CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN – A

CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Gr. 20, 10-13; Rm. 5, 12-15; Mt. 10, 26-33
MỤC LỤC
1. Anh em đừng sợ 4
2. Chúa Nhật 12 Thường Niên 7
3. Đừng sợ 11
4. Sợ Đấng có thể… tiêu diệt? 15
5. Tuyên xưng Thầy trước thiên hạ – ViKiNi 18
6. Tuyên xưng đức tin 22
7. Đừng sợ 26
8. Đừng sợ 28
9. Đừng sợ hãi 32
10. Đừng sợ 36
11. Đừng Sợ – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 39
12. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi – Charles E. Miller, C.M. 43
13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 46
14. Hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người 51
15. Nhận & chối – Anmai. 58
16. Đừng sợ 65
17. Hãy là chứng nhân -Lm. Giuse Phạm Thanh Minh 67
18. Biết sợ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 71
19. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc 74
20. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà 78
21. Chúa là sự sống – Lm. Minh Vận, CRM 82
22. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên 85
23. Các con đừng sợ 88
24. Để giúp nhau đừng sợ 91
25. ”Đừng Sợ” – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 95
26. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi 101
27. Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh 104
28. Chúa Nhật 12 Thường Niên 109
29. Tình yêu giúp ta thắng vượt sợ hãi – JKN 119
30. Suy niệm của JKN 125
31. Đừng sợ làm nhân chứng cho Đức Kitô 131
32. Hãy sợ tội – Lm. Nguyễn Hùng 134
33. Chờ đợi gì nơi cuộc sống? 137
34. Đừng sợ sống Tin Mừng 140
35. Điều đáng phải sợ 144
36. Sống trong tin tưởng 149
37. Can đảm, trung thành 151
38. Chúa Nhật 12 Thường Niên 156
39. Mạnh dạn tuyên xưng 159
40. Đừng sợ 165
41. Nhìn vào 168
42. Đừng sợ 170
43. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 173
44. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 176
45. Đừng sợ 184
46. Đừng sợ! – Lm. Nguyễn Khoa Toàn 190
47. Đừng sợ – Fernandez 193
48. Chứng nhân Tin Mừng 199
49. Quan phòng 201
50. Nỗi lòng – Trầm Thiên Thu 204
51. Đừng sợ – Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn 210
52. Người tông đồ nhiệt thành 214
53. Đừng sợ 227
54. Đừng sợ 230
55. Thân phận – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực 233
56. Anh em đừng sợ 237
57. Thiên Chúa quan phòng 240
58. Sợ hãi 243
59. Hãy nói ra giữa ánh sáng 246
60. Chú giải và suy niệm của William Barclay 250
61. Chú giải của Noel Quession 259
62. Đừng sợ – Chú giải của Fiches Dominicales 265
63. Dũng cảm tuyên xưng 271
64. Vững lòng trông cậy Chúa 277
65. Sứ giả 281
66. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ. 287
67. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ. 293
68. Đừng sợ 298
69. Can đảm làm chứng cho Chúa – Lm. Đan Vinh 300
70. Can đảm lên đường loan báo Tin Mừng 309

1. Anh em đừng sợ
Suy Niệm
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.
Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ. Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai. Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly…
Có những nỗi sợ mang tính đạo đức: sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật, sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một…
Có khi người ta sợ nhau: người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu, bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.
Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha, nhưng như mộ nô lệ trước một ông chủ khó tính.
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do.
Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ.
Đừng sợ người đời, cứ mạnh dạn nói Lời Chúa (c.27).
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác thôi (c.28).
Đừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Chúa (c.23).
Lắm khi Đức Giêsu đến với các môn đệ mà họ lại sợ hãi, tưởng là ma (Mt 14,27; Lc 24,37).
Nhưng sợ hãi cũng là chuyện bình thường của phận người.
Có ai làm người mà không một lần sợ hãi.
Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (Ga 14,1) nhưng chính Ngài cũng xao xuyến trước cuộc khổ nạn.
Tin Mừng Gioan hai lần nhắc đến điều đó (Ga 12,27; 13,21).
Đức Giêsu xao xuyến đến tột cùng trong Vườn Dầu: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26,37-38), và có lẽ Ngài cũng bị xao xuyến trên thập giá: “Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mt 27,46).
Sợ hãi, xao xuyến không phải là một tội.
Kitô hữu không phải là người không biết sợ, hay không dám khiêm tốn thú nhận là mình sợ. Nhưng họ là người không để nỗi sợ chi phối đời mình, không vì sợ mà không dám sống cho chân lý.
Đức Giêsu nói tiếng Xin Vâng ngay trong lúc sợ hãi và đã uống cạn chén đắng Cha trao.
Con người hôm nay an toàn nhờ đủ thứ bảo hiểm, nhưng bảo hiểm cũng bắt nguồn từ nỗi sợ cái bất trắc.
Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ riêng.
Cần đối diện và vượt qua bằng lòng tín thác, để rồi được an tĩnh và tự do.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài là Cha chúng ta, chăm lo đến từng sợi tóc cho ta, và chúng ta có giá trị lớn lao trước mặt Ngài.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào đời sau. Cái chết thân xác không là dấu chấm hết của đời người.
Cuối cùng, chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào Đức Giêsu, Đấng không bị sợ hãi nuốt chửng và đã đi tới cùng.
Đấng phục sinh vẫn mời gọi chúng ta hôm nay: “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn thấy người trẻ hôm nay sợ điều gì hơn cả? Để thắng vượt nỗi sợ cần làm gì? Cầu nguyện thôi, có đủ không? Cố gắng thôi, có đủ không?
Chấp nhận sống ơn gọi Kitô hữu là chấp nhận thiệt thòi ở đời này. Có khi nào bạn đã muốn chọn thiệt thòi để nói lên hay sống một chân lý của Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)

2. Chúa Nhật 12 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm
Trong thời đại tự do tôn giáo được đề cao,
chưa bao giờ Kitô giáo lại bị bách hại nhiều như thời nay.
Đức Phanxicô dám nói Giáo hội thời nay bị bách hại hơn thời kỳ đầu.
Các kitô hữu bị thù ghét và làm hại vì chính đức tin của họ.
Có nhiều hình thức bách hại khác nhau.
Có khi là đóng cửa hay tấn công, đốt phá các nhà thờ,
bắt gỡ xuống những thánh giá trên cao.
Có khi là làm cho người kitô hữu không còn đất sống,
bị phân biệt đối xử, đành phải trốn quê hương mà đi.
Có khi Kitô giáo bị coi là sản phẩm của thực dân ngoại lai,
là thành phần đe dọa an ninh của quốc gia dân tộc.
Trong năm 2015, có hơn bảy ngàn kitô hữu bị giết,
và gần hai ngàn năm trăm nhà thờ bị tấn công.
Tại Pháp, cha Jacques Hamel bị hai người dùng dao đâm chết
khi đang dâng Thánh Lễ tại họ đạo của mình, vào tháng 7-2016.
Ở nhiều nơi trên thế giới, truyền giáo giữa thanh thiên bạch nhật
vẫn còn là một điều bị cấm đoán,
rao giảng công khai trên mái nhà là nguy hiểm đến tính mạng.
Nhưng Đức Giêsu kêu gọi các kitô hữu đừng sợ.
Cứ nói to những điều mình đã được Thầy dạy dỗ trong nhà,
cứ công bố những gì mình đã nghe Thầy nhỏ to chia sẻ.
Sớm muộn sẽ đến ngày những điều còn ẩn khuất được lộ ra,
những bí mật được vén mở cho người ta biết.
Đức Giêsu còn chỉ cho ta biết ai là người mà ta phải sợ.
Không phải là người chỉ lấy được mạng sống của xác thân,
mà là Đấng có quyền trên cả hồn lẫn xác, đời này và đời sau.
Nhưng Đấng đáng sợ lại là Đấng đáng yêu,
vì Đấng ấy là Người Cha giàu tình thương với mọi loài thụ tạo.
Cả những thụ tạo bé bỏng và tầm thường như loài chim sẻ.
Hai con chỉ đáng một hào, làm cả ngày mua được ba mươi hai con.
Vậy mà không con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha của anh em.
Trên đầu mỗi người có bao nhiêu sợi tóc, chẳng ai biết.
Vậy mà Cha chúng ta biết, vì Ngài đã đếm từng sợi tóc trên đầu.
Vì Cha quý những thụ tạo tầm thường bé nhỏ,
nên chúng ta biết mình có chỗ đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa,
và được Cha trân quý hơn chim sẻ bội phần.
Khi tin vào Người Cha ấy, chúng ta được giải phóng khỏi nỗi sợ.
Cái chết đời này chẳng có nghĩa gì so với cuộc sống vĩnh cửu đời sau,
nên người kitô hữu ca hát an vui ngay giữa nơi hành hình.
Nơi hành hình là nơi làm chứng trước mặt mọi người về Đức Giêsu.
Có những người sợ khi phải nhận mình thuộc về Đức Giêsu.
Phêrô đã chối không biết Thầy Giêsu, không thuộc nhóm của Thầy.
Ông sợ những liên lụy có thể khiến ông gặp rắc rối.
Nhìn nhận hay từ chối có tương quan thân thiết với Ngài,
điều đó ảnh hưởng đến vận mệnh vĩnh hằng của từng người,
Ai nhìn nhận Đức Giêsu sẽ được Ngài nhìn nhận trước mặt Chúa Cha,
và Chúa Cha sẽ nhận người đó vào Nước của Cha trên trời.
Nói chung, chẳng có ai theo Thầy Giêsu mà lại được yên ổn,
vì chính đời Thầy đã kết thúc một cách rất không yên.
Nhưng theo Thầy là bình yên đón nhận thân phận của Thầy.
Không phải chỉ rao giảng về Thầy, mà còn phải sống lời rao giảng đó.
Không phải chỉ công khai tuyên xưng Thầy trên mái nhà,
mà còn để cho tinh thần của Thầy thấm vào toàn bộ cuộc sống.
Mong rằng chẳng có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn ngoan
để con biết sợ điều phải sợ.
Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác, tiếng tăm,
nhưng biết sợ toàn bộ con người mình bị hư mất vĩnh viễn.
Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời này,
nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn con hạnh phúc.
Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống,
những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không dám thú nhận,
những nỗi sợ khiến con chẳng được tự do an vui,
nhờ đó con dám sống thật sự là mình,
tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và thanh thản.
Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường
để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy.
Xin dạy con ngắm chính mình mỗi ngày,
để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của tình yêu.
Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi sáng,
để biết mình chẳng nên quá lo chuyện cơm áo gạo tiền,
nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong lòng mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong tay Cha.
Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.

