sự bất cân xứng không thể tưởng tượng nổi giữa sự ù lì của con người và năng lực siêu phàm của Thiên Chúa vốn mời gọi ta biến đổi tất cả, mời gọi ta hãy sáng tạo dù không ai nhận ra. Hãy làm như Chúa. Có lẽ các bạn sẽ cười nhạo tính ngây thơ của tôi, vì tôi chỉ trông thấy những thuận lợi. Nhưng xin các bạn hãy để ý coi… Có biết bao người, nam cũng như nữ, đang làm như Thiên Chúa. Họ ở khắp mặt đất. Thế mà nhiều người có hay biết đâu.
Nếu bạn nói cho họ biết điều ấy, họ sẽ hết sức ngạc nhiên và chính họ sẽ đơn giản đáp rằng: “Chúng tôi chỉ làm việc bổn phận của chúng tôi. Việc phục vụ là hoàn toàn nhưng không”.

53. Suy niệm của William Barclay
Với dụ ngôn người giàu và La-da-rô nghèo, Chúa quở trách những ai dùng của cải cách ích kỷ, sau đó Lu-ca ghi lại bốn điều Chúa cảnh giác môn đệ.
Điều thứ nhất: Chúa cảnh cáo về hiểm họa gây phạm tội cho kẻ khác, thế giới này đầy những tội lỗi, nhưng khốn cho ai gây cơ hội vấp phạm. Điều thứ hai Ngài khuyên các môn đệ phải sống bác, sống trong một thế giới đầy những dịp lôi cuốn vào tội ác, chắc chắn sẽ có người vi phạm, nhưng nêu thật lòng ăn năn, hãy tha thứ, dầu trong ngày tha đến bảy lần.”
Mười hai môn đệ có lẽ vì cảm thấy trách nhiệm nặng nề nên xin Chúa ban thêm đức tin cho. Câu trả lời của Chúa ngụ ý một lời cảnh cáo long trọng, Ngài cho biết điều họ xin thêm đó là cần thiết, cần thiết hơn họ tưởng nhiều lắm. Tuy nhiên trong câu trả lời dấu ẩn một lời hứa nhân từ. Ngôn ngữ Đông phương vốn linh động, có tính cách thật mạnh mẽ. Các câu nói của Chúa có nghĩa rằng dầu những việc coi như không có thể càng trở thành có thể nếu chúng ta có đức tin. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến con số lớn lao về những khám phá lạ lùng trong lãnh vực khoa học, về những thành công trong ngành giải phẫu, về những kỷ lục mà thế giới ngày nay đã đạt được, thì năm mươi năm trước đây các việc đó kể như không thể có được. Nếu ta đề cập đến một việc sẽ không xảy ra, song nếu chúng ta nói “việc này phải xảy ra” thì việc đó có khả năng xảy ra. Cần nhớ rằng chúng ta không làm việc một mình, nhưng còn có Chúa và tất cả quyền năng Ngài ở với chúng ta. Mà với Chúa mọi sự đều có thể.
Mẹ Basilea, người sáng lập dòng Đức Mẹ Truyền Giáo tại Đức sau thế chiến thứ II. Mục tiêu của dòng nhằm sống đời thờ phượng, tin cậy Ngài lo liệu cho mọi nhu cầu của họ. Với phần lớn tin cậy Ngài lo liệu cho mọi nhu cầu của họ. Với phần lớn các nữ tu trẻ, họ đã mua được bất động sản đầu tiên tại Darmstadt. Họ tin cậy Chúa về khoản thu nhập để xây dựng dần dần; trước hết là một nhà nguyện, rồi sau đó đến các nhà khác để tiếp đón những ai muốn tới để tĩnh tâm. Các chị đã mua được tất cả các mảnh đất ở chung quanh, chỉ trừ một mảnh nhỏ kế bên nhà của họ, các chị tin rằng bằng sự cầu nguyện kiên trì rồi ra các chị cũng mua được mảnh đất đó để làm nơi hội thảo về Chúa Giêsu.
Mảnh đất đó thuộc về một bà cao tuổi, bà từ chối bán hay đổi cho bất cứ miếng đất nào khác, vì lý do độc nhất đây là của ông bà cha mẹ để lại, bà không thể để lại cho ai. Một lần kia, xơ Eulalia đến thăm với hy vọng thuyết phục được bà cụ. Bà cụ vắng nhà, nhưng có người cháu. Anh ta dẫn nữ tu vào căn phòng của bà dì chỉ cần nhìn qua, xơ cũng thấy rằng bà cụ sẽ không từ bỏ bất cứ vật sở hữu nào bao lâu còn sống. Phòng chất đầy đồ đạc, đủ để trang trí cho cả tòa nhà lớn, hâu hết đều đã ọp ẹp, cũ kỹ. Sau đó người cháu chỉ cho khách xem cái thang mà bà dì dùng để leo lên giường, cái giường của bà là một chồng nệm được thừa hưởng của tiền nhân, cái này chồng lên cái kia. Rõ ràng bà già này không hề bỏ đi một thứ nào trong số các đồ bà thừa kế. Khi mẹ Eulalia thuật lại cho các chị đều đã thấy, các chị em đều đi đến quyết định muốn giải phóng cho một người quá bị ràng buộc vào những thứ thuộc về thế giới vật chất này, chỉ còn cách duy nhất là cầu nguyện rất sốt sắng, cảm thông sâu sắc và không ngưng nghỉ. Lý do của trận chiến này không phải là một mảnh đất để xây dựng một nơi thờ phượng, nhưng là một linh hồn bị trói buộc.
Các chị quyết định ăn chay vì nhớ tới Chúa: “Thứ quỷ này không ăn chay và cầu nguyện thì không trừ được nó,” (Mt 17, 21). Thêm vào hai điều trên các chị còn từ bỏ một điều có liên quan mật thiết đến tình trạng nô lệ của bà cụ. Các chị em dòng vốn đã sống đơn giản rồi, các chị không có nhiều tiền, và không có bất cứ tài sản riêng nào. Nhưng các chị em đều tìm cầu Chúa, xin Chúa cho mình thấy bất cứ điều gì đã gắn bó mình hơn mình gắn bo1 với Chúa. Sự gắn bó của người này có thể là cây thánh giá bằng gỗ, người kia là một bưu thiếp có hình ảnh đẹp… giá trị tiền bạc không quan trọng, điều quan trọng là thái độ lệ thuộc của ta với việc hay người ấy. Sau “một tuần lễ đầu phục”, chị em cử một chị tới thăm bà cụ hàng xóm.
Chị đặc phái viên không thể tin ở tai mình khi nghe bà cụ bảo: “Tôi không tiếc mảnh đất này lắm, nhưng tôi tiếc mấy cây mận, tôi thật không muốn mất mấy cây mận đó!” Bà cụ bằng lòng bán đất, nhưng chỉ tiếc mấy cây mận. Thật Chúa đã làm một phép lạ!
Hai bên bèn thảo tờ cam kết mua bán, quy định rằng mọi vật ở trên các cây mận đều thuộc về quyền bà cụ. Và sau đó, hằng năm, các chị đều gởi số mận đó cho bà cụ cho tới khi bà qua đời.
Lời cảnh cáo thứ bốn được ghi lại ở đây là quở trách tính tự mãn kiêu căng, thích ca tụng khen thưởng thường thấy nơi những kẻ theo Chúa Kitô. Chúa Giêsu dạy rằng những công tác của loài người dầu có hoàn hảo đến đâu cũng không thể khoe khoang trước mặt Thiên Chúa. Chữ vô dụng ở đây không thể được hiểu là vô giá trị mà được hiểu một người không dễ đi quá bổn phận của mình. Chúa cho biết không bao giờ có thể nói mình đã làm quá nhiều cho Thiên Chúa, để về sau đòi hỏi Ngài ban lại cho điều này điều kia. Khi chúng ta đã làm hết sức mình, đó là bổn phận của chúng ta phải làm, và một người làm tròn bổn phận mình, đó chỉ là làm xong việc mình không thể làm mà thôi. Chúng ta có thể làm thỏa mãn được những đòi hỏi của luật pháp, nhưng hễ ai thực sự yêu điều biết rằng mình không bao giờ có thể là gì đủ hầu thảo mãn những đòi hỏi của tình yêu. Đức Maria đã hiện thực lời Chúa Giêsu dạy: “Này đây tôi là nữ tỳ của Chúa”. (Lc 1, 38) trước đề nghị của Thiên Chúa.
Pete là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khai công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai ông bà đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa cuộc sống hằng ngày. Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã. Hai người đưa vấn đề đến hỏi đạo sư Darshni. Đạo sư đã phân tách và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt nguồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực thể riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động. Khi ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Gương phúc) của Thomas. A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt đã viết câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã sáng lập ra nó hay sao?”
Và khi ông muốn bàn thêm, vị đạo sĩ đã nhắc lại một câu chuyện của một học giả người Âu với một đạo sĩ Đông phương. Học giả này mới hoàn tất một quyển bách khoa từ điển lớn, các bạn của ông xúm lại khen tặng rằng đó là một công trình lớn lao phi thường. Trong chuyến viếng thăm Ấn độ, học giả hỏi đạo sư xrm liệu ông ta có xứng đáng được hưởng những danh dự đó không, thì được đạo sư hỏi: “Ông dùng phương tiện nào để viết: bút, máy chữ hay điện toán. Ông cho biết ông luôn sử dụng bút.
Đạo sư nói ngay: “Khi viết xong cuốn sách, ông có thường cám ơn cây bút mà ông đã dùng không?”
Đó là câu trả lời cho mỗi người chúng ta khi thấy mình làm được một việc lành nào.
Có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người (1Cr 12, 4-6).
Dầu trong thí dụ này Chúa Giêsu quở trách sự kiêu hãnh, cắt bỏ tất cả các công đức của việc làm thì trong nhiều dụ ngôn khác Chúa lại dạy cách quả quyết về những phần thưởng Ngài sẽ ban cho các đầy tớ trung thành, không phải Ngài bắt buộc phải làm, nhưng là chứng tỏ ân điển từ ái của Ngài.

54. Đầy tớ vô dụng – Lm. G. Phạm Văn Phượng
Bài Tin Mừng có hai phần và cũng là hai vấn đề Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp khác nhau: phần đầu Chúa nói trực tiếp cho các môn đệ về khả năng của lòng tin: với lòng tin, con người có thể làm được những việc có vẻ như không thể thực hiện nổi. Phần sau Chúa nói chung cho mọi người về thái độ phục vụ vô kỷ, vô công đối với Chúa.
Trước hết, chúng ta thấy các tông đồ xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. Đây là một ước nguyện hợp lý, cần thiết cho đời sống đạo đức cá nhân cũng như cho hoạt động tông đồ. Các tông đồ nói riêng và mọi Ki-tô hữu mọi thời nói chung đều cần có lòng tin. Các tông đồ xin như vậy, nhưng Chúa Giêsu lại trả lời một câu có vẻ lạc đề: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”. Chúng ta phải hiểu thế nào về câu trả lời bất ngờ này? Có hai hướng giải thích:
Cách thứ nhất, có thể các tông đồ đã đánh giá lòng tin theo số lượng. Các ông nghĩ rằng: cần phải có nhiều lòng tin, theo kiểu đó là đơn vị đếm được, nên Chúa Giêsu đã điều chỉnh cách nhìn theo lượng bằng câu trả lời nhấn mạnh vào phẩm: nếu là lòng tin đích thực thì không còn là chuyện nhiều hay ít nữa, vì với một lòng tin đích thực thì giả như lòng tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi cũng đủ cho người ta khả năng trên các sự vật, và có thể làm được những việc có vẻ như không thể nào thực hiện được.
Cách thứ hai, hoặc là Chúa Giêsu xác nhận điều các tông đồ xin là đúng. Các ông có lý khi ao ước đạt tới một lòng tin đích thực, trọn vẹn và trưởng thành. Xác nhận, nhưng Chúa không khẳng định trực tiếp mà khẳng định gián tiếp, qua việc nói lên hiệu nghiệm của lòng tin, nghĩa là chúng ta có thể hiểu ngầm Chúa đã trả lời thế này: anh em xin vậy là hợp lý lắm, với một lòng tin đích thực thì giả như nó chỉ bằng hạt cải thôi, anh em sẽ có được một khả năng phi thường.
Dù hiểu theo cách giải thích nào thì ý chính vẫn là diễn tả hiệu lực của lòng tin. Lối so sánh giữa một bên là số lượng rất nhỏ: hạt cải, hạt nhỏ nhất, và một bên là một việc làm rất khó, phi thường: dời chỗ một cây dâu, loại cổ thụ, từ trên đất cho mọc xuống lòng biển. Lối so sánh này cốt ý để làm nổi bật ý tưởng then chốt chúng ta vừa nói, tức là để diễn tả hiệu lực của lòng tin.
Phần thứ hai, chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ trong xã hội phong kiến thời đó để nói về thái độ của người phục vụ. Thói thường chẳng có chủ nhà nào coi đầy tớ hơn mình, đến nỗi khi người đầy tớ đi chăn chiên hay đi làm đồng về lại giục người ấy: “Mau vào ăn cơm đi”, rồi phục vụ người đầy tớ ấy. Trái lại, người đầy tớ đi làm về vẫn là đầy tớ, vẫn phải lo hầu bàn cho chủ ăn xong rồi mới đến lượt mình. Đó là bổn phận của người đầy tớ trong xã hội phong kiến, người chủ không cần phải biết ơn người đầy tớ ấy. Chúa Giêsu nêu sự việc quen thuộc của đời sống hằng ngày ra đây không phải để phê phán, nhưng để làm thí dụ soi sáng cho thái độ của người phục vụ trong cộng đoàn Giáo hội, đó là phải có một thái độ phục vụ vô kỷ, vô công, vô danh: nếu một ông chủ trần thế, chỉ vì trong tương quan chủ – tớ của xã hội mà đã có quyền không cần phải mang ơn đầy tớ của mình, thì Thiên Chúa, người chủ tuyệt đối, lại không có quyền đó một cách tuyệt đối hay sao? Cho nên, người phục vụ trong Giáo hội, dù làm gì cũng chỉ là người làm việc phải làm, vì đã được ơn Chúa để làm việc ấy, và khi đã làm hoàn hảo mọi việc Chúa giao cho, vẫn phải khiêm tốn nhìn nhận mình chưa làm được gì cả, nghĩa là phải thực sự sống trong thái độ vô kỷ, vô công, vô danh đối với Chúa.
Hai phần trên ở hai vị trí độc lập nhau, nhưng vẫn có thể diễn tả được đầy đủ ý nghĩa và chủ đích giáo huấn của Chúa, nghĩa là mẩu đối thoại về sức mạnh của lòng tin được kèm theo ngay sau đó giáo huấn về thái độ phục vụ khiêm tốn, vô kỷ, vô công, vô danh, đã mang tính cách giáo huấn rất thực tiễn và quý giá. Cả hai phần đó có tương quan với nhau mà chúng ta có thể diễn tả như sau: anh em hãy vững tin vào Thiên Chúa để được sức mạnh phi thường. Nhưng khi đạt được những thành công, hoặc khi dấn thân phục vụ, hãy nhớ luôn luôn khiêm tốn, nhận mình yếu kém, chứ đừng vênh vang, tự đắc hoặc kể công.
Chúng ta hãy có tinh thần ấy trước Thiên Chúa. Mỗi người là một đầy tớ Chúa gửi nơi từng gia đình, từng quê hương, cánh đồng, xưởng thợ, nhà máy. Áp-ra-ham còn tự xưng mình là tro bụi, Đức Ma-ri-a là tôi tớ Thiên Chúa, Phaolô tự thú mình là nô lệ bất xứng của Chúa, Chúa Giêsu được mô tả là tôi tớ đau khổ đến để phục vụ, các Đức Giáo Hoàng thường tự xưng là “tôi tớ của các tôi tớ”… Còn chúng ta là ai mà dám vênh vang trước Thiên Chúa? Tài ba chúng ta là gì trước Thiên Chúa toàn năng?
Trong thực tế, từ bỏ được cái tôi của mình thật là khó. Chúng ta dễ kể công, dễ tự hào về những việc mình đã làm, dễ đề cao ca tụng chính mình. Hoặc nói theo kiểu bình dân: “mèo khen mèo dài đuôi”, “mẹ hát con khen hay”. Vì thế, bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: không phải vì chúng ta có công trạng gì nên được Chúa thương yêu. Chúng ta không thể dựa vào mình, chúng ta phải cậy dựa vào Chúa, vì không có Chúa giúp đỡ, ban ơn, chúng ta không thể làm được gì. Phải cậy dựa vào Chúa và luôn cầu xin Chúa ban thêm lòng tin, luôn sẵn sàng quên mình đi, để Chúa hoàn toàn hành động nơi mình theo ý Chúa. Sau hết, chúng ta hãy khiêm tốn tạ ơn Chúa, vì Chúa đã đặt chúng ta trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, dù là hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh riêng của chúng ta, chúng ta đừng phàn nàn, than van, vì đó là hoàn cảnh Chúa muốn chúng ta phục vụ Ngài, qua vai trò nhỏ bé và trong hoàn cảnh mưu sinh của chúng ta.
Để cứu rỗi và để giải phóng con người, Thiên Chúa đã không hành động từ trời cao, nhưng Ngài đã nhập thể và nhập thế để chia sẻ với con người và sống với con người hoàn toàn và chấp nhận chỗ đứng sau hết. Là môn đệ của Chúa, chúng ta không thể sống hơn Thầy. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu và chia sẻ về mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa, để mỗi người chúng ta không sống đóng kín trong vỏ sò ích kỷ của mình, nhưng biết sống cho người khác và vì người khác.

55. Xin thêm lòng tin cho chúng con
(Suy niệm của Phaolô Phạm Chung Kiên)
Bài Phúc Âm nhấn mạnh về hiệu quả của đức tin; đức tin phó thác chân thành, đức tin cậy dựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, đức tin đó dù nhỏ bé đến mấy cũng sẽ làm được những chuyện lớn lao và còn thay đổi cả tâm hồn con người. Đồng thời, bài Phúc Am cũng nhấn mạnh ở thái độ tự khiêm cần có của mỗi người trước mặt Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, giữa thế giới vật chất đang được đề cao, giữa thời buổi mà nhiều học thuyết trái ngược với Ki-tô giáo xuất hiện, giữa một thế giới còn nhiều chiến tranh, giữa những bất công, đau khổ đè trên vai những người vô tội … đức tin của chúng con dễ bị lung lay. Trong cuộc sống, có những lúc chúng con gặp những biến cố đau thương, những khó khăn, thất bại… Những điều không may liên tiếp xảy đến khiến chúng con đau khổ, tâm hồn chúng con tan nát. Vào những lúc như vậy, chúng con rất dễ rơi vào tâm trạng khủng hoảng, thất vọng, buông xuôi và đánh mất đức tin. Vì vậy, chúng con cần có đức tin vững mạnh để vượt qua thử thách.
Tâm trạng khủng hoảng, lo sợ, thất vọng luôn rình chờ chúng con, khi chúng con không hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Chính các môn đệ của Chúa Giêsu khi xưa đã trải qua kinh nghiệm này. Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển các ông sợ hãi. Còn ông phêrô thì hoài nghi: “Thưa Ngài nếu có phải Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt biển mà đến với Ngài.” Và khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu con với”.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao lần chúng con gặp những khó khăn, đau khổ trong cuộc sống. Chúng con chạy đến với Chúa nhưng chưa hết lòng tin tưởng để trao những mảnh vỡ cuộc đời, những thất bại, va vấp của chúng con cho Chúa, để Người sửa chữa lại.
Nhờ có lòng tin mà thánh Phêrô đã vượt qua những thử thách và chính thánh nhân đã nói: “Chúa cứu chữa những ai có lòng tin thoát khỏi cơn thử thách” (x.2 Pr 2,9). Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho năm ngàn đàn ông ăn no nê, không kể đàn bà trẻ con. Đối với những ai tin tưởng vào Chúa, chấp nhận những vất vả, khổ cực, nghịch cảnh thì Thiên Chúa luôn nuôi dưỡng, an bài vì Người hằng thương yêu săn sóc những ai đói nghèo, đau khổ. Những khó khăn, thất bại, chán nản sẽ trể nên nhẹ nhàng khi chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Vì chính Chúa đã nói: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11,28). Và chính tiên tri Isaia cũng đã cảm nghiệm được điều đó: “Ai tin cậy Chúa sẽ được tăng thêm sức. Họ sẽ bay cao với đôi cánh phượng hoàng. Họ sẽ chạy không kiệt sức, sẽ đi không biết mỏi. (Is 40,31)
Chính niềm tin dù nhỏ bé như hạt cải cũng có sức biến đổi. Niềm tin nhỏ bé đó ví như những cái đinh nối kết sự giao hảo giữa con người với Thiên Chúa trong hiện tại và thành quả tương lai. Người có niềm tin luôn nhìn về phía trước trong hy vọng và chu toàn hết bổn phận hiện tại trong từng giây phút của cuộc sống. Không phải để thu lượm những thành quả hay lợi lộc vật chất chóng qua nhưng để thi hành ý Chúa.
Thái độ tự khiêm tạo nên lòng tin tưởng. Vì chỉ khi chúng con nhận ra mình yếu đuối thì chúng con cần đến lòng thương xót của Chúa, chúng con mới đặt tin tưởng vào Chúa. Vì người là cha đầy lòng thương xót, người có trái tim nhân từ. Người sẽ ban ơn cho những ai hết lòng cầu xin: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho những của tốt lành cho những kẻ xin người.” (Mt 7, 11b)
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho con luôn biết chạy đến với Chúa cả những lúc thành công cũng như những lúc thất bại, chán nản, khủng hoảng trong cuộc sống bằng một niềm tin vững mạnh và tâm tình phó thác tuyệt đối vào Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con nhận ra sự quan trọng của những điều bình dị và những điều lớn lao trong những việc thường ngày và trong những mối tương quan của chúng con với người khác. Vì thật ra, không có gì là nhỏ bé và tầm thường trước thánh nhan Chúa nếu tất cả được thực hiện bằng một tình yêu lớn lao và một niềm tin mạnh mẽ. Amen

56. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Xin thêm lòng tin cho chúng con
Các tông đổ xin với Đức Giêsu: “Xin cho chúng con thêm lòng tin!” Sao lại xin thêm lòng tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.
Và cũng như mọi lần, Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.
Một hạt cải trở thành một cây to lớn … một cây dâu mọc giữa biển … một ngọn núi di chuyển. Siêu thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu thực.
Đức tin quả là có tính “siêu thực”. Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.
Quà tặng! Phải nhấn mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.
Chỉ là người tôi tớ
Chất liệu của dụ ngôn này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn uống, chừng đó là tất cả.
Tại sao Đức Giêsu lại nói dụ ngôn này?
Từ trước tới nay, người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó, người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.
Thiên Chúa không hề mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên Chúa. “Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được.” Vậy thì, con người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.
Bởi đó, nếu có ai tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của người môn đệ Đức Ki-tô.
Hồng ân của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận; họ là những con người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.
Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.
Theo gương Người Tôi Tớ
Hơn một lần, Đức Giêsu đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật. Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất bỗn phận: “Mọi sự đã hoàn tất.”
Chính Đấng Thiên Sai cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn nho.
Như thế, Đức Giêsu có quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.
Như thế, trong cách diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng, tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng, bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những đầy tớ vô dụng, tầm thường. “Các con không thể làm cho mình cao hơn một tấc được”, và Người cũng thêm: “Cha trên trời biết rõ các con cần gì”, “Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm.”
Khi đưa ra dụ ngôn để dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. “Tôi đến không phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người.” Chính điều đó đã đưa Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã “làm việc bỗn phận”.
Vậy, tin không phải là gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi sự đều trở thành có thể.
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.
Xin ban cho con một tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.
Xin ban cho con tâm hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. … (theo thánh Tô-ma A-qui-nô).

57. Phục vụ – Như Hạ
Đức tin là tất cả sức mạnh chúng ta. Chính nhờ đức tin, con người đã có thể đi vào thế giới Thiên Chúa và trở thành bạn hữu của Người. Chính niềm tin xác định giá trị và ý nghĩa cuộc đời. Lý do vì càng tin, con người càng thấy rõ mình trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
HAI LUỒNG TƯ TƯỞNG.
Trong cộng đồng nhỏ bé của Đức Giêsu, có hai luồng tư tưởng luôn đi ngược chiều giữa Thày trò. Trò lúc nào cũng nghĩ mình phải là một cái gì giá trị. Ngay cả trong lãnh vực đức tin, họ cũng tưởng mình đã đạt tới chiều kích nào rồi. Bởi vậy, họ mới thưa với Chúa: “Thưa Thày, xin thêm lòng tin cho chúng con.” (Lc 17:5) Thực tế, biết bao lần Đức Giêsu đã trách các môn đệ: “Ôi những kẻ kém tin!” (Lc 12:28; Mt 6:30) Hôm nay, Chúa mới cho biết lòng tin của các ông bé tới cỡ nào: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải .” (Lc 17:6)
Lòng tin vào Thiên Chúa chưa bằng hạt cải. Nhưng lòng tin vào cái tôi lớn bà?g cây dâu, thân vươn cao tới 60 feet, rễ cắm sâu xuống lòng đất. Để có thể bứng cây dâu lớn đó, chỉ cần lòng tin bằng hạt cải. Câu trả lời của Chúa Giêsu như một cú sét đánh mang tai. Chưa hoàn hồn, họ lại hoa mắt vì xem thấy cảnh tượng không hợp nhãn chút nào. Chúa giả thiết họ là chủ “có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên.” (Lc 17:7) Nhưng cuối cùng mở mắt ra họ thấy mình rơi tuột xuống vai người đầy tớ đó. Họ vẫn chưa ý thức về chỗ đứng của mình trong tương quan với Thiên Chúa và anh em. Cái tôi vẫn còn quá lớn. Nếu có đức tin bằng hạt cải, chắc chắn họ sẽ hiểu biết Thiên Chúa là ai và mình là ai. Mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng.” (Lc 17:10), trong khi Thiên Chúa là ông chủ toàn năng. Đây không phải chỉ là một lời khuyên sống khiêm nhường, nhưng còn là một mạc khải về bản chất và khả năng con người trong tình liên đới với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trước Đấng Tạo Hóa, con người chỉ là hư vô. Nhưng chỉ cần một chút niềm tin vào Chúa tể càn khôn, con người có thể “xoay bạch ốc thành lâu đài”.
Thực ra tương quan chủ tớ vẫn chưa diễn tả nổi khoảng cách vô cùng giữa Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa và tạo vật là con người. Một tâm tình như thế không phải là lời phủ nhận tất cả những công sức của người đầy tớ, nhưng cần thiết để đón nhận những hồng ân cao trọng hơn. Có sống trong tương quan sâu xa này với Thiên Chúa, mới thấy tất cả chỉ là hồng ân. Dĩ nhiên, “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa . Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu.” (Ga 15:15)
Dù vậy, Tin Mừng hôm nay chỉ muốn mạc khải một sự thật: muốn làm môn đệ Chúa Kitô, tín hữu chỉ cần một chút niềm tin bằng hạt cải, không phải để làm phép lạ, nhưng để truyền cho trái núi kiêu ngạo hay cây dâu ích kỷ rời khỏi lòng mình. Nếu không, làm sao môn đệ Chúa Kitô có thể thấy lý do phải tha thứ cho anh em một ngày bảy lần (Lc 17:4)? Làm sao có thể nhận ra hồng ân Thiên Chúa là một quà tặng vô giá và nhưng không? Làm sao có thể thấy được việc phục vụ Thiên Chúa và anh em là một hồng phúc?
Chính vì có lòng tin, không phải bằng hạt cải, nhưng bằng trái núi, nên Đức Trinh Nữ Maria đã có thể khiến Con Thiên Chúa rời bỏ ngai vàng Thiên quốc xuống ngự trong cung lòng nhỏ bé. Chính đức tin đã khiến Mẹ vui sướng kêu lên: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa,” (Lc 1:38) sau khi đón nhận lời sứ thần truyền tin. Niềm vui tràn ngập tâm hồn Mẹ khi thấy mình được sống trong tương quan huyền nhiệm đó. Mẹ chẳng cảm thấy một chút gì sợ hãi hay gò bó khi phục vụ Thiên Chúa. Như Mẹ, “thiết tưởng chúng ta cũng tình nguyện phục vụ Chúa trong niềm vui, tình yêu và cảm tạ.” (Ezeogu, Homily for 27th Sunday in Ordinary Time, 3/10/2001) Không có niềm tin, không thể sống khiêm cung và thành tín như Mẹ.
Chính khi sống trong thân phận “nữ tì của Chúa”, Mẹ đón nhận tất cả hồng ân vĩ đại từ tay Thiên Chúa. Mẹ thấy mình hoàn toàn mắc nợ Thiên Chúa. Không có lý do gì khiến Mẹ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi Thiên Chúa. Trái lại, suốt đời Mẹ sống trong niềm cảm tạ tri ân. Từ lòng tin sâu thẳm, Mẹ đã thốt lên: “Vâng, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1:38) Từ đó cuộc đời Mẹ là một chuỗi ngày giờ “đồng lao cộng khổ để loan báo Tin Mừng” (2 Tm 1:12) với Chúa và “làm chứng cho Chúa.” (2 Tm 1:8) Lòng khiêm cung của Mẹ đã thu hút tất cả sức mạnh Thần khí, “một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ.” (2 Tm 1:7), khiến Mẹ có thể đứng vững dưới chân thập giá. Nếu không có lòng tin sâu thẳm, nhất định Mẹ không thể sống khiêm cung như thế. “Thiếu lòng khiêm cung là một cám dỗ nguy hiểm hơn các cám dỗ khác. Nó khiến chúng ta không cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Thiên Chúa đối với chúng ta,” (NIB 1995:324) và không thấy được tương quan với anh em đồng loại. Do đó sinh ra những bất ổn trong đời sống cá nhân và cộng đồng cũng như đe dọa sự sống còn nhân loại. Từ lòng khiêm cung, “người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.” (Kb 2:4)
NHÌN LẠI TƯƠNG QUAN HÔM NAY.
Nhân loại hôm nay đang lo sợ trước sự sống còn của mình. Chiến tranh đang xuất hiện cuối chân trời. Làm sao có thể tồn tại sau những xung đột lớn lao đó? Hơn lúc nào, công lý là một bảo đảm cho sự sống còn đó. Nhân loại đã kinh hoàng trước cuộc khủng bố Nữu Ước và Hoa thịnh đốn ngày 11/9/2001. Lương tâm nhân loại đều nhất trí lên án những hành động phi nhân đó. Thế nhưng, cuộc khủng bố đó chỉ là hậu quả tất yếu của những chính sách bất công. Gieo gió thì phải gặt bão! Bởi thế, theo La Civilta Cattolica, một tạp chí có tầm cỡ của các cha Dòng Tên, “cuộc vận động chống khủng bố phải phát hiện ra những nguồn gốc khủng bố, và phải giải quyết vấn đề tận gốc.” (CWNews 5/10/2001) Nói khác, đây là lúc Tây Phương cần phải đặt lại vấn đề về tất cả những chính sách của mình. Tạp chí đó lý luận: “Muốn thành công, trận chiến chống khủng bố đòi Tây Phương phải có một cuộc cách mạng văn hóa. Chủ yếu là phải làm cạn nguồn nước đang nuôi sống những kẻ khủng bố, tức là sự nghèo đói và tuyệt vọng.” (CWNews 5/10/2001) Mọi người đều có quyền sống và hưởng mọi hoa màu trái đất. Đó là đòi hỏi tuyệt đối của công lý! Chỉ có công lý mới có thể chấm dứt cảnh nghèo đói. Chỉ có niềm tin mới đem lại niềm hi vọng cho con người.
Để thức tỉnh mọi người trước công lý, “Giáo Hội Công giáo phải trung thành với đặc sủng ngôn sứ và kêu gọi mọi người phải xây dựng con đường hòa bình cho gia đình nhân loại.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001) Không thể chấp nhận cảnh “người giàu, mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, còn người nghèo phải chết đói trong khi cơn “thèm được những thứ trên bàn ăn rớt xuống” (Lc 16:19-21) vẫn chưa được thỏa mãn. Đặc sủng ngôn sứ sẽ giúp Giáo hội can đảm nói cho người giàu biết ý thức về tình liên đới và chia sẻ ân lộc với người nghèo. Ý thức đó chỉ có thể sống dậy nếu người ta biết mình chỉ là “đầy tớ vô dụng,” không thể tạo nên những của cải trần gian. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng đó. Con người chỉ là đầy tớ “làm theo lệnh truyền” (Lc 17:9) của Thiên Chúa mà thôi. Lệnh truyền đó đòi họ phải chia cơm sẻ áo cho người nghèo đói (x. Mt 25:31:46) Nhưng làm sao thi hành lệnh truyền đó, nếu họ không ý thức của cải chỉ là hồng ân. Có giúp đỡ người nghèo cũng chỉ là chia sẻ một chút hồng ân với anh em kém may mắn hơn mình mà thôi. Không chia sẻ không thể có công lý. Không có công lý không thể có hòa bình. “Chắc chắn hòa bình không thể tách biệt với công lý, nhưng công lý luôn luôn đi đôi với lòng xót thương và tình yêu.” (ĐGH Gioan Phaolô II, CWNews 1/10/2001) Không thấy được bổn phận thi hành công lý, ít nhất người giàu cũng phải thấy mình có liên đới với người nghèo. Nếu không, hòa bình chỉ là một giấc mơ mà thôi!

58. Tin yêu và khiêm nhường phục vụ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Người muốn các ông phải tránh thái độ công thần, đòi phải được Chúa trả công ngay ở đời náy, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
CHÚ THÍCH:
– C 5-6: + Tông đồ: Ở đây đức Giêsu nói riêng với nhóm Tông đồ chứ không phải nói chung với các môn đệ. Tông đồ là tước hiệu dành riêng cho Nhóm 12 được Đức Giêsu tuyển chọn từ nhóm 72 môn đệ (x. Lc 10,1; 6,12-13). Các Tông đồ phải từ bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu và sau này sẽ được Người trao quyền lãnh đạo đoàn chiên và được sai đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa. + Xin thêm lòng tin cho chúng con: Đứng trước những đòi hỏi của Luật Mới (x. Lc 17,1-4) và sứ vụ phải mở rộng Nước Thiên Chúa, các Tông đồ cảm thấy bất lực. Các ông đã xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin vốn đang yếu kém của các ông (x. Lc 8,25). Các ông xin Người mở rộng tâm hồn để đón nhận ánh sáng đức tin. + “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải”: Hạt cải là loại hạt giống nhỏ nhất (x. Mt 13,32). Khi so sánh lòng tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn nhấn mạnh về phẩm chất hơn số lượng của đức tin. Một sự phó thác dù nhỏ bé đến đâu, nếu được thực hiện trong đức tin, thì vẫn có thể làm được những điều lớn lao kỳ diệu. Vì bấy giờ người ta làm không phải do sức riêng mình, nhưng là nhờ quyền năng Thiên Chúa. + “Thì dù anh em có bảo cây dâu này: “Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em”: Cây dâu là một cây đại thụ, rễ của nó rất lớn và nó có thể sống tới 600 năm. Nhưng chỉ một lời phát xuất từ niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, thì cũng có thể bứng cây đó khỏi mặt đất để xuống mọc trong lòng biển Ga-li-lê (x. Mt 17,20). Ơ đây Đức Giêsu không khuyến khích người ta cầu xin những phép lạ giật gân, và chắc không bao giờ Người lại di dời cây dâu để trồng xuống dưới biển. Vì Người luôn từ chối làm phép lạ để chứng minh Người là Con Thiên Chúa như các đầu mục Do thái nhiều lần yêu cầu. Đây chỉ là một kiểu nói nhằm đề cao sức mạnh của lòng tin mà thôi.
– C 7-8: + Có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên…: Theo tập tục thời đó, người đầy tớ không được tự do làm việc theo ý mình, nhưng phải luôn làm theo ý chủ. Ở đây, người đầy tớ vừa cày ngoài ruộng về, hoặc vừa dẫn chiên từ đồng cỏ về nhà. Ông chủ đòi anh ta phải tiếp tục phục vụ bữa ăn tối cho ông. Bổn phận của người đầy tớ là phải làm hết việc này sang việc khác theo ý chủ.
– C 9-10: + Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?: Qua hình ảnh đầy tớ. Đức Giêsu muốn dạy người làm việc cho Chúa không được vênh vang đòi Chúa phải đền ơn sau khi anh ta làm xong nhiệm vụ của mình. Trái lại, họ cần ý thức thân phận tôi tớ thấp hèn của mình để sẵn sàng làm mọi việc theo lệnh Chúa truyền. + “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”: “Đầy tớ vô dụng” không có nghĩa là không làm được gì. Ở đây, “đầy tớ vô dụng” là một kiểu nói cường điệu ám chỉ “mang thân phận hèn kém”. Người Tông đồ cần tránh thái độ “công thần”. Vì các thành quả tuy bề ngoài do các ông làm, nhưng thực sự đều nhờ ơn Chúa giúp, như lời Người phán: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Thánh Phao-lô cũng khiêm tốn nhận rằng: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới cho lớn lên” (1 Cr 3,6). Tóm lại, khi rao giảng Tin Mừng ta cần phải biết noi gương khiêm hạ của Đức Giêsu (x. Pl 2,6-8).
CÂU HỎI: 1) Tông đồ là những ai? 2) Tại sao các ông lại xin Đức Giêsu gia tăng thêm lòng tin? 3) Khi so sánh đức tin với hạt cải, Đức Giêsu muốn dạy điều gì? 4) Đức Giêsu nói về sức mạnh của một đức tin chân chính qua câu nói nào? 5) Tại sao Người lại muốn các Tông đồ phải tránh thái độ “công thần”? 6) Tại sao Đức Giêsu muốn các Tông đồ phải luôn tự nhủ: mình chỉ là “những đầy tớ vô dụng”?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
2. CÂU CHUYỆN:
Ngày nay, trên thế giới, ít có người không biết đến tên Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA. Mẹ là một nữ tu đã được tặng nhiều giải thưởng cao quý nhất: Năm 1963, Ấn Độ đã tặng Mẹ giải thưởng “Bông Huệ Tuyệt Vời”; Phi-líp-pin thì tặng giải thưởng Mas-say-say; Năm 1974 Rô-ma tặng Mẹ giải “Hòa Bình Gio-an 23” và đến năm 1979, Mẹ được tặng giải No-ben Hòa Bình thế giới. Mẹ đã qua đời vào năm 1997 hưởng thọ 87 tuổi. Dù chỉ là một nữ tu không chút địa vị quyền hành, không có bao nhiêu tiền bạc hay thế lực… thế mà khi qua đời, Mẹ đã được nhiều vị đứng đầu quốc gia như Tổng Thống, Cựu Chủ Tịch Nhà Nước của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ… hay các nước nhỏ như Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia… hiện diện hay cử đại biểu đến dự lễ an táng, tiễn đưa Mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Vào năm 1948, Mẹ đã nhìn thấy một người đàn bà đang đói ăn và đứa con nhỏ mới sinh đang nằm bên một đống rác hôi thối, ruồi nhặng bu đầy chung quanh. Cảnh ấy làm Mẹ xúc động như nhìn thấy Đức Giêsu đang bị bỏ rơi trên cây thập giá. Từ đó Mẹ đã quyết hiến trọn cuộc đời để phục vụ những người cùng khổ. Họ là những người đang bị bệnh hoạn, đói rách và nằm trên các hè phố hay bãi rác công cộng để chờ chết mà không được chăm sóc tử tế. Mẹ đã mang họ về nhà dòng và phục vụ họ thật chu đáo, cho đến khi qua đời. Nhờ lời cầu nguyện và sự cộng tác giúp đỡ của nhiều nhà hảo tâm. Mẹ và các nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã lập được gần 300 nhà hấp hối như thế. Cuộc đời và công việc của Mẹ Tê-rê-sa, một nữ tu nghèo nhưng đã làm được những việc lớn lao phi thường nhờ đức tin, minh chứng cho Lời Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Vậy đức tin là gì? Tại sao chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta?
3. SUY NIỆM:
Nhân việc các Tông đồ xin Đức Giêsu ban thêm đức tin, Người đã cho biết đức tin là hồng ân nên các ông phải biết cầu xin Thiên Chúa ban cho. Tiêp đen Người đề cao sức mạnh của một đức tin đích thực. Qua dụ ngôn về một người đầy tớ luôn vâng lời và khiêm tốn, Đức Giêsu muốn các ông phải tránh thái độ “công thần”, tự hào đòi Chúa phải trả công ngay, nhưng phải biết khiêm tốn phục vụ, chu toàn sứ vụ rao giảng Tin mừng với tinh thần vô vụ lợi.
1) “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”:
– Đức tin do Chúa ban: Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nói: “Vô tri bất mộ” – Không biết sẽ không yêu. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại cho thấy về phạm vi đức tin không giống như vậy: Các Kinh sư và các biệt phái tuy am hiểu Kinh Thánh, nhưng họ đâu có tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, đang khi những người ngheo đói, bệnh tật, tội lỗi… tuy ít học, nhưng lai vững tin nơi Nguời. Như vậy cho thấy đức tin không luôn đi đôi với sự khôn ngoan thế gian nhưng là một ơn ban của Chúa, như lời Đức Giêsu đã ngợi khen Chúa Cha: “Lay Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Do đó, muốn có đức tin vững mạnh chúng ta phải cầu xin như các Tông đồ trong Tin Mừng hôm nay đã xin với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
– Sức mạnh của đức tin: Tiếp theo, Đức Giêsu đã đề cao sức mạnh của đức tin khi nói: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17,6). Nói câu này, Đức Giêsu không khuyến khích các Tông đồ làm phép lạ cho người ta tin, nhưng Người muốn các ông ý thức về sức mạnh của một đưc tin đích thực. Nếu có đức tin vững vàng, chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao vượt quá khả năng giới hạn của chúng ta như Đức Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14,12-13).
– Thành quả của đưc tin: Quả thật, sau khi Đức Giêsu lên trời, nhờ quyền năng Thánh Thần, các Tông đồ đã thực hiện được nhiều dấu lạ: Sau bài giảng của Si-mon Phê-rô, đã có ba ngàn người xin tòng giáo. Các Tông đồ còn làm nhiều phép lạ trên những người tin (x. Cv 2,41; 5,12-16). Như vậy, đang yếu đuối, các ông đã nên mạnh mẽ nhờ cậy nhờ vào ơn Chúa giúp. Về vấn đề này, thánh Phao-lô viết: “Chúa quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi… Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10c).
2) Đức tin phải đi đôi với sự khiêm tốn phục vụ:
-Phục vụ cách khiêm tốn: Người tín hữu phải biết phục vụ Chúa và tha nhân cách khiêm tốn vô điều kiện, giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày hay đi chăn chiên về, sẽ tự thấy có bổn phận phải tiếp tục phục vụ bữa tối cho chủ, rồi sau cùng mới được ăn.
-Phải tránh thái độ “công thần”: Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: “Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Phải tránh thái độ vênh vang “công thần”, nghĩa là tự hào về công khó của mình để đòi Chúa phải trả công như người biệt phái trong dụ ngôn hai người lên Đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,11.13).
3) Chúng ta phải làm gì?
– Xin thêm đức tin: Noi gương các Tông đồ xưa, chúng ta hãy năng cầu xin Chúa: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5). Chính nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được những điều lớn lao. Chẳng hạn: Sẽ giúp cho nhiều tội nhân hồi tâm trở về; Sẽ giúp nhiều người lương nhận biết tin thờ Thiên Chúa; Sẽ kêu gọi được nhiều người rộng rãi đóng góp công sức tiền bạc để làm các việc từ thiện bác ái lớn lao, noi gương Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã làm. Đàng khác, Tin và yêu luôn phải đi đôi với nhau: Có yêu Chúa nhiều thì mới tin vững vào Chúa được. Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta còn phải xin Chúa ban thêm lòng yêu mến Chúa nữa.
– Loan Tin Mừng bằng việc bác ái: Ngày nay, loan báo Tin Mừng không những phải dựa vào ơn Chúa giúp, mà còn phải khiêm nhường dấn thân phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giêsu (x. Ga 13,6.13-15). Thực tế cho thấy: Việc chia sẻ bác ái cụ thể có sức thuyết phục khiến nhiều người dễ dàng đón nhận đức tin hơn bài giảng hùng hồn, như Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã dạy: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi, số 41).
– Yêu phải đi đôi với tin: Có yêu Chúa nhiều thì mới vững tin vào Chúa. Trươc khi trao quyền chăn chiên cho Si-mon Phê-rô, Chúa Phục Sinh đã ba lần sát hạch ông về long mến dành cho Người: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (x. Ga 21,15-17). Do đó, ngoài việc năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, mỗi tín hữu chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng mến Chúa cho chúng ta.
– Phục vụ trong khiêm hạ: khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, chúng ta cần tránh thái độ tự mãn khoe khoang thành quả đạt được, nhưng phải luôn tự nhủ: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Phải chờ đên ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ ban thưởng cho các tôi trung của Người, cho họ được tham dự bàn tiệc Nước Trời và sẽ quan tâm phục vụ lại họ (x. Lc 12,37).
4. THẢO LUẬN: 1-Khi bạn làm việc tông đồ mà cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi tất cả thường do những nguyên nhân nào? 2-Bạn cần làm gì để lấy lại tinh thần hăng say phục vụ Tin Mừng Nước Thiên Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Xin ban cho con một đức tin như hạt cải, để con loại bỏ các thói hư tật xấu ra khỏi lòng con. Xin cho con một đức tin can đảm, để con không sợ bị thiệt thòi khi dấn thân, sẵn sàng từ bỏ những điều con thường cậy dựa xưa nay. Xin cho con một đức tin sáng suốt, để con nhìn thấy Chúa đang hoạt động trong vũ trụ và trên thế giới, thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khổ chung quanh con. Xin cho con một đức tin quảng đại, dám hy sinh bản thân vì Chúa và tha nhân. Xin cho con một đức tin liều lĩnh, dám lội ngược dòng và khước từ những cám dỗ của ma quỷ và thế gian. Xin cho con một đức tin vui tươi, vì biết những gì đang chờ đợi con ở cuối đời, sung sướng và hy vọng vì biết mình sẽ được Chúa yêu thương đón nhận. Cuối cùng, xin cho con một đức tin trưởng thành, để con luôn kiên vững khi gặp những khó khăn gian khổ, dù phải trải qua bao thăng trầm của cuộc sống, nhưng vẫn luôn cậy trông và phó thác cho một mình “Thiên Chúa Tình Yêu”.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

59. Xin ban thêm lòng tin cho chúng con – Huệ Minh
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5). Lời cầu xin đó của các tông đồ cho thấy đức tin không phải do cố gắng của con người mà đạt được, nhưng nó được xuất phát từ Thiên Chúa và do tình thương của Ngài. Vì vậy, Ngài trao ban cho ai tùy ý. Hệ quả chân thực của đức tin chính là lòng kiên trì, trung thành, can đảm và phó thác nơi Thiên Chúa (x. Mt 6, 25 -34).
Tin Mừng của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu biểu và dài của Luca (Lc 9, 51 đến 19, 28), trong đó mô tả chuyến đi lên Giêrusalem chậm chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết án và chịu chết. Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn cho các môn đệ. Trang Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng dẫn ấy. Chúa Giêsu chỉ dạy cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc 17, 1).
Để nói về đức tin, Chúa Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: “Chỉ cần có đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển”.
Chúa Giêsu trả lời: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các con”. Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: Có phải Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không có đức tin lớn bằng hạt cải không? Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là mạnh mẽ và bóng gió xa xôi. Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm thường của các môn đệ. Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển cả! Nếu là thời bây giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt nguyên tử, các con có thể san bằng ngọn núi này.”
Niềm tin đưa một người đi vào tương quan với Thiên Chúa; và như mọi mối tương quan bất kì, nó có khả năng làm thay đổi vị thế và quyền lực nơi người đó. Trong Cựu Ước những ai đi vào tương quan với một Đức Chúa hùng mạnh và thánh thiện vô song chắc chắn cũng được tham dự phần nào vào vinh quang thánh thiện đó. Môsê từ trên núi Sinai đi xuống với khuôn mặt sáng chói tới độ dân không dám ngước nhìn.
Sau khi Êlia được Đức Chúa đưa về trời trên cỗ xe bằng lửa, chỉ một chiếc áo choàng ông ném lại đã đủ để Êlisêu có quyền năng rẽ nước sông Gióc đan… Trong cái ngôn ngữ Cựu Ước đang rất phổ thông thời bấy giờ, hình như Đức Giêsu cũng muốn xác quyết cho các Tông Đồ rằng, nếu các ông có được một chút niềm tin như thế, các ông cũng sẽ nhận được một quyền năng nào đó mà Đức Chúa sẽ ban cho.
Chúa Giêsu đã đáp lại lời cầu xin của các tông đồ. Người không nói sẽ ban thêm lòng tin cho các ông. Người đáp trả bằng việc: khơi thêm lòng tin ấy. Người nói để các ông tin thêm nữa. Người bảo: Nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì dầu các ngươi có bảo cây dâu này: “Hãy bứng rễ này đi mà xuống mọc dưới biển”, nó cũng sẽ vâng lời các ngươi.
Chúng ta ngày nay gọi lòng tin như thế là lòng tin chuyển núi dời non. Nhưng có lẽ chúng ta chú trọng đến hiệu quả công việc mà không chú ý đến chính việc làm. Chúng ta chờ có thể sai bảo được núi non. Chúng ta muốn thấy cây dâu nghe lời chúng ta mà bứng rễ nó đi mà xuống mọc dưới đáy biển. Nhưng chúng ta lại ít muốn làm việc với lòng tin. Tôi thiển nghĩ ở đây Chúa muốn nói rằng chúng ta cứ lấy lòng tin mà làm việc đi thì rồi chúng ta sẽ thấy những kết quả lạ lùng. Chúng ta muốn có kết quả này trước khi thi hành việc Chúa truyền dạy, thế nên chúng ta chưa thấy Lời Chúa là chân lý và là sức mạnh.
Vậy Chúa muốn chúng ta có lòng tin mà làm việc, làm tất cả công việc mà phận sự đòi buộc. Và vì đa số chúng ta chẳng làm gì trong xã hội, huống nữa là ở trước mặt Chúa, nên Người đã nói thêm một hình ảnh. Người đầy tớ trong nhà làm việc thế nào? Anh ta làm hết công việc cày bừa ngoài đồng, rồi lại về làm các việc trong nhà. Anh không đòi được trả công tức khắc. Lòng tín nghĩa bảo anh làm hết mọi công việc đã phân chia cho anh. Mặc nhiên anh chắc chắn chủ sẽ thi hành phận sự của chủ.
Người có đức tin cũng phải như vậy. Họ sống đúng chức năng khi làm việc hết khả năng theo như phận sự đòi buộc; và dành quyền xét xử cho Thiên Chúa. Và làm như vậy, họ sẽ thực hiện được những điều lạ lùng. Họ đã phát huy hết khả năng của họ và nhìn lại họ thấy chính nỗ lực đã đạt được những kết quả phi thường. Ðang khi ấy có nhiều người phí sức sống không nỗ lực theo khả năng của mình và cứ ngồi than thân trách phận, kêu ca người khác và dĩ nhiên phàn nàn cả Thiên Chúa nữa. Hạng người này sẽ không bao giờ thấy khả năng “chuyển núi dời non”. Hạng người trên luôn thấy rõ lòng tin khiến họ làm được nhiều kỳ diệu.
Muốn nói cho hết, thiết nghĩ nên gợi đến nếp sống của một hạng người thứ ba. Họ làm việc, họ cố gắng, họ tưởng sức mình có thể dời núi chuyển non. Họ tin vào mình mà không tin vào Chúa. Các thành quả của họ đạt được chẳng là gì trong một lịch sử chung. Cuối cùng họ cũng chỉ thấy mất mát. Ðang khi công việc của người tín hữu, luôn đem lại bình yên thoải mái.
Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích
Như vậy lòng tin thật là cần thiết, không những trong các hoàn cảnh éo le như bài học thứ nhất gợi lên, mà ngay trong đời sống hằng ngày để làm mọi công việc theo chức năng và ơn gọi. Ðiều này khiến chúng ta thấy lời Phaolô nhắn nhủ chúng ta qua Timôthê rất thực tế. Đức tin giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng sao.
Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.
Chỉ cần một đức tin nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một trinh nữ, sinh con.
Xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ta luôn phó thác cuộc đời của ta trong bàn tay quan phòng của Chúa. Có đức tin, ta sẽ làm được tất cả những gì mà ta muốn bởi hiệu quả lòng tin của ta.

—————————————————-

 

Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

1. Đức Chúa ở cùng Bà
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

2. Tôi là nữ tỳ của Chúa
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. “Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

3. Kinh Mân Côi, Lời Kinh Kỳ Diệu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 1: 26-38 Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”
Người Việt Nam ta từ xưa tới nay và chắc chắn về sau, lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria luôn là một điểm sáng. Điều này hiển nhiên tại các gia đình, đền đài, nhà thờ, dòng tu và những trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đây đó.
Như vậy, tràng hạt Mân Côi chính là một vật bất ly thân của chúng ta, bởi vì qua lời kinh Mân Côi, người Kitô hữu đang cùng với Mẹ theo sát Chúa Giêsu trên các chặng đường cứu chuộc. Hơn nữa, khi đọc kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, ấy là lúc chúng ta cùng với Mẹ suy đi và nghĩ lại trong lòng tất cả mọi biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại dưới cái nhìn ân sủng và giá trị cứu chuộc.
1. Lợi ích của việc lần Chuỗi Mân Côi
Nói đến Chuỗi Mân Côi, người ta thường hay nhớ đến những ơn lạ tình thương do lòng thương xót Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Những ơn đó ta có thể liệt kê ra đây như một dấu tích từ ái của Mẹ dành cho con cái như: những ơn chữa lành bệnh tật, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái thảo hiền. Nhưng có lẽ ơn mà nhiều người được hơn cả, đó là ơn hoán cải đời sống, trở về với Chúa.
Như vậy, cuộc đời của người Kitô hữu luôn gắn bó với Mẹ Maria cách mật thiết, khăng khít và nhiệm mầu.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể nơi tổ tiên chúng ta!
Nhớ lại biến cố Lavang, Trà Kiệu… Những nơi này, khi xưa, cha ông chúng ta đã phải hứng chịu biết bao gian lao khốn đốn do nạn bắt đạo gắt gao của các vua chúa quan quyền. Đời sống đạo của các ngài luôn bị đe dọa. Giữa cơn cuồng phong bão táp, các ngài đã phải trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc hay dồn nén trong nhà thờ… Lúc này, cha ông chúng ta chỉ biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria. Vì thế, trên tay không rời Chuỗi Mân Côi, cửa miệng không ngừng vang lên kinh Kính Mừng, tâm hồn hoàn toàn phó thác, cậy trông Mẹ thương cứu giúp… Cuối cùng, Mẹ đã hiện ra để an ủi, củng cố lòng tin, bảo vệ con cái và hứa sẽ nâng đỡ cho khỏi ngàn nỗi hiểm nguy.
Nhìn ra thế giới, chúng ta cũng thấy Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp để Giáo Hội được bình an, trong đó phải kể đến những sự kiện lớn như:
Vào thế kỷ 13, tại niềm Nam nước Pháp, có bè rối Albigeois nổi lên chống đối Giáo Hội. Thấy được mối nguy cơ khó giải này, nên thánh Đaminh đã phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi, cuối cùng, Đức Mẹ đã đưa được những tâm hồn ngông cuồng này trở về với Giáo Hội.
Tiếp đến, vào năm 1571, lúc ấy, Giáo Hội đang bị quân Hồi Giáo đe dọa tiêu diệt. Họ đang sôi sục tiến về Rôma với mục đích bắt Đức Giáo Hoàng Piô V, và tham vọng san bình địa đền đài và biến thủ đô của Giáo Hội trở thành trung tâm của Hồi Giáo.
Họ sẵn sàng chém giết, bắt bớ tất cả những ai chống đối. Thời điểm này, họ rất thuận lợi khi hướng gió và mặt trời luôn ở phía sau họ, khiến cho việc tiến về thành đô Rôma rất thuận lợi.
Khi nghe tin dữ này, Đức Giáo Hoàng rất bình tĩnh, ngài đã xin ơn soi sáng và phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi để phó thác mọi sự cho Đức Mẹ. Quả thật, Mẹ đã cứu Giáo Hội một cách nhiệm mầu! Bởi vì quân Hồi Giáo là một quân hùng hậu, vũ khí tối tân, họ đứng về phía chủ động và đang gặp thuận lợi về nhiều mặt. Người Công Giáo thì ít ỏi, thô sơ… Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ, vì thế, nếu trước đó họ rất thuận lợi bởi hướng gió, nhưng chẳng bao lâu, họ đã bị chính hướng gió xoay chiều đổi hướng liên tục, khiến các con tàu của chúng đâm vào nhau và phá vỡ chiến trận.
Chẳng mấy chốc, tin thắng trận của người Công Giáo đã đến Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, đây là hồng ân phép lạ do lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Hôm đó rơi vào đúng ngày 07/10. Vì thế, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để tạ ơn Đức Mẹ.
Có thể nói rằng: trải qua dòng thời gian, đã nhiều lúc Giáo Hội đến bến bờ vực thẳm do lòng đạo đức xuống dốc, suy thoái hoặc bị kẻ thù đe dọa. Trong những thời điểm quan trọng đó, để cứu vãn tình thế, Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi kia để ban cho nhân loại sứ điệp nhằm đưa lịch sử sang trang. Trong các lần đó, không nơi nào Mẹ đặt chân đến mà không mời gọi con cái siêng năng lần Chuỗi Mân Côi để đón nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Như vậy, kinh Chuỗi Mân Côi là một kinh rất có giá trị trước tòa Chúa và Mẹ Maria.
2. Giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi
Tại sao Kinh Mân Côi lại có hiệu lực đến như vậy?
Thưa, rất đơn giản, bởi vì qua lời kinh Kính Mừng, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng, tôn vinh và chân nhận uy quyền của Mẹ.
Nhưng có lẽ điều đặc biệt hơn cả khi lần Chuỗi Mân Côi, đó là: chúng ta suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố nơi cuộc đời của Chúa Giêsu như Mẹ, đồng thời dõi bước theo Mẹ và cùng Mẹ bước đi trên các chặng đường cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Thật vậy, khởi đi từ làng quê Nazareth, chúng ta cùng với Mẹ vui mừng tạ ơn Chúa đã đoái thương đến Mẹ và nhân loại khi chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mẹ sẵn sàng chia sẻ niềm vui cứu độ cho mọi người qua trung gian người chị họ. Niềm vui ấy trở nên tuyệt đỉnh khi Mẹ sinh hạ Con Thiên Chúa.
Sau thời gian Mẹ – Con cùng chung mái nhà, giờ đây, Con của Mẹ ra đi thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, Mẹ đã âm thầm theo sát Con Yêu như một người môn đệ trung tín. Những lúc vui, thành công, Mẹ luôn luôn âm thầm. Nhưng những khi Con Mẹ bị chống đối, vu vạ, cáo gian, Mẹ đã tìm đến để dõi theo, an ủi, động viên…
Có thể nói, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê, Mẹ luôn luôn đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp cách nhiệm mầu. Chính vì thế, Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu ban tặng niềm vui Phục Sinh cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc Ly. Sau cuộc đời tại thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hồng ân trổi vượt muôn loài, đó là cho Mẹ được diễm phúc thăng thiên cả hồn lẫn xác. Cuối cùng, Thiên Chúa đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc bên tòa Chúa uy linh.
Như vậy, có thể nói: khi chúng ta lần Chuỗi Mân Côi với trọn lòng mến, chúng ta đã cùng với Mẹ sống Tin Mừng của Con Mẹ cách sống động nhất.
3. Sống sứ điệp Ngày lễ
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…” (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giáo Hoàng Piô X khuyên nhủ: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”. Ngài nói thêm: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối”.
Thật vậy, kinh Mân Côi là một vũ khí sắc bén để chống lại ma quỷ. Là liều thuốc hòa bình cho những ai bất an. Là nguồn nâng đỡ cho những ai yếu đuối. Là niềm hy vọng cho những người tội lỗi. Là ngọn lửa mến cho những ai nguội lạnh. Là bảng chỉ đường, ngọn hải đăng cho những ai lạc lối.
Thấy được giá trị và ơn ích của Chuỗi Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày. Tuy nhiên, hãy đọc trong lòng mến chứ không phải đọc cho qua hay bị ép buộc. Đọc trong tâm tình của trẻ thơ phó thác và tin tưởng nơi Mẹ. Đọc trong tâm tình hiệp thông với Giáo Hội, và nhất là đọc trong tâm tình suy đi nghĩ lại trong lòng với chính Đức Mẹ.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria những hồng ân đặc biệt, để Mẹ phân phát những ơn lành của Chúa cho nhân loại.
Xin Chúa cho chúng con biết vâng nghe lời Mẹ, để đáng được hưởng những ơn lành của Chúa ban qua Mẹ Maria. Amen.

4. Mân côi
Hôm nay là ngày lễ kính Mẹ Mân Côi, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về chuỗi tràng hạt của chúng ta.
Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức do chính Mẹ đã truyền dạy. Thực vậy, vào năm 1206, bè rối Albigeois nổi lên và trở thành một mối đe doạ cho Giáo Hội tại nước Pháp. Thánh Đaminh được sai đến để cảm hoá. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn thất bại, bè rối mỗi ngày một lan rộng. cuối cùng thánh Đaminh đã cầu xin với Đức Mẹ, và theo truyền thuyết thì chính Đức Mẹ đã hiêẹn ra, truyền dạy thánh Đaminh phép lần hạt Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã cảm hoá được những người theo bè rối, dẫn đưa họ trở về cùng Giáo Hội.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức có nội dung phong phú và cao cả. Đúng thế, xét về những lời kinh chúng ta đọc, thì kinh Lạy Cha là lời kinh do chính Chúa Giêsu đã truyền dạy, còn kinh Kính Mừng là lời kinh được rút tỉa từ lời chào kính của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, tất cả đều xuất phát tự Kinh Thánh. Nhưng quan trọng hơn là về những mầu nhiệm suy gẫm. Đó là những biến cố trong cuộc đời của Chúa Giêsu có liên quan mật thiết với Mẹ Maria, trình bày cho chúng ta tất cả mầu nhiệm nhập thể và cứu độ mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà thực hiện cho chúng ta qua dòng thời gian. Đồng thời qua mỗi biến cố, qua mỗi sự kiện, chúng ta đều rút ra một nhân đức, một bài học cụ thể áp dụng vào đời sống thiêng liêng. Từ đó chúng ta có thể kết luận: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược cuộc đời Chúa Giêsu, một bản đúc kết Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một việc đạo đức được Mẹ ưu chuộng và được Giáo Hội khuyến khích. Thực vậy khi hiện ra tại Fatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh đó là tôn sùng Trái Tim Mẹ, cải thiện đời sống, và lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ nhận thấy việc lần hạt Mân Côi sẽ bao gồm cả hai mệnh lệnh kia, vì nhờ kinh Mân Côi chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến Mẹ cũng như tìm thấy được những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc đổi mới đời sống. Ngoài ra các Đức Giáo Hoàng không ngừng nhắc nhở chúng ta chu toàn việc đạo đức cao cả này. Đức Lêo XIII đã nói: Kinh Mân Côi phảng phất hương thơm và duyên dáng những cánh hồng, xứng đáng được dâng kính Đức Trinh Nữ Maria. Đức Piô X thì bảo: Nếu các con muốn cho gia đình mình được êm ấm và hạnh phúc, các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối trong giờ kinh gia đình. Đức Piô XII đã viết: Trong những lời kinh và những cách cầu nguyện tôn kính Mẹ Maria thì chuỗi Mân côi là một việc đạo đức cao cả nhất. Đức Thánh Cha Gioan XXIII thì bảo: Kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn. Sau cùng Đức Phaolô VI đã xác quyết: Kinh Mân Côi rất thích hợp với người tín hữu, đồng thời cũng rất làm cho Mẹ được hài lòng, hầu ban xuống cho chúng ta những ơn lành cần thiết.
Tuy nhiên điều Giáo Hội nhấn mạnh không phải chỉ là đọc kinh Mân Côi, mà còn là suy nghĩ và sống kinh Mân Côi, nhờ đó mà kinh Mân Côi tăng cường đức tin, nuôi dưỡng đời sống đạo đức và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Thế nhưng chúng ta đã đọc, đã gẫm và đã sống kinh Mân Côi như thế nào? Phải chăng chúng ta cố đọc cho thật nhiều như một cái máy sản xuất ra những lời kinh, mà tâm tình thì lại trống rỗng, còn cuộc sống thì lại chìm ngập trong tội lỗi.

5. Kinh Mân Côi – Lời kinh cuộc đời
(Lễ Mân Côi 2016 – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Sứ thần Gabrien với Trinh nữ Maria trong Tin Mừng Thánh Luca đã trở thành điểm khởi đầu cho một chuỗi 20 mầu nhiệm Mân Côi, được chia ra bốn phần: Mùa Vui, Mùa Sáng, Mùa Thương và Mùa Mừng.
Với lời thưa “Xin vâng” của Trinh nữ Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và cư ngụ giữa nhân loại. Đây là khởi đầu của một cuộc sáng tạo mới. Cuộc sáng tạo thứ nhất đã bị hoen màu tội lỗi do sự bất tuân của Ađam và mọi thế hệ kế tiếp. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ canh tân mọi vật mọi loài. Khởi đi từ mầu nhiệm Truyền tin, Kinh Mân Côi dẫn chúng ta từng bước theo Đấng Cứu thế, chiêm ngưỡng và suy tư từng biến cố của cuộc đời Người. Từ thời thơ ấu của Chúa ở làng quê Nagiarét, đến tuổi trưởng thành, lên đường thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng. Từ lời giảng dạy đơn sơ mà đầy khôn ngoan đến những phép lạ kỳ diệu chứng minh quyền năng Thiên Chúa. Từ cuộc khổ hình thập giá đến sự phục sinh và lên trời vinh quang. Mỗi mầu nhiệm đều mời gọi chúng ta đón nhận những thông điệp Chúa muốn truyền đạt. Qua Kinh Mân Côi, dung nhan Chúa Giêsu được phác họa, giáo huấn của Người được chuyển tải và tình thương của Thiên Chúa được thể hiện.
Một nhân vật luôn hiện diện trong suốt hai mươi mầu nhiệm Mân Côi, đó là Trinh nữ Maria thành Nagiarét. Qua lời Sứ thần truyền tin, Đức Maria được Chúa mời gọi cộng tác với Ngài trong chương trình nhập thể và cứu độ con người. Trong mọi biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, Mẹ luôn diện hiện một cách âm thầm, khiêm tốn. Đó không phải là sự hiện diện thụ động, cam chịu, nhưng là sự đồng hành, cảm thông, cộng tác với Chúa Giêsu. Nếu mọi hành động của Chúa Giêsu đều có giá trị cứu rỗi nhân loại, thì Đức Mẹ là người cộng tác thiết thân gần gũi vào những hành động ấy. Vì vậy, Đức Mẹ được tuyên xưng là Đấng Đồng công cứu chuộc. Từ mầu nhiệm thứ nhất là Truyền tin, cho đến mầu nhiệm cuối cùng là việc Đức Mẹ được Chúa thưởng triều thiên vinh quang, chúng ta thấy chân dung và cuộc đời Đức Mẹ được phác họa một cách đầy đủ và sâu sắc. Đức Mẹ từng bước chiêm ngắm những giai đoạn khác nhau của cuộc đời Đấng Cứu thế, cũng là con của Mẹ. Mẹ gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, đến nỗi ta có thể gọi Mẹ là người môn đệ đầu tiên và môn đệ trọn lành của Người. Thánh Luca đã viết: “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Đức Mẹ vui niềm vui của Chúa Giêsu, khi Người được người ta lắng nghe và ca ngợi tôn vinh. Đức Mẹ chia sẻ sự đau khổ của con mình, khi Người bị xúc phạm, sỉ nhục và nhất là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá. Bốn giai đoạn Vui, Sáng, Thương, Mừng trong kinh Mân Côi, vừa phác họa cuộc đời Đấng Cứu thế, vừa diễn tả hành trình đức tin của Đức Mẹ. Hai mầu nhiệm cuối cùng, tức là sự chết lành của Đức Mẹ và việc Người được tôn vinh trên hết các triều thần thánh, là phần thưởng cho một đời trung kiên, đồng thời cộng tác với Chúa Giêsu để mang lại ơn cứu độ cho trần gian. Suy niệm mỗi mầu nhiệm Mân Côi, chúng ta đọc mười kinh “Kính Mừng”. Khi đọc kinh này, chúng ta cùng với Đức Mẹ chiêm ngưỡng và suy tư những biến cố được diễn tả trong Tin Mừng, đồng thời cầu xin cho chúng ta được những ơn cần thiết trong đời sống, để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu.
Bốn mùa Vui-Sáng-Thương-Mừng của cuộc đời Chúa Cứu thế cũng phác họa những giai đoạn khác nhau của cuộc sống chúng ta. Lúc sinh ra khỏi lòng mẹ là ta khởi đầu cuộc sống trần gian. Thế rồi, từng bước ta lớn lên trưởng thành vào đời. Cuộc đời dạy ta những bài học sâu sắc. Có những lúc thành công, có những khi thất bại. Mỗi lần thất bại làm ta già dặn kinh nghiệm hơn. Chắng có ai sống trên đời này mà không gặp gian nan thử thách. Từ bậc quân vương vua chúa cho tới thảo dân nô lệ, ai ai cũng phải trải qua những thử thách đau thương để từng bước trưởng thành. Kinh Mân Côi giúp ta nhìn thấy chính hình ảnh mình qua cuộc đời Chúa Cứu thế. Kinh Mân Côi cũng khẳng định với chúng ta, Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc đời này. Người chia vui sẻ buồn với chúng ta. Người nâng đỡ chúng ta trên mọi bước đường trần gian. Người lau khô giọt lệ nơi đôi mắt chúng ta và khích lệ chúng ta trỗi dậy kiên cường trước phong ba bão táp của cuộc đời. Nếu ngày xưa, Chúa đã chịu khổ hình để dạy chúng ta bài học khiêm nhường và để bày tỏ tình thương của Thiên Chúa, thì hôm nay, Người lại đang đau khổ nơi những mảnh đời bất hạnh. Người đồng hoá với những người bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề cuộc sống. Vì thế, khi giúp đỡ người nghèo là chúng ta giúp đỡ Chúa (x. Mt 25, 31-46).
Cỗ tràng hạt rất gần gũi thân thuộc với người tín hữu chúng ta. Tràng hạt không phải là một đơn vị đong đếm, nhưng là mối dây liên kết chúng ta với Đức Mẹ với anh chị em mình. Tràng hạt cũng là chuỗi hoa hồng thiêng liêng, kết lại để dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Mỗi kinh Kính Mừng là một đoá hồng huyền nhiệm, thể hiện lòng yêu mến hiếu thảo và cậy trông của chúng ta. Truyền thống Giáo hội công nhận Thánh Đaminh là người đã cổ võ lần hạt Mân Côi theo lệnh truyền của Đức Mẹ để đem lại bình an hiệp nhất cho Giáo hội, trong bối cảnh có nhiều rạn nứt, chia rẽ. Thánh Đaminh cũng là người đầu tiên kết những bông hoa hồng làm thành tràng hạt dâng kính Đức Mẹ, vì thế, chuỗt hạt ngày nay chúng ta sử dụng, dù được làm bằng chất liệu gì, cũng được gọi là “Chuỗi Mân Côi”, có nghĩa là tràng hoa hồng.
Miệng đọc, trí suy, tay lần tràng hạt, Kinh Mân Côi đơn giản mà huyền diệu. Mỗi kinh Kính mừng, ta lần một hạt, như tiến một bước trên đường đời, giúp ta đến gần Chúa Giêsu hơn. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta gửi gắm nơi Đức Mẹ niềm vui nỗi buồn của cuộc đời nhân thế. Những chuỗi hạt thiêng liêng nhân lên mãi trong cuộc đời chúng ta, kéo ơn từ trời xuống, giúp ta nên thánh. Ước chi mỗi người tín hữu cảm nhận dồi dào ân sủng Chúa ban qua Kinh Mân Côi, để cuộc đời chúng ta được biến đổi và nên hoàn thiện.

6. Mẹ đầy ơn phúc – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”.
Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến. Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế. Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này. Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc. Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin. Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ. Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà”. Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể. Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ. Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần. Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần. Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể. Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi. Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ. Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người. Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48). Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng. Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông. Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ. Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ. Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách. “Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ. Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa. Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi. Điều đó thật dễ hiểu! Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ. Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ. Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa. Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang. Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành. Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa. Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích. Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Phatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến. Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ. “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Phatima năm 1917.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.

7. Bài giảng lễ Đức Mẹ Mân Côi năm 2013
ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Kinh Mân Côi, một kinh nguyện giản đơn mà giá trị, quen thuộc mà đầy sức hấp dẫn. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh thần lực huyền nhiệm của kinh Mân Côi. Mỗi dịp tháng 10 về, chúng ta lại được mời gọi cùng suy tư và khám phá giá trị thiêng liêng của kinh Mân Côi.
Kinh Mân Côi là hình thức đạo đức bình dân, nhưng lại được yêu mến và thực hành bởi các nhà khoa học và những triết gia công giáo. Trong số những nhân vật nổi tiếng, phải kể đến Louis Pasteur, nhà bác học người Pháp sống thế kỷ 19, cha đẻ của lý thuyết lên men, vi khuẩn và vắcxin trừ bệnh chó dại.Người ta kể rằng khi ngồi trên xe lửa, không bao giờ ông rời cỗ tràng hạt. Tiếp đến là Blaise Pascal, khoa học gia, đồng thời là triết gia người Pháp thế kỷ 17. Cũng nên nhắc đến André-Marie Ampère, nhà vật lý người Pháp thế kỷ 18-19, người đã sáng lập ra môn điện từ học, cũng là một tín hữu yêu mến kinh Mân Côi và thường xuyên lần hạt.
Trong suốt bề dày của lịch sử, nhiều vị Giáo Hoàng đã cổ võ việc đọc kinh Mân Côi và đã có những giáo huấn rất sâu sắc về hình thức cầu nguyện này.Đức Thánh Cha Lêô XIII đã dành tất cả 17 văn kiện để nói về phép lần hạt Mân Côi. Trong một văn kiện, Đức Giáo Hoàng đã viết: “Muốn được Thiên Chúa cứu chữa cho khỏi những cơn khó khăn của thời đại ngày nay, Ta nghĩ không có gì hiệu nghiệm hơn là việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Vậy Ta khuyên các giáo hữu, hãy tập thói quen đạo đức lần hạt Mân Côi hoặc công khai hoặc trong gia đình”. Cũng chính vị Giáo Hoàng này vào năm 1887 đã nâng lễ Đức Mẹ Mân Côi lên bậc lễnhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo phụng vụ dòng Đaminh. Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10. Đức Giáo Hoàng Piô XI gọi kinh Mân côi thực là một triều thiên hoa hồng rực rỡ nhất mà tuổi thanh xuân có thể đội. Đó là những đoá hồng trinh khiết và đoá hồng tình mến, đoá hồng tình yêu huynh đệ, đoá hồng chí tông đồ tươi nở trong khung cảnh lộng lẫy của một gia đình thiêng liêng như đoàn Thanh niên Công giáo Tiến hành.
Tại sao tràng Mân Côi là có sức hấp dẫn kỳ diệu như thế? Thưa, bởi vì kinh Mân Côi chính là cuốn Tin Mừng thu gọn. Đọc kinh Mân Côi là chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời của Chúa Giêsu để chúng ta đón nhận giáo huấn của Chúa và thực thi những gì người dạy. Những lời kinh “Ave Maria” gắn bó chúng ta với Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà chúng ta có thể nên môn đệ trọn lành của Chúa Giêsu. Vẻ đẹp của kinh Mân Côi được sánh ví như chuỗi hoa hồng. Mỗi kinh Kính Mừng là một đóa hoa tỏa ngát hương thơm, đem lại cho người cầu nguyện sự dịu ngọt trong tâm hồn. Tràng hạt Mân Côi gồm 50 hay 200 hạt nối liền với nhau, như lời gọi hiệp thông liên kết được gửi đến các tín hữu để làm nên một “cỗ tràng hạt” thiêng liêng là toàn thể cộng đoàn Giáo Hội. Kinh Mân Côi nhắc chúng ta nhớ mình thuộc về Giáo Hội của Chúa Ki-tô, có Đức Mẹ là Đấng phù hộ chở che nâng đỡ.
Có người hỏi tôi: “Tại sao phải lặp đi lặp lại những 50 lần kinh Kính Mừng. Đọc một lần là Chúa biết và Đức Mẹ biết rồi!”. Kinh Kính Mừng là lời chào tôn kính và lời tâm sự yêu thương của chúng ta đối với Đức Mẹ. Khi hai người yêu nhau, họ muốn lặp đi lặp lại mãi những lời yêu thương mà không thấy chán. Cũng vậy, người con hiếu thảo sà vào lòng mẹ để bầy tỏ tâm tình yêu mến, dốc bầu tâm sự với mẹ mình hàng giờ mà không cảm thấy nhàm. Khi lần hạt cũng vậy, chúng ta tâm sự với Đức Mẹ, nằn nì Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta được nên giống như Mẹ trong cử chỉ, lời nói và hành động. Đối với người yêu mến Chúa và yêu mến Đức Mẹ, việc đọc kinh cầu nguyện không bao giờ đơn điệu buồn chán, vì qua lời kinh, họ thực sự được gặp gỡ Chúa và tâm sự với Ngài.
Thánh Đaminh đã viết: “Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi”.Ước chi mỗi người tín hữu chúng ta đều biết yêu mến kinh Mân Côi để trọn vẹn cuộc sống của chúng ta là một chuỗi hoa hồng huyền nhiệm, tỏa ngát hương thơm trong vườn đời.

8. Người Nữ tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Ở Việt Nam, mừng vào Chúa Nhật 27 Thường Niên.
Đức Maria là một người như bao người khác, là một thiếu nữ như bao cô gái thời của Ngài, và cũng là một phụ nữ như bao phụ nữ Do Thái. Tuy nhiên, Đức Maria là một người rất đặc biệt. Điều làm Đức Maria khác thường không phải là dung nhan thể lý trời ban, nhưng là chính cách cư xử tuyệt vời của Ngài đối với Thiên Chúa.
Không có bằng chứng gì cho thấy Đức Maria là cô thiếu nữ sắc nước hương trời; cũng chẳng có bằng cớ nào cho thấy Đức Maria là một phụ nữ có tài quán xuyến. Phải chăng đó là lý luận hợp lý vì dường như chẳng có chàng trai nào “tranh giành” Maria với Giuse. Nếu Đức Maria là trang tuyệt thế giai nhân, thì ắt hẳn “làng cung kiếm đã rắp ranh bắn sẻ;” nếu Đức Maria có tài quán xuyến thì chắc đã có lắm kẻ mày râu muốn Đức Maria quản lý tài sản của họ.
Nét đặc biệt của Đức Maria là XIN VÂNG với tất cả những gì Thiên Chúa muốn, cho dù ý định của Thiên Chúa được tỏ lộ trong bất cứ tình huống nào và bất cứ thời điểm nào. Cuộc đời của Đức Maria diễn ra không gì đặc biệt lắm cho tới khi sứ thần Gabriel tới “truyền tin.” Có lẽ từ ngữ chính xác cho biến cố này là “hỏi ý kiến” xem Đức Maria có sẵn sàng để Thiên Chúa can thiệp vào đời của Ngài không. Lúc này Đức Maria đã đính hôn với Giuse. Ban Phụng Vụ Các Giờ Kinh dịch tình trạng của Đức Maria lúc bấy giờ là đã “thành hôn,” nghĩa là, hai người đã có thể ăn ở với nhau như vợ chồng cho dù họ chưa về sống chung với nhau. Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel tới hỏi ý kiến Đức Maria, một cô gái khoảng 17 tuổi đã đính hôn, xem cô có sẵn sàng để Thiên Chúa làm những gì Ngài muốn trên cuộc đời của mình không, cụ thể, xem Đức Maria có chấp nhận một thai nhi trong dạ mình không. Maria thắc mắc chuyện xảy ra thế nào, vì tuy dù Giuse và Maria hai người đã thành hôn nhưng thực sự hai người chưa chung sống với nhau dưới một mái nhà: “việc đó xảy ra cách nào, vì tôi cho đến hiện tại không biết đàn ông,” nghĩa là, cho đến hiện tại tôi chưa có tương quan vợ chồng với Giuse. Và rồi khi được thiên thần giải thích cho biết Thánh Thần Thiên Chúa sẽ ngự trên Maria để thực hiện những gì Thiên Chúa muốn, vì không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được, thì Đức Maria đã sẵn sàng và quảng đại xin vâng, để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên cuộc đời của mình.
Với tiếng XIN VÂNG của Đức Mẹ, Thiên Chúa đã có thể nhập thể trong cung lòng mẹ. Thiên Chúa có thể làm người, và thực sự Ngài đã thành một người giữa bao người khác. Qua tiếng xin vâng, Đức Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa. Qua hành vi xin vâng, để Thiên Chúa muốn làm gì trên đời Mẹ thì làm, Mẹ đã trở thành người độc nhất vô nhị trên trần gian này. Đức Maria không chỉ thưa tiếng Xin Vâng với Thiên Chúa trong biến cố “Truyền Tin,” Mẹ còn thưa tiếng xin vâng với Thiên Chúa trong tất cả mọi biến cố của đời sống. Mẹ đã thưa tiếng xin vâng khi trở về Bêlem, quê quán của Giuse, để đăng ký nhân khẩu cho dù lúc đã gần đến ngày sanh và việc di chuyển rất khó khăn; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi bước vào hang chiên cừu, và rồi sinh hạ Thiên Chúa nhập thể trong tình trạng nghèo hèn cùng cực, nơi chuồng chiên cừu; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi chấp nhận dâng Chúa trong đền thờ; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi chấp nhận sống đời sống rất bình thường tại Nadarét; Mẹ thưa tiếng xin vâng khi luôn chờ đợi Thiên Chúa làm những điều kỳ diệu ngang qua Đức Yêsu Kitô trong thời gian rất dài ở Nadarét; Mẹ thưa tiếng xin vâng đặc biệt trong biến cố đứng dưới chân thập giá, dù Mẹ chẳng biết làm sao Lời Thiên Chúa đã nói với Mẹ qua sứ thần lúc truyền tin có thể thực hiện: “Thiên Chúa sẽ ban cho Ngài ngai báu Đavít tổ tiên Ngài, nước Ngài rộng vô biên.” Đức Maria trở thành người tuyệt vời qua hành vi xin vâng của Mẹ.
Khi Đức Maria thưa tiếng XIN VÂNG tại biến cố “truyền tin,” Mẹ đã đặt Thiên Chúa trên tất cả: trên tình yêu đối với Giuse, trên mạng sống mình, và trên cả danh tiếng gia đình. Nếu Đức Maria và thánh Giuse là đôi nam nữ yêu nhau tha thiết, thì thưa tiếng Xin Vâng quả là một hy sinh vô cùng lớn, vì khi thưa tiếng Xin Vâng Mẹ có thể mất Giuse, vì có gì làm bằng chứng để Giuse tin vào việc thiên thần tới loan báo ý định của Thiên Chúa trong trường hợp này. Và nếu Giuse công bố sự thật là cái thai trong dạ Đức Maria không do Giuse, thì Đức Maria sẽ bị đối xử như một phụ nữ ngoại tình, và cái chết do ném đá sẽ chờ đón Maria. Và một khi câu chuyện không như mình mong muốn thành sự thật, thì danh tiếng gia đình sẽ bị thương tổn. Khi thưa tiếng Xin Vâng, Đức Maria đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã đặt ý định của Thiên Chúa trên tất cả và bất chấp tất cả. Mẹ tin tưởng phó thác tuyệt đối cho Thiên Chúa. Thiên Chúa quyền năng, Ngài có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn; về phía Đức Maria, Ngài chỉ cần phó thác và vâng phục mà thôi.
“Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai.” Đời của Đức Maria đầy dẫy những biến cố trái lòng, không thiếu những thập giá, thế nhưng hành vi chọn lựa của Đức Maria đã làm Ngài trở thành người tuyệt vời. Đức Maria đã không thực hiện những biến cố vĩ đại trước mặt người đời, nhưng Ngài chu toàn nghĩa vụ sống như bao người một cách tuỵệt vời. Với những hành vi chọn lựa sống, Mẹ đã trở thành người mẫu cho con người của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Maria và bạn giống và khác nhau ở những điểm nào?
2. Đâu là điều làm Đức Maria trở nên người tuyệt vời?
3. Bạn có thể trở nên người tuyệt vời như Đức Maria không? Tại sao?

9. Sức mạnh của lời kinh Kính Mừng
(Suy niệm Lễ Đức Mẹ Mân Côi của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tháng Mười dẫn chúng ta về với Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này chứng tỏ rằng kinh Mân Côi là một phương thế được Ðức Mẹ ban cho nhân loại qua thánh Đaminh, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn.
1. Kinh Kính Mừng
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”
Là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường đọc. Nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria lúc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Êlisabet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời, Giáo hội thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
Phụng vụ mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Phúc tiếp theo của Mẹ là có Thiên Chúa ở cùng, Mẹ cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng gồm phúc lạ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng “đầy ơn phúc” này để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Chúng ta hãy đón nhận lời yêu cầu hiền mẫu của Mẹ siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Đời con một chuỗi Mân Côi.
Hạt thương hạt sáng hạt vui hạt mừng.
Ngày đêm nguyện gẫm không ngừng.
Như cây nến cháy nhỏ từng lời kinh.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Sống trong thời văn minh điện toán toàn cầu hóa, biến con người thành những kẻ chạy đua với với thời cuộc. Kẻ làm, người học, có kẻ vừa học vừa làm, làm trong đi học… khiến người ta làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm cả ngày nghỉ. Thì hỡi ông bà anh chị em, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng. Vì “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng” (St Bênađô).
Nhiều bạn trẻ cho rằng: Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không, câu chuyện có thật của một nam sinh Pháp và Bác học Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học là bằng chứng. Người đời thường có quan niệm: hễ càng văn minh, người ta càng xa Chúa. Nhưng ngược lại Louis Pasteur Bác học trứ danh lại càng tin theo Chúa. Và sợi dây gắn kết niềm tin ấy, động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro trước mặt những nam sinh nữ tú mà chúng không hay biết ông là người thầy của mình.
Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa, chân phước Alanô mách bảo chúng ta: “Bất cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.
Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ” (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: “Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, khủng bố dưới mọi hình thức ngày càng man dợ, trộm cắp, giết người cách tinh vi, hủy hoại môi sinh, gây đau khổ cho đồng loại. Trước những thế lực mạnh hơn trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, phải nại đến sức mạnh từ trời cao. Chúng ta chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin ơn bình an cho thế giới. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

10. Kinh Kính Mừng, lời kinh cầu cho hòa bình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
1. Kinh Kính Mừng
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”,
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc “Mẹ nào mẹ chẳng thương con”. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.
Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ”.
Còn Thánh Bônaventura nói: “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng”.
Thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi”.
Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
Kinh Mân côi là kinh chính Đức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: “Các con hãy tiếp-tục đọc Kinh-Mân-Côi hằng-ngày”. Và nhất là: “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình”.
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Chẳng nói đâu xa, tại Thánh phố Vinh tình hình đang nguy cấp giữa Địa phận Vinh với chính quyền. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và cho quê hương Việt Nam. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Trong lúc này chúng ta cảm thấy cần phải hướng về Đức Maria, Nữ vương hòa bình… phải khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Đức Maria, Nữ vương hòa bình, Đấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thương cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những người thế lực trên Trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực. Chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi. Chúng ta chỉ biết tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, vào Chúa. Đức Maria, như gương mẫu của Người Phụ nữ phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Đấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

11. Mẹ tin cậy mến – AM Trần Bình An
“Nghe tin con bị bắt cóc, chân tay tôi như rụng rời. Suốt 2 tiếng cháu bị khống chế, tôi chỉ biết đứng ngoài cầu nguyện”, chia sẻ của người mẹ một nạn nhân bị khống chế làm con tin tại trường Mầm Non 10A, Tân Bình, Sài Gòn. Sau khi được giải cứu và đưa đến bệnh viện khâu vết thương, khoảng 12h ngày11/10/2012, bé Nguyễn Đắc Tài (3 tuổi) đã được bố mẹ đưa về nhà. Khoảng 8h30, đang đi mua thức ăn chị nhận được điện thoại của trường báo bé bị một kẻ lạ mặt xông vào lớp khống chế bắt làm con tin. Chị bấn loạn vội chạy đến trường, không biết số phận con trai thế nào.
“Trong đầu tôi cứ nghĩ kẻ bắt cóc đã mang cháu đi đâu rồi. Khi đến nơi biết cháu vẫn đang bị khống chế bên trong, tôi vừa lo vừa mừng vì còn có cơ hội cứu con. Suốt 2 giờ đồng hồ chờ công an giải cứu, tôi chỉ biết khóc và cầu nguyện”, người mẹ trẻ kể.
Theo điều tra của Công an quận Tân Bình, khoảng 8h30 ngày 11/10/2012, Cao Quốc Huy (28 tuổi) mặc áo giáp tự chế, tay cầm 2 con dao đi vào khu vực trường Mầm non 10A. Cô hiệu trưởng Trần Thị Kim Thùy (52 tuổi,) đang đứng trước cửa văn phòng đã bị Huy nắm tóc uy hiếp. Cô la lớn làm gã bỏ chạy vào lớp mầm. Hắn khống chế, dọa giết 2 bé Tài và Khôi.
Hàng trăm cảnh sát được huy động đến trường nhưng Huy vẫn cố thủ trong lớp học và liên tục đưa ra yêu sách. Khoảng 10h30, nhiều chiến sĩ đã ập vào khống chế giải cứu an toàn 2 cháu nhỏ. Nghi can có tiền sử bệnh tâm thần, từng thoát án tù về tội Giết người. (VnExpress)
Tin Mừng thánh Luca Chúa Nhật 27 Thường Niên, thuật lại Đức Giêsu dạy về đức tin và thái độ phục vụ khiêm tốn. Hôm nay cũng là ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi. Thật là một sự trùng hợp lạ lùng và đầy ý nghĩa. Bởi vì Mẹ chính là tấm gương sống động của tin cậy mến và phục vụ.
Tin
Người mẹ kể trên chỉ biết khóc và cầu nguyện, vì đứa con thơ bị bắt làm con tin. Bà bất lực trước nghịch cảnh, chỉ còn biết đặt hết niềm tin cậy vào Chúa Quan Phòng, cứu giúp con bà khỏi sự dữ.
Còn Mẹ Maria đã tin mãnh liệt, tin tuyệt đối, tin vô điều kiện ngay khi Sứ thần Gabriel loan báo Mẹ thụ thai Đấng Cứu Thế. Mẹ chỉ tỏ ra rất bối rối, một phản ứng rất tự nhiên, khi nhận được lời truyền tin quá sức cao cả và bất ngờ, chứ không hề chút đắn đo, dè dặt, hay ngần ngại, thắc mắc. Mẹ không như thầy tư tế Zacaria tỏ ra ngờ vực, hoài nghi, đòi dấu lạ, khi Sứ thần Chúa báo tin bà vợ Elizabet già cả, sẽ sanh con.
“Đức tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp trả tự nguyện của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa, là Đấng đã mạc khải chính mình.” (Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 166)
Như thế, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho con người nhưng không, và con người đáp trả lại tấm thịnh tình của Thiên Chúa. Mẹ Maria đón nhận hồng ân vĩ đại, đã ân cần mau mắn đáp lại: “Xin vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói.” (Lc 1, 38)
Hơn nữa, Mẹ còn vui mừng cảm tạ, ngợi khen, tán tụng Thiên Chúa qua Kinh Magnificat. Mẹ hát lên lời tri ân của Mẹ và của toàn thể dân Chúa, vì nay lời hứa Giao Ước mới được thực hiện.
Cậy
Mẹ Maria can đảm, toàn tâm toàn ý bước theo chân Tổ phụ Abraham, “Cha của các tín hữu,” Mẹ hoàn toàn đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, khi chân thành khiêm hạ, tự khẳng định, nhận mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn.
Khi thưa “Xin Vâng,” Mẹ đã hoàn toàn tin cậy, hoàn toàn phó thác, dâng hiến trọn vẹn cuộc đời vào tay Chúa Quan Phòng, sẵn sàng đón nhận mọi khó khăn, gian khổ khi đồng hành theo Chúa, đồng công cứu chuộc nhân loại.
Mẹ tin cậy vào Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, khi vâng phục đi theo con đường chông gai, thách đố, vất vả, khổ sở, đau đớn, cùng với người bạn đời Giuse, vốn được Sứ thần linh ứng chỉ dẫn. Từ việc khai hoa nở nhụy thiếu thốn tứ bề ở Bê lem, đến chạy trốn sang Ai Cập, rồi trở về quê hương, Mẹ đều vui lòng chấp nhận, không hề oán than, cũng chẳng phiền muộn. Mẹ âm thầm bằng lòng chấp nhận những đau khổ tột cùng sắp đến, qua lời tiên tri của ông già Simêon: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà..” (Lc 2, 34)
Mến
Mẹ đau khổ biết bao khôn xiết, khi Con Trẻ Giêsu lạc mất ba ngày dài tại đền thờ Giêrusalem. Chắc hẳn không thiếu những giòng lệ nóng bỏng thương nhớ Con, hớt ha hớt hải tìm Con, như bà mẹ kể trên. Mẹ còn chịu thêm thử thách tình mẫu tử, khi nghe Con đáp lại lúc hạnh ngộ: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”
Tình yêu của Mẹ lại càng thêm phiền muộn, đớn đau, khi nghe Đức Giêsu, Con Mẹ, dõng dạc tuyên bố: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta.” Không phải Đức Giêsu chối bỏ, phụ ân, phụ nghĩa, bất hiếu với người Mẹ thân thương, nhưng Người muốn xác định, phải dành ưu tiên cho tình yêu Thiên Chúa, trổi vượt trên tình nghĩa gia đình, tình phụ mẫu, tình huynh đệ huyết thống trần gian.
Nhưng thách đố cao nhất, đau khồ tận cùng, khi Mẹ đồng hành cùng Đức Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn. Cao điểm tuyệt đỉnh khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà.”Thật đúng như lời ông già Simêon tiên báo.
Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bê Lem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, tông đồ bên thánh Gioan.
Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ. (Đường Hy Vọng, số 922)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con nhân đức tin vững vàng, nhất là mỗi khi trước phong ba cuộc đời, trước thách đố khắc nghiệt. Xưa kia Người đã từng nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22,32), vậy xin Chúa cũng nguyện cầu cho chúng con vững lòng tin.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Chúa Giêsu đã trăn trối tông đồ Gioan lại cho thân mẫu:“Thưa Mẹ, đây là con Mẹ!” Rồi Người nói với ông Gioan: “Đây là Mẹ con!” Cũng nhưNgười trao chúng con lại cho Mẹ săn sóc, che chở. Xin Mẹ đoái thương, cầu bầu cho chúng con theo Chúa luôn mãi, với niềm tin cậy mến sắt son, bền đỗ đến cùng. Amen.

12. Thiên Chúa ở cùng Mẹ – AM Trần Bình An
Ngày 19/9/1846, khi các tu sĩ đang hát kinh tại nhà thờ, đến câu: “Ôi, lênh láng thay những dòng nước mắt của Mẹ…” thì trên đỉnh núi Salette nước Pháp, gần dãy núi Alpes, Đức Mẹ hiện ra với hai em chăn chiên Melanie và Maximin. Đức Mẹ vừa nói vừa khóc: “Khốn cho nhân loại, Chúa sắp nổi cơn giận dữ, giáng xuống trần gian bao nhiêu tai họa. Chúa ruồng bỏ loài người và đổ hình phạt liên tiếp xuống trong 35 năm.” Melanie đã tiết lộ trước khi qua đời rằng: “Từ khi hiện ra đến lúc biến đi, Đức Mẹ chỉ khóc nức nở. Những giọt lệ, từ trên gò má lăn xuống lấp lánh như những viên ngọc. Trong dịp này Đức Mẹ đầy tình âu yếm nhắn nhủ người ta biết sống cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi, thánh hoá các ngày lễ trọng và Chủ Nhật.”
Ở vùng La Salette này, nằm giữa dãy Núi Alpes. Dân chúng nghèo nàn, làm nghề chăn nuôi bò cừu. Hai em thả đàn cừu đi uống nước dưới suối, rồi tìm ghế ngồi nghỉ. Khi trở về chỗ cũ, hai em thấy một bàu lửa sáng rực. Rồi hiện ra một bà xinh đẹp ngồi ngay trên ghế đá. Bà tì khuỷu tay lên đầu gối, hơi nghiêng mình về phía trước, có vẻ buồn sầu vô hạn. Các em sợ quá, định lùi lại. Nhưng bà đứng lên bảo các em: “Các con đừng sợ, hãy đến đây với Ta.” Bà nói: “Nếu người ta không chịu cải thiện đời sống. Ta không còn cách nào ngăn cản cánh tay công thẳng của Con ta được. Ta không bỏ các con. Nhưng trái lại chúng con không làm như vậy. Những kẻ đau thương cũng không biết đến Ta chỉ kêu ca nguyền rủa. Mùa màng hoa màu hư hỏng là tại các con. Hai con phải năng đọc kinh sáng tối lần chuỗi hạt Mân Côi kính Ta.” Sau cùng, Đức Mẹ bảo các em truyền bá cho người ta những điều Đức Mẹ dạy. (Chuỗi hạt Mân Côi với Đức Mẹ La Salette, TinMừng.net)
Trong Tin Mừng của lễ Mẹ Mân Côi, các Tông đồ thưa với Đức Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” Hôm nay, chúng ta hiệp ý khấn xin Mẹ Mân Côi nhân đức quan trọng bậc nhất này. May mắn thay, Mẹ Maria đã thương ban cho người Kitô hữu tràng chuỗi Mân Côi. Mỗi khi lần chuỗi, là làm một cuộc hành trình đức tin với Mẹ Maria. Cuộc lữ hành trình đầy thử thách gian khổ, sầu bi, nhưng cũng tràn đầy vui mừng, hy vọng.
Thiên Chúa ở cùng Mẹ
Mẹ không chỉ tin, mà Mẹ còn hoàn toàn trông cậy, nồng nàn yêu mến, luôn sống đẹp lòng Chúa với tâm tình khiêm hạ, đơn sơ, trong sạch, nghèo khó. Sứ thần Gabriel đến kính chào Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28)
Khi Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn và gọi một ai đó thi hành sứ vụ quan trọng, vượt khả năng, sức lực, trình độ của họ, Người thường hứa chắc chắn: “Ta sẽ ở với ngươi”, chẳng hạn, với Giacóp (St 28,13-15); với Môsê (Xh 3,12), với Giôsuê (Gs 1, 5.9), với Đavít (2Sm 7, 3), với Giêrêmia (Gr 1, 6-8), với Đức Maria (Lc 1, 28), với Phaolô (Cv 18, 10)…
“Thiên Chúa ở cùng” là hồng ân vô cùng cao quý, là hạnh phúc tuyệt đỉnh vô song, nhưng kèm theo biết bao đau khổ, gian lao, thử thách, hòng tôi luyện bản thân cho xứng đáng. Từ khi thân thưa hai tiếng “Xin Vâng,” Mẹ Maria sẽ chịu bao khổ ải, bao bất hạnh. Chịu nghi ngờ, khốn khổ khi mang thai, phải trốn chạy khỏi bị vua Hêrôđê truy sát, chịu lâm bồn nơi chuồng bò lừa hôi hám. Hoảng hốt thấy mất Con. Long đong theo Con giảng dạy. Kinh hoàng cuộc khổ nạn. Tan nát cõi lòng dưới chân thập tự.
“Thiên Chúa ở cùng” với các chứng nhân Tử Vì Đạo, ban sức mạnh anh dũng cho các ngài hy sinh chịu nhục hình, cũng như sẵn sàng hiến mạng sống vì đức tin. “Thiên Chúa ở cùng” với toàn thể Kitô hữu trong Hội Thánh chiến đấu, để trở nên chứng nhân giữa đời.
Mẹ cưu mang Con Chúa
Bà chị Elizabeth vui mừng thấy cô em Maria đến thăm, đã hớn hở chúc mừng Mẹ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” (Lc 1, 42) Không chỉ sứ thần Gabriel từ trời xuống chúc tụng Mẹ, mà cả đến người trần cũng cung kính tuyên dương đại hồng phúc của Mẹ Maria.
Nhưng Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa, đi xa hơn nữa, khi công khai tuyên bố rằng, những ai nghe và thực hành Tin Mừng, cũng đều trở nên anh chị em và mẹ của Người.“Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” (Lc 8, 21)
Vậy còn diễm phúc nào hơn, tất cả những ai tuân thủ Tin Mừng, đều có thể mang Chúa, có Chúa hiện diện trong tâm hồn. Không chỉ nghe và thực hành, mới được Chúa đến ở cùng, mà hơn nữa, qua mầu nhiệm Thánh Thể, chính Mình Thánh Chúa Giêsu còn yêu thương, từ bi, lân tuất, khiêm hạ, ngự vào trong lòng tín hữu.
Emmanuel
“Chỉ có một Thiên Chúa và là Cha mọi người hết thảy, Ðấng trên mọi người, giữa mọi người, và trong mọi người.” (Ep 4, 6) Thiên Chúa vẫn đang ở cùng nhân loại cho đến tận thế, tuy âm thầm, kín đáo và khiêm cung. Không chỉ ở trong Kitô hữu, mà còn ở trong tất cả mọi người, kể cả người không tin Chúa, từ chối Chúa. Vì ai cũng đều mang dấu ấn Đấng Tạo Hoá. “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1, 27)
Ngài quảng đại, hiện hữu ngay trong những người bạc phận, bé nhỏ, khốn nghèo, bệnh hoạn, tù đầy, bị xua đuổi, ruồng rẫy ra khỏi cộng đồng, sống bên lề xã hội. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta.” (Mt 25, 35-36)
Mở đầu và kết thúc Tin Mừng, thánh Matthêu cố tình làm nổi bật sứ vụ của Đức Giêsu, khi bắt đầu bằng Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng, và kết thúc bằng lời hứa cam kết với các Tông đồ và với nhân loại: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.”(Mt 28, 20)
Lời chào của Thiên Thần: “Kính mừng Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà…” và lời chào của Hội Thánh: “Chúa ở cùng anh chị em” có mang một ý nghĩa sâu xa, khả dĩ biến đổi cuộc đời con không? (Đường Hy Vọng, số 238)
“Lạy Chúa con chỉ là đầy tớ vô duyên, là đầy tớ vô duyên, vô duyên bất tài, con vô duyên bất tài. Nhưng con trung tín chân thành. Nhưng con trung tín chân thành. Con luôn trung tín chân thành.” (Hải Linh & Lm Vũ Đình Trác, Tình Chúa Yêu Tôi)
Vào Tháng Mân Côi, kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con ý thức sâu xa hai lời chào Mẹ, để chúng con biết Chúa luôn yêu thương ở cùng, giúp chúng con chiến thắng bản thân, vượt qua cám dỗ thử thách, nhân ái với tha nhân, mãi đồng hành cùng Mẹ trên đường hy vọng. Amen.

13. Mẹ Mân Côi, Mẹ Hòa Bình
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 21 tháng 9 vừa qua, Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã long trọng vinh danh Nữ Tu Công Giáo Angelique Namaika và trao tặng cho chị giải thưởng Nansen. Đây là giải thưởng cao quý của Cao ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc để tôn vinh những người làm việc với những người tị nạn. Chị Angelique Namaika đã giúp thay đổi cuộc sống của hơn 2.000 phụ nữ và các bé gái đã bị buộc phải rời nhà của họ sau khi bị nhóm Quân đội Kháng chiến của Allah lạm dụng trong những năm dài địa ngục của họ. (x. Vietcatholic 30.9.2013).
Hôm nay ngày 7 tháng 10, Giáo hội suy tôn một phụ nữ diễm phúc nhất trần gian, đó chính là Đức Mẹ Mân Côi. Với tâm tình sùng mộ, mọi tín hữu suy tôn Mẹ Maria là Nữ Vương Ban Sự Bình An. Suốt tháng Mân Côi, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân Côi là lời kinh hòa bình. Bằng chuỗi Mân Côi, Hội Thánh cầu nguyện cho hòa bình thế giới, mỗi người cầu xin bình an cho gia đình cho tâm hồn mình.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi được ĐGH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng là nhờ các tín hữu lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến. Một phép lạ của Đức Mẹ trong Tháng Mân Côi. ĐGH Leo XIII đã thiết lập Tháng Mười là tháng Mân Côi vào ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại Giáo hoàng của ngài.
Ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, suy tôn Mẹ là Nữ Vương Ban Sự Bình An với 3 lý do.
1. Lý do thứ nhất
Mẹ đã đóng góp cả cuộc đời mình cùng với Chúa Giêsu mà giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Kinh Mân Côi, xét về phương diện mầu nhiệm suy gẫm, là kinh về Chúa Giêsu. Nhưng xét về nội dung thành phần của chuỗi hạt, tức là từng kinh Kính Mừng, thì đó là kinh về Đức Maria. Mẹ kết hợp cuộc đời mình với Chúa Giêsu qua 20 ngắm: Vui, Sáng, Thương, Mừng. Vui là vui với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập thể; Sáng cũng là sáng với Chúa Giêsu qua mọi nẻo lối rao giảng Tin Mừng; Thương là thương cùng với Chúa Giêsu trên đường Thánh giá; và Mừng còn là mừng cùng với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm phục sinh. Mỗi ngắm như thế là mỗi phần đời khác nhau, nhưng liên kết cả 20 ngắm lại sẽ thấy cuộc đời của Đức Mẹ gắn bó với đời của Chúa Giêsu không rời nửa bước. Con đi đâu thì Mẹ theo đi đó: Con xuống thế làm người chuộc tội nhân loại, thì Mẹ cũng hiệp công với Con của mình từ đêm giáng sinh cho đến chiều tử nạn mà bước đi trên đường giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Con của Mẹ là Chúa Giêsu được xưng tụng là Hoàng Tử Hòa Bình, đến chuộc tội nhân loại, giao hòa con người với Chúa Cha, thì Mẹ vì sự gắn bó, hợp tác, hiệp công với Con của mình trong suốt hành trình như thế cũng đã trở nên Nữ Vương Hòa Bình cho toàn thế giới. Nếu Eva xưa đã để lại thảm họa, thì với Mẹ Maria cách riêng trong kinh Mân Côi, cách riêng hơn nữa trong lời kinh Ave Maria, nền hòa bình viên mãn của trời đã chính thức mở ra. Vì vậy, Đức Mẹ trong kinh Mân Côi, hay Đức Mẹ Mân Côi cũng chính là Nữ Vương Hòa Bình.
2. Lý do thứ hai
Vì Mẹ cũng hỗ trợ con người trong công cuộc xây dựng hòa bình với nhau.
Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ XVI, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân Côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân Côi.
Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân Côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân Côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân Côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân Côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan…
Chuỗi Mân Côi chính là một phương thế hòa bình hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Ở đâu kinh Mân Côi được ưa chuộng, ở đó tước hiệu hòa bình đi liền với danh xưng của Mẹ cũng được mộ mến. Ở đâu kinh Mân Côi được cổ võ thì ở đó cũng vang lên lời cầu nguyện tha thiết: “Nữ Vương ban sự bình an, cầu cho chúng con”. Xét về cấu trúc của kinh Mân Côi phần sau của mỗi ngắm chúng ta quen đọc “ta hãy xin cho được” ơn này ơn khác, hoặc phần sau của chính kinh Kính Mừng với câu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…”, chúng ta cũng thấy cả một dự phóng, cả một chương trình, cả một lời kinh dâng lên Mẹ Mân Côi mong hòa bình nội tâm, làm tiền đề cho cách cư xử giao hòa của con người với Thiên Chúa cũng như cách đối xử hòa bình giữa con người với nhau. Đằng nào cũng thế, giúp đỡ con người dập tắt chiến tranh năm xưa (lý do của lễ Mân Côi) hay là nâng đỡ con người xây dựng hòa bình hôm nay, Đức Mẹ Mân Côi trong lòng Giáo Hội chính là tượng đài Nữ Vương Hòa Bình.
3. Lý do thứ ba
Vì Mẹ còn khuyên tất cả mọi tín hữu siêng năng lần hạt và coi chuỗi kinh Mân Côi như là phương tiện hun đúc hòa bình. Ngày 13 tháng 10 năm 1917 tại Fatima, Đức Mẹ đã hiện ra và ban sứ điệp: cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt, tôn sùng trái tim Mẹ. Đây chính là lộ trình nên Thánh bao gồm ba bước tiếp theo nhau. Chuỗi Mân Côi được đặt như một nhịp cầu giữa một bờ là tội lỗi nhân loại và bờ bên kia chính là ơn thánh hóa của Thiên Chúa. Cũng như việc lần hạt chuyên cần là một phương tiện hiệu quả giúp chúng ta đạt được hòa bình. Chính trong ý nghĩa này, kinh Mân Côi phải được gọi là Kinh của hòa bình. Bao giờ cũng thế, trong nghệ thuật công giáo, Đức Mẹ không đứng một mình, luôn luôn có Chúa Giêsu hiện diện, hoặc trong những thế kỷ gần đây tại Lộ Đức, cũng như tại Fatima, Đức Mẹ hiện diện với chuỗi Mân Côi. Nếu có ai hỏi tôi: Đức Mẹ có lần hạt không? Chắc chắn tôi sẽ đưa ra lời khẳng định: Có. Không chỉ vì Đức Mẹ đã lần chuỗi chung với ba trẻ ở Fatima hoặc với cô Bernadette ở Lộ Đức, mà còn ngay trong mầu nhiệm của chuỗi kinh Mân Côi đã có sự hiện diện của Đức Mẹ rồi. Có nghĩa là Mẹ cùng lần hạt với chúng ta và hơn nữa Mẹ kêu gọi chúng ta lần hạt. Cá nhân lần hạt Mân Côi, cá nhân vui sống thảnh thơi an bình; gia đình lần chuỗi Mân Côi, gia đình hạnh phúc một đời an vui. (x. ĐGM Giuse Vũ Duy Thống, bài giảng tại Tàpao ngày 13-10-2011).
Giáo hội tôn vinh Đức Mẹ Mân Côi là Nữ Vương Hòa Bình. Chuỗi Mân Côi là chuỗi kinh của nền hòa bình. Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận khuyên nhủ: “Chuỗi Mân Côi là giây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: âu yếm như Bêlem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mầng lúc phục sinh, tông đồ bên thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ” (Đường Hy vọng số 922); “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).
Lạy Mẹ Mân Côi, Nữ Vương Hòa Bình, xin giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi. Nhờ đó, chúng con có thể cộng tác với Mẹ trong công cuộc xây dựng nền hòa bình thế giới và đem ơn cứu độ cho muôn dân. Amen.

14. Lễ Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 1: 26-38 Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.
Lễ mừng kính Đức Mẹ Mân Côi được Đức Giáo Hòang Piô V, xuất thân từ dòng Đa Minh lập ra vào năm 1572, với tước hiệu là lễ “Đức Mẹ Chiến Thắng” để cảm tạ Đức Mẹ đã giúp đạo quân Công Giáo chặn đứng cuộc xâm lăng của người Hồi Giáo tại vùng Lepante ngày 07/10/1571.
Năm 1571, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của kinh Mân Côi. Cuộc chiến thắng xảy ra hết sức lạ lùng, nhờ hiệu quả của kinh Mân Côi. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi.
Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Piô V, thì cũng từ đó, Giáo Hội cổ võ tín hữu đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này.
Cổ võ không phải để mừng kính chiến thắng tại Lepante, nhưng cổ động lòng tin vào sự can thiệp của Đức Maria qua các thời đại.
Tin tưởng vào sự cầu bầu của Đức Mẹ trong buổi sơ khai cũng như dọc suốt lịch sử của Giáo Hội, chúng ta kêu cầu Mẹ qua tràng chuỗi Mân Côi.
Kinh nghiệm cho thấy, nhờ kinh Mân Côi, Đức Maria đã can thiệp mạnh mẽ vào đời sống cá nhân, gia đình cũng như các cộng đoàn, can thiệp một các mạnh mẽ và hiệu quả, nhiều khi quá sự mong ước của chúng ta.
Chính vì vậy chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị Cha Chung Giáo Phận: “Tháng Mười năm nay là một tháng rất đặc biệt. Không chỉ là tháng Mân Côi và cũng không chỉ có ngày Thế Giới Truyền Giáo vào Chúa Nhật ngày 20 tháng 10, nhưng theo ý muốn của Đức thánh Cha Phanxicô, vị Cha Chung của chúng ta, đây là “Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo”. Vì thế, tôi kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trong giáo phận Phú Cường chúng ta hãy bước vào tháng 10 năm 2019 này trong tinh hiệp thông sâu xa với Đức Thánh Cha Phanxicô và nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của ngài. Chúng ta hãy cùng cử hành Tháng Đặc Biệt Truyền Giáo này trong nỗ lực cầu nguyện cho công cuộc Loan Báo Tin Mừng và phát huy những sáng kiến nhằm khơi dậy ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mọi tín hữu trong lòng Giáo Hội, cũng như sự nhiệt tình dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng.
Việc này không chỉ giới hạn trong thánh Mười năm nay, nhưng cần được tiếp tục trong đời sống Kitô hữu, cách đặc biệt như một sự khởi động để giáo phận bước vào năm mục vụ mới, năm ‘hiệp thông loan báo Tin Mừng’ là đỉnh cao của định hướng mục vụ bốn năm của giáo phận, tức là “hiệp thông trong đức tin và đức ái để loan báo Tin Mừng”
Vậy “hiệp thông loan báo Tin Mừng” là gì và hiệp thông và truyền giáo có liên hệ gì với nhau?
1. Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết chặt chẽ với nhau.
– Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau, cả hai giải thích và bao hàm nhau, đến độ sự Hiệp Thông cho thấy nguồn gốc và đồng thời cả kết quả của việc Truyền Giáo. Một đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống trong Đức Kitô là hễ ai hiệp thông với Chúa thì phải sinh hoa kết quả: ”ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” Như thế, thật chính xác khi bảo rằng ai không sinh hoa kết quả, thì ấy là người đã không sống trong sự hiệp thông: ”cành nào không sinh hoa trái thì Cha Thầy sẽ tỉa đi.” Hiệp Thông với Đức Kitô, và từ đó phát sinh sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, chính là điều kiện cần thiết để sinh hoa kết quả: và sự hiệp thông với người khác, một món quà của Đức Kitô và Thánh Thần, chính là hoa quả tuyệt vời nhất mà cành cây có thể sinh ra. Hiểu như thế thì hiệp thông và tuyền giáo là hai việc không thể tách rời nhau. Chúng thẩm thấu và bao hàm nhau, đến nỗi có thể nói “hiệp thông vừa là gốc vừa là hoa trái của việc truyền giáo: hiệp thông đưa tới truyền giáo và truyền giáo được hoàn thành trong sự hiệp thông.”
– Hiệp Thông và Truyền Giáo liên kết mật thiết với nhau vì Hiệp Thông mang tính Truyền Giáo và Truyền Giáo nhằm mục đích Hiệp Thông. Luôn luôn cùng một Thánh Thần duy nhất, Đấng kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội, sai đi truyền giảng Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất.” Về phần mình, Giáo Hội ý thức rằng sự Hiệp Thông mà Giáo Hội đã đón nhận như một hồng ân, là được ban cho hết thảy mọi người. Như thế, Giáo Hội cảm nhận được rằng mình mắc nợ với hết mọi người và với từng người, về hồng ân đã lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần, Đấng gieo vào lòng người tín hữu tình mến của Chúa Giêsu Kitô, là sức mạnh nối kết bên trong và đồng thời phát triển bên ngoài. Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội phát xuất từ chính bản chất của Giáo Hội, như ý định của Đức Kitô, đó là trở thành “dấu chỉ và khí cụ …. của sự hiệp nhất nhân loại”. Sứ vụ này nhắm bày tỏ và giúp mọi người sống sự Hiệp Thông “mới”, sự Hiệp Thông đã đến trong lịch sử nhân loại qua Con Thiên Chúa làm người.
2. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông
– Giáo xứ là một cộng đoàn “luôn luôn hiệp thông với nhau”, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự Hiệp Thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân.”
– Đời sống gia đình Kitô hữu đã là đời sống cộng đoàn hướng tới Hiệp Thông. Bàn ăn là nơi cả nhà vui vẻ sum vầy ăn chung trong thanh bình đầm ấm; và bàn thờ là nơi cả nhà cầu nguyện chung tạo nên giờ phút hồi tâm sau một ngày, hay một tuần, một tháng. Thế nhưng, giáo xứ mới là nơi các tín hữu có thể tập họp quanh Bàn Tiệc Thánh Thể, là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cứu độ của Chúa Kitô, cho trẻ nhỏ và cho cha mẹ chúng, và là nơi thuận tiện cho việc thực thi bác ái, từ thiện và huynh đệ. Như vậy, đời sống cộng đoàn giáo xứ hướng tới sự Hiệp Thông sâu hơn, cao hơn, rộng lớn hơn trong cộng đoàn nhỏ gia đình.
– Đời sống trong cộng đoàn Hội Thánh tại địa phương, mà đỉnh cao là Cộng Đoàn Thánh Thể, là biểu hiện sự Hiệp Thông với Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần, mang tính bí tích đó. Biểu hiện bí tích đó nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ơn Thông Hiệp, mà thành hiện thực cho cộng đoàn cử hành. Hiện thực Tình Yêu đó vừa là hiệu quả của ân sủng vừa là do sự tham dự tự do của tín hữu. Hoa quả của ân sủng và lòng tin đó thể hiện qua thái độ sống thường nhật trong cộng đoàn giữa các thành viên và với người khác: đó là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật … tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả.”
Sống tình yêu thương cụ thể bằng việc nghĩ tốt, nói tốt, làm tốt cho nhau; cảm thông chia sẻ và mau mắn đáp ứng nhu cầu của nhau; quảng đại tha thứ lỗi lầm cho nhau; năng thăm hỏi và động viên khen ngợi đúng lúc; phê bình góp ý cách tế nhị để giúp nhau sửa lỗi; biết tôn trọng nhau khi giao tiếp và có tinh thần trách nhiệm đối với việc chung. Tránh nói xấu nhau, không tranh cãi to tiếng, tránh thái độ vô trách nhiệm với việc chung, nhất là tránh lạm dụng tín nhiệm vay mượn tiền bạc, thường là nguyên nhân gây bất hòa và làm tan rã các gia đình trong giáo xứ.
3. Sống Mầu Nhiệm Hiệp Thông để Truyền Giáo
– Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng “giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định… giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi xem xét lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ trở nên hoàn toàn hướng về truyền giáo”.
– Mỗi Giáo Hội địa phương phải được xây dựng trên những chứng từ của sự hiệp thông Hội Thánh, đó vốn là điều làm nên chính bản chất của Giáo Hội. Giáo Phận và Giáo Xứ là sự Hiệp Thông của các cộng đoàn, tập hợp xung quanh Vị Mục Tử, trong đó các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân “đối thoại trong cuộc sống và bằng con tim” được nâng đỡ bởi ân sủng của Chúa Thánh Thần. Chính trong giáo phận sự hiệp thông của các cộng đoàn này được thực hiện trước hết ngay giữa lòng các thực tại xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và văn hóa. Sự Hiệp Thông Hội Thánh đó hàm nghĩa mỗi Giáo Hội địa phương phải trở thành một “Giáo Hội Tham Gia” (partipatory Church), có nghĩa là, một Giáo Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi riêng của mình và thực hiện vai trò riêng của mình. Để xây dựng sự “Hiệp Thông để Truyền Giáo” và “Truyền Giáo bằng Hiệp Thông”, đặc sủng của mỗi thành viên cần được nhìn nhận, phát huy, và sử dụng cách hiệu quả. Cách riêng, cần để cho giáo dân và tu sĩ tham gia sâu xa hơn nữa trong việc lên kế hoạch mục vụ và ra quyết định, thông qua các cơ chế tham gia như là Hội Đồng Mục Vụ hay các Công Hội Giáo Xứ.
4. Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực
Một Linh Đạo Hiệp Thông đích thực cần phải:
– Đâm rễ sâu trong đời sống Chúa Ba Ngôi, và trở thành một cộng đoàn cầu nguyện và chiêm niệm, một cộng đoàn cử hành Bí Tích Thánh Thể.
– Tham gia và đồng trách nhiệm, hiệp nhất với chủ chăn cũng như với Giáo Hội.
– Làm chứng cho những điều mình tuyên xưng, để cho những giá trị đó nhập thể vào trong lối sống của mình, diễn tả chúng trong cách thế hiện diện, đối thoại và thực hành của mình trong mọi lãnh vực của cuộc sống.

15. Mẹ Mân Côi – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
Có một gia trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên. Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che chở của Đức Mẹ,
Ai đã đến các trung tâm hành hương Đức Mẹ, sẽ thấy rõ lòng yêu mến của người tín hữu dành cho Mẹ. Biết bao người đã được ơn của Đức Mẹ, trong đó có cả những người không phải là Kitô hữu. Điều đó cho thấy rằng, Đức Maria thực sự là người Mẹ thiêng liêng của tất cả mọi người. Nếu trong đời sống thường ngày, mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta chạy đến với mẹ của mình, thì trong đời sống đức tin cũng vậy, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, chắc chắn Mẹ không bao giờ từ chối chúng ta.
Mẹ là Đấng quyền thế trước mặt Thiên Chúa. Mẹ đã hoàn toàn dâng trọn cuộc đời cho chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ không tiếc gì với Thiên Chúa, vì thế Thiên Chúa cũng không tiếc gì với Mẹ. Vì được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và gìn giữ, Mẹ trở nên như bông hoa trinh trong trước toà Thiên Chúa. Trong ngày sứ thần truyền tin, Thiên Chúa đã ngỏ lời với Mẹ, đã mời Mẹ cộng tác vào chương cứu chuộc của Thiên Chúa. Mặc dù không hiểu hết ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, Mẹ vẫn sẵn sàng xin vâng để cho Thiên Chúa thực hiện.
Câu chuyện truyền tin cho thấy, Sứ thần Gabriel hết sức cung kính khi gặp Mẹ. Sứ Thần đã chào Mẹ: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Điều đó nói lên rằng, Mẹ là người luôn được sống trong ân phúc của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nhìn đến Mẹ ngay từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ trong trắng tuyệt vời và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa là Đấng Thánh, Ngài cư ngụ ở nơi thánh và nơi nào Ngài cư ngụ, Ngài sẽ làm cho nó nên thánh. Điều đó thật đúng nơi Đức Maria. Vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ, nên Ngài đã biến tâm hồn và con người của Mẹ nên đền thánh của Ngài. Trong biến cố truyền tin, Thiên Chúa đã hết sức tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài đã sai Sứ Thần hỏi ý kiến Mẹ, để chọn cung lòng Mẹ làm nơi cho Con Thiên Chúa làm người.
Dù không hiểu hết những gì sẽ xảy ra, không hiểu việc mang thai và sinh con sẽ như thế nào, tương lai sẽ ra sao, nhưng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã sẵn sàng thưa xin vâng: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa sử dụng trọn cuộc đời của mình, Mẹ đã dâng cho Chúa cung lòng mình làm nơi cho Con Thiên Chúa cư ngụ.
Kể từ khi thưa tiếng xin vâng, cuộc đời của Mẹ bước qua giai đoạn mới, đó là giai đoạn phục vụ Chúa Cứu Thế, cũng là người con bé nhỏ trong bụng Mẹ. Với một người mẹ bình thường thì công sinh dưỡng là trời bể. Mẹ thì không dám kể công sinh dưỡng Đấng Cứu Thế, nhưng chắc chắn, Chúa Cứu Thế sẽ không thể quên công ơn trời biển này được. Vì thế, lời chuyển cầu của Mẹ quả là có thần thế trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa không thể từ chối lời Mẹ khẩn xin.
Lời kinh Kính Mừng Maria là lời Giáo hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng Mẹ, cũng đồng thời là lời tán dương Thiên Chúa về sự kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời Mẹ. Do đó, Kinh Kính Mừng là lời kinh phù hợp nhất, tốt đẹp nhất mà cả Giáo hội tạ ơn Thiên Chúa và chiêm ngắm những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ.
Tràng chuỗi Mân Côi là sự tóm kết tất cả chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua từng biến cố, trong đó, Mẹ Maria là cộng tác viên đắc lực của Chúa. Khởi đầu từ màu Nhiệm Nhập thể, Con Thiên Chúa xuống thế làm người, Đức Maria được chia sẻ vào niềm vui vì ơn cứu độ đã được thực hiện. Niềm vui ấy được đầy tràn trong tâm hồn Mẹ, vì Mẹ đã đón nhận Đấng Cứu Thế, đã sinh hạ Con Thiên Chúa, được bồng ẵm Ngài trên tay và nuôi dưỡng Ngài bằng dòng sữa của Mẹ. Mẹ Maria âm thầm theo Chúa suốt hành trình truyền giáo như một người môn đệ. Những lúc Chúa thành công, được nhiều người ca tụng, Mẹ chỉ đứng lẫn vào đám đông như mọi người. Nhưng khi Chúa Giêsu gặp thất bại, bị người đời chống đối, Mẹ Maria đã đứng ra như một người Mẹ, hết sức can đảm để hiện diện và an ủi Chúa Giêsu. Đặc biệt trong hành trình thập giá, khi mọi người gào thét tìm cách giết Chúa, các môn đệ bỏ trốn, thì một mình Mẹ đã theo Chúa đến chân thập giá để cùng chia sẻ và đón nhận đau khổ của Chúa vào tâm hồn Mẹ.
Vì theo sát Chúa trên hành trình thập giá, nên trong ngày vinh quang phục sinh, Mẹ cũng chính là người được hưởng niềm vui và ơn phúc Phục sinh đầu tiên từ Chúa Giêsu, con của Mẹ. Mẹ đã hiện diện trong nhà Tiệc ly với các tông đồ như người Mẹ của Giáo hội và cũng là người tín hữu, để cùng cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Với cả một cuộc đời trung thành trọn vẹn với Chúa trong lời thưa Xin vâng, Thiên Chúa đã trọng thưởng cho Mẹ đặc ân được đưa về trời cả hồn và xác trước thời hạn, và còn tặng ban cho Mẹ vinh dự làm Nữ Hoàng Thiên Quốc, để Mẹ tiếp tục cầu bầu cho Giáo hội và cho mỗi chúng ta.
Mừng lễ Đức Maria Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng với Mẹ tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm cộng tác viên của Ngài và còn trao ban cho Mẹ vinh quang và danh dự, để từ nơi toà thiên Chúa, Mẹ vẫn tiếp tục che chở chúng ta. Tin tưởng như thế, để mỗi người hãy cầm lấy tràng chuỗi Mân Côi để ca tụng Chúa và khấn xin Đức Mẹ che chở chúng ta trên hành trình dương thế này. Đừng bao giờ nghĩ kinh Mân Côi là nhàm chán, cũng đừng cho đó là lời kinh của người già, nhưng Kinh Kính Mừng là lời kinh thích hợp cho tất cả mọi người và là lời kinh hiệu quả nhất cho mọi lời cầu xin.
Khi đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta tin tưởng chạy đến với Thiên Chúa qua Mẹ Maria, chúng ta nại đến lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa và công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu. Do đó, Thiên Chúa không thể không đón nhận lời Mẹ chuyển cầu cho chúng ta. Hãy chuyên chăm đọc Kinh Kính Mừng mỗi ngày, Mẹ sẽ chỉ cho chúng ta biết noi gương Mẹ sống đẹp lòng Chúa. Kinh Kính Mừng sẽ đem lại cho các gia đình sự bình an, êm ấm, sẽ xua tan sự dữ và ma quỷ trong gia đình, vì có Chúa và Đức Mẹ hiện diện, thì không có ma quỷ hay sự dữ nào có thể làm hại chúng ta được. Amen.

16. Quà tặng
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội cho Nabal.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.
Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.
Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa. Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.
Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và niềm hy vọng cho bản thân.
Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta có thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.
Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.

17. Đức Mẹ Mân Côi – Gm. Farrell
(Gm. Farrell – Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu)
Hơn 100 năm qua, người Công giáo đã cử hành Tháng Mười là Tháng Mân Côi. Việc sùng kính này đã được ĐGH Leo XIII (1810-1903) thiết lập ngày 1-9-1883 và đã công bố con số kỷ lục là 11 Tông thư về Chuỗi Mân Côi trong triều đại giáo hoàng của ngài.
Việc dành riêng Tháng Mười là Tháng Mân Côi mời gọi chúng ta thêm siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, không chỉ trong Tháng Mười mà suốt cả năm và suốt cả đời.
Ngày 7 tháng 10, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Lễ này được Thánh GH Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo đối với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này nhờ người ta lần Chuỗi Mân Côi dâng kính Đức Mẹ ở Rôma vào ngày giao chiến.
Theo thời gian, không còn ai nhớ rõ nguồn gốc. Việc lần chuỗi hạt là thói quen xưa trước thời kỳ Kitô giáo, nhưng người Công giáo đã dùng Chuỗi Mân Côi hằng thế kỷ qua. Mới đầu, người ta gọi là “những hạt kinh Lạy Cha” vì người ta dùng để đếm 150 kinh Lạy Cha (Paternosters). Một số người cho rằng 150 kinh Lạy Cha được thay thế bằng việc ngâm 150 Thánh vịnh cho những ai không đọc.
Truyền thuyết đạo đức này được cho là nguồn gốc của Chuỗi Mân Côi như chúng ta biết là “công” của Thánh Đa Minh (Dominic), nhưng không có dữ liệu nào xác định truyền thuyết này. Tuy nhiên, đó là một tu sĩ Dòng của Thánh Đa Minh, người thiết lập 15 Lời Hứa Mân Côi từ thế kỷ XV, và một tu sĩ Dòng Carthusia là Đa Minh Prussia đã thêm phần suy niệm vào kinh Kính Mừng. 15 mầu nhiệm truyền thống được Thánh GH Piô V tiêu chuẩn hóa.
Kinh Mân Côi là lòng sùng kính Đức Mẹ, thể hiện truyền thống Công giáo tin Đức Mẹ là Đấng dẫn đường đến với Chúa Giêsu như câu chuyện tiệc cưới Cana (Ga 2:8), Đức Mẹ đã nói với gia nhân “làm theo lời Chúa Giêsu bảo”.
Vẻ đẹp của kinh Mân Côi gấp đôi. Thứ nhất là tính đơn giản, thứ nhì là dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu qua các mầu nhiệm của cuộc đời Ngài, cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Ngài. Chuỗi Mân Côi đã và đang theo vô số người trên hành trình đến với Chúa Cha.

18. Lễ Mẹ Mân Côi
(Trích dẫn từ ‘Sống Tin Mừng’)
“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

20. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng “Xin Vâng” của Đức Mẹ. Với hai tiếng “Xin Vâng”, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa “Xin Vâng”, Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: “Người bảo gì các con hãy cứ làm theo” (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ “nước lã hóa thành rượu ngon”. Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng “Xin Vâng”, một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là “Người Nữ Thánh Thể”. Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời “Xin Vâng” của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách để thưa “Xin Vâng” với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” nên đã múc nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng “Xin Vâng” để thực hiện không?

21. Lễ Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin Mừng Lc 1: 26-38 “Hãy lần hạt Mân côi, để Mẹ Maria luôn ở với bạn, hướng dẫn, che chở, gìn giữ bạn như người Mẹ. Kinh Mân Côi phải là lời cầu nguyện trong gia đình bạn. Gia đình cầu nguyện với nhau là gia đình tồn tại với nhau”.
Suy niệm:
Kinh Mân Côi theo định nghĩa của các từ điển thần học Công Giáo, tiếng La Tinh gọi là Rosarium, Anh ngữ là Rosary, Hán tự là 玫 瑰 涇, phát âm là [méiguijing], giọng Hán Việt đọc là Mai Côi Kinh. Tiếng Việt đọc trại ra là Mân Côi – Văn Côi – Mai Khôi – Môi Khôi.
Như vậy, chữ “Mân Côi” có nghĩa là “Bông hồng”. Thuở xưa, dân chúng hay kết vòng hoa thành triều thiêng dâng tặng một vị họ ngưỡng mộ. Cho nên gọi là lời kinh hoa hồng (hoa Mân Côi) vì hoa hồng là nữ hoàng của các loài hoa. Ban đầu có 15 mầu nhiệm Mân Côi gồm 150 Kinh Kính Mừng tương ứng với 150 Thánh Vịnh. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thêm năm sự Sáng để kinh Mân Côi trở thành cuốn sách Tin Mừng rút gọn. Sự tiến triển qua dòng thời gian của kinh Mân Côi quan trọng nhất nằm ở chỗ chuyển từ một lời kinh chúc tụng Đức Mẹ Maria đến chỗ suy niệm về cuộc đời Chúa Cứu thế với con tim và cặp mắt của Mẹ Maria. Mỗi chục kinh để tưởng nhớ một mầu nhiệm liên hệ đến Chúa Giêsu hay Đức Mẹ. Kinh Mân Côi suy niệm 20 Mầu Nhiệm, gồm 200 kinh chia làm từng chục. Mỗi chục gồm một kinh Lạy Cha, 10 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh, và được chia làm 4 Mầu Nhiệm chính mà đặc ngữ Công Giáo gọi là Mùa, như Mầu Nhiệm Mùa Vui, Sáng, Thương, Mừng:
– Năm mầu nhiệm Vui: diễn tả mầu nhiệm Nhập thể và cuộc sống âm thầm của Chúa Giêsu suốt ba mươi năm tại Nadaréth.
– Năm mầu nhiệm Sáng: Diễn tả những biến cố trong ba năm Chúa Giêsu đi loan báo Tin mừng Nước Trời.
– Năm mầu nhiệm Thương: Diễn tả các sự đau khổ mà Chúa Giêsu phải chịu trong cuộc Tử nạn để đền tội và chết thay cho loài người.
– Năm mầu nhiệm Mừng: Diễn tả các sự kiện cứu độ của mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh mà Đức Maria là người đầu tiên đại diện cho Hội Thánh được hưởng ơn ấy.
Bởi đó, một tràng 200 Kinh Mân Côi là triều thiên hoa hồng lớn, và một chuỗi Mân Côi 50 kinh là một bó hoa hay một triều thiên hoa hồng nhỏ mà chúng ta dâng lên Chúa Giêsu và Mẹ Maria để tỏ ý ca ngợi các Đấng.
Lòng sùng kính Đức Mẹ đã có từ trong truyền thống Kinh Thánh. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Luca tường thuật lại sự kiện Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến với một thôn nữ. Nhưng lời sứ thần Chúa rất cung kính: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”. Cung kính bởi vì sứ thần mang sứ điệp cho một người quan trọng thực thi việc nhiệm mầu. Sứ thần loan báo cho Đức Maria biết kế hoạch mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, bằng việc Chúa Cha muốn Con Một thụ thai làm người trong lòng Đức Trinh nữ Maria. Chúa Cha cũng chờ đợi Đức Maria ưng thuận trong sự tự do trước biến cố cứu chuộc mà Người sẽ thực hiện. Và Đức Maria đã khiêm tốn gật đầu: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Chính bởi sự tự khiêm ấy mà Mẹ đáng được ca tụng.
Sách Công vụ Tông đồ còn cho biết, sau khi Chúa Giêsu thăng thiên, “các môn đệ trở lại Giêrusalem, đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Người.” Mẹ chẳng những đồng hành hiệp công với công trình cứu chuộc của Chúa Con, mà còn tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh cho đến ngày được Chúa rước lên trời. Vì thế mà chúng ta có lý khi chạy đến cậy trông nơi Mẹ.
Hội Thánh luôn nhắc chúng ta về sự linh nghiệm của Chuỗi Mân Côi trong đời sống Đức Tin. Chỉ những ai siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày mới cảm nhận được ơn ích thiêng liêng mà Thiên Chúa đã ban cho con người qua lời kinh đơn sơ này. Chính nhờ Chuỗi Mân Côi các tín hữu dâng kính Mẹ giúp Hội Thánh thoát khỏi biết bao cơn nguy biến như lịch sử đã minh chứng.
Vào thế kỷ XIII, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Đức Mẹ hiện ra với thánh Đaminh và chỉ cho ngài tràng chuỗi Mân Côi như một khí giới thiêng liêng. Chính nhờ lối sống đơn sơ khiêm hạ và sự nhiệt thành rao giảng Lời Chúa của các tu sĩ dòng Đaminh, cùng việc các tín hữu siêng năng lần hạt Mân Côi, chỉ sau một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa đưa được 150.000 người theo lạc giáo trở về cùng Hội Thánh.
– Năm 1511, đạo quân Hồi giáo phát xuất từ Thổ nhĩ kỳ xâm lược Âu Châu, Đức Giáo hoàng Piô V đã kêu gọi thành lập đạo binh Thánh Giá. Ngài cũng kêu gọi mọi tín hữu hợp ý bằng việc siêng năng lần hạt Mân côi để xin Đức Mẹ giúp ngăn cuộc xâm lược. Ngày 7/10/1571, trong trận chiến tại vịnh Lepante, đạo quân Thánh Giá đã chặn đứng đà tiến của quân địch trang bị vũ khí hùng hậu. Để ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Giáo hoàng đã truyền thiết lập lễ Mân côi hằng năm để tạ ơn Chúa.
* Thánh Đaminh quả quyết: “Không có cách cầu nguyện nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Maria bằng đọc kinh Mân côi sốt sắng.”
* Thánh Bênađô nói: “Kinh Mân côi có sức xua đuổi ma quỷ, hỏa ngục kinh hoàng khi nghe Danh Thánh Maria”.
* Theo thánh Grignion de Monfort: “Ngoài Thánh lễ Missa và kinh Nhật khóa (Phụng vụ Giờ kinh), không còn kinh nào có sức kéo ơn Chúa xuống cho ta hơn Kinh Mân Côi. Kinh là chiếc giây nối liền đất với trời”.
* Còn với thánh Alphongsô Maria Liguori nhiệt thành truyền bá lòng sùng kính Mẹ Maria: “Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch, nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho.” Cả những lúc tuổi già sức yếu trên giường bệnh, thánh Alphongsô vốn không ngừng lần hạt Mân Côi. Có lúc ngài hỏi thầy giúp bệnh nhân rằng: “Cha đã lần hạt Mân Côi chưa thầy?” Thầy giúp bệnh nhân trả lời: “Cha đừng sợ, vì Cha đã lần hạt nhiều rồi, Đức Mẹ không bao giờ bỏ Cha đâu!” Nghe thấy câu nói đơn sơ ngây ngô như thế, ngài đã nhấn mạnh khi nói với Thầy: “Con không biết rằng, phần rỗi đời đời của Cha hệ tại việc lần hạt Mân Côi sao?” Ngài dạy rằng áo choàng của Mẹ như tấm lá chắn cho tội nhân.
* Thánh Alano de la Roche thì cho biết những hồng ân ban cho những người siêng năng lần hạt:
1. Kẻ có tội ăn năn trở lại,
2. Người đói khó được dư đầy ơn phúc,
3. Người bị xiềng xích, nô lệ tội lỗi được giải phóng,
4. Người buồn phiền, than khóc được vui mừng,
5. Người chiến đấu được an bình, khỏi mưu chước ma quỷ.
6. Người thiếu thốn được no đủ,
7. Các tu sĩ sống xứng đáng với bậc mình,
8. Người ngu dốt thành thông giỏi,
9. Người ham danh sẽ chiến thắng hư danh,
10. Kẻ qua đời được tha hình phạt vì tội đã phạm.
Mẹ thánh Têrêsa Calcutta khuyên nhủ: “Hãy lần hạt Mân côi, để Mẹ Maria luôn ở với bạn, hướng dẫn, che chở, gìn giữ bạn như người Mẹ. Kinh Mân Côi phải là lời cầu nguyện trong gia đình bạn. Gia đình cầu nguyện với nhau là gia đình tồn tại với nhau”.
Kinh Mân Côi là lời kinh dễ đọc, phù hợp mọi người kể cả người già, trẻ em, người bận bịu kẻ rỗi rảnh, kẻ cô đơn hay nhóm hội đông đúc. Có thể nói Kinh Mân Côi là lời kinh gần gũi nhất trong các gia đình. Nhân tháng Mân Côi kính Đức Mẹ, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi tín hữu trên toàn thế giới đọc kinh Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười kính Đức Mẹ, cùng lần chuỗi trong tinh thần hiệp thông và ăn năn sám hối, cầu xin Thánh mẫu Thiên Chúa và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi ma quỷ, kẻ luôn tìm cách chia tách chúng ta ra khỏi Thiên Chúa và anh chị em mình.
Vậy các hội đoàn, lớp giáo lý, ca đoàn, các thành viên trong gia đình, khu xóm được mời gọi tổ chức lần Chuỗi Mân Côi sống mà giáo phận Phú Cường hướng dẫn. Giá trị ơn ích các tín hữu được hưởng của cả chuỗi Mân Côi dù là thực hiện chỉ một chục, nhờ sự liên kết, nâng đỡ nhau sống tâm tình đạo đức lời kinh Mân Côi mọi nơi mọi lúc.

22. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân loại mới
(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời: “Đi được ba chuỗi năm chục”. Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức…
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng nói: “Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!”. Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: “Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi”.
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: “Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp”
Êm đềm mà thấm lâu…
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua… đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh “Kính Mừng” quen thuộc, chính là lời chào mừng “Ave: Mừng vui lên” của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào “Ave” ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào “Đấng đầy ơn sủng”, chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng”. Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: “Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ”.
Đọc kinh “Kính Mừng”, ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới “cao hơn, nhanh hơn, xa hơn”. Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại…
Cũng vậy, qua những lời “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, chúng ta chiêm ngưỡng một “kỷ lục tuyệt hảo” của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh “Kính Mừng” không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.
Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.

23. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin
(Suy niệm của Lm Đaminh Đinh Viết Tiên)
1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm tháng
Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có thể gọi là “đi cùng năm tháng”, những bài ca luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó có tên là “Chuỗi Mân Côi”, là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay những người tuổi đời đã xế bóng.
Kinh Mân Côi quả là “bài ca đi cùng năm tháng” đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân Côi.
Trong tông thư “Kinh Mân Côi” Ngài chia sẻ như sau: “Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi (…) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ (…) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó (…). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.
Mối quan tâm của riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh Nữ qua Kinh Mân Côi”.
2. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối
a. Với Đức Maria
Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.
Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.
Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân Thánh Giá.
“Còn Đức Maria thì ghi nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời mỗi người.
b. Với Đức Giêsu
Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu. “Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”. Lời kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta được học bài học cơ bản: “Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy” (Ga 2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo Chúa. “Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc đời em” (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời.
c. Với mọi người trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria
Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm Kinh Mân Côi.
Thói quen của các gia đình Việt Nam là việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia đình.
Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình bày cho Chúa nghe… tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.
3. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta
Tổng thống George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: – Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?
Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.
Mẹ của Tổng thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.
Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.
– Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho trẻ Gioan Baotixita.
– Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon làm hoan hỉ lòng người.
– Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.
– Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài người lại cho Mẹ.
– Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.
Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn thanh thản và bình an
Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống cuộc đời đầy thử thách chông gai này.

24. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Maria, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Maria nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Maria, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Maria sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Maria đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người. Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.

25. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lịch sử Cứu Độ đã khởi đầu với việc Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và thực hiện trong lịch sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết “Khi đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và lệ thuộc vào lề luật Do thái”. Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã nói “Người sẽ nên cao cả, và Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô tận”. Như thế lịch sử Cứu Độ phải được đón nhận như là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân Người: trước hết nơi Israel và bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.
Qua cơ cấu diễn biến của lịch sử cứu độ chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với con người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi cuộc sống thường ngày với những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc đối thoại nhằm mở cánh cửa đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã hội để Thiên Chúa, và đích xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn Thánh Thần Người, để mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã hội tự thẳm sâu đáy lòng mình có thể thốt lên “Abba, Cha ơi” đối với Thiên Chúa, và như thế, mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và xã hội trở nên “người thừa tự” gia sản của “Cha” trên trời.
Abraham đã dần dần khám phá ra được chân lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến cố khác, cuối cùng ông được mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở đấy ông đã khẳng định được với tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho ông và con cái ông.
Ở bình minh của Tân Ước, không phải nơi Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé nghèo nàn của Mẹ, Đức Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề thiết thân nhất của Mẹ: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến người nam!” Để rồi Mẹ được mời gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do Thiên Chúa sẽ đến, sẽ đảm nhận lấy cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh. Đó là điều thánh Phaolô cũng nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng ta vừa nghe.
Vì thế, khi đón nhận công việc thiết lập vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của mình, Giáo Hội Đức Kitô qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ vụ là trở về “nơi các ông thường trú ngụ để “đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Cầu nguyện từ đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội, của công cuộc loan báo tin mừng Cứu Độ.
Thật khác với biết bao suy nghĩ và hành động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào sức hấp dẫn và tính hiệu quả của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt qua một bên nỗ lực “Đối Thoại với Thiên Chúa” “nỗ lực cầu nguyện liên lỷ”. Gia đình Kitô Giáo nơi chúng ta thường trú không còn là “nhà cầu nguyện”, thậm chí ngay cả “Nhà Cầu Nguyện” cũng trở thành những trung tâm trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con người đối thoại với Thiên Chúa!
Bài sách Công Vụ Tông Đồ tuy thật vắn gọn, nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối thoại cứu độ: Các Tông Đồ đã cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã cầu nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức Maria mới có kinh nghiệm trọn vẹn về “đối thoại cứu độ” này. Với Đức Maria đây là đối thoại do sáng kiến của Thiên Chúa, được “Thánh Thần bao bọc chở che” và chính Thiên Chúa hoàn thành. Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực hiện sự cầu nguyện.
Trong viễn ảnh đó mà chúng ta hiểu được tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt Nam vô cùng yêu mến và trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như được sống lại khung cảnh Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội và mỗi người được Mẹ dẫn dắt qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời gọi của Thiên Chúa và bằng cách nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé của mình, mà thực hiện nên những điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy, chúng ta mới thấu hiểu được tại sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không đòi hỏi sự thông thái khôn ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê mùa, lời kinh phản ánh rất trung thực lời “Xin Vâng” của người con gái Xion làng Nazaret xưa, lại có thể có quyền lực giải thoát con người trong mọi tình huống khó khăn nhất, và đem lại có khi cho cả một dân tộc niềm hoan lạc hạnh phúc. Chỉ vì lời kinh ấy là ân tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần của Mẹ.
Trong tháng Mân Côi và trong đời sống, khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm nhận được niềm vui được trở về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức Mẹ cho thấy Chúa Thánh Thần đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài đã hoàn thành sứ mạng của Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa Giêsu hình thành và lớn lên trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một viễn cảnh bao la và kỳ diệu chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những suy nghĩ này giúp chúng ta có thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.

26. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân… “ (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Pl 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

27. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
– Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
– Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
– Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gì bình tĩnh hỏi người sinh viên:
– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là Kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.

28. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: “Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!”
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
“Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?”.
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: “Hãy chạy đến với Mẹ Maria”.
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông…”.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: “Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của con người” (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng”. Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ… những giá trị “nên xác thịt” nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.

29. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.

30. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(Trích trong ‘Với Cả Tâm Tình’ – ĐGM. Vũ duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

31. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.

32. Tình Mẹ thật tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nói đến tình mẫu tử là chạm đến nơi sâu thẳm nhất trong trái tim mỗi người. Một tình yêu thật thiêng liêng và thật tuyệt vời. Mẹ sinh con ra, nuôi con trưởng thành. Mẹ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình để con hạnh phúc. Mẹ thường sẵn sàng hy sinh nhiều thứ vì con cái (thời gian, tiền bạc, sức khỏe, tuổi trẻ…) và cũng tự hào rằng đã trao cho con những điều đó. Đượcsống trong tình mẹ thì ta mới hiểu hết được ý nghĩa của tình yêu không điều kiện và biết rằng không phải lúc nào yêu thương cũng cần đáp trả.
Tại Hà Nam, mọi người đã chứng kiến một mẹ không màng đến sự nguy hiểm của bản thân, cố gắng nén sự đau đớn khi bị ngọn lửa thiêu đốt, ôm chặt lấy con trai, lấy thân mình che chắn cho con trong đám cháy.
Ngày xảy ra sự việc, cô Dương dậy rất sớm. Sau khi đánh thức con gái, cô vào bếp chuẩn bị bữa sáng. Đang dở tay, cô đột nhiên nghe thấy có người dưới tầng hô to: “Cháy rồi!”. Hoảng sợ, cô Dương kéo luôn cô con gái đã thức dậy chạy ra ngoài. Sau khi con gái đã an toàn, cô Dương quyết định chạy ngược trở lại tầng 5 để cứu con trai.
Thế nhưng khi đánh thức được con trai và chuẩn bị chạy ra ngoài, lửa đã bốc lên dữ dội, chặn đứng lối thoát của hai mẹ con.
Rơi vào đường cùng, cô Dương không thể làm gì khác, ôm chặt lấy con trai, dùng thân thể của mình như lá chắn, chắn những lưỡi lửa đang liếm vào cơ thể con trai. Lúc này, biết con trai vừa đau vừa sợ, cô Dương cố nén sự đau đớn khi bị bỏng toàn thân, dỗ dành con trai, trấn an cậu bé rằng “Đừng sợ! Mẹ ở đây rồi!”.
Khi các nhân viên cứu hỏa đến nơi, đem hai mẹ con cứu ra ngoài, cô Dương đã bị bỏng nặng. Con trai bỏng nhẹ. Rất may cả hai mẹ con đều sống sót.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Mẹ Maria cũng đang nói với chúng ta: hãy yên tâm, ở bên Mẹ con sẽ quên hết mọi ưu phiền. Hãy phó thác nơi Mẹ. Có Mẹ mọi sự dữ sẽ bị đẩy lùi. Mọi khó khăn sẽ tan biến. Lịch sử đã từng chứng minh nhiều lần Giáo hội rơi vào khủng hoảng tưởng chừng như sẽ bị nghiền nát trước sự dữ. Thế mà, khi con cái phó thác nơi Mẹ thì bình an đã trở về, sóng gió cũng qua đi.
Giáo hội không bao giờ quên ngày 7-10-1571. Khi mà vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo ít ỏi với vũ khí thô sơ ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Nhưng đạo quân Hồi giáo đã không thể tiến tới thành Roma. Một cơn giông tại vịnh Lepant, đã quật ngã tất cả đạo quân chìm sâu dưới biển. Mẹ Maria đã chặn đứng sức tiến vũ bão của đạo quân Hồi giáo. Và để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 07/10 hằng năm.
Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những khó nguy, vẫn còn đó sức mạnh của sự dữ khiến chúng ta cảm thấy bất lực và sợ hãi. Hãy phó thác cho Mẹ. Hãy cầm lấy vũ khí chiến đấu là tràng chuỗi Mân Côi để phó thác nơi Mẹ. Chắc chắc Mẹ có dư khả năng thay đổi tình thế cho chúng ta, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa quyền năng. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Và chắc chắn khi đó chúng ta cũng được nghe câu nói thật thân thương của Mẹ: “Mẹ sẽ luôn ở bên con đừng lo nhé con của Mẹ”. Amen.

33. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như: “Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”. Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con: “Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.

34. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.

35. Kinh Mân Côi
Có một ông trùm đã nói với cha sở như sau:
– Chỉ tại cái tivi mà gia đình con không còn lần hạt vào buổi tối nữa. Người ta thích quây quần bên nhau để giải trí, hơn là để cầu nguyện.
Cũng chính ông trùm ấy đã nói về cậu con trai của mình, khi được nhắc nhở là hãy vào nhà thờ sớm, trước thánh lễ, để cùng với mọi người đọc kinh, thì cậu ấy đã trì hoãn và trả lời:
– Nhà thờ chưa lần hạt xong.
Và ông trùm ấy đã phát biểu với nhiều tiếc xót:
– Vào thời chúng con, người ta chờ nhà thờ đông đủ rồi mới lần hạt, còn bây giờ thì khác, người ta lần hạt để chờ mọi người tới đông đủ.
Lời than thở đầy tiếc xót trên đây của ông trùm phản ảnh được phần nào thái độ hiện nay đối với việc đọc kinh Mân côi tại gia đình cũng như tại nhiều xứ đạo.
Để phục hồi lòng tôn sùng kính mến Mẹ qua việc đọc kinh Mân côi, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại những hậu quả to lớn mà kinh Mân côi đã đem lại cho chúng ta.
Trước hết, với kinh Mân côi chúng ta cùng Mẹ sống lại những chặng đường quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu và đi sâu vào những mầu nhiệm chính yếu của lịch sử ơn cứu độ. Từ đó chúng ta sẽ nhận ra những tín hiệu Phúc âm cho những chặng đường của niềm tin hôm nay trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội cũng như Giáo hội.
Trong sinh hoạt của Giáo hội, kinh Mân côi luôn được cổ võ bởi vì lời kinh này đã đem lại cho chúng ta hình ảnh về Mẹ Maria, hình ảnh một người mẹ luôn gần gũi, gắn bó và mật thiết với chúng ta. Vậy chúng ta có đọc kinh Mân côi trong ý hướng ấy hay không?
Tiếp đến, với kinh Mân côi chúng ta sẽ được nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa, Đấng Cứu độ của chúng ta. Tất nhiên, có nhiều con đường để đến cùng Chúa, nhưng con đường được Mẹ chỉ dạy sẽ là con đường chắc chắn nhất, bảo đảm nhất và an toàn nhất, bởi vì Mẹ là người gần gũi với Chúa hơn bất cứ tạo vật nào.
Vì thế, các nhà đạo đức vốn thường đưa ra một kinh nghiệm quí giá, đó là:
– Per Mariam, ad Jesum, nhờ Mẹ mà đến cùng Chúa.
Vậy chúng ta có lần hạt với cảm nghiệm đó không?
Và sau cùng, với kinh Mân côi chúng ta còn được Mẹ bầu cử trước mặt Chúa. Nhờ lời bầu cử của Mẹ, chúng ta sẽ lãnh nhận được những ơn lành hồn xác, như lòng mong ước.
Lời van xin của kinh Kính mừng: Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử…Đã gói ghém tất cả nỗi lòng của chúng ta qua mong ước được thánh hóa hôm nay và được cứu rỗi ngày mai.
Chiến thánh tại vịnh Lépante năm 1571 gắn liền với kinh Mân côi mà ngày lễ hôm nay là một nhắc nhở, cũng đã ghi sâu trong tâm trí chúng ta một hình ảnh khác nữa về Mẹ Maria, đó là Mẹ luôn che chở và cầu bầu cho chúng ta. Vậy chúng ta có lần hạt trong tâm tình này hay không?
Tạp chí “Kiến thức ngày nay” có một bài viết về những người phụ nữ giàu nhất thế giới,trong đó có nữ hoàng Elisabeth nước Anh. Tài sản của nữ hoàng trị giá hàng tỷ đô la. Thế nhưng, khi đọc bài báo ấy, chúng ta cảm thấy nó lạnh lùng, nó xa vắng bởi vì nó chẳng liên quan gì tới chúng ta.
Thế nhưng, khi thoáng nghe những bài hát về Mẹ, chúng ta bỗng cảm thấy nao nao con tim và ngọt ngào cả tâm hồn, bởi vì chúng ta thấy trước mặt mình tấm lòng của một người mẹ giàu tình thương và nhân ái.
Tuy nhiên, điều quan trọng đó là bản thân chúng ta có biết tìm đến với Mẹ và nhất là tìm đến với Mẹ qua lời kinh Mân côi, như Mẹ đã truyền dạy hay không?

36. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần)
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

37. Thánh Mẫu Mân Côi
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh mân côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.

38. Suy niệm của Lm. Đỗ Xuân Quế
MAI KHÔI: BÔNG HỒNG ĐẸP, VIÊN NGỌC QUÍ
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.
Nguồn gốc lễ Mai khôi
Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi
Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.

39. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi
“HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY”
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Đức Maria có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
SUY TƯ GỢI Ý
1. Vai trò của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Maria trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Maria cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Maria đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Maria giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Maria và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Maria, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “XIN VÂNG = FIAT!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù. Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân.” Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha! Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Maria và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa. Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Maria, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.

40. Kinh Mân Côi
Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần hạt Mân côi, như là một phương thế tuyệt diệu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?
Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.
Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?
Cha Lacordaire nói:
– Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.
Rồi anh ta kể tiếp:
– Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

41. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Maria có mong muốn mình trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế không? Ngài muốn trở nên người thế nào? Hãy xét tính chất “vì Chúa, vì tha nhân, chứ không phải vì mình” trong sự lựa chọn của Đức Maria.
2. Hãy tự xét xem thái độ và cách suy nghĩ của mình giống như những phụ nữ Do Thái (muốn được làm mẹ Đấng Cứu Thế) hay giống như Đức Maria (chỉ muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng thực hiện những gì Ngài muốn)?
Suy niệm
1. Con người và lập trường phụng sự Thiên Chúa của Maria
Thời của Maria, người ta tin tưởng và mong chờ Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra là người Do Thái và sẽ trở nên một vị vua oai hùng, Ngài sẽ giải phóng cho dân Do Thái và sẽ trị vì cả thế giới. Vì thế, qua bao thế hệ, có biết bao phụ nữ mơ ước mình được diễm phúc làm mẹ Đấng Cứu Thế. Ôi, còn diễm phúc nào sánh bằng! Rất nhiều phụ nữ lấy chồng với niềm hy vọng được làm mẹ của một vị vua cao sang, để được hơn người, được hưởng vinh hoa phú quí cả đời.
Nhưng Maria lại là một thôn nữ bình dị, không mơ ước gì cao xa, không mộng tưởng trở nên bà này bà kia. Điều quan trọng đối với cô chính là làm sao sống đẹp lòng Thiên Chúa. Vì thế, cô muốn hiến trọn cuộc đời để phụng sự Ngài, trở nên nữ tỳ của Ngài. Chính vì thế, khi nghe sứ thần cho biết Thiên Chúa đã chọn cô làm mẹ của Đấng Cứu Thế, Đấng được “Thiên Chúa ban ngai vàng của vua Đa-vít cho”, cô đã không tỏ ra quá mừng rỡ như thể điều đó phù hợp với mong ước của mình bấy lâu nay. Trái lại, cô đã nghĩ ngay đến lựa chọn căn bản của mình là sống đồng trinh để tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Phản ứng tự phát của cô chứng tỏ điều ấy: cô thưa ngay với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Việc cô đính hôn với Giu-se chỉ là để che mắt người thế gian vốn quan niệm hẹp hòi rằng những phụ nữ không có chồng hoặc con con cái là vô phúc. Tuy nhiên, khi biết đó là thánh ý của Thiên Chúa, cô đã dẹp ngay ý riêng của mình để tuân hành: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
2. Tại sao Đức Maria được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế?
Điều đáng chúng ta suy nghĩ là Thiên Chúa không chọn làm Mẹ đấng Cứu Thế bất kỳ ai trong số những người mong muốn điều ấy, mà lại chọn người không hề nghĩ đến điều ấy. Những người mong ước được làm mẹ Ngài, nghĩ cho cùng, chỉ là muốn làm lớn “cái tôi” của mình. Điều quan trọng đối với họ chính là bản thân họ, chứ không phải là Đấng Cứu Thế. Đấng Cứu Thế chỉ là phương tiện để làm “cái tôi” của họ lớn lên. Còn Maria, điều quan trọng đối với cô là Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài, chứ không phải là bản thân cô. Đối với cô, Thiên Chúa là tất cả, còn mình chỉ là số không: tất cả mọi tư tưởng, hành vi của cô đều qui hướng về Ngài.
Chính vì sự khiêm nhường, chỉ mong muốn làm tôi tớ Thiên Chúa, sẵn sàng làm tất cả những gì Ngài muốn, mà cô là người xứng đáng nhất để Ngài chọn làm Mẹ cho Con của Ngài, cũng là Đấng Cứu Thế.
3. Suy tư về khiêm nhường và quên mình
Thiên Chúa là Đấng quyền năng, toàn hảo, Ngài có thể làm được tất cả những gì Ngài muốn. Vì thế, khi cần chọn người cộng tác với Ngài, điều quan trọng đối với Ngài không phải là tài năng, đức độ, hay những giá trị mà loài người vẫn đề cao. Trước mặt Ngài, tất cả những nhân đức, tài năng, những việc phúc đức, những điều mà chúng ta thường lấy đó làm hãnh diện, đều chỉ là những con số 0. Hàng chục hay hàng trăm con số 0 đi với nhau vẫn chỉ bằng 0, vô giá trị. Trước mặt Ngài, chỉ có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy mới có giá trị và làm cho những ưu điểm hay việc tốt lành khác trở nên có giá trị. Chúng giống như con số 1 được đặt đằng trước dãy số 0 kia và làm cho những số 0 vô giá trị ấy trở nên đầy giá trị: mỗi số 0 ở đàng sau số 1 đều làm tăng lên gấp 10 giá trị của cả con số đứng trước nó.
Thử xét mà xem, trong tất cả các thụ tạo Thiên Chúa dựng nên, có ai thánh thiện, nhân đức, tốt lành, tài năng, đáng yêu đáng mến cho bằng Tổng Quản Thiên thần Lucifer? Ông là thiên thần sáng láng nhất, tốt đẹp nhất trong hàng ngũ thiên thần. Nhưng ông lại thiếu một điều rất căn bản và nền tảng, đó là tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy. Ông đã coi “cái tôi” của ông quá lớn, lớn hơn cả Thiên Chúa, coi ý riêng của ông hơn cả ý Thiên Chúa. Chính vì thế, tất cả những ưu việt ông có đều thành vô giá trị, chẳng đem lại một lợi ích nào cho ông.
Nếu tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy là con số 1, thì tính ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn người là con số –1 (trừ một), có khả năng biến tất cả những số 0 sau nó thành số âm, nghĩa là biến những ưu điểm mình có trở thành sự ác, thành tai họa cho mình và cho người.
4. Hãy tự xét chính mình: mình thuộc hạng người nào?
Nếu trong thế giới các con số có số âm và số dương, thì trong thế giới con người, có con cái thế gian và con cái sự sáng, có những con người lắm tình thương nhưng cũng có những con người đầy ích kỷ. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu nói lên sự phân loại này (xem Mt 5,45; 13,38; Lc 20,34; Ga 12,36; Rm 8,14; Ep 5,8; 5,11; 1Ga 3,10). Cả hai đều có thể có những đức tính và tài năng ưu việt. Nhưng họ khác nhau ở chỗ:
– một đằng có tình yêu, lòng khiêm nhượng, tinh thần tự hủy, nên tất cả những gì họ có, dù là tinh thần hay vật chất, đều nhằm phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, không nhằm phục vụ “cái tôi” và lợi ích riêng của họ.
– đằng kia thì ích kỷ, kiêu ngạo, tự coi mình quan trọng hơn tất cả, nên tất cả những gì họ có họ làm, dù là tinh thần hay vật chất, dù là tốt hay xấu, đều nhằm mục đích cuối cùng là phục vụ “cái tôi” và lợi ích riêng của họ.
Phân biệt được ai là hạng người nào không phải là chuyện đơn giản. Vả lại, đó không phải là việc của chúng ta, mà là việc chỉ dành cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã yêu cầu chúng ta “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán” (Mt 7,1), nhất là “đừng xét đoán theo bề ngoài” (Ga 7,24) hoặc “xét đoán theo kiểu người phàm” (Ga 8,15). Chúng ta rất dễ lầm, vì rất nhiều người có vẻ thuộc loại này, nhưng thật sự lại là loại kia.
Biết bao người bề ngoài rất tốt, có nhiều đức tính ưu việt hơn người, nhưng bề trong không phải như vậy. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu đưa ra một điển hình cho hạng người này là các ngôn sứ giả: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi” (Mt 7,15). Qua câu ấy, Ngài cho biết có những người bề ngoài rất tốt lành, thánh thiện, nhưng bề trong lại ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi mình, và sẵn sàng hy sinh quyền lợi của Thiên Chúa và tha nhân cho quyền lợi của mình. Sự phân biệt chỉ có thể căn cứ vào bên trong, trong tư tưởng và ý hướng thầm kín của họ, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể biết rõ. Về kỹ thuật và nghệ thuật làm ra vẻ tốt lành, ra vẻ khiêm nhường, yêu thương, thì “con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Để che dấu cái xấu bên trong, người ta phải làm ra vẻ tốt bên ngoài.
Trong cuộc đời, chúng ta thấy nhan nhản những người xem ra rất sùng đạo, siêng năng các việc đạo, nhưng tâm hồn lại rất ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới mình, quyền lợi mình. Hoặc nhiều người có vẻ thánh thiện như thiên thần, nhưng trong lòng lại kiêu ngạo không kém gì ma quỉ. Họ có thể làm rất nhiều việc lành phúc đức, hay làm ân làm phúc, nhưng không phải vì yêu thương mà vì muốn mọi người khen thưởng. Trái lại, có những người xem ra khô khan nguội lạnh, ít khoe mẽ, nhưng khi đụng chuyện mới biết họ là người tốt, sẵn sàng hy sinh cho người khác, không nghĩ tới bản thân hay quyền lợi riêng.
Cần biết về hai hạng người này để mỗi người tự xét lấy mình, xem mình đang thuộc loại người nào: ích kỷ hay yêu thương, kiêu căng hay khiêm nhường, coi bản thân hay coi Thiên Chúa và tha nhân là quan trọng. Nếu không hiểu cho tường tận điều này, nhiều khi ta lầm tưởng về chính mình. Ta tự đánh giá mình quá cao vì những đức tính ta có được, vì những việc tốt lành ta đã làm mà ai cũng biết. Nhưng chính thái độ tự đánh giá mình quá cao, tự mãn và coi thường kẻ khác đã khiến những tài năng, nhân đức ta có được trở thành những con số không vô giá trị trước mặt Thiên Chúa. Giống như con số 1.000 hay 1.000.000 mà mất đi số 1 đằng trước. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nơi Mẹ Maria sự khiêm tốn: đừng ham trèo cao, đừng tự đưa mình lên. Chính thái độ quên mình, khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân mới làm ta trở nên cao cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con bắt chước Mẹ Maria, không ham trèo cao hay ham được trở nên quan trọng hơn người, mà chỉ luôn mong muốn danh Cha cả sáng, mọi người chung quanh được hạnh phúc, đồng thời sẵn sàng xả thân làm điều ấy. Chỉ như thế, con mới thật sự có giá trị trước mặt Cha. Xin cho con biết qui hướng về Cha, lấy Cha làm mục đích, làm trung tâm chứ không phải lấy bản thân con. Xin cho con biết yêu thương để sống tinh thần tự hủy và khiêm nhượng. Nhờ đó con luôn làm đẹp lòng Cha.

42. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về một việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống tràng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nói được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây Phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là chapel – nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các tu sĩ mỗi ngày đọc đủ một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng dâng kính Đức Mẹ, vừa đọc vừa bái quỳ.
Từ tập tục bên ngoài đội hoa, bên trong bái quỳ, người ta đi dần đến việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp thuận, khi Người hiện ra với thánh Đaminh vào thế kỷ XIII. Thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và dòng của ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công Giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công Giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi này.
Đó là phần lịch sử, nhưng lịch sử thường gắn liền với đời sống. Sở dĩ tràng chuỗi Mân Côi đã được Giáo Hội chấp nhận và đã cổ võ là vì đó là một bản tóm lược Phúc Âm.
Lần chuỗi không phải là việc đọc một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy, suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự Vui để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự Thương để đi theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm năm sự Mừng để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở Lộ Đức và Fatima.
Tại Rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng thánh nữ Catherine Labouret: Con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Bernadetta đến quỳ tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc Kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đọc Kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy Phanxicô phải lần hạt mới được về thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy là phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỷ, nhất là để nhờ Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa. “Ad Jesum per Mariam. Amen”.

43. Mẹ đầy ơn phước – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan, kiêu ngạo, nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn. Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con.
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria, đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”. Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.

44. Kinh Mân Côi
Ngày 10.3.1615 tại Glascow, một vị thừa sai nổi tiếng, đó là cha Ogilive bị hành quyết vì tội rao giảng Phúc Âm. Trong giây phút cuối cùng đứng trên đoạn đầu đài, nhìn thấy hàng ngàn người đến xem, ngài muốn để lại cho họ một kỷ niệm, nên đã lấy cỗ tràng hạt của mình mà ném vào đám đông. Xâu chuỗi rơi trúng một ông hoàng nước Hung Gia Lợi đang trên đường du học và đã có một đời sống không mấy tốt đẹp. Ông hoàng này đã thực sự xúc động khi nhận lấy xâu chuỗi, và cũng nhờ xâu chuỗi, ông đã từ bỏ được nếp sống tội lỗi, trở nên một người đạo đức và yêu mến kinh Mân Côi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nhớ lại những mệnh lệnh của Mẹ tại Fatima. Đúng thế, vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra tại Fatima với 3 em nhỏ. Và qua 3 em nhỏ Mẹ đã truyền dạy chúng ta: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy mệnh lệnh thứ ba bao gồm cả hai mệnh lệnh trên. Bởi vì nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến đối với Mẹ, đồng thời nhờ việc siêng năng lần hạt, chúng ta sẽ tìm thấy những tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc cải thiện đời sống để mỗi ngày một trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã gọi kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn, là bông hồng thiêng liêng dâng kính Mẹ, là việc đạo đức thích hợp cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Và riêng chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta siêng năng lần hạt, thì phần rỗi của chúng ta sẽ được bảo đảm chắc chắn như lời Mẹ đã nói về cậu bé Phanxicô tại Fatima như sau: Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Để kết thúc phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại một mẩu chuyện: Có một người nhà quê không biết chữ xin vào tu bậc trợ sĩ trong một nhà dòng. Được ít lâu, ông buồn phiền chán nản vì thấy mình không biết đọc sách để được hát kinh nhật tụng với mọi người. Ông cũng cố học nhưng vì đã có tuổi, nên học trước quên sau, chẳng chữ nào ra chữ nào. Sau một thời gian miệt mài, ông thấy rõ là mình bất lực nên bỏ học và chuyên tâm lần hạt. Ông thường xuyên phàn nàn với Đức Mẹ: “Vi không biết chữ, nên con chẳng ngợi khen Mẹ được nhiều hơn. Con không biết đọc sách nguyện như các thầy khác, thì Mẹ ráng chịu vậy”. Không chịu thua lòng đơn sơ thành thật của ông, Đức Mẹ đã hiện ra sáng láng đẹp đẽ với một chiếc áo choàng lộng lẫy, nhưng mới thêu được một nửa bằng những chữ vàng óng ánh: Kính mừng Maria… Ông đơn sơ hỏi: “Sao Mẹ mặc áo đẹp mà lại thêu dở dang như vậy?” Mẹ trả lời: “Đây là những kinh Kính Mừng con đọc hằng ngày để dâng kính Mẹ. Vì con mới đọc được có bằng ấy kinh, nên áo Mẹ còn dang dở như thế. Vậy con hãy cố đọc nhiều hơn nữa để chóng thêu xong tấm áo cho Mẹ. Khi nào xong, Mẹ sẽ đến để choàng cho con và dẫn con vào Nước Trời”. Nói xong Mẹ biến đi, để thầy dòng không biết chữ ở lại ngây ngất với những kinh Kính Mừng đã đọc.
Từ đó, chúng ta hãy thực hiện lệnh truyền của Mẹ bằng cách siêng năng lần chuỗi Mân Côi mỗi ngày, để dâng lên cho Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, xin Mẹ sẽ nâng đở và phù trợ chúng ta luôn mãi.

45. Hiệu quả của Kinh Mân Côi
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi xin trình bày về những ơn lành mà chuỗi Mân côi đã đem đến cho nhân loại.
Trường hợp thứ nhất đó là vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp, thế nhưng với chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Trường hợp thứ hai đó là vào thế kỷ 16 ảnh hưởng của Tin lành trở nên mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Nhưng dân thành Luxembourg vẫn nhất quyết trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết. Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, thì một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Và như thế nhờ kinh Mân côi dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và sự trung thành với Giáo Hội.
Trường hợp thứ ba đó là vào thế kỷ 16, quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa và xâm chiếm Âu Châu, nhưng nhờ kinh Mân côi, đoàn chiến binh Công giáo, tuy ô hợp, nhưng cũng đã dành được chiến thắng tại Lépante. Chính vì thế, để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô 5 đã thiết lập lễ Mân côi hôm nay.
Trường hợp thứ tư, đó là vào thế kỷ 20. Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi, để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Và Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Cũng từ đó những sự đổi mới đã xảy ra. Tinh thần đạo đức thấm nhiễm vào các tổ chức xã hội. Ơn kêu gọi gia tăng, các tạp chí Công giáo phát triển và Giáo Hội bừng sống sau một thế kỷ tàn lụi. Chính các Đức giám mục Bồ Đào Nha, trong một bức thư chung đã xác quyết: Sở dĩ Bồ Đào Nha đã thay đổi tốt đẹp là do những lần Mẹ hiện ra tại Fatima và kinh Mân côi.
Nhìn vào hiện tại chúng ta thấy thế giới cũng đang trải qua những biến động và xáo trộn về kinh tế, chính trị và nhất là về tôn giáo. Mặc dù không có những cuộc bách hại gay gắt, mặc dù không có ảnh hưởng của các bè rối, nhưng có một đe dọa khác tệ hại hơn, đó là những học thuyết, những trào lưu tư tưởng, những thể chế chính trị chối bỏ Thiên Chúa, đả phá tôn giáo mỗi ngày một bành trướng, khiến cho một số người không nhỏ xa lìa đức tin. Để nhân loại được hòa bình, để thế giới được an vui, để Giáo Hội được phát triển, chúng ta không có một phương pháp nào hơn là phương pháp mà Mẹ đã truyền dạy, đó là hãy siêng năng chăm chỉ lần hạt Mân côi.

46. Kinh Mân Côi và Phúc Âm
(Lc 11,15-26)
Kinh Mân Côi là một việc đạo đức xuất phát từ Phúc Âm. Đúng thế, trước hết là những lời kinh chúng ta đọc. Kinh lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh chính Chúa đã truyền dạy cho các môn đệ.
Còn kinh kính mừng là gì nếu không phải là lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabeth, đã được Phúc Âm ghi lại. Nhưng điều quan trọng hơn là những mầu nhiệm chúng ta suy gẫm, tóm lược toàn bộ Tin Mừng và cuộc đời của Chúa.
Có một thời người ta đã không lần hạt như ngày nay, thay vì 15 mầu nhiệm, người ta đã suy gẫm tới 150 mầu nhiệm, nghĩa là mỗi kinh kính mừng tượng trưng cho một mầu nhiệm, từ khi sứ thần Gabriel truyền tin cho đến ngày vinh quang của Mẹ Maria, cũng như cho đến ngày tận thế. Chắc hẳn như vậy cũng khí thái quá, làm cho kinh Mân Côi trở nên phức tạp và dài dòng.
Ngày nay chúng ta qui tụ lại thành 15 ngắm, tượng trưng cho 15 mầu nhiệm, 15 biến cố chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu và chúng ta có thể xác quyết: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược Tin Mừng và cuộc đời của Chúa. Hay nói cách khác, đó chính là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa ươm mơ và thực hiện trong dòng thời gian. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi sẽ dẫn chúng ta đến với Tin Mừng, vì vậy kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trợt trạt ngoài miệng, nhưng còn là một lời kinh để cho chúng ta suy gẫm, nhiều người hẳn đã rùng mình khiếp sợ. Nhưng thực sự đây là một việc làm hết sức đơn giản và dễ dàng. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những mầu nhiệm, mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Dĩ nhiên không đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ từng chữ hay từng lời chúng ta đọc, mà chỉ cần tưởng nhớ đến những sự kiện mà mỗi ngắm đã gợi lên. Cũng không cần phải dừng lại lâu giờ nơi mỗi ngắm, vì đây không phải là một giờ nguyện ngắm, một giờ suy niệm theo đúng nghĩa của nó.
Tôi xin đưa ra một vài thí dụ, chẳng hạn chúng ta chỉ cần mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thập giá, lần từng bước tiến lên đỉnh đồi Canvê, đồng thời chúng ta hãy nghĩ tới thập giá cuộc đời chúng ta là những hy sinh, những gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Và như vậy cũng đã đủ lắm rồi.
Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, xét đoán dựa vào những kết quả đã thu lượm được. Trái lại, Ngài là một người Cha nhân từ, Ngài chỉ cần nhìn thấy thiện chí và sự cố gắng của mỗi người chúng ta. Như vậy không có nghĩa là bảo chúng ta không cần tiến tới sự trọn lành và thánh thiện.
Sau cùng, kinh Mân Côi còn là một lời kinh thích hợp với thời đại chúng ta. Trong đời sống không ai trong chúng ta lại chán cơm. Nếu chúng ta chán cơm thì đó là dấu chỉ chúng ta đau yếu hay sắp chết. Cũng vậy, trong đời sống siêu nhiên, chúng ta không ngừng lập lại lời kinh Lạy Cha và kinh kính mừng để lấy lại sức sống cho tâm hồn.
Bởi đó, hãy siêng năng lần chuỗi để nhờ đó chúng ta có đủ sức chịu đựng những khổ đau và thắng vượt được những cám dỗ trong cuộc sống.

47. Kính Mừng Maria Đầy Ơn Phúc
(Suy niệm của Lm Px. Đào Trung Hiệu)
Kính mừng Maria đầy ơn phúc…
Lời kinh kính mừng ấy, tôi đã thuộc từ thuở mới lên năm. Nhưng ngày qua ngày, tôi có nhiều cảm nghiệm mới khác nhau về kinh Mân Côi. Nay nhìn lại, tôi cảm thấy mình trải qua một quá trình sống các mầu nhiệm Mân côi trong đời.
Từ lời cầu nguyện đơn giản…
Xin cảm ơn Mẹ Giáo hội, vì ngay từ thuở ấy, khi chưa biết chữ để đọc thánh vịnh, khi chưa biết dâng những lời nguyện tự phát, thì nhờ kinh Mân Côi tôi đã có thể tích cực tham gia cầu nguyện với cộng đoàn.
Kinh Mân Côi với tôi khi đó, như những lời cầu khẩn, vì tôi quan tâm hơn đến vế thứ hai của kinh: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…”. Khi chúc tụng Mẹ Maria như một Vị trung gian thần thế, tôi thân thưa với Mẹ những nhu cầu của tôi, và gửi gắm cho Mẹ những người tôi thân yêu.
Và thông qua lời gợi ý mỗi mầu nhiệm trong mẫu kinh Mân Côi tiếng Việt, tôi xin cho mình các nhân đức liên hệ. “Ta hãy xin cho được” lòng khiêm nhường, được biết yêu người, biết sống khó nghèo, biết tuân theo Ý Cha, và biết giữ nghĩa cùng Chúa… Xin cho biết sám hối thật lòng, biết kiên nhẫn và hi sinh vác thập giá theo chân Chúa… Xin được sống lại với Chúa, biết ái mộ những sự trên trời để sống yêu thương, trên hành trình theo Mẹ về Thiên quốc. Đôi khi trong lúc đọc kinh như vậy, tôi có những quyết tâm thể hiện các đức tính ấy bằng một hành vi cụ thể.
Qua những nỗ lực suy niệm…
Dần dà lớn lên, được tiếp cận với Phúc Âm và các sách suy niệm kinh Mân Côi, tôi đã trải qua một giai đoạn mới, với khả năng giới hạn của mình để “suy niệm và ghi nhớ trong lòng” những ý tưởng và tâm tình đa dạng chung quanh từng mầu nhiệm.
Đến lúc này tôi hiểu ra Đức Kitô mới là nhân vật trung tâm của 15 mầu nhiệm Mân Côi. Vâng, chính ngài thể hiện thánh ý Chúa Cha trong công cuộc cứu độ: đã hoàn toàn trở nên người phàm, đã ban ơn cứu độ cho Gioan Tẩy Giả và là hiến lễ dâng trong đền thờ.
Cũng chính ngài, Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian, đã tình nguyện uống trọn chén đắng Cha trao, đón nhận mọi nhục hình và được giương cao trên thập giá để “kéo mọi sự lên với Người” (Ga 12,32). Chính Ngài là “sự sống lại và là sự sống” (Xc Ga 11,25) để những ai tin vào ngài sẽ được sống, Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta (Ga 14,2), và cử Thánh Thần đến để đưa các chúng ta vào chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Chính ngài ngự bên hữu Chúa Cha để ân thưởng cho tất cả những ai thuộc về ngài.
Và trong hành trình cứu độ của đức Kitô, không chỉ có đức Maria, tôi đã gặp nhiều nhân vật khác, bình thường hơn, gần gũi hơn, nên dễ rút ra nhiều mẫu gương cho những ai muốn theo Chúa.
+ Khi đó tôi chiêm ngắm Gabriel kẻ loan báo tin vui, tìm gặp niềm hân hoan của bà Elisabeth, sống những tâm tình của ba vua, của các mục đồng, của các cụ Siméon và Anna tại đền thờ…
+ Trên bước đường Chúa đi rao giảng, tôi ước ao được thành Gioan tiền hô, là gia nhân trong tiệc cưới Cana, lẩn vào đám đông nghe tiếng Chúa, chiêm ngưỡng Ngài trên núi cao, hay được đồng bàn với Thày…
+ Trong cuộc khổ nạn, tôi có dịp suy niệm về những yếu đuối của những người theo Chúa, của Giuđa, của Phêrô, về thái độ trốn tránh trách nhiệm của Philatô hay bóng dáng kiên cường của Đức Maria dưới chân Thập Giá…
+ Tôi cũng có dịp để chung chia niềm vui của Mađalêna và 11 tông đồ khi Chúa sống lại, được nghe lời Đức Giêsu căn dặn trước khi lên trời, sai đi làm chứng tá cho Ngài đến tận cùng trái đất; được quây quần bên đức Maria trong ngày Ngũ tuần, và đồng hành với Mẹ trong cuộc lữ hành đức tin của Giáo hội hôm nay.
Đến lời nguyện cầu cho một thế giới mới
Càng ngày tôi càng hiểu hơn về tính hiện sinh của Tin Mừng. Đức Giêsu vẫn là một: hôm qua, hôm nay và mãi đến muôn đời. Kinh Mân Côi tạo nên cho chúng tôi một không gian cần thiết giúp chúng tôi chiêm niệm chân dung Đức Kitô vẫn đang hiện diện trong cuộc đời. Từ đó, tôi hiểu ra tại sao: Đức Gioan XXIII thường dành từng “chục kinh” trong chuỗi năm mươi, để cầu nguyện cho một trong năm lục địa trên địa cầu.
Và thế là mỗi chục kinh, tôi cầu nguyện đặc biệt cho một giới nào đó trong xã hội. Chẳng hạn
Mùa vui, cầu nguyện: 1. cho lương dân được đón nhận tin mừng khi suy niệm về lễ truyền tin; 2. cho các bà mẹ qua biến cố thăm viếng; 3. cho tuổi thơ qua biến cố giáng sinh, 4. cho người già khi suy niệm về hai cụ Simêon, Anna, và 5. cho các nhà giáo dục…
Mùa sáng, cầu nguyện cho: 1. những người đấu tranh cho công lý, 2. những gia đình gặp thử thách, 3. cho việc rao giảng tin mừng, 4. Xin ơn biến đổi canh tân mỗi ngày, và 5. được hiệp thông vào sự sống của Chúa.
Mùa thương, cầu nguyện cho 1. những người khô khan, 2. các tội nhân, 3. những nhà lãnh đạo, 4. những ai đang đau khổ, và 5. cho các linh mục.
Và mùa mừng, cầu nguyện: 1. cho các anh em vô thần, 2. cho Giáo hội, 3. cho các tu sĩ. Trong hai biến cố liên quan đến việc vinh thăng của đức Maria, tôi cầu nguyện cho 4. sự tiến bộ của nhân loại và 5. cho hòa bình thế giới.
Cho ý Cha được thể hiện
Cho đến một ngày, tôi bỗng như gặp được một luồng sáng mới, để thấy được rằng điều cần phải có khi đọc kinh Mân Côi, quan trọng hơn mọi suy niệm và ý nguyện, chính là một thái độ “xin vâng” của đức Maria và tâm tình tụng ca Tình yêu của Thiên Chúa qua công cuộc cứu độ.
Vâng đúng vậy, nếu Đức Maria, là đại diện của nhân loại mới để đón nhận lời chúc tụng “đầy ơn sủng”, để trở thành cung điện đầu tiên cho Ngôi Lời mặc lấy xác phàm và “ở cùng” nhân loại, thì lời kinh kính mừng hôm nay, vẫn mãi là lời chúc tụng Thiên Chúa vẫn đang ở cùng nhân loại “mọi ngày cho đến tận thế”, và là lời tán tụng ân sủng Chúa trong cuộc đời qua đức Kitô, đã được ban “dồi dào hơn biết mấy” (Rm 5,15).
Nếu nhân loại lầm than vì sự bất tuân của Adam, thì nay nhân loại mới được khai sinh nhờ Adam mới là đức Giêsu, đấng “hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2, 8). Cũng thế, nếu Eva là biểu tượng của bất tuân, thì lời Ave gửi đến Đức Maria, Đấng đã thưa “xin vâng”, sẽ là biểu tượng của những người Tin trong Tân ước. Đó là ý nghĩa của hai câu thánh thi quen thuộc được giáo hội sử dụng trong phụng vụ kinh chiều lễ kính Đức Mẹ:
“Chữ E-va Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi bình an cho đời”.
Từ nay, lời kinh kính mừng “Ave Maria”, trở thành lời kinh của cả nhân loại và của từng con người, được cất lên từ cuộc sống hằng ngày của mình. Cùng với đức Maria, nhân loại đó đang hân hoan vì nhận ra tình thương cứu độ, vì khám phá ra lối thoát khỏi những nỗi tuyệt vọng để dám sống những mối phúc thật được công bố trong bài giảng trên núi.
Tâm tình “xin vâng” ấy sẽ thâu tóm tất cả mọi ý nguyện trong lời cầu xin cho “ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Tâm tình ấy sẽ đem đến cho người tín hữu nguồn sinh lực mới để cùng với đức Maria bước đến tận bên chân khổ giá, để đón nhận mọi nỗi vui buồn, âu lo và hi vọng của con người thời đại. Lời kinh ấy trở thành lời kinh của những người tin tưởng, hy vọng và yêu mến, để đảm nhận những trách vụ theo ơn gọi của mình góp phần dựng xây đất mới đang khi mong chờ trời mới.
_________
NB. Bài này viết đã lâu,
nay được bổ sung thêm vài dòng về Mùa Sáng

48. Chuỗi Mân Côi và Thánh Đaminh – Robert Feeney
Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.
Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.
Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).
Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.
Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.
Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được nhiều người yêu mến và kính trọng.
Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.
Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.
Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.
Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”.
Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.
Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”. Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.
Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.
Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.
Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài khuyến khích người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.
Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.
Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?
Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.
Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” – từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh, người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.
Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.
Tặng phẩm của scapular
Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu co ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.
Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?
Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:
1. Tội nhân được tha thứ.
2. Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.
3. Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.
4. Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.
5. Người nghèo được giúp đỡ.
6. Tu sĩ được canh tân.
7. Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.
Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: “Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.
Robert Feeney – Chuyển ngữ: Trầm Thiên Thu

49. Lời kinh tuyệt vời – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng.
Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi.
Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.
Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.
1. Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng
Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.
Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.
Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết.
Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.
Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan…
Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:
– Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:
– Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:
– Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau:
– Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị. Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim.
Sau này bà kể lại rằng:
– Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy nghĩ:
– phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau:
– Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
2. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.
Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).
Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:
– Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.
– Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.
Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói: ” Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”.
Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”.
Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ: Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
– Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Đức Chân Phước Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.
Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.
3. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.
Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

50. Chất Tin Mừng trong chuỗi Kinh Mân Côi
(Suy niệm của Lm. André Đỗ Xuân Quế)
Chuỗi kinh Mai Khôi chính là tràng hạt Mân Côi mà bình thường giáo dân nào cũng có và mang theo nơi mình, lại siêng năng đọc mỗi ngày nữa. Đó là thói quen rất tốt từ bao đời nay nơi nhiều người công giáo. Người ta đọc kinh lần hạt. Đây là hình thức cầu nguyện phổ thông và khá đơn giản, lại dễ thực hành. Rất ước mong hình thức này vẫn được duy trì trong khuôn khổ các việc đạo đức thông thường và lòng sùng kính cá nhân. Sau đây xin đề cập đến chất Tin Mừng và tính Giáo hội trong lòng sùng kính này cho phù hợp với Hiến chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân) chương VIII, tông huấn Marialis cultus (Lòng sìng kính Đức Maria) của ĐGH Phao-lô VI và Rosarium Virginis Mariae (Chuỗi kinh Mai Khôi của Đúc Trinh Nữ Maria)) của ĐGH Gio-an Phao-lô II.
1. Nội dung hay chất Tin Mừng trong chuỗi kinh Mai Khôi.
Trước hết xin nói về nội dung hay chất Tin Mừng trong chuỗi kinh Mai Khôi. Thời đại này, Lời Chúa được nhấn mạnh và Tin Mừng được đề cao. Một nền đạo đức mới đặt nền tảng trên Lời Chúa đã ra đời để bổ túc cho nền đạo đức cũ vốn được xây dựng trên các thứ lòng sùng kính. Vào các giai đoạn lịch sử, Lời Chúa ít được biết đến và phụng vụ là một mảnh vườn khép kín đối với giáo dân thì người ta phải chạy đến các thứ lòng sùng kính để nuôi dưỡng lòng đạo đức của mình. Đó là điều tự nhiên và dễ hiểu. Nhưng bây giờ, tình thế đã thay đổi nên lòng đạo đức cũng phải có căn bản vững vàng hơn. Căn bản đó là Kinh thánh và Phụng vụ. Ngoài thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ ra, chuỗi kinh Mai Khôi đáp ứng được đòi hỏi này, vì các kinh đọc trong đó lấy từ Kinh thánh, Phụng vu và các mầu nhiệm suy ngắm cũng là những mấu nhiệm về cuộc đời Chúa Cứu Thế rút ra từ các sách Tin Mừng.
Quả vậy. Kinh Kính Mừng là lời chào của thiên thần Gáp-ri-en đến báo tin cho Đức Mẹ, kinh Lạy Cha là kinh Chúa Giêsu dạy cho các Tông đồ và kinh Sáng danh là vinh tụng ca Giáo hội dùng để kết thúc mỗi thánh vịnh, khi đọc các giờ kinh phụng vụ. Còn các mầu nhiệm thì cũng là những biến cố vui mừng, sầu khổ, sáng láng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế.
* Năm sự vui là gì, nếu không phải là cuộc đời Chúa Giêsu ở giai đoạn thơ ấu, từ lúc thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ cho tới khi Người tìm được Con Mình trong đền thờ. Những biến cố này đều được ghi trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm.
* Năm sự sáng là gì, nếu không phải là những biến cố đặc biệt liên quan đến Phép Rửa tại sông Gio-đan, đến phép lạ biến nước thành rượu ngon tại Ca-na, đến công cuộc rao giảng Tin Mừng và kêu gọi ăn năn sám hối, đến cuộc hiển dung trên núi Ta-bo và việc thành lập chức linh mục và bí tích Thánh Thể?
* Năm sự thương là gì, nếu không phải là giai đoạn cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, khi Người lên Giê-ru-sa-lem, bị điệu đến dinh tổng trấn Phi-la-tô, bị hành hình rồi bị treo trên thập giá.
* Năm sự mừng là gì, nếu không phải là giai đoạn chót trong cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, từ khi Người sống lại, ban thần khí cho các Tông Đồ rồi lên trời, hẹn ngày lại đến trong vinh quang.
Như vậy chuỗi kinh Mai Khôi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mỗi khi đọc một chục kinh Mai Khôi là chúng ta có dịp nhớ lại một mầu nhiệm và sống ý nghĩa của mầu nhiệm ấy. Lần chuỗi Mai Khôi là thực hành lời thánh Phao-lô khuyên tín hữu Phi-líp-phê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã làm cho mình hóa ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngược lại, còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2,5-9)
Bốn câu trong chương 2 thư Phi-líp-phê tóm tắt được các mầu nhiệm vui mừng, sầu khổ trong cuộc đời Chúa Cứu Thế và khuyên nhủ tín hữu dựa vào đó mà có những tâm tình xứng hợp khi đối xử với nhau là từ bỏ độc quyền, hạ mình xuống, hy sinh, vâng phục để được vinh hiển trong ngày Chúa quang lâm.
Ngoài ra, chuỗi kinh Mai Khôi lại còn có nội dung Tin Mừng ở điểm này nữa là địa vị của Đức Mẹ mà chúng ta tôn kính, khi lần chuỗi Mai Khôi. Mai Khôi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối. Sự có mặt của Người vừa kín đáo lại vừa bi thảm. Người có mặt đó nhưng lại hoàn toàn tùy thuộc vào Con của Mình, như trong tiệc cưới Ca-na hay trong cảnh cậu bé Giêsu ở lại trong đền thờ, nghe các bậc thầy Do thái và đặt ra các câu hỏi cho các ông, sau cuộc trẩy hội lên Giê-ru-sa-lem. Đức Mẹ là người đầu tiên đã suy nghĩ và họa lại những tâm tình của Chúa Giêsu trong đời sống của mình. Bây giờ Đức Mẹ lại giúp chúng ta chuyển hiện những tâm tình này vào đời sống. Vì vậy, ĐGH Lê-ô XIII trong thông điệp Adjutricem populi (Đấng Phù Trợ của dân) mới viết: “Một trong những lợi điểm chính của chuỗi Mai Khôi là tạo cho tín hữu một phương tiện đơn giản và dễ dàng để nuôi dưỡng lòng tin.”
2. Chuỗi kinh Mai Khôi mang tính Giáo Hội
Giáo Hội nhận chuỗi Mai Khôi là lời kinh của mình và không ngớt lời khen ngợi. Trong thông điệp Octobri mense (Tháng Mười), lại cũng ĐGH Lê-ô XIII viết: “Tất cả lòng sùng kính Đức Mẹ cô đọng lại trong chuỗi kinh Mai Khôi.”
Giáo Hội là một cộng đồng rộng lớn không biên giới bao gồm những người tin nhận Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh nào muốn có tính Giáo Hội thì phải được Giáo Hội công nhận đã đành mà còn phải phổ cập nữa. Về điểm này, kinh Mai Khôi thật là phổ cập vì đó là kinh của mọi tín hữu, ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người không có học hay ít học, người giầu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh này lại có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người công giáo họp nhau lại.
Tính Giáo Hội của kinh Mai Khôi lại càng tỏ hiện trong ba tổ chức được công nhận dưới đây;
# Hội Mai Khôi
Hội qui tụ những người tình nguyện suy ngắm các mầu nhiệm Mai Khôi mỗi tuần một lần.
Hội Mai Khôi vĩnh viễn
Hội này do linh mục Ricci thành lập năm 1629 và được linh mục Chardon sắp xếp, tổ chức lại ở Lyon năm 1858. Mục đích của Hội là dâng lời ca tụng liên lỉ, phân chia cho mỗi người mỗi tháng một lần suy ngắm toàn bộ chuỗi Mai Khôi vào ngày giờ được ấn định trước.
# Chuỗi Mai Khôi sống
Hội này được thành lập tại Lyon năm 1826 do cô Pauline Jaricot, chia cho mỗi người mỗi ngày đọc một chục kinh Mai Khôi và suy ngắm về một mầu nhiệm.
Kết luận
Trên đây là hai điểm đặc biệt về chuỗi Mai Khôi, tức chất Tin Mừng và tính Hội thánh được bao gồm trong đó. Chúng ta lần hạt với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Như vậy, lần chuỗi Mai Khôi theo thói quen, đọc mà không nghĩ đến các mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Cứu Thế, hoặc không đọc bao giờ hay đôi khi mới đọc đều là những điểm cần phải suy nghĩ lại để điều chỉnh cho phù họp với ý nghĩa và giá trị của chuỗi kinh Mai Khôi.

51. Hiệu lực của Kinh Mân Côi – Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý chính:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Maria chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
Chú thích:
– C 26-27:
* Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Maria.
* Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16).
* Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Maria đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14).
* đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Maria đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18).
* thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã báo trước như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1).
* Maria: hay mi-ry-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Maria Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Maria Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Maria mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Maria vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Maria mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Maria thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).
– C 28-29:
* “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9).
* “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Maria, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng.
* “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Maria chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– C 30-33:
* Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Maria biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11).
* “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi.
– C 34:
* so sánh thắc mắc của Maria với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Maria thì biểu lộ lòng tin: Maria muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Maria đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Maria là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).
* “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Maria ở đây không chứng minh Maria đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Maria chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Maria mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
– C 35:
* Sứ thần giải thích cho Maria hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Maria sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14).
* “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8).
* “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
– C 36-37:
* kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Maria thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Maria biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.
– C 38:
* “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Maria đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa.
* “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Maria đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Maria thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.
4. Câu hỏi:
– Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?
Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?
– Câu nói nào của Đức Maria cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Maria thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?
– Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Maria làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?
Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?
* Hãy kể ra một số tên gọi Maria trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?
* Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Maria? 8-Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Maria đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?
* Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu nghĩa là gì?
* Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Maria trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Maria đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
** Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
** Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời Chúa: Bấy giờ Bà Maria nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
2. Câu chuyện:
Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton Oursler):
Vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Maria, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Maria để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
3. Suy niệm:
– Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Maria. Thực vậy, Mẹ Maria luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27); Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).
– Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Maria. Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh. Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16. Ngày nay, Đức Maria trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)…
– Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật…trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37). Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả thì các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Maria để sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Đức Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến noi gương Mẹ khi xưa. Chắc chắn nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ làm được những việc lạ lùng vượt quá khả năng của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm với ơn Chúa giúp như thánh Phao-lô viết: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 cr 12,10).
4. Thảo luận:
* Qua câu chuyện trên, ta thấy Thánh Mẫu Maria có vai trò nào trong việc ăn năn trở lại của ông Phun-tơn?
Ngày nay các tín hữu chúng ta cần cậy nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Mẹ Maria trong hành trình sống đức Tin thế nào?
5. Nguyện cầu:
Lạy Chúa, Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt… để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Maria, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

52. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Phaolô Nguyễn Nguyên)
Trong muôn loài muôn vật Thiên Chúa dựng nên. Chúng ta thấy, không có một tạo vật nào được giáo hội dành nhiều ưu ái cho bằng Mẹ Maria. Nói đến Mẹ, giáo hội luôn dành cho Mẹ muôn vàn tước hiệu, tước hiệu nào cũng cao quí, cũng đặc biệt. Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ Maria với tước hiệu Mẹ Mân côi. Sở dĩ có ngày lễ hôm nay vì có liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Và đúng như lời “xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời” đã ứng nghiệm, với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Để ghi ơn Đức Mẹ, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi. Tuy nhiên, ngày nay Giáo hội không kêu gọi chúng ta nhớ lại một biến cố xa xưa cho bằng mời gọi chúng ta khám phá ra vị trí của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu rỗi và nhắc nhở về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống của người tín hữu kitô chúng ta.
Thật vậy, khi chương trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa bị tội lỗi con người làm cho đổ vỡ, thì nay Thiên Chúa thay thế bằng một chương trình mới, khởi đi từ một cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa thần sứ Gabriel với cô thôn nữ Maria. Như bao cô gái nhà quê khác, Maria cũng từng ấp ủ những mộng ước, những dự phóng thật bình thường cho đời mình. Nhưng Thiên Chúa đã xen vào, đã khuấy động đời cô và đã làm thay đổi tất cả. Với lời thưa “Xin vâng” thật đơn sơ cô đã trở thành Mẹ của Đấng Cứu Thế, và trở nên người đầy ân phúc. Đầy ân phúc không chỉ vì Chúa đã chọn Mẹ, nhưng còn vì Mẹ đã luôn chọn đứng về phía Thiên Chúa, lấy Ý Chúa làm ý của mình, luôn cố gắng để cho chương trình của Ngài thành hiện thực. Mẹ đẹp lòng Chúa không vì những thành đạt vĩ đại, mà chỉ đơn giản là xin vâng với tất cả con người bé mọn của kiếp làm người mà Mẹ được Chúa ban. Nhờ đó, Mẹ trở nên như mẫu gương, như người hướng dẫn và như sự nối kết những tâm hồn thành tâm kiếm tìm, lắng nghe và thực thi Thánh Ý của Thiên Chúa.
Do đó, mừng lễ Mân Côi hôm nay, mỗi người trong chúng ta hướng nhìn lên Mẹ Maria, để noi theo Mẹ, chúng ta biết lắng nghe và tuân hành thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta vượt qua được những gian nan, thách đố, những lo âu, khắc khoải của dòng đời, để sống tốt lành thánh thiện, sống tươi vui và tử tế với nhau hơn. Muốn được như vậy, giáo hội mời gọi chúng ta hãy đến với Mẹ, hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi như là phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
Vì lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng lớn lao hơn. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, mà muốn có chiến thắng thì không thể xao lãng việc lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Cho nên, ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Ước gì mỗi người chúng ta hãy thử một lần để nhận ra được giá trị của kinh Mân côi, để khi gặp những khúc quanh, gánh nặng, khổ đau, những lúc mây mù giăng kín cuộc đời, chúng ta biết chạy đến kêu xin Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử”. Amen.

53. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh. Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi. Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây: – Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao! – Gẫm thứ ba năm sự vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa. – Gẫm thứ nhất trong năm sự sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác. – Và đặc biệt là trong năm sự thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
– Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng. – Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức. – Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ. – Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.

54. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Ignatiô Hồ Thông
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Maria. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Maria mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử nầy mà Đức Giêsu đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần săn sóc Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuỗi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời nầy ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẩm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mừng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giêsu lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Maria đã ở bên và che chở Giáo Hội với trọn tấm lòng từ mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời nầy được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Maria, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I Cv 1: 12-14
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ nầy được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giêsu khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giả các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
1. Trở về nhà, các ông lên lầu trên.
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giêsu. Như vậy nơi mà Đức Giêsu cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
2. Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó:
Việc kể tên mười một Tông Đồ dâng hiến một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ nầy như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
3. Chuyên tâm cầu nguyện:
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
4. Mấy người phụ nữ, và Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu:
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giêsu: “Đức Maria, Thân Mẫu của Đức Giêsu”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước kể ra Đức Trinh Nữ. Sau biến cố nầy, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Kitô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Maria cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ nầy gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giêsu đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ của Giáo Hội Ngài khi nói với Mẹ Ngài: “Thưa Bà, đây là con của Bà” và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
5. Anh em của Đức Giêsu.
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giêsu, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc nầy. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (cf. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giêsu: ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giêsu ở phòng Tiệc Ly vào lúc nầy chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giêsu. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Người kế vị thánh nhân, một ông Si-môn hay Si-mê-on nào đó, bị đóng đinh vào thời Trajan, cũng là bà con họ hàng của Chúa. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II Gl 4: 4-7
Các Kitô hữu Ga-lát bị những người Kitô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Kitô hữu gốc Do thái nầy muốn đưa vào trong Kitô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giêsu, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
1. Con Thiên Chúa làm con của loài người (4: 4-5)
“Khi thời gian đến hồi viên mãn”: thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giêsu. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Kitô. “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”: động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa. Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. “Sinh làm con một người đàn bà”: động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói nầy bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giêsu chịu phục tòng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
2. Để con người trở thành con Thiên Chúa (4: 6-7).
“Để chứng thực anh em là con cái”. Giới từ “hoti” bắt đầu với câu này có thể hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay “nên” (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Kitô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Kitô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ nầy theo nghĩa “nên anh em là con cái” (“để chứng thực…”) hơn.
Thánh Thần của Con”: Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Kitô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Kitô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương nầy. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG Lc 1: 26-38.
Hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Maria” nầy (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ kỷ thuật song đối nầy, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: Cựu Ước và Tân Ước, hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: ông Da-ca-ri-a, vị tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và Đức Maria, cô thôn nữ ở miền quê hẻo lánh làng Na-da-rét, và đặc biệt hai hài nhi của họ: Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
1. Khung cảnh truyền tin.
Câu mở đầu “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng” đóng chức năng như nhịp cầu nối của hai hoạt cảnh truyền tin, chúng ta rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem, thành đô của Do thái giáo, thuộc miền Giu-đê được xem là thuần chủng và thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả, thuộc làng quê Na-da-rét nhỏ bé, khiêm hạ, của miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì một đôi vợ chồng tư tế đã cao tuổi, biểu tượng của những truyền thống Ít-ra-en cổ kính và trung tín, bây giờ chúng ta gặp cô Maria, đã đính hôn với chàng Giu-se, hướng đến cuộc sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi cực thánh nhất của việc Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh nầy mà Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria.
Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
2. Lời chào của sứ thần:
Sứ thần vào nhà và chào Đức Maria: “Hãy vui lên, hỡi bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà”.
“Hãy vui lên” là cách thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, tuy nhiên, “Hãy vui lên” cũng thuộc về diễn ngữ của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9); hay: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on…Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” (Xp3: 14-15). Niềm vui thời Mê-si-a nầy, chính là niềm vui mà “sứ thần Thiên Chúa” sẽ loan báo cho các mục đồng trong hoạt cảnh Giáng Sinh: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân…” (Lc 2: 10). Như vậy lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Maria là nhằm hướng lòng Đức Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Đức Mẹ trước sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
“Hỡi bà đầy ân sủng”. Đức Maria được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giêsu, Con của Ngài. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”).
“Thiên Chúa ở cùng bà”. Lời nói trấn an nầy thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho họ, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời nầy cho dân Ngài chọn. Lời nầy cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút nầy, Đức Maria cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ.
3. Sứ điệp về Đức Giêsu.
Cũng như ông Da-ca-ri-a, nghe những lời chào ấy, Đức Maria hoảng sợ. Sứ thần trấn an Mẹ, đoạn xác định mặc khải của mình.
a. Mẹ của Đấng Kitô (Mê-si-a).
Tên của Hài Nhi, Giêsu, nghĩa là “Đức Chúa là Đấng Cứu Độ”. Ơn cứu độ được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa sẽ được thực hiện qua con trẻ của Đức Maria. Người sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” hay “Con Thiên Chúa”. Tước hiệu “Con Thiên Chúa” xảy ra chỉ ba lần trong Cựu Ước, mỗi lần đều quy chiếu đến vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (2Sm 7: 14; Tv 2: 7; Tv 89: 27-28). Vì thế, cũng như bà Ê-li-sa-bét, Đức Maria sẽ được thụ thai và sinh hạ một con trai, tuy nhiên, con trẻ của Đức Maria là Đấng Mê-si-a, Đấng mà ở nơi Ngài lời hứa cho vua Đa-vít được thành tựu. Trong bối cảnh nầy, tước hiệu “Con Thiên Chúa” không có nghĩa nào khác hơn là một tước hiệu dành cho một hậu duệ của vua Đa-vít, nhưng tước hiệu nầy chuẩn bị mặc khải tiếp theo sau.
b. Mẹ của Con Thiên Chúa.
Một vấn đề được đặt ra mà Đức Maria đã thẳng thắng nêu lên: “Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng?”. Lời thắc mắc nầy cho thấy rằng Mẹ ý thức Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ kinh thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Maria chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Maria nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Vấn nạn nầy giúp sứ thần khai triển mặc khải của mình: “Thần Khí sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ phủ bóng trên bà, vì thế hài nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Sứ thần muốn Mẹ nhớ lại vai trò của Thần Khí theo Kinh Thánh: “Thần Khí là quyền năng Thiên Chúa ban sự sống”. Vào lúc bắt đầu công trình Tạo Dựng, “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1: 2). Qua đó, sứ thần ngầm loan báo một công trình tạo dựng mới mà Đức Maria được mời gọi dự phần vào.
Để Đức Maria có thể thấu hiểu rằng đây là công trình của Thiên Chúa chứ không là công trình của phàm nhân, sứ thần nói thêm: “Quyền năng Đấng Tối Cao phủ bóng trên bà”. Động từ “phủ bóng” là động từ Kinh Thánh, như xưa kia, trong hoang địa “đám mây phủ bóng trên Lều Hội Ngộ, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm” (Xh 40: 34). Thật ý nghĩa biết bao, cũng chính thánh Lu-ca sử dụng động từ nầy để mô tả biến cố Biến Hình: “Bỗng có một đám mây phủ bóng…và từ đám mây có tiếng nói rằng: Đây là Con Ta…” (Lc 9: 34). Do đó, sứ thần khẳng định: “Vì thế Hài Nhi sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa”. Ở đây, sứ thần xác định rõ ràng hơn mặc khải của mình:“Con Thiên Chúa” không là một tước hiệu được dành cho Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Đa-vít, nhưng là chân tính thần linh của Hài Nhi, Con của Đức Maria.
4. Sứ điệp về Đức Maria.
Đức Maria không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự mình đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần chấm dứt bởi cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, trước sự ngạc nhiên của ông, vì vợ ông, bà lão Sa-ra có thể sinh cho ông một cậu con trai: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).
Đây là một trong số những chủ đề xuyên suốt Tin Mừng và sách Công Vụ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét son sẽ, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Maria, Mẹ của Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.
“Phủ bóng trên bà” nhắc lại Lều Hội Ngộ, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài. Đức Maria được vây phủ bởi vinh quang rạng ngời của Ngài, và Thần khí của tình yêu Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Maria và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà hài nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.
Không có gì có thể ngăn cản #kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ tình yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “nữ tì của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là con người của Đức Maria, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.

55. Lễ Đức Mẹ Mân Côi – Lm. Fx. Hồ Văn Uyển
Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói”.
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Ngày xưa, ông bà chúng ta thường nói rằng: “Lấy vợ xem tông; Lấy chồng xem giống.” Việc dựng vợ gã chồng đối với con người rất hệ trọng. Vì đó là yếu tố quyết định sự tồn vong của một dòng tộc. Cho nên các bậc cha mẹ xem xét rất kỹ trước khi quyết định cho con cái mình nên vợ nên chồng với người của dòng tộc kia. Ở đây thật là khập khiễn, nếu so sánh cách hành xử của con người như vừa nói với việc Thiên Chúa tuyển chọn cho Con mình một người Mẹ. Song một khía cạnh nào đó, chúng ta thấy việc “chọn mặt gửi vàng” của Thiên Chúa cũng như nơi con người chúng ta rất quan trọng. Vì thế, khi cho Con Một của mình nhập thể trong trần thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn cho Người một người Mẹ thật xứng đáng. Và dĩ nhiên, người Mẹ ấy không phải là một pho tượng đã được nắn đúc, gọt dũa sẵn sàng như chúng ta ca tụng sau nầy, mà người mẹ ấy là một con người như bao nhiều người khác, trừ tội nguyên tổ. Song Mẹ đã vượt qua chính mình khi thưa hai tiếng “Xin Vâng”, để nhập cuộc vào trong công trình cứu độ của Con mình ngay từ giây phút đó. Kể từ ngày đó, Đức Maria đã sống hành trình đức tin của mình. Xin vâng rồi không phải để đó mà phải Sống, phải bỏ ý riêng của mình để sống cho sứ mạng mình xin vâng. Đây chính là bài học cho đời sống đạo của chúng ta hôm nay.
Kính thưa anh chị em, kể từ ngày Mẹ nói xin vâng, bao biến cố đã xảy đến trong cuộc đời Mẹ, những biến cố đi ngược lại ý muốn và sức chịu đựng của một con người bình thường. Mẹ đã đón nhận tất cả với tin yêu và phó thác.
Trước hết là với thánh Giuse, người thân, người bạn đời trăm năm của Mẹ. Khi biết Đức Maria mang thai trước khi hai người về chung sống, Giuse đau khổ lắm, chắc cũng nhiều đêm trằn trọc không ngủ. Dẫu không muốn tố giác Đức Maria, vì Giuse vẫn yêu Mẹ và ngài lại là người công chính, song Giuse đã định tâm chia tay với Đức Maria cách kín đáo và nhẹ nhàn. Đức Maria cũng đau khổ lắm khi nhìn thái độ của Giuse, nhưng Mẹ không thể giải thích được. Mẹ đành phó thác cho Chúa.
Đến việc sinh con, tâm lý chung của người nữ lần đầu làm mẹ là: hạnh phúc, vui mừng và lo sợ lẫn lộn. Hạnh phúc vì được làm mẹ; vui mừng vì gia đình có thêm một thành viên mới; lo lắng chuẩn bị chu đáo những thứ cần thiết nhất cho bản thân và đặc biệt cho người con sắp chào đời; sợ vì không biết người con sẽ ra đời hình hài thế nào đây… Còn đối với Đức Maria thật đau khổ, sinh con ra trong một cái hang súc vật bò lừa, không một mãnh áo che thân, không một cục than sưởi ấm giữa đêm đông băng giá. Có người mẹ, người cha nào mà không tủi cho thân phận mình trong hoàn cảnh đó! Mẹ đã đón nhận với tất cả.
Vẫn chưa yên, kẻ sát nhân và khát máu, vua Hêrôđê, đang tìm hại con trẻ Giêsu. Mới có mấy ngày, không than không lửa, mẹ yếu con non, vậy mà phải vất vả vượt dặm đường xa trong sa mạc, lưu lạc ở đất khách quê người để bảo vệ sự an toàn cho con. Đó, Mẹ đang ôm trong tay mình Con Thiên Chúa. Mẹ nghĩ sao khi phải lao đao như vậy? Đau khổ lắm. Mẹ vẫn chịu.
Con đến tuổi hoa niên, tuổi 12, tuổi năng động, tuổi đuổi bướm bắt chim, gia đình được trở về nguyên quán. Mọi người mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng sau những năm tháng nghìn trùng xa cách. Rồi ai cũng phải lo bổn phận của mình trong cuộc sống đời thường, đặc biệt trong bổn phận tôn giáo. Chắc mẹ vui mừng và hãnh diện lắm vì lần đầu tiên con trai của mình đi làm bổn phận: hành hương về thành thánh theo luật Mô-sê. Nhưng điều trớ triêu đã xảy ra: mẹ con lạc mất nhau. Hỏi còn gì đau khổ hơn đối với người mẹ cho bằng việc lạc mất con. Sau ba ngày mới tìm gặp lại con. Ba ngày sống trong tâm trạng đau khổ và lo lắng chắc chúng ta cũng đã hiểu nỗi lòng của Mẹ. Mẹ vẫn tin vào Thiên Chúa.
Rồi những ngày Con bước vào đời, lên đường thi hành sứ mạng của mình: loan báo Tin Vui Cứu Độ cho mọi người. Kinh Thánh không cho chúng ta biết rõ Mẹ có theo Chúa Giêsu khi Ngài đi rao giảng hay không, nhưng có điều chắc chắn: Mẹ luôn theo dõi từng nhịp bước Con đi, luôn lắng nghe những điều Con nói và biết những việc Con mình làm. Mẹ biết sứ mạng của Con mình. Phần dân chúng kẻ thì khen, người thì chê, phần thì theo, nhóm thì chống, đặc biệt, lòng Mẹ rối bời và đau khổ vô ngần khi người ta bảo với Mẹ: Con Mẹ bị điên, phải đi tìm đưa về. Mẹ phải nói sao để cho người ta hiểu được sứ vụ mà Con Mẹ đang thi hành đây. Mẹ cũng dâng cho Thiên Chúa.
Và chuyện gì đến đã đến, trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu, chắc Mẹ cũng biết và hiểu rất rõ những thế lực đã chống đối Con mình rất mãnh liệt. Mẹ vẫn biết có những kẻ muốn thủ tiêu Con mình vì Con mình dám nói sự thật. Đó là sứ mạng của Ngài mà, Mẹ nói làm sao được. Và khi sự chống đối đã lên đến cực độ, người ta đã tìm cách và bắt Con Mẹ. Mẹ đã chứng kiến thân hình tiều tuỵ của con: bị đánh đập rách nát bầm tím tả tơi. Còn đâu thân hình cân đối vạm vỡ của con ngày trước nữa! Rồi Mẹ lại lê từng bước chân tiều tuỵ của mình để theo con lên đỉnh Núi Sọ. Ở đây Mẹ lại phải chứng kiến cảnh Con bị đóng đinh một cách tàn nhẫn vào cây thập giá rồi treo cao lơ lửng giữa trời và đất. Con Mẹ có làm gì nên tội đâu mà phải chết một cách tủi nhục như tên tử tội! Rồi Mẹ chứng kiến những giây phút trút hơi thở của con mình. Mẹ Maria cũng giống như bao người mẹ trần gian nào, nhưng thử hỏi có người mẹ trần gian nào đã phải chịu đựng nỗi đau như Ngài không? Mẹ của Con Thiên Chúa đó.
Và đó chính là nguyên nhân của những nét đẹp nơi Mẹ, mà ngày nay chúng ta ca tụng. Nhờ chấp nhận thánh ý Thiên Chúa và sống trọn vẹn hai tiếng “Xin vâng” mà Đức Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc.
Mừng lễ Mẹ Mân côi là dịp nhắc chúng ta nhớ lại lời thưa xin vâng của Mẹ để giúp chúng ta vừa ca tụng Mẹ, vừa học nơi Mẹ hành trình đức tin cho đời sống đạo của chúng ta. Thiên Chúa cũng chọn mỗi chúng ta và trao cho chúng ta sứ vụ loan báo Tin mừng trong bối cảnh xã hội nầy. Ước gì mỗi chúng ta cũng thưa xin vâng như Mẹ và sống trọn vẹn như Mẹ để ThiênChúa cũng chúc lành và thưởng cho chúng ta được hưởng hạnh phúc Nước trời. Amen.

56. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm Giuse Phan Văn Quyền)
Vào thời cổ đại, giải thưởng cho các cuộc thi đấu thể thao, không phải là huy chương vàng, bạc, đồng như hiện nay, mà là một vòng nguyệt quế, hay một vòng hoa tươi, được choàng vào cổ người chiến thắng.
Trong lịch sử Hội Thánh, tràng chuỗi Mân côi, vừa là khí cụ để chiến đấu, vừa là vòng hoa dành cho người chiến thắng.
Lịch sử cho thấy nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn sức mạnh cậy trông.
+ Năm 1571, vua Thổ nhỉ kỳ theo Hồi giáo là Salim II (1566-1574) xướng xuất một cuộc thánh chiến với tham vọng bình địa giáo đô Rôma. Trước tình hình ấy, Đức Thánh Cha Pi-ô V đã khẩn thiết kêu gọi người tín hữu hãy cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu, nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đồng thời Ngài cũng lập một đội chiến thuyền, mà mỗi chiến sĩ được trang bị thêm một vũ khí tinh thần là tràng chuỗi Mân côi. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin, với sự hỗ trợ nâng đỡ chở che của Đức Mẹ, Chúa đã cho đoàn quân công giáo chi?n thắng thủy binh thiện chiến của người Thổ nhỉ kỳ tại vịnh Lepante, vào ngày 7.10.1571, xóa tan cuồng vọng của những kẻ hiếu chiến.
Khi được tin chiến thắng vua Salim II, ĐTC Piô V tuyên bố: Không phải vũ lực, không phải võ khí, không phải vua tướng giúp chúng ta thắng trận, mà chính Đức Mẹ và tràng chuỗi Mân côi đã giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang.
Chiến thắng này là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi, đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng: Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn bên cạnh chúng ta.
+ Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra Chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé; mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ; rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi vào tháng, ngày, giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho người hấp hối, xin ơn trở lại cho người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào Chuỗi Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Thánh Cha Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này và ban cho nhiều ân xá.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi, và chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Hiện nay cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải, đang đối diện với những thách đố mới, tại sao một lần nữa chúng ta không chạy đến Kinh Mân côi, với cùng một đức tin như những người đã đi trước?
Thánh Pi-ô năm dấu viết: Vũ khí của tôi là tràng chuỗi Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì, khi tôi xin Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm vui lòng Đức Mẹ, muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần chuỗi Mân côi.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em! Điều kiện để được hưởng trọn vẹn tình thương của Đức Mẹ là: ăn năn đền tội và cải thiện đời sống, tôn sùng yêu mến trái tim Mẹ, siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Trong tháng Mân Côi này mỗi người chúng ta đáp lại lời mời gọi của Mẹ siêng năng lần hạt Mân Côi. Vì tràng chuỗi mân côi là như sợi dây tơ hồng, mối dây tình ái, kết chặt chúng ta gắn bó keo sơn với Đức Mẹ, giúp chúng ta noi gương Đức Mẹ mà sống đẹp lòng Chúa và phục vụ tha nhân, giúp chúng ta yêu mến Chúa và mọi người bằng trái tim của Đức Mẹ.
Đức Mẹ nói với Bernadette tại Lộ Đức: ” Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau “. Tuy nhiên những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Tin mừng, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ.
Qua tràng chuỗi Mân Côi Mẹ luôn hiện diện với chúng ta như xưa Mẹ đã từng hiện diện:
Sự hiện diện của Đức Mẹ nơi gia đình Gia-ca-ri-a đã khiến bà I-sa-ve tràn trào ơn Chúa Thánh thần, đem lại niềm hoan lạc vô bờ cho thai nhi Gioan tẩy giả.
Sự hiện diện của Đức Mẹ tại tiệc cưới Ca-na đã làm đôi tân hôn và mọi người dự tiệc được trọn vẹn niềm vui, và khiến Chúa Giêsu ra tay làm phép lạ đầu tiên.
Sự hiện diện của Đức mẹ dưới chân thập giá đã làm ấm lòng chúa Giêsu để an tâm về với Chúa Cha, sau khi trối phó thánh Gioan là Giáo hội cho Đức Mẹ.
Sự hiện diện của đức Mẹ tại nhà Tiệc ly, đã giúp các Tông đồ lấy lại tinh thần, sinh khí và sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Hôm nay Đức Mẹ tiếp tục hiện diện giữa chúng ta và trong mỗi người chúng ta.
Những lúc rệu rã một mõi vì cuộc sống lam lũ bon chen trần thế, những khi tối tăm thử thách bao phủ ánh tương lai, những lúc nặng trĩu u buồn quá khứ, những lúc mất mát hụt hẫng không biết cậy dựa vào ai …
Hãy chạy đến với Đức mẹ, hãy cầm lấy tràng chuỗi mân Côi và cầu nguyện, hãy thầm thỉ thì thầm lời kinh Kính mừng Maria….
Với tấm lòng từ bi nhân hậu của một hiền mẫu, chắc chắn Đức Mẹ sẽ là nguồn an ủi, nâng đỡ, khích lệ và niềm vui sống cho chúng ta.
Lạy Mẹ, khi con yếu đuối lỡ lầm va vấp, xin Mẹ thương giơ tay nâng đỡ dìu dắt; khi con cô đơn lạc lỏng, xin mẹ đồng hành bên con và che chở giữ gìn; khi con khổ đau bất hạnh, xin mẹ thương ra tay cứu giúp; vì Mẹ là niềm an ủi và hạnh phúc của con.
Lạy Đức Mẹ Maria, con xin nhắc lại lời mà triệu triệu trái tim hằng ấp ủ, lời mà triệu triệu đôi môi hằng tung hô hằng ngày trên khắp thế giới: Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là ke #có tội, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.

57. Lễ Mân Côi tại TàPao – 13/10/2012
(Lm GB. Hoàng Văn Khanh – Tổng đại diện GP Phan Thiết. Thứ bảy 13/10/2012)
LỄ MÂN CÔI TẠI TRUNG TÂM THÁNH MẪU TÀPAO – Dịp Khai mạc Năm Đức Tin 2012-2013
Dẫn nhập: Thế kỷ 13, lạc giáo Albigeois với thuyết định mệnh lan tràn khắp Tây phương, gây suy đồi trầm trọng về luân lý và tôn giáo. Để chống phá lạc thuyết, Đức Mẹ đã truyền cho thánh Đaminh cổ vũ toàn thể Giáo hội cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Thế kỷ 16, quân đội Hồi giáo xâm lăng thành đô Vatican của Giáo hội Công giáo. Đức Giáo Hoàng kêu gọi mọi tín hữu lần chuỗi Mân Côi xin Đức Mẹ cứu giúp. Tại vịnh Lépante, Hồi giáo thất trận vào ngày 7.10.1571. Để bày tỏ lòng biết ơn Đức Maria, Hội thánh thiết lập lễ Mân Côi hằng năm trên toàn thể Giáo hội. Những lần hiện ra ở Lộ Đức với Bernadetta, nhất là với ba trẻ tại Fatima, Đức Maria đều kêu gọi lần chuỗi Mân côi cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Chuỗi Mân côi trở thành phương thế cầu nguyện đơn sơ nhưng thật tuyệt hảo mà Giáo hội, qua các triều đại Giáo hoàng, đều nhiệt tình cổ vũ như phương thế kết hợp với CG và nối kết với Mẹ Maria trong đời Kitô hữu. Chuỗi Mân côi quả là kinh nguyện nuôi dưỡng lòng tin Kitô hữu qua mọi thời.
Hôm nay, tại trung tâm thánh mẫu Tàpao, chúng ta long trọng mừng lễ Mẹ Mân côi trong ngày khai mạc Năm Đức Tin. Chúng ta dâng năm đức tin cho Đức Mẹ, xin Mẹ giúp chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha để trong năm đức tin này, nhờ Mẹ chuyển cầu, chúng ta biết duyệt lại đức tin của mình, đào sâu đức tin, tuyên xưng đức tin cách trọn vẹn cùng với toàn thể Hội thánh và ra sức làm chứng cho đức tin bằng việc loan báo Tin mừng mà Đức Giêsu và Giáo hội gửi gắm cho chúng ta.
Chia sẻ Tin mừng Lc 1, 26-38
Trang Tin mừng thuật lại việc sứ thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria việc Thiên Chúa đề nghị Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Thiên sai cứu thế mà các ngôn sứ, cụ thể Sophonia đã từng loan báo. Với tất cả niềm tin và phó thác, khiêm nhường và vâng phục, Đức Maria đã thưa lời Xin Vâng. Từ phút giây lịch sử đó, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Mẹ và làm người để thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Trang Tin mừng giới thiệu cho chúng ta những dáng đứng tuyệt hảo của Đức Maria như mẫu gương đức tin của Kitô hữu: Maria cầu nguyện – Maria lắng nghe và đáp lại Lời Chúa – Maria làm mẹ sinh Chúa Giêsu cho nhân loại – Maria toàn hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Trong lễ khai mạc Năm Đức Tin tại Trung tâm Thánh Mẫu Tà pao hôm nay, xin phép chia sẻ với quý khách hành hương đôi tâm tình nhỏ bé về Đức Maria, thầy dạy và mẫu gương của đức tin Kitô hữu.
1. Liên kết mật thiết với Chúa Giêsu.
Kitô giáo không phải một học thuyết hay một triết lý tôn giáo, nhưng là Đạo mạc khải, tức đạo bởi trời, do chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, nhập thể làm người truyền rao cho Giáo hội do Người thiết lập. Đức tin Kitô giáo không phải tri thức suông, nhưng là ân huệ Chúa ban, đồng thời là hành vi đáp trả của con người đón nhận mọi chân lý Người mạc khải. Vì thế, niềm tin Kitô giáo không dừng lại ở những hình thức bên ngoài như kinh lễ, thuộc giáo lý, tuân giữ những luật căn bản…, nhưng hệ tại việc liên kết gắn bó với Đức Giêsu Kitô và dấn bước theo Người. Cốt lõi đức tin là sự gặp gỡ Đức Kitô, nhờ đó điều chỉnh và định hướng cuộc sống cho phù hợp với ý Chúa, từ đó có thể thi hành cách hữu hiệu sứ mệnh loan báo Tin mừng mà Đức Kitô trao phó.
Hơn ai hết, Đức Maria luôn gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu từ khi cưu mang Người trong cung lòng do quyền phép Chúa Thánh Thần, sinh hạ, bảo bọc, dưỡng nuôi, giáo dục trong suốt quảng đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu nơi làng quê Nadarét. Sau đó, Mẹ hằng theo sát con trên hành trình rao giảng, nhất là trên con đường thập giá và cuối cùng đứng kề bên thập giá hiệp thông sự khổ nạn của con và đón nhận lời trăn trối của Đức Giêsu làm mẹ của toàn nhân loại, của Giáo hội và của riêng mỗi người chúng ta. Mẹ liên kết với Đức Kitô phục sinh bằng sự cầu nguyện và giúp các tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần hiện xuống. Liên kết bằng niềm tin trọn vẹn, lòng yêu mến thiết tha và sự hiệp thông tròn đầy. Đức Giêsu đã từng dạy các môn đệ hãy ở lại trong tình yêu của Thầy… Thầy là cây nho, chúng con là nhành. Nhành nào kết hiệp cùng cây sẽ sinh hoa trái. Mẹ là thầy dạy và là mẫu gương cho sự liên kết gắn bó ấy.
Chuỗi Mân côi giúp tín hữu thực hiện sự liên kết mật thiết với Chúa Giêsu theo gương của Mẹ. Thật vậy, những chân lý mầu nhiệm cuộc đời của Chúa Giêsu được ghi lại trong các sách Tin mừng mà chuỗi Mân côi là bản tóm gọn. Năm Sự Vui diễn lại mầu nhiệm Nhập thể. Năm Sự Sáng nói lên cuộc đời công khai rao giảng. Năm Sự Thương đưa ta vào cuộc thương khó tử nạn và Năm Sự Mừng suy niệm về sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô. Mỗi khi lần chuỗi, ta được mời gọi suy niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu, đưa ta vào hiệp thông với Người, ở lại trong tình yêu của Người, được nên một với Người để đón nhận hồng ân cứu độ Người trao ban qua sự chuyển cầu của Đức Maria.
2. Trổ sinh hoa trái thần khí
Sứ điệp đầu tiên của Đức Giêsu được các Tin mừng ghi lại: Hãy hoán cải. Trong suốt hành trình rao giảng, Chúa Giêsu luôn nhắc lại lời mời gọi này. Hoán cải là quá trình thay đổi tận căn từ tư tưởng, ước muốn, đến hành động và bản thân để canh tân đời sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, như thánh Phaolô đã từng dặn dò trong thư Rôma: Những ai sống theo xác thịt thì hướng về những gì là xác thịt…còn những ai sống theo Thần Khí thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Mà những sự do xác thịt gây ra là sự chết…, còn những gì thuộc Thần Khí sẽ sinh hoa trái Thần Khí. Đời sống Kitô hữu phải luôn hoán cải, canh tân, tăng triển dưới tác động của Chúa Thánh Thần để trổ sinh hoa trái Thần khí là các nhân đức. Những nhân đức chính yếu là Tin Cậy Mến cùng với sự vâng lời, khiêm nhường, công bằng và tiết độ. Đức Maria là mẫu mực các nhân đức ấy. Nơi Mẹ toát ra cách tuyệt hảo lòng tin cậy mến, sự khiêm nhường, khó nghèo, vâng phục, trinh khiết. Mẹ hằng gắn kết mật thiết với Chúa bằng tin yêu phó thác và luôn bước đi trong đường lối của Người, do đó Mẹ có một tương quan tốt đẹp hoàn hảo đối với mọi người từ lời nói, cách cư xử, hành động…Mẹ thật đáng yêu và Mẹ yêu thương hết tình và hết mình. Kinh Mân côi không những là sách Tin mừng tóm gọn, mà còn giới thiệu cho ta các nhân đức của người làm con Chúa, mà Đức Maria là mẫu mực. Kinh Mân côi vì thế còn được gọi là bản tóm lược nền luân lý Kitô giáo. Lần chuỗi Mân côi, ta vừa nối kết với cuộc đời của Đức Giêsu, ta vừa chiêm ngưỡng Đức Maria, vừa học tập với Mẹ các nhân đức, nhờ đó thêm lòng yêu Chúa, yêu Mẹ và tạo mối tương quan thân tình hiệp thông với mọi người.
3. Cầu nguyện với Mẹ và như Mẹ.
Đức tin mời gọi cầu nguyện: lex orandi lex credendi. Cầu nguyện là phương thế kết hiệp với Chúa và tìm biết thánh ý Người. Tin mừng thuật lại Chúa Giêsu luôn cầu nguyện với Chúa Cha, từ sáng sớm tinh mơ đến lúc chiều tà… Người dạy các môn đệ siêng năng và bền tâm cầu nguyện. Đức Mẹ hằng chuyên chăm cầu nguyện từ khi còn bé thơ, cho đến khi trưởng thành, khi thiên thần truyền tin, khi thăm viếng chị họ Elisabét, khi các mục đồng và ba đạo sĩ đến kính thờ Hài nhi…khi đem Con trốn sang Aicập…khi sống dưới mái nhà Nadarét …khi theo dõi con trên đường rao giảng…khi theo sát vết chân con vác thập giá, khi đứng bên con giờ khổ nạn…cũng như khi Đức Kitô đã phục sinh lên trời… Mẹ cầu nguyện trong từng giây phút cuộc đời, vui buồn, hoan lạc hay gian khổ… Chính nhờ cầu nguyện mà Mẹ đáp lời Xin vâng…, nhờ cầu nguyện mà Mẹ luôn dâng hiến cuộc đời cho Chúa và hiệp thông với con trong công trình cứu độ…. Mẹ đã từng dạy trẻ Giêsu cầu nguyện, Mẹ cũng đã dạy và cùng với các Tông đồ cầu nguyện để đón nhận Thánh Thần. Mẹ làm gương và dạy ta cầu nguyện bằng kinh Mân côi để liên kết với Chúa Giêsu, tín thác vào quyền năng và tình thương của Chúa. Kinh Mân côi là cách cầu nguyện bình dân, phổ thông, ai cũng làm được …từ người trí thức địa vị đến người ít học bình dân…từ trẻ em đến người lớn, già cả, người bệnh cũng như khỏe mạnh… lại mang đến nhiều hiệu quả tốt lành cho đời sống đức tin nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ. Chính vì thế mà Giáo hội, qua các triều đại Giáo hoàng, kêu gọi tín hữu hãy siêng năng cầu nguyện bằng lần chuỗi Mân côi, như phương thế nên thánh, và như khí giới giúp chiến thắng ba thù.
Kết luận: “Hãy siêng năng lần chuỗi mân Côi”. Lời Mẹ vẫn luôn vang vọng như mời gọi tha thiết. Chuỗi Mân côi là phương thế thánh hóa bản thân, vũ khí chống lại các cám dỗ của ma quỷ và quyến rủ bất chính của thế gian, và là lời kinh ngọt ngào đưa ta vào vòng tay che chở của từ mẫu Maria. Cha ông ta từ bao đời trước đây đã hết lòng sống niềm tin vững vàng đến dám hiến mạng sống bảo vệ đức tin nhờ vào tràng chuỗi Mân côi. Xin cho tất cả chúng ta biết thực hành sứ điệp Mẹ truyền: Hoán cải đời sống, yêu mến Mẫu tâm và siêng năng lần chuỗi Mân côi.