CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – A

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 55, 6-9; Pl. 1, 20c-24.27a; Mt. 20, 1-16a
MỤC LỤC
1. Tôi đâu có bất công. 4
2. Chúa Nhật 25 Thường Niên 7
3. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu. 10
4. Ca tụng hay kêu trách 16
5. Công bằng và tình thương 20
6. Mướn thợ làm vườn – ViKiNi 24
7. Chân dung gia chủ tốt lành… 27
8. Do con người hay do Thiên Chúa 31
9. Sự công bằng của Chúa 33
10. Chúa Nhật 25 Thường Niên 35
11. Chủ vườn nho. 44
12. Ghen tị một trong Bảy Mối Tội Đầu 46
13. Ganh tỵ, căn bệnh mãn tính của con người. 50
14. Thiên Chúa- Đấng khác con người 56
15. Người chủ vườn nho nhân hậu 59
16. Vượt lên chính mình 62
17. Chiến thắng lòng ghen tị 65
18. Tin vào tình yêu 69
19. Thợ làm vườn nho 72
20. Thợ làm vườn nho 77
21. Vui với người vui 81
22. Ganh tỵ 84
23. Ghen tương 87
24. Lý người và Tình Chúa 90
25. Lòng quảng đại của Thiên Chúa 95
26. Chúa Nhật 25 Thường Niên 99
27. Niềm vui nẩy sinh từ sự xẻ chia 104
28. Đấng nhân lành 108
29. Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa 110
30. “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?” 114
31. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa 120
32. Chúa Nhật 25 Thường Niên 124
33. Đừng so sánh. 128
34. Lý lẽ của trái tim 130
35. Chúa Nhật 25 Thường Niên 133
36. Lòng nhân từ 136
37. Tình yêu, tiêu chuẩn của Thiên Chúa 139
38. Thiên Chúa quảng đại 141
39. Đường lối của Thiên Chúa 144
40. Đường lối của Chúa 148
41. Công bằng hay bác ái? 152
42. Ông chủ tốt bụng 156
43. Chúa Nhật 25 Thường Niên 159
44. Công bằng hay lòng thương xót? 164
45. Cuộc tìm kiếm đời đời của trời 167
46. Công bằng của lòng từ nhân 171
47. Đồng lương xứng đáng 174
48. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng 178
49. Chúa Nhật 25 Thường Niên 182
50. Lòng tốt của Thiên Chúa 186
51. Lòng tốt của Thiên Chúa 191
52. Hãy đi vào vườn nho 197
53. Người thợ giờ thứ mười một 202
54. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa 206
55. Ông chủ quảng đại 209
56. Công bằng hay là bác ái? 211
57. Biết ơn Chúa 215
58. Phi cơ & cái kẹp giấy 220
59. Tự do Thiên Chúa 225
60. Khiêm tốn và vâng phục 229
61. Đeo mặt nạ 232
62. Chúa Nhật 25 Thường Niên 234
63. Ghen tị 237
64. Ganh tị 240
65. Chúa Nhật 25 Thường Niên 244
66. Quảng đại 247
67. Ganh tị 251
68. Chúa quá nhân từ 255
69. Dụ ngôn ‘Những người làm vườn nho’ 257
70. Chúa Nhật 25 Thường Niên 260
71. Thợ làm vườn nho – Radio Veritas Asia 264
72. Hãy bằng lòng với những gì mình có 268
73. Lòng quảng đại của Thiên Chúa 271
74. Thiên Chúa nhân hậu với mọi người 273
75. Chúa Nhật 25 Thường Niên 281
76. Thợ làm vườn nho 291
77. Lòng tốt của Thiên Chúa 295
78. Suy Niệm của JKN 301
79. Chúa Nhật 25 Thường Niên 306
80. Tình yêu 309
81. Ghen tị 312
82. Dụ ngôn thợ làm vườn nho 315
83. Tình yêu vượt xa công lý 325
84. Những người thợ làm vườn nho 332
85. Đếm từng ngày 339
86. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công? 344
87. Lòng quảng đại của Thiên Chúa 348
88. Cảm thông với tha nhân 350
89. Bằng lòng với của Chúa ban 360
90. Chúa xót thương 364

1. Tôi đâu có bất công.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ? còn thằng con của cha đó… Vậy mà…”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc, đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày. Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa.
Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ.
Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người thù ghét con.

2. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm
Khi đọc Kinh Thánh, đôi khi chúng ta thấy
Chúa là Đấng công bằng, thưởng phạt rạch ròi.
Ngài giống như vị quan tòa, nghiêm minh khi xét xử.
Trong chương 25 của Tin Mừng Mát-thêu ta thấy
Ngài đóng cửa không cho năm cô trinh nữ dại khờ vào dự tiệc,
vì họ đi mua dầu để thắp đèn nên về trễ;
Ngài quẳng tên đầy tớ lười nhác vào chỗ tối tăm
vì anh ta không đầu tư mà lại chôn giấu yến bạc dưới đất;
Ngài tống vào lửa đời đời để chịu cực hình muôn kiếp
những ai đã không giúp đỡ các anh em bé nhỏ nhất của Ngài.
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy
Thiên Chúa không chỉ là Đấng công bằng (dikaios, Mt 20,5.13)
mà còn là Đấng tốt lành (agathos, Mt 20,15).
Ngài là ông chủ vườn nho, ra chợ một ngày năm lần,
đích thân tìm thợ và đưa họ về làm việc,
hứa trả lương công nhật đúng theo tiêu chuẩn đã định.
Lòng tốt của ông chủ biểu lộ khi ông thấy những người thợ
cứ đứng chờ ngoài chợ vì không có ai mướn.
Vẫn luôn luôn có những người đứng chờ như thế cả ngày:
lúc 9 giờ sáng, 12 giờ trưa, rồi lúc 3 giờ và 5 giờ chiều.
Lần nào ra chợ ông chủ đều gặp họ.
Lần nào gặp họ ông chủ đều mời họ đi làm cho mình (Mt 20,5).
Khi chỉ còn một tiếng nữa là hết ngày lao động,
ông chủ vẫn tiếp tục ra chợ, vẫn thấy những người đứng chờ.
Ông trò chuyện, hỏi thăm lý do khiến họ cứ đứng không như vậy.
Khi biết chẳng ai mướn họ, ông chủ liền kêu họ làm cho mình.
Những người được mướn vào lúc 5 giờ chiều chắc vui lắm,
vì ít ra họ cũng kiếm được chút đỉnh để nuôi vợ con.
Niềm vui của nhóm thợ cuối cùng được nhân lên gấp bội
khi họ là những người đầu tiên được lãnh lương,
và đã được trả lương cả ngày, dù chỉ làm có một tiếng.
Niềm vui của nhóm thợ lúc 5 giờ chiều
lại gây sự hụt hẫng cho nhóm thợ làm từ 6 giờ sáng,
vì cuối cùng, họ cũng chỉ nhận được một quan.
Họ cằn nhằn về lối cư xử bất công của ông chủ:
một người làm vất vả nắng nôi cả ngày
được trả lương bằng một người khác làm có một tiếng.
Ông chủ gọi họ là “bạn,” và cho biết mình không bất công
vì đã trả cho họ theo như hai bên đã “thỏa thuận” (Mt 20,2.13).
Ông còn khẳng định ông có quyền làm điều mình muốn.
Ông có quyền cho những người cuối như những người đầu.
Ông có quyền sử dụng những gì ông có theo lòng tốt của ông.
Lòng tốt ấy vượt lên trên công bằng, nhưng không phải là bất công.
Không ai được phép ganh tỵ vì thấy ông quảng đại.
Thiên Chúa không chỉ công bằng mà còn tốt lành, vì Ngài có trái tim.
Ngài thương những người đứng chờ cả đời,
những người tìm kiếm mà chưa bao giờ gặp,
những người liên tục gặp thất bại và vấp ngã trong đời.
Ngài thương những người đến sau, đến chậm hơn người khác,
và Ngài thi ân cho sự chờ đợi, tìm kiếm tưởng như vô ích của họ.
Trên thiên đàng có nhiều người thợ vào giờ thứ 11, tức 5 giờ chiều,
có nhiều anh trộm lành được cứu độ vào giờ phút chót.
Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngỡ ngàng vì những món quà bất ngờ.
Ngài không chỉ công bằng mà còn tốt lành, vì Ngài có trái tim.
Cầu nguyện
Lạy Chúa,
việc tông đồ của con phải là việc diễn tả lòng tốt.
Để khi thấy con, người ta phải nói:
“Vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”
Và nếu có ai hỏi con, tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời, vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều.
“Ước chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:
“Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt biết chừng nào!”
(Chân phước Charles Foucauld)

3. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

4. Ca tụng hay kêu trách
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).

5. Công bằng và tình thương
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Trong cuộc sống đời thường, người ta hay nói đến công bằng như một lý tưởng phấn đấu và là một điều kiện căn bản để xây dựng một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Tuy vậy, ở đời này không bao giờ có công bằng tuyệt đối. Bởi lẽ ngay khái niệm công bằng cũng được hiểu rất khác nhau, tuỳ theo quan điểm chính trị, văn hoá và xã hội của con người.
Thiên Chúa là Đấng công bằng. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta như thế. Tác giả Thánh vịnh đã viết: “Quả thật Chúa là Đấng công bằng, ưa thích điều chính trực; những kẻ sống ngay lành được chiêm ngưỡng Thánh Nhan” (Tv 10,7). Không chỉ công bằng, nơi Chúa còn có tình thương và lòng nhân hậu. Ở đời này, hiếm thấy công bằng và tình thương đi đôi với nhau. Dân gian ta thường nói: “Thương em anh để trong lòng, việc quan anh cứ phép công anh làm”. Điều đó cho thấy đã công bằng thì không (hoặc rất khó) mà có tình thương và không có sự nể nang tình nghĩa. Đây cũng là điều cần thiết bởi nếu không xã hội sẽ rối loạn như giao thông không có đèn hiệu.
Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay chứng minh cho thấy: Thiên Chúa vừa công bằng và tràn đầy tình thương. Thiên Chúa không hành động nhỏ nhen như con người. Chúng ta thường có thói quen “suy bụng ra bụng của Thiên Chúa”, có nghĩa là chúng ta thường gán cho Thiên Chúa những cách xử sự nơi thế giới nhân loại, cũng hận thù và tiểu nhân. Từ đó, chúng ta phàn nàn kêu trách Chúa khi đau khổ thiếu thốn. Tệ hơn, nhiều lúc chúng ta phê phán Chúa vì Ngài tốt bụng với người khác. Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta… Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Bài đọc I). Những lời này dạy chúng ta phải có cái nhìn rộng lượng hơn trong cách đối xử với tha nhân, như Thiên Chúa là Đấng bao dung và quảng đại.
Chúa Giêsu đến trần gian để mạc khải cho con người tình thương bao la của Chúa Cha. Ngài thương hết mọi người và từng người, nhất là những tội nhân và những kẻ bé mọn. Trong khi đó, nhiều người Do Thái, nhất là người Biệt phái và các luật sĩ lại ghen tỵ vì Chúa Giêsu. Họ phê phán Chúa vì Người gần gũi những người tội lỗi và những kẻ bần cùng. Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” nhằm diễn tả lòng bao dung của Thiên Chúa và sự ích kỷ của con người. Nếu Thiên Chúa là Đấng rộng rãi bao dung, thì con người lại quá nhỏ nhen ích kỷ. Những người thợ đã làm từ đầu ngày ghen tương trước lòng tốt của ông chủ, trong khi đó, ông chủ vẫn làm đúng điều ông đã cam kết. Ông không hề làm cho họ bị thiệt hại. Họ ghen tương và phàn nàn bất mãn chỉ vì ông chủ tốt với người khác. Thái độ của những người này làm chúng ta liên tưởng đến người con cả trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Chúa nói trong Tin Mừng Thánh Luca (x. Lc 15,25-32). Anh ghen tương và phẫn nộ vì cha mình xử tốt với đứa em khi nó đi hoang trở về. Đó cũng là thái độ của chúng ta, khi muốn Chúa phải xử theo ý muốn hẹp hòi của mình.
Đối lại với lời phàn nàn trách móc, ông chủ đã đặt ra hai câu hỏi: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Qua hai câu hỏi này, ông chủ muốn phê phán những người thợ tự cho mình là đáng giá hơn người khác, để dựa vào đó mà phản đối lòng tốt của ông chủ. Người chủ vườn là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng bao dung nhân hậu. Ngài sai Con Một là Đức Giêsu đến trần gian để sống gần với họ. Điều này làm những người tự coi là “công chính” không hài lòng. Bởi lẽ, theo suy nghĩ của họ, chỉ có họ là được Chúa yêu thương. Việc Chúa Giêsu gần gũi những người thu thuế và những người tội lỗi được họ coi như một thiệt thòi đối với họ, vì thế mà họ nổi loạn và trách móc phàn nàn. Họ giống như một số người có thái độ “ghen ngược” trong xã hội hôm nay, kêu ca phàn nàn trách móc trong khi mình không có quyền gì để làm những điều đó. Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt những người bị đẩy ra bên lề cuộc đời. Họ là những người không ai thuê, mặc dù vào giờ thứ mười một, tức là đã xế chiều. “Không ai mướn chúng tôi!”. Lời này đã diễn tả tình trạng bi đát và khốn cùng của họ. Không ai mướn, tức là ngày đó không có lương, và như thế, cả vợ con và gia đình họ cũng không có gì sống. Ông chủ vườn nho là người thấu hiểu điều đó. Vì vậy, ông trả lương cho họ giống như những người đã làm từ sáng. Đó là đồng lương của lòng nhân hậu.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng nhân hậu đối với con người, không phân biệt sang giàu hay đẳng cấp xã hội. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: “Đâu là thái độ của tôi đối với anh chị em đồng loại?”. Vì Thiên Chúa nhân hậu bao dung, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy sám hối và bỏ đường tà, đoạn tuyệt với quá khứ, thay đổi con tim và canh tân cuộc sống: “Hãy trở về với Chúa – và Ngài sẽ xót thương, về với Thiên Chúa chúng ta vì Ngài rộng lòng tha thứ” (Bài đọc I).
Những lo toan bận tâm thường ngày không thể cản trở chúng ta tìm kiếm Nước Trời. “Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô” – Thánh Phaolô khuyên chúng ta như vậy. Đối với thánh nhân, sự sống hay sự chết chẳng là một điều bận tâm, vì đối với những ai yêu mến Chúa thực sự thì họ chắc chắn được lãnh nhận phần thưởng Nước Trời. Lòng mến Chúa yêu người sẽ thôi thúc chúng ta thực hiện những gì Chúa muốn: “Kẻ gan ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương” (Bài đọc I).
Chúa là chủ vườn nho bao dung nhân hậu. Tuy vậy, chúng ta không dựa vào lòng nhân hậu của Chúa mà trễ nải khi được mời gọi vào vườn nho của Ngài. Những người thợ được nêu trong Tin Mừng, khi được mời, đều sẵn sàng nhận lời. Vì vậy mà họ đáng được thưởng công. Vườn nho của Chúa là Giáo Hội, nơi mỗi người tìm thấy bầu khí gia đình thân thương. Vườn nho của Chúa chính là cuộc đời, nơi chúng ta được sai đến để làm chứng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ý thức được điều này, chúng ta sẽ nhận ra giá trị của cuộc sống, nhất là niềm vinh hạnh vì được làm con cái Chúa.

6. Mướn thợ làm vườn – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đài Hà Nội đưa tin lúc 07g15 sáng ngày 21/09/1987 như sau: “Nước Hoa Kỳ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hàng năm”. Vấn đề tạo công ăn việc làm cho người dân là một việc khó khăn, làm đau đầu các nhà cầm quyền trên thế giới.
Dụ ngôn Tin mừng hôm nay đề cập đến một ông chủ giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái.
Công bằng vì ông đã trả lương cho thợ đúng với sự thỏa thuận giữa chủ và thợ, đúng với thời giá thích hợp với hoàn cảnh công nhân: Công mỗi ngày một đồng đủ nuôi sống họ và gia đình cho chi phí tiêu dùng cả ngày.
Ông còn thực thi công bằng xa hơn ở điểm là ông tự cho mình có trách nhiệm phải tìm giúp các kẻ thất nghiệp có công ăn việc làm. Đây là bổn phận của chủ đối với thợ, của cha mẹ đối với con cái, của chính quyền đối với người dân. Họ phải chịu trách nhiệm tạo công ăn việc làm xứng đáng với phẩm giá con người, phải lo tổ chức xã hội phân chia quyền lợi và nghĩa vụ tương đối đồng đều, không ai bị thiệt thòi quá và không ai hưởng lợi quá.
Hiến Chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II đã xác định: “Trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính xã hội có bổn phận góp phần giúp người công nhân có công ăn việc làm” (số 67).
Từ thực thi công bằng cá nhân và xã hội, ông chủ vươn lên thực thi bác ái. Bác ái ở đây là ông chủ đã thương những người thợ, trả cho những người chỉ làm ít giờ cũng được lãnh một đồng như người làm cả ngày. Phải chăng ông đã thấy hoàn cảnh gia đình nghèo khổ của họ? Ông đã thấy họ cũng phải khổ sở suốt ngày đi tìm việc làm. Ông đã hỏi: “Sao các anh đứng đây suốt ngày vô công rỗi nghề thế? Họ đáp: Vì không có ai thuê chúng cháu cả”. Câu đáp thật tội nghiệp! Cả ngày trông chờ có người mướn, cả ngày lo lắng làm sao có tiền nuôi gia đình đây!
Lòng bác ái của ông chủ dẫn ông xa hơn nữa: Giờ nào ông cũng chăm lo đi tìm tất cả những kẻ thất nghiệp, giúp họ có công ăn việc làm. Ông biết rằng: “Nhờ việc làm, con người giúp nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ lẫn nhau, có thể thực thi bác ái và góp phần vào công cuộc sáng tạo kiệt tác của Thiên Chúa. Hơn nữa, nhờ việc làm con người cộng tác vào chính công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm với chính hai bàn tay của mình tại Nagiaret” (Gaudium et Spes 67).
Thời thượng cổ có tiếng là chuyên chế bóc lột, thế mà ông chủ này lại có quan niệm công bình bác ái thật lạ lùng! Dù thời nay có tiếng là văn minh dân chủ tiên tiến, thế mà chưa thấy một chế độ nào thực hiện được như vậy! Chế độ nào cũng đầy dẫy những bất công, bóc lột, bất nhân. Những tệ nạn chiến tranh, khủng bố, đảo chánh, biểu tình là những hiện tượng hậu quả của các xã hội bất công.
Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái vượt thời gian và không gian. Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau. “Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao?”. Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng vạch cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông: “Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư!”
Năm 1987, nhiều nước tư bản phản đối các công ty tư nhân của Nhật hợp tác phát triển kinh tế Việt Nam. Đó là thói ghen tị bất công, bất nhân. Mình không được ăn thì đạp đổ và muốn dìm cả dân tộc nghèo đói vì chiến tranh bất nhân.
Ông chủ không trả tiền thêm cho bọn thợ làm cả ngày! không phải vì ông keo kiệt, bóc lột. Nếu ông keo kiệt bóc lột, ông chẳng hậu đãi các thợ làm ít giờ. Nhưng ông phải giữ đúng công bằng vì không cho phép lòng tham của họ vơ vét thêm, làm dịp cho họ ăn chơi hoang phí.
Lạy Chúa, “trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Chúa cao hơn đường lối của con người bấy nhiêu” (Is. 55,9). Lạy Đức Kitô là ông chủ muôn đời, xin bày tỏ đường lối cao cả của Người nơi con như Người đã thực hiện nơi thánh Phaolô, để sinh hoa kết quả cho anh em con và cũng là mối lợi bội phần cho con lúc chết. Amen. (Pl. 1, 20-24).

7. Chân dung gia chủ tốt lành…
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Giữa một xã hội đề cao lợi nhuận và chú trọng đến năng suất, người ta chỉ ưa của chuộng công, muốn lợi cho bản thân mà chẳng cần quan tâm đến người khác! Chúng ta, những Kitô hữu luôn được mời gọi đi theo đường lối của Thiên Chúa, suy nghĩ và hành động theo Tin Mừng. Vì Nước Trời chỉ dành cho những công dân biết hành xử đầy tình nghĩa và tốt bụng như Gia Chủ trong “Dụ ngôn thợ làm vườn nho” mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta.
Chắc chắn Chúa không muốn ủng hộ thực tế bất công của xã hội đã không trả cho những người thợ theo công việc họ làm, và Người cũng chẳng muốn xác định một mức lương độc đoán hoàn toàn theo cách của chủ nhân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng gia chủ trong dụ ngôn không phải là một ông chủ bình thường theo thói đời. Bởi vì người ta không bao giờ thuê những người thợ chỉ làm 1 giờ trước khi kết thúc công việc của họ. Ở đây, mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết “Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.”(20,1) Vâng, đây là dụ ngôn về Nước Trời, thế nên “Vườn nho” này đã cho chúng ta nhớ lại “Bài ca vườn nho” biểu tượng mà Cựu ước và cả những thính giả của Chúa Giêsu đều hiểu rõ “Vườn nho” của Thiên Chúa, đó là Israel-dân được chọn, được ký kết Giao ước (x. Is 5,1.7)
Chính vì Thiên Chúa đã muốn dẫn dắt dân vào trong lãnh địa của Ngài, muốn họ được hạnh phúc và chung hưởng niềm vui của Ngài. Vì thế, mà gia chủ vẫn lại trở ra tìm mướn thợ dù đã 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ hay 5g chiều “Gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ…Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín ông lại trở ra… Khoảng giờ mười một, ông trở ra và…” (20,1-6) Chúng ta biết rằng việc thuê những người thợ này không phải là cho lợi ích của chính gia chủ, nhưng đây là một ông chủ đã hết sức bận tâm về tình trạng của những người thợ thất nghiệp “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?” Thiên Chúa- Gia chủ vườn nho là Đấng trung thành, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong tình trạng sầu khổ, nghèo nàn. Thiên Chúa yêu thương và quan tâm chúng ta với một tình yêu vô tận, ngay cả chúng ta yếu hèn tội lỗi cũng không ngăn cản Ngài yêu chúng ta và tìm kiếm chúng ta. Dẫu cho bao lần chúng ta cảm thấy như Ngài quên chúng ta khi ta đau khổ và bơ vơ, nhưng Chúa ở đó, vẫn đến và tìm gặp chúng ta, dẫn chúng ta vào trong vườn nho của Ngài dù cho có muộn màng.
Thực tế cuộc sống sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông chủ đi tìm thuê thợ như vậy, và hơn nữa lại tốt lành tính công 1 giờ bằng một ngày “Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.” (20,9) Oái oăm thay những người vào làm sau cùng cũng lãnh một đồng như người vào làm trước nhất! Gia chủ này thật lạ, tấm lòng ông đầy nhân hậu, ông ưu tiên những người nghèo khổ, ông đặt những người cuối lên hàng đầu… Và điều đó chỉ có nơi Thiên Chúa Nhân Lành. Còn con người thì ngược lại, tư tưởng và hành động chất chứa đầy ganh tị. Nhìn ai hơn mình là khó chịu, là hằn học. Thậm chí chẳng liên quan đến mình hoặc mình không thua thiệt mà vẫn ghen tương “Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ…” (20, 9-11) Đối với Thiên Chúa, không có chuyện đặc quyền, đặc lợi. Đã được mời gọi, thỏa thuận và đồng ý thì sao lại phải so bì tính toán khi mình đã được lãnh nhận đủ phần của mình?
Trong Lịch Sử Cứu Độ, dân Israel là dân đã được mời gọi và hưởng ân huệ của Vườn Nho Thiên Chúa sớm nhất, còn những dân tộc ngoại bang là những người cuối cùng được mời đến, cũng được đối xử bình đẳng với Dân của Chúa. Chính vì vậy, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần làm nổi bật lên hình ảnh của những người nghèo, những người bị gạt ra lên xã hội và tôn giáo, những người “đứng chót”. Thiên Chúa- Chủ Vườn Nho đã đối xử với chúng ta như người Cha đầy tình nghĩa yêu thương, quảng đại vô cùng với tất cả mọi người “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho những người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (20,13-15) Đây là bài học trọng tâm của dụ ngôn này. Và đây cũng là bức chân dung tuyệt vời mà Chúa Giêsu mô tả cho chúng ta về Chúa Cha:
– Một Thiên Chúa, Đấng yêu thương cả những kẻ đứng đầu và đứng chót, muốn dẫn đưa tất cả vào trong hạnh phúc của Ngài… Một Thiên Chúa, Đấng tuôn đổ ân huệ của Ngài trên tất cả và không ngừng mời gọi họ… Một Thiên Chúa, Đấng khoan dung và nhân hậu, không bao giờ bị chi phối vì lỗi lầm của chúng ta, nhưng Ngài trao ban một cách rộng rãi, không tính toán… Một Thiên Chúa, Đấng loại bỏ bất cứ ai đòi quyền lợi bằng cách ngăn cản người khác hưởng lợi ích…
Dụ ngôn này giúp chúng ta khám phá ra một điều cốt yếu: Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hoàn toàn nhưng không và chẳng cân xứng với công trạng nghèo nàn của nhân loại chúng ta. Chúng ta sẽ làm được gì hay hy vọng vào điều gì nếu ta chỉ cậy dựa vào tài sức của mình? Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi vào trong Vườn Nho Giáo Hội, chúng ta đã đón nhận hết ơn này đến ơn khác và chờ đợi tất cả nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và muốn chúng ta được hưởng hạnh phúc với Người. Vậy Chúa cũng mời gọi và muốn chúng ta mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu, mang lấy cung cách hành xử theo văn hóa của Nước Trời là sống tình nghĩa yêu thương bao bọc nhau, quảng đại đón nhận mọi người như anh chị em con cùng một Cha. Có như thế, chúng ta dù là kẻ đứng chót sẽ được trở nên hàng đầu và được trở thành công dân của Nước Trời- Nước Tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta biết cộng tác trong sứ mệnh mở rộng Nước Chúa ngay tại quê hương Việt Nam thân yêu này mới chỉ có hơn 7% người Công Giáo, bằng cách chúng ta giới thiệu, mời gọi, dẫn dắt anh chị em đến với Chúa là Gia Chủ để rồi họ cũng được nhận vào Vườn Nho của Chúa và được hưởng ân phúc cứu độ mà Chúa luôn dành sẵn cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến tìm và sai chúng con vào vườn nho của Chúa. Xin ban cho chúng con ánh nhìn yêu thương và tấm lòng nhân hậu, để chúng con biết “ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Chúa” và thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

8. Do con người hay do Thiên Chúa
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Như chúng ta đã biết Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Ngài thực hiện những hành động mà tâm trí loài người chúng ta cho là nghịch lý. Thực vậy, nghịch lý của một Thiên Chúa vô cùng mà lại làm người hèn mọn. Nghịch lý của cội nguồn sự sống mà lại chấp nhận cái chết tức tưởi. Nghịch lý của Đấng thánh tuyệt vời mà lại gánh lấy tội lỗi của nhân loại và còn nhiều điều nghịch lý khác nữa được tìm thấy trong Phúc Âm. Chẳng hạn cả Nước Trời vui mừng vì một kẻ tội lỗi trở lại hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Hoặc những kẻ tội lỗi cùng với phường đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước cả những luật sĩ và biệt phái, vốn được coi là hàng đạo đức trong dân Do Thái. Hoặc ai vả ngươi má này thì hãy đưa cả má kia. Ai lấy áo trong hãy cho cả áo ngoài. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ. Chính vì thế thánh Phaolô đã thốt lên: Thiên Chúa đã dùng sự điên rồ của loài người để mạc khải sự khôn ngoan của Ngài.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cũng thấy: Không phải chỉ có những người thợ vào giờ đầu ban sáng mới có những thắc mắc với ông chủ, mà hầu như ai trong chúng ta rơi vào trường hợp ấy, cũng đều có chung một phản ứng tương tự. Làm sao có thể chấp nhận được lối cư xử nghịch lý như thế? Vậy mà tình thương của Thiên Chúa đã mang lại lời giải đáp khiến chúng ta đi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục, vì ai mà chẳng trông mong được hưởng nhờ tình thương ấy. Chính tình thương ấy đã vượt lên trên sự công bằng phải lẽ và đã xoá tan đi hố ngăn cách giữa người lành và kẻ dữ. Thiên Chúa không muốn xoá sổ một ai cả, Ngài sẵn lòng kêu gọi sự hợp tác của con người, từ kẻ làm giờ thứ nhất đến người làm giờ sau cùng, hoàn toàn không phải do công lao của con người, nhưng là khởi nguồn từ sáng kiến đầy lòng thương xót của Ngài.
Không ít người trong chúng ta cũng tự hào vì đã đóng góp nhiều tiền của vào việc xây cất thánh đường, thức khuya dậy sớm tham dự những việc đạo đức, nhưng lại không muốn thấy ai hơn mình và lấy làm vui khi người khác thấp kém hơn ta. Chính vì mối ganh tỵ hẹp hòi đó mà con người sẵn sàng dốc toàn lực để mưu tìm cho bản thân chỗ đứng vững chắc trong xã hội, những mánh mung làm ăn đem lại nhiều lợi nhuận, cho dù phải giẫm lên người khác để mà tiến tới. Và cho đó là khôn ngoan, là hợp lý. Chúng ta có ngờ đâu chính cái khôn ngoan và hợp láy ấy lại đi ngược lại với đường lối đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật đáng tiếc khi chúng ta đã làm méo mó bộ mặt của Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tự vấn xem chúng ta suy nghĩ như thế nào về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình.

9. Sự công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.

10. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ đề: Lòng tốt của Thiên Chúa
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã hiểu rất rõ lại không như ta tưởng; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống suy nghĩ của chúng ta; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và cư xử như Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta ít lo tìm hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.
Cách chúng ta đối xử với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.
Nhiều khi thấy một người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,6-9):
Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội.
Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi”: Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
2. Ðáp ca (Tv 144):
Tv này ca tụng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài: nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người.
3. Tin Mừng (Mt 20,1-16a):
Dụ ngôn này phản ảnh hai cách suy nghĩ:
Cách suy nghĩ của đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng: kẻ làm ít giờ lẽ ra phải được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Ðây cũng là suy nghĩ của loài người chúng ta.
Cách suy nghĩ của ông chủ vườn nho: vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ, nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng đủ một đồng. Ðây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ):
* Trong các Chúa nhựt XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê.
Ðây là bức thư Phaolô viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.
Trong đoạn thư này, Phaolô nghĩ đến hai tình huống:
Một là ông sẽ được tha tự do: khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô, và Ngài sẽ được vẻ vang.
Hai là ông bị xử tử: cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Ðức Kitô.
Vì thế Phaolô kết luận: “Dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi”
IV. Gợi ý giảng
1. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Ðối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất…
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình à đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Ðó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Ðến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi
và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi
Bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con
để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con ý đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Ðức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Ðức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Ðúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.
Nói “trước hết” và “sau hết” là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Ðiểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Ðây là não trạng của đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn.
Sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Ðây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạng ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
– Như thế là không công bình!
– Tại sao? Ông chủ tịch hỏi lại.
– Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng.
– Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã giao cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan và nhân hậu.
2. Trên thế giới ngày nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế / do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.
3. Hiện tại có biết bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời sống chứng nhân của mình.
4. Tính ganh tị làm cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.
CT: Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như Chúa: luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt với mọi người.

11. Chủ vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.

12. Ghen tị một trong Bảy Mối Tội Đầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Ghen là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người được thể hiện qua hành động hay lời nói. Chúng ta thường có thói ghen tị và ghen tương. Hai tính cách này chúng ta tưởng là giống nhau nhưng khác nhau. Ghen tị (hay đố kỵ), tức là không bằng lòng về kết quả, thành tích, hoạt động hoặc sự hạnh phúc, thành công của người khác thể hiện qua thái độ không vui, khó chịu, tức tối, bực bội, hậm hực, bất mãn… Tại sao chúng ta hay ghen tị bởi vì mình nghĩa rằng những cái này tại sao họ có mà mình không có? Ví dụ, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay: Những người làm trước hết mà lãnh bằng những người sau hết, sao được? Những người trước hết ghen tị vì đáng lẽ ra họ được nhiều hơn chứ. Còn ghen tương là không bằng lòng, không chấp nhận trước những thành công, hạnh phúc đáng lẽ mình có nhưng mình không có, mà người khác lại có. Ví dụ, tôi cũng học cùng lớp với anh ta mà anh ta làm lớn hơn tôi, hay là hai người buôn bán như nhau, tại sao chị kia mua may bán đắc hơn tôi.
Ghen tị là một mầm giống tội nằm trong bản tính con người cho nên nó là một trong bảy mối tội đầu của con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Eva ghen tị với Chúa muốn ngang hàng với Chúa nên nghe lời con rắn ăn trái cấm. Cain vì ghen tị với em mình nên giết Aben, bởi vì em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của tổ phụ Giacóp ghen tị với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen tị với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đòi đâm Đavít. Đavít ghen tị với Uria vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông. Quả thực có những hành vi ghen tị làm mất tính người: “Không ăn được thì đạp đổ”. Lòng ghen tị sẽ đánh mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có cho nên ông bà có câu: “Trâu buộc ghét trâu ăn”. Người ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Người ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Cho nên, ghen tị có thể biến người hiền thành kẻ ác nhân, biến người thật thà thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng… nhưng trong lòng lại “một bồ dao găm”, chỉ toan tính hại người.
Qua Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng đừng có ghen tị mà sinh ra tham lam ích kỷ. Hãy tập “có sao hưởng vậy” và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách để chiến thắng lòng tham lam, sự bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ của chúng ta. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tỵ. Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng, ai ai xứng đáng được thưởng một quan tiền bởi vì người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn cả ngày. Ai cũng có nỗi khổ riêng, không ai giống ai. Điều quan trọng Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho anh chị em và cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng riêng, mỗi nén bạc riêng. Mỗi người một hoàn cảnh, một cuộc sống khác nhau nhưng hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Đừng than thân trách phận, trách Chúa bởi vì một người có một nhân phẩm và có giá trị trước mặt Chúa, và “Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14).
Thực tế trong cuộc sống, người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh. Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè hay người thân trong gia đình. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau. Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần sáng suốt nhận thức rằng: Thứ nhất, sự may lành hay sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta vì nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng chúng ta thì làm gì có máy bay, có TV, có Iphone, Ipad và máy tính! Nếu ai cũng nghèo hết thì có ai mà làm việc bác ái, giúp đỡ sẻ chia cho tha nhân được nhờ. Nếu ai cũng thông minh hết thì thế giới này sẽ ra sao? Rồi ngay cả trong gia đình cũng vậy, “Chồng giận thì vợ bớt lời – Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê” hay là “Thế gian được vợ hỏng chồng. Mấy khi lại được cả ông lẫn bà”. Còn con cái trong nhà thì “con hơn cha thì nhà có phúc; hậu sinh khả uý là điều hiển nhiên”.
Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” ( 1Cr 12, 12-13). “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10, 17). Vâng, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi… Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì? Tương tự, người kia thánh thiện, thì cộng đoàn hay gia đình chúng ta phải mừng, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cộng đoàn hay gia đình được tiến tốt, danh Chúa được rạng rỡ chứ, hà cớ gì ghen tị. Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người; thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em trong cộng đoàn hay gia đình chúng ta thánh hơn, thiện hơn, thì chúng ta hãy thành thật chúc mừng họ vì nhờ thế cộng đoàn hay gia đình nhân loại chúng ta hạnh phúc hơn và danh Chúa được sáng hơn.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta biết sống theo Lời Chúa dạy: Đừng ghen tị để ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Đó là “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,14-18).

13. Ganh tỵ, căn bệnh mãn tính của con người.
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem, thật là hay. Trong trình thuật đấy, tác giả Sáng Thế Ký cho chúng thấy một mối tình thật tuyệt vời, thật đẹp, thật nên thơ giữa Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ. Trình thuật ấy kể lại rằng: “Chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng!”. Thế đấy! Cứ mỗi buổi chiều, thì mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và hai ông bà cứ tái diễn. Thiên Chúa cho hai ông bà được thừa hưởng tất cả những cây trái trong vườn nhưng chỉ trừ một cây biết lành biết dữ.
Một ngày kia, khi Thiên Chúa chưa đến, vì tò mò, người đàn bà nguyên tổ của chúng sinh, đã mon men đến cái cây biết lành biết dữ đấy để tìm hiểu. Cay đắng thay khi bước đến, bỗng dưng con rắn trên cái cây biết lành biết dữ đã ngon ngọt dụ dỗ bà rằng: “Nếu bà ăn vào thì bà sẽ ngang bằng Thiên Chúa!”. Chắc có lẽ, bà cảm thấy được hưởng trái cây trong vườn địa đàng là chưa thoả mãn, chưa bình an và phải tìm mọi cách sao cho ngang bằng Thiên Chúa. Không chỉ ăn một mình, bà còn rủ rê thêm ông chồng của mình ăn nữa. Ăn xong rồi thì quả thật quá cay đắng cho cuộc đời. Kết quả, không phải như lòng mong ước là bằng Thiên Chúa nhưng bi đát thay là bất tuân lệnh Chúa truyền. Kể từ ngày đó, hai ông bà đã vi phạm “hợp đồng” tình cảm, tương quan giữa Thiên Chúa và hai ông bà nên hai ông bà đã phải bị phạt!
Tội căn bản của sự vi phạm hợp đồng ấy chính là do tính kiêu căng, lòng ganh tỵ, ghen ghét muốn làm sao mình phải bằng Thiên Chúa mới chịu. Nếu như không bằng Thiên Chúa thì tìm đủ mọi cách cho bằng Thiên Chúa, nhưng làm sao mà bằng Thiên Chúa được khi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá còn mình chỉ là thụ tạo nhỏ nhoi trong lòng bàn tay của Ngài.
Lòng ganh tỵ ấy như là chứng bệnh di truyền, ăn vào máu của con người mỗi khi con người cất tiếng khóc chào đời. Bằng chứng là: cái tội bất tuân, cái tội ganh tỵ, cái tội kiêu ngạo ấy tưởng là bài học kinh nghiệm xương máu cho thế hệ mai sau, nhưng cứ đặt chân bước vào trần gian thì con người lại nhiễm trong mình dòng máu của ông bà nguyên tổ.
Lòng ganh tỵ nổi lên khi một người ý thức được rằng mình không có được những điều mà người khác có. Tại sao chúng ta ganh ghét một người nào đó? Nó không dính dáng gì đến người đó cả. Tại sao người đó phải chịu khiển trách vì cuộc sống chúng ta không được như ta mong muốn, hay sự không vừa lòng hay sự không biết ơn của chúng ta? Đâu có phải là lỗi của họ đâu, tuy nhiên họ phải gánh chịu những bức xúc, áp lực vì sự không vừa ý, hay bực bội của chúng ta gây ra bởi lòng ích kỷ về lợi ích cá nhân hay lòng tham lam của mình.
Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta không bằng lòng cái tính chất đặc biệt mà mỗi chúng ta có được, vì không có một ai giống một ai về hành động hay suy nghĩ cả. Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta từ chối, không chấp nhận sự thật rằng mỗi một cá nhân, có hoàn cảnh khác nhau, phản ảnh đúng với những ơn lành mà Chúa ban cho chúng ta. Vì thế hoàn cảnh của chúng ta sẽ có cái gì đó không bằng người khác. Lẽ ra, chúng ta nên vui vẻ đón nhận nhưng chúng ta lại ganh tỵ.
Mỗi lần lòng ganh tỵ nổi lên, chúng ta nên tự nhìn vào chính mình và nhắc nhở chúng ta về những gì mà mỗi một chúng ta có được, và bằng lòng với những thứ đó thay vì ganh tỵ với người khác về những điều mà mình không có.
Tâm trạng ganh tỵ ấy ngày hôm nay bộc lỗ rõ nét nhất ở trang Tin Mừng, mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta đậm nét về lòng ganh tỵ mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta. Nói quá một chút là sự vô duyên và vô lý! Đã thoả thuận với nhau mức lương từ ban đầu khi vào nhận việc. Đến trưa, đến chiều thấy có người vào làm việc thì đó là chuyện giữa ông chủ và người làm thuê chứ mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm?
Tưởng chừng như dụ ngôn này quá quen thuộc, quá cũ với chúng ta nhưng thật sự ra nó vẫn cứ mới và cứ mãi mới trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hiểu sao trong chúng ta đa phần mang trong mình cái tâm trạng của người làm công vào giờ thứ ba vậy! Thử nhìn lại thấy nó lộ lên làm sao ấy cái tính xấu, cái tính ganh tỵ ấy trong lòng chúng ta.
Nhìn vào người xung quanh chúng ta, thấy họ hơn chúng ta một chút về tri thức là chúng ta điên tiết lên, chúng ta tìm đủ mọi cách để nói này nói nọ để hạ danh dự của họ nhưng rồi có hạ được đâu? Tại sao không cố gắng học hành, nghiên cứu, nghiền ngẫm để có kiến thức bằng họ mà chúng ta cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong sự ganh tỵ, hơn thua!
Đời sống vật chất cũng thế. Ngày nay hơn lúc nào hết, con người ta cứ mãi bận tâm vào chuyện vật chất. Người ta thành công trong cuộc đời, người ta làm lụng vất vả thì người ta được hưởng là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà khi chúng ta nhìn vào những người ấy chúng ta lại lườm, lại nguýt họ vì họ sang trọng hơn chúng ta.
Bi hài nhất mà chúng ta không bao giờ nói ra cho người khác biết đó là chúng ta không bao giờ muốn ai bằng chúng ta cả. Chúng ta là nhất! Còn thiên hạ chẳng là gì cả. Thật lòng mà hỏi tận đáy lòng, tận đáy lương tâm của ta thử xem một người nào đó trong gia đình, họ hàng, dòng tộc hay cộng đoàn tu của chúng ta đang sống xem. Mấy ai chung vui thật lòng với người thành công trong gia đình hay trong cộng đoàn tu? Có chăng là những lời đầu môi chót lưỡi chúc mừng cho sự thành công của thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn nhưng bên dưới lời chúc mừng ấy là cả một sự ganh tỵ, hơn thua với người ấy. Sự ganh tỵ, hơn thua này khó mà kiểm chứng được.
Thử hỏi trong một vụ kiện nào đó, nếu nó thất bại thì mọi người quay lưng lại trách nhau rằng do người này người kia đã gây cho sự thất bại đó. Còn nếu như thành công thì lại mỗi người, chẳng ai bảo ai cứ cố tranh cho được một phần danh dự là do công lao của tôi.
Chúng ta quên rằng, tất cả những danh dự, những thành công đấy trong cuộc sống rồi cũng sẽ qua đi. Tại sao chúng ta lại cứ mãi đi tìm hư danh để mà cắn xé, để mà ghen ghét, để mà giận hờn, để mà ganh tỵ anh chị em đồng loại. Tại sao chúng ta không cố tìm một chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa mà chúng ta cứ mãi miết đi tìm chỗ đứng phù vân trong lòng người đời.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê vừa nói với chúng ta: “Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ lưu lại và ở bên mà giúp anh em hết thảy tiến tới và được sự vui mừng của lòng tin, ngõ hầu anh em được tràn đầy vinh quang trong Đức Kitô Yêsu, vì cớ tôi, nhân dịp tôi được tái ngộ với. Chỉ có điều này là anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô, ngõ hầu – hoặc tôi đến và được thấy, hoặc tôi vắng mặt mà được nghe biết – anh em cứ đứng vững trong một Thần khí, cùng nhau chiến đấu, với một tâm hồn, vì đức tin do Tin Mừng đem đến” (Pl 1, 25-27). Ngài dặn chúng ta là hãy cư xử sao cho xứng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chứ không phải chúng ta cư xử theo cảm nghĩ, tình cảm xác phàm của chúng ta. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất đã khẳng định cho chúng ta điều ấy: “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi!”.
Thế đấy! Chúng ta vẫn cứ cư xử với nhau theo cái thói của người đời, những người không biết Chúa.
Đoạn cuối trang Tin Mừng mà chúng ta nghe: “Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải của tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?” Đau đớn lắm nếu như Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy. Chúng ta vẫn thường lườm nguýt sự tốt lành, sự nhân hậu của người khác để rồi chúng ta chúng ta đi nói hành nói xấu và lên án họ. Con mắt thể xác chúng ta vẫn nhìn thẳng nhưng con mắt lòng của chúng ta luôn luôn bị cái chứng bệnh là lườm nguýt khi người khác hơn chúng ta. Chúng ta phải xin Chúa để Chúa chữa con mắt lòng chúng ta bớt đi cái thói xấu là lườm nguýt, là ganh tỵ với anh chị em đồng loại.
Hôm nay, nhân dịp Chúa nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ sống của những người ganh tỵ, chúng ta bỏ chút thời gian để lòng nhủ lòng, dạ hỏi dạ trước mặt Chúa thái độ sống của chúng ta. Chúng ta có vui với người vui, có khóc với người khóc hay không? Hay là chúng ta bực bội, ganh tức với người vui còn với người hoạn nạn, đau đớn khóc than ta lại mỉm cười?
Chuyện căn cốt như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đó là thái độ sống hợp với Tin mừng, hợp với những gì Chúa dạy và chúng ta nên nhớ rằng tư tưởng của chúng ta khác Chúa nhiều lắm. Chúa thì yêu thương, bao dung, rộng rãi còn chúng ta thì ghen ghét và ganh tỵ.
Nguyện xin Chúa Giêsu là ông chủ tốt bụng trong câu chuyện mà Chúa Giêsu kể hôm nay, luôn yêu thương và thông chuyển lòng tốt bụng của Chúa đến với mỗi người chúng ta, để lòng chúng ta bớt đi một chút ganh tỵ, bớt đi một chút hơn thua và tăng thêm một chút lòng mến, tăng thêm một chút tình yêu, tăng thêm một chút lòng bao dung với anh chị em đồng loại. Amen.

14. Thiên Chúa- Đấng khác con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Con người hay càm ràm than trách Thiên Chúa về những gì con người nghĩ Thiên Chúa làm cho mình, nhưng thật sự Thiên Chúa là Đấng rất khác con người. Ngài tuyệt vời hơn những gì con người có thể suy tưởng về Ngài.
1. Suy nghĩ của con người
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho vào giờ thứ nhất những tưởng họ sẽ được lãnh tiền lương nhiều hơn người làm công giờ thứ mười một, bởi vì họ đã phải nắng nôi vất vả và tốn nhiều công sức. Ngày nay nhiều người đồng ý với họ, và cho rằng Thiên Chúa không công bằng, vì Ngài đã đối xử với những người lao cực nhiều bằng người chỉ tốn ít công sức.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ông chủ đã sòng phẳng theo lời thuận thảo; ông không lỗi đức công bằng khi trả một đồng lương cho người vào làm giờ thứ nhất. Ông chủ khi trả cho người làm công giờ thứ mười một bằng người làm công giờ thứ nhất, vì ông chủ là người tốt và nhân hậu, ông thông cảm với tình trạng của một người phải làm việc để nuôi sống chính mình và người thân, nên ông muốn giúp đỡ họ. Ông chủ đã cho người làm công giờ thứ mười một nhiều hơn điều họ đáng. Điều này diễn tả tình thương của ông chủ đối với người làm công giờ cuối cùng.
Tại sao người làm công giờ thứ nhất lại càm ràm than trách ông chủ? Phải chăng họ lấy chính họ làm tiêu chuẩn, họ muốn hơn người khác, và không muốn người khác được hơn họ. Họ cho rằng người khác được đối xử bằng họ, là họ được đối xử công bằng; và khi người khác được hơn họ, là họ bị đối xử bất công. Thực ra, công bằng đòi phải trả cho người khác điều họ được quyền hưởng; và tình yêu làm người ta được hơn điều người ta được quyền hưởng. Con người vẫn thường hay suy nghĩ và hành xử như người làm công giờ thứ nhất. Chúng ta vẫn thường ích kỷ và không muốn người khác được hơn mình.
2. Đường lối của Thiên Chúa
Một số người muốn Thiên Chúa phạt kẻ gian ác, bắt kẻ gian ác phải đền tội chúng đã gây ra cho người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đối với tội nhân, Ngài mong chờ họ trở lại như người cha nhân từ chờ đợi người con hoang trở về. Thiên Chúa hành xử như thể bất lực đối với tội nhân, như thể Ngài cam chịu để người ta hành hạ và giết Con của Ngài trên thập giá. Thiên Chúa như thể đã hành xử rất vô lý khi thương kẻ tội nhân hơn cả Con Một Ngài.
Cách hành xử của Thiên Chúa đối với kẻ gian ác, cho thấy Thiên Chúa không hành xử như con người thường nghĩ và đòi hỏi. Không phải là Thiên Chúa không công bằng đối với những người bị kẻ gian ác hãm hại, nhưng Ngài trổi vượt trên những suy nghĩ bình thường của con người. Ngài là Đấng công bằng để thưởng mỗi người, để không ai bị “lỗ”, nhưng lại là Đấng nhân từ đối với kẻ gian ác. Ngài muốn kẻ ác nhân bỏ đường lối của họ, Ngài muốn kể dữ bỏ những tư tưởng bất chính, Ngài muốn con người trở lại với Ngài. Cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, giúp con người biết hơn về Thiên Chúa. Ngài là Đấng tuyệt vời khi tha thứ và tái tạo con người sa đọa.
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng vượt trên tư tưởng của con người bấy nhiêu. Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, và Ngài tuyệt vời hơn cả điều mà con người có thể suy nghĩ được.
3. Thiên Chúa ở gần những ai kêu cầu Người
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở trên trời, Ngài ở xa con người đến nỗi không nghe được tiếng cầu khẩn của con người. Thật sự, Thiên Chúa luôn ở gần những ai kêu cầu Người. Ngài luôn yêu thương và cứu giúp con người.
Với những người siêng đi dự lễ và đến cầu nguyện nơi nhà thờ, Ngài hiện diện đặc biệt trong nhà nguyện, nơi giờ kinh và trong Thánh Lễ. Với những người bận công việc và không có thời gian và cơ hội tới nhà thờ, Ngài hiện diện với họ trong từng giây phút sống của đời họ. Với tất cả mọi người, Ngài hiện diện ở khắp nơi, trong cung lòng mỗi người. Ngài ở gần con người hơn cả người thân yêu nhất của mỗi người. Ngài luôn lắng nghe và tiếp cứu mỗi người trong những lúc khốn cùng nhất của họ; Ngài ban Thánh Thần an ủi và hướng dẫn để mỗi người đi trong đường lối của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài trổi vượt trên những gì phàm tục, và chỉ mình Ngài là Đấng Thánh. Ngài mời gọi con người trở nên con cái của Ngài, suy nghĩ và hành xử như Ngài. Ngài là nguồn sự sống và sung mãn. Nơi Ngài con người tìm được bình an và hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hay kêu trách Thiên Chúa về điều gì nhất? Tại sao?
2. Theo bạn, Thiên Chúa là Đấng công bằng hay Đấng thương xót? Tại sao?
3. Suy nghĩ và hành xử giống Thiên Chúa, con người được gì và mất gì?

15. Người chủ vườn nho nhân hậu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Phải chăng ông chủ vườn nho không công bằng?
Người làm công giờ thứ nhất cũng như nhiều người ngày nay thường cho rằng ông chủ vườn nho không công bằng, vì đã trả cho người làm giờ thứ mười một bằng người làm giờ thứ nhất.
Một điểm cần lưu ý, người chủ vườn nho đã thỏa thuận với người được thuê làm, họ chỉ làm công với giá một quan tiền một ngày; do đó ông chủ công bằng khi trả cho họ một quan tiền.
Ông chủ không thoả thuận gì với người làm giờ thứ 11, vì họ đâu có làm được bao nhiêu! Ông chủ vườn nho trả công cho họ một quan tiền một ngày chỉ với một giờ lao động, vì ông chủ vườn nho nhân từ, tốt lành, thông cảm với người làm vườn nho giờ thứ 11! Đó là một ơn cho người làm giờ thứ mười một.
Đáng lẽ người làm vườn nho phải thấy điều trên để “có cái nhìn đúng đắn” về ông chủ, nhưng thực tế lại không như vậy. Người chủ vườn nho bị hiểu lầm, bị cho là bất công. Một hành vi tốt của ông chủ, bị người ta giải thích lệch lạc!
Qua hành vi “hiểu sai” về ông chủ, người ta có thể hiểu biết hơn về người làm vườn nho giờ thứ nhất! Đáng lẽ người làm vườn nho giờ thứ nhất phải vui với người làm giờ thứ 11, thì ngược lại họ lại buồn phiền. Sở dĩ vậy vì họ ganh tị. Nếu họ hiểu đúng và nhận ra nét đẹp của ông chủ, thì họ đã vui với người làm giờ thứ 11!
Cái nhìn đúng hay sai về điều gì đó, làm cho một người buồn hay vui. Người có cái nhìn đúng đắn, là người chấp nhận thực tại và nhìn được nét tích cực của sự kiện đó. Người có cái nhìn đúng đắn, sống hạnh phúc hơn người có cái nhìn lệch lạc.
Người làm vườn nho giờ thứ nhất, đã không phải lo lắng như người làm giờ thứ 11: “làm sao có tiền nuôi sống mình và những người thân trong ngày hôm nay?”; đáng lẽ người làm vườn nho giờ thứ nhất phải nhận ra điều này để cám ơn ông chủ đã thuê mình, nhưng họ lại không nhận ra! Họ không nhận ra sự thật, nên họ không hạnh phúc!
Nếu một người yêu nghề, say lao động, thì họ đã hạnh phúc trong công việc của họ. Người làm vườn nho giờ thứ nhất đã không yêu nghề say lao động, nên họ đã cực khổ “suốt ngày”! “Lao động là vinh quang”, chính trong lao động và nhờ công việc mà người ta triển nở hơn! Nếu ai đó không thay đổi chính mình để hạnh phúc trong công việc thường ngày của họ, thì đáng buồn biết bao vì họ không hạnh phúc ở giây phút hiện tại.
Người chủ vườn nho chính là Thiên Chúa
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, cho chúng ta biết Thiên Chúa ngay từ những giây phút đầu tiên của của cuộc đời. Chúng ta đã biết mục đích ý nghĩa đời người, không còn phải vất vả tìm kiếm như bao người hãy còn đang hoang mang đi tìm “con người sinh ra để làm gì, con người sẽ đi về đâu? cuộc đời có nghĩa gì không? tại sao con người lại khổ cực như vậy?”, ấy thế mà chúng ta không biết nhận ra để hạnh phúc, mà ngược lại chúng ta còn hay càm ràm than trách “giữ đạo là khổ, phải đọc kinh lần hạt, phải giữ các giới răn, phải cầu nguyện,…”. Đáng lẽ chúng ta phải tạ ơn Chúa đã cho chúng ta biết Chúa sớm, thì trái lại chúng ta lại hay càm ràm “tại sao những người biết Chúa sau lại được bằng chúng con, những người đã phải vất vả giữ đạo từ thuở nhỏ?!”. Hãy cẩn thận kẻo chúng ta là những kẻ làm vườn nho giờ thứ nhất vô ơn!
Nếu chúng ta nhận ra Thiên Chúa nhân từ, chắc chúng ta đã hạnh phúc hơn trong cuộc sống. Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn về đạo, hẳn chúng ta đã hạnh phúc hơn khi sống đạo, khi chúng ta “sống tốt, yêu Chúa yêu người”. Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa, hẳn chúng ta đã tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương cho chúng ta biết Chúa từ những giây phút đầu tiên của cuộc đời, và chắc chúng ta cũng đã hạnh phúc tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương cho bao người biết Chúa ở giây phút cuối đời của họ!

16. Vượt lên chính mình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại rằng: Khi những người thợ làm việc từ sáng sớm thấy những người khác làm muộn hơn cũng được lãnh tiền công bằng mình thì đâm ra ganh tị, tức tối…
Ganh tị là căn bệnh trầm kha phát sinh từ thời kỳ đồ đá và sẽ tồn tại mãi cho tới ngày tận thế.
Khi loài người có mặt trên địa cầu là bắt đầu có ganh tị. Sau khi hai anh em Ca-in, A-ben dâng lễ vật cho Thiên Chúa, Ca-in nổi cơn ganh tị vì lễ vật của A-ben được Chúa vui nhận còn lễ vật của mình thì không. Lòng ganh tị bùng lên mãnh liệt trong lòng đã xui khiến Ca-in giết chết người em vô tội của mình.
Trong xã hội hôm nay, lòng ganh tị cũng đang nhen nhúm trong tâm hồn khi người ta thấy người khác đẹp hơn, giàu có hơn, sang trọng hơn, thành công hơn, nổi bật hơn mình… Ganh tị sinh ra ganh ghét, ganh ghét sinh ra chia rẽ, hận thù, bất hòa, bất thuận.
Phương thức diệt trừ lòng ganh tị
Ganh tị là căn bệnh trầm kha, rất khó diệt trừ. Tuy nhiên, bệnh nào cũng có thuốc chữa. Vậy chúng ta thử xem có phương thế nào có thể hạn chế hoặc ngăn ngừa chứng bệnh này không.
Nguyên nhân sinh ra ganh tị là vì người ta so sánh phận mình với thân phận người khác và thấy mình thua kém. Vậy thì cách tốt nhất để diệt trừ ganh tị là đừng so sánh phận mình với bất cứ ai.
Mỗi người được sinh ra trên đời là một nhân vật độc đáo, mỗi người một vẻ, không ai giống ai, mỗi người đều có tính cách riêng, một sứ mạng riêng, một trách nhiệm riêng…
Trong lĩnh vực âm nhạc, có nhiều nhạc cụ khác nhau với những tính cách khác nhau: đàn guitar điện (ghi-ta) và guitar bass (ghi-ta bass) na ná giống nhau nhưng tấu lên những âm thanh có cung bậc trầm bổng khác nhau; đàn organ và piano có hình thù gần giống nhau nhưng phát ra tiếng nhạc khác nhau…
Mỗi thứ nhạc cụ đều có cái hay riêng của mình; vì thế, guitar bass đừng “buồn” vì âm thanh của mình trầm đục, không sôi nổi như âm thanh guitar điện. Dù sao, những âm trầm, đục của guitar bass là một hỗ trợ rất cần thiết, làm cho ban nhạc sinh động hơn.
Tương tự như thế, piano cũng không nên “ganh tị” vì âm thanh của mình không đa dạng, nhiều sắc màu như organ, vì piano cũng là một nhạc khí cần thiết cho nhiều ban nhạc khi trình diễn.
Vậy thì đừng đem tiếng đàn guitar điện so với tiếng đàn guitar bass hay so tiếng đàn piano với tiếng đàn organ để phân định hơn thua… So sánh như thế là hoàn toàn khập khiễng.
Giữa con người với nhau cũng vậy. Mỗi người có một số khả năng riêng, cũng như các nhạc cụ có những âm sắc riêng… Đem tiếng đàn guitar điện so với tiếng đàn guitar bass để xác định hơn thua là khập khiễng như thế nào, thì đem khả năng của người này so với khả năng người kia cũng khập khiễng như vậy.
Vậy thì ta đừng so sánh hơn thua với người khác. Tốt nhất là so sánh bản thân ta hôm nay với bản thân ta năm ngoái, xem hơn thua thế nào. Nếu thua thì nên lấy làm tiếc và cố gắng để tiến lên; nếu cái tôi trong hiện tại tốt hơn cái tôi quá khứ thì hãy vui mừng và tiếp tục cố gắng để vượt lên chính mình. Đây là cuộc ganh đua lành mạnh và bổ ích; còn ganh đua với người khác thì chỉ sinh ra ganh tị, ganh ghét mà thôi.
Tóm lại,
Đừng so sánh mình với người khác để phân định hơn thua mà hãy so sánh bản thân mình hôm nay với chính bản thân mình hôm qua.
Đừng mong thắng người khác. Hãy mong tự thắng mình. Nhờ đó, ta mới có thể vượt qua chính mình.
Lạy Chúa Giê-su,
Ganh tị là căn bệnh trầm kha đã có từ thửa ban đầu và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Căn bệnh này như một cơn lốc xoáy cuốn hút muôn người vào vòng ganh đua, ganh ghét, chia rẽ bất hòa.
Xin Chúa ban ơn giúp chúng con không để mình bị cuốn hút vào cơn lốc quái ác này nhưng được thoát ra khỏi vòng oan nghiệt đó, để vượt thắng mình mỗi ngày, để càng ngày càng trở nên hoàn thiện và giống Chúa hơn.

17. Chiến thắng lòng ghen tị
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch.
“Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”.
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!…
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: “con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh”.
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” I Cr 12, 12-13)
“Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (I Cr 10, 17)
“Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi… Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.

18. Tin vào tình yêu
(Suy niệm của Thiên Phúc – Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đó để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sứ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ, thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
***
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tụ hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm mộ tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta đổi mới cái nhìn về Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lạ lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tối tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,15). Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh xòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lỡ lầm, người Pharisiêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, ngươì làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh Thánh: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hang đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20,16a). Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do long quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắc số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
***
Lạy Chúa, Chúa là một người Cha đầy yêu thương, luôn ban ơn cho mọi con cái, cả những đứa con không đáng thương, vì Chúa không muốn một ai phải hư mất.
Xin cho chúng con một tâm hồn quảng đại như Chúa, không hẹp hòi ghen tỵ với những ai được Chúa ban nhiều ơn, nhưng luôn biết “vui với kẻ vui”, để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

19. Thợ làm vườn nho
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Dụ ngôn gây thắc mắc. Tại sao những công nhân làm sau cùng lại được hưởng lương bằng những người làm từ sáng sớm? Như thế có công bằng không?
Nếu chúng ta là những công nhân làm từ sáng sớm, chúng ta có vui lòng không? Chắc chúng ta cũng không vui cho lắm, vì chúng ta cực nhọc nhiều mà lãnh lương ít. Họ cằn nhằn là phải, vì họ đã cực khổ nhiều mà chỉ lãnh lương đúng giá. Họ cho rằng ông chủ không công bằng. Nhưng nếu chúng ta là những công nhân làm việc chỉ một tiếng đồng hồ mà được lãnh lương bằng một ngày thì chúng ta nghĩ sao? Chúng ta có vui không? Chúng ta có thấy rằng ông chủ đối xử quá tốt với chúng ta không?
Con người nghĩ theo sự công bằng tự nhiên, Thiên Chúa không theo đường lối của ai cả. Ngài là chủ, Ngài muốn thương ai tùy ý Ngài. Như Ngài đã nói qua tiên tri Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta”. Chúng ta đòi hỏi công bằng, điều đó không sai, nhưng có một thứ trật tự vượt hẳn sự công bằng đó là tình yêu. Nếu Chúa lấy sự công thẳng mà đối xử với chúng ta, chúng ta sẽ ra sao? Nhưng may thay cho chúng ta vì Chúa vẫn thương chúng ta, chỉ có chúng ta không đáp lại cân xứng tình yêu của Chúa thôi.
Dụ ngôn này rất thích hợp cho thời bấy giờ và có tính cách tranh luận với phái Pharisêu. Những người Pharisêu cho rằng họ giữ đạo tốt, họ có nhiều công nghiệp, họ phải được ưu đãi. Làm như họ có quyền đòi buộc Chúa phải thưởng công họ xứng đáng. Thực sự Chúa đã nói nhiều lần trong Kinh Thánh là Ngài sẽ thưởng công xứng đáng tùy theo việc của mỗi người, nhưng công việc gì đáng thưởng? Không phải theo tiêu chuẩn của chúng ta, nhưng tùy theo sự đánh giá của Chúa. Dụ ngôn người Pharisêu lên Đền thờ cầu nguyện đã cho thấy tính cách phô trương và tự mãn của người Pharisêu, tưởng rằng mình đã làm được nhiều việc quan trọng cho Chúa. Và Chúa Giêsu đã kết luận: người Pharisêu không được gì cả mà chỉ có người thu thuế là đẹp lòng Chúa.
Dụ ngôn cũng là một lời cảnh báo cho những Kitô hữu Do Thái đầu tiên xem mình như được ưu tiên hơn người mới theo đạo. Thánh Phaolô đã khẳng định, không còn phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô mà thôi.
Dụ ngôn cũng vạch trần bộ mặt nhỏ nhen ganh tị của chúng ta. Chúng ta luôn dành phần ưu tiên. Xã hội hôm nay là như thế, là tranh chấp, là ganh tị hờn oán, là đè đầu cỡi cổ, khai thác người anh em. Một người sống nhân ái hiền hòa trở thành nhân vật quí hiếm. Là người Công giáo, tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, không lẽ chúng ta lại sống theo thói thế gian hay sao?
Thiên Chúa đại lượng còn chúng ta lại bủn xỉn, hẹp hòi, ích kỷ. Thánh Phaolô dạy chúng ta noi theo gương Chúa, quảng đại, vui với người vui, khóc với người khóc. Yêu thương vẫn là giới luật duy nhất của chúng ta. Chúa không loại bỏ người nào. Tất cả đều được yêu thương như nhau. Chúa luôn mời gọi những người gian ác trở về: “Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo. Người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình mà trở về với Đức Chúa và Người sẽ xót thương”.
Bất cứ vào giờ nào tiếng gọi của Chúa vẫn vang vọng, không ngừng khuyến khích chúng ta trở về với Chúa và vào làm vườn nho của Ngài. Vườn nho của Ngài mênh mông luôn cần đến những bàn tay cần mẫn. Vườn nho của Ngài là gia đình của chúng ta, đoàn con phải lo nuôi dưỡng dạy dỗ, là cha mẹ già phải chăm lo hôm sớm, là những người quanh ta đang cần bàn tay nâng đỡ, là những trách nhiệm hằng ngày của chúng ta. Và Chúa sẽ trả công xứng đáng. Và những người thiệt thòi lại được thương xót hơn. Chúa không hẹp hòi. Ngài trả công cho mỗi người xứng với công việc họ làm. Ngài lại quảng đại với những người bị thiệt thòi hơn, những người không ai thèm mướn. Chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta vô dụng. Chỉ cần chúng ta muốn làm việc cho Chúa hay không. Nói tóm lại, công việc Ngài trao cho chúng ta đó là yêu thương. Ai cũng có thể làm công việc đó, người mạnh cũng như người đau yếu, người già cũng như người trẻ, người giàu cũng như người nghèo, ai cũng có thể yêu thương. Mở rộng con tim chúng ta ra cho người khác.
Chúa cho mỗi người chúng ta nhiều khả năng khác nhau, chúng ta cần sử dụng cho thế giới bớt hận thù và mọi người được tôn trọng. Chúa ban cho chúng ta đầy tràn ơn lành, chúng ta cũng phải theo gương Chúa, quảng đại hơn, không so đo tính toán như Chúa không bao giờ tính toán với chúng ta. Chúa không bảo chúng ta làm gì cho Chúa. Ngài không cần một ai, nhưng những người anh em chúng ta cần đến chúng ta, nhiều lúc chỉ cần một nụ cười thông cảm. Yêu mến Chúa thực sự chính là yêu mến anh em thực sự.
Hãy nhìn vào những người đã say mê Chúa, những người mà chúng ta gọi là thánh. Họ làm gì? Họ cũng nhỏ bé như chúng ta, cũng nặng nề trong thân phận con người như chúng ta, nhưng họ đã làm gì? Họ đã say mê Thiên Chúa đến nỗi họ chỉ biết một điều là xả thân cho anh em của Ngài. Họ đã biết yêu Chúa như thế nào: “Khi các ngươi làm cho những người anh em nhỏ bé của Ta đây một điều gì là làm cho chính Ta”.
Nhìn vào các thánh, chúng ta tưởng rằng họ là siêu nhân? Không, họ cũng như chúng ta thôi. Thánh Gioan Boscô xả thân cho những thanh thiếu niên đường phố, thánh Vinh Sơn sống cho trẻ mồ côi, thánh Đamiên Creuser sống chết cho người cùi ở đảo Môlôkai, thánh Gioan Maria Vianney chôn mình hằng ngày trong tòa giải tội, Mẹ Têrêxa Calcutta kiệt sức cho những người cùng khổ nhất trong xã hội… Và gương mẫu cao cả nhất chính là Chúa Giêsu, đã chấp nhận tất cả để cứu chúng ta. Ngài là Tình Yêu vô bờ, không bao giờ vơi cạn. Hãy nhìn Chúa chúng ta trên thập giá để biết phải làm gì.
Vườn nho của Ngài mênh mông, Ngài đang cần những công nhân nghe theo lời Ngài mời gọi vào làm vườn nho cho Ngài. Chúng ta không thể nói rằng: “không ai mướn chúng tôi”. Ngài mở rộng trước mắt chúng ta một vườn nho đang cần những bàn tay chăm sóc. Thế giới chúng ta đang thiếu thốn tình yêu và công bằng và đang trên con đường sụp đổ. Nguy cơ một thế chiến thứ ba đang ngấm ngầm chờ dịp bùng nổ. Máu người vô tội đang chảy từng ngày. Sự dã man tràn ngập như nước vỡ bờ. Làm sao chúng ta có thể nói rằng không ai mướn chúng tôi? Chúng ta không thể đóng góp gì cho anh em chúng ta đang chìm sâu trong tuyệt vọng sao? Chúng ta không biết làm gì sao? Một lời cầu nguyện vẫn là một đóng góp quí báu, một cử chỉ thân tình, một hi sinh nhỏ bé có thể là một hồng ân cho thế giới.
Chúa Giêsu đang có mặt nơi bàn thờ và đang ở giữa chúng ta. Ngài là ông chủ nhân lành của vườn nho, là Đấng đã mời gọi chúng ta vào làm vườn nho cho Ngài. Vì chúng ta dễ quên và dễ chán nản, nhất là khi thấy những cố gắng của chúng ta không hiệu quả, và người đời lại cứng cỏi từ chối mọi thiện chí của chúng ta. Ngài đến để nhắc cho chúng ta nhớ rằng cuộc đời của Ngài kết thúc trong thất bại của thập giá, nhưng Ngài vẫn không thôi tiếp tục cứu vớt thế gian. Tình yêu của Ngài không bao giờ vơi cạn và con người càng từ chối Ngài lại thương xót nhiều hơn. Ngài đến để ban cho chúng ta một hồng ân vô tận đó là Mình thánh Ngài làm của ăn để nhờ đó, chúng ta đủ sức làm việc tiếp theo mặc dù không thể thấy kết quả. Hãy ăn lấy Chúa, Thiên Chúa Tình Yêu để biết yêu thương như Ngài là không mỏi mệt.

20. Thợ làm vườn nho
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giúp chúng ta hiểu Nước Trời là gì. Nước Trời đã được Ngài ví như: kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng, như viên ngọc quí, như men trong bột, như hạt cải… Đó là những dụ ngôn mà chúng ta đã nghe nói đến suốt mấy tuần nay. Hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến một hình ảnh Nước Trời trong dụ ngôn ông chủ mướn nhân công vào làm vườn nho cho ông.
Sáng sớm, mướn người làm vườn nho là một chuyện thường ngày, nhưng mướn nhân công vào lúc bốn giờ chiều là một việc không ai làm, hơn nữa trả tiền cho những nhân công cuối cùng, chỉ làm có một giờ đồng hồ, bằng những người làm từ sáng sớm lại là một chuyện lạ thường hơn. Nhưng Nước Trời là như thế… Nước Trời là hành động lạ thường của một ông chủ quảng đại, là chính ông chủ đầy nhân ái đó, là chính Đấng là Tình Yêu.
Ngài mời gọi mọi người, không trừ ai, vào làm vườn nho của Ngài.
Có những người Ngài gọi từ sáng sớm, và cũng có những người Ngài gọi vào lúc xế chiều. Những nhân công vào xế chiều nói: “Không ai thuê mướn chúng tôi”. Ông chủ cũng không loại trừ họ: “Hãy vào làm vườn nho cho tôi”.
Đối với Thiên Chúa, mọi người đều được mời gọi. Chỉ có những người từ chối mới tự loại mình.
Cuối cùng, đến lúc trả tiền công mới thấy rõ, ai rộng rãi, ai hẹp hòi. Những người làm từ sáng sớm đã thỏa thuận một đồng bạc tiền công. Ông chủ đã bảo ông quản lý trả tiền cho những người đến sau hết bằng tiền công của người đến trước hết. Mọi người đều lãnh một đồng.
Những người đến trước tưởng rằng mình sẽ được nhiều hơn vì họ làm trước, nhưng họ thất vọng, họ chỉ lãnh một đồng. Họ phàn nàn phản đối ông chủ: “Chúng tôi lao lực suốt cả ngày mà ông trả công cho chúng tôi bằng những người đến sau hết!” Ông chủ trả lời: “Tôi có bất công với mấy anh đâu! Mấy anh đã thỏa thuận với tôi là một đồng một ngày, thì tôi đã trả đủ cho mấy anh rồi. Tôi muốn trả cho những người đến sau bằng các anh thì có can gì đến các anh? Hay là các anh ganh tị vì tôi rộng rãi?”
Dụ ngôn cho thấy sự hẹp hòi của họ. Đáng lý ra, họ phải mừng cho những người đến sau, vì họ may mắn gặp được một ông chủ rộng lượng. Họ lại nhăn nhó vì lòng thương của ông chủ đối với những người đến sau.
Nhiều người trong chúng ta cũng hẹp hòi như thế. Không biết “khóc với người khóc, vui với người vui”.Lòng dạ chúng ta không giống Cha trên trời.
Nhiều người tưởng rằng, họ có quyền đòi hỏi, khi họ chỉ là những người làm công. Nhiều người trong chúng ta mang tâm trạng Pha-ri-sêu, tưởng rằng thờ phượng Chúa, giữ luật Chúa từ lâu, họ phải được ưu tiên, được đặc quyền đặc lợi. Gặp khó khăn, thử thách họ lại kêu trách Chúa.
Chúa Giê-su dạy chúng ta xem mình như “những tôi tớ vô dụng” mà thôi. Chúng ta chỉ có quyền đón nhận hồng ân của Chúa với lòng biết ơn, vì Chúa luôn từ ái và rộng lượng hơn những công nghiệp nhỏ bé của chúng ta.
Tất cả là hồng ân. “Có gì mà anh em không lãnh nhận?” Hãy bằng lòng với những gì Chúa ban và hãy tôn vinh Chúa.
Hơn nữa, chúng ta không có quyền phê phán Thiên Chúa. Ngài là chủ tuyệt đối trên mọi sự. Chúng ta được gọi vào vườn nho của Chúa là một hồng phúc, Và Ngài sẽ không bất công đối với chúng ta. Ngài sẽ thưởng công xứng đáng cho bất cứ ai đã “chịu nắng nôi khó nhọc” trong vườn nho của Ngài. Vườn nho của Chúa chính là thế giới phải phát triển, là xã hội phải kiện toàn. Vườn nho chính là gia đình, con cái phải nuôi dưỡng giáo dục, là bổn phận nghề nghiệp phải chu toàn, là những công việc hằng ngày của chúng ta.
Tất cả những khó nhọc, những giọt mồ hôi, những cố gắng của chúng ta đều mang lại lợi ích cho vườn nho Chúa. Bất cứ ai, bất cứ giờ nào, Chúa vẫn gọi công nhân lo vườn nho của Ngài. Chúa mời gọi mọi người cộng tác với Chúa để làm đẹp cuộc đời, góp phần vào việc sáng tạo. Nhưng vườn nho Chúa trao cho con người, họ đã làm gì?
Vườn nho Chúa hôm nay đã trở thành một nơi tranh chấp ghê sợ, những bãi chiến trường đẫm máu, những bãi tha ma khổng lồ…
Những công nhân, thay vì cùng nhau chăm sóc để vườn nho sai trái và mọi người cùng hưởng trong thanh bình và hạnh phúc, họ đã tranh giành nhau, tàn phá… Sau cùng vườn nho Chúa chỉ còn những cây nho trơ cành và mọi người đều khốn khổ.
Thay vì cùng nhau làm việc cho chủ, họ tước quyền của chủ, không cần biết ông chủ là ai, người đã trao cho họ vườn nho. Họ tưởng rằng họ là chủ của trái đất. Vũ trụ họ không tạo nên, họ đòi làm bá chủ. Sự sống họ lãnh nhận từ lòng mẹ, họ tưởng rằng đó là ngẫu nhiên. Không khí họ thở, ánh sáng họ hưởng nhờ họ tưởng là của họ… Thật đáng ngạc nhiên!
Những công nhân vào xế chiều, họ nghĩ gì?
Chúa Giê-su không nói, nhưng chúng ta cũng có thể đoán rằng, họ ngỡ ngàng và vui mừng biết bao khi cầm trong tay đồng bạc tiền công mà họ không thể ngờ! Họ không thể tưởng tượng được rằng ông chủ tốt đến như thế! Và họ trở về với lòng biết ơn tràn trề.
Đây mới là hình ảnh của Nước Trời.
Nước Trời chính là hạnh phúc, tình yêu vượt mức những gì có thể tưởng được. Chúng ta là gì? Tại sao chúng ta được yêu thương như thế? Chúng ta lãnh nhận nhưng không những gì chúng ta không xứng đáng lãnh nhận.
Những người công nhân vào xế chiều làm sao quên được hình ảnh của ông chủ quảng đại đã thương giúp họ, đã kêu gọi họ vào giờ chót và đã cho họ đồng lương vượt trên ước mơ của họ?
Chúng ta có ngỡ ngàng vì những hồng ân Chúa ban mỗi ngày không? Chúng ta có nhớ đến khuôn mặt nhân ái của ông chủ lạ lùng đó không?
Hơn thế nữa, ông chủ đó lại nhận chúng ta làm con của ông. Làm sao để hiểu được tình thương của Ngài? Tình thương không ranh giới, nhất là tình thương của Đấng là Nguồn Yêu Thương.
Hãy mãi mãi tạ ơn vì kho tàng tình thương vẫn rộng mở, và chúng ta dù hèn kém vẫn được mời gọi vào tình thương.
Hãy đến! Thiên Chúa vẫn chờ đón đoàn con dấu yêu của Ngài, nhất là trong giờ phút linh thiêng nầy. Ngài ban cho chúng ta hồng ân trên hết mọi hồng ân: Người Con yêu quí của Ngài, Chúa Giê-su. Ngài sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ để chứng tỏ tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta. Hãy đến ăn lấy tấm bánh tình thương để con tim chúng ta rộng mở như con tim của Ngài và khi ra về, vào vườn nho, chúng ta hãy ra công chăm sóc để “mang nhiều hoa trái cho Nước Cha”.

21. Vui với người vui
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính mình. Nó giống như có một con rắn độc trong tim, nên không bao giờ có thể yên vui để thưởng thức mọi niềm vui và hạnh phúc trên đời”
Đó cũng là nỗi đau của bà dì ghẻ của nàng Bạch Tuyết năm xưa. Bà đã sống trong đau khổ khi cố dùng mọi mưu trí hèn hạ để hại người, nhưng rút cuộc “gậy ông lại đập lưng ông”, chính bà nuốt nỗi khổ đau của sự thất bại suốt đời.
Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Khi ai đó bàn luận về một người nào đó vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Sự ghen ghét còn ẩn chứa trong cả lời cầu nguyện khi không muốn người khác gặp may lành, và điều tệ hại là còn muốn anh em gặp sự dữ như câu chuyện vui sau:
Chuyện kể rằng có người đàn ông rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi. Thế là khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy. Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng… Không chịu được sự “bất công” đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để người hàng xóm bị mù cả hai!
Chính lòng đố kỵ đã tạo nên sự nhỏ nhen, biến thành cảm giác hận thù và suy nghĩ mù quáng cho ông ta: thà kém may mắn hơn một chút để người khác đau khổ hơn mình thay vì chọn điều ngược lại.Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho có phần, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không chúc phúc cho họ mà còn dèm pha và đạp đổ họ.
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn theo kiểu con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng thường tình mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Điều này còn là dấu chỉ cho tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu độ mọi người. Ngài dành tình thương cho mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu rỗi. Tình thương Chúa vẫn dành cho mọi người, nhưng điều quan yếu là họ đã đáp lại lời Chúa. Họ đã sống lời Chúa. Dù chỉ là thời gian ngắn thì họ vẫn được Chúa ban phúc thiên đàng cho họ như bao người tín hữu khác. Họ phải luôn khoác trong mình chiếc áo của ân sủng, chiếc áo của hiệp nhất trong Chúa thì không bị loại ra khỏi bàn tiệc.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhen thường tình. Amen.

22. Ganh tỵ
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.
Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.
Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.
Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.
Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.
Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.
Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.
Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?

23. Ghen tương
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ca dao Việt Nam có câu:
“Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi”. Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: “Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp”. Bà thứ nhất thưa: “Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng”. Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: “Không ăn thì hắt đổ đi”. Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có.”Trâu buộc ghét trâu ăn” là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng… nhưng trong lòng lại “một bồ dao găm”, chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: “Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi”. Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo…
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập “có sao chịu vậy” và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. “Thuyền càng to sóng càng lớn”. Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.

24. Lý người và Tình Chúa
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Vào tối ngày thứ hai, 20/11/2006, khá đông giáo dân ở các giáo xứ lân cận đã đến nhà thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một linh mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban.
Chưa tới 19 giờ 00 mà giáo xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, linh mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.
Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh đức tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị lương y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người mẹ hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.
Có một nhóm anh chị em Công giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến nhà thờ cầu nguyện; được linh mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới nhà thờ và xin đăng ký học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.
Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con đức tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa! ” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. (Theo VietCatholicNews 22/11/2006)
Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23/9/2008. Lm Anmai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.
Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.
Lý người
Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.
Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao?” (1Cor 3, 3)
Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của ngôn sứ Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta… Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy.” (Is 55, 8-9)
Tình Chúa
Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.
Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1 Cr, 1, 28-29)
Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về qúa khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng!” (Lc 23, 43)
Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.
Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. (Đường Hy Vọng, số 304)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.

25. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật 25 thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa….
***
Để dân chúng hiểu rõ hơn những lời dạy của Chúa, đôi khi Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn để làm sáng tỏ giáo huấn mà Chúa trao ban cho mọi người. Vì thế, dụ ngôn người thợ làm vườn nho của chúa nhật XXV thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa.
1. Lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Khi nghe đoạn Tin mừng có lẽ không ít người thắc mắc về cách làm của ông chủ vườn nho. Thắc mắc là phải, bởi vì từ người đầu tiên ra làm vườn nho lúc trời vừa tảng sáng, tiếp theo là người làm lúc giờ thứ ba, kế đến người làm lúc giờ thứ sáu, rồi tiếp người làm đến giờ thứ chín, sau cùng là người làm giờ thứ mười một, tất cả những người này từ người làm giờ sau hết đến giờ trước nhất, chỉ nhận lương từ tay ông chủ có một quan tiền mà thôi. Như vậy ý của ông chủ trong việc này là như thế nào? Chỉ khi nào chúng ta giải thích và tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn, chúng ta sẽ dễ chấp nhận và sẽ kính nể cách ứng của ông chủ vườn nho với hết mọi hạng người.
Trước hết ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê làm vườn nho là tất cả mọi người, dĩ nhiên trong số này còn có anh chị em lương dân. Vườn nho là Nước Trời là Giáo Hội. Tiền lương là phần thưởng trong Nước Trời. Những người được kêu gọi làm vườn nho từ giờ trước nhất cho đến giờ cuối cùng trong ngày, nghĩa là Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người gia nhập Nước Trời qua mọi ngày tháng và mọi thời khác nhau.
Nhờ những giải thích trên đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa mạc khải cho chúng ta. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha là người Cha tuyệt vời. Đó là người Cha luôn chủ động tìm kiếm những đứa con để đón nhận Nước Trời. Một người Cha luôn thao thức đi tìm con không biết mệt mỏi. Tìm mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Một khi đã gặp được con thì người Cha ấy không đặt vấn đề thời gian, không đặt nặng kết quả của công việc. Vì bản chất là quảng đại, nên người Cha ấy luôn thúc bách con của mình hãy mau tiến vào vườn nho, để khi thời gian làm việc kết thúc thì người con ấy cũng sẽ nhận phần thưởng giống như mọi người.
Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Vì là Cha chúng ta, nên Thiên Chúa mong muốn hết mọi người được đón nhận ân huệ nhưng không của Chúa, được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc và bình an trong Nước Chúa. Vì ơn cứu rỗi được khơi nguồn từ tình thương của Thiên Chúa nên chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa. Và lời tạ ơn chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta có những cách sống giống như Chúa.
2. Lòng quảng đại của chúng ta:
Nếu như người làm vườn nho vào giờ trước nhất cằn nhằn ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng thiêu đốt” (Mt 20, 12), thì đến chúng ta, một khi mong cuộc đời mình được sống quảng đại như Chúa, tất nhiên chúng ta không được phép kêu trách lòng từ bi của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Chúng ta là anh em với nhau. Không lẽ chúng ta được Chúa ban hạnh phúc, còn anh chị em khác cũng được Chúa ban hạnh phúc giống như ta thì mình lại khó chịu chăng? Lòng quảng đại của chúng ta chỉ thực sự lớn lên, khi chúng ta xem niềm vui của người khác là niềm vui của mình, hay những khát vọng hạnh phúc của người khác cũng là khát vọng của mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ phát triển, khi chúng ta đừng bao giờ xem thất bại của người khác là trò giải trí vui chơi của mình, hay thành công của người khác là nuôi lòng căm ghét thù hận và khó chịu trong mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ không có chỗ dừng, khi chúng ta có cùng thao thức giống như Chúa, nghĩa là mong muốn cho mọi người được gia nhập vườn nho của Chúa, hăng say tìm kiếm mọi người để họ được sống trong Hội Thánh của Chúa, luôn cầu nguyện cho mọi người sớm tìm gặp Nước của Thiên Chúa là hạnh phúc viên mãn. Sau cùng lòng quảng đại của chúng ta sẽ trở nên vô biên, khi đời sống của chúng ta thuộc về Chúa, tình yêu của chúng ta không bao giờ lìa xa tình yêu của Chúa. Chính tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở nên một con người mới, đó là người luôn thao thức dấn thân giới thiệu Nước Trời và làm cho người khác đón nhận Nước Trời. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tách rời khỏi tình yêu của Chúa. Ước gì cuộc sống của chúng ta sẽ là chuỗi ngày được hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Ước gì tâm tình của Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay được ứng nghiệm trong cuộc đời của chúng ta: “Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi” ( Pl 1, 20).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.

26. Chúa Nhật 25 Thường Niên
Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho nay không ai khác hơn là hình ảnh của chính Chúa Giêsu mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. Thiên Chúa không chỉ công bằng nhưng mà còn là Thiên Chúa xót thương.
Người chủ vườn nho thật hào phóng, ông ta vượt lên trên lẽ công bằng mà đúng hơn ông ta muốn thể hiện lòng xót thương. Ông ta xót thương cho số phận người ta, số phận của người thất nghiệp. Ông ta xót thương người ta nên đã thuê những người thợ. Vì xót thương nên ông ta quảng đại thuê luôn kẻ làm giờ thứ mười một, một người có thể gọi là thất nghiệp. Đối với người thất nghiệp này, ông chủ không hề tính toán so đo, không hề nghĩ ngợi lợi ích công việc cho mình, ông xót thương số phận người thất nghiệp, thương người thất nghiệp nhiều hơn, vì chiều nay rất có thể người thất nghiệp sẽ trở về nhà với đôi bàn tay trắng, không có tiền thì gia đình anh có thể sẽ chết đói, vợ con sẽ lên giường ngủ với cái bụng cồn cào vì không có tiền mua thức ăn.
Giống các người được thuê theo giá thoả thuận vào giờ thứ nhất, chúng ta cũng có lý không đồng ý với lòng xót thương của chủ vườn nho. Chúng ta có lý khi mình đã đến sớm và thoả thuận công việc và tiền công với ông chủ. Chúng ta có lý vì chúng ta đã vất vả đến sớm, nhọc nhằn vì công việc suốt ngày không mấy dễ dàng… chúng ta dễ so đo tính toán hơn thua với người thợ làm vào giờ thứ mười một, chúng ta không mấy thiện cảm cho những người bê trễ, lười biếng thậm chí ghét luôn với những người vào giờ chót ăn năn trở lại, vào giờ chết mới vào đạo, xin được rửa tội… lắm khi chúng ta vừa làm việc vừa than trách, kêu ca công việc nặng nhọc, vừa giữ đạo vừa phàn nàn Chúa, than thở các vị mục tử…không đáp ứng theo ý mình. Giữ đạo nhưng chúng ta dễ quên thậm chí không nhận ra Chúa đang thương chúng ta, nâng đỡ, che chở, chúc lành và thậm chí chúng ta quên ngay việc Chúa quá thương chúng ta nên tha thứ tội lỗi cho chúng ta, quên luôn không còn nhớ lỗi lầm dĩ vãng. Nếu chịu khó nhìn lại một chút, nhìn lại cuộc đời mình, chắc chắn chúng ta sẽ giật mình khi thấy mình giống người thợ làm vườn nho vào các giờ đầu tiên, đến sớm hễ đói thì được nuôi cơm sáng, có khi còn có bánh lót dạ thêm, rồi còn có càfê, có thuốc lá mà hưởng…Khi đến buổi trưa nếu đã làm cho chủ này thì ắt hẳn phải có được bữa cơm no nê, chưa kể hưởng thêm chế độ nước trà và bánh ngọt nữa chứ. Thế mà giống như những người này kêu ca, chúng ta ở trong Hội Thánh, hưởng nhờ ân sủng Chúa qua Hội Thánh, đón nhận nhiều thật nhiều hồng ân của Chúa, mỗi bí tích chúng ta lãnh nhận, mỗi Thánh lễ mà chúng ta cùng nhau cử hành, mọi phước lành của Chúa qua tay Mục tử mà chúng ta đang hưởng nhờ, tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà chúng ta đang thụ hưởng, sự nhiệt tình và lòng quảng đại của Hội Thánh trao ban cho chúng ta hằng ngày,..và còn rất rất nhiều thứ khác nữa mà chúng ta không kể xiết. Chúng ta có biết trân trọng và biết ơn về điều đó không?
Đang khi chúng ta có còn những người khác thì chưa chắc họ có được như chúng ta. Nếu một người ăn năn trở lại vào giờ chót, hay một người mới biết Chúa rồi chết, một người vừa được rửa tội rồi qua đời…thử hỏi xem họ được đón nhận như chúng ta không. Từ cái nhìn, lối suy nghĩ dẫn chúng ta đi đến một thái độ ứng xử thiếu tình thương, thiếu tình người, thiếu tình của Chúa yêu thương chúng ta.
Quả thật, chúng ta nhìn nhận lòng thương xót của ông chủ này vô bờ bến. Hẳn nhiên, nếu người ta làm ăn theo kiểu này thì thất bại là cái chắc, và việc “phá sản” công ty là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, lòng ông chủ thương xót người, lo cho mọi người bằng chứng là ông trả tiền công nhật đúng theo như đã thoả thuận, ông lo cho ăn uống chu đáo bằng chứng là họ không phàn nàn gì hết mà họ chỉ thắc mắc lòng thương xót của ông chủ đối với người thợ làm vào giờ chót.
Chúng ta cũng hiểu được phần nào ông chủ này là hình ảnh mà Chúa Giêsu muốn nói đến chínhn là Thiên Chúa. Thiên Chúa đối xử không giống con người nhưng Ngài đối xử theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Ngài. Vì thế chúng ta cũng không lạ gì Isaia đã nói về Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”.
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều thì người làm một giờ cuối trong câu chuyện trên có đủ lương nuôi sống cả gia đình không, hay con cái của họ đang túng thiếu, nghèo đói,…Chính vì lòng thương xót, vì thông cảm hoàn cảnh nghèo đói của người ta, hơn nữa vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm vườn nho cho mình vào bất cứ giờ nào và trả tiền cho họ bằng nhau, người đến sau cũng bằng với người đến trước. Rõ ràng ông chủ không muốn đối xử với người ta theo tương quan mua bán, tính toán nhưng theo tương quan tình thươn và lòng nhân hậu. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta cũng hãy bắt chước để đối xử với đồng loại như chính ông đã đối xử.
Chúng ta không mong mình là người đến sau. Chúng ta đã là người đến trướcnên chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa và quyết tâm làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa và cũng biết thể hiện tình yêu, lòng thương xót và sự chia sẻ cho tha nhân của mình.
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng cho họ. Người công chính đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu.
Thiên Chúa chúng ta thật là rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối nhỏ bé, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái họ có hơn mình hay cài mình không có, để bực tức ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt trên mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hoà tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì con tim nghèo nàn của chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có trái tim của Chúa, biết xót thương mọi người và sống yêu thương mọi người. Amen.

27. Niềm vui nẩy sinh từ sự xẻ chia
(Suy niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)…
***
SUY NIỆM
Anh chị em thân mến,
Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và gần đây nhất là Hội phụ huynh học sinh như là nhóm lợi ích, và đang gây ra bao bất bình trong xã hội. Nhóm lợi ích đã tạo ra một thế lực để chi phối chính quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Lợi ích nhóm chỉ nhắm quyền lợi của mình, họ không quan tâm đến thiện ích của người khác, và cũng chẳng màng chi đến nhu cầu của tha nhân. Họ sống ích kỷ và lòng ngập đầy sự tham lam. Nhóm lợi ích đó không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã hiện diện lâu đời, đó là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói tới: lợi ich nhóm trong cộng đoàn Giáo Hội, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đó là “tệ nạn xấu nhất đập vào Giáo Hội ngày nay”.
Được ông chủ mướn vào làm vườn nho, họ nghĩ rằng họ có đặc quyền được hưởng lương bổng theo ý họ, chứ không theo điều đã thoả thuận. Việc thoả thuận ban đầu chỉ là điều kiện để họ hình thành nhóm, và khi đã bước được vào vườn nho họ muốn thao túng, vì thế họ không chấp nhận việc ông chủ trả lương cho người đến sau bằng họ, và điều đó cũng có nghĩa, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của họ và không muốn chia sẻ lợi ích cho ai. Họ đã giết chết khả năng tương giao với tha nhân, tâm hồn trở nên khô cứng để có thể nhận ra rằng, cuộc đời chỉ tràn đầy ý nghĩa khi cuộc sống biết xẻ chia, biết quan tâm đến người khác. Một lối sống ích kỷ như thể chỉ có thể đem đến cho họ sự cô đơn cùng cực. Bởi cuộc đời chỉ có niềm vui khi cuộc đời biết kiến tạo mối tương giao với tha nhân.
Quả thật, Giáo Hội cũng đang nhức nhối bởi những thái độ ích kỷ, thiếu cởi mở và xẻ chia của những người con của Giáo hội, những người con luôn tự hào về công trạng đóng góp của mình trong việc xây dựng Giáo hội, họ đang bóp nghẹt sức sống của Tin Mừng, một sức sống đến từ lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa. Trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Philippines vào trung tuần tháng 1-2015, một em bé đã hỏi Đức Thánh cha: Tại sao Chúa lại để xảy ra sự dữ như thế, và tại sao ít có ngừơi giúp chúng ta? Một câu hỏi đắng lòng, tại sao lại có quá nhiều người chịu khổ đau vì bất công trong một thế giới bước vào kỷ nguyên với nhiều thuận lợi và tiện ích cho con người? Thưa, bởi vì chủ nghĩa hưởng thụ, thực dụng đang khuynh đảo và làm xói mòn những giá trị nhân văn trong mối tương quan giữa người với người. Người ta chỉ còn quan tâm đến quyền lợi cá nhân và dần hình thành một lối sống vô cảm trước người khác. Sự vô cảm đó đang làm cho cuộc sống xã hội mất đi mối thâm giao và trái tim con ngừoi đang dần hoá đá. Nhà văn Helen Adams Keller đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”.
Vì lợi ích của một nhóm, của một cá nhân, chúng ta đang đánh mất dần mối tương giao để nối vòng tay lớn. Khi chủ trương toàn cầu hoá người ta có tham vọng đưa con người lại gần với nhau, chia sẻ thiện ích cho nhau, thì điều ngược lại đã xảy ra thay vì mang đến cho nhau những cái hay tốt, thế giới lại ngập tràn một lối sống vô cảm và làm cho thế giới này đang khép dần các con đường dẫn tới sự gặp gỡ để xẻ chia, để yêu thương, và điều tệ hại nhất là con đường dẫn tới để gặp gỡ Thiên Chúa cũng bị bịt kín . Đó chính là nguyên nhân để sự dữ hoành hành khắp thế giới, và cuộc sống con người bất an.
Vâng, chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới có thể kiến tạo được sự bình an, bởi Ngài là Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái, Ngài đã không để một ai đứng thất nghiệp ngoài đường. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của những con người đang đới diện với nhiều âu lo. Kìa là người cha đang lo kiếm cơm gạo nuôi sống gia đình, kìa là ngừoi mẹ đang bươn chải để lo cho con có được cuộc sống ấm no, kìa những người khốn khổ đang lo âu cho cuộc sống… Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ tình yêu hướng tha, không quy ngã , một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.
Có câu chuyện kể rằng, ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui, không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.
Lạy Chúa, chúng con khao khát có được cuộc sống bình an, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm sự bình an đó trong sự quan tâm đến tha nhân, biết sống quảng đại và bao dung, để không tị hiềm ganh tương. Vâng, lạy Chúa xin cho chúng con biết hành động như Chúa để chúng con biết kiếm tìm niềm vui trong sự xẻ chia. Amen.

28. Đấng nhân lành
“Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm “tiền trao cháo múc”, “bánh ít đi bánh qui mới lại”, công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.
Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?
Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.

29. Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20,13)
Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không được hợp tình hợp lý cho lắm. Những người thợ làm việc lâu giờ hơn, vất vả hơn, vẫn không được trả lương cao hơn. Tại sao ông chủ vườn nho lại trả lương đồng đều cho tất cả các thợ, khi họ bắt đầu làm việc vào những thời khắc khác nhau. Theo lẽ thường tình, điều này xem ra có vẻ như ông chủ chơi không đẹp, không “fair play” chút nào.
Vấn nạn này chắc chắn sẽ được khơi lên, nếu chúng ta ở vào vị thế của những người thợ đã cực nhọc nắng nôi suốt cả ngày mà cũng chỉ nhận được một đồng giống như những người khác. Xét theo lô gíc thông thường, ông chủ đã sử xự một cách bất công.
Trong đám tang của ông ngoại tôi, lần đầu tiên, tôi được nghe giải thích ý nghĩa của dụ ngôn. Vị linh mục nói về người đã chết, một tân tòng mới gia nhập đạo Công giáo trên giường bệnh trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, giống hệt như người thợ được mướn làm vườn nho lúc xế chiều. Vị linh mục đó cũng vay mượn một hình ảnh khác rất giản đơn để so chiếu. Ví dụ như nhiều người đi xe lửa đã đặt vé từ trước khá lâu, và họ đã có chỗ. Một số khác lại mua vé vào phút chót, cuối cùng cũng có chỗ dành cho họ, và họ cũng đến được nơi giống những người đã đặt vé rất lâu từ trước. Ông của tôi cũng vây, ông cũng đã đạt đến quê trời vào những giây phút muộn màng trong cuộc đời mình. Điều này khiến chúng tôi là những lớp trẻ hàng con cháu cảm thấy rất an lòng.
Thiết nghĩ, điểm nhấn của dụ ngôn, là Đức Giêsu muốn những người được gọi mướn đầu tiên, phải biết quảng diễn lòng thương cảm đối với những thợ khác được gọi mướn trễ hơn. Nhưng làm cách nào để có thể khơi dậy lòng yêu thương này, vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và khó chịu đối với chính cá nhân tôi.
Một phụ nữ cùng học Kinh Thánh với tôi trong nhiều năm, đã giúp tôi hiểu dụ ngôn dưới một góc cạnh khác. Chị ta là một phụ nữ đơn độc, một mình nuôi 3 đứa con nhỏ sau khi ông chồng bỏ rơi chị. Chị ta ít học, lại không có kinh nghiệm quán xuyến gia đình và ít khả năng giao tiếp. Ngày này sang ngày khác, tại văn phòng xin việc làm, chị ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng đợi chờ, mặc dù hy vọng của chị rất mong manh.
Khi đọc dụ ngôn hôm nay, chị ta mới khám phá ra một điều, là những người thợ đứng đó suốt cả ngày để chờ được thuê mướn, không phải là những con người biếng lười. Họ sẵn lòng đi làm nếu có người đến thuê họ. Nhưng họ phải chịu đứng không và vẫn chờ, vẫn đợi, có lẽ vì họ già yếu, không đủ sức khỏe, lại ít khả năng, và không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc như những người khỏe mạnh khác. Những người thợ đứng đội nắng cả ngày không tìm được việc làm, giống như trường hợp của chị ta, một con người đã trải nghiệm sự nghiệt ngã khi cứ phải lặng lẽ đứng xếp hàng rồng rắn tại văn phòng xin việc làm, hết ngày này sang ngày khác, đầy kiên nhẫn.
Khi suy tư phần cuối của dụ ngôn, chị ta nghiệm ra rằng nếu ông chủ vườn có trả công cho người thợ đợi chờ suốt cả ngày, đồng đều như những người khác, điều đó cũng rất hợp lý. Như trường hợp của chị, làm sao chị có tiền để nuôi 3 đứa con? Những người thợ đã làm suốt cả ngày từ sáng đến chiều, họ cũng hài lòng vì họ đã được trả lương sòng phẳng để họ có đủ tiền trang trải chi phí, nuôi sống gia đình. Sự công bằng trong trật tự Nước Trời, chị ta suy luận, chính là ở chỗ tất cả mọi người vào giây phút cuối cùng trong ngày, đều có tiền để sống, không cần xem khả năng của họ ra sao. Sự công bằng của Thiên Chúa không phải là điều chúng ta đắc thủ được do công cán hay sức lực, và việc Thiên Chúa thưởng công cũng không phải được cân đo theo khả năng làm việc của từng người.
Cách giải thích này, xem ra gần sát với cái nhìn của những khán giả khi nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ là những con người đang đói, đang khát, đang phải đấu tranh để được sống. Lời khẳng định của ông chủ vườn nho, là ông ta đã không hành xử bất công đối với những người thợ đầu tiên, là một thách đố đối với những ai đang giữ những vị thế đặc quyền trong xã hội bấy giờ, để giúp họ giám định lại cảm thức của họ về sự công bằng xem như thế nào. Những người thợ làm từ sáng đâu có thiệt thòi gì, đâu có lỗ lã gì, nếu những người làm sau hết cũng được trả lương giống như họ.
Câu hỏi của ông chủ vườn nho trong câu 15 của bài Tin mừng hôm nay, đã nêu bật sự ghen tương, chính là đầu mối gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn. Ông chủ đã nêu câu hỏi “ Hà cớ gì mà mắt bạn ghen tị khi thấy tôi đối xử tốt lành (agathos) như thế? Câu hỏi đó gợi nhắc lòng nhân hậu của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mọi người cách đồng đều, không loại trừ ai. Nó cũng đá động đến khó khăn thường xảy ra nơi chúng ta, vì con người chúng ta bản tính hay ghen tị khi thấy người khác cũng được hưởng nhận sự tốt lành từ nơi Thiên Chúa, ngay cả khi cuộc sống chúng ta đã đầy ắp ân huệ được Thiên Chúa ban trao một cách nhưng không, chỉ do lòng tốt của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, sự công bằng mà Thiên Chúa thực thi hoàn toàn không theo nguyên tắc quy phạm và đường lối xét định của con người. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng hưởng nhận tình yêu ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người.

30. “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
(Suy niệm của Lm Thái, Trích báo Hiệp Nhất tháng 9-2014)
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ. Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu , lòng nhân từ, và quảng đại (Rm 9:14-16).
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự , không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài phúc âm hôm nay, Mat 20:1-16, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các công nhân làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?” (Mt 20:13-15).
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn (Gc 3:14-16).
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Câu chuyện diễn tả Mazart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba. Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vân phục đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, Vua Joseph II Áo Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe dọa về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart. Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên ông lại muốn là chính ông đã sáng tác nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phúc phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh Thánh Giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “con tim có lý lẽ riêng của nó.” Khi yêu ai người ta dám hi sinh tất cả moi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “những kẻ khốn cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà gíup việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà tòa giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, Valjean đã ăn cắp toàn bỗ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức Giám Mục đã cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại tòa giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến tòa giám mục, Đức Giám Mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lạị Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. Hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lưón lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu, và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế, hay toán học nhắm vào tư lợi (Rm 9:20-23).
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3 tháng 12 năm 2000, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu.” Tổng Giám Mục, lúc đó, nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền cắc tội ácc ủa anh trong luyện ngục.” Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi.” Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới.”
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chồng, đối với Chúa Giêsu, một con có giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.” (Đức Ông Nguyễn Quang Sách, vietcatholic news – 18/9/2002).
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bừng chữ “nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của nước Trời. Trong cuốn “the Divine Trap”, trang 78, Richard Hoefler, nối rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử.”
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt Phái , là những ngươì đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt Phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ, Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tùy theo ý của Ngài và chỉ có Thánh Ý Ngài mà thôi.” (The Divine trap, trang 79).
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” (Is. 55:8-9).
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành Ngài thay vì đòi hỏi, và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của ĐHY John Henry Newmann: “Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài.”

31. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn…Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia…Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?
Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng con lắm khi tự hỏi rằng chúng con cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: “lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu?
“Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy.” (Is 55,8-9).
Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.
Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến…họ thảy đều là anh chị em của ngươi. “Anh em như thể tay chân”. Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.
Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao?
Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gia,n còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi…vì chúng nó là con cái của Ta, cũng như các ngươi.
Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.
Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:
1. Lạy Cha chúng con ở trên trời (Mt 6,9): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
2. Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta (Mt 7,12). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi.
Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Trở lại với sự băn khoăn hay nổi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa (x. Lc 6,20-26).
Dù ta ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau: Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài (Maraton), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khểnh trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8).

32. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn. Người kia ước mong người này chết. Vì thế, họ ăn không ngon, ngủ không yên khi ước mong xấu xa của họ chưa được toại nguyện.
Một hôm, hai người đang cãi vã, ẩu đã lẫn nhau, thình lình Quỷ Vương hiện ra và bảo rằng: “Ta cho chúng bay mỗi đứa một điều ước với điều kiện như sau: Điều ước ấy sẽ ứng cho mình và cùng lúc ứng gấp đôi cho người kia. Nhanh lên! Ta không có thì giờ để chờ đợi đâu”. Vì ganh ghét nhau, không ai muốn cho người khác hơn mình, cho nên người láng giềng thứ nhất ước: “Xin Quỷ Vương cho tôi đui một con mắt”. Thế là điều ước được thỏa mãn. Người này liền đui một con mắt. Và người kia đui cả hai con mắt. Người kia tức quá, liền ước trả đũa: “Xin Quỷ Vương cho tôi gãy một chân”. Lập tức anh ta gãy một chân. Và dĩ nhiên người láng giềng gãy luôn hai chân. Hậu quả: Người này bị đui một mắt và gãy hai chân. Người kia bị đui hai mắt và gãy một chân.
Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người vẫn có cách cư xử tương tự như hai người trong câu chuyện trên đây: Thà chấp nhận mình “đui một mắt, gãy một chân” để người khác “đui hai mắt, gãy hai chân” chứ không muốn người khác hơn mình. Vì sao người ta lại cư xử với nhau như thế? Vì người ta ghen tị nhau. Người ta có thể ghen tị nhau đủ mọi phương diện: ghen tị vì thấy người khác giàu có hơn mình; ghen tị vì thấy người khác giỏi giang hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đẹp hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đạo đức hơn mình; ghen tị vì thấy người khác thành công hơn mình; ghen tị vì thấy người khác hát hay hơn mình; ghen tị vì thấy người khác được yêu mến hơn mình…Vì ghen tị nên sinh ra nói xấu, dèm pha, hạ bệ và thậm chí ẩu đã, chém giết lẫn nhau.
Chúng ta vẫn thấy điều này xảy ra trong Kinh Thánh: Khi Đức Chúa chấp nhận lễ vật của Abel mà không chấp nhận lễ vật của mình, vì lòng ghen tị, Cain đã giết chết Abel (x. St 4, 2-26); Khi dân chúng ca tụng “Đavít giết giặc được hàng vạn còn Saul chỉ giết được hàng ngàn”, vì lòng ghen tị, Saul tìm cách làm hại Đavít (x. 1 Sm 18, 6-9); Khi thấy dân chúng mến mộ, đi theo Đức Giêsu ngày càng đông, vì lòng ghen tị, những người lãnh đạo Do Thái tìm cách bắt bẻ, hạch sách, làm hại và cuối cùng đã giết chết Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, những người thợ làm vườn nho đến trước vì ghen tị nên không chấp nhận ông chủ trả công cho người đến sau cũng một đồng lương như mình: “Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,11-12). Hơn thế nữa, khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu còn nhắm tới việc dân Do Thái ghen tị cả về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho dân ngoại. Thật vậy, người Do thái quan niệm rằng: Họ là dân riêng của Chúa, là con cái Abraham, là những người trung thành với lề luật của Môsê, được thể hiện ở giáo ước Sinai giữa Israel với Giavê. Vì thế, chỉ có họ mới xứng đáng được lãnh nhận ơn cứu độ, còn dân ngoại là dân đáng bị hủy diệt, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu đã phá quan niệm sai lầm của người Do Thái và sửa trị thói ghen tị của họ bằng cách cho họ thấy lòng bác ái cao cả của Thiên Chúa thể hiện nơi ông chủ vườn nho: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15). Thật vậy, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái. Đồng thời, Ngài cũng ban ơn cứu độ cho dân ngoại. Nước Trời không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn cho cả dân ngoại. Vào Nước Trời không phải do bởi tiền lương hay do một đặc ân nhưng là do tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, vào Nước Trời là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta mới hiểu câu nói của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: Tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người (x. Is 55,8). Thật vậy, cách cư xử của con người chỉ ở mức công bằng: Người làm ít sẽ lãnh lương ít, người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều. Còn cách cư xử của Thiên Chúa thì vượt xa sự công bằng. Đó là tình thương và lòng quảng đại. Vì thế, Ngài đã trả cho người đến sau hết nhiều hơn so với lương anh ta được hưởng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất, phải loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta. Bởi vì, ghen thường đi liền với ghét. Ghét thường đi liền với nói xấu, dèm pha, làm hại nhau. Người ghen tị thường sống trong sự bất an, khó chịu, buồn phiền vì thấy người khác hạnh phúc, thành công hơn mình. Cho nên, ghen tị không những gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho đối phương mà còn cho cả chính bản thân mình nữa. Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”. Thánh Cyprian nói: “Những tội khác thì còn có giới hạn, còn tội ghen tị thì không!”. Vì vậy, hãy loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta.
Thứ hai, hãy tập sống khiêm nhường vì trước mặt Chúa chúng ta là thụ tạo bất toàn. Hãy vượt lên trên sự công bằng để sống yêu thương, quảng đại với mọi người vì những gì chúng ta có đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Hãy vui khi thấy người khác gặp may mắn, thành công. Hãy vui khi có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, nhiều người ngoại đạo gia nhập Giáo hội…Hãy chia sẻ sự rủi ro, hoạn nạn, đau khổ của những người xung quanh. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vui với người vui, hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Thứ ba, hãy làm việc vì lòng mến Chúa chứ không phải để tính toán với Ngài. Chúa không muốn chúng ta là kẻ làm thuê để Ngài trả tiền lương. Chúa không muốn chúng ta tính toán với Ngài về số lượng công việc chúng ta làm nhưng Ngài muốn chúng ta sống với Ngài giống như người con hiếu thảo đối với cha mẹ mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống, xin cho chúng con biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại như Chúa. Amen.

33. Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
– Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:
– Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:
– Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
– Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.

34. Lý lẽ của trái tim
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?

35. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.

36. Lòng nhân từ
Anh chị em thân mến.
Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích Tấm và Cám nói lên điều đó.
Trong một gia đình, đôi vợ chồng trẻ có được một người con gái xinh đẹp, nhưng người vợ không may mất sớm. Người chồng kết hôn với một người đàn bà khác, bà ta cũng có một người con gái. Tưởng rằng con mình có người để chơi đùa vui vẻ, nhưng không ngờ, những ngày gian khổ đến với tuổi thơ quá sớm. Người cha lo bận rộn công việc bên ngoài không biết con mình cực khổ như thế nào. Còn đứa con thì không dám nói điều gì: trước hết vì thương cha, không muốn cho cha phải lo lắng, đồng thời cô cũng bị hai mẹ con của nhà kia răn đe, nếu cho cha biết, họ sẽ hành hạ trả thù.
Việc gì đến cũng phải đến. Sự ích kỷ, lòng ghen tỵ thì lãnh phần của sự ích kỷ ghen tỵ. Sự nhẫn nại ngay thẳng thì được phần thưởng xứng đáng với những gì đã làm. Hai người làm điều ác hại người thì lãnh phần những gì mình gây ra. Còn người con gái nhân hậu thì lãnh phần thưởng xứng đáng của lòng nhân hậu.
“Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về”.
Những người đã thoả thuận, nhưng giờ đây họ muốn hơn những gì mình thoả thuận, họ muốn hơn những gì mình đáng được. Họ nhìn vào người khác và họ tự cho mình có công hơn người khác. Họ nhìn vào những gì người khác được, nên họ muốn mình phải hơn những gì người khác có, vì họ cho mình có quyền như thế. Khi họ không được những gì mình muốn, họ tự cho mình quyền phê bình, chỉ trích, phán đoán người khác, ngay cả người có quyền trên họ mà họ cũng không hay biết. Khi đó họ chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, đòi hỏi lợi lộc riêng tư cho mình mà không cần biết đến người khác như thế nào. Họ phê bình người khác không công bình theo như họ muốn. Những gì họ thoả thuận, họ không còn biết đến. Họ muốn hơn cái mình đáng được, họ cũng muốn mình được hơn những gì người khác được, mà không cần biết mình có xứng đáng hay không.
“Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về. Hay mắt bạn ghen tỵ vì tôi nhân lành chăng?”
Lời phiền trách của ông chủ trong dụ ngôn đối với những người ghen tỵ, cũng là lời phiền trách chung cho mọi người của mọi thời đại. Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ vẫn tồn tại mãi trong con người, cả chúng ta nữa cũng không bị loại trừ ra cái thường tình của con người như thế.
Mỗi người trong chúng ta tự nhìn vào chính mình, nhìn qua những gì mình đã được, những gì chưa được mà đang ước muốn, nhìn vào cả những thực tại mà mình đang toan tính để đạt được. Có những điều mà mình quyết tâm đạt cho được những lợi nhuận, danh dự, những điều để thoả mãn tính tự phụ, nên dùng mọi thủ đoạn, mọi hành vi bất chính để đạt kết quả. Những lúc đó chúng ta có nói đến sự công bình trong cuộc sống không? Hay chúng ta không dám nói đến. Những lúc nhìn thấy người khác thành công mà mình thất bại, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực mình. Càng khó chịu hơn khi thấy người khác không đạo đức, không tài năng, không có công trạng bằng mình, mà họ lại được ưu đãi hơn thì không thể nào chấp nhận được. Những lúc đó nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ và nhìn lại để đừng thốt nên những lời kêu ca phiền trách, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta phiền trách thì coi chừng sẽ nhận được lời nói cứng rắng như trong dụ ngôn: “Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy nhận phần của bạn mà đi về”.
Những lúc chúng ta nhận được hồng ân Chúa, được thành công, đươc niềm vui bất ngờ, nếu chúng ta cảm nhận được mà biết tạ ơn Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra được con người của chính mình không đáng là chi với những hồng ân Chúa ban, thì chắc là trong cuộc đời chúng ta không bao giờ dám kèo nài, trả giá và phiền trách Thiên Chúa của chúng ta được. Những lúc chúng ta không đạt được những gì như ý muốn, nếu chúng ta biết nhìn lại để cố gắng hơn với tất cả lòng chân thành, thì Thiên Chúa không bao giờ từ chối những gì phát xuất từ lòng chân thành.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.

37. Tình yêu, tiêu chuẩn của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin mừng hôm nay không như vậy. Người làm suốt ngày chỉ nhận được một đồng và người làm chỉ một giờ thôi cũng nhận được một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Chủ vườn nho đó lại là chính Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả những người thợ làm từ giờ thứ nhất cũng đã lẩm bẩm trách chủ như thế là không đúng. Nhưng đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động khác với con người. Nói như ở bài đọc I là: “Vì tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta”.
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: – Thiên Chúa hành xử với chúng ta phải dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu.
– Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, Ơn cứu độ và ân sủng không phải là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân của Thiên Chúa cho tất cả không có loại trừ ai.
Những người do thái thời Chúa Giêsu nghĩ rằng họ là những người thợ đầu tiên đáng hưởng một đồng, nghĩa là ơn cứu độ, còn những người khác thì không xứng đáng. Chúa Giêsu mang đến một sự mới mẽ qua dụ ngôn này là: Nước Trời, ơn cứu độ được ban tặng cho tất cả, kể cả những kẻ đến sau cùng, những kẻ tội lỗi và cả những người nhỏ mọn nhất nếu họ biết lắng nghe lời mời gọi trở về và cộng tác với Thiên Chúa.
Sự “vô lý” của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẽ là ngược đời, là vô lý, khác với lí luận của chúng ta. Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dõm là: Thiên Chúa không biết tính toán! Nhưng chính sự “vô lý” của Thiên Chúa lại là cơ hội, là lối vào đưa chúng ta tới Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết rồi vì chúng ta đã đắc tội với Ngài, chúng ta chẳng được quyền hưởng gì, vì chúng ta chẳng có công trạng gì với Ngài.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó lại là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, bất kỳ lúc nào, dù là giờ cuối cùng, bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Ngài trong vườn nho của Ngài, và dù làm nhiều hay làm ít Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi nhân hậu của Ngài.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của Tinh Yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô hôm nay nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô”, để lượng giá cuộc đời, để nhìn đời và để đối xử với nhau cách lạc quan và vui tươi, hơn là dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, thấy người khác thành công, được ưu đãi, may mắn là sinh ra ghanh tị và tìm cách đạp đổ. Vì bác ái là biết vui với người vui và khóc với người khóc.

38. Thiên Chúa quảng đại
(Suy niệm của Charles E. Miller – Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.

39. Đường lối của Thiên Chúa
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Đường lối của Thiên Chúa là gì? Suy tư về câu hỏi này, chúng ta thấy có hai nguy cơ trước mắt. Nguy cơ đầu tiên, là nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu và không lý giải được, khi họ muốn biết xem Thiên Chúa hành xử thế nào, hoặc đòi hỏi điều gì nơi họ. Từ đó dễdẫn họ đến thái độ vô tín, không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Bởi lẽ, nếu đường lối của Thiên Chúa đưa ra nhằm đánh đố con người, hay để lừa lọc những kỳ vọng nơi con người chúng ta, thì thử hỏi, còn tin vào Thiên Chúa để làm gì nữa. Nguy cơ thứ hai, là nhiều người khác lại quá cứng nhắc để dấn bước, tuyệt đối tin tưởng rằng đường lối Thiên Chúa đã vạch dẫn một cách quá rõ ràng qua mạc khải của Thánh Kinh, qua truyền thống của Hội Thánh, hoặc qua những chỉ huấn của Giáo hội. Họ không cần phải khám phá và tìm tòi. Họ cũng chẳng cần phải thắc mắc làm gì, vì đường lối của Thiên Chúa đã quá hiển nhiên và rõ ràng.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đang toan tính quay lưng lại với Thiên Chúa, chúng ta vẫn bị cám dỗ muốn tinh giản đường lối Ngài qua một vài điều mà chúng ta nghĩ rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện thánh ý Ngài giống như vậy. Khi chúng ta xác tín là mình đã thấu tỏ đường lối của Thiên Chúa một cách rõ ràng, chúng ta thường dễ dị ứng với ý tưởng cần phải sáng tạo hoặc cần mở lòng để Thiên Chúa có thể thực hiện một điều gì đó mới mẻ nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta hay có khuynh hướng giản lược mối thân tình của chúng ta với Ngài bằng một vài định thức có sẵn, chẳng cần phải phát huy sáng kiến hay tìm tòi. Ngôn sứ Isaia đã khuyên mời các đọc giả hãy sửa đổi quan niệm này. Ông nói “Hãy tìm Đức Chúa khi Ngài còn cho gặp, hãy kêu cầu Chúa khi Ngài còn ở gần bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Trong mạch văn này, vị ngôn sứ có dụng ý nói về kế hoạch của Thiên Chúa muốn cứu Israel, và Thiên Chúa khẳng định “Tư tưởng của Ta, không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta”.
Khi đề cập đến việc đừngnên biến tướng đường lối của Thiên Chúa, và đừng cố tìnhlàm méo mó ý định của Ngài, Isaia muốn nhắc nhở dân Israel năm xưa, cũng như nhắn gửi chúng ta hôm nay một điều rất quan trọng. Đó là, khi chúng ta không thấu hiểu được cách thức Thiên Chúa hành động trong thế giới hay trong cuộc cuộc sống hiện sinh của chúng ta hôm nay, đan xen giữa bao hỗn độn và mơ hồ, chúng ta vẫn phải tin tưởng tuyệt đối rằng Thiên Chúa đang lèo lái, và dẫn dắt cuộc đời củachính chúng ta. Ngài vẫn đang thực hiện những kế hoạch mang lại thiện ích cho thế giới, và kéo mọi sự dữ ra khỏi cuộc sống của ta. Liệu chúng ta có xác tín như thế không? Đối với tất cả những ai nắm bắt được Thiên Chúa, đấng là căn nguyên mọi sự, thì họ sẽ cảm nhận ra Ngài luôn hiện diện và hành động trong cuộc đời này, ngay cả khi chúng ta không am hiểu đường lối Ngài.
Thánh Phaolô đã bị tống ngục, và chúng ta cũng không biết chính xác Ngài bị giam cầm ở đâu. Ở trong tù, Ngài đã viết một lá thơ cho giáo đoàn Philip. Trong thơ, Ngài đối diện với vấn đề là phải luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài không hiểu Thiên Chúa muốn dẫn dắt Ngài đi đâu và đi như thế nào. Việc Ngài ngồi tù rồi sẽ ra sao, Ngài không biết. Những hành hạ và khổ nhục chốn lao tù xảy ra khiến Ngài có thể phải chết, nhưng Ngài vẫn tin tưởng rằng cái chết đối với Ngài là cửa ngõ dẫn đưa Ngài vào sự thông hiệp trọn vẹn với Đức Kitô, nên Ngài đã diễn tả “ Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Tuy vậy, dù Ngài mong muốn “chết để được nên một với Đức Kitô”, Ngài vẫn hy vọng “còn ở lại trong thân xác”, và Ngài thấy điều đó “cần thiết hơn, vì thiện ích của anh em”. Mong ước sâu xa nhất của Thánh Phaolô là Ngài muốn hoàn toàn quy thuận đường lối của Thiên Chúa, cho dù Ngài không hề biết thánh ý của Thiên Chúa muốn thánh nhân phải dấn bước theo nẻo đường nào.
Đặc biệt giữa cơn khủng hoảng và chao đảo trong tù ngục, sự khôn ngoan của Thánh Phaolô lại càng trổi trang hơn.Ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn Philip một phương thức sống rất giản đơn, là“Anh em hãy ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng Đức Kitô” (Phil 1,27). Để thực hiện điều đó, chúng ta phải chuẩn bị hầu biết chấp nhận dấn bước trên những nẻo đường dẫn đến những nơi mà chúng ta không muốn đến, nhưng những nơi đó vẫn luôn vang vọng lời mời gọi của Thiên Chúa gửi trao cho chúng ta.
Tin mừng Matthêu kể lại dụ ngôn về Nước Trời, qua hình ảnh ông chủ vườn nho đi tìm thợ đến làm vườn cho mình. Vài người thợ được mướn vào buổi sáng từ 6 giờ, hay từ 9 giờ. Một số khác được mướn trễ hơn, vào ban trưa, hoặc xế chiều, lúc 3 hoặc 5 giờ chiều. Tất cả đều được trả công đồng đều, giống hệt nhau, cho dù họ bắt đầu làm việc vào nhữngthời điểm khác nhau. Dụ ngôn có đá động đến việc Thiên Chúa đối xử không công bằng. Lời cằn nhằn của những người thợ được mướn từ sáng sớm, nêu bật ý nghĩa trọng yếu của dụ ngôn: Đó là, lòng quảng đại của Thiên Chúa trao ban cho những người thợ bắt đầu làm việc vào lúc muộn giờ, không tương hợp với cách xử trí thông thường theo kiểu cách người đời. Nhưng nếu đọc kỹ dụ ngôn, chúng ta có thể trách cứ những người thợ đến làm từ sáng sớm. Họ ghen tỵ không đúng cách, vì những người thợ được mướn rất muộn màng, cho dù hầu như suốt cả ngày họ không làm gì, song thực chất họ vẫn đứng đó để chờ đợi trong sẵn sàng. Họ xứng đáng được thưởng công, bởi vì họ vẫn chăm chú đợi chờ, ngay cả khi niềm hy vọng của họ chỉ còn rất mong manh.
Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn biết sẵn sàng trải lòng mình ra để Thiên Chúa thực hiện những điều mới mẻ, theo cách thế của Ngài, chúng ta sẽ tìm ra được lối bước mà Thiên Chúa muốn dẫn đưa chúng ta đi vào.

40. Đường lối của Chúa
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kinh nghiệm nói cho chúng ta biết rằng: nhiều lần trong đời sống đức tin, chúng ta tự hỏi liệu Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta thế nào nhỉ? Thiên Chúa có thiên vị? Ngài bênh đỡ người khác, bỏ mặc tôi? Ngài thương người khác hơn tôi? và rất nhiều câu chất vấn khác nữa…
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay cho chúng ta một câu trả lời đầy thuyết phục từ lời ngôn sứ Isaia “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta” (Isa 55, 8). Thật vậy, Thiên Chúa nhìn và đánh giá chúng ta không như người đời. Ngài không căn cứ vào bằng cấp, sự danh giá, quyền bính, thành tựu, địa vị, quyền cao chức trọng, của cải của ta mà nhận xét, phán quyết. Thiết nghĩ, Thiên Chúa tôn trọng bạn và tôi là những người con yêu quý, ‘độc nhất vô nhị’ của Ngài. Ngài thỏ thẻ bên tai chúng ta, mời gọi, thúc giục chúng ta bằng lời nói yêu thương, không hề vướng bợn định kiến hay xét đoán. Tuy nhiên, lắm lúc chúng ta không nhận ra điều này, phải chăng vì trong chúng ta tiềm ẩn lối suy nghĩ thiển cận, vội vã như những người được kêu mời làm vườn ở giờ đầu tiên “những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, còn chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?” (Mt 20, 12). Hay là do sự hoán đổi cách nhìn nhận, coi trọng giá trị mà xã hội thực dụng, văn hoá ‘ăn liền’, trào lưu ‘rẻ rúng, chóng qua’ mang lại, ảnh hưởng sâu đậm đến lối nhìn, suy nghĩ, đánh giá của chúng ta đối với tha nhân, cũng như thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta chăng!
Thứ đến, Thiên Chúa có lẽ chẳng trông mong những gì chúng ta kỳ vọng! Thực tế, qua những câu chuyện trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa coi trọng những người nghèo khó, nghề nghiệp tuy thấp kém nhưng có tâm hồn luôn biết tìm kiếm Chúa (x. 1Sm 16), viên đại đội trưởng với thái độ khiêm tốn thể hiện lòng tin mạnh mẽ vào Chúa Giê-su (x. Lc 7, 1-10), bà goá tuy nghèo túng, nhưng cho đi một cách quảng đại tất cả những gì bà có, trong khi những người giàu có, chỉ cho đi những đồng bạc dư thừa (x. Lc 21, 1-14), v.v… Đường lối của Chúa chẳng ai thấu hiểu được, và cách thức của Người không bao giờ dựa trên những vẻ sa hoa, bề ngoài. Ngài chẳng màng đến sơ yếu lí lịch hào nhoáng, hay những thành tựu của ta. Nói như vậy, không có nghĩa là Thiên Chúa bỏ mặc những người thành đạt, những ai có công việc cao cả, hoặc những người giàu sang biết cho đi một cách quảng đại và thành tựu của bạn và tôi không có ích gì trong việc tôn vinh Chúa. Mà đúng hơn, chúng ta không nên tự cho mình đang đứng đầu trong việc tôn vinh Chúa nhờ những thành đạt hay công trạng mình đạt được. Theo lẽ trật tự Thiên Chúa đặt ra, bạn và tôi không nhất thiết phải đứng hàng đầu “kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16) Đối với Chúa, “ngàn năm trôi qua như thể một ngày, và một ngày dài thăm thẳm như thể ngàn năm” (x. Tv 90, 4; 2Pr 3, 8), quá khứ hay tương lai dường như không hiện diện trong chương trình của Chúa, mà hơn hết, sống giây phút hiện tại ‘bây giờ và nơi đây’ (hic et nunc) mới thực sự cấp bách và cần kíp như câu danh ngôn sau: “đừng âu sầu, não nề, khóc than về quá khứ vì mọi thứ đều đi qua, cũng đừng mơ tưởng về tương lai vì nó chưa đến. Hãy sống trọn vẹn và biến giây phút hiện tại thành khoảnh khắc tươi đẹp hơn”.
Nếu bạn có những băn khoăn, không cảm thấy hạnh phúc về bản thân hoặc về những thành tựu đạt được, hay tự vấn không biết Chúa nhìn và đánh giá cuộc đời bạn thế nào, thì xin bạn cùng tôi nhớ rằng:

* Chúa hết mực yêu thương con cái của Ngài như người cha hằng hy sinh cho những đứa con mình một cách liên lỉ, vô điều kiện. Ngài nhìn bạn và tôi không ngoài điều gì khác ngoài một tình yêu vô hạn. Ngài cũng rất tự hào khi nhìn thấy những lựa chọn khôn ngoan và trưởng thành mà chúng ta đã và đang thực hiện trong dòng đời đầy biến chuyển này;
* Ngài nhìn thấy tâm hồn vâng phục của chúng ta, một tâm hồn đơn sơ, trung thành phó thác vào Ngài, ngay cả những lúc thất vọng ê chề, chán chường dường như mọi thứ chung quanh ta là bầu trời tối đen mịt mù không lối thoát;
* Chúa nhìn thấy cuộc sống hy sinh mà chúng ta dành cho Ngài và cho tha nhân qua biết bao lần ta dấn thân ngay cả khi phải trả giá; Ngài nhìn thấy ta sẵn sàng bước theo Ngài, tín thác vào chương trình cứu độ mà Ngài dành cho ta, thậm chí khi bạn và tôi không thể nhìn thấy rõ con đường phía trước hoặc đích điểm cuối cùng của đường đời;
* Chúa nhìn thấy tâm hồn quảng đại của bạn và tôi, sẵn sàng chia san, sẵn sàng quên mình và cho đi vì tha nhân. Luôn đặt công ích, lợi ích của cộng đoàn lên trên tư lợi; Ngài nhìn thấy ta khiêm tốn, sẵn lòng đón nhận ngọn lửa tinh luyện để ta được thanh luyện, tẩy sạch bợn nhơ và trở nên tinh tuyền, thánh thiện hơn;
* Chúa nhìn thấy ta mạnh mẽ trong đức tin, mặc dù bản thân ta cảm thấy yếu đuối. Ta đã trung thành với ơn gọi làm con của Ngài mặc dầu bao thử thách, chông gai giăng bẫy trên đường đời; Ngài nhìn thấy chúng ta là sứ giả Tin Mừng, là chứng nhân mang thông điệp tình yêu của Ngài đến với mọi người để họ cũng có thể tìm thấy nguồn vui ơn cứu độ.
Lạy Chúa, Ngài nhìn cuộc sống của chúng con khác với cách thế gian. Ngài thấu rõ những giá trị thật sự nơi cuộc sống của con mà những người khác có thể không để ý đến hoặc không nhìn thấy. Phẩm chất làm nên tính cách đóng góp cho cuộc sống của anh chị em chúng con và sẽ còn mang âm hưởng cho những biến chuyển lớn lao trong đời sống đức tin của chúng con. Xin ban cho chúng con đôi mắt biết hướng nhìn lên Chúa, và biết nhìn về phía tha nhân!

41. Công bằng hay bác ái?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

42. Ông chủ tốt bụng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Chắc hẳn ai trong chúng ta khi nghe đọc bài Tin mừng hôm nay cũng cảm thấy bị sốc. Trên trần thế này chẳng có ông chủ nào tốt bụng như vậy, nhất là thời buổi kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận hôm nay. Vì nếu các chủ nhà máy xí nghiệp mà xử sự như ông chủ vườn nho trong Tin Mừng thì chỉ có nước phá sản.
Nhưng điều Chúa Giêsu muốn diễn tả không phải là lãnh vực trần thế mà là lãnh vực Nước Trời, không phải là lãnh vực kinh tế mà là lãnh vực siêu nhiên.
Trần thế không có ông chủ nào như vậy, nhưng trên trời thì có. Đó là Thiên Chúa, “Đấng nhân hậu và từ bi, đầy kiên nhẫn và lòng thương xót, Chúa tốt lành với tất cả mọi người và yêu thương mọi kỳ công Người tác tạo” (x. Tv 144,8-9) .
Ngoài đời không có, nhưng trong Giáo Hội là “vườn nho” của Thiên Chúa và là hiện thân của Nước Trời trên trần gian này thì có.
Như ông chủ vườn nho trong Tin Mừng không muốn cho ai bị thất nghiệp. Ai cũng có công ăn việc làm. Và khi làm việc thì ai cũng đủ sống. Thiên Chúa cũng thế, Ngài không muốn cho ai phải đứng ngoài Giáo Hội, Ngài muốn mọi người đều trong Giáo hội. Khi ở trong Giáo hội thì ai cũng được Chúa yêu thương và cứu chuộc, không muốn cho ai phải hư mất. Phút chót, cuối đời Chúa cũng tìm cách cứu.
Như một vài đầy tớ trong dụ ngôn không hiểu ông chủ, nên đã lên án và kết tội ông, thì trong cuộc sống nhiều khi chúng ta không hiểu tình thương của Chúa và đường lối của Giáo Hội, nên chúng ta cũng lên án Chúa và kết tội Giáo Hội.
Chúng ta lên án Chúa và kết tội Giáo Hội theo tiêu chuẩn và đường lối của thế gian, chứ không phải theo tiêu chuẩn và đường lối của Chúa:
Đường lối thế gian – mà một vài tên đầy tớ làm đại diện – là làm nhiều thì phải được trả công nhiều: “trả lương theo sản phẩm”.
Đường lối của Thiên Chúa – mà ông chủ vườn nho làm đại diện – trả công vì tình thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên người làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày, kẻ tin thờ Chúa trong ngày sau hết của đời mình và của thế giới cũng được hưởng hạnh phúc Nước Trời như những người tin thờ Chúa từ thuở sơ khai hay từ thuở mới sinh.
Đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa thì siêu vượt hơn đường lối và tư tưởng của người phàm: “Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi. Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu” (Is 55,5-6).
Khi chúng ta dùng đường lối và tư tưởng của thế gian mà lên án Thiên Chúa và kết tội Giáo Hội, là chính chúng ta tự bêu xấu và vạch tội chúng ta, giống như những tên đầy tớ ghen tỵ trước nghĩa cử tốt lành của ông chủ vườn nho, đã phơi trần sự độc ác nhỏ nhen, ích kỷ của chúng. Cho nên trong cuộc sống ta cần phải suy nghĩ thấu đáo đừng vội vàng đưa ra những lời nhận xét, vì: Có những lời nói, việc làm của ta để lại tiếng thơm muôn đời, nhưng cũng có những lời nói việc làm của ta để lại tiếng xấu muôn đời. Có những việc làm như là tấm huy chương khen ngợi ta, nhưng cũng có những việc làm như là văn bia tố cáo tội ác chúng ta như cổ nhân đã từng nói: “Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn bia miệng vẫn còn trơ trơ”.
Lạy Chúa, xin cho con thấm nhuần tình thương và đường lối của Chúa, để con luôn vui mừng phấn khởi, chứ không ghen ăn tức ở trước những ơn lành Chúa đã thương ban cho anh chị em con trong cuộc sống. Amen.

43. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.)
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Ðức ái không có biên giới
Sinh năm 1929 trong một gia đình trung lưu Nhật Bản, tương lai của cô Satôcô như đã được sắp đặt sẵn. Là một người nhất mực bảo thủ với các truyền thống trong gia đình Nhật, cha của Satôcô, cũng là một tiến sĩ nông học, đã muốn giáo dục cô theo tiêu chuẩn của các thiếu nữ con nhà thượng lưu thời ấy: trung thành với Nhật hoàng; tòng phục cha mẹ; học những phong cách và lễ nghi quý phái để sau này phục dịch một đức lang quân do cha mẹ sắp xếp. Thế nhưng cha cô có ngờ đâu rằng, một ngày kia, con gái ông sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình ấy.
Năm 1941, Nhật khai chiến với Mỹ. Cha của Satôcô bị động viên vào quân đội; còn cô và em trai bị ép buộc vào làm việc ở một hãnh chế tạo máy bay. Năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, cô ngã bệnh lao vì kiệt lực; còn em trai cô đã chết trước đó cũng vì lao lực. Năm 1946, cô vào học trường Dược ở Tôkyô. Một ngày nọ, đang lúc đi dạo ngoài bãi biển, Satôcô bị cuốn hút chú ý đến hai Nữ Tu Thừa Sai Bỉ. Tuy không là người công giáo, nhưng một động cơ nào đó đã thúc đẩy cô theo chân hai nữ tu vào trong một nhà thờ. Vẻ đẹp của gương mặt bức tượng Ðức Nữ Ðồng Trinh như xoáy vào tim cô. Trở về nhà, cô đã học đạo với các Nữ Tu Thừa Sai và được rửa tội năm 1949. Ðó cũng là năm cô đậu bằng dược sĩ.
Thời ấy, có một thừa sai Phanxicô người Ba Lan tên là Thầy Ðô (Deno Sebroski), hoạt động nổi tiếng cho người nghèo ở khu ổ chuột Annê, ngoại ô Tôkyô. Cùng với một nhóm tu sĩ Ba Lan do thánh Maximilianô Kôlbê (sau tử đạo trong trại tập trung Ðức quốc xã) hướng dẫn, Thầy Ðô đã đến Nagasaki từ năm 1930. Vì những hoạt động nhân đạo nổi tiếng của Thầy, Thầy là người ngoại quốc duy nhất không bị bắt giữ trong chiến tranh, mà còn được chính Nhật hoàng ban thư giới thiệu, kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ Thầy. Khi nghe biết về Thầy Ðô, Satôcô đã nói với cha cô: “Nếu những người Ba Lan từ xa xôi đến Nhật để tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo, tại sao các tín hữu Nhật không thể làm như thế?” Thế là Satôcô đã đến gặp Thầy Ðô và xin đi thăm khu Annê. Ðêm hôm đó, cô không sao chợp mắt vì đầu óc miên man với hình ảnh những con người bất hạnh cô gặp ở Annê. Hơn nữa, gương mặt cũa vị tu sĩ già, lúc nào cũng ánh lên lòng thương xót và ý chí sắt đá phục vụ người nghèo, trở nên một thách thức đối với cô.
Sống chết với người nghèo
Khi thức giấc sáng hôm sau, Satôcô đi đến một quyết định táo bạo là phục vụ người nghèo mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Công việc đầu tay của cô ở Annê là tổ chức lễ Giáng Sinh năm 1950 cho trẻ em. Sau đó cô vẫn tiếp tục sinh hoạt đều đặn với các em: dạy học, chăm sóc, nghe các em tâm sự về hoàn cảnh gia đình. Tuy thế, người dân Annê chưa tin tưởng cô. Họ nghĩ rằng cô tiểu thư nhà giàu ấy không sống cho họ, nhưng chỉ vì Chúa; cô yêu Chúa chứ thương yêu gì họ. Hơn nữa, người dân Annê tuy nghèo nhưng luôn hãnh diện về khả năng sinh sống nhờ thu lượm đồ phế liệu chứ không muốn nhận của bố thí. Ðể chứng tỏ lòng thành thật của mình, Satôcô bắt đầu đi lượm ve chai và đồ phế liệu, để kiếm quĩ tổ chức các sinh hoạt cho trẻ. Dần dần, cô đã cảm hóa được những người lớn nhờ sự đơn sơ, vui vẻ và nhờ tình thương chân thành cô dành cho con em họ. Chính người lãnh đạo cộng đoàn Annê tặng cô chiếc xe đẩy để công việc thu lượm phế liệu của cô được dễ dàng hơn. Mỗi lần cần món tiền lớn để tổ chức những sinh hoạt đặc biệt như đi nghỉ hè, Satôcô thường cầu khẩn Mẹ Maria và luôn kiếm được số tiền cần thiết. Những hoạt động từ thiện của cô đã gây tiếng vang, đến độ tên tuổi cô xuất hiện cả trên báo chí và truyền hình.
Một lần nọ, cộng đoàn Annê muốn mua lại của thành phố một thửa đất lớn để qui hoạch lại khu phố với một trung tâm hướng nghiệp, một nhà thờ và một công viên. Tuy nhiên số tiền 25 triệu yên vượt quá sức của cộng đồng. Nhân cuộc họp thương lượng lần cuối của lãnh đạo cộng đồng với chính quyền thành phố, Satôcô đã trao cho phía chính phủ cuốn sách “Những trẻ em ở khu ổ chuột Annê” mà cô viết 4 năm trước đó; đồng thời cô cầu nguyện cật lực cho dự án này. Sau này khi cân nhắc lại, chính quyền đã đồng ý nhượng khu đất với giá 15 triệu, trả góp trong 5 năm.
Vì làm việc quá sức, lại ăn ngủ thất thường, nên chứng bệnh lao mang lúc 15 tuổi nay quay lại đòi mạng Satôcô. Cô đã dâng căn bệnh cho Chúa để cầu nguyện cho người dân Annê có được cuộc sống tươi đẹp hơn. Ngày 20.1.1958, khu phố mới Annê được khánh thành. Ba ngày sau, “Satôcô của khu ổ chuột Annê” qua đời ở tuổi 29. Trong những ngày cuối đời, cha mẹ cô đã đem cô trở lại Annê, để cô qua đời tại nơi cô hằng yêu mến (viết theo Mẫu Gương Thánh Thiện, trang 131-142)
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Tấm gương của cô Satôcô và Thầy Ðô hẳn làm chúng ta phải cảm phục. Ðể có thể làm những cử chỉ bác ái như thế, ắt các vị phải có một lòng thương cảm con người sâu xa và một đức tin mạnh mẽ vào Chúa. Thật ra, chính Thiên Chúa đã đi bước trước và là mẫu gương cho nhân loại về lòng thương xót vượt qua mọi rào cản; Ðấng ban Thánh Thần trong con tim mọi người, đã khơi dậy nơi họ lòng yêu thương, xả kỷ, hướng đến tha nhân. Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay là một mạc khải của Ðức Giêsu về Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thật vậy, ông chủ vườn nho ấy đã cư xử với lòng thương xót chứ không theo lối “công bằng sòng phẳng” như người đời. Với lòng thương xót, ông đã đi tìm những con người khốn khổ để giúp họ có được những thứ cần thiết cho cuộc sống. Trong dụ ngôn, những người khốn khổ đó là những người thợ không kiếm được việc làm. Không như những chủ vườn khác chỉ ra kêu đủ số thợ một lần vào sáng sớm, ông đã ra ngoài kiếm họ những 5 lần. Ðiều khó hiểu là mãi đến giờ thứ 11 ông còn ra kêu thợ vào làm chỉ một giờ; trong khi dụ ngôn không có dấu chỉ nào cho thấy có công việc đột xuất cần thêm thợ. Ðiều đó chỉ có thể được cắt nghĩa như sau: đích nhắm của ông chủ không là những công việc, nhưng là, những con người khốn kho堣ần bán sức lao động để kiếm sống hàng ngày. Chính vì vậy mà ông bận tâm nhiều đến những người thợ mà mãi đến giờ thứ 6, 9, 11 hãy còn thơ thẩn ngoài chợ, chưa được ai tuyển dụng; và ông đã ra ngoài những 5 lần.
Hơn thế, việc ông trả lương đồng đều: một quan tiền cho mọi người thợ [số tiền cần thiết để nuôi sống một gia đình trong một ngày], càng cho thấy rõ nét hơn rằng việc tuyển dụng chỉ là “cái cớ” để ông chủ nhân hậu giúp đỡ những người thợ ít mau mắn. Tuy nhiên, lối cư xử đầy thương xót của ông đã vấp phải những lời dị nghị của những con người vốn chỉ quen với thứ công bằng gắt gao đầy vị kyhứ công bằng này thẳng tay gạt ra ngoài những kẻ yếu thế, không đạt điều kiện của luật chơi “tiền có trao, cháo mới múc”. Trong khi đó, lòng thương xót thì vượt xa lẽ công bằng: nó không chiết tính sự tương xứng giữa “cái cho” và “cái nhận”, cũng không nghĩ đến chuyện thiệt hơn; nhưng nhìn thẳng vào sự khốn cùng của con người, rồi lao mình cứu giúp họ một cách nhưng không, hoàn toàn vô điều kiện, bất chấp lời đàm tiếu, bất chấp mọi rào cản. Tóm lại, lòng thương xót là hình thức công bằng thượng đẳng, vì nó nhằm đem đến cho mọi người, từ những người bé mọn nhất, một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con cái Thiên Chúa.
Ðó chính là cách thức mà Thiên Chúa đã hành xử với toàn thể nhân loại, khi Người ban Con Một đến chịu chết để cứu độ mọi người, bất kể họ là Do Thái hay dân ngoại; đạo đức hay tội lỗi; bất kể họ trở lại với Chúa vào thời điểm nào của cuộc đời họ: dù là “rất sớm” như một số vị thánh, hay chỉ vào giờ phút cuối cùng; giờ thứ 11, như trường hợp người trộm lành.
Nước Trời giống như gia chủ kia,… đã cư xử với lòng thương xót đối với tất cả mọi người, từ người sau hết đến người trước hết. Ðể được thuộc về Nước Trời đó, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi theo gương ông chủ, và những người đi trước như Thầy Ðô và cô Satôcô, cư xử với mọi người bằng một lòng nhân từ thương xót, vượt trên mọi rào cản sắc tộc, tôn giáo, chính kiến, giai cấp xã hội… và đôi lúc, phải vượt xa cả những nguyên tắc luân lý thông thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo bạn, ông chủ vườn nho có bất công hay thiên vị không? Bạn có thể bào chữa cho ông như thế nào?
2. Tại sao sống công bằng là cần thiết, nhưng chưa đủ? Tại sao cần phải có cả lòng thương xót?
3. Bạn có biết mẫu gương nào về lòng thương xót tại Việt Nam, tương tự mẫu gương của Thầy Ðô và cô Satôcô không?

44. Công bằng hay lòng thương xót?
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào làm cho ông. Một chuyện khá lạ là: không phải tất cả thợ đều được gọi vào làm ngay từ sáng sớm. Có nguời vào lúc giữa trưa; có người đến xế chiều mới vào làm, chỉ làm một giờ trước khi kẻng báo giờ nghỉ thôi. Vậy mà mọi người đều được lãnh như nhau: một đồng. Ta phải nói rõ: lương một ngày công của thợ là tương đương một đồng. Vậy nên những người làm ít giờ vừa khỏe lại có lợi, vì vẫn được một đồng. Còn nguời làm quần quật từ sớm cũng chỉ được như vậy. Do đó họ cằn nhằn cho là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ cắt nghĩa thế nào? Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Có hai hạng người chúng ta cần lưu ý:
* Ông chủ mướn công thợ: Bài dụ ngôn cho thấy, ông chủ rất quan tâm chuyện kêu gọi thợ đến làm vườn nho cho mình. Rõ ràng từ sáng sớm, ông đã ra đón thợ, mời họ vào làm vườn nho cho ông. Ông đã thỏa thuận với họ lương một ngày công là một đồng. Sau đó, lúc trưa, lúc xế ông lại ra, và gặp ai ông cũng mời họ vào làm cho ông. Rồi lúc 5g chiều, ông lại ra nữa, cũng thấy có mấy người đứng không đó, không có công ăn việc làm. Ông ngạc nhiên hỏi: Sao các anh ở không nhưng cả ngày như vậy? Họ trả lời: vì không ai mướn chúng tôi cả. Nghe vậy ông lại mời họ vào làm cho ông, dù họ chỉ làm có một giờ mà thôi. Cuối cùng khi hết giờ làm việc, ông cho phát tiền công; mỗi người đều được một đồng như nhau. Chính vì chuyện trả tiền công đồng đều như thế mà ông chủ bị phàn nàn…
Ở đây ta lại nhận thấy việc này: điều ông chủ quan tâm không phải là công việc, mà là những người khốn khổ, những người thiếu sống. Rõ ràng ông chủ quan tâm họ, vì họ không có việc làm, và ông sợ họ không kiếm đuợc tiền hàng ngày, để nuôi sống gia đình họ. Chuyện gọi họ vào làm công cho ông, chỉ là cái cớ, để ông trợ giúp kẻ thất nghiệp không công ăn việc làm. Như vậy ông chủ vườn nho cư xữ theo lòng thương xót, không phải theo lối công bằng sòng phẳng ở đời….
* Các người làm công ganh tị: Như trên đã nói, vì ông chủ thương xót nguời thất nghiệp, nên đã trả công cho một đồng, bằng lương cả ngày công lao động; tuy họ chỉ làm có một giờ thôi. Lối cư xử đầy lòng thương xót này đã vấp phải lời dị nghị của những con người chỉ quen thứ công bằng gắt gao, vị kỷ, sẵn sàng loại trừ kẻ yếu thế, cô thân. Rõ ràng lòng thương xót của ông chủ vượt xa lẻ công bằng; nó không cần đong đo xem có tương xứng không, giữa cái cho và cái nhận, cũng không cần nhìn đến sự thiệt hơn, chỉ nghĩ đến sự khốn cùng của con người, để cứu giúp không so đo tính toán…
b/. Chúa Giêsu muốn nói gì qua dụ ngôn này?
Dĩ nhiên, ông chủ ở đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa; các người làm công ganh tị, là hình ảnh các pharisêu, luật sĩ. Họ đang phẩn nộ vì Chúa quan tâm đến hạng thu thuế, gái điếm, dân ngoại, đó là những người bị họ liệt vào hạng tội lỗi; trong khi xem ra Chúa đánh giá các luật sĩ, biệt phái thấp quá… Qua dụ ngôn này, Chúa nhắc khéo họ như lời Thánh vịnh: “Chúa công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm”. Thiên Chúa không phải là ông quan tòa thưởng phạt chính xác, cũng không phải ông chủ tính toán chi li, cũng không phải ông thầu trả lương sòng phẳng, mà Người là Thiên Chúa lấy tình thương mà đối xử với con cái. Con cái nào Chúa cũng thương, nhưng đứa con Chúa thương hơn chính là vì nó bệnh tật, yếu ớt, đần độn…Cha thương con vì đó là con của Cha, không vì con đã làm cho Cha điều này điều nọ. Đứa con bệnh hoạn tật nguyền, Cha lại yêu hơn… Dụ ngôn này là một mạc khải sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì “tình yêu thì vượt xa lẽ công bằng…”
Câu chuyện: Có một người giáo dân hỏi cha sở: Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa. Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu. Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: “Tôi không quên anh đâu; nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc.” Có phải anh muốn nói thế không?: – Anh giáo dân cười nói: “Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp khét tiếng, tội nào mà không có..” Cha sở nói: “Vậy rõ ràng anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Mỗi người kitô hữu chúng ta đều được Chúa mời gọi vào làm cùng chung một việc là: làm trong vườn nho của Chúa, vào các thời điểm khác nhau. Thực ra Chúa không cần ta làm nhiều hay ít; điều quan trọng là ta có sẵn lòng làm cho Chúa trong tin yêu, khiêm tốn, quảng đại không ganh tị, cộng tác với mọi người không?

45. Cuộc tìm kiếm đời đời của trời
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Người”.
Kính thưa Anh Chị em,
Bàn tiệc phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay cho thấy sự nôn nóng cần thiết của một cuộc tìm kiếm hai chiều: con người tìm kiếm Thiên Chúa; Thiên Chúa kiếm tìm con người. Từ bài đọc thứ nhất cho đến bài Tin Mừng, tất cả đều hối thúc, giục giã con người tìm kiếm Thiên Chúa; đồng thời, con người hãy học biết rằng, chính Thiên Chúa cũng đang kiếm tìm nó.
Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Isaia thúc bách dân Chúa, “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần”; vì sẽ đến lúc, con người muốn tìm Chúa, nhưng không tìm được; và Người có ở gần đến mấy, họ cũng không thể kêu cầu. Ở đây, Isaia nói đến những con người mất đức tin; và một khi đức tin đã mất, Thiên Chúa có ở gần đến mấy cũng hoá xa; Người có đó, họ cũng không nhận ra Người. Vì thế, sẽ không ngạc nhiên khi Isaia nói tiếp, “Hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa, vì Chúa rộng lòng tha thứ”; Thánh Vịnh đáp ca cũng xác tín, “Chúa gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Người”. Với Thiên Chúa, không bao giờ là quá muộn. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng hối thúc tín hữu Philipphê, “Anh em hãy sống xứng đáng với Tin Mừng của Đức Kitô”, Đấng mà ngài xác tín, “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”.
Đặc biệt với dụ ngôn Tin Mừng, một bất ngờ đến thú vị nhưng cũng thật xúc động và ấn tượng khi sự hối hả, nôn nóng không chỉ ở phía con người mà còn ở phía Thiên Chúa. Ông chủ vườn Chúa Giêsu nói đến là hình ảnh chính Thiên Chúa. Từ sáng sớm, ông chủ ra chợ tìm thợ vào làm vườn nho; đến lúc chiều tà, ông vẫn ra ngoài kiếm họ. Năm lần bảy lượt, ông vẫn chỉ nói với người đến trước, kẻ đến sau cũng một câu, “Các anh hãy đi làm vườn nho cho tôi”. Đây là một ân huệ, cũng là một mệnh lệnh; nhưng cùng lúc, đó là một lời van xin. Đây là lời van xin của một Thiên Chúa đang luôn luôn đi tìm con người, một cuộc tìm kiếm của Đấng hằng xót thương, một cuộc tìm kiếm đời đời của trời. Chúng ta đọc thấy trong dụ ngôn hôm nay có đến năm lần trong một ngày, chủ vườn ra tìm thợ, nài nỉ thợ, hối thúc thợ vào làm vườn nho mình. Để rồi, kết thúc câu chuyện, chủ đã trả tiền công cho các thợ cùng một mức như nhau; người làm cả ngày, kẻ làm tám tiếng hay cả với những người chỉ làm một giờ… tất cả họ đều nhận được một mức lương giống nhau.
Bài học chúng ta rút ra ở đây là, thông thường, với đời sống đức tin của mình, chúng ta thích ngồi “nhàn rỗi cả ngày”; nói cách khác, chúng ta dễ dàng trở nên con cái Chúa, tin nhận Người; nhưng, sẽ rất khó khi chúng ta phải chấp nhận ‘công việc hàng ngày’ của một đời sống làm con Chúa, xây dựng mối tương quan ngày càng gắn bó hơn với Người; một tương quan đòi hỏi cam kết, dấn thân và nhất là biến đổi. Sống một đời sống đức tin nhàn rỗi luôn luôn dễ dàng hơn so với một đời sống không ngừng hoạt động. Vì thế, Thiên Chúa luôn luôn đi tìm chúng ta; với Người, không bao giờ là quá muộn. Người rất hào phóng và không bao giờ là quá trễ để con người hướng đến Người.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đang ngỏ với chúng ta, “Các anh hãy đi làm vườn nho cho tôi”. Đây là một thách đố mà nhiều người trong chúng ta phải đối mặt, vì có thể, chúng ta đã mất nhiều năm để sống một đức tin vu vơ, sống một đời sống ươn lười ì ạch và không biết làm cách nào để thay đổi. “Hãy đi làm vườn nho” vì thế, có thể là hãy đi mà thay đổi đời sống, trở về cùng Chúa, trở về cùng anh em; là bước ra khỏi tình trạng tội lỗi để sống trong ánh sáng; hoặc cũng có thể là một cam kết dấn thân mà nhiều lúc chúng ta còn lưỡng lự. Dụ ngôn Tin Mừng tiết lộ rằng, Thiên Chúa, Đấng xót thương và nhân từ vô cùng đang chờ đợi chúng ta và cũng đang nôn nóng đi tìm mỗi người; Người không bao giờ trốn tránh việc ban tặng sự giàu có của Người cho chúng ta, dù chúng ta đã xa Người bao lâu cũng như đã sa ngã đến thế nào. Thiên Chúa cũng sẽ trả cho chúng ta ‘một đồng’ như bao người khác. Đừng sợ! Ơn cứu độ là ‘một đồng’, ân sủng của Người là ‘một đồng’, Thiên Chúa hằng luôn mong ước cho ai ai cũng được hưởng ‘một đồng’ đó. Sự công bằng của Thiên Chúa là thế, một sự công bằng mang tính cứu độ. Đó là lý do khiến Thiên Chúa mãi mãi đi tìm con người, và đó cũng là lý do thúc bách chúng ta kiếm tìm Người.
Trong một buổi chia sẻ khinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại, “Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ; lần kia, cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim kể chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh dể, làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương mình. Qua nhiều biến cố, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết; cô gái trở về, thống hối, tiếc thương. Về đến nhà hôm ấy, gia đình tôi bàn tán ý nghĩa của chuyện phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình lớn tiếng, “Bấy giờ mới trở về, ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”. Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói, “Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”. Thú thật, ngày đó, tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi, nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm thía ý nghĩa của nó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng trở về với Chúa, và nhất là, tôi dễ dàng yêu thương tha thứ cho các con tôi”.
Anh Chị em,
Cô gái ấy chỉ hiểu được ‘không có sự trở về nào là trễ trong tình thương’ một khi đã làm mẹ. Cũng thế, chúng ta chỉ hiểu được điều đó khi chúng ta mang lấy tấm lòng xót thương của Thiên Chúa, một Thiên Chúa ở gần khi chúng ta kêu cầu Người. Vậy thì, chúng ta đang đi tìm Thiên Chúa hay Thiên Chúa đang đi tìm chúng ta? Chúng ta đang nhàn rỗi hay đang chăm chỉ trong công việc? Nếu đang chăm chỉ, hãy tạ ơn Chúa và tiếp tục cam kết mà không do dự; hoặc nếu đang nhàn rỗi, rõ ràng, Chúa muốn chúng ta đổi thay. Sự rộng lượng và khoan dung của Thiên Chúa thì luôn luôn như trời, như bể.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thật lạ lùng, khi con đang ở trong vườn nho ân sủng của Chúa thì Chúa vẫn mời gọi con ‘hãy đi làm’; thì ra, con chưa nên giống Chúa và Chúa vẫn đang đi tìm con mỗi ngày. Xin xót thương con”, Amen.

46. Công bằng của lòng từ nhân
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Câu nguyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi, nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một đã làm lụng vất vả suốt 12 tiếng ròng. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về diện pháp lý thì không ai chối cãi được, nhưng vẫn còn đó một điều gì không mấy ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều ta vẫn còn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng. Nếu Nước Trời giống như câu chuyện này thì quả thật nó hàm chứa một điều gì quá bất thường và có phần nào khó hiểu lắm đấy.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ qui luật nhân quả, có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì gặp lành, còn ai làm ác thì phải gặp dữ. Kể cả người Công giáo cũng thường được dạy, và đi tới xác tín như đinh đóng cột: nếu làm việc lành phước đức nhiều thì công phúc trên thiên đàng sẽ rất lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng, đó là luật nhân quả quá hợp lý đã in sâu vào tâm khảm không dễ gì xóa nhòa; ngay cả đôi lúc nếu có xuất hiện một vài luật trừ ra ngoài định luật này, ta cũng còn thấy khó chấp nhận.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, chắc hẳn Đức Giêsu chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, trong khi đó có một yếu tố ‘cào bằng’ rất lạ xuất hiện để trở thành nét đặc trưng của Nước Trời đang đến; “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên ‘cào bằng’ xem ra như đạp đổ tính công bằng của luật nhân quả, thưởng phạt, và đó là lý do của sự giận dữ kêu trách của những kẻ lẽ ra phải được coi trọng hơn. Tuy nhiên chính sự vô lý đó lại mời gọi ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai đứng đàng sau Tin Mừng: “Tôi tốt bụng”, Thiên Chúa nhân lành, Ông Chủ đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu đang vẽ lên hình ảnh một Thiên Chúa – Cha của Người khác xa hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, khác xa với Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót. Nếu không thấu hiểu và chấp nhận sự công bằng này, sự công bằng mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể mạc khải bằng cả cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể cả tôi nữa cũng sẽ phải cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mà thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Và nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) thì đúng là lúc đó tôi sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Thật đáng tiếc, những người thợ của giờ thứ nhất đã không khám phá ra điều này để phải cằn nhằn với chủ và ghen tức với đồng bạn. Lẽ ra họ đã phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng, trong khi tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Ngài trong một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa ‘tốt bụng’ của Đức Ki-tô, niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta cũng có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng mình, bất chấp các nỗ lực sống luân lý cách gương mẫu, cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’ khác.
Khi áp dụng qui luật này vào chính mình, nhiều khi tôi cũng cảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục… vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời những khi gặp thử thách gian nan tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng trông cậy. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ khác… tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của Ki-tô hữu; ‘tất cả đều là hồng ân’ không gì hơn một khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi… vì nhiều lúc tôi đâu có tìm thấy một lý do nào để mà cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, và Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một nửa dang dở!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn và tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa không ngừng. Amen.

47. Đồng lương xứng đáng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề (“chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày” Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: “Hãy đi vào trong Giao ước… Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta”.
Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Nên câu “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là “hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín”.
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê”; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng ” vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng”. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: “Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?”
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành,” quảng đại và nhân đạo.

48. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25, những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: “Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta”.
Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho: “Thầy là cây nho thật” (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. “Hãy đi làm vườn nho ta” còn có nghĩa là “Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi” (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng” (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa “sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: “Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng “xtate” tiền cổ Hy-lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra “điểm chính” trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình” (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: “Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín”.
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng “không ai thuê”; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào “buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ” đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng “vào giờ thứ mười một” anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: “Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta” (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng “không ai thuê” (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh “hãy đi làm vườn nho ta” (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: “từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng”. Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: “Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?”
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn “tốt lành”, quảng đại và nhân đạo.

49. Chúa Nhật 25 Thường Niên
THIÊN CHÚA TRẢ CÔNG CHO MỖI NGƯỜI TÙY THEO VIỆC HỌ LÀM
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý cố ông bà và anh chị em,
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và điều khiển vũ trụ, cắt đặt công việc phù hợp cho mỗi loài, đồng thời ban thưởng xứng đáng khi chúng chu toàn bổn phận được trao.
Con người, được dựng nên giống hình ảnh Chúa, có bổn phận nhận biết, yêu mến, tôn thờ Đấng tạo hóa thay cho loài thụ tạo, để được hưởng tình yêu và sự sống muôn đời.
Nhưng không làm được, vì tội bất phục tùng, họ đã đánh mất tình nghĩa với Chúa, gây hậu quả bi thảm là tội lỗi và sự chết.
Tất yếu, con người không thể tự cứu chính mình, họ cần đến Thiên Chúa cứu. Giê-su được ban tặng cho loài người và thánh danh Giê-su có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ, Người xuống thế làm người cho được cứu hết mọi người thế gian.
Hồng ân cứu độ, vừa là quà tặng thần linh, vừa là sự đáp trả tự do của con người, nên mạc khải dùng ý niệm “trả công” hay “ban thưởng”: “Thiên Chúa trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm” (2C 5, 10), để diễn tả thực tại nền tảng của đức tin.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày mầu nhiệm đức tin bằng những hình ảnh rất phong phú diễn tả Thiên Chúa, “tình yêu và sự sống”, trả công cho mỗi người tùy theo việc họ làm.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, kêu gọi kẻ tội lỗi làm hòa với Chúa bằng việc tìm kiếm và kêu cầu danh Ngài. Ngôn sứ cho thấy sự nhẫn nại và lòng thương xót Chúa vô biên vô tận. Chúa hằng luôn ở gần và lắng nghe lời họ kêu xin: “Hãy tìm Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người còn ở kề bên” (Is 55, 6).
Thế thì, khi nào Chúa ở kề bên và còn cho gặp?
Thưa bao lâu con người còn sống, thì bấy lâu Chúa vẫn ở kề bên và sẵn lòng cho gặp, chỉ khi, ai đó khước từ Người cho đến chết, họ mới phải lìa mặt Người. Vậy bao lâu còn sống trên trần gian, tất cả đều có thể tìm gặp và khẩn cầu lòng thương xót Chúa cho mình và cho kẻ khác.
Tuy nhiên, tìm gặp và kêu cầu Chúa hệ tại tấm lòng hoán cải canh tân, dốc lòng đoạn tuyệt tội lỗi cách quyết liệt và dứt khoát. Ngôn sứ khuyến cáo: “Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có, mà trở về với Chúa, Người sẽ xót thương” (Is 55, 7).
Sau này Phao-lô lặp lại lời dạy trên khi khuyến khích cộng đoàn sống theo gương Đức Kitô: “Anh em hãy cởi bỏ lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt, buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn” (Ep 4, 22 – 23).
Việc Thiên Chúa kêu mời chúng ta trở về với Người để được hưởng tình yêu và sự sống là mầu nhiệm lớn lao, trí khôn không thể thấu hiểu, vì đó là đường lối của tình yêu thượng trí, như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Chúa cao vời hơn phàm nhân như vậy.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc minh chứng điển hình cung cách hành xử của Chúa thiết lập trên lòng nhân ái và tình yêu diệu huyền.
Dụ ngôn ông chủ vườn nho mướn thợ đi làm. Ông không giao kèo khung giờ làm việc, mà chỉ thỏa thuận tiền công là “một đồng”.
Điểm khác thường của ông chủ, mướn thợ trong nhiều thời điểm khác nhau, thậm chí cả vào giờ thứ “mười một”, nghĩa là, thợ chỉ phải làm có một giờ và kết thúc ngày làm, ông chủ đều trả mỗi người một đồng.
Bài học rút ra từ dụ ngôn: ơn cứu độ, không phải tiền công do việc làm, mà trên hết, là hồng ân Chúa ban, bởi thế, không ai có quyền đòi được trả công vì đã sống đạo, đã làm việc cho Chúa. Trong mọi việc đã làm, chúng ta chỉ có thể thưa: “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, không làm gì hơn là phận sự phải làm” (Lc 17, 10).
Thật và rất thật, đoạn Tin Mừng gieo vào lòng chúng ta niềm hy vọng lớn lao, vì biết rằng: cho dù là kẻ tội lỗi, là thợ giờ thứ “mười một”, chúng ta vẫn được ban thưởng trọn vẹn phần phúc Nước Trời. Hãy xem người trộm lành cùng bị đóng đinh với Chúa mà vững lòng tin tưởng, cậy trông. Chỉ một lời tuyên xưng đức tin chân thành, anh đã nhận lời hứa: “Thật hôm nay, con sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 3, 43).
Thực ra, đây không phải là trường hợp duy nhất Giê-su hứa thiên đàng cho tên trộm biết hối cải, nhưng nhiều và rất nhiều những kẻ tìm đến thú tội với Người đều được hứa như vậy: “Tội con đã được tha” (Lc 5, 20).
Anh chị em đã có bao giờ cảm nhận được hồng ân tha thứ tội lỗi và lời hứa thiên đàng như thế chưa? Nếu có, thì hãy sinh hoa quả xứng với lòng thống hối, để đáng được ban thưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, làm mọi sự vì Tin Mừng, chỉ khao khát một điều duy nhất là được ở cùng Chúa. Đối với ngài, sống là Đức Kitô và chết là “mối lợi”, vì được ở cùng Chúa luôn mãi.
Phao-lô chỉ có một mối bận tâm: tìm Chúa và ở với Người, mọi cái khác, kể cả công việc Chúa trao cũng chỉ là thứ yếu, là rơm rác, là phân bón, trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô.
Cái dũng của thánh nhân là ở chỗ đó, linh đạo nên thánh là ở chỗ đó: “tìm Chúa, chứ không phải công việc của Chúa” (Đường hy vọng).
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải biết tận dụng thời gian Chúa ban để tìm kiếm và kêu cầu danh Ngài. Đó là thời gian vàng, là cơ hội duy nhất cho kẻ lữ hành,vì Chúa luôn luôn ở cùng chúng ta.
Sự nhẫn nại và lòng thương xót vẫy gọi chúng ta vào vườn nho Chúa cho dù muộn màng, chỉ là thợ giờ thứ mười một.
Anh chị em hãy vui lên trong Chúa, tôi xin nhắc lại “hãy vui lên”, vì Chúa đã gần đến. Hãy đồng tâm nhất trí, hiệp nhất trong đức tin, đức cậy, đức mến, để khi Chúa đến vẫn thấy chúng ta đang tỉnh thức và vững dạ đợi chờ, nghĩa là, tìm kiếm Chúa trong sự hoán cải, canh tân.
Hầu chắc, Giê-su và chúng ta sẽ dẫy tràn niềm vui, vì phần thưởng dành cho chúng ta sẽ bội hậu trên trời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta!
Xin Chúa nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong ngày chúa nhật hôm nay. Amen.

50. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Hai sự kiện.
Báo Người Lao Động số 23.1993 có đăng bài: Chợ Người Hà Nội.
Người Hà Nội bấy lâu nay đua nhau xây nhà. Nếu thiếu nhân công lặt vặt là có thể ra ngay chợ người mua sức lao động. Đội quân từ các tỉnh về Hà nội thường xuyên có đến hai ba chục ngàn người. Rỗi việc nhà nông, ở quê không có người phụ…không việc làm, họ ra Hà nội, tụ tập nhiều nhất là dọc đường đôi Giảng võ, trục đường dài theo đê Đại la, xuống Láng… đến chợ Mộc… Công việc có nhiều giá. Việc lặt vặt như dọn đất đá, khuân gạch tô vôi, quét vôi lóc thì khoán từ A đến Z, hoặc là cơm chủ hai bữa cộng tiền công ba, bốn ngàn, hoặc là tự lo bữa ăn..thì 5,6 ngàn một ngày. Tiền công như vậy là rẻ mạt. Cũng đành vậy thôi. Họ chỉ có đôi tay. Và còn hơn là không có việc.
Người thuê cũng có ít. Vì ngại, vì sợ người làm công quen cửa quen nhà mình rồi, làm xong biết đâu người ta “xin đểu”,”trộm cắp, nhờ vả”… rách việc thêm.
Báo Tuổi trẻ ngày 4.4.1996 có đăng bài: Chợ Người Ở Định Quán.
Nếu như ở Hà nội, dòng người xuất phát từ nông thôn đổ xô về thành thị “nhóm chợ’ tìm việc làm thì tại Định Quán (Đồng nai), một khu chợ mới đã hình thành trên quốc lộ 20 với những đặc trưng của nó. Đó là những người lao động hình thành từ những làn sóng “di dân tự do’ it đất, không có tư liệu sản xuất, đành phải bán sức lao động kiếm sống…Vùng này là vùng có nhiều đất, có nhiều đá lộ đầu nên việc dùng cơ giới trong nông nghiệp bị hạn chế. Do đó nhu cầu về lao động rất cao.Từ tháng tư đến tháng mười hai, thời gian diễn ra vụ trồng, ngày ngày có hàng trăm lao động tụ tập ở “chợ” chờ đợi. Những ngày cao điểm, vào vụ lên đến bốn năm trăm người. Những chiếc xe cải tiến, xe máy xới chạy ì ạch, chở đầy những lao động từ “chợ người” đi về các vườn cây, các nương rẫy. Mỗi lao động được từ 15.000 – 20.000đ /ngày. Những ngày cao điểm có thể đến 30.000 – 40.000đ. Hôm sau, mờ mờ sáng chợ lại đông.
2. Trọng tâm dụ ngôn
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông…” Giữa một “chợ người” thời Chúa Giêsu ở đất nước Do Thái, tương tự như “Chợ người Hà nội” hay “Chợ người Định quán” bây giờ, một xã hội ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận như một ngày công lao động 15.000đ – 20.000đ
Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
– 3 giờ là 9 giờ sáng
– 6 giờ là 12 giờ trưa
– 9 giờ là 3 giờ chiều
– 11 giờ là 5 giờ chiều
Theo lệ thường công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành nổi đe dọa, ghen tức.
Vậy thì ông chủ có bất công không? Chắc chắn là không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính ông chủ trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày.
3. Ý nghĩa dụ ngôn
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài ngươì nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa thì nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người thì nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Sự trả công của Ngài không làm thiệt hại ai, vẫn luôn bảo đảm tính công bằng.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, khô cứng, Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
4. Sứ điệp
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa thương xót. Đã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.

51. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài…
***
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông…”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
– 3 giờ là 9 giờ sáng
– 6 giờ là 12 giờ trưa
– 9 giờ là 3 giờ chiều
– 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. “Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn”. Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận “giữ đạo” để được “lên thiên đàng”. Nhưng người ta cũng có thể “sống đạo” chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành “nô lệ”, thành “kẻ làm công”. Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.

52. Hãy đi vào vườn nho
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Vào cuối chương 19, Phêrô đặt ra vấn đề phần thưởng cho việc đi theo Chúa Giêsu Kitô. Và Chúa đã hứa với các môn đệ một phần thưởng “gấp trăm và sự sống đời đời” (19,27-29). Dụ ngôn nầy liên kết với đoạn trên như một minh họa (“vì thế”, gar). Dụ ngôn 20,1-15 được đóng khung bởi hai câu 19,30 và 20,16, và chủ đề của dụ ngôn nói đến sự tự do của Thiên Chúa trong việc thưởng công. Về bố cục, dụ ngôn có thể phân thành hai phần: mướn người vào làm vườn nho (20,1-7), và trả tiền công (20,8-15). Các từ vựng chính chi phối trong dụ ngôn nầy liên quan đến giờ giấc và thứ tự: “giờ thứ nhất”, “giờ thứ hai”…, và “người trước hết”, “người cuối hết”.
Mướn người làm công cho vườn nho (cc. 1-7)
Phần thứ nhất của dụ ngôn nói về việc mướn người vào làm vườn nho. Công thức mở đầu dụ ngôn cũng thấy trong 18,23, “Nước Trời giống nhưông vua kia”. Thật ra, Nước Trời không giống “như ông vua”, mà giống như câu chuyện ông chủ mướn người vào làm vườn nho mình. Cũng như Nước Trời không giống như “người buôn ngọc quý”, mà như “viên ngọc quý” (13,45); Nước Trời không giống“ông vua làm tiệc cưới cho con mình”, mà giống “tiệc cướì” (22,2). Như thế chỉ có hiểu Nước Trời như thế nào từ những điều rút ra từ nội dung của dụ ngôn.
Ông chủ mướn người vào các giờ khác nhau vào làm vườn nho. Các hạn từ “Chủ nhà”, “chủ vườn nho”,“vào vườn nho”, eis ton ampelōna, (cc. 1.2.4.7.8), làm nghĩ đến Thiên Chúa và dân Israel, “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh đó là nhà Israel” (5,7). Việc thuê mướn và trả công, misthoomai, và nói đến trong dụ ngôn nầy mang ý nghĩa cánh chung (x. 5,12; 6,1; 10,41tt).
Sau dẫn nhập, Matthêô trình bày ông chủ mướn nhóm người đầu tiên từ sáng sớm (c. 2) tách biệt khỏi nhóm thứ hai gồm những người được mướn vào “từ giờ thứ ba” cho đến “giờ thứ mười một” (cc. 3-5). Nhóm người đầu tiên nầy có một điểm khác biệt tương phản so với nhóm sau là có sự thỏa thuận giữa họvới chủ nhà về tiền công nhật là “một quan tiền” (c. 2). Sự thoả thuận nầy cho thấy có sự mặc cả, tính toán. Matthêô đã khéo trình bày “đồng ý với thợ một quan tiền” trước, rồi mới đến “ông chủ sai vào vườn nho”.
Trái với nhóm sau, ông chủ chỉ hứa “Tôi sẽ trả công bằng cho các anh” (c. 4), và mệnh lệnh “Cả các anh nữa hãy đi làm vườn nho” (cc. 4.7). Về nhóm nầy, Matthêô ghi nhận là họ “đứng vô công rỗi nghề”. Tính từ argos, (= a + ergos), nghĩa là “không có việc”, “vô dụng” (x. 12,36). Qua tính từ nầy Matthêô cho thấy sự vô dụng của những người trong nhóm thứ hai, và lòng tốt của chủ nhà. Chủ nhà dùng động từ “cho”, didōmi, đối với những người nầy, thay vì “trả công”, misthoomai, đối với nhóm đầu tiên, hay theo cách suy nghĩ bình thường của những người vào giờ thứ mười một (c. 7). Didōmi dùng cho Thiên Chúa. Ngài ban ơn do lòng tốt, chứ không bởi công lao con người (6,11; 7,7).
Vậy với phần đầu tiên nầy Matthêô trình bày việc ông chủ mướn hai nhóm người vào làm vườn nho. Một nhóm đi làm dựa trên sự thỏa thuận có tính toán, và một nhóm nhiều người hơn, đến vào các giờ khác nhau. Phần thưởng cho nhóm người nầy dựa trên lòng tốt của chủ nhà.
Trả tiền công (cc. 8-16)
Phần thứ hai nói đến việc trả tiền công. Những câu đầu (cc. 8-10) trình bày bối cảnh và việc trả tiền công cuối ngày. “Chiều đến” (c. 8), chỉ dẫn thời gian, đóng khung lại một ngày làm công “từ sáng sớm” (c. 1). Người chủ nhà bây giờ được gọi là “chủ vườn nho”. Tất cả các người làm công, ergatēs, đều được gọi vào để trả tiền (c. 1.8). Thứ tự “người trước” và “người sau” bây giờ đảo ngược lại. Người làm giờ thứ mười một được gọi vào trước, và người làm công từ sáng sớm vào sau cùng. Thứ tự nầy cũng thấy trong câu kết đóng khung đoạn nầy (cc. 8.16).
Những câu tiếp đến trình bày cuộc tranh luận giữa chủ vườn nho và những người làm giờ đầu tiên (cc. 11-15). Trước tiên là phản ứng của những người nầy (cc. 11-12). Họ “lẩm bẩm”, gongyzō. Động từ nầy chỉ dùng một lần ở đây trong tin mừng thứ nhất. Thánh sử Luca cũng chỉ dùng động từ nầy một lần, và trong ngữ cảnh Chúa Giêsu “ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi” (Lc 5,30). Đối với người Pharisêô đó là điều trái luật. Như thế có thể hiểu là nhóm người đầu tiên nầy “lẩm bẩm” vì chủ vườn nho hành xử không đúng luật; vì thế mà chủ vườn nho hỏi “tôi không được phép làm điều tôi muốn” ở câu 15. Rồi họ đưa ra sự kiện là ông chủ “kể những người làm một giờ ngang hàng với chúng tôi” (c. 12). Như thế, họ muốn chủ vườn nho phải cư xử “đúng luật” là trả họ số tiền lớn hơn.
Tiếp đến là phản ứng của chủ vườn nho (cc. 13-15). Trong các câu nầy, chủ vườn nho ngỏ với “một người trong nhóm họ”. Trước tiên ông khẳng định về sự công bình. Ông đã không bất công với người ấy,”ouk adikeō (c. 13a), và ông nhắc lại sự thoả thuận giữa đôi bên (c. 13b). Ở trên, nhóm người đầu tiên đặt mình so sánh họ với những người đến sau. Ở đây chủ vườn nho đặt họ so sánh với chính mình. Ông nói đến sự tự do của mình.
“Tôi muốn”, thelō, được dùng đến hai lần trong hai câu 14 và 15. Muốm là hành động. Trong câu 14, chủ vườn nho cho biết “tôi muốn” là động lực ông trả tiền cho người cuối ngang hàng với người ấy, chứ không theo bất cứ sự tính toán nào khác. Động từ didōmi lập lại ở đây, “Tôi muốn cho như bạn”. Ông tự do làm theo ý muốn của mình. Câu 15 gồm hai câu hỏi mà câu trả lời phải là “vâng”. Ông đặt ra tính hợp pháp của việc ông làm. Câu hỏi “Tôi không được phép, exestin, làm như tôi muốn?” hàm ý là đối với người đầu tiên việc ông đã làm là không đúng luật. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn đứng trên lề luật. (12,12-13; 22,17tt).
Trong câu hỏi thứ hai, chủ vườn nho tiếp tục biện minh cho cách cử xử của mình: “mắt anh xấu vì tôi tốt lành?” (c. 15b). Có một số bản văn dịch chữ ponēros là “ghen tị”, “thèm muốn”. Ở đây tôi nghĩ cách tốt nhất là vẫn dùng chữ “xấu” cho từ nầy, và tìm cách giải thích từ nầy được hiểu theo nghĩa nào trong văn mạch nầy. Chủ vườn nho đặt đối chiếu “con mắt xấu” với “tôi là tốt”: “Hay là con mắt anh xấu vì tôi tốt lành?”.
Hiểu thế nào là “mắt xấu” được dùng như một ẩn dụ ở đây. “Con mắt” là một phần thân thể, nhưng chỉ cả con người, bên trong lẫn bên ngoài. “Mắt xấu, ponēros” dẫn đến tối tăm cả con người (6,23). Câu hỏi của chủ vườn nho làm cho người đối thoại phải đặt lại vấn đề về con mắt của mình; đồng thời cũng cho thấy nhận xét của chủ vườn nho về con mắt của người ấy. “Phải chăng là mắt anh xấu…?”, nghĩa là “nên mù loà, tối tăm vì không chịu nỗi sự tốt lành sáng ngời của tôi?” Sự tốt lành của chủ vườn nho làm cho người nầy thấy sự xấu xa của mình. Họ xấu vì họ đã không hài lòng với sự công bình mà họ đã thỏa thuận với chủ ngay từ đầu, bởi đó chủ mới bảo họ: “Hãy lấy phần bạn mà đi” (c. 14a). Họ xấu vì đã tỏ ra tính toán, ghen tị, tương phản với sự không tính toán và quảng đại của chủ vườn nho. Chúa đến làm cho tâm can mọi người thổ lộ (x. Lc 2,35). Nhận xét nầy làm liên tưởng đến thái độ không tốt của người anh cả đứng trước sự quãng đại của người cha nhân hậu trong Lc 15,11-32.
Câu 16 đóng khung lại phần hai nầy và cũng là kết luận của dụ ngôn. Người cuối cùng trở nên trước hết bởi lòng tốt của chủ vườn nho, và người trước hết lại nên cuối hết, vì họ không hiểu, nên không chấp nhận lòng tốt của ông. Trong văn mạch của đoạn 19,27-30, “người sau hết” có thể hiểu là các môn đệ. Họ là những người đến sau giữa những người đầu tiên như người giàu có (19,16-22). Và họ sẽ trở nên “người trước hết”. Điều nầy được Chúa Giêsu báo trước là họ sẽ “ngồi trên mười hai ngai và sẽ xét xử mười hai chi tộc Israel” (19,28). Như thế họ sẽ là “những người trước hết” trong Nước Trời.
Sự công bình của Thiên Chúa dựa trên lòng tốt của Ngài. Ngài quyết định theo ý muốn của Ngài chứ không theo tiêu chuẩn của con người. Bỏ mọi sự mà theo Ngài và làm việc cho vườn nho của Ngài, con người sẽ được ân thưởng vượt quá công nghiệp của mình và lòng mình ước mong.

53. Người thợ giờ thứ mười một
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền…
***
Vào thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15). Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ tức giận và cằn nhằn ra sao. Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau. Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,vì ông đã trả cho những người thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói lên tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:đó là ý muốn của tôi.
Tình thương của Thiên Chúa phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15). Thiên Chúa không phải là một nhà kinh doanh, nhưng là người cha tốt lành.
Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu, nhưng anh ấy đã phải đứng chờ suốt cả ngày.
Thế giới hôm nay lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ, đứng chờ suốt ngày, đứng chờ suốt đời. Họ chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ. Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, những tiếng reo kinh ngạc, những tiếng reo ngỡ ngàng, những tiếng reo tri ân…Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng. Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ đợi. Nhiều khi chờ đợi còn mệt mỏi hơn cả làm việc nữa. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu nổi. Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ sau khi chứng kiến: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi.
Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì hết.
Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm cả áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp.
Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người thất nghiệp vô tội này.
Và ông đã có một lời cầu nguyện như sau: “Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”. “Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”.
Lạy Chúa, tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi và con tim chúng con chai cứng.
Xin Chúa mở rộng lòng trí chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa, và hành động giống Chúa hơn.
Xin gúp chúng con đừng bao giờ bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác.
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công.
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.

54. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: “Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.

55. Ông chủ quảng đại
“Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại”. Đó là cách cư xử bình thường của con người với nhau. Nói vắn gọn là công bằng và sòng phẳng. Đây là điều mà những người chủ cần biết quan tâm nhiều hơn với người của họ. Một người chủ sáng suốt và tài giỏi sẽ biết trả lương đúng với thực lực nhân viên của mình.
Với cái nhìn này, chúng ta sẽ thấy ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay thật lạ lùng. Trước nhất là thông thường việc đi kiếm người làm thì do người quản gia. Còn ở đây chính ông chủ lại đi kiếm người làm. Chẳng những ông đi kiếm một lần trong ngày mà nhiều lần.
Lạ thứ hai là cách trả lương của ông chủ. Ông chỉ giao kèo với những người được mướn từ những giờ đầu. Còn những người vào làm những giờ gần cuối ngày thì không. Đến khi trả lương, ông lại trả cho những người vào làm cuối ngày trở lên. Lạ nhất là tất cả mọi người đều được hưởng lương như nhau. Do đó họ mới phàn nàn: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.” (Mt 20, 12). Nếu như với thời buổi hiện nay, chắc chắn những người làm này sẽ tổ chức đình công ngay.
Hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn này có lẽ chúng ta sẽ hiểu ngay Chúa Giêsu muốn nói về ai. Đó chính là Thiên Chúa của chúng ta. Không phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa mà chính Người đi tìm chúng ta. “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con” (Dt 1, 1 – 2)
Ơn cứu độ mà chúng ta được nhận lãnh là ơn ban hoàn toàn nhưng không chứ chẳng phải do công sức của chúng ta. Vì thế, Thiên Chúa có toàn quyền ban phát tuỳ theo ý muốn của Người. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cho mọi người đều được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói: “Hãy vui với người vui và khóc với người khóc” (Rm 12, 15). Cho nên lẽ ra khi thấy anh chị em cùng được hạnh phúc thì chúng ta phải vui lên chứ không được phân bì. Phần chúng ta khi cảm nhận được mình đang được hưởng những ân huệ nhưng không thì hãy biết sống tốt hơn nữa. Có như thế chúng ta mới thật sự là những đứa con có hiếu.

56. Công bằng hay là bác ái?
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Mt 20: 1-16: Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật XXV thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa….
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, Cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilh đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xầm xì với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”.Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…” “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…” Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: “Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như đi chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hững trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không là ai khác hơn hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?” Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên và thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi muốn cho người làm sao chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?” Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” (Bđ 1: Is 55,8).
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương ít, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với những người khác?” đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường lấy làm ngạc nhiện và bị “sốc” trước cách hành xử của Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật là rộng luơng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bình để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy nềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương.Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.

57. Biết ơn Chúa
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn, CSsR)
Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho”, nói về một ông chủ đi kêu thợ đến làm vườn nhà mình vào những giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau, từ kẻ nhập cuộc lúc 5 giờ chiều cho đến người làm từ 6 giờ sáng.
Nghe qua dụ ngôn, không ít người cảm thấy ưng ức: tại sao Chúa có vẻ thiên vị, quá nhân ái với người này và chỉ công bình với người kia? Giả như Chúa công bình với hết mọi người thì chắc là không ai thắc mắc. Mấy anh là full time thì trả cho lương full time; mấy anh làm part time thì cứ tính giờ trả tiền thì êm thôi. Với lại mấy anh làm nhiều giờ tất có kinh nghiệm hơn những người làm ít, cứ trả thêm cho người có nhiều experience một tí thì đâu có sinh so sánh ganh tị thế kia.
Lối cư xử của Chúa quả không giống ai! Chẳng trách gì có người không ưa Chúa, và rồi họ ghen ghét, vu cáo, sỉ nhục, đóng đinh, giết chết.
Nhưng phải chăng vì Chúa đã làm sai? Ngài phải bước theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người hay con người phải sống theo tinh thần và quyết định của Tạo Hoá? Phải chăng cái chết của Chúa là do Ngài làm trái ý người ta hay người ta đi xa đường lối của Thiên Chúa?
Một nhà tư tưởng đã trả lời: tại vì con người và cũng tại vì Chúa. Tại con người quá hẹp hòi ích kỷ và tại Chúa quá nhân ái từ tâm.
Vì hẹp hòi ích kỷ nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Bao xúc phạm nhân phẩm, tổn thương tình người, xào xáo phân ly cũng phát xuất từ tính chất ghen tuông, tiểu tâm và đố kỵ đó.
Kinh thánh ghi nhận không ít những tình trạng như thế. Các luật sĩ biệt phái đã bất bình uất ức khi thấy Chúa Giêsu ngồi ăn với những người thu thuế. Họ cũng càm ràm khó chịu khi thấy Chúa xử sự khoan dung với người phụ nữ tội lỗi nhất trong châu thành. Chưa hết, mười hai tông đồ thân tín của Đức Kitô cũng không tránh khỏi tâm địa con người. Bỏ tất cả mọi sự theo Chúa, bất chấp nắng mưa, cực nhọc, túng thiếu. Ăn ở với nhau rất đề huề. Bỗng, một người đàn bà đến xin cho hai ông Gioan và Giacôbê được ngồi hai bên tả hữu Chúa khi Ngài khải hoàn vinh quang.
Thế là sinh chuyện. Mười ông còn lại phẫn uất với anh em con nhà Giêbêđê khiến Chúa Giêsu phải ra tay can thiệp, dạy các ông bài học khiêm nhường, yêu thương, và quên mình vì người khác.
Dụ ngôn “Người Con Hoang Đàng” cũng là một minh họa cho bản chất ích kỷ nơi con người. Đức em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, giao du với đàng điếm, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm. Nó đi bụi đời, sống chết mặc nó! Đời mình cứ êm trôi.
Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh phẫn uất. Nỗi bất bình gia tăng đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Anh tuyên bố: “Thằng con của ông”. “Ông” chứ không phải “cha”, “con của ông” chứ chẳng còn “em của tôi” nữa. Tình người bị cắt đứt.
Khi tình người bị cắt đứt, người ta đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau: lo cho nhau khi gặp rủi ro, mừng với nhau khi được may mắn. Thiếu tình người nên kẻ làm vườn từ sáng sớm không sao hình dung được hoàn cảnh thê lương của người thất nghiệp hay thiếu việc.
Không hiểu được tâm trạng lo lắng của người phải kiếm miếng ăn cho vợ con. Không chia sẽ được niềm vui của những gia đình có bữa cơm chiều hân hoan đầm ấm.
Nhưng tại sao người ta lại thiếu “tình người” như thế? Thiết tưởng, câu trả lời đúng nhất là vì họ vô ơn, không nhận ra được tình Chúa. Như trong bài Phúc âm tuần trước, vì không rung cảm sâu xa tình thương của đức vua khi tha trắng món nợ kếch xù, nên anh đầy tớ độc ác đã vô tình, vô tâm, và đối xử mất hết chất người với kẻ khác. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ nhoi.
Cũng thế, không nhận thức được ơn phúc chủ ban khi kêu mình vào vườn nho từ sáng sớm, tránh được biết bao lắng lo, khổ tâm của một kẻ chờ chực đầu đường cuối chợ, nên hạng thợ buổi sáng đã không cảm thông xót thương cho hạng thợ buổi chiều. Nếu họ được trả một đồng, còn mấy người vào sau chỉ được 25 hay 50 cents thôi thì chắc hài lòng lắm. “Nếu bọn kia được một đồng thì ta phải được một đồng hơn,” nghĩ thế nên họ bất an khi người khác được như mình.
Đúng là thiếu nhận thức tình Chúa, sẽ chẳng có tình người. Khi vô ơn thì cũng dễ vô tình vô tâm.
Thế nên, để sống hạnh phúc hơn trong đời, tôi phải ngước nhìn để khám phá tình Chúa yêu tôi: không nhìn lên với phân bì so đo, nhưng nhìn xuống với cảm thương san sẻ. Có người đã viết: “Tôi cứ buồn mãi vì mình không đẹp như tiên, xinh như hoa, cho đến khi gặp một gương mặt bị phỏng không còn đôi mắt, không còn cặp môi. Từ đó, tôi biết yêu mình và yêu người hơn.”
Và dưới đây là lời cầu nguyện của một cô gái mắc bệnh phong cùi tên Véronique. Trong nỗi đau tột cùng vẫn ánh lên niềm tin yêu tha thiết. Ước gì lời cầu nguyện chân tình đó cũng là tâm tự của bạn và tôi, với Chúa và với tha nhân:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa mọi sự. Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã mượn cặp mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con. Mỗi độ Xuân về, con tung tăng hái lượm những cách hoa xuân, và Chúa lại xin đôi bàn tay. Bởi vì con là một phụ nữ, con thích ngắm nhìn suối tóc óng ả, ưa nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.
Thế mà bây giờ, đầu con như chẳng còn sợi tóc nào, chẳng còn đâu những ngón tay xinh xinh, chỉ còn lại một vài “que củi” khô queo, nhám nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn con, cái thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến mức nào. Thế nhưng con không thể nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.
Vâng, lạy Chúa, muôn đời con sẽ dâng lên hai chữ “Tạ Ơn”. Bởi vì hôm nay nếu Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cõi đời, con sẽ chẳng tiếc hận gì.
Đời con đã được quá ư đầy tràn, đến kỳ diệu tột độ: sống đắm mình trong tình yêu. Cuộc đời con được Chúa lấp đầy chan chứa, vượt quá những gì mà tim con hằng mong ước.
Ôi lạy Cha, Cha đã đối xử quá đẹp với bé gái Véronique của Cha, và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! Con xin dâng lời nguyện tha thiết cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương cách đặc biệt những ai đang bị “bệnh cùi tâm hồn”, đang đạp đổ, đè bẹp, và hủy hoại.
Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy. Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến, chính mình con cho họ, bởi vì họ là những anh chị em. con.
Ôi Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi nơi thân xác con để những người kia đừng bao giờ biết đến cái đắng cay, lạnh lẽo kinh hồn của “bệnh cùi tâm hồn”. Như mẹ hiền ấp ủ con thơ, Cha hãy ôm con vào lòng và nhận chìm con xuống đáy tim Cha. Xin cho con được mãi mãi ở đó cùng bao người thân yêu cho đến muôn đời. Amen.”
Tôi tự nhủ: nếu hôm nay mình còn chưa thoả mãn với cuộc đời, nếu mình còn bất an với sự may mắn của bao người, nếu mình còn vô tình trước ơn Chúa, thì mình còn phải đọc đi đọc lại lời cầu nguyện trên đây nhiều lần nữa.

58. Phi cơ & cái kẹp giấy
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Ðiều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì chúng ta sắm được mà chính là tình yêu ở trong công việc chúng ta làm. “
Hãy tưởng tượng trên căn phố bạn ở có 4 căn nhà. Bạn là chủ căn nhà ở góc đường trị giá 300 ngàn đô, nhà thứ ba trị giá 200 ngàn đô và nhà cuối cùng trị giá 100 ngàn đô. Hãy tưởng tượng đứa con bạn nói với bạn: “Bố ơi nếu có ai đó chịu mua căn nhà mình với giá 500 ngàn đô thì bố có bán không?” hẳn bạn sẽ trả lời: “Nếu thế thì may quá bố sẽ bán ngay tức khắc”. Một tiếng đồng hồ sau chuông điện thoại vang lên. Bạn bước tới máy để trả lời và rồi không thể nào tin nổi vào tai mình! Có một người đề nghị mua nhà bạn với giá 500 ngàn đô. Bạn thật là vui mừng và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng chủ căn nhà bên cạnh cũng đã bán nhà họ cho chính người đã mua nhà của bạn. Và thật là tin sét đánh! Mỗi người trong họ cũng đã bán được căn nhà mình với giá 500 ngàn đô.
Nghe thế, bạn liền giận dữ đến nỗi gọi điện cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta liền trả lời: “Bộ tôi phỉnh gạt anh à? Hay là anh ganh tị vì tôi đã rộng lượng”.
Câu chuyện này ứng dụng vào dụ ngôn của Chúa Giêsu nêu ra bài Phúc âm hôm nay một cách hiện đại hơn.
Ðể đánh giá được tính chất độc đáo dụ ngôn của Chúa Giêsu, chúng ta nên nhớ rằng những kẻ đến làm vườn nho vào những giờ cuối, không hề là những kẻ biếng nhác. Họ là những người thợ làm công cần việc làm. Sự kiện họ vẫn chờ đợi mãi cho đến năm giờ chiều cho thấy họ khẩn thiết cần việc làm biết bao.
Trong thời Chúa Giêsu, nếu trong ngày người ta không kiếm ra việc làm thì ngày hôm sau gia đình người ấy thường không có gì ăn. Vì thế người nào kiếm được việc làm từ buổi sáng thì sẽ vui vẻ cả ngày và gia đình người đó cũng thế.
Tại sao Chúa Giêsu kể ra câu chuyện trên? Ngài muốn nêu ra bài học gì đây? Trong cuộc sống thực tế, ai được ví là đám thợ được thuê sớm và ai là đám thợ được thuê muộn? Những kẻ được thuê muộn là những kẻ tội lỗi trong thời Chúa Giêsu. Những người này lắng nghe lời Chúa giảng và ăn năn thống hối. Còn đám thợ thuê sớm là những người biệt phái. Ðám người này giận dữ vì thấy những người tội lỗi ăn năn trở lại để rồi sau đó cũng được vào nước Chúa, và cũng nhận được phần thưởng y như họ.
Thái độ của đám biệt phái có thể so sánh với thái độ của một ai đó chỉ trích Chúa Giêsu vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá qua câu nói: “Hôm nay anh sẽ lên thiên đường cùng Ta” (Lc 23: 43).
Ðiều thú vị đáng ghi nhận là giả sử đám thợ được thuê sớm không hay biết số tiền người chủ trả cho đám thợ đến sau thì hẳn họ đã vui vẻ biết ơn khi trở về nhà rôi. Nhưng vì biết được, nên họ đã trở về nhà lòng đầy giận dữ và ghen tị.
Ðiều này gợi lên một vấn nạn.
Tại sao đám thợ được thuê sớm lại ganh tị với sự may mắn của những kẻ được thuê muộn? Cũng như tại sao bạn lại ganh ghét với phận may của bà chủ nhà trên cùng con phố ấy khi những người này cũng bán được nhà của họ với giá 500 ngàn đô? Tại sao quá nhiều người cảm thấy hạnh phúc hay buồn bã vì ý nghĩ của mình về người láng giềng khá hay tệ hơn?
Chúa Giêsu ám chỉ đến câu trả lời cho vấn nạn trên khi Ngài để cho chủ vườn nho nói với đám thợ được mướn sớm: “Bộ ta đã phỉnh gạt các người sao?. Hay là các người ghen tị vì thấy Ta quảng đại?”
Chúng ta thường ghen tương với phận may của kẻ khác bởi vì chúng ta ganh tị với họ. Nhưng điều gì khiến chúng ta ganh tị với họ? Lý do là vì chúng ta nghĩ rằng họ khá hơn chúng ta, họ có nhiều tiền hơn chúng ta, họ xinh đẹp dễ coi hơn chúng ta, họ tài năng hơn chúng ta.
Thật rủi thay! Khi chúng ta nghĩ thế là chúng ta đã phạm phải sai lầm lớn trong việc xét đoán thiên hạ theo những tiêu chuẩn trần gian chứ không phải theo tiêu chuẩn của Chúa. Nếu chúng ta xét đoán theo tiêu chuẩn của Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ khám phá ra mình cũng khá giống như kẻ khác vậy.
Ai hiểu được điều này? Trong kế hoạch của Chúa, tài năng của chúng ta có thể còn đáng giá hơn tài năng của một kẻ nào đó mà thiên hạ đánh giá là thông thái hay quyền uy. Thánh Phaolô đã nêu rõ điểm này trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô đoạn 1 câu 27-28: “Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian xem là vô ý nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều mà thiên hạ chê bai, khinh bỉ, liệt vào hạng không ra gì, để tiêu huỷ những gì thiên hạ cho là quan trọng”.
Tôi xin minh họa điều thánh Phaolô muốn nói:
Cách đây vài năm, một chiếc hoả tiễn thử nghiệm đắt tiền đang sắp đậu xuống căn cứ không quân Edwards ở Califonia. Khi viên phi công định hạ thấp cần số vào vị trí cho hạ cánh thì bỗng nó không hoạt động nữa. Viên phụ tá liền xem xét chớp nhoáng và khám phá ra vấn đề là do nơi mạch “rờ le” bị trục trặc. Thế là anh ta vội chạy đi kiếm một cái gì đó tạm sửa cái “rờ le” (mặt tiếp điện) để làm cho cần số hoạt động trở lại — và anh ta đã tìm được một cái kẹp giấy, uốn cong nó lại, nhờ đó giải quyết được khó khăn và làm cho cần số hoạt động trở lại được. Cái kẹp giấy đó khác nào tấm bùa cứu cho chiếc phản lực đắt tiền khỏi bị đâm sầm xuống đất. Vào lúc đó, xét theo nhiệm vụ đặc biệt ấy, cái kẹp giấy tầm thường này còn quan trọng hơn toàn bộ dụng cụ trên chiếc máy bay.
Kế hoạch của Thiên Chúa cũng thường như thế đó. trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã nhân danh Chúa nói rằng: “tư tưởng của Ta – không giống tư tưởng các ngươi, và đường lối của Ta khác với đường lối của các ngươi. Trời cao hơn đất thế nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối và tư tưởng của các ngươi như thế”.
Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta nghe theo lời khuyên của thánh Phaolô gởi tín hữu Galata. Thánh Phaolô nói: “Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình. nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm” (Gl 6: 4).
Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống này không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc chăm chỉ như thế nào trong vườn nho của Chúa. Ðiều quan trọng là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta và tình yêu thôi thúc chúng ta làm việc.
Có câu chuyện về một nhà giảng thuyết trứ danh nọ. Ông ta biết mình là một diễn giả xuất sắc nên thường dùng các bài giảng gây danh tiếng cho mình. Vào cuối đời khi ông sắp chết thì có một điều gì đó rõ ràng đang quấy nhiễu ông. Bề trên dòng trông thấy và nói; “Thưa cha Matthêu, xin hãy bình an. Khi ngài ra trước Chúa Giêsu để chịu xét xử, ngài chỉ cần nhắc cho Chúa về những bài tuyệt hảo ngài từng giảng thuyết.” Cha Matthêu liền đáp lại: “Nếu Chúa Giêsu không để ý đến chúng, thì chắc hẳn con sẽ không nhắc cho Ngài nghe về chúng đâu”.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Ðức Hồng Y Newman:
“Chúa đã uỷ thác cho tôi vài công việc mà Ngài không uỷ thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ.
Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm…
Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài.”

59. Tự do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là phần thưởng đổi lại lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất cả moị người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội, một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.

60. Khiêm tốn và vâng phục
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)
Năm 1979, ông Earl Hamilton, một thượng sĩ chánh Hải quân Hoa kỳ, đã mua 2 ngôi nhà tại Oxnard, California với gidi 23 ngàn dollars một căn. Vì lạm phát và cơn lốc leo thang, hai ngôi nhà ấy hôm nay trị giá khoảng 500 ngàn Mỹ kim, nghĩa là ông có lời gấp 10 lần. Khi đề cập đến vấn đề nay, ông mỉm cười “Chúa thương tôi, nên tôi khấm khá hơn khi tại ngũ”. Nhiều người thấy gương của ông, cũng vội vã đầu tư. Nhưng cơn lốc chim cút hết thời! kinh tế bất ổn, việc làm bếp bênh, hãng xưởng đóng cửa. Ngôi nhà mới mua vì thế bị mất giá năm, sáu chục ngàn. Họ trách và hận trời thiên tư nên không được may mắn như ông Hamilton!
Sống trên đời ai cũng mong có một cuộc sống ấm êm, sung túc, tiện nghi và thành công. Ai cũng muốn có mảnh bằng, một nghề nghiệp vững chắc, và ráng thử thời vận hên xui. Nhưng thành công hay thất bại còn lệ thuộc vào ba yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà hay “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Hiểu theo đức tin thì Chúa có ban, chúng ta mới có.
Nhiều người đọc kinh “tràng giang đại hải”. Nhiều nhà trưng dọn bàn thờ, hương nến nghi ngút. Nhiều nhóm sốt sắng với việc tôn vương và chia sẻ Lời Chúa. Rồi tự thoả mãn với cái thánh thiện và đạo đức bề ngoài ấy. Họ chỉ trích, sống lập dị, chống đối, và tranh giành chức tước. Tệ hơn thế, họ còn muốn lướt quyền thánh hoá, quản trị và dậy dỗ của các chủ chăn. Bằng mọi giá họ đòi được kính trọng và chào hỏi. Bằng mọi cách, họ phải được ghi danh trong sổ vàng và bực bội nếu có ai chẳng may nổi danh và được nể vì hơn họ.
Thiển nghĩ cách sống đạo hời hợt này không được Chúa chúc lành và dù có cố gắng cả đời thì họ vẫn lẹt đẹt về cuối. Cái sáng giá mà Chúa chờ đợi là một tâm hồn tan nát khiêm cung, và một lòng sám hối thành thực của người trộm lành. Anh bị án treo bên cạnh Chúa. Anh ngó sang Chúa cầu xin ơn tha thứ vào giờ thứ 24 và phần phước anh được là “hôm nay, anh vào Thiên quốc với Ta”. (Lk 23,43).
Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” Chúa dậy hôm nay không khích lệ tín hữu chờ đến phút chót, rồi chớp nhoáng đổ bộ chiếm cửa trời. Điều Chúa mong mỏi là mỗi tín hữu có một phận sự, một nghĩa vụ, một tài khéo, một sứ mệnh và một ơn gọi đặc thù. Hãy phát triển năng khiếu, thực thi sứ mệnh, chia sẻ ơn gọi và dấn thân phục vụ. Đừng nhìn tha nhân và phân bì. Không dò xét so đo và khinh khi người. Chẳng tự ti khi thua, không tự tôn lúc thắng. Nếu không, chúng ta sẽ là “những chú khỉ giỏi bắt chước và đầy tị hiềm”.
Chúng ta theo Chúa với thiện chí, ý thức và trưởng thành. Đức tin là đèn dẫn lối. Khiêm tốn là tinh thần phục vụ. Vâng phục là phương thế cộng tác. Thương yêu là tôn chỉ hành sự và Nước trời là cùng đích. Với một quan niệm đúng đắn, với một đời sống thiêng liêng vững chắc và với những nhân đức tuyệt vời như trên, chúng ta màng chi đến những vinh quang phù du nay còn mai mất, cũng chẳng ham gì những lời khen chê xã giao và vô bằng. Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên bỏ và bạc đãi những ai thành tâm, rộng lượng và tha thiết với việc nhà trời.
Trong kỳ Đại hội Giáo Sĩ và Tu Sĩ tại Houston năm 1983, một vị đáng kính đã công khai khen thưởng một đồng nghiệp vì không hút thuốc, chẳng nhắm rượu: “thế thì cha thánh thiện quá!” Lời phán đoán nông cạn này có phải là thước đo mức độ thánh thiện không? Nếu đúng thì từ Chúa Kitô đến nay, Giáo hội không có một ai thánh thiện! vì đã hút thuốc và uống rượu!
Sống trưởng thành thiêng liêng là không kênh kiệu và tự đắc như phàm phu tục tử nhận xét “một cha dòng thánh thiện gấp hai cha triều”. Sống khiêm tốn và vâng phục không phải là cúi đầu “trồng cây ngược”. Sống nghèo khó và đơn sơ không có nghĩa là than thở để vơ vét, kèo nài sống sượng và vô duyên.
Trái lại, chúng ta vâng phục mà cương quyết, lắng nghe mà không mù quáng, bất đồng nhưng không đả phá, rộng lượng mà chẳng đòi công, kính phục song không nịnh bợ, giầu có mà không dâm dật, nghèo hèn mà lòng thẳng ngay, thành công mà vẫn khiêm tốn.
Với triết lý vững chắc và thần học thánh thiện này, chúng ta vui khi tha nhân được ơn lành và thành công. Chúng ta cảm tạ Chúa và hài lòng với hiện tại. Chúng ta không sẽ là những Cain, tra tay giết em vì ghen, vì tị nạnh, vì thua kém!

61. Đeo mặt nạ
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào? Với mặt nạ, trước hết người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối, nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta. Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…

62. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa. Chẳng hạn: Không phải vô cớ mà Đức Kitô đã trách những kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà giữ cái thái độ được bày tỏ trong những lời này: Mắt thế mắt, răng đền răng (Mt 5, 38). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất những quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dẫn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này (Dives in Misericordia- số 12).
Đọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Những người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như những người làm vườn nho trách ông chủ là đúng?
Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Ơn cứu rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người giữ đạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện mà thôi. Như vậy có phải Thiên Chúa bất công? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không?
Bài đọc một trích sách tiên tri Isaia trả lời rất rõ: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Rất đúng! Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vẫn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh quẫn trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.
Công bằng mà những người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót. Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ? Là Kitô hữu, điểm qui chiếu cho ta vẫn phải là Lời Chúa: Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ. Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con nbgười phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng tội của họ là xong. Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Để cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể. Chúa Kitô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho những đứa con phản nghịch. Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vẫn cứ là tội, vẫn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ. Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vẫn có một giá trị lớn lao, cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống đức tin của họ. Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!
Nước Trời là vậy đó. Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Kitô thực hiện. Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải ăn miếng trả miếng.
Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn. Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp. Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.

63. Ghen tị
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

64. Ganh tị
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu, lòng nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart.
Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng của nó”. Khi yêu ai người ta dám hy sinh tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.

65. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)
XÉT THEO LÒNG KHOAN DUNG QUẢNG ĐẠI CỦA THIÊN CHÚA
Câu chuyện dụ ngôn thợ làm vườn nho ở phần cuối quả là bất thường. Nó bất thường ở chỗ người bắt đầu làm từ sáng sớm cũng được trả một quan tiền, bằng người vào làm lúc trưa và ngay cả bằng người vào làm lúc chiều. Nó bất thường nên các người thợ làm từ sáng sớm cảm thấy bất công, vì họ tưởng họ đáng lý phải được lãnh nhiều hơn.
Dụ ngôn, vì vậy chỉ cho thấy sự so sánh ganh tỵ của con người và lòng bao dung quảng đại của Thiên Chúa.
Bạn có thói ganh tỵ không? Chắc là bạn sẽ trả lời là không. Tuy nhiên, điều chắc chắn mỗi người chúng ta đều có; đó là sự so sánh hơn thua.
Trong lớp học, chắc học sinh nào cũng muốn học giỏi hơn người khác. Trong làm ăn buôn bán, ai cũng muốn phát đạt hơn người khác. Ngay cả một tu sĩ cũng muốn mình đạo đức thánh thiện hơn người khác. Rõ ràng là sự so sánh và muốn hơn người là một điều tốt. Nó là động lực mà Thiên Chúa đặt để nơi lòng con người để con người vươn lên.
Tuy nhiên, nhiều khi so sánh mình với người khác lại trở thành nguồn gốc cho tội lỗi, nghĩa là, nó dẫn ta đến phạm tội.
Xin kể câu chuyện giả tưởng như sau:
Bạn là chủ hộ một căn nhà trị giá 1 tỷ. Một người đến đề nghị mua nhà bạn với giá 2 tỷ. Bạn thật là vui mừng và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng hai ngôi nhà kế cận, chỉ trị giá 700 triệu và 500 triệu, cũng đã được ông chủ đó mua với giá 2 tỷ, ngang bằng với giá ông đã mua nhà bạn. Thật là tin sét đánh đối với bạn. Nhà bạn to lớn sang trọng ông ấy đã mua 2 tỷ. Hai nhà hàng xóm kia, nhỏ hẹp, chỉ đáng giá mấy trăm triệu mà ổng cũng mua 2 tỷ. Bạn liền giận dữ, gọi điện thoại cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta liền trả lời: Tôi có làm gì phỉnh gạt anh đâu? Tôi muốn mua giá cao là tùy ở tôi chứ?
Trong dụ ngôn, những người làm từ sáng sớm, đã cằn nhằn với chủ nhà, có vẻ như chỉ trích chủ nhà là bất công. Họ nói: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Cũng nên nhắc lại, tội lớn nhất của thế giới thần linh có động cơ từ tội ganh tỵ. Tổng lãnh Thiên Thần Lucipher vì ganh ty rồi kiêu ngạo, không muốn tùng phục Thiên Chúa. Họ chống Thiên Chúa đến cùng. Lucipher hay Satan không muốn chịu thua Thiên Chúa, biểu lộ tội ghen ty cho đến cùng. Tội nguyên tổ, cũng có động cơ từ sự ghen tỵ. Ông bà nguyên tổ đã ganh tỵ với Thiên Chúa, muốn biết lành biết dữ như Thiên Chúa nên đã phạm lệnh Chúa, ăn trái cấm. Và rõ ràng nhất, tội Cain giết em là Ebel. Tội này xảy ra cũng là vì sự ganh tỵ.
Làm sao để chúng ta thoát khỏi cái tính so sánh ganh tỵ, tránh xa được tội?
Để tránh được sự ghen tỵ đó, chúng ta phải nhận ra rằng, Thiên Chúa là ông chủ, có quyền cho ai bao nhiêu tùy ý của Ngài. Và chắc chắn rằng, Ngài chẳng bao giờ bất công. Chúng ta phải xác định rằng, ông Chủ vườn nho, hình ảnh của Thiên Chúa, không bao giờ bất công.
Điều kế tiếp là ta phải đánh giá theo những tiêu chuẩn của Thiên Chúa chứ không phải theo tiêu chuẩn của thế gian. Nếu chúng ta đánh giá theo tiêu chuẩn của Chúa thì chúng ta sẽ khám phá ra mình cũng không thua kém kẻ khác.
Thử hỏi: phải chăng có quyền lực là sung sướng, có tiền bạc giàu sang là sung sướng, có đẹp đẻ là hạnh phúc, là hơn kẻ khác?
Nhiều khi những hoàn cảnh tốt đẹp, giàu có, danh vọng lại gây tai hại cho chúng ta. Những người thợ được có việc làm ngay từ sáng sớm có vẻ là may mắn. Nhưng điều xấu xảy ra cho những người thợ này là ra khi ra về thì lòng họ đầy oán hận trách móc ông chủ. Về đến nhà gặp vợ con với nét mặt buồn bã và bực dọc, trút ra những lời khó nghe.
Nhiều khi sự khó khăn bi thảm, như nghèo đói bệnh tật, xấu số lại là một hoàn cảnh tốt cho chúng ta. Chắc hẳn những người thợ bị thất nghiệp đến giờ cuối sẽ vui mừng và biết ơn ông chủ. Về đến nhà gặp vợ con với nét mặt hân hoan sung sướng, chia sẽ niềm vui mình vừa được.
Đánh giá theo Thiên Chúa, khác đánh gía theo thế gian đã được Thánh Phaolô biểu lộ trong thư gởi tín hữu Corintô, khi ngài nói: “Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian xem là vô nghĩa để làm bẻ mặt những người thông thái, và Ngài chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để những kẻ có thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiên hạ chê bai, khinh khi, bị liệt vào hạng không ra gì, để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng” (1Cr 1,27-28).
Vì vậy, để tránh những lỗi phạm do sự so sánh ghen tỵ, cần phải tin tưởng Thiên Chúa là người cha nhân từ, luôn săn sóc chúng ta. Ngài không bao giờ để con cái Ngài bị thua thiệt thiếu thốn. Ngài rất công bằng nhưng cũng rất khoan dung, rộng tay ban phát. Điều Ngài ban phát, tuy nhiều khi ta không đáng giá được giá trị thực của nó, là hơn hay kém người khác, nhưng chắn chắn là vượt xa công trạng của mỗi người.

66. Quảng đại
(Suy niệm của Lm. Louis Minh Nhiên, CRM)
Một công ty thuê một cái tàu du ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên làm việc giỏi và chăm chỉ. Đến ngày đi, các nhân viên ngày xuống tàu và đi tìm phòng của mình. Chỉ vài phút sau, một người chạy vội lên văn phòng muốn gặp vị thuyền trưởng. Một trong nhựng viên chức phụ trách hỏi: “Ông muốn gặp thuyền trưởng để làm gì?” Người đó đáp: “Tôi cũng làm việc giỏi và chăm chỉ như người bạn của tôi, thế mà tại sao anh ta lại được căn phòng xinh đẹp hơn căn phòng của tôi?” Vị phụ trách trả lời: “Thưa ông, căn phòng nào cũng giống nhau cả”. Người đó nói: “Phải, nhưng phòng của anh ta nhìn ra biển khơi, còn căn phòng của tôi chỉ nhìn thấy bến tàu, trông chẳng hấp dẫn chút nào?”
Thật là tội nghiệp. Một khi tàu rồi bến ra ngoài khơi thì hai bên đều nhìn thấy biển giống nhau. Một con chim sẻ phàn nàn với Chúa: “Chúa cho con công nhiều màu sắc rực rỡ xinh đẹp, còn cho chim hoàng anh thì hót thật hay trong khi con chẳng được gì và còn bị quên lãng. Tại sao Chúa lại dựng nên con chỉ để cho con đau khổ?” Chúa nhẹ nhàng trả lời: “Con không được tạo dựng để chịu đau khổ. Con đau khổ vì con phạm vào một lỗi làm giống hệt như con người, đó là con so sánh mình với người khác. Hãy bằng lòng với chính mình, vì không có so sánh thì cũng không có đau khổ”.
Phải chăng nếu để ý sẽ thấy rằng chúng ta thường hài lòng với những gì chúng ta có cho tới khi chúng ta so sánh những gì mình có với những gì người khác có?
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến dụ ngôn thuê người làm vườn nho, thuê người làm từ sáng sớm cho đến người chỉ làm được một giờ trước khi nghỉ và tối đến tất cả đều lãnh được một đồng, khiến cho người làm từ sáng sớm bất mãn kêu ca ông chủ bất công.
Để hiểu rõ thêm về dụ ngôn nầy, chúng ta cần phải hiểu về bối cảnh hoàn cảnh của xã hội Palestine thời Chúa Giêsu sinh sống. Theo William Barclay, một nhà chú giải thánh kinh, ở Palestine mùa hái nho chính vào cuối tháng Chín. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mùa mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời giờ để kịp thu hoạch.
Tiền công trả cũng bình thuờng, một đơniê là tiền công một ngày bình thường của một người làm mướn. Những người đứng chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở xứ Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến năm giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Những người này là những nhân công làm thuê, thuộc tầng lớp lao động thấp nhất, đời sống của họ luôn bấp bênh, trong đe dọa bị đói. Họ hoàn toàn sống nhờ vào sự thương xót, vào cơ hội làm việc. Nếu họ thất nghiệp một ngày, thì con cái sẽ bị đói. Giống như ở Việt Nam bây giờ, lương công nhân khoảng một hai đô la, và gia đình nào có thể để dành với đồng lương một hai đô la chứ? Do đó, đối với họ một ngày thất nghiệp là một tai họa.
Phải chăng ông chủ bất công? Không, ông chủ không bất công, vì lẽ người làm từ sáng sớm đã đồng ý đã thoả thuận về tiền công nhật là một đồng và họ lãnh nhận được một đồng. Họ lãnh nhận đủ tiền lương của một ngày cho một ngày trọn làm việc. Nhưng khi họ thấy người làm sau cũng được một đồng, mà thật sự đó không phải là vấn đề của họ (it was really none of their business), họ đâm ra tức giận phàn nàn kêu ca. Có lẽ người làm sớm sẽ bằng lòng an tâm nếu họ không chơi trò so sánh. Họ so sánh những gì họ được trả với người khác được trả khiến họ bất mãn để rồi bị lãnh nhận một câu hỏi tuy thành thực nhưng đầy đau đớn: “Phải chăng các người ghen tị vì tôi quảng đại?”
Với dụ ngôn này, một nhà chú giải Thánh kinh đã thêm rằng, người chủ bày tỏ cả sự công bằng lẫn quảng đại. Công bằng với người làm sớm và quảng đại với người làm sau. Ông biết người làm sớm có đủ tiền lo cho nhu cầu sinh sống thường ngày, và quan tâm đến người làm sau. Ông biết rằng một đơniê một ngày không phải là số lương lớn, và nếu người làm công trở về nhà với một số tiền ít hơn nữa, vợ họ sẽ lo lắng và con họ sẽ bị đói, vì vậy người chủ vườn đã vượt qua lẽ công bằng và trả cho họ nhiều hơn số tiền họ đáng được.
Tuy hiểu như vậy nhưng chúng ta vẫn không thoải mái với dụ ngôn bởi lẽ thông thường người chủ không trả lương bổng cho nhân viên theo lòng thương xót vì nếu làm như vậy chắc thương mại của ông chẳng tồn tại lâu dài, thứ đến, nếu tất cả người thợ đều lãnh nhận lương bằng nhau với số giờ làm việc nhiều ít khác nhau thì chắc sẽ có chuyện đình công hay ít nhất cũng có cuộc biểu tình chứ chẳng chơi! Dụ ngôn này tuy không thực tế trong cuộc sống, nhưng đã nói lên sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta,” cũng như làm nổi bật lòng quảng đại nhân lành của Thiên Chúa.
Tất cả đều là ân sủng. Trước mầu nhiệm cứu chuộc, một nhà chú giải Kinh thánh nói rằng, chỉ có Chúa Giêsu là người thợ làm từ sáng sớm, còn tất cả chúng ta chỉ là người đến sau làm muộn. Tất cả những gì chúng ta đã đang lãnh nhận cũng như ơn cứu chuộc đều là quà tặng do lòng rộng rãi của Thiên Chúa nhân lành. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”, chúng ta được mời gọi làm sứ giả đem lại niềm vui cho con người. Thay vì đặt mình là người làm vườn nho, chúng ta hãy đặt mình vào vai trò người được chọn để phân phát tiền cho người làm, phải chăng chúng ta thấy niềm vui mừng sung sướng hiện trên khuôn mặt của người thợ chỉ làm được một giờ khi lãnh nhận tiền công và phải chăng chúng ta cũng đã đang muốn đem những niềm vui giống như thế đến cho tha nhân?
Một buổi sáng nọ, người đàn bà đã làm một cử chỉ lạ thường: dừng xe lại để đóng thuế đường, bà nói với người thâu ngân: “Tôi đóng thuế cho tôi và cho sáu chiếc xe phía sau tôi”. Thế là lần lượt đến phiên mình, sáu chiếc xe đều dừng lại và nghe người thâu ngân giải thích: “Ông không cần phải trả tiền nữa, người đàn bà lái chiếc xe phía trước đã trả thế cho ông rồi.” Tuy bỡ ngỡ, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên khuôn mặt.
Ông chủ vườn nho trong bài Tin mừng hôm nay và người đàn bà trả tiền thế đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân, còn mỗi người chúng ta?

67. Ganh tị
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ “Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn “The Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.

68. Chúa quá nhân từ
(Suy niệm của Br Minh Trân, CRM)
Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc bên lề đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế ở vùng đấy, và được bác cho biết là họ đang đứng chờ người thuê đi làm. Bác còn thêm: “Ở đây thuê Mễ rẻ lắm”. Tôi hỏi tiếp: “Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?” Bác trả lời:”Có người trả họ hai đồng một giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng thì hiếm lắm. Tụi nó… hả… trả bao nhiêu nó cũng làm hết”. Thấy cảnh tượng nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ có người sẽ được thuê đi làm, được năm ba đồng nuôi sống gia đình (nghĩ thấy xã hội cũng bất công…) và cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả Nước trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn nho của ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những người thợ làm vườn nho trong bài Phúc âm đều được gia chủ gọi đi làm và được trả công cân xứng.
Theo một số nhà chú giải Thánh kinh thì ở đây Chúa có ý muốn nói cho dân Do Thái (những người được Chúa tuyển chọn, được mạc khải cách riêng) hay dân ngoại (những người chưa nhận biết Chúa), người công chính (những người ngày đêm hằng tuân giữ luật Chúa) hay người tội lỗi, nếu sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi thì đều được Chúa thương đồng đều cả, bất kể trước sau. Chúa vẫn mãi nhân từ, hằng thương yêu hết mọi người, mọi thời, và thương như nhau- có người được Chúa gọi ngay từ tảng sáng, có người từ trưa, và có người mãi đến chiều; và tất cả đều được một đồng tiền lương. Chúng ta không rõ giá trị một đồng thời đó so với một đồng ngày nay thế nào, nhưng chúng ta biết chắc một điều là những người được gọi đi làm từ tảng sáng đã đồng ý ngay với giá lương ấy, và những người được gọi đi là về sau thì cũng không chút phàn nàn khi lãnh lương.
Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hằng ngày đón nhận biết bao ơn phúc và tình thương của Chúa. Hôm nay là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi cao quý mà Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho Chúa. Chúng ta tin rằng cho dầu chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong gia đình đạo hạnh ngay từ tấm bé, hay cho dầu suốt cả đời sống xa tình Chúa và nay được ơn nhận biết Chúa trong những ngày tháng cuối đời, chúng ta đều có quyền tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và yêu thương như chính mình Ngài.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn, và đã trao cho chúng con mỗi người mỗi việc trong vườn nho Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con được luôn rộng mở cõi lòng đón nhận ơn Chúa. Chúng con muôn đời cảm tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương đến những người vẫn còn “vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ”, ban cho họ được nhận ra tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng quảng đại thưa tiếng Xin Vâng.

69. Dụ ngôn ‘Những người làm vườn nho’
Thường thích nói cầu xin Chúa ban ơn. Để Chúa ban ơn phải sám hối và được Chúa tha tội để có ơn thánh hoá. Hôm nay nói rõ thêm: Phải làm việc “làm vườn nho Chúa” mới được trả công xứng đáng. Là củng cố cho khẳng định “ngoài Giáo Hội không có cứu độ”.
Vườn nho là Nước Trời. Ông Chủ là Thiên Chúa. Thuê người làm là Thiên Chúa mời gọi. Gặp ai Người cũng đều mời gọi. Có làm vườn nho, có công mới có thưởng. Thiên Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự đáp lại lời Người mời gọi và tuỳ theo việc làm của mỗi người (theo sự đánh giá của Ngưòi). Thiên Chúa biết việc Người làm (chúng ta làm sao biết!). Phải hiểu bài Phúc âm theo những áp dụng trên.
CHÚ GIẢI
– Thuê người làm vườn nho: Thiên Chúa mời gọi mọi người mà Người gặp gỡ đi làm vườn nho là gia nhập và làm việc trong nước của Người là Giáo Hội.
– Thoả thuận với họ là mỗi ngày một đồng: hợp đồng “Làm việc” để được Nước Trời. Được hay không được. Không có ít hay nhiều.
– Ông sai họ đi làm vườn nho: Đức Giêsu, các tông đồ, Giáo Hội rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ai tin, chịu phép rửa, gia nhập Giáo Hội, làm việc “những điều Đức Giêsu dạy…..”
– Giờ thứ ba, ông trở ra chợ thấy có những người ở không, ông bảo “hãy đi làm vườn nho Ta, Ta sẽ trả công xứng đáng: Gặp là gọi và hứa “trả công xứng đáng (tuỳ theo việc họ làm, không hợp đồng cụ thể). Không gặp thì không gọi được. Phải cho Chúa gặp.
– Giờ thứ sáu, giờ thứ chín, giờ thứ mười một..: Sao các anh “không làm gì hết”, hãy đi làm vườn nho cho Ta: Không có giờ thứ 12 hay 13. Làm việc một giờ cũng là có làm. Giờ 12 thì có làm gì để đánh giá và thưởng. Chờ giờ 12, mới gặp (không gọi). Có người tính toán “để gần chết hãy xin rửa tội được lên thiên đàng ngay”? Không biết ai bày chuyện nầy?
– Chiều đến, trả công.. bắt đầu từ người đến sau hết: Nếu bắt đầu từ người trước hết cho họ về trước thì không có cãi cọ. Câu chuyện được sắp đặt (chứ không tự nhiên) để nói vế những người được mời gọi trước hết là Israel (nhất là biệt phái và luật sỉ) cằn nhằn, trở nên sau hết, bị loại trừ (như đã xảy ra mà không cằn nhằn được!). Muôn dân được mời gọi sau là do ý định của Thiên Chúa sắp xếp và rõ ràng họ “làm việc” tốt hơn người Do thái. Họ xứng đáng ơn cúư độ. Và chúng ta thấy không có vấn đề “cằn nhằn” vì Thiên Chúa trả công cho mọi người “xứng với việc họ làm” (theo đánh giá của Thiên Chúa).
– Những kẻ trước hết thì trở nên sau hết….: bị loại hết thì những kẻ sau hết tự nhiên được đôn lên trước hết. Do thái bị loại hết thì còn dân ngoại thôi. Sau trở thành trước.
– Được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít: Có điều kiện như qui định thì mới chọn. Không có “nhưng không”. Không đủ điều kiện thì bị loại là lẽ đương nhiên. Những kẻ được gọi phải “cho” điều kiện để được chọn. Không thể xấu tốt gì cũng chọn.
Thiên Chúa nhân hậu và công bình. Là sự công bình của con tim (chứ không phải của lý trí vô cảm). Thiên Chúa phải như vậy mới là Thiên Chúa toàn thiện, vừa công bình mà cũng vừa nhân hậu. Cằn nhằn vì không hiểu cách hành xử của Thiên Chúa.
Thiên Chúa gặp ai cũng gọi. Gặp trước gặp sau là do ý định của Người trừ khi người ta trốn tránh Thiên Chúa, cố tình từ chối Thiên Chúa, không chịu đi làm vườn nho.
Có công mới có thưởng. Vô công bất thụ lộc. Người chân chính không có công không nhận lộc. Con người thường xin Chúa ban “nhưng không”. Làm vườn nho Chúa thì mới có công. Không chịu giữ đạo Chúa mà muốn lên thiên đàng hoặc đợi gần chết mới chịu phép rửa hoặc chịu phép rửa mà không giữ đạo đợi giờ chết nhờ người ta rước cha xức dầu. Muốn vào thiên đàng vào giờ thứ 25. Không làm vườn nho Chúa, Chúa đâu phải trả công “Nước Trời”.
Thiên Chúa rất nhân từ nhưng cũng công bình vô cùng. Nhân từ có lý do. Nhưng lý do của Thiên Chúa chúng ta không biết nổi vì chúng ta hẹp hòi, ích kỷ. “Ta tốt bụng còn bạn thì hẹp hòi” cằn nhằn.Thiên Chúa không hề hà, hệt hạt, tuỳ tiện. Thiên Chúa thấy tường tận, chí lý khi hành động còn chúng ta chỉ thẩy phiến diện vì chúng ta bị giới hạn “thụ tạo”.
Hãy nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngưòi muốn lòng nhân từ hơn của lễ.

70. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Chúng ta đang tìm kiếm gì điều gì, cái gì cho cuộc sống của chính mình và của những người thân yêu của mình? Vấn nạn rất khổ tâm của các mục tử tại hầu hết các xứ đạo ngày nay đó là: thứ nhất, các em thanh thiếu nhi có rất ít thời gian để đi lễ, đi học giáo lý. Khi được hỏi tại sao, thì nguyên nhân và lý do đầu tiên mà quý phụ huynh luôn trả lời: “Thưa cha, con nhà con nó bận đi học thêm suốt, xin Cha thông cảm.” Thứ hai, là với các bạn trẻ, thanh niên cũng hiếm khi đi nhà thờ; lý do là vì đi làm ăn xa, không có giờ đi lễ hay sinh hoạt gì trong giáo xứ. Cũng có thể, trong thâm tâm của nhiều người Kitô hữu ngày nay đang đặt ra câu hỏi này chăng: “Tại sao tôi phải tìm Chúa và đến với Chúa, Đấng mà tôi không thấy? đến với Chúa, đến với nhà thờ thì tôi sẽ được gì? trong lúc tôi phải đi học, đi làm, đi lo kiếm sống?” Thử hỏi, sau bao ngày tháng tìm kiếm những thứ mà mình đang theo đuổi, nó đã đem lại cho chúng ta điều gì? Nếu không phải là sự vất vả, khó khăn, đau khổ và bất an trong tâm hồn? Vậy chúng ta nên tìm kiếm gì?
Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã mời gọi: “Hãy tìm Chúa khi còn tìm được, hãy kêu cầu Người khi Người còn ở gần, hãy bỏ đường lối mình, hãy bỏ những tư tưởng mình, hãy trở về với Chúa, thì Người sẽ thương xót; hãy trở về với Thiên Chúa chúng ta, vì Chúa rộng lòng tha thứ.” Khi tìm kiếm Chúa chắc chắn chúng ta sẽ có sự bình an và hạnh phúc đích thực, vì Thiên Chúa chính là nguồn cội của mọi sự.
Nhưng ai bảo đảm cho tôi khi tôi tìm kiếm Chúa và sống theo thánh ý Ngài? Mỗi khi chúng ta có những tư tưởng như vậy, thì chúng ta đã dùng lý trí và sự suy đoán của mình mà đo lường với ý Chúa. Nhưng qua lời Tiên tri Isaia, Chúa đã phán “Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.” Chính vì vậy, mà chúng ta phải luôn khiêm tốn để tìm kiếm cho được thánh ý và đường lối của Chúa.
Nhưng tại sao Chúa lại làm khó, và đánh đố chúng ta như vậy, tại sao Chúa không tỏ cho chúng ta thấy rõ ràng luôn đường lối và thánh ý Ngài? Thật ra, vì yêu thương Thiên Chúa đã tỏ bày đường lối và thánh ý của Chúa qua nhiều cách thế khác nhau và cao điểm là qua mạc khải nơi chính Chúa Giêsu Kitô, nơi sứ vụ của Ngài. Thế nhưng, biết bao lần con người đã không tin, không chấp nhận, mà họ còn cho rằng cách suy nghĩ của mình và con đường mình chọn là tốt hơn của Chúa. Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng trải qua kinh nghiệm này, nên Ngài chỉ dạy cho chúng ta. Ban đầu Phaolô rất cứng lòng, đã không tin vào Chúa Giêsu và con đường Thánh giá tình yêu cứu độ của Chúa. Không những thế, Phaolô còn lên án, chống đối và bắt bớ những ai tin vào Ông Giêsu và giáo lý của Người. Thế nhưng, khi đã được Đức Kitô chinh phục, tin theo và làm theo những gì Chúa hướng dẫn, Phaolô đã tuyên xưng: “Đối với tôi, sống là Ðức Kitô, còn chết là một mối lợi.” Đức Kitô muốn như thế nào, thánh ý Chúa hướng dẫn làm sao thì Phaolô xin vâng theo và thực thi, miễn làm sao Tin mừng tình yêu, cứu độ của Đức Kitô được lan tỏa và được vinh danh.
Còn với chúng ta, khi được Lời Chúa hôm nay mời gọi, liệu chúng ta vẫn còn muốn tìm kiếm thứ gì khác hay còn chần chờ mà chưa muốn tìm kiếm Chúa, thánh ý và đường lối của Ngài để theo? Nếu đã sẵn sàng, thì tìm kiếm Chúa và theo Chúa lúc này có muộn không? Thực ra đối với Chúa, mỗi giây phút trong cuộc sống hiện tại là rất quan trọng, miễn sao chúng ta biết tận dụng thời gian hiện tại này để làm cho nó được đong đầy, trọn vẹn với tình yêu thương. Dụ ngôn những người thợ đi làm vườn nho trong bài Tin mừng đã minh chứng cho chúng ta thấy, Thiên Chúa vẫn luôn đang khao khát để kêu mời chúng ta đến với Ngài. Dù cho bất cứ giờ nào, ông chủ đều muốn gọi và tạo cho họ có cơ hội để vào làm việc trong vườn nho của mình. Cho dù từ sáng sớm tinh sương, hay giờ thứ ba, dù giờ thứ chín và ngay cả đến giờ thứ mười một ông đều mời gọi họ: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”.
Hôm nay và ngay chính lúc này, Chúa cũng đang mời gọi và đang tạo cho tất cả chúng ta một cơ hội tuyệt vời nhất để chúng ta đến với Chúa, sống với Chúa, và qua đó để Chúa ban ơn, trả công bội hậu cho chúng ta. Chỉ có lòng dạ con người hẹp hòi, ích kỷ, kỳ kèo, tính toán hơn thiệt đối với Chúa và với nhau, nhưng với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng bao dung, hay xót thương, Ngài luôn ban ơn cân xứng với những việc chúng ta làm cho Chúa và tha nhân. Hơn thế nữa, với Thiên Chúa, việc chúng ta lắng nghe và đáp trả lại lời mời gọi của Chúa để đi làm vườn nho, không lệ thuộc vào số thời gian hay số lượng công việc, cũng như thành phẩm mà chúng ta đạt được. Điều quan trọng mà Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta chính là lòng tin, lòng mến cũng như nhiệt huyết của chúng ta dành cho Chúa và cho sứ vụ-ơn gọi của mỗi mình.
Lạy Chúa, thật hạnh phúc cho chúng con, vì được làm con cái Chúa, được Chúa mời gọi và tuyển chọn cách nhưng không để làm việc trong vườn nho Giáo hội của Chúa, Chúa còn ban muôn ơn lành và phúc lộc cho chúng con ngoài công sức và sự đóng góp nhỏ bé của chúng con. Xin cho chúng con ý thức hơn về cơ hội hồng phúc cao quý này, hầu luôn khiêm tốn để có thể lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, mà hăng say, vui tươi đáp trả lại với lòng tin, cậy, mến và hết cả nhiệt huyết của chúng con. Amen.

71. Thợ làm vườn nho – Radio Veritas Asia
Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

72. Hãy bằng lòng với những gì mình có
Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc Âm hôm nay. Trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người chúng ta, ai cũng mong muốn được một cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ: như là một người hoàn toàn; có tất cả mọi sự; có sự bình an trong tâm hồn; không vướng mắc những bận tâm và những thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phán “Sự bình an của Ta là quà tặng cho các con.” Qua và trong Chúa Kitô, Thiên Chúa ban sự bình an cho chúng ta, không phải sự bình an của thế trần ban cho chúng ta. “Ta không cho ban cho các con theo như cách thức của thế gian ban cho.” Chúa Giêsu nói với chúng ta sự bình an mà thế gian ban tặng chỉ là sự bình an tạm thời giữa những lúc yên lặng và chống đối. Sự bình an của Chúa Giêsu là món quà “Shalom.”
“Shalom” có nghĩa là: Trọn vẹn cuộc sống của bạn hoàn toàn có mục đích; có tất cả từ tinh thần cũng như vật chất. Bạn cảm nghiệm được bạn là một con người được Thiên Chúa tạo nên trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự cao cả đó thì vượt quá khả năng của con người, ngay trong tư tưởng cũng không thể có được. Vì, những sự đó chính là sự kết hợp liên lỉ không ngừng được phát xuất từ chính Mầu Nhiệm nơi Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Corintô như sau: “Chúng tôi giảng dậy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển…điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã định sẵn cho những ai yêu mến Người.” (I Cor 2:7-9). Do đó hãy luôn bằng lòng!
Linda là sinh viên đại học năm thứ nhất. Cô ta quyết định không liên lạc với những người con trai đang dùng mọi cách để quen với cô ta. Sau khi nghe cô ta than phiền về những chàng trai đó, người bạn cùng phòng với Linda tìm cách giới thiệu cho Linda một người bạn trai. Cô ta hỏi Linda muốn có người bạn trai miền Bắc hay miền Nam. Lấy làm lạ vì câu hỏi đó, Linda hỏi lại rằng “Họ có gì khác biệt? Người bạn giải nghĩa, “Trai miền Nam thì hiền hoà dễ thương, hay mơ mộng. Còn trai miền Bắc thì thích hoạt động, thích đi chỗ này chỗ kia và nhất là những nơi có nhiều niềm vui.” Linda suy nghĩ một lúc thật lâu về những sự khác biệt đó rồi hỏi: “Có thể tìm cho tôi người bạn trai miền Nam, nhưng thật khác biệt với người con trai miền Bắc hơn nữa được không?”
Chúng ta thường hay tìm những cách thức này hay cách khác để mặc cả với cuộc sống. Chúng ta không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta qua Chúa Giêsu và cuộc sống của chính mình qua cặp mắt nhân loại. Sau cùng chúng ta khám phá ra chúng ta đã rơi vào sự mù tối đó.
Một vài người trong chúng ta cảm thấy tìm kiếm sự hoàn hảo của cuộc sống là chạy trong vòng tròn không lối ra. Như, thấy mình không thua kém ai. Và có những người nghĩ rằng sự hoàn hảo của cuộc sống bình thường như một màn biểu diễn thời trang và nhan sắc. Chúng ta thường tìm nhiều mánh khoé để chiếm được sự hoàn hảo đó, nhưng sau cùng, khi chúng ta đứng trước sự thật thì những mánh khoé không giúp gì cho chúng ta.
Khi trải qua những khó khăn đó, chúng ta mới cảm nghiệm được Thiên Chúa đang cố đem đến cho chúng ta nguồn gốc của sự sống hoàn hảo, chính là tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Cho đến khi nhận được sự thật đó, thì chúng ta đã uổng công phí sức vì thấy chính những sự thoả mãn tạm bợ đã kéo chúng ta vào hố sâu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chủ vườn nho thuê những người làm công và đồng ý trả công cho họ. Sau khi họ làm được vài giờ, ông chủ vườn cũng mướn những người khác vào làm như họ. Sau ngày làm việc, ông chủ trả tiền lương cho những người thợ như đã thỏa thuận. Người làm trước cũng bằng người làm sau. Những người thợ làm trước không cảm thấy hài lòng nên nói với chủ vườn: “Ông trả cho họ bằng chúng tôi sao?” Chủ vườn nói với họ, “Tại sao lại ghen tỵ, vì tôi rộng lượng chăng?” Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn như sau: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.” (Mt 20:16).
Một người quảng cáo kể một câu chuyện về một người trong nhóm họ treo một bảng hiệu trước nhà mình như sau: “Tôi sẽ tặng mảnh đất này cho những ai cảm thấy mình thật sự thỏa mãn, có đủ mọi sự.” Một chủ nông trại giàu có đi ngang qua, đọc thấy, nên đến với chủ nhà và nói: “Tôi là người thích hợp nhất để được mảnh đất của ông, vì tôi có đủ điều kiện mà ông muốn: Tôi rất giầu có. Tôi có tất cả mọi sự tôi muốn. Tôi rất thoả mãn mọi sự.” Người quảng cáo hỏi người đó: “Có thật sự là ông thỏa mãn mọi sự không?” Người giầu có đáp: “Đúng như vậy, tôi có mọi sự tôi cần nên tôi rất là thỏa mãn.” Chủ nhà cười và nói với người kia: “Này ông bạn, nếu bạn đã thỏa mãn rồi thì sao lại muốn mảnh đất này?”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng viết cho chúng ta một tờ quảng cáo như sau: “Ta sẽ ban sự bình an trong tâm hồn, trí lòng và sẽ ban sự mãn nguyện cho tất cả những ai tuyên xưng chân lý Phúc Âm của Chúa. Hãy bằng lòng với chính mình và sống với những gì mình có.”

73. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

74. Thiên Chúa nhân hậu với mọi người
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Giá bốn căn hộ bằng nhau
Một dãy phố nọ có bốn căn hộ. Căn một trị giá 40 ngàn đô, căn hai 30 ngàn đô, căn ba 20 ngàn đô và căn tư 10 ngàn. Bạn là chủ căn một. Một hôm có người gọi đến xin mua căn hộ của bạn là 50 ngàn đô. Thế là bạn vui mừng và đồng ý bán ngay, vì thực giá căn hộ của bạn chỉ có 40 ngàn đô thôi. Nhưng hôm sau, bạn nghe tin người mua căn hộ của bạn cũng mua hết ba căn hộ kia, và mỗi căn cũng với giá 50 ngàn đô. Thật là một tin sét đánh! Bạn giận dữ, gọi điện kêu trách người mua. Ông ta trả lời:
– Tôi đâu có đối xử bất công với bạn, bạn đã thỏa thuận với tôi với giá 50 ngàn đô. Hay là bạn ganh tị vì tôi rộng lượng đối với ba người kia.
Câu chuyện trên đây minh họa câu chuyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay.
Thời Chúa Giêsu, những người được thuê mướn vào làm vườn nho chỉ những kẻ tội lỗi. Họ nghe lời Chúa kêu gọi mới ăn năn thống hối trở lại với Chúa. Còn đám thợ được thuê từ sáng sớm là những người Biệt Phái. Họ giận dữ ganh tức vì thấy những kẻ tội lỗi mới ăn năn trở lại mà cũng được vào nước Chúa, được thưởng như họ.
Tại sao những người được thuê làm vườn nho từ sáng sớm ganh tức với đám thợ được thuê muộn?
Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?… Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức”. (Mt. 20, 13-15).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với kẻ khác, mà hãy chấp nhận hiện trạng của chúng ta, theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bây giờ sẽ có lý do hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác… Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl. 6, 4.7-8)
Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì người khác nghĩ về chúng ta hoặc chúng ta nghĩ gì về người khác, mà là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta. (Theo “Sunday homilies”).
2. Những cử chỉ lạ thường
“Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa”.
Đây là một khẩu hiệu đã được rất nhiều người ở khắp nước Mỹ hiện nay.
Một buổi sáng mùa đông nọ, trên chiếc xe chất đầy quà giáng sinh, một người đàn bà đã làm cử chỉ lạ thường. Khi dừng xe lại để đóng thuế cầu bắc qua vịnh San Francisco, bà đưa tiền thuế và nói:
– Tôi đóng thuế cho xe tôi và 6 chiếc xe sau tôi.
Bà hành động cách khác thường như thế vì đã đọc trên tủ lạnh của người bạn.
“Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa”.
Tại New Jersey, ngày nọ người ta thấy 12 người dọn dẹp sân cỏ của những người già. Tại Chicago, có cậu thiếu niên cào tuyết cho chỗ đậu xe của người hàng xóm…
Và không biết bao nhiêu những hành động tử tế như thế được thực thi cách gàn dở và những cử chỉ được làm cách vô nghĩa như thế.
Trong Kinh Thánh có rất nhiều hành động hết sức bất thường như thế, như Con Thiên Chúa vô cùng cao cả sinh ra nghèo hèn, chết nhục nhã trên khổ giá. Bất thường quái lạ đến nỗi người Do Thái cho là điên rồ, người Hy Lạp gọi là yếu đuối. Thánh Phaolô cũng gàn dở không kém khi ông tuyên bố: “Vinh dự của tôi là chính thập giá Đức Kitô”. Nhưng với Thiên Chúa, đó chính là kẻ khôn ngoan và sức mạnh, là tình yêu và trao ban vô vị lợ, quảng đại, khoan dung như trong Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho giờ chót cũng được lãnh lương bằng những kẻ vào làm từ sáng sớm “Phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt. 20. 12).
Nhưng đó chính là hành động của Thiên Chúa: Trao ban mà không tính toán, cho không cần cho lại, hành động mà không kể gì khen chê, không chỉ yêu thương bạn hữu mà cả kẻ thù. Đó chính là cách hành xử của Chúa khi nhập thể cứu chuộc nhân loại. Và người Kitô hữu cũng được mời gọi hành xử theo cung cách và lối suy nghĩ đó của Chúa, là vượt lên cái bình thường, bước vào cõi sống siêu nhiên, cõi sống của những người con sống nhân từ quảng đại như Cha trên trời. (Theo “Tin vui mùa đông”).
3. Thiên Chúa công bình
Một hôm Thiên Chúa đi vào thiên đàng. Ngài ngạc nhiên thấy tất cả những người chết đều được vào đó cả, không ai bị sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô cùng. Ngài gọi sứ thần Gáp-rien đến và bảo:
– Con hãy tập trung mọi người đến trước mặt Ta. Đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Sứ thần đọc giới răn thứ nhất và Chúa phán bảo:
– Những kẻ nào phạm giới răn thứ nhất đó, hãy xéo khỏi mặt Ta, đi vào hỏa ngục ngay.
Một số người từ từ rời khỏi đám đông và buồn bã khóc lóc đi vào hỏa ngục. Và sứ thần đọc tiếp các giới răn khác, cứ sau mỗi giới răn đều có số người rời khỏi đám đông và than khóc đi xuống hỏa ngục. Sau cùng chỉ còn lại có một người, người đó là một ẩn sĩ già.
Thấy vậy, Thiên Chúa hỏi sứ thần:
– Chỉ có một người này được vào Thiên Đàng hay sao?
Nói xong, Ngài bảo sứ thần gọi đám đông lại và cho họ trở vào thiên đàng. Thấy đám đông tội lỗi xấu xa thế mà Chúa lại tha thứ cho trở lại thiên đàng, vị ẩn sĩ tức giận nói với Chúa:
– Chúa không phải là Đấng công bình!…
Thiên đàng chính là ngôi nhà của tha thứ, của quảng đại khoan dung. Tha thứ khoan dung của Thiên Chúa dành cho con người và tha thứ bao dung của con người dành cho nhau.
Thiên Chúa đã ví thiên đàng như một bữa tiệc, trong đó từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, địa vị, giàu nghèo, nhất là không phân biệt bạn thù đều đồng bàn với nhau. Thiên đàng ấy không chỉ ở đời sau mà bắt đầu ngay tại đời này. Mỗi khi con người biết tha thứ nhân hậu với nhau, mỗi khi họ chấp nhận đồng hành với nhau, sống khoan dung rộng lượng với nhau là lúc thiên đàng được rộng mở…
Chúa Giêsu đã mở cửa thiên đàng đó cho những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay. Những người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà Chúa cũng cho họ vào thiên đàng như những kẻ đã làm việc nặng nhọc cả ngày. Như thế làm sao khỏi bị ganh tức.
Nhưng Chúa Giêsu còn mở cửa thiên đàng khi Người đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi, những người bị xã hội loại bỏ, và nhất là khi Người tha thứ cho những kẻ đã giết treo Người trên thập giá. Vì ngôn sứ Isaia đã xác quyết: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu” (Is. 55,9) (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập III).
4. Bất hạnh vì ganh tỵ
Traund là một kiến trúc sư nổi tiếng và rất thành công trong sự nghiệp. Anh có vợ là Êlisabét và hai đứa con ngoan. Gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Và công việc làm ăn của anh ngày càng phát triển đến nỗi một mình làm không hết , phải hợp tác với Đavít mới đáp ứng hết nhu cầu của khách hàng.
Lúc đầu mọi việc êm xuôi tốt đẹp. Tình bạn đôi bên cùng sâu đậm. Nhưng sau một thời gian, Traund nhận thấy khách hàng quý chuộng Đavít hơn, nhờ anh đứng thầu nhiều dự án xây cất hơn. Thế là Traund nổi ghen lên, kiếm chuyện xích mích với bạn mãi, làm cho mối quan hệ giữa hai người ngày càng căng thẳng, lôi kéo luôn số nhân viên chia rẽ kình địch nhau.
Nhưng tai hại hơn cả là tình cảnh gia đình Traund. Mỗi khi đi làm về, anh cáu gắt với vợ con. Đời sống gia đình trở nên địa ngục sầu thảm. Rồi bàn tay phải của anh bắt đầu bị sưng khớp đau nhức, bắt buộc anh phải bỏ công việc, vào bệnh viện chữa trị. Khi xuất viện về nhà, anh như con sư tử bị giam trong củi.
Buồn khổ quá, vợ anh gọi điện thoại đến Cha Micae Pacli là một linh mục chuyên chữa bệnh tâm linh. Cha tới gặp anh, khuyên anh bỏ lòng ghen tuông, làm hòa với Đavít, để mọi việc được trở lại tốt đẹp an vui. Anh không đồng ý mà còn giận dữ. Nhưng sau một lúc cầu nguyện chung với anh, cha Micae đã khuyên bảo được anh viết thư xin lỗi Đavít.
Và lạ thay, từ đó ghen tuông của anh tan biến, tay anh không còn bị sưng khớp nữa. Gia đình anh trở lại êm ấm hạnh phúc, công việc làm ăn trở nên niềm vui cho anh như trước.
Ganh tỵ là mãnh lực có sức tàn phá lớn lao, nó phá hủy khả năng yêu thương. Chính sự ghen tuông đã thúc đẩy các Biệt Phái sát hại Chúa Giêsu, họ coi Ngài là kẻ thù không đội trời chung với họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính vì ganh ghét mà nhóm người làm vườn nho từ sáng sớm phê bình chỉ trích ông chủ bất công, khi ông chủ trả lương họ bằng những người chỉ vào làm lúc năm giờ, vì họ thấy ông chủ “tốt bụng với những người này mà họ đâm ra ganh tức”.
Qua câu chuyện của kiến trúc sư Traund và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta là tín hữu của Người sống quảng đại như Người, luôn yêu thương tha thứ cho nhau. Tình thương phá tan ganh tức. Nhất là khi chúng ta quảng đại yêu thương tha thứ thì chúng ta được sống an bình hạnh phúc. (Theo “Thiên đàng là thế đó).
5. Lòng quảng đại chân chính
Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo mỗi ông hãy mang theo một hòn đá. Ông Phêrô nhặt một hòn đá nhỏ bỏ túi, còn ông Gioan vác cả một tảng đá to. Do đường xa vác nặng, ông Gioan thở hổn hển và đến nơi sau hết. Còn ông Phêrô bước đi nhẹ nhàng thảnh thơi nên đến nơi trước. Chúa Giêsu cho hai ông ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng, biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên chiếc bánh của ông Phê rô nhỏ bé, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của ông. Còn ông Gioan thì ăn no nê dư dật.
Lần khác, Chúa gọi hai ông leo lên núi với Ngài nữa. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang theo một tảng đá to, phải cố gắng hết sức mới vác nổi lên núi. Đến nơi, Chúa Giêsu bảo hai ông ngồi xuống. Ông Phêrô trông đợi Chúa làm phép lạ nhưng Chúa bảo các ông ngồi lên tảng đá mà các ông đã vác theo. Phêrô cảm thấy xấu hổ trách Chúa, nhưng Chúa bảo:
– Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán.
Chúng ta thường nói: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta cho là để được cho lại, chúng ta làm ơn là để được trả ơn. Chúng ta lập công là để được thưởng công. Chúng ta làm việc là để được lãnh lương như các người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay.
Óc vụ lợi chi phối tất cả mọi quan hệ của chúng ta với tha nhân cũng như đối với Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm thông thường của chúng ta. Qua toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa quảng đại đến độ trao ban cách nhưng không cho chúng ta Con Một của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, Ngài yêu thương mà không mong đền đáp nào của chúng ta.
Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán. Tình yêu đích thực là trao ban cách nhưng không.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời, sống quảng đại, sống san sẻ, sống yêu thương cho đến cùng, như chính Ngài đã chết trao trên khổ giá. Tình yêu ấy mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Người, tình yêu ấy mời gọi chúng ta thanh luyện tình yêu ích kỷ, vụ lợi của chúng ta.
(Theo “Chờ đợi Chúa”).

75. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV năm A này xoay quanh một chủ đề: lòng từ bi, nhân hậu, rộng lượng và hay tha thứ của Chúa đối với muôn loài mà Ngài đã dựng nên, nhất là con người.
Is 55: 6-9
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc giải thoát sắp đến và kêu mời những người lưu đày ở Ba-by-lon thật lòng hoán cải ngỏ hầu được Thiên Chúa thứ tha và cứu thoát, vì tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người.
Pl 1: 20-24, 27
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đang sống trong cảnh giam cầm, bị giằng co giữa đôi ngã: hoặc bị tuyên án tử, như thế được ra đi để được ở với Chúa; hay được phóng thích để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh nhân phó thác số phận của mình vào lòng nhân hậu của Chúa.
Mt 20: 1-16
Qua dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, Đức Giê-su viện dẫn tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán mà con người đòi hỏi. Một lần nữa, Tin Mừng nhấn mạnh rằng tư tưởng của Thiên Chúa không là tư tưởng của phàm nhân, đường lối của Chúa không là đường lối của con người.
BÀI ĐỌC I (Is 55: 6-9)
Đoạn trích dẫn này là một trong những sứ điệp sau cùng mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi đến những người Do thái lưu đày ở Ba-by-lon vào khoảng những năm 545-540 trước Công Nguyên, họ đang mong chờ ơn giải thoát, nhưng vài người trong số họ nghi ngờ và nhụt chí. Trong bối cảnh như vậy, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tác phẩm của ông được gọi “Sách An Ủi” (ch. 40-55), khẩn thiết loan báo những chủ đề hy vọng; ông nhấn mạnh niềm tin vào một Thiên Chúa rộng lòng tha thứ, một Thiên Chúa toàn năng, Ngài có thể làm bất cứ điều gì mà Ngài muốn.
1. Thiên Chúa rộng lòng tha thứ
Thời gian cứu độ sắp tới phải là thời gian của cầu nguyện và hoán cải:
“Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55: 6).
Phải chăng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh dân Ngài trong cảnh lưu đày còn gần gũi hơn khi Ngài còn ngự giữa họ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem? Năm mươi năm đã trôi qua kể từ cuộc phát lưu đầu tiên vào lúc ngôn sứ Giê-rê-mi-a viết cho những người lưu đày hầu như theo cùng một cách diễn tả: “Các ngươi sẽ tìm Ta, và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến” (Gr 29: 13-14).
Hoán cải không gì khác hơn là tránh xa điều gian ác. Lời kêu gọi thay lòng đổi dạ là sứ điệp thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Đối với ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, cuộc trở về Giê-ru-sa-lem phải cùng chung nhịp bước với cuộc trở về với Thiên Chúa.
“Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương -,
về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người rộng lòng tha thứ” (Is 55: 7)
Động từ “tha thứ” này được dùng trong Cựu Ước chỉ với Thiên Chúa là chủ từ, vì sự tha thứ này không có cùng mức độ nào với sự tha thứ của con người. Động lực tột cùng của niềm tin tưởng này mà những người lưu đày phải thấm nhuần đó là:
“Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55: 8).
Tư tưởng của Thiên Chúa cao vời trên cõi trời cao thẳm, trong khi tư tưởng của con người ở dưới tận chốn đất thấp. Làm thế nào đầu óc nhỏ bé của phàm nhân có thể hiểu được đường lối cao vời khôn ví của Thiên Chúa được chứ? Bởi vậy, mỗi khi con người nghĩ rằng tội lỗi của mình quá nặng nề không thể nào tha thứ được, thì Thiên Chúa mặc khải cho họ biết rằng Ngài vô cùng độ lượng, rộng lòng tha thứ và sẵn lòng đón nhận những kẻ tội lỗi khi họ cất bước trở về với Ngài, cũng như Ngài sẵn lòng trả công bội hậu vượt quá công sức của con người.
2. Thiên Chúa siêu việt và toàn năng
Ngôn sứ I-sai-a kết thúc sứ điệp của mình bằng cách nhắc nhở rằng Thiên Chúa là Đấng siêu việt và toàn năng:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Ngôn sứ I-sai-a kết nối sự cao cả của Thiên Chúa với lượng hải hà tha thứ của Ngài. Con người nhỏ bé và mỏng dòn, bởi vì tất cả chúng ta là những tội nhân, còn Thiên Chúa thì cao vời khôn ví, bởi vì Ngài ôm ấp trong lòng những tư tưởng cứu độ. Các tác giả thánh vịnh cũng đã sử dụng hình ảnh về “trời cao đất thấp” để đánh dấu khoảng cách vô tận giữa con người và Thiên Chúa, như Tv 145 (144) mà Phụng Vụ mời gọi chúng ta cất cao lời chúc tụng Đức Chúa hôm nay:
“Chúa thật cao cả, xứng muôn lời chúc tụng,
Người cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145: 3).
Đây là ‎ý tưởng truyền thống mà Đức Giê-su dạy cho chúng ta trong kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
BÀI ĐỌC II (Pl 1: 20-24, 27)
Thành Phi-líp-phê thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a là thành phố Châu Âu đầu tiên đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phao-lô đã mạo hiểm loan báo Tin Mừng trên lục địa này. Ở thành phố này, các cộng đoàn Do thái thì thưa thớt, vì thế một đám thính giả đông đảo lắng nghe thánh nhân chắc hẳn đa số là lương dân. Vào năm 49 hay 50, kể từ khi đặt chân đến thành Phi-líp-phê, thánh nhân luôn luôn dành cho các tín hữu này một ân tình tròn đầy. Như chúng ta biết thánh Phaolô đã không muốn đón nhận sự trợ giúp của bất kỳ cộng đoàn tín hữu nào, ngỏ hầu Tin Mừng mà thánh nhân rao giảng là một ân ban nhưng không. Tuy nhiên, thánh Phaolô chỉ đón nhận sự giúp đỡ của các tín hữu Phi-líp-phê, vì thánh nhân muốn bày tỏ tấm lòng ưu ái của Ngài dành cho họ.
1. Hoàn cảnh của thánh Phao-lô khi viết thư gởi tín hữu Phi-líp-phê
Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, chúng ta sẽ tiếp tục đọc nhiều trích dẫn bức thư này trong nhiều Chúa Nhật kế tiếp, chứa đựng một chứng liệu đặc biệt. Hơn bất kỳ thư nào khác, thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này vén mở cho chúng ta con người nội tâm của thánh Phao-lô, những đức tính và trọn một cuộc đời gắn bó vào Đức Ki-tô. Vốn tính tình bộc trực, ấy vậy những lời khuyên bảo của thánh nhân lại nồng nàn chan chứa những niềm tin tưởng vô bờ.
Khi thánh Phao-lô viết bức thư này, ngài đang sống trong cảnh giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô, vào năm 55 hay 56. Thánh nhân không biết số phận đang chờ đợi ngài: hoặc bị kết án tử và như thế được ở với Đức Ki-tô, hay được phóng thích và lại tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng của ngài, thánh nhân chỉ còn biết nguyện ước. Sự giằng co đôi đàng, mà thánh nhân trình bày trong đoạn văn này, không là thế đôi ngã mà thánh nhân có quyền chọn lựa nhưng là thuận theo thánh ý của Thiên Chúa. Rõ ràng thánh nhân nhắm đến thế đôi ngã này ở nơi lời kết luận ngay từ đầu đoạn thư trích dẫn: “Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm cho tôi phải hổ thẹn , trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi lúc, Đức Giê-su sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi sống, hay tôi chết” (Pl 1: 20).
2. Chết là một mối lợi
Bị giằng co giữa hai giải pháp khả dĩ: chịu chết hay được phóng thích, hiển nhiên thánh nhân thích được chết hơn: “Vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi… ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần”. Thánh nhân đã xác định rồi mục đích của cuộc đời mình: “sống là Đức Ki-tô”. Ở bên kia cái chết, thánh nhân được nên một với Đức Ki-tô cách trọn vẹn hơn.
Nếu thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này được viết giữa hai bức thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, như ngày nay người ta có khuynh hướng nghĩ như vậy, thì thánh Phao-lô hoàn thành tư tưởng của mình trong thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Vậy chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là lưu lạc xa Chúa, vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải nhờ được thấy Chúa… Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5: 6-8).
Trong đoạn trích thư Cô-rin-tô này, tư tưởng của thánh Phao-lô rõ ràng nhuốm màu sắc “nhị nguyên thuyết” của tư tưởng Hy lạp; tuy nhiên, tất cả các thư khác của thánh nhân đều làm chứng rằng thánh nhân không hoàn toàn chấp nhận khía cạnh tiêu cực của triết lý Hy lạp này, tức là khinh bỉ thân xác. Trái lại, Vị Tông Đồ dân ngoại ca ngợi thân xác này là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” và sẽ được sống lại vào ngày sau hết. Thánh nhân luôn luôn nhắm đến một sự hiệp nhất trọn vẹn với Đức Ki-tô sau khi chết; tuy thế, thánh nhân cũng không ngừng nói rằng sự hiệp nhất này vốn đã khởi sự ngay từ cõi thế này rồi. Cuộc sống của người Ki-tô hữu vốn là đã được Đức Kitô sở hữu rồi, là nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ cùng với chúng ta. Thần học của Giáo Hội tiếp nối thần học của thánh nhân trên lộ trình này. Cái chết không làm gián đoạn cuộc sống của chúng ta trong Đức Ki-tô.
3. Niềm say mê loan báo Tin Mừng.
Nhưng thánh nhân bị giằng co đôi ngã. Dầu rằng thánh nhân mong ước được ra đi để được ở với Đức Kitô, tuy nhiên thánh nhân nói với các tín hữu Phi-líp-phê thân yêu của ngài: “Ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em”. Vả lại, thánh nhân luôn luôn mang trong lòng mình niềm say mê loan báo Tin Mừng đến mức thánh nhân xem việc loan báo Tin Mừng như một trách nhiệm mà mình buộc phải chu toàn: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng”. Vì thế, lời căn dặn đầy tâm huyết sau cùng của thánh nhân gởi đến họ: “Anh em hãy ăn ở xứng đáng với Tin Mừng của Đức Ki-tô”.
TIN MỪNG (Mt 20: 1-16)
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” này khép lại một loạt những dụ ngôn về Nước Trời trong giáo huấn của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê. Một lần nữa Đức Giê-su cố giúp cho thính giả của Ngài hiểu rằng điều xảy ra trong Nước Trời không giống chút nào với cách hành xử của con người. Đức Giê-su có chủ ý chọn những ví dụ cực đoan để gây chú ý‎ ngõ hầu truyền đạt một sứ điệp khó khăn. Các dụ ngôn rất thuận tiện cho việc sử dụng lối ngoa ngữ, nhưng luôn luôn được sắp xếp hướng theo chủ điểm của dụ ngôn, để rồi từ đó rút ra một bài học. Ở đây, điều thú vị của câu chuyện hệ tại ở nơi sự công phẫn của những người thợ được mướn từ sáng sớm.
1. Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc ban phát ân lộc của Ngài
Mới đọc thoáng qua, dụ ngôn này như muốn loan báo cùng một tư tưởng của Bài Đọc I:
“Trời cao hơn đất thấp chừng nào,
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55: 9).
Vì thế, thật là vô l‎ý nếu chúng ta tiếp cận dụ ngôn này theo nhãn quan trần thế, vì Đức Giê-su rõ ràng dạy rằng Nước Trời không là tiền thù lao, nhưng là ân ban, Thiên Chúa hoàn toàn tự do định liệu, nhưng không là một kẻ chuyên quyền độc đoán; đây là một sự tự do được điều khiển bởi tình yêu. Lòng nhân ái của Thiên Chúa vượt quá sự công bằng giao hoán.
Tuy nhiên, trước tiên chúng ta nên khảo sát cách hành xử của con người với con người trong giao tiếp xã hội. Dụ ngôn này làm thương tổn đặc biệt đến độ nhạy bén của con người hiện đại, rất gai góc đối với vấn đề công bằng giao hoán. Tuy nhiên, dụ ngôn này xem ra rất gần gũi hơn với thế giới của chúng ta, một thế giới đang quần quại trong nỗi đau của đa số người cố bám víu vào bất kỳ một công việc nào để sống cho qua ngày đoạn tháng. Suốt ngày, họ đứng đó mong chờ bất kỳ ai thuê họ bất cứ công việc nào để đổi mồ hôi lấy bát cơm cho gia đình. Ông chủ trong Tin Mừng năm lần bảy lượt ra ngoài phố chợ để mướn thợ vào làm vườn nho của mình, thậm chí cho đến lúc ngày sắp tàn. Đọc đoạn Tin Mừng này hàm chứa một sự đắc ý nào đó khi ghi nhận rằng những người thợ bất đắc dĩ được mướn sau cùng đã nhận được tiền công nhật đầy đủ để có thể nuôi sống gia đình trong một ngày nhờ vào tấm lòng rộng lượng của ông chủ vườn nho. Tiền công nhật được thỏa thuận là một quan tiền, đó là giá trị phải chăng để nuôi sống gia đình trong một ngày.
2. Sống trong tư thế sẵn sàng
“Chủ điểm” của dụ ngôn này được định vị ở nơi tư thế sẵn sàng của những người thợ giờ sau chót này. Họ chờ đợi suốt ngày trong tâm trạng nôn nao thấp thỏm và chỉ vào lúc xế chiều mới được mướn vào làm vườn nho. Nếu được thuê mướn sớm hơn, chắc chắn họ cũng đã làm việc cho ông trọn ngày như bao nhiêu người khác. Biết bao câu chuyện Tin Mừng theo cùng một chiều hướng này: Đức Giê-su tìm kiếm những tấm lòng sẵn sàng này. Ngài tỏ mình ra cho người phụ nữ xứ Sa-ma-ri: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4: 26), không vì công trạng của chị, nhưng vì Ngài đã phát hiện ở nơi chị một tư thế sẵn sàng đón nhận Mặc Khải của Ngài.
3. Nổi bất bình của những thợ đầu tiên
Những người thợ làm việc ngay từ tảng sáng sớm ngạc nhiên đến bất bình trước việc ông chủ trả tiền công: làm sao ông có thể trả công cho những người thợ sau chót chỉ làm có một giờ vào lúc khí trời mát mẽ cũng bằng với những người thợ đã làm việc nặng nhọc suốt ngày trong cái nắng như thiêu như đốt được chứ? Dụ ngôn có nhiều điểm tương tự với dụ ngôn của người con hoang đàng trong đó người con cả công phẫn trước cách đối xử của cha anh đối với người con út, kẻ lang bạt vừa mới chân ướt chân ráo trở về nhà cha, sau khi đã sống cho đến tận bùn nhơ của cuộc đời. Người con cả không hiểu cách hành xử của cha anh, bởi vì anh thiếu tấm lòng khoan dung rộng lượng của tình phụ tử.
Trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay, ông chủ trả lời một trong những người bất bình với một cung giọng quở trách: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan tiền sao?”, như Đức Giê-su quở trách Giu-đa, kẻ phản bội Thầy: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm!” (Mt 26: 50), hay như đức vua quở trách một trong những khách vào dự tiệc cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” (Mt 22: 12).
4. Công bình và lòng nhân ái
Những người thợ được thuê từ sáng sớm bị quở trách vì thiếu tấm lòng nhân ái: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghét tức?”. Không loại trừ rằng dụ ngôn có một hậu cảnh bút chiến nhắm đến nhóm Biệt Phái. Những người này tự hào tự phụ là mình được gọi vào làm vườn nho cho Thiên Chúa trước tiên. Họ đã đổ nhiều công sức trong việc tuân giữ Lề Luật một cách nghiêm nhặt, không bỏ sót một điều luật nào, nên tỏ ra thái độ khỉnh bỉ những kẻ thu thuế và phường tội lỗi, những người mà Đức Giê-su quan tâm đặc biệt. Văn hào Barnanos đã viết: “Nhân loại tự tách mình ra thành hai loại khác biệt tùy theo quan niệm mà người ta có về công bình. Đối với những người này, công bình là một thế cân bằng, một sự thỏa hiệp. Còn những người khác, nó như một sự thăng hoa, một sự đăng quang vinh hiển của lòng nhân ái”.
Dụ ngôn này cũng đề cao mầu nhiệm Giáo Hội: Những Ki-tô hữu gốc lương dân là những người đến sau lại được gọi gia nhập Nước Trời và được hưởng vô vàn những ân lộc mà Thiên Chúa đã hứa với dân Do thái. Vì thế, dụ ngôn này đem đến một niềm hy vọng tuyệt vời cho những Ki-tô hữu gốc lương dân, những người đã đón nhận lời mời gọi của tôn chủ chỉ sau một thời gian dài dân Ít-ra-en được tuyển chọn.
Nhưng đây cũng là một niềm hy vọng tuyệt vời cho những ai khám phá Thiên Chúa chỉ vào những giờ phút sau cùng của cuộc đời mình. Ví dụ cảm động nhất không phải là ví dụ tên gian phi sám hối đấy sao? Cả một đời gian ác, nhưng chỉ một lời nói đầy cảm thương của anh vào giây phút cuối đời đã đem lại cho anh một lời hứa ngay tức khắc của Đức Giê-su: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Nước Trời” (Lc 23: 43).

76. Thợ làm vườn nho
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.

77. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)
1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán, cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng dứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làn người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xừ với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa,
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,
Nói “trước hết” và “sau hết là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của đa số tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công. Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
– Như thế là không công bình!
– Tại sao? ông chủ tịch hỏi lại.
– Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh.
Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?

78. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?
2. Bạn nghĩ sao về chủ trương “Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới tính “nhưng không” của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Kitô hữu về sau.
2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…”, chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé như gia đình Kitô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.

79. Chúa Nhật 25 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIỀN LƯƠNG CÔNG BẰNG LÀ VẤN ĐỀ THIẾT YẾU CỦA CUỘC SỐNG
Trong bài Tin mừng Chúa nhật 25 Thường niên hôm nay, chúng ta nghe đọc câu chuyện dụ ngôn về lòng quảng đại của ông chủ vườn nho, vốn dựa vào chủ đề lòng thương xót, qua việc sử dụng những hình ảnh về sự cách biệt trong kinh tế và xã hội. Dụ ngôn này có nhiều khả năng diễn giải khác nhau.
cn25Chúa Giêsu so sánh Nước trời với một ông chủ vườn nho trả cùng một mức lương công nhật cho tất cả người thợ, dù số giờ làm việc của họ khác nhau. Một số người làm việc cả ngày, trong khi một số khác chỉ làm một phần trong ngày. Một số khác nữa chỉ làm một giờ đồng hồ. Vậy mà ông chủ lại trả lương đủ một ngày công cho tất cả mọi người thợ. Một trong những người thợ làm việc suốt cả ngày chỉ trích ông chủ, chú ý đến cách trả lương không công bằng như vậy. Nhưng ông chủ bác bỏ những lời chỉ trích, thay vào đó ông lên án sự ghen tị cũng như khẳng định sự quảng đại và công bằng của mình.
Vì những dụ ngôn của thánh Matthêu tập trung vào ngày phán xét cuối cùng nên dụ ngôn này có thể được giải thích theo quan niệm cánh chung. Ông chủ vườn tượng trưng cho lòng bao dung của Thiên Chúa trong việc phân xử. Những người thợ làm việc cả ngày có thể là những người trung thành trong suốt cuộc đời của họ, và những người làm việc ít giờ nhất có thể là những người tội lỗi nhất, là những người cuối cùng trở lại cuộc sống ngay chính. Theo cách hiểu này, dụ ngôn sẽ cho thấy lòng rộng rãi của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, thậm chí ban thưởng cho người cuối cùng trước cả người đầu tiên. Ý tưởng này được hỗ trợ nơi Bài đọc một trích sách ngôn sứ Isaia, nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa khi tha thứ. Dụ ngôn của Matthêu cũng có âm hưởng của dụ ngôn của Luca về đứa con hoang đàng.
Tuy nhiên, dụ ngôn ông chủ vườn của Matthêu cũng có thể được giải thích như sự trình bày về giá trị của công việc và tầm quan trọng của một mức lương công bằng. Ngày nay, cách đọc hiểu dụ ngôn như vậy có thể thuyết phục hơn, đặc biệt là trong ánh sáng của các giáo huấn xã hội của Giáo hội và những khó khăn kinh tế hiện nay.
Thường thì việc trả lương bằng nhau vào đoạn cuối của dụ ngôn được làm nổi bật lên, tuy nhiên ông chủ đã rộng lượng ngay trước cả lúc ấy. Sau khi thuê nhóm thợ đầu tiên, ông gặp thấy còn nhiều người thất nghiệp và thuê mướn họ. Ông tiếp tục thuê thợ làm vườn như vậy cho đến khi chiều tà, khi mà có lẽ đã không còn ai ở ngoài chợ lao động. Điều này cho thấy là có bao nhiêu người đang cần công việc thì người chủ sẵn sàng thuê bấy nhiêu.
Vì đại dịch Covid-19, nhiều người rơi vào cảnh thất nghiệp, vốn chỉ làm trầm trọng thêm hoàn cảnh kinh tế bấp bênh mà tất cả đã phải đối mặt trước đó. Theo Vụ Thống kê Dân số và Lao động vào tháng 7 năm nay thì khả năng 5 triệu người Việt Nam mất việc vào cuối năm 2020 không phải không thể xảy ra. Nhiều người khác thì phải nghỉ luân phiên, giảm giờ làm việc hoặc tạm thời nghỉ việc. Bài Tin mừng hôm nay là nguồn động lực cho những nhà tuyển dụng cần sáng tạo và đổi mới trong việc tạo ra công ăn việc làm cho những người có nhu cầu lao động.
Bên cạnh đó, dụ ngôn này cũng khẳng định rằng mức lương tối thiếu phải là mức lương đủ sống. Khi mà ông chủ trả lương đồng đều cho mọi người thợ, ông không lừa gạt những người làm việc nhiều giờ nhất. Thay vào đó, ông bù đắp cho mọi người làm việc ngày hôm đó để những người dù có làm việc ít giờ nhất vẫn có thể đủ sống dựa trên thu nhập của họ. Cần có những cố gắng cải cách về tiền lương để mức lương tối thiểu có thể đủ nuôi sống bản thân và gia đình người lao động.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thay vì bố thí, ông chủ vườn nho đã rất rộng lượng bằng cách cung cấp công việc và tiền công chính đáng cho tất cả mọi người thợ, giúp cho họ sống có phẩm giá bằng chính sức lao động của mình. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng cách đối xử công bằng với người lao động là một vấn đề cuộc sống cần được xem xét khi phân định lựa chọn người lãnh đạo. Tiền lương giúp con người có của ăn, của mặc, nơi ở và chăm sóc sức khỏe- tất cả đều là nguồn lực thiết yếu cho cuộc sống con người.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/gospel-matthew-reminds-us-just-wages-are-pro-life-issue

80. Tình yêu
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.

81. Ghen tị
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tùy ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, Ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mọi mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thanh công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá…ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phải tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.

82. Dụ ngôn thợ làm vườn nho
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Vì sao dụ ngôn thợ làm vườn nho (được đóng khung trong cùng một châm ngôn: 19,30 = 20,16) lại nằm trong văn mạch này và đâu là trọng tâm của nó?
2. Trong Cựu ước, vườn nho tượng trưng cái gì?
3. Khi trả cho mỗi người cùng một đồng tiền công, trong lúc số giờ làm việc lại khác nhau, phải chăng chủ vườn nho đã lỗi đức công bằng xã hội? Ta có thể đặt ra vấn đề cứu rỗi bằng ngôn ngữ công nghiệp cá nhân tương đương với các quyền lợi đối với Thiên Chúa không?
4. Những người thợ giờ thứ nhất phản đối sự bất công hay lòng tốt của gia chủ?
5. Phải chăng có sự tương tự giữa thái độ của các người thợ này với thái độ của người anh cả trong dụ ngôn đứa con hoang đàng?
1. Ý nghĩa tổng quát của dụ ngôn thật rõ ràng, nhưng cách dụng nó lại hơi khả nghi. Vì thế có lẽ đầu tiên nên đi từ ý nghĩa tổng quát trước khi sang phần áp dụng cụ thể.
Nếu thu gọn lại trong hai vế của một so sánh, dụ ngôn có thể tóm tắt như thế này: cũng như sau một ngày lao động trong đó các người thợ đã làm việc với những số giờ rất khác nhau, ông chủ đã trả cho tất cả cùng một số tiền, vì muốn tỏ ra ông rộng rãi với một vài kẻ đồng thời không bất công với bất cứ ai, thì cũng thế, Chúa có quyền đối xử rộng rãi với những kẻ Ngài muốn mà không bao giờ lỗi đức công bằng, và chẳng ai có quyền chỉ trích chuyện ấy được. Hình như đây đúng là ý nghĩa tự nhiên nhất của dụ ngôn như nó hiện ra trong Mt. Chủ đề của dụ ngôn rõ ràng là chủ đề về lòng quảng đại của Thiên Chúa, Đấng ban cho mọi người cùng một hồng ân lạ lùng và nhưng không, gọi là ơn cứu rỗi. Tình yêu của Thiên Chúa tuôn tràn đến tất cả mọi người chẳng phân biệt ai. Điều chủ yếu là đón nhận tình yêu ấy, chứ đừng đo lường lòng tốt của Ngài theo bản thanh toán của công bằng giao hoán nhân loại.
2. Dụ ngôn này được gửi đến ai? nhắm ai? Căn cứ vào văn mạch trực tiếp đóng khung dụ ngôn, một số cho rằng nó được gởi đến các môn đồ. Số khác, dựa vào văn mạch chung của cả phần này (ch.19-23), một văn mạch rõ ràng là có tính cách tranh luận, nghĩ rằng đúng hơn dụ ngôn nhắm đến nhóm Biệt phái đang ghen tức vì thấy Chúa Giêsu quan tâm đến hạng thu thuế và tội lỗi: họ bảo Người muốn trả lời Biệt phái ràng, dù “đã vác nặng cả một ngày thường” qua việc tuân giữ Lề luật từ buổi thơ ấu, họ không được phép chỉ trích việc Thiên Chúa lấy lòng nhân lành ban cho các tội nhân, vào muộn trong nước Trời, cùng một phần thưởng như họ. Sau hết có kẻ áp dụng dụ ngôn vào mối liên hệ giữa Do thái và lương dân: nhưng người này, dù vào trễ trong nhiệm cục cứu rỗi của Đấng thiên sai, cũng sẽ thừa hưởng các lời hứa đã ban cho tuyển dân; việc họ gia nhập muộn màng không có nghĩa là họ thông phần ít hơn vào các của cải thiêng liêng Chúa Kitô mang đến. Phải chọn lối nào trong ba lối áp dụng vừa nêu?
3. Nếu lưu tâm đến ‘toàn bộ thần học Mt, ta có thể tiên thiên rằng trong ba lối áp dụng này, lối nào cũng có thể chấp nhận được. Quả vậy, mỗi lối đều đáp ứng một số bận tâm và chủ đề nòng cốt của Tin Mừng thứ nhất. Thành thử không có lý do gì để loại bỏ một trong ba, như thể nó mâu thuẫn với viễn thông của Mt. Dầu vậy, ta vẫn có thể xếp hạng chúng theo thứ tự đáng ưu tiên chấp nhận nhiều hay ít. Vì dù cả ba lối áp dụng đều dung nạp được, bộ không có một lối nào nổi bật hơn hai lối kia ư?
Câu trả lời dĩ nhiên là có, và người ta có lý để ưa lối thứ nhất hơn, là lối áp dụng dụ ngôn vào các môn đồ. Quả thế, văn mạch trực tiếp rất rõ ràng về điểm này: trong các đoạn văn đi trước và đi sau, chỉ có các môn đồ được đề cập. Và vì để trả lời cho một câu hỏi cụ thể của Phêrô mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn này. Phải chăng Người cũng có nghĩ tới Biệt phái hoặc toàn thể Israel, được đại diện qua những kẻ “đầu hết” trở nên cuối hết”? Điều ấy có thể lắm, nhưng chẳng có gì trong bản văn xác quyết cho ta như vậy. Thành thử tốt hơn là nên lưu ý tới chính cách trần thuật của bản văn Tin Mừng và giải thích dụ ngôn dựa vào câu hỏi của Phêrô. Nhưng như thế thì nó sẽ mặc ý nghĩa nào ?
4. Phêrô xem ra có một lối suy tưởng hơi tính toán. Phải tha mấy lần (18, 18- 22)? ông đã sẵn sàng tỏ ra quảng đại và đề nghị một giới hạn rộng rãi: 7 lần. Dù thế, ông vẫn mong một câu trả lời rõ rệt. Và Chúa Giêsu đáp: người phải tha đến 77 lần, nghĩa là luôn luôn. Kỳ thực, qua cách trả lời đó, Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể qui định vấn đề các tương giao liên vị dựa trên một nền tảng có tính cách định lượng được.
Trong trường hợp hiện tại cũng vậy, Phêrô muốn biết những ai đã từ bỏ mọi sự để phục vụ Chúa Kitô sẽ được phần thưởng nào. Ông nghĩ cả hai vế của phương trình phải cân đối: phục vụ và hy sinh bao nhiêu, phần thưởng sẽ là bấy nhiêu. Chúa Giêsu vồn vã trả lời và đoan chắc với ông rằng các tôi tớ người sẽ được ân thưởng bội hậu. Tuy nhiên câu hỏi của Phêrô đã bị chuyển hướng và cho thấy ông có thái độ sai lầm. Nước Trời đâu phải dựa trên luật giao hoán đổi chác, lao động bao nhiêu, tiền lương bấy nhiêu! Không nên áp dụng cái có thể là thủ tục hoàn toàn chính đáng trong lãnh vực kỹ nghệ hay thương mại vào việc phục vụ Thiên Chúa. Quả vậy, trong Nước trời chẳng có vấn đề công nghiệp cá nhân được đánh giá theo giờ lao động đâu. Đây tiên vàn là vấn đề đón nhận ân sủng. Thiên Chúa không mấy nhìn đến nỗ lực của người thợ cho bằng đến lòng quảng đại bao la của Ngài, hằng muốn hiện thân cho tất cả cách sung mãn, trọn vẹn. Thành thử trong văn mạch này, văn mạch nói đến việc trả lương cho các môn đồ (câu hỏi của Phêrô), dụ ngôn đã nêu lên một trường hợp trả lương cho các người thợ trong đó lòng quảng đại thắng lướt óc tính toán hơn thua.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi…”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn…Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế… Há tôi lại không được phép…. sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v… Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.

83. Tình yêu vượt xa công lý
(Chú giải của Fiches Dominicales)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39). Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả, nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác định cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế, những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ. Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
Câu chuyện khởi đầu rất bình thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm…”? ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương ‘bắt đâu từ những người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im lặng, ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với nhưng người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “ông đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
2) … hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”. Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin kết luận: Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời – làm như thể khi cứu vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành. Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Công bình kỳ cục (G. Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta trở nên trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch… vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta, phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
2. Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz, Le Règne des cieux siest approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên: “Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.

84. Những người thợ làm vườn nho
(Chú giải của Noel Quesson)
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi… Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện… Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy… và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng… bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).

85. Đếm từng ngày
(Suy niệm của Lm Xuân Nguyên)
Có lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua đi mau quá! Mới vào tiểu chủng viện ngày nào ở Châu Đốc, ngài nói, mà giờ đây đời tụi mình đã bắt đầu đếm từng ngày. Chúng tôi cười thoải mái. Tôi trả lời: Mình đã bắt đầu đếm từng ngày khi ở tù Cộng Sản rồi, vì trong tù hôm nay còn sống sót thì biết có hôm nay, ngày mai rao sao chỉ là bóng tối thấp thoáng của tử thần. Mình đã đếm và vẫn tiếp tục đếm từng ngày…, và sẽ đếm cho tới ngày sau cùng cuộc đời xem có xứng đáng lãnh được một đồng công như Chúa Giêsu phán trong dụ ngôn đón thợ vào làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay không!
Có lẽ ít người muốn đếm từng ngày đời mình, vì vừa mất giờ, nhưng có thể vừa bi quan vì thấy đời lúc nào cũng trôi nhanh như giấc mơ qua mau, để rồi in trên đời niềm sầu tủi yếm thế phí lý. Tôi thiết nghĩ nếu có đủ can đảm đếm từng ngày đời mình, qủa thực là một cái thú hết sức kỳ diệu, bởi từng ngày từng ngày qua trong đời luôn ẩn hiện những kỳ diệu của bàn tay an bài Thượng Đế. Càng đếm càng thấy con đường đi đời mình chẳng giống ai, chỉ riêng cho mình trong tương quan quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, ngay cả những khổ đau nhất mà đời cho là xui, lại trở thành ân huệ quí giá Thiên Chúa ban tặng. Chẳng hạn bạn thử ngồi đếm lại từng ngày đời mình lúc vượt biên và ở trại tỵ nạn. Ai cũng cho là khổ, nhưng giờ đây có muốn sống lại dù chỉ một ngày như thế cũng chẳng còn, vì cái khổ lúc đó đã dệt nên những niềm vui khôn tả cho đời mình hôm nay ở đất nước thứ ba này. Biết bao người đã thành công giàu có, hoặc đã ung dung nhìn đàn con đang hạnh phúc trong những ước mơ đã thành sự thật…
Như thế đếm đời mình từng ngày trước hết là để ca tụng tình thương vô biên của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng trả công bội hậu cho chúng ta như cái giá Ngài đã mặc cả để cứu chuộc nhân loại. Nếu tôi được Chúa trả một đồng công cứu độ thì đã hạnh phúc lắm rồi, vì tôi chắc chắn sẽ được Chúa rước vào Nhà hạnh phúc bất diệt của Ngài. Điều quan trọng là tôi có dám nhận làm trong vườn nho của Chúa không, cho dù tôi đã thất nghiệp lang thang cả nửa đời, hoặc ba phần tư, hoặc ngay cả lúc chỉ còn vài phút cuối ngày cuộc đời. Chúng ta hãy bắt đầu đếm đời mình đi, chắc chắn sẽ nhận ra tình thương kỳ diệu và vô biên của Chúa. Nhờ tình thương ấy, mình sẽ không còn ganh tỵ với tha nhân, dù họ bắt đầu làm vườn nho Chúa từ lúc nào không biết, nhưng tất cả sẽ ca ngợi đồng công tình thương và ơn cứu độ của Chúa vào hạnh phúc cuối ngày. Nào: Một, hai, ba: Đếm!
LÀ CÔNG BẰNG HAY LÒNG NHÂN LÀNH!
Chúng ta chẳng hề biết thật rõ về cách ông chủ cư xử với những người làm công trong vườn nho của ông, nếu chỉ nhìn dưới khía cạnh công bằng được tính theo thời gian làm việc từ ba, sáu, chín, mười một giờ, nghĩa là bắt từ sáng sớm, từ sáu giờ, vv… mà tiền lương vẫn được lãnh như nhau! Thế nên họ mới thắc mắc, và chắc chắn đã không được thỏa mãn với câu trả lời của ông chủ. Với họ, xem ra ông chủ luôn luôn thiên tư, cho dù ông có giàu có, nhân từ và quảng đại.
Đến lượt chúng ta khi đọc và nghiệm lại cuộc sống của mình, cũng sẽ thắc mắc thật nhiều về cách thức Thiên Chúa đối xử xem ra không công bằng với con người, bởi vì có quá nhiều người giàu có, nhiều tài năng, nhiều may mắn; có quá nhiều quốc gia thịnh vượng xung túc, tràn đầy quyền lực, trong khi biết bao người và rất nhiều nước đang sống trong lầm than cơ cực nghèo khó, bị thống trị, vv… Bức tranh cuộc đời mình còn thê thảm hơn khi chính mình trực tiếp hỏi Chúa tại sao mình đã nhiệt tình làm việc và dùng hết thì giờ vào các cố gắng xây dựng đời sống gia đình, xã hội, vv… mà vẫn không khá hơn; ngược lại luôn gặp những rủi ro, đàn áp, bỏ vạ cáo gian, vẫn thua kém hơn những người xem ra lười biếng, nhiều chuyện và ngay cả gian ác! Sự công bằng như không hề có ở đời này. Lạy Chúa, tại sao vậy?
Đây là những trả lời chính xác của Chúa Giêsu: Vườn nho là của Chúa. Thời gian là của Chúa. Sự sống con người có là quà tặng, cho dù tính theo thời gian dài hay ngắn, nó vẫn luôn là qùa tặng quí giá nhất. Sự hiện hữu và cách thức hiện hữu dài hay ngắn theo ý Chúa đều trọn vẹn trước mặt Chúa, nên mới có canh ba, canh sáu hoặc chín… Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhìn sự hiện hữu này như những chiếc ly chứa đầy nước ở trên trời. Ly nào cũng tràn đầy cả, không thể đổ thêm dù chỉ một giọt.
Người ta quan niệm công bằng dựa trên tiền công theo giờ lao động. Nói cách khác, càng được nhiều của cải vật chất, tài năng, danh vọng ở đời này thì càng công bằng hơn. Còn Chúa Giêsu bảo sự công bằng ấy đã được định đoạt bằng giao kèo trước khi vào vườn nho làm việc. Ai cũng được trả bằng nhau. Nên cuối ngày cuộc đời, chẳng ai có quyền đòi được trả, nghĩa là chẳng ai tự mình được định đoạt cuộc sống bằng các giá trị vật chất, nhưng là sự mặc cả giá trị thiện chí làm việc đúng với thời gian mình có như ý ông Chủ muốn. Dĩ nhiên dụ ngôn không nói rõ từng người làm công được phân định làm việc gì và làm việc thế nào, nhưng chắc chắn mỗi người tuỳ theo tài năng và sức lực của mình mà ông chủ thuê vào từng thời điểm khác nhau trong ngày, để chu toàn những việc ngổn ngang trong vườn nho của ông. Sự công bằng này xác định rõ hơn điều mà Chúa Giêsu trả lời cho người làm công thắc mắc: Hãy cầm lấy tiền của bạn mà đi, tôi không làm bạn thiệt hại đâu. Hay mắt bạn ganh tị vì tôi nhân lành chăng?
Đến đây chúng ta khám phá ra ánh sáng cho sự công bằng, tức sự nhân lành của ông Chủ, Thiên Chúa vườn nho vũ trụ và vườn nho cuộc đời chính là thước đo công bằng tuyệt đối. Chính nhờ sự nhân lành của Thiên Chúa mà vũ trụ và muôn loài hiện hữu, trong đó có đời sống từng người chúng ta. Cách thức hiện hữu của vũ trụ và con người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Riêng với con người thì Ngài ban cho tự do để điều khiển và đáp lại tiếng gọi hiện hữu trong vườn nho của Ngài. Cuối ngày cuộc đời, một đồng công được trả cho chúng ta bằng sự nhân lành của Chúa, bởi vì chúng ta tự sức riêng không thể vượt qua giới hạn của sự chết để vào miền đất sống vĩnh cửu vườn nho Thiên Chúa. Vì thế tốt nhất hãy biến sự ganh tỵ hôm nay thành lòng nhiệt thành làm việc theo thánh ý Chúa. Người ta sẽ mãi mãi không thể giải đáp được bí mật sau khi chết và cách thức trả một đồng công của Thiên Chúa, bao lâu vẫn còn trên hành trình đức tin trong vườn nho của Thiên Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy học bài ca tạ ơn của muôn tạo vật khi bình mình thức giấc, ca ngợi hồng ân diệu kỳ mà Thiên Chúa tặng ban cho mình, để mỗi ngày sống sẽ nối tiếp trong niềm vui nhờ lòng nhân lành bao la và vô cùng quảng đại của Thiên Chúa. Và mỗi người sẽ cảm nghiệm sự công bằng của Thiên Chúa chính là lòng nhân lành của Ngài bao phủ qua mọi biến cố cuộc đời: lúc nhàn rỗi canh ba; lúc thất vọng, lúc thất nghiệp, lúc cô đơn canh sáu; lúc đau khổ, lúc đối diện với bóng tối, lúc chơi vơi giữa giòng đời canh chín; hay lúc hầu như rã rời muốn rời xa sự hiện hữu vào giờ mười một;… và nhất là lúc vui mừng lãnh đồng công sau cùng cuộc đời do Thiên Chúa trao tặng trong vườn nho vĩnh cửu của Ngài. Xin tạ ơn và tạ ơn muôn đời lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu muôn thuở.

86. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công?
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm…
***
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều… Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào…! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ… Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?”; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ… Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.

87. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?”. Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.

88. Cảm thông với tha nhân
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Dụ ngôn thợ làm vườn nho
Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giêsu sắp thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu người làm vao làm việc trong vườn nho của mình. Có 4 tốp người được kêu vào làm vào 4 thời điểm khác nhau trong ngày: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm giờ thứ mười một tới người làm từ giờ thứ nhất. Mỗi người đều được trả lương bằng nhau là một quan tiền. Khi có người thắc mắc ông chủ đã cho biết ông không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ chung cho mọi người gia nhập vào Hội Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu, đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn là phải có đức tin thể hiện qua đức cậy và đức mến.
CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ người để thuê người hái nho cho mình. Chủ vườn nho tượng trưng Thiên Chúa. Ngài mời gọi mọi dân tộc đều vào làm vườn nho, nghĩa là được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. + thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền: Vào thời Đức Giêsu, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
– C 3-7: + Giờ thứ ba: Bấy giờ người Do thái tính thời gian một ngày từ lúc mặt trời lặn dựa vào lời tường thuật trong Sách Sáng Thế Ký: “Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: Đó là ngày thứ nhất…” (St 1,5). Vì thế luật qui định ngày Sa-bát bắt đầu từ 18g00 chiều thứ sáu. Còn về việc tính giờ, người Do Thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động của người Do thái mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc vào lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cưu độ, và người ta có thể gia nhập Nước Trời là Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Trả lương công bằng, nghĩa là người làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm vườn nho cho ông vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không cần tính toán thiệt hơn cho mình. Điều này cho thấy lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. + Khoảng giờ mười một: Giờ thứ mười một tương đương với 17 giờ chiều, là giờ cuối cùng trong một ngày làm việc. Thợ chỉ phải làm một tiếng nữa là hết giờ lao động. + Vì không ai mướn chúng tôi: Những người đứng không suốt ngày do không được ai thuê mướn. + Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!: Ông chủ kêu thợ vào làm vườn nho vào giờ cuối cùng là do lòng thương muốn giúp đỡ người thất nghiệp, chứ không do nhu cầu của công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn ban không, hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa, chứ không do công khó của con người.
– C 8-10: + Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất: Việc trả lương này khác thường. Vì thứ tự trước sau bị đảo lộn và tiền lương đều là một quan tiền cho các người thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng mình sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi được lãnh bằng với người mới vào làm việc từ giờ thứ mười một. Qua việc phát lương này, ta thấy người bị thiệt là ông chủ chứ không phải người thợ làm từ giờ thứ nhất. Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay vào lúc sắp chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng hồng ân cứu độ.
– C 11-13: + Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người vào làm giờ thứ mười một chỉ làm một giờ. Hai là họ phải chịu sự nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau ban chiều khi mặt trời sắp lặn không bị nắng gắt nóng bức. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người đến làm việc sau. + Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa rõ tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giêsu đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân Đền thờ đến bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với bạn?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây thiệt hại gì cho những người làm trước. Những người làm từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền, đúng như đã thỏa thuận từ lúc vào làm việc.
– C 14-16b: + Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được trả một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công khó của họ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ giống như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị với các tội nhân hay người lương khi thấy Chúa đối xử nhân từ cho họ được gia nhập đạo vào lúc cuối đời. + Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa của nhóm thợ làm từ lúc sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giêsu muốn các tín hữu chúng ta hãy noi gương lòng nhân từ của Thiên Chúa và đừng suy nghĩ hẹp hòi khi phê phán công việc của Ngài như người ta hay nói: “Lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử!”. + Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết về bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian dài ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi viết thêm câu này để đóng khung dụ ngôn mà thôi.
CÂU HỎI:
1) Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn ám chỉ ai? Việc ông chủ vườn nho đi mời người vào làm vườn nho cho ông ở nhiều thời điểm khác nhau trong ngày có ý nghĩa gì? 2) Người Do thái thời xưa tính ngày mới bắt đầu lúc nào? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao động và thời giờ ấy tương đương thế nào với giờ hiện nay? Giờ thứ mười một là mấy giờ hiện nay? 3) Ông chủ hứa trả lương công nhật bao nhiêu và trả theo phép công bằng nghĩa là gì? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm vườn nho vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy ông là người thế nào? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn nho khác thường ở điềm nào? Điều này nhằm nói lên điều gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta? 6) Những người làm từ giờ thứ nhất trách móc ông chủ những gì? 7) Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng nhau cho những người làm trong thời gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ đã kêu trách không? 8) Ông chủ phê phán thái độ của bọn thợ vào làm vườn nho từ giờ đầu tiên ra sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,13-15).
2. CÂU CHUYỆN: Ông vua nhân từ và quảng đại
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân rồi vi hành đi đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời chấn chỉnh sửa sai. Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh kia và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng”. Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: “Sao anh lại nói như vậy?” Người bồi phòng trả lời rằng: “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trit (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: “Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó!” Anh bồi phòng lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua?” Nhà vua trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai chút nào”. Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ đức vua thì thông thường phải làm những việc gì hả ông?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp: “Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng là minh họa sống động về long nhân từ và bao dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ đều được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào các giờ khác nhau, đặc biệt vào giờ thứ mười một là lúc cuối đời. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá bên cạnh Đức Giêsu. Nhờ lòng tin và thành tâm sám hối mà anh trộm lành đã được Người tha tội và ban hạnh phúc đời đời: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).
3. SUY NIỆM:
1) So sánh người con cả với bọn thợ làm vườn nho đầu tiên:
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã bất mãn với cha khi thấy cha tỏ lòng bao dung tha thứ tội lỗi của đứa em hư hỏng đã đi hoang trở về. Không những cha không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi thấy nó vẫn mạnh khỏe. Người con cả đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không thèm vào nhà và lên tiếng phiền trách cha: “Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê nhỏ để con vui vẻ với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại giết dê béo ăn mừng nó!” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cuối ngày cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày.
Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, các kinh sư và người Pha-ri-sêu đều khó chịu khi thấy Người đối xử thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi nói chung. Người là mục tử tốt lành đi tìm từng con chiên lạc. Người mang lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh phúc. Người luôn mời gọi những người tội lỗi mau sám hối và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang bằng với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giêsu, các đầu mục này đã tỏ ra ganh ghét vì cho rằng mình đã không được Đức Giêsu tôn trọng hơn bọn người nghèo khổ tội lỗi kia.
2) Thế nào là thái độ ganh ghét đố kỵ?
Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã có thái độ ganh tị khi thấy Thiên Chúa chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua lễ vật của anh ta. Anh ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết em, nên cuối cùng anh ta đã bị trừng phạt. Như vậy người có tính ganh tị là kẻ vừa huỷ diệt người khác, lại vừa hủy hoại chính mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vì đã trả lương cho người vào làm sau cũng được một quan tiền bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền lương ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.
Kẻ ganh ghét đã không “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thủ cạnh tranh với mình. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho họ. Ở đây, Đức Giêsu mời gọi các tín hữu chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Thiên Chúa: Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ Lề luật. Người hoàn toàn tự do thể hiện tình thương bao dung. Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn muốn ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Thiên Chúa chứng tỏ Người là Chúa tể của kẻ trộm lành biết hồi tâm sám hối, là ông chủ của người thợ đi làm vườn nho vào giờ thứ mười một, nhưng Ngài cũng là cha đầy lòng từ bi nhân hậu với hết mọi người chúng ta.
3. Chúa muốn ta phải làm gì?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi mọi người chúng ta đừng quá tự hào về bản thân. Người kêu gọi chúng ta đổi mới cách nhìn về người khác, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét ích kỷ và sự trả thù ti tiện. Biết đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào nhà cha để chia sẻ niềm vui với cha khi tìm thấy đứa con thất lạc trở về? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm giờ thứ mười một lúc cuối ngày? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy niềm vui thật sự với những người hàng xóm gần bên, vì chúng ta đã nhận ra họ không phải là đối thủ, nhưng là anh em của chúng ta?
4. THẢO LUẬN:
1) Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào? Ta phải làm gì để bỏ đi thói xấu ganh tị này? 2) Thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” có dễ thực hành không? 3) Bạn thường cảm thấy thế nào khi thấy người khác trổi vượt hơn mình như: họ thi đậu còn ta bị rớt; Họ có tài hát hay được nhiều người tán thưởng và làm việc hiệu quả hơn ta? Họ được nhiều người khác tín nhiệm hơn ta?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân hậu. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết: sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội thánh trổ sinh nhiều hoa trái công bình và yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha mời gọi nhiều người vào làm vườn nho Nước Trời. Xin cho chúng con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha trong gia đình Hội Thánh, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng: “Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”.
– Lạy Cha. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung dịu dàng của Chúa Giêsu và trái tim đầy tình mẫu tử của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con không ích kỷ luôn khép lại để chỉ yêu mình và những người thân của mình, nhưng biết mở ra để đón nhận người khác. Xin uốn nắn trái tim sơ cứng của con nên giống trái tim nhân hậu bao dung của Chúa. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn bình an, không giận hờn tranh chấp hoặc để bụng ganh ghét với những ai hơn mình. Xin giúp tình cảm của con luôn quân bình: không quá vui khi thành công, mà cũng chẳng chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn bình tĩnh nghe những lời phê bình của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận cả thế giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng sẵn sàng yêu thương tha thứ để biến kẻ thù thành bạn của con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

89. Bằng lòng với của Chúa ban
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Đó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay.
Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Đó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người.
Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Đấng Cứu thế đến. Khi Đấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Đó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa.
Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa.
Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Đường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:8).
Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Đó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái.
Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một1 – tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc – có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ.
Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Đó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Đáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn.
Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là Đấng công minh và đại lượng
Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh
và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn
để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban.
Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại
để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác
thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa.
Và xin cho những người đến sau
cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.

90. Chúa xót thương
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương…
***
Kính thưa cộng đoàn,
Một lần kia, đang ngồi uống cà phê với mấy bạn ở ngoài quán. Một đứa bé nó bán vé số đến gần, và nó mời, thì con mới chọc nó:
– Con ơi, con bán cái gì?
Thì bé mới nói rằng: – Dạ thưa chú, con bán Mơ Ước.
Hỏi: Tại sao vậy con?
– Bởi vì, rõ ràng chú thấy rằng, tới chiều, ai cũng muốn mình được trúng số. Và đó chính là Mơ Ước của mọi người.
Mơ Ước đó, hình như ai cũng mơ ước cả. Bởi vì, ai cũng ước mơ mình được giàu sang phú quý, có thật là nhiều tiền, vợ đẹp, con khôn trên cuộc đời này.
Như, có một cái câu chuyện kia kể rằng:
Có một chàng thanh niên đi lên núi và gặp vị thiền sư và xin vị thiền sư cho bửu bối để làm sao thỏa mãn ước nguyện của mình. Và rồi vì tình thương, vị thiền sư đã cho chàng thanh niên ước mơ đó. Để khi trở về với cuộc đời, sau chốc lát, chàng thanh niên mơ ước có vợ đẹp con khôn. Và chỉ trong chốc lát thôi!
Thì anh ta có một ngôi biệt thự, và anh ta có một người vợ đẹp, và anh ta ước mơ rằng anh ta được là người giàu có. Và cũng chỉ trong chốc lát thôi! Anh ta đã được giàu có.
Thế nhưng, có một điều đáng nói rằng, vị thiền sư trao cho anh cái bửu bối đó và nói rằng: ma quỷ sẽ làm theo tất cả những điều mà anh muốn, anh ước mơ.
Nhưng mà nếu, mà anh không làm theo ước mơ đó, anh không ước mơ điều khiển được cho ma quỷ không có giờ nghỉ, thì ma quỷ sẽ quật lại anh. Và rồi đầy đủ rồi. Xong rồi, chỉ cần trong chớp nhoáng: vợ đẹp, con khôn, nhà lầu, biệt thự.
Và, hết giờ rồi nhanh quá! Và còn lại một thời gian rất dài anh ta mới sợ quá và đi lên núi gặp lại vị thiền sư anh ta hỏi rằng:
Thiền sư ơi! Bây giờ có cách nào làm cho quỷ nó không thất nghiệp, nó có việc làm? Để nó đừng quật lại tôi.
Vị thiền sư mới nói rằng: -Bây giờ ngươi hãy đi nói với con quỷ rằng, hãy đi lấy cái lông con chó mực, mà vuốt lại cho nó thẳng.
Thế rồi, chàng thanh niên đó đi xuống núi và gặp con quỷ và quỷ hỏi: – Bây giờ muốn làm gì cho anh nữa, tôi sẽ làm?
Chàng thanh niên nói rằng: ngươi hãy đi vuốt cái lông của đuôi con chó đó cho nó thẳng. Và quỷ hoàn toàn bó tay, bởi vì quỷ làm không được!
***
Và rồi, chúng ta lại thấy đó là ước mơ của con người. Bởi vì, ai ai cũng ước mơ: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, đó là chuyện bình thường. Bởi vì, là con người trong cái phận người mình có cái ước mơ của mình.
Và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu lại khác! Chúa Giêsu cũng có một cái Ước Mơ nhưng mà, không phải một cái ước mơ để mà giàu có, giàu sang, phú quý, quyền lực.
Mà ước mơ của Chúa Giêsu đó là gì?
“Thầy những ước mơ ném lửa vào trần gian, và lửa trần gian này cháy bùng lên.”
Nghe thấy sợ quá, hoảng quá! chính người Tin Lành đã bắt bẻ cái câu Kinh Thánh này!
Thực sự ra, không phải người Tin Lành mà cả người Công giáo, nếu nghe chưa có rõ, hiểu chưa tường, thì sẽ cảm thấy rất khó chịu và thấy Chúa Giêsu là một người rất gian ác. Bởi vì ước mơ gì? Ước mơ của Chúa Giêsu đó là: Nén lửa vào thế gian.
Mà lửa là gì? Lửa là thiêu rụi, là đốt cháy! Vậy mà Chúa Giêsu lại ước mơ đem lửa vào thế gian.
Cái lửa ước mơ của Chúa Giêsu đem vào thế gian không phải là cái lửa của sự chết, của sự cháy, của sự thiêu rụi mà đó chính là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mang tới tình yêu của Thiên Chúa Cha vào trong cuộc đời mình và Chúa Giêsu muốn chuyển cái tình yêu đó cho nhân loại, cho anh chị đồng loại. Chúa Giêsu ước mơ làm sao cho cái Tình Yêu đó thắp sáng lên trong cuộc đời mỗi người Kitô Hữu.
Hôm nay chúng ta nghe một câu chuyện rất là vui. Khi mà trong cái hành trình đi rao giảng của mình, Chúa Giêsu lấy cái hình ảnh của Nước Trời có khi là tiệc cưới, có khi là lưới cá, có khi là viên ngọc quý. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe, chúng ta bắt gặp hình ảnh của một Nước Trời như là một ông chủ Vườn kia, thuê người đi làm vườn nho nhà mình.
Và cái nét đặc biệt là: Trước khi thuê thợ vào làm vườn nho thì ông chủ đã thỏa thuận lương bổng cho tất cả những người làm với ông.
Và đặc biệt, có những người đến trễ nhưng ông vẫn vui vẻ để đón nhận vào làm công việc của ông. Thế nhưng, tưởng chừng rằng người chủ này rất là tốt bụng và rất vui vẻ. Khi đã mời gọi những người thậm chí đi làm giờ trễ vào làm. Người ta gọi câu chuyện này là câu chuyện giờ thứ 11.
Và ông chủ này rất là bất công, ông chủ này làm cho người ta khó chịu! Khi ông chủ kêu những người đến sau cùng và những người đến trễ đó để trả lương và điều đặc biệt hơn nữa làm cho những người đến làm trước nổi khùng lên.
Bởi vì, những người mới vào làm có một chút thôi thì ông chủ vẫn trả lương, và trả đúng 1 đồng như thỏa thuận. Và cái lòng ganh tị của những người đến trước đã bùng bùng lên.
Và rồi họ đã quở trách ông chủ và rồi ông chủ nói với những người mà ông chủ thuê giờ đầu:
– Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu? Chớ thì, bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy một đồng của bạn đi và hãy đi về. Bởi vì, tôi muốn trả cho ai hết là quyền của tôi.
Chúng ta thấy căn tính và nét đẹp của đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến cho trần gian này. Chúa Giêsu đến mang tình yêu đến cho trần gian này.
Và Chúa Giêsu lắp đầy trên cuộc đời của những con người, và đặc biệt những con người tội lỗi.
Những người công chính thì thường huênh hoang. Và nghĩ rằng mình chẳng cần đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Còn những người tội lỗi họ biết mình, ý thức được mình là những con người tội lỗi và họ xin Lòng Thương Xót Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không xử với chúng ta theo sự công bằng. Nếu mà Chúa Giêsu xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc kẹt.
Ngay bản thân con, nhìn lại cuộc đời của mình: bốn mươi mấy năm trời, mười năm linh mục. Nhìn lại, không phải là nói lý thuyết, không phải là nói để được Chúa thương, không phải là nói để cho anh chị em thương hại đâu. Nhưng diện đối diện với lòng mình, thấy mình đặt mình trước mặt Chúa, thì mình thấy mình ngược lại với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu càng tuổi càng thêm nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Còn bản thân của mỗi người chúng ta và cách riêng bản thân của con, con cảm thấy rằng mình là con người quá tội lỗi. Vì nhiều lần, nhiều lúc, mình cũng nghĩ rằng, mình sẽ làm điều này, điều kia cho Chúa và anh chị em đồng loại của mình. Những người sống gần với mình, những người thân với mình đừng buồn. Thế nhưng chỉ vì cái tôi của mình, nhiều lần nhiều lúc mình đã làm cho những người đó buồn.
Và rồi, nếu! nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương.
Căn tính của cuộc đời của Chúa Giêsu là chỉ xót thương thôi, Ngài quên đi những lỗi lầm của chúng ta, Ngài quên đi những yếu đuối của chúng ta và Ngài thương xót chúng ta như trong bài đọc thứ nhất:
Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Đường lối của các ngươi và đường lối của Ta cách xa nhau.
Tư tưởng của chúng ta là như thế.
Chúng ta vẫn sống công bằng với anh chị em. Nhiều khi cái công bằng đó đến nghiệt ngã! Nếu nhìn đến sự công bằng đi! chúng ta có công bằng không?
Khi xung quanh chúng ta có quá nhiều người kém may mắn hơn chúng ta. Những người khuyết tật, những người mù, và những người câm điếc. Liệu rằng, tất cả những gì chúng ta có, chúng ta có can đảm để chia sẻ cho những người bất hạnh đó một cách công bằng hay không?
Trong khi đó thực tế của cuộc đời chúng ta là những con người yếu đuối Chúng ta là những con người tội lỗi vậy mà CHÚA thương chúng ta nhiều. Chúng ta là những người thợ giờ thứ 11, làm ít thưởng nhiều nhưng trong lòng của chúng ta vẫn mặc lấy, mang lấy sự hơn thua, sự ích kỷ.
Nước Trời chắc có lẽ, không có trò của những người ganh tị. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người hơn thua. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người giành giật. Nước Trời là Nước mà nơi đó, chỉ có tình yêu, và tình yêu mà thôi!
Vẫn là những con người yếu đuối sống trong dòng chảy của xã hội. Ngày hôm nay kinh tế thay đổi nhiều, mà lòng người cũng thay đổi nhiều, khiến cho người ta ích kỷ nhiều hơn, ghen tuông nhiều hơn, đấu đá nhiều hơn.
Và xin Chúa cho mỗi người chúng ta, dành thời gian nhiều hơn với Chúa. Đặt mình trước mặt Chúa, để luôn luôn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta là những con người tội lỗi. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Để rồi, chúng ta cũng lấy tình yêu thương, mà Chúa yêu thương chúng ta đó mà chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại.
Bởi lẽ, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa yêu thương chúng ta hơn chúng ta tưởng. Và khi cảm nhận được lòng thương xót đó, chúng ta sẽ yêu thương anh chị em đồng loại và chúng ta sẽ bớt đi những hờn ghen, những ganh tị. Bởi vì, Chúa là người quá yêu thương chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. Như Thánh Phaolô nói: Chúa đã yêu thương chúng ta khi chúng ta đều là tội nhân, Ngài đã chết, đã chết cho ta.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để chúng ta nhìn lên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được một lòng yêu thương, một lòng thương xót vô bờ mà Chúa đã dành cho chúng ta. Để rồi, chúng ta đừng bao giờ ganh tị với anh chị em đồng loại chúng ta như những người trong trang Tin Mừng ngày hôm nay. Amen.