3. Đừng sợ
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cuộc sống xung quanh chúng ta có biết bao nỗi sợ. Từ trong nhà ra ngoài phố, chúng ta có thể gặp nguy hiểm bất kỳ lúc nào. Nguy hiểm do thiên tai, do bạo lực, do tai nạn giao thông. Ngoài những nỗi lo cơm áo gạo tiền, con người còn phải lo sợ trước sự bon chen, mưu mô, thủ đoạn của người đời. Trước những lo sợ bủa vây tứ phía, người ta đối phó bằng nhiều cách khác nhau: có những người buông xuôi phó mặc cho dòng đời trôi dạt, hoặc thỏa hiệp với sự dữ, làm điều bất chính. Có những người can đảm vững tâm, vượt thắng mọi sợ hãi, thanh thoát giữa đời. Giữa bối cảnh đầy lo âu này, người tín hữu được Chúa Giêsu trấn an khích lệ: “Đừng sợ!”.
Ông Bà ta thường nói: “Cây ngay không sợ chết đứng”. Điều này có nghĩa là chúng ta cứ sống theo sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát và minh oan cho chúng ta. Một cuộc sống gian dối, bao che sẽ đến lúc phơi bày ra ánh sáng. Ngôn sứ Giêrêmia là một người công chính, nhưng ông bị bách hại, đe dọa và vu khống đủ điều. Những kẻ thù ghét ông đã gọi ông là “Lão tứ phía kinh hoàng”. Tuy vậy, ông vẫn một lòng cậy trông vào Chúa. Ông tin rằng, Chúa sẽ phù trợ ông. Ngài cũng sẽ minh oan cho ông, vì ông sống ngay thẳng. Bài đọc I là lời cầu nguyện của ngôn sứ Giêrêmia trong cơn bách hại. Đó cũng là lời khuyên những ai sống công chính mà bị ghen ghét, hãy cậy trông vào Chúa và hãy sống ngay lành trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Đức Chúa hằng ở bên con, như một trang chiến sĩ oai hùng…”. Thiên Chúa là Đấng phán xét công minh. Ngài thấu hiểu lòng dạ con người. Ngài thương xót và cứu vớt những ai sống ngay lành thánh thiện. Những ai cậy trông Chúa, Ngài chẳng bỏ rơi bao giờ.
Chúa Giêsu tiếp nối giáo huấn của Cựu ước. Người khuyên chúng ta đừng sợ những người chỉ giết được thân xác mà không giết được tâm hồn. Chúa nhắc chúng ta, “hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Tuy vậy, sự “sợ hãi” này không giống như sợ hãi trước sự đe dọa khủng bố hoặc bách hại. Sự sợ hãi mà chúng ta dành cho Chúa đi kèm với sự “kính mến”, nên chúng ta còn gọi đó là sự “kính sợ”. Sự kính sợ này không làm cho chúng ta xa cách Chúa, trái lại, giúp chúng ta vững chí cậy tin. Vì vậy, liền sau đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhận ra sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời phó thác trọn vẹn cuộc sống của chúng ta nơi Ngài, để Ngài dẫn dắt và che chở chúng ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Hai hình ảnh được Chúa Giêsu nêu để chứng minh sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, đó là con chim sẻ và sợi tóc trên đầu. Những vật xem ra là tầm thường và vô giá trị, mà cũng được Chúa quan tâm. Con người chúng ta đáng giá bội phần, vì mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa, có ý chí, tự do và trách nhiệm về những hành vi cử chỉ của mình.
Sự kính sợ Chúa còn dẫn chúng ta đến việc mạnh dạn tuyên xưng đức tin nơi Ngài. Người tín hữu là người tuyên xưng đức tin trong mọi lãnh vực, mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Việc mạnh mẽ can đảm tuyên xưng đức tin như một điều kiện cần thiết cho hạnh phúc đời sau. Bởi lẽ, nếu chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, thì chính Người sẽ “bảo lãnh” cho chúng ta trước tòa Chúa Cha. Thánh Phaolô quảng diễn điều này khi so sánh Đức Giêsu với ông Ađam. Do ông Ađam mà sự chết thống trị. Nhờ Đức Kitô mà thế gian được sống. Đức Kitô là nguồn ân sủng dồi dào của Thiên Chúa. Những ai đón nhận Người, thì được ngụp lặn trong nguồn ân sủng phong phú đó. Nhờ đó, họ không còn sợ hãi, nhưng vững lòng cậy tin (Bài đọc II).
Một vấn nạn thường được đặt ra: tại sao có nhiều người làm điều ác mà vẫn phát đạt và vẫn cứ nhởn nhơ? Người Á đông chúng ta tin vào thuyết nhân quả, “gieo gió gặt bão”; Giáo huấn của Cựu ước khẳng định “Sống làm sao, Chúa sẽ trả cho như vậy”; Chúa Giêsu dạy “đong đấu nào sẽ nhận đấu ấy”. Đây là điểm gặp gỡ chung giữa các tôn giáo và một số nền văn hóa. Mỗi chúng ta, thay vì bức xúc trước những vấn nạn trên, thì hãy chuyên tâm làm việc lành. Bởi lẽ, người làm việc lành chắc chắn được Thiên Chúa ghi nhận và ban ơn. Thực tế đã chứng minh điều ấy. Hơn nữa, người tín hữu vững tin nơi Đức Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào cho những ai tin tưởng và cậy trông nơi Người.
Giữa bao nỗi sợ của cuộc sống hằng ngày, người tín hữu sẽ tìm được nơi ẩn náu nhờ sự phó thác cậy trông vào Chúa. Nhờ ơn nâng đỡ của Ngài, chúng ta không còn sợ hãi. Nhờ phúc lành của Chúa, những lo lắng ưu sầu của cuộc sống sẽ biến thành niềm vui và hy vọng. Thực tế đã chứng minh cho chúng ta, người tin tưởng vào Chúa luôn lạc quan, vì họ xác tín rằng Chúa luôn đồng hành với họ trên mọi nẻo đường. Khi khích lệ chúng ta: Đừng sợ! Chúa cũng sai chúng ta lên đường để kể lại những điều lạ lùng Chúa đã và đang làm cho mỗi chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ góp phần giảm thiểu những nỗi sợ hãi đang ám ảnh nhiều người trong cuộc đời.
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Cậy vào Chúa, Israel ơi!
Từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 130,2-3).
Sống ngay lành và thánh thiện; vững vàng phó thác và cậy trông nơi Chúa quan phòng, đó chính là thông điệp mà Lời Chúa hôm nay muốn gửi đến chúng ta.

4. Sợ Đấng có thể… tiêu diệt?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Chúng ta là những kẻ hay sợ sệt, mà Đức Giê-su thì biết rất rõ điều đó. Trong cuộc sống, ai trong chúng ta mà không từng trải qua những giây phút sợ hãi, còn nguyên nhân của các nỗi sợ đó thì nhiều vô kể; trong số đó, nỗi sợ ám ảnh ta nhất chính là: bị coi thường, bị đánh giá thấp, bị chê bai hoặc bị loại bỏ. Hầu như tất cả mọi hành vi, mọi sinh hoạt của ta đều bị chi phối bởi điều này: người ta sẽ đánh giá tôi thế nào đây? Trong một chừng mực nào đó nỗi sợ này là tích cực, bởi vì nó tập cho ta ý thức tự trọng; tuy nhiên rất thường khi nó lại là rào cản không cho phép ta sống tự do và thoải mái, vươn lên và rộng mở.
Để giải quyết vấn đề lớn và phổ thông này, Tin Mừng hôm nay trao vào tay chúng ta chìa khóa của lời giải đáp.
Trước hết Lời Chúa cống hiến cho ta một giải pháp hợp lý những mang tính tiêu cực. Nếu sợ hãi là điều thực sự không thể tránh, thì ta cần xác định chủ thể đe dọa mình là ai cái đã; nếu mối đe dọa tới từ người phàm thì sợ hãi đó cũng chỉ là tương đối thôi! Có một thời, nhất là trong một xã hội định canh định cư, khi mà mỗi cá nhân đều sống trong một môi trường khép kín (sau lũy tre làng), thì sự đánh giá của bà con chòm xóm là cả một mối bận tâm lớn; ăn mặc như thế, nói năng như thế thì người ta sẽ đánh giá mình thế nào đây? Ngày nay, khi mà nhiều người sống và làm việc trong một xã hội luôn chuyển động, thì sự kiểm tỏa này hầu như bắt đầu sụp đổ; giữa những người xa lạ, họ thấy mình ít bị kiểm tỏa hơn, không mấy ai quan tâm tới cách ăn mặc, nói năng của mình…, do đó họ ít giữ gìn hơn trong lời ăn tiếng nói, sống tự do thoải mái hơn, thâm chí có khuynh hướng buông thả. Dầu thế nào đi nữa thì nỗi sợ xã hội “sợ những kẻ giết thân xác” này chắc chắn sẽ ngày càng suy yếu; và đó chính là thời điểm thuận lợi để ta xây dựng cho mình một nỗi sợ mới, căn cơ và vững chãi hơn; “anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.
Tuy nhiên đó mới là thay đổi đối tượng sợ hãi của ta, và làm cho nỗi sợ trường kỳ của chúng ta đánh trúng mục tiêu hơn mà thôi! Tin Mừng không chỉ cống hiến có thế, nó phải có khả năng phá tan mọi nỗi sợ hãi to nhỏ trong ta, vượt xa nỗi sự của dân chúng trong thời Cựu Ước. Tin Mừng cho ta nhận ra giá trị rất đặc sắc và trường tồn của mình mà không ai có thể cướp mất được, kể cả khi ta đáng bị người đời nguyền rủa và lên án. Khả năng này trước hết hệ tại ở việc hiểu biết chính xác về chính “Đấng có thể tiêu diệt” là ai, qua lăng kính của Thập Giá.
Đấng có thể tiêu diệt đó khi đánh giá tôi thì Người sẽ đánh giá như thế nào; nếu người đời thường khi tỏ ra rất khắt khe xét nét, bắt bẻ từng li từng tí, thì Đấng đó sẽ xét tôi ra sao; đó quả là một vấn nạn nghiêm trọng! Câu trả lời Đức Giê-su dưa ra làm tất cả chúng ta té ngửa vì ngỡ ngàng: Đấng đó không những không xét nét, mà còn đánh giá ta rất cao trước cả khi (đúng hơn: bất chấp) ta làm hay nói điều gì. Đức Giê-su trưng ra hai hình ảnh rất đời thường để minh họa cho xác quyết này: “hai chim sẻ chỉ bán được một hào rơi xuống đất” và “tóc trên đầu rụng” là những chuyện quá tầm phào ít ai quan tâm tới…, thế mà Cha Trên Trời quan tâm tới giá trị của chúng để rồi, “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… ngay cả tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi”. Cuối cùng Người đi tới kết luận đầy an ủi: “anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”. Nếu “Đấng có thể tiêu diệt” sẽ đánh giá tôi như thế, cho dầu tôi có là tật nguyền, thiểu năng, ngu dốt, bệnh hoạn hay nghèo hèn, thậm chí cả khi tôi đầy những khiếm khuyết, lầm lỡ hay tội lỗi. Đấng coi tôi là có giá trị lớn như thế lẽ nào lại đang tâm xét nét, kết án và tiêu diệt tôi?
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, các nỗi sợ hãi lẽ ra đã phải bị tiêu diệt từ lâu rồi – từ ngày lãnh phép Thanh Tẩy, không những vì nhận ra mình có giá trị quá cao quí như thế, mà còn vì Đức Giê-su hầu như cương quyết bảo đảm: không để một ai trong những kẻ thuộc về Người phải rơi rụng; “Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay cha tôi” (Ga 10:28-29). Và rồi Người còn cam kết với Cha: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất!” (Ga 17:12). Sau những xác quyết và cam kết vững chãi như thế, lẽ nào ta có thể tiếp tục sợ hãi được nhỉ, kể cả sợ tội, sợ có thể bị tiêu diệt trong hỏa ngục đời đời! Tôi thiết nghĩ: Ki-tô hữu chúng ta, bất luận là ai, phải là những người được “hưởng niềm vui trọn vẹn” nhất (xem Ga 17:13).
Kể từ ngày trở thành Ki-tô hữu, lẽ ra nỗi sợ hãi duy nhất chúng ta chỉ phải là: đánh mất niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa Cha nhân từ, và nơi Con của Người là Đấng đã cứu độ và tha thứ bằng Thập Giá Người?
Lạy Chúa là Cha từ nhân, không hiểu sao, một khi đã tin Cha là Đấng yêu con tới độ đã cho Con mình xuống thế để chết cho con, thế mà trong con vẫn còn mãi vấn vương sợ hãi. Tất cả là vì con vẫn chưa tin vững chắc rằng: Cha thật từ ái vô biên! con vẫn còn coi Cha là… Đấng có thể tiêu diệt con trong hỏa ngục. Xin Cha cho con nhận thức và xác tín, khi nhìn lên Thập Giá Đức Ki-tô rằng: con có một giá trị vô song trước mặt Cha, giá trị còn hơn cả máu châu báu Con Cha…, và Cha không bao giờ muốn con bị tiêu diệt. Amen.

5. Tuyên xưng Thầy trước thiên hạ – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Bộ sách Thủy Hử Trung Quốc được chuyển thành phim nhiều tập. Các đài truyền hình Việt Nam đã trình chiếu nhiều lần. Tác phẩm bất hủ này đã tuyên dương 117 vị anh hùng hào kiệt Lương Sơn Bạc. Người anh hùng nổi tiếng nhất là Tống Giang, còn gọi là Tống Công Minh, xuất chúng về đạo đức, công minh, phục vụ chính nghĩa, nhưng bị nhiều quan lại tham ô, gian hùng, ghen ghét, hãm hại. Tống Giang võ nghệ cao cường, sức địch muôn người mà vẫn cam chịu cổ đeo gông, tay mang xiềng xích, đi theo lệnh hai tên công sai áp tải, giải đi lưu đầy. Ông đã chứng tỏ tinh thần thượng tôn pháp luật, dù đó là án lệnh bất công của kẻ nịnh thần bất chính của vua mù quáng nhu nhược.
Phải chăng, phải trải qua bao nhiêu cực hình bất công dưới thời nhà Tống, 117 vị anh hùng đã tuyên dương chính nghĩa thương dân, ái quốc và chứng tỏ chính nghĩa luôn luôn thắng gian tà. Kẻ công chính mãi mãi được lòng dân mên phục, dẫu không thành công, nhưng đã thành nhân, quân tử.
Trước Tống Giang gần ngàn năm, ngôn sứ Giêrêmia đã can đảm tuyên dương chính nghĩa cứu nhân độ thế của Thiên Chúa, bất chấp cực hình của bọn gian ác, tham quyền cố vị hãm hại ông. Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là thứ trò hề cho họ nhạo báng, xỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên: Ôi hành hung, ức hiếp… nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr. 20, 7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa … Ông tiếp tục công bố sứ điệp của Thiên Chúa vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bằng lời nói: Ông nói những gì ông đã nghe Thiên Chúa phán, ông kêu gọi mọi tầng lớp Vua quan, đảng phái, dân chúng từ bỏ đường lối gây hấn, hận thù, từ bỏ liên minh với Ai Cập, với tà thần, trở về với Thiên Chúa thì mới được Thiên Chúa giải thoát dân tộc khỏi nô lệ diệt vong.
+ Bằng đời sống: Ông sống cô đơn, bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi, một hình ảnh Thiên Chúa bị bỏ rơi. Ông tự đeo gông vào cổ, xiềng xích vào tay để cảnh giác họ đang bị gông cùm nô lệ của ngoại bang (Gr. 38, 6). Vì thế ông đã bị kết án bỏ tù xuống giếng, chìm sâu trong bùn lầy (Gr. 27, 2)
Dưới giếng sâu bùn lầy, ông còn loan báo cho dân tộc, nếu không bỏ đường lối lầm lạc đó, họ sẽ bị lưu đầy trong ô uế, nhơ bẩn hơn ông ở dưới giếng sâu. Còn ông, ông nói: “Thiên Chúa đã siêu độ tôi khỏi âm phủ, cứu sống tôi thoát phận những kẻ xuống mồ” (Tv. 30, 4)
Khi Đức Giêsu sai các môn đệ đi công bố những điều Người dạy, Người đã thấy những cực khốn mà những chứng nhân cho chính nghĩa phải chịu như Giêrêmia. Người đã khuyên các ông: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diêt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đừng sợ vì Cha anh em đã lưu ý đến cả những con chim sẻ chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu anh em, Chúa đã dựng nên, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn mọi thứ hèn mọn, nhỏ bé như thế, huống chi đối với anh em, “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, lẽ nào Ngài không săn sóc, bảo vệ, hướng dẫn, lo lắng cho anh em sao?
Đức Giêsu đã đưa ra những chứng cứ cụ thể mà Thiên Chúa đã làm cho muôn loài, muôn vật được sinh sống tốt đẹp, để thúc đẩy các môn đệ và chúng ta tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Có lòng tin mạnh mẽ mới can đảm chiến thắng những đe dọa, những cực khổ tạm bợ ở đời này. Thiếu lòng tự tin vào Thiên Chúa sẽ không thể sống công minh, không thể hy sinh cho chính nghĩa, không thể tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, không dám rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân. Tin mừng của Thầy là sự thật, thế gian sống gian dối, không muốn sống trong sự thật. Tin mừng của Thầy là sự sáng, thế gian sống trong tối tăm, không tiếp nhận ánh sáng vì họ sợ những hành động đen tối bị phơi bày. Tin mừng của Thầy là tình yêu, thế gian sống chia rẽ hận thù, không thể yêu thương kẻ thù. Tin mừng của Thầy là cứu độ, thế gian lại chỉ muốn hãm hại, tranh dành nhau, chém giết nhau để chiếm của cải, danh vọng.
Ai cam đảm theo chính nghĩa, theo Thầy, “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Ai theo bất chính, bất nhân, sợ không dám theo Thầy, “chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Để giáo đoàn Rôma và chúng ta chọn lựa theo Đức Giêsu Kitô hay theo Adam, tuyên bố nhận Đức Kitô hay nhận Adam, Thánh Phaolô đã chỉ cho thấy: Ai theo Adam, tuyên nhận Adam kẻ bất chính, kẻ tội lỗi đã gây nên sự chết đã đem tội lỗi và sự chết xâm nhập vào trần gian, thì sẽ bị sự chết thống trị.
Ai theo Đức Giêsu Kitô, tuyên nhận Đức Kitô, thì nhờ Đức Kitô, được dồi dào ân sủng của Thiên Chúa ban biết mấy.
Mỗi khi được xem những trận bóng đá thế giới (World Cup), chúng ta thấy nhiều cầu thủ nổi tiếng làm dấu Thánh giá khi chạy vào sân banh và sau khi đá được trái banh vào lưới. Họ đã làm dấu Thánh giá để tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ. Còn chúng ta, chúng ta có mạnh mẽ tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mỗi việc làm, mỗi cuộc họp, mỗi bữa ăn trước mặt thiên hạ không?
“Lạy Chúa Giêsu, Người đã khuyến khích con đừng sợ khi phải tuyên xưng đức tin. Xin cho con can đảm không bao giờ đỏ mặt xấu hổ khi rao giảng Tin mừng. Xin giúp con vui vẻ chấp nhận những hiểu lầm, những thử thách, những cực khổ hãm hại vì danh Chúa. Amen”.

6. Tuyên xưng đức tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận phải làm chứng, phải tuyên xưng đức tin. Như chúng ta đã thấy: mỗi quốc gia đều có một lá quốc kỳ và người ta sẵn sáng hy sinh tất cả để bảo vệ màu cờ của đất nước.
Mỗi binh chủng có một lá cờ tiêu biểu cho tinh thần anh dũng của mình. Được cầu cờ đi đầu trong các trận đánh hay trong các cuộc diễn binh là một vinh dự lớn. Người ta sẵn sàng chết để nêu cao ngọn cờ, hay để cho ngọn cờ được phất phới tung bay trên phần đất thân yêu.
Một người lính chỉ chu toàn bổn phận khi hăng say chiến đấu. Trái lại, nếu gặp phải khó khăn, nguy hiểm người lính ấy liền chạy trốn, thì đó chỉ là một kẻ đào ngũ, hèn nhát mà thôi.
Chúng ta cũng thế. Trần gian này là một bãi chiến trường, ngọn cờ của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Mỗi người chúng ta là một chiến sĩ. Chúng ta không được phép đào ngũ, nghĩa là đầu hàng tội lỗi, bỏ mặc Đức Kitô để chay theo tiền bạc, danh vọng và lạc thú. Trái lại, ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta phải nêu cao ngọn cờ thập giá cho mọi người nhận biết Đức Kitô. Mỗi người chúng ta phải là một chứng nhân kiên vững và sống động của Ngài.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, hạt giống đức tin đã được Chúa gieo vào thửa đất là linh hồn chúng ta. Hạt giống ấy cần phải nảy mầm, đâm bông và đem lại hoa trái tốt tươi.
Đức tin không giống như một trái cóc mà chúng ta vội vã ăn ngấu nghiến cho riêng mình. Đức tin không giống như một đồ vật quí giá mà chúng ta phải cất giấu kỹ càng, kẻo người khác lấy mất đi hay mượn tạm xài đỡ. Đức tin phải là một cái gì mãnh liệt, làm nền tảng cho cuộc đời chúng ta, hướng dẫn từng bước đi của chúng ta. Vì thế, học biết một số kiến thức về đạo giáo, hay nói một cách nôm Ngài là có đức tin mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giữ đức tin, còn phải sống đức tin và còn phải làm chứng cho đức tin. Đức tin phải biến đổi cuộc đời chúng ta cũng như cuộc đời của những người chung quanh.
Giữa việc sống đức tin và việc làm chứng cho đức tin có một sự liên hệ mật thiết. Thực vậy, muốn làm chứng cho đức tin thì tiên vàn chúng ta phải sống đức tin, đồng thời khi sống đức tin thì chúng ta đã làm chứng cho đức tin rồi đó.
Một ngọn nến khi được thắp sáng, nó sẽ chiểu tỏa cho những người chung quanh, để rồi mỗi người đều được hưởng nhờ ánh sáng của nó. Một nhúm men trộn lẫn trong đấu bột, chắc chắn sẽ làm cho cả đấu bột dậy men. Một chút muối ướp vào thịt, nó sẽ làm cho thịt khỏi ươn thối.
Điều kiện quan trọng và cần thiết đầu tiên đó là chúng ta phải sống đức tin trước đã. Một khi đã sống đức tin thì chínhbản thân chúng ta cũng đã tuyên xưng đức tin và cuôc đời chúng ta đã là một chứng tá cho đức tin. Tuy nhiên, nói một cách cụ thể hơn, chúng ta phải tuyên xưng đức tin, nhưng bằng nhu cách nào?
Trước hết, đó là hãy tuyên xưng đức tin bằng lời nói. Hãy dùng miệng lưỡi để nói về Thiên Chúa, về những công việc tốt đẹp mà vì yêu thương Ngài đã thực hiện cho chúng ta, chứ đừng dùng nó để nói những lời cộc cằn, thô lỗ và xấu xa. Hãy dùng miệng lưỡi để ca tụng quyền năng và tình thương của Chúa cũng như để nhắc bảo hầu giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Tuyến đường xe lửa vừa mới được hoàn thành. Sáng hôm ấy, chú bé con bác nông phu trong ấp lấy làm lạ vì thấy một chiếc xe hơi ngừng lại trước cửa nhà mình. Ông giám đốc sở hỏa xa bước xuống và bắt đầu xem xét cây cầu mới bắc. Chú bé tò mò đi theo. Một lúc sau, ông giám đốc quay lại và hỏi:
– Này em, em có biết tôi là ai không?
Chú bé trả lời:
– Chắc chắn ông là người của sở hỏa xa.
Ông giám đốc hỏi tiếp:
– Vậy em có biết tôi đang cần gì hay không?
Chú bé ngây thơ nói:
– Thưa ông, cháu nghĩ rằng ông cần phải xin Chúa tha tội, vì ông đã vi phạm ngày Chúa nhật, ngày của Chúa hôm nay.
Sững sờ nhìn chú bé, ông giám đốc bèn hỏi:
– Ai bảo em nói thế?
Chú bé thành thật trả lời:
– Chẳng ai bảo cháu cả. Cháu mới chợt nghĩ ra mà thôi.
Ông giám đốc ôn tồn nói:
– Cám ơn cháu đã nhắc cho tôi nhớ lại bổn phận của tôi đối với Chúa.
Tuy nhên, cách tuyên xưng quan trọng hơn cả đó là tuyên xưng bằng chính đời sống gương mẫu, bằng chính những việc làm cụ thể của mình, bởi vì: lời nói bay đi, gương bày lôi kéo. Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn người khác đến với Chúa.
Tại một trường học ở Nagasaky bên Nhật, có tất cả 150 học sinh nội trú, thế nhưng chỉ có một em là công giáo. Trước và sau mỗi bữa ăn, em đều chắp tay cầu nguyện. Những em khác thấy thế liền chế diễu và mách với thày hiệu trưởng. Ngày kia, thày hiệu trưởng kêu em lên văn phòng và hỏi:
– Tại sao em làm như vậy? Em không sợ chúng bạn cười chê hay sao?
Em trả lời:
– Thưa thày, em là người Kitô hữu, em phải cầu nguyện với Chúa luôn. Em không được vô phép lãnh nhận thực phẩm Chúa ban mà không kêu cầu và cảm tạ Ngài.
Nghe lời ấy, thày hiệu trưởng bèn úp mặt xuống lòng bàn tay và khóc lên một cách hổ thẹn:
– Trời ơi, thày đây cũng là người tin Chúa, nhưng thày lại chẳng dám tỏ ra cho ai biết. Từ đây sắp tới, nhờ ơn Chúa, thày sẽ cố gắng làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu.
Hãy tuyên xưng Chúa bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình, như lời Chúa đã truyền dạy: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

7. Đừng sợ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Những kẻ giết được người khác, ai mà không sợ?! Ấy thế mà Đức Yêsu nói “đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác” (Mt.10, 28).
Đừng sợ, vì:
– chúng ta đáng giá hơn chim trời nhiều (Mt.10, 31),
– từng sợi tóc đã được đếm rồi (Mt.10, 30),
– Chúa thương chúng ta vô cùng!
Nếu quá sợ, chúng ta sẽ bị tê liệt, và đến độ không dám làm chứng cho Đức Yêsu nữa. Nếu làm như vậy, chúng ta sợ người đời hơn sợ Thiên Chúa, và nếu vậy chúng ta sẽ bị chối trước mặt Thiên Chúa (Mt.10, 33).
Đáng sợ
– nếu tựa vào sức con mình, nhưng nếu tựa vào Thiên Chúa, thì không gì làm chúng ta sợ cả!
– nếu chúng ta sống không ngay lành, không nghiêm chỉnh, không trong sáng nên phải che dấu, phải chùng lén! Và nếu vậy thì đáng sợ thực, vì không có gì có thể che dấu được (Mt.10, 26).
Điều đáng sợ thực, là tội, là cố tình chống đối Thiên Chúa, từ chối tình yêu của Ngài. Tội làm biến dạng con người mình, làm mình “xấu như qủy”. Nhưng chúng ta không còn phải sợ nữa, vì Đức Yêsu đã chết vì chúng ta, và nhờ Đức Yêsu, chúng ta được thứ tha tội lỗi, được ân huệ dư đầy.
Không sợ, ngay cả khi người ta trương bẫy để hại mình, thì cũng hãy an lòng. Chúa sẽ xét xử công mình. Mạng sống chúng ta luôn ở trong tay Chúa. Nếu Chúa muốn chúng ta sống, Thiên Chúa sẽ can thiệp; còn nếu Ngài không muốn, thì điều quan trọng là Ngài sẽ cho chúng ta được sống hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài trong đời sống mai hậu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Với kinh nghiệm của bạn, điều gì đáng sợ nhất? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó!
2. Trong đời bạn, bạn đã hạnh phúc nhất khi nào? Nếu được, xin bạn chia sẻ kinh nghiệm đó?

8. Đừng sợ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Đức Yêsu hôm nay dạy các tông đồ đừng sợ gì và đừng sợ ai. Đức Yêsu không chỉ dạy bằng lời, nhưng Ngài đã sống thái độ tự do này, Ngài không sợ gì ngay cả những người quyền thế muốn tiêu diệt Ngài. Đức Yêsu muốn Kitô-hữu có thái độ tự do của con cái Thiên Chúa như Ngài.
1. Trong cuộc sống người ta sợ nhiều điều
Sợ là một giữa những cảm xúc của con người, là một trong “thất tình”: hỉ (vui mừng), nộ (tức giận), ái (yêu thương), ố (ghét), ai (buồn sầu), dục (ham muốn), cụ (sợ).
Có người sợ sâu bọ, rắn rít, chim chuột. Có người sợ khổ, sợ nghèo, sợ vất vả, sợ chết, sợ bệnh tật. Có người sợ dư luận, sợ người ta nghĩ xấu về mình, sợ người ta chê mình dở, sợ bị tiết lộ tật xấu hay tội lỗi của mình. Có người sợ làm phiền người khác, sợ mang ơn người khác, sợ làm khổ người khác. Chưa hết, có người còn sợ bị tình phụ, sợ không còn được thương, không còn được kính trọng nữa. Có người sợ bị hiểu lầm mà mất tiếng tốt. Có những người sợ phạm tội, sợ sa hoả ngục, sợ ma qủy.
Lo sợ, cũng là chuyện “thế gian thường tình”. Tuy nhiên, có những người sợ điều này điều kia tới mức độ mất ăn mất ngủ, mất bình an, tới mức độ như thể bị tê liệt.
2. Chấp nhận sự thật giúp con người thoát sợ
Với những người sợ sâu bọ rắn rít, có thể có một lý do tâm lý nào đó. Nếu đúng như vậy, chuyên viên tâm lý có thể giúp người ta thoát khỏi điều này.
Về những người sợ ma qủy, sợ sa hoả ngục, sợ phạm tội một cách thái quá, một ý kiến cho rằng có lẽ những người này chưa biết và chưa cảm nhận sâu xa Thiên Chúa Tình Yêu. Dĩ nhiên là ma qủy uy lực hơn con người, nhưng Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài không để ma qủy làm hại con người. “Nếu Thiên Chúa phò ta, ai còn chống lại được ta?” Một người quá sợ phạm tội và sa hoả ngục, là vì họ chưa hiểu biết và chưa tín thác vào Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, Ngài tạo dựng con người để con người được chia sẻ hạnh phúc với Ngài. Chỉ khi con người cố tình từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa, họ mới phải sa hoả ngục. Hoả ngục là do họ cố tình chọn. Hoả ngục không là nơi con người lầm lỡ mà Thiên Chúa đẩy con người vào đó không thương xót. Phạm tội, là hành vi tự do của mỗi người. Nếu tôi không muốn, tôi không phạm tội. Nếu do yếu đuối, thì Thiên Chúa yêu thương cũng tha thứ lỗi lầm cho con người. Nếu con người cảm nhận Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng, con người sẽ sống trong an bình.
Có những người sợ nghèo khổ, sợ bệnh tật, sợ chết, sợ bị người ta hiểu lầm hoặc nghĩ xấu cho mình, sợ phải mang ơn người khác, sợ mất người yêu. Họ như vậy, có lẽ vì họ ích kỷ, họ nghĩ đến họ quá nhiều. Họ không dám sống cho tha nhân, ngay cả khi tha nhân là những người thân yêu của họ. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống vì Đức Kitô, thì sẽ được lại sự sống”. Đây có thể là những người làm cha làm mẹ không sẵn sàng hy sinh cho con cái, nhưng lại bắt con cái hầu hạ mình; đây cũng có thể là những người chồng người vợ không biết sống vì người yêu mà bắt người kia phục vụ mình; đây cũng có thể là những người con “một mẹ nuôi được năm con, nhưng năm con không nuôi được một mẹ”.
“Không có gì kín mà không bị lộ”. Với những người lo sợ lỗi lầm của họ bị đưa ra ánh sáng, họ nên ý thức rằng dù che đậy đến thế nào, vào ngày phán xét, tất cả những gì con người làm cũng sẽ được phơi bày. “Ai trong các ngươi vô tội, hãy cầm đá mà ném chị này trước đi”. Nếu ai cảm thấy mình có tội, họ nên biết rằng, lòng thống hối thật, hàm chứa thái độ chấp nhận sự thật về chính mình, sẵn sàng chấp nhận việc đền tội “bị công khai hoá”, sẽ giúp người đó tìm được bình an. Không dám chấp nhận sự thật về con người của mình, sẽ làm người đó mất bình an, và đôi khi còn thúc đẩy người đó tội phạm lớn hơn. Thí dụ, vua David ngày xưa muốn phủ lấp tội lấy vợ của bầy tôi, và khi không thành công trong việc che đậy tội này bằng việc dụ Uria về nhà thăm vợ, David liền tìm cách giết Uria qua tay của quân thù. Chấp nhận sự thật về chính mình, là thái độ rất quan trọng để sống trong tình nghĩa với Chúa, để sống bình an và hạnh phúc với tha nhân. Trong mọi trường hợp, con người cần cảm nhận Thiên Chúa là tình yêu. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm của con người, và giúp con người sống bình an hạnh phúc trong tình yêu của Ngài.
3. Phó thác đời mình cho Thiên Chúa Tình Yêu
Tiên tri Yêrêmia được trao sứ mạng nói cho dân Chúa biết những gì sắp xảy tới, để họ thống hối và trở về với Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều tiên tri loan báo không phải là điều dân chúng thích nghe, vì đó là những tai họa sắp xảy tới. Tiên tri cũng lo sợ vì khi loan báo như vậy, tiên tri bị dân chúng ghét và có thể bị giết. Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc vì sợ, nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành mời gọi, và cuối cùng tiên tri đã phó thác tất cả đời ngài trong tay Thiên Chúa. Yêrêmia trở thành dụng cụ Thiên Chúa dùng, trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho dân. Khi một người phó thác tất cả mạng sống và tương lai mình trong tay Thiên Chúa tình yêu và toàn năng, họ được tự do và bình an. Sự tự do và bình an này không ai có thể lấy mất được.
Để thi hành sứ mạng Đức Yêsu trao phó, các tông đồ cũng phải tin tưởng và phó thác tương lai đời mình cho Thiên Chúa. Quên mình, bỏ mình, để sống cho Thiên Chúa và tha nhân, sẽ làm con người vượt thắng được mọi sợ hãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có sợ điều gì hoặc ai không? Nếu được xin chia sẻ.
2. Sâu xa trong lòng bạn, tại sao bạn sợ điều đó hoặc người đó?
3. Làm sao để hết sợ? Làm sao để an bình và hạnh phúc? Đức Yêsu giúp gì cho bạn?
4. Niềm tin vào Thiên Chúa giúp gì cho bạn?

9. Đừng sợ hãi
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một mục sư nọ có kể câu chuyện sau: hai người bộ đội chạy vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe doạ: “Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải”. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay. Những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cùng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm như thế là vì chúng tôi muốn biết ai là người thật sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình. Vì chỉ có những người đó mới đáng tin cậy”.
Anh chị em thân mến,
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin được minh chứng bằng cuộc sống can đảm, không sợ tuyên xưng trước mặt người đời, như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Anh em đừng sợ người ta… Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Tin Mừng hôm nay là một phần của diễn từ về sứ vụ truyền giáo, trong đó Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ về những bách hại đang chờ đợi. Chắc chắn các ông không tránh khỏi lo âu xao xuyến. Hiểu rõ tâm trạng của các ông, Chúa Giêsu đã đưa ra những hình ảnh để các ông so sánh: hình ảnh về người Thầy, Thầy đã bị ngược đãi, thì môn đệ cũng không tránh khỏi. Bị ngược đãi sẽ làm cho môn đệ khiếp sợ, nhưng cũng khiến họ vui mừng, vì là dấu cho thấy họ được nên giống Thầy, đang bước đi trên con đường của Thầy. Cũng vì thế, chẳng có gì khiến họ không dám rao giảng công khai: “điều nghe trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng; điều nghe rỉ tai, hãy rao trên mái nhà”. Các môn đệ không phải sợ hãi, vì công việc họ làm đang được Đấng có quyền trên cả xác lẫn hồn quan tâm. Ngài còn để ý tới chim sẻ ngoài đồng, đến sợi tóc trên đầu, huống nữa là con người đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài.
Thưa anh chị em,
Hình ảnh được trưng dẫn cho các môn đệ cũng là hình ảnh Chúa Giêsu muốn gởi đến cho các kẻ tin theo Ngài ngày hôm nay. Ba lần Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Đừng sợ!”Ngài không nói đến cái sợ chung chung. Ngài nói về một loại sợ đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy khi được mời gọi nói hay làm điều gì tỏ ra mình là người tin theo Chúa Kitô. Chúng ta thường do dự nói những lời giống như Chúa Kitô, làm như Chúa Kitô, vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc, sợ bị gọi là người lên mặt đạo đức, sợ mất bạn bè, mất ghế ngồi, mất nồi cơm, thậm chí bị trù dập, bị ngược đãi. Nhìn vào hiện tình Giáo Hội, có lẽ nhiều người muốn thúc thủ an phận: bảo vệ ngọn đèn đức tin của bản thân còn khó khan, huống chi là nói đến chiếu giãi đức tin cho kẻ khác.
Sử gia Tertullianô đã viết: “Những người tin theo Chúa Kitô được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa Kitô. Lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy”đã thấm nhập vào tâm hồn các Kitô hữu, nên mỗi khi phải đau khổ cũng như bị bách hãi, cấm cách, lời nói đó lại văng vẳng bên tai như chính Chúa Kitô hiện diện nói với họ. Vì thế, trên pháp trường, họ coi gươm giáo nhẹ như lông hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường, nếu họ chối bỏ Chúa. Họ đã hưởng ứng Lời Chúa: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết chết thân xác, nhưng phải sợ Đấng có quyền giết chết cả xác lẫn hồn”.
Cái phi lý của con người ngày nay là chỉ sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa. Người có đức tin vững mạnh có thể chấp nhận hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chấp nhận làm điều xấu, trái ngược lương tâm, hay phạm tội ác. Họ không sợ một thân xác tàn phế, họ chỉ sợ một lương tâm hoen ố, nhơ bản. Họ không sợ loài người trả thù, họ chỉ sợ Thiên Chúa trừng phạt. Ngày nay, tuy chúng ta không có dịp hy sinh mạng sống để chứng mình lòng tin như các Thánh Tử Đạo ngày xưa. Nhưng chúng ta có hàng trăm dịp để chúng ta liều mạng, bảo vệ lòng liêm khiết, thực thi công bằng và tình bác ái yêu thương.
Ngày nay, nhiều người Kitô hữu còn bị cám dỗ chối bỏ Chúa một cách tế nhị hơn: Phải chăng là một cách chối bỏ Chúa khi im lặng sống trong một xã hội đầy bất công, tham nhũng, hưởng thụ; một xã hội muốn loại bỏ tôn giáo ra ngoài hay lợi dụng tôn giáo để bênh vực một ý thức hệ phản lại Tin Mừng? Im lặng trong những trường hợp ấy là đồng loã. Hãy can đảm hành động. Vì mệnh lệnh của Chúa Giêsu không hạn chế trong bất cứ hoàn cảnh nào và lời hứa của Ngài cũng không gì làm thay đổi. Có mạnh dạn tuyên xưng Chúa trước mặt người đời, thì mới được Ngài tuyên xưng trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời. Bách hại làm cho những kẻ theo Chúa Giêsu phải đau kho, nhưng đó lại là những cắt tỉa cần thiết để trổ sinh nhiều hoa trái.
Anh chị em thân mến, nếu có những lúc chúng ta lo sợ không muốn đón nhận sứ mạng Chúa trao, xin cho chúng ta biết rằng có thể chúng ta trốn chạy được lúc này, nhưng không thể trốn chạy luôn mãi. Đến lúc diện kiến Chúa, chúng ta sẽ trả lời thế nào về những lần đã chối bỏ Chúa trước mặt người đời? Xin cho chúng ta nhận ra dấu chỉ quan tâm của Chúa để vững mạnh tuyên xưng Danh Thánh Ngài.
Giờ đây, chúng ta sắp được hiệp thông với Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể. Ngài là sự sống của chúng ta. Chúng ta không có gì phải sợ hãi những khó khăn và các vấn đề của cuộc sống hằng ngày. Chúa Kitô mạnh thế hơn, Ngài không bao giờ chối bỏ những kẻ nhận Ngài trước mặt người đời. Ngài cũng sẽ nhận chúng ta trước mặt Cha Ngài, Đấng ngự trên trời.

10. Đừng sợ
Có một y sĩ đã phát biểu rằng:”Lo sợ là một điều rất tai hại và phá hoại nhiều hơn cả”. Trong quan điểm của vị y sĩ này thì lo sợ là kẻ giết người. Bởi vì sợ hãi giết chết niềm tin, niềm hy vọng và sự lạc quan làm cho con người tê liệt và tự hủy hoại chính mình.
Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự lo sợ, nhưng không ai tìm ra nguồn gốc của nó. Về điều này kinh thánh cho chúng ta biết: Khi Adong, con người đầu tiên lỗi lệnh truyền của Chúa, ông đã lo sợ và đi ẩn mình. Kể từ đó sự lo sợ cứ ám ảnh mãi trong dòng giống loài người. Nhưng thật vui mừng cho nhân loại là Adong thứ hai đã xuất hiện, đó là Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Thánh Phaolô đã viết:”Chúa Giêsu là Adong thứ hai, nghĩa là một khởi đầu mới. Nhân loại lầm lạc vì Adong thứ nhất. Nhưng Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và lập lại một dòng giống mới. Và Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người “Đừng sợ”. Chẳng hạn như bài Tin mừng hôm nay, có tới ba lần Chúa nói đừng sợ.
Phản ứng tự nhiên của con người trước khó khăn, bách hại, là lo sợ. Chúa Giêsu khuyên các tông đồ can đảm làm chứng cho Ngài, và Ngài khuyên họ đừng sợ. Đừng sợ những kẻ vu oan, vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, trung thành với sự thật đôi khi cũng khiến chúng ta phải trả giá, có khi bằng chính mạng sống của mình, Chúa Giêsu cũng nhắc chúng ta đừng sợ những kẻ chỉ có thể làm hại thân xác, mà không thể giết được linh hồn. Thân xác có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn sẽ không hề hấn gì, nếu chúng ta vững tin vào Chúa. Lần thứ ba Chúa nhắc chúng ta đừng sợ là vì chúng ta quí trọng hơn nhiều, nếu Thiên Chúa đã chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng, thì huống hồ là con người. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, chúng ta sẽ dấn thân nhiều hơn để làm chứng cho Chúa.
Nếu chúng ta hỏi bất cứ ai: họ sợ gì? Hết thảy đều sẽ trả lời giống nhau: sợ bệnh tật, sợ mất tài sản hoặc việc làm, sợ sống một mình, sợ mất tiếng tốt, sợ gặp tai nạn, sợ bị xa cách người thân, sợ chết… Những mối lo sợ đó là chính đáng, bởi vì chúng ta có thể làm chúng ta bị tổn thương, hoặc cướp mất của chúng ta những gì chúng ta sở hữu, hoặc làm cho chúng ta nên yếu kém, tàn tật, hoặc làm chúng ta không còn sống ở trần gian nữa…
Nhưng có nhiều điều đáng lẽ phải làm cho người ta sợ, nhưng người ta lại không để ý hay không sợ, chẳng hạn chúng ta hỏi người ta: có sợ không mến Chúa yêu người đủ không? Có sợ không chia sẻ tài sản của mình đủ không? Có sợ đã không coi Tin mừng là quan trọng đủ, đã không cầu nguyện đủ, đã không nói đủ về Chúa Giêsu không?… Có lẽ những người được chúng ta hỏi như thế sẽ tỏ ra rất ngỡ ngàng. Thường những cái sợ như vậy không hề xảy ra trong tâm trí họ.
Chúng ta thường sợ những điều không đáng sợ và không sợ đủ những gì đáng lẽ thực sự phải làm cho chúng ta sợ. Làm cho chúng ta sợ! Nói như thế hẳn là không đúng, vì Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống trong sợ hãi, nhưng sống trong sự tin tưởng sâu xa vào tình thương của Ngài.
Có người đã cố công tìm những chi tiết trong Kinh thánh và đã đếm được 365 tiếng “đừng sợ” trong toàn bộ Kinh thánh. Như thế là mỗi ngày trong một năm chúng ta đều được kêu gọi và nhắc nhở đừng sợ. Sống ở đời có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có nhiều lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… Đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Lắm khi chúng ta giống như những con chim non, ngỡ ngàng sợ hãi trước bổn phận làm người, trước ơn gọi làm Kitô hữu. Nhưng Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta đừng sợ. Chúng ta không sợ vì chúng ta tin rằng bên cạnh chúng ta luôn có Đấng phù trợ che chở. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.

11. Đừng Sợ – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Trên đời con người có nhiều thứ bủa vây, một trong những thứ đó là cái “sợ”. Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới. Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui… Nỗi sợ có vẻ gắn liền với sự mong manh của phận người. Người ta sợ nhiều thứ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết… Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và dù muốn dù không con người vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấu hiều điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn… Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10, 28-31).
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo Hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã không ngừng kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.
“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Thái độ “không sợ” được Thánh Giáo hoàng Đức Gioan Phaolô II nói đến vượt trên ý nghĩa thông thường là sự bất khuất, không nao núng trước bạo lực, bạo quyền. Không sợ là thái độ vượt thắng sự thủ thế, co về mình, không dám mở ra đón lấy sự cao cả, siêu việt, linh thánh của Tin Mừng Cứu độ và cũng không đủ nghị lực và sự kiên trì đưa Tin Mừng trở thành hiện thực nơi trần gian, xây dựng Nước Chúa ngay trong thực tại trần thế.
Từ “Đừng sợ” lại vang lên trong bài giảng thứ hai trên cương vị giáo hoàng, khi cử hành việc tiếp nhận ngai tòa giám mục giáo phận Rôma, ngày Chúa nhật 12-11-1978, tại nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô, Đức Gioan Phaolô nói rõ thêm về lời kêu gọi “Đừng sợ”.
Đừng sợ đón lấy và thực thi lối sống Tin Mừng. Đó là sống yêu thương, không hận thù, như chính Đức Kitô yêu thương và đã tha thứ cho kẻ bách hại mình: “Tình yêu thì kiến tạo. Chỉ có tình yêu mới có thể kiến tạo được. Còn thù hận thì phá hủy. Lòng hận thù không kiến tạo được gì hết. Nó chỉ gây đổ vỡ. Nó làm tan nát đời sống xã hội. Nó chỉ có thể gây sức ép đối với những người yếu đuối và chẳng xây dựng nổi một điều gì” (Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ nhận nhà thờ Chánh tòa Gioan Latêranô của Giám mục Rôma)
Đừng sợ sống yêu thương trong thế giới còn đầy tràn lòng thù hận. Đó là tín thư của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Một tín thư xụất phát từ sứ điệp Tin Mừng Cứu độ của Đức Kitô. Sứ điệp của niềm Hy vọng:“Hãy làm cho những Lời hằng sống của Đức Kitô đến được với mọi người để họ nghe được Lời của Chúa, sứ điệp của niềm Hy vọng” (Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Tiếp nối đường hướng của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi, Đức Bênêđictô XVI đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước, vì có Chúa ở cùng”. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”. Và trong Sứ điệp nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XXVII, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã viết: “Các bạn trẻ thân mến, đừng sợ phải liều mạng mình cho Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài. Đó là phương cách tìm được bình an nội tâm và hạnh phúc đích thực”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều lần dùng kiểu nói “đừng sợ”.
“Thật vậy, sống ở đời làm sao tránh khỏi những căng thẳng, lo âu, sợ hãi khi gặp khó khăn, nguy hiểm. Chính Chúa Giêsu cũng có những lúc bàng hoàng xao xuyến. Khi bảo “anh em đừng sợ” Chúa Giêsu muốn ta đừng để cảm xúc sợ hãi làm tê liệt đời sống chúng ta. Người bảo chúng ta: đừng sợ”. “Đừng sợ” ngay trong mọi biến động, “đừng sợ”, vì “Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (Gr 20,13). “Đừng sợ”, khi phải đối diện với đau khổ hay sự chết bởi vì Thiên Chúa, Đấng yêu thương quan tâm chăm sóc chúng ta, vì Ngài là Cha nhân từ, trung tín, thấu hiểu chúng ta cần gì, vì đối với Ngài, chúng ta “quý hơn muôn vàn chim sẻ” (x. Mt 10,31). Ta hãy sống như con thơ phó thác cách đơn sơ trọn vẹn cho Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, trong mọi công việc.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm sống thật, hành động thật và tin tưởng phó thác nơi Chúa. Đừng sợ những khó khăn thử thách trong đời sống đạo. Đón nhận con đường khổ giá như là điều kiện cần cho phần rỗi của mình. Luôn nhớ rằng khi chúng ta tin và sống đạo, hẳn chúng ta không thể thoát khỏi sự hiểu lầm, chống đối và đôi khi cả cái chết nữa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra ý nghĩa của đau khổ và ngang qua đó, chúng ta sẽ thấy cùng đích của cuộc đời nằm ở nơi Thiên Chúa chứ không phải những thứ mau qua, chóng hết ở đời này.
Lạy Chúa, nỗi sợ làm cho con chùn bước, rụt rè trong đời sống đức tin của con, xin cho con thêm sức mạnh để con không còn sợ hãi Chúa ơi. Amen.

12. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi – Charles E. Miller, C.M.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công Giáo của chúng ta. Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ hăm dọa. Đo là một loại sợ hãi mà nó liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ Người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe dọa bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huy (điều này đã xảy ra vào năm 578 B.C).
Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chính những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ Giao Ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu ở trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêrêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này ma thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở E Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lơi của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sưc mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo Hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiep tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc Âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con.

13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu đã nhiều lần báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài với các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 9,22).
Ngài cũng báo cho các môn đệ và những người đi theo Ngài biết rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23); “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24); “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16)… Nhìn lại lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy những lời loan báo của Đức Giêsu đã hoàn toàn ứng nghiệm. Chính Đức Giêsu đã bị bắt, chịu khổ hình, chịu đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Các Tông đồ cũng đồng số phận với Đức Giêsu, đã chịu chết tử vì đạo (trừ Thánh Gioan). Giáo hội sơ khai bị bách hại liên tục 300 năm. Giáo hội Việt Nam cũng vậy. Và hằng ngày đây đó trên thế giới người kitô hữu vẫn bị bách hại. Tại Ba Lan, Giáo hội vừa phong thánh cho linh mục Jerzy Popiełuszko, người bị mật vụ cộng sản giết năm 1984. Gần đây, Đức Giám Mục Jean Marie Benoît Bala, giám mục Bafia, Camerun bị sát hại một cách dã man trước khi xác Ngài bị quăng xuống sông. Lý do các Ngài chịu đau khổ, chịu chết là vì các Ngài rao giảng chân lý, rao giảng Tin mừng.
Bài đọc I hôm nay, trích sách tiên tri Giê-rê-mi-a, cũng cho chúng ta biết: Vì rao giảng sứ điệp của Thiên Chúa cho dân và vì thẳn thắng cảnh cáo dân về tội lỗi của họ sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt, mà tiên tri Giê-rê-mi-a đã bị dân chúng hãm hại. Nhưng Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông “như người lính chiến hùng dũng” (x. Gr 20,11). Nhờ thế, ông tin tưởng cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa. Đặc biệt, ông can đảm tiếp tục sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho ông.
Cũng thế, sỡ dĩ các Tông đồ và các thành phần trong giáo hội qua mọi thời đại vẫn can đảm chấp nhận đau khổ, tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng chính là nhờ vào sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, đi liền với những lời loan báo đau khổ, Đức Giêsu cũng thường trấn an các môn đệ bằng những lời lẽ hết sức thuyết phục như: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Chúa Cha nói trong anh em” (Mt 10,19-20); “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12); “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ” (Mt 10,22); “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Đặc biệt bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ “đừng sợ” những người bách hại các con.
Tại sao Đức Giêsu bảo các môn đệ đừng sợ?
Lý do thứ nhất Ngài bảo đừng sợ: “Vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”(Mt 10,26-27). Ý Đức Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng: dù bị bách hại, giết chết thì cuối cùng sự thật cũng sẽ thắng “sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32). Biết bao nhiêu Kitô hữu đã bị giết chết vì Chúa, vì Tin mừng, vì sự thật…nhưng cuối cùng cũng được lịch sử ghi nhận, Giáo hội suy tôn. Vì thế, chúng ta đừng sợ khi phải dấn thân rao giảng Tin mừng, đừng sợ khi phải tranh đấu, đừng sợ khi phải lên tiếng đòi công lý cho người bị áp bực, lên án sự bất công.
Lý do thứ hai Ngài bảo đừng sợ: “Vì họ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn”(Mt 10,28). Lịch sử Giáo hội cho chúng ta thấy, lời khẳng định này của Đức Giêsu đã trở thành hiện thực. Bởi vì biết bao nhiêu thời kỳ bách hại đạo đã qua, biết bao nhiêu chế độ bách hại đạo không còn, biết bao nhiêu người giết các kitô hữu đã chết. Thế mà Giáo hội vẫn tồn tại và phát triển. Giáo phụ Tertuliên nói rằng: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống sinh ra nhiều kitô hữu.” Và đa số những người bị giết chết trong các cuộc bách hại đó đã được Giáo hội tôn vinh. Con số các vị tử đạo trong Giáo hội, trong đó Việt Nam chúng ta có 118 vị cho chúng ta thấy điều đó.
Lý do thứ ba Ngài bảo đừng sợ: Vì “các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”(Mt 10,31). Ý Đức Giêsu muốn các môn đệ và mỗi người chúng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đưa ra ví dụ về con chim sẻ và sợi tóc trên đầu, mặc dầu không đáng giá gì nhưng vẫn được Thiên Chúa quan phòng chăm sóc giữ gìn: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 29-31).
Không những Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta “đừng sợ” mà chính Giáo hội cũng luôn mời gọi chúng ta “đừng sợ” trước những bách hại, bắt bớ của những người ghét đạo, trước những bất công của xã hội, trước những bạo lực của cường quyền. Giáo hội còn mời gọi chúng ta hãy can đảm đi ngược lại với các trào lưu, các tệ nạn của xã hội. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi giới trẻ rằng: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà các giá trị bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu muốn cướp đi hy vọng của chúng ta.” Đi ngược dòng đời, tức là khước từ các nhu cầu ích kỷ, gọt bỏ các thói hư tật xấu…làm được như thế cũng đồng nghĩa với sống đạo hằng ngày, mà “sống đạo cũng cam go không khác gì chết vì đạo.”
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không sợ bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Trong cuộc sống có những cái sợ đến từ bản tính tự nhiên như sợ đói, sợ khát, sợ bệnh tật, sợ tai nạn, sợ chết, sợ ma…Những cái sợ này có thể không bao giờ đến. Còn trong đời sống đức tin, có một điều đáng sợ nhất đó là sợ phải sa hỏa ngục. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng: “Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục”(x. Mt 10,28). Thật vậy, không sợ Chúa khi chúng ta biết tuyên xưng Ngài: “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10,32). Đó là những khi chúng ta xưng mình là kitô hữu trước mặt mọi người bằng cả lời nói và cách sống. Đó là khi chúng ta sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta thà chết chứ không phạm tội, thà chết chứ không chối Chúa, không bước qua thập giá. Đó là khi người đời nhận ra chúng ta là người của Chúa của Giáo hội.
Còn chúng ta sợ Chúa khi cố tình từ chối Chúa trước mặt người đời: “Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Đó là khi chúng ta chối từ bản chất kitô hữu của mình như: không dám làm dấu thánh giá vì sợ người khác đạo, không sống đúng với giáo huấn của Tin mừng. Đó là khi chúng ta từ chối làm chứng cho Chúa cho Giáo hội…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng con vẫn không sợ, nhưng can đảm tuyên xưng và làm chứng cho Chúa. Amen.

14. Hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người
(Trích trong ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
“Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.
Suy Niệm:
Chúa nhật trước chúng ta đã thấy quá khứ, hiện tại, tương lai của Dân Chúa cũng như của từng người trong chúng ta được bao trùm trong lòng nhân nghĩa của Chúa. Người thương chúng ta vô vàn, đã giải thoát chúng ta trong quá khứ, đang phù trợ chúng ta trong hiện tại và sẽ làm cho tương lai chúng ta được hạnh phúc.
Nhưng đó là cái nhìn đức tin. Còn con mắt nông cạn và xác thịt có lẽ chỉ thấy đời nhiều đắng cay. Lời Chúa hôm nay muốn soi sáng chúng ta về phương diện này, để chúng ta thấy lòng nhân nghĩa Chúa bao trùm cả những nét buồn thảm bi đát trong cuộc đời chúng ta.
A. Trước Hết, Lời Chúa Chẳng Bao Giờ Che Giấu Các Ðau Khổ
Cựu Ước cũng như Tân Ước không những mô tả mà còn tìm hiểu khía cạnh cam go trong đời sống con người một cách sâu sắc.
Bài sách tiên tri Yêrêmya hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ ấy đã được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Yêrêmya đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Nghe ông nói nhiều, người ta đã dần dần đồng hóa ông với kẻ mang tai ương vạ gió. Người ta tránh ông như tránh dịch, Nhưng đâu được phép rút lui, ông phải theo lệnh Chúa đến phản đối thái độ bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Người ta bắt ông, nhốt ông, kết án ông là tên phản bội, bán nước. Ngay họ hàng thân thích cũng khử trừ ông. Vì ông thuộc dòng tư tế, mà muốn cải cách theo Yosyas, chủ trương hủy bỏ hết các nơi tế tự bất xứng ở địa phương để tập trung tất cả phụng vụ trang nghiêm về Yêrusalem.
Xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ. Những tiên tri khác còn được hạnh phúc có vợ có con, Yêrêmya được lệnh Chúa sống độc thân để tuyên sấm cho toàn dân biết: tai họa sắp giáng xuống, đừng dại gì mà dựng vợ gả chồng kẻo vợ con sẽ chết đói, chết chém và chẳng được chôn cất. Dân chưa bị chiến tranh và đi đày lê thê… nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, Yêrêmya đã phải sống trước ở nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời.
Vì đời chúng ta không phải chỉ mang theo những khổ đau như mọi người, nhưng còn có những gánh nặng khác mà ta có thể gọi chung là thánh giá. Ðó là những đau đớn vì Danh Chúa, dành cho chúng ta là những người được chọn. Ðức Kitô đã nói với các môn đệ của Người: vì Danh Thầy, thế gian sẽ ghét bỏ các con và người ta sẽ giải các con đến các tòa án. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay còn gợi lên cả nỗi lo sợ quằn quại không ngừng: tội lỗi chúng ta hằng phạm có khiến chúng ta mất tin tưởng vào hạnh phúc đời sau không? Ðây là lo sợ cuối cùng, lo sợ ở trước mặt Chúa, đang khi những tai họa và bất hạnh nói trên nằm trong tương quan đối với người khác, với gia đình và xã hội.
Thật, mọi vấn đề đau khổ ở đời đã được Sách Thánh liệt kê và nghiên cứu. Yêremya đã sống giữa cảnh thù nghịch. Ông tiên báo về con người đau khổ của Ðức Kitô; rồi Ðức Kitô lại báo trước cho chúng ta biết thân phận khổ sở của những người theo Chúa. Cuối cùng thánh Phaolô nói lên nỗi lo sợ phập phồng dày vò tâm trí những kẻ biết mình tội lỗi.
B. Nhưng Ðồng Thời Lời Chúa Cũng Dọi Sáng Trên Các Ðau Khổ
Yêrêmya bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng không nao núng, vì như lời ông nói hôm nay: Chúa luôn luôn ở với ông như người chiến sĩ vô địch. Ông sống ở thời Cựu Ước, nên lối diễn tả niềm tin của ông chưa được tế nhị. Ông tin rằng kẻ thù của ông sẽ lao đao, thất bại; sẽ hổ ngươi và nhục nhã. Và niềm tin ấy đã biến thành lời cầu nguyện: xin cho con được thấy kẻ thù của con bị báo thù.
Ngày nay chúng ta không được cầu nguyện như thế vì Chúa Yêsu đã dạy chúng ta phải yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét bỏ mình. Nhưng chúng ta phải có niềm tin chắc chắn như Yêrêmya. Giữa bao nghịch cảnh và mọi khổ đau, Chúa vẫn ở với chúng ta, không những như người chiến sĩ vô địch, nhưng hơn nữa như một người cha săn sóc đếm từng sợi tóc trên đầu người con, để không một cái tóc nào rụng xuống mà không có ý của Người. Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một đồng xu thôi, thế mà Cha trên trời vẫn săn sóc đến chúng. Còn chúng con, chúng con đáng giá ngàn ngàn lần hơn tất cả loài chim sẻ. Nói một cách đơn sơ hơn, những đau khổ rủi ro ở đời không bao giờ được làm chúng ta quên lòng nhân nghĩa Chúa. Chúng ta phải nắm vững niềm tin đã trình bày Chúa nhật trước: quá khứ, hiện tại và tương lai chúng ta được bao bọc trong tình yêu trung tín của Cha trên trời. Yêrêmya đã thâm tín như vậy. Chúa Yêsu nhắc lại cho chúng ta nhớ. Và chân lý là ánh sáng chiếu soi vào các khổ đau mà chúng ta gặp để hiểu rõ chúng là gì.
Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói: chúng không có gì đáng sợ. Thử thách và khổ đau ở đời thoạt nhìn vào thì thấy sợ, thấy ghê. Nhưng chiếu ánh sáng của Chúa vào, và nhìn chúng bằng con mắt đức tin, chúng ta dường như sẽ thấy chúng đang dần dần tan biến. Bản chất của chúng đâu có vững bền? Cuối cùng, tức là chung cuộc thử thách chỉ là những mây mù phải tan để làm tỏ hiện bộ mặt thật của thực tại. Có gì che giấu mà không bị bại lộ; có gì thầm kín mà lại không được công bố ra? Rồi đây Ðức Kitô sẽ ở trên Thánh giá, Người sẽ chiến thắng tử thần, dọi ánh sáng phục sinh vào việc làm của mọi kẻ thù địch Ngài; thế gian sẽ bẽ bàng trong tội lỗi và kẻ tin Ngài sẽ hân hoan. Rồi đây Ðức Kitô cũng sẽ lại xuống trong vinh quang. Ánh sáng vinh hiển Người sẽ phán xét hành động và ý nghĩ thâm sâu của mọi người; thử thách và đau khổ của những kẻ được Người chọn sẽ biến mất như đêm tối tan biến trước ánh sáng mặt trời. Thế nên, nếu con cái Chúa không có gì phải sợ khi đã tin ở sự săn sóc của Cha trên trời, thì các môn đệ của Người cũng chẳng có gì phải hãi khi bị bắt bớ vì tòa án loài người cũng sẽ qua đi khi ngày chung thẩm của Chúa đến. Người ta có thể giết các môn đệ của Chúa, nhưng có nên sợ những kẻ chỉ giết được xác mà không giết được hồn không? Dĩ nhiên người môn đệ muốn được sự bình tĩnh chắc chắn trong mọi thử thách, thì phải có sự tự tin ở trong hồn mình, tức là có thể tin vào giá trị đạo đức của mình ở trước tòa Chúa sau này và bây giờ nơi lương tâm của chính mình.
Nhưng ai dám tự hào thâm tín như vậy? Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đoán được tâm trạng của chúng ta. Người sợ chúng ta nao núng khi nghĩ đến tội lỗi của mình. Và nguời chiếu ánh sáng tin tưởng vào lương tâm lo lắng ấy khi đề ra chân lý sau đây:
Phải, tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Từ Ađam cho tới nay, tội lỗi đã thống trị và tràn ngập. Nhưng chính sự kiện phổ quát của chế độ tội lỗi khiến chúng ta suy đến thời đại phổ quát của ân sủng. Một người đã du nhập tội lỗi vào thế gian để đến nỗi không ai không tội lỗi; thì Thiên Chúa là Ðấng nhân nghĩa và trung tín đã mở màn thời đại ân sủng phổ quát khi ban Con Một Người đến chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Và không thể Ðức Yêsu chỉ giống như Ađam. Người phải trổi vượt ông vô vàn. Thế thì chế độ ân sủng mà Người đã khai mạc cho thời sau hết này phải vượt xa thời kỳ tội lỗi xưa đã bắt đầu với Ađam. Chúng ta có kinh nghiệm về thời đại tội lỗi xấu xa này, thì chúng ta càng phải có lòng tin sâu xa hơn nữa về thời kỳ ân sủng do Ðức Kitô sáng lập.
Tin như vậy, không ai còn có thể nghĩ mình không được chan chứa ân sủng. Và đời sống tuy nhiều khổ đau và tội lỗi, tuy nhiên nước mắt như đại dương và đầy bất công bất hạnh, đức tin bảo chúng ta phải quả quyết ân sủng của Ðức Kitô còn mênh mông dư đầy bội phần. Và những gì chúng ta đã nói về lòng nhân nghĩa của Chúa đối với con người, vẫn còn đúng mãi, mặc dầu đời người có thể là bể khổ.
C. Thế Thì, Thái Ðộ Của Chúng Ta Phải Thế Nào?
Yêrêmya đã kết thúc bài nói về đau khổ mình gặp bằng một lời kêu gọi tin tưởng. Ông nói: hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người vì Người sẽ cứu mạng sống kẻ khó nghèo khỏi tay kẻ cường bạo. Lòng tin tưởng của ông không phải vô điều kiện. Chúa sẽ cứu người nghèo khổ. Tin Mừng của Người sẽ chỉ được rao giảng cho những con người ấy. Nói đúng ra, chỉ hạng khó nghèo mới đón nhận Tin Mừng của Chúa và do đó mới được cứu độ. Mà khó nghèo hay nghèo khó Phúc Âm, trước hết là tin tưởng tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa và chỉ cậy dựa trông cậy vào Người mà thôi, tức là phải lấy nhân nghĩa đáp trả nhân nghĩa.
Và lòng tín nghĩa chân thật ấy phải được chứng tỏ rõ ràng, đặc biệt khi bị thử thách. Chính Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã tuyên bố rõ ràng: ai xưng Ta ra trước mặt người đời thì Ta cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt Cha Ta; còn ai chối Ta trước mặt người đời thì Ta cũng chối kẻ ấy trước mặt Cha Ta.
Ðiều kiện này có thể khiến lòng nhiều người áy náy. Thế nào là xưng Chúa ra trước mặt người đời? Ðeo ảnh, làm dấu đọc kinh trước khi ăn cơm, đi dự lễ ngày Chúa nhật, là những hành vi tuyên xưng Chúa? Bao giờ cũng phải làm? Và có khi nào được miễn không?
Ở đây, không ai có thể đưa ra một câu trả lời gãy gọn áp dụng cho hết mọi trường hợp. Muốn có câu giải đáp phổ cập này, có lẽ chúng ta phải vươn lên trên mọi vấn nạn cụ thể. Và hãy hỏi thế nào là tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời?
Ảnh đeo nhắc người ta nhớ đến Chúa; nhưng chưa chắc người nào đeo ảnh cũng tuyên xưng Chúa ra. Ðã có những người đeo Thánh giá vàng để trang trí và có thể có những người mang thập tự lớn để phản chứng, không phải vì Danh Chúa nhưng vì mình và vì quan niệm của riêng mình. Và chúng ta cũng có thể nói tương tự về việc làm dấu, đọc kinh, đi lễ v.v… Nói tóm, giá trị không nằm ở việc làm, nhưng ở niềm tin. Thánh Phaolô đã nói như vậy. Ðiều quan trọng là mỗi người phải tự hỏi về niềm tin của mình. Và chính niềm tin ở trong mình sẽ phán đoán các hành vi của chúng ta. Và chắc chắn người có đức tin mạnh mẽ sẽ biết cư xử đúng với sự tự do của con cái Thiên Chúa, nghĩa là luôn luôn biết phải làm gì và không cần làm gì để tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời.
Giờ đây cũng vậy, Thánh lễ sẽ cử hành ở giữa chúng ta. Lẽ ra mọi người sẽ tuyên xưng niềm tin một cách hết sức chân thành. Nhưng biết đâu và không ý tứ thì sẽ có những kẻ xem lễ mà không dự lễ. Vì xem lễ thì chỉ cần mắt nhìn vào, nhưng dự phần thì phải dấn thân, đem tâm hồn mình đến thông phần Mình Máu Ðức Kitô.
Ai thật sự tham dự lễ tế này mà không thấy Thiên Chúa yêu thương mình, đến nỗi ban Thịt Máu Người cho chúng ta? Và ai thật sự đáp trả tình yêu của Người lại có thể lo sợ các thử thách trong đời sống? Vì cả khi sống giữa đau khổ, người yêu Chúa vẫn cảm thấy sâu xa mình được Chúa yêu. Và với tình yêu ấy Thánh Thần đã đổ được đổ xuống trong lòng chúng ta để một sự an ủi ngọt ngào vẫn tràn ngập tâm hồn của những thân xác đang bị đau khổ. Ðó là niềm tin, là lẽ sống của chúng ta. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng.

15. Nhận & chối – Anmai.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.
Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.
Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?
Trang Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta về vấn nạn niềm tin. Chúa hỏi chúng ta rằng chúng ta có can đảm tuyên tín, tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ hay là chúng ta chối Chúa trước mặt thiên hạ?
Tưởng chừng vấn nạn này đơn giản nhưng phải nói là vấn nạn này là vấn nạn lớn của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chưa đề cập đến lòng tin vào Thiên Chúa, chỉ đề cập đến đời sống thường nhật của chúng ta thôi chúng ta sẽ thấy một sự thật thật phũ phàng.
Phải nhìn nhận với nhau một điều là ngày hôm nay con người ta không biết do ảnh hưởng từ đâu mà người ta sống với nhau thật vô trách nhiệm, hay trốn tránh trách nhiệm. Nhan nhản các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo chí đưa tin đấy, quá nhiều, quá nhiều người đã không can đảm đón nhận sự thật, đón nhận trách nhiệm của mình và cứ cố đẩy đưa trách nhiệm cho người khác được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Không biết thời trước có vậy không nhưng thời này con người sống thiếu trách nhiệm quá! cái sự vô trách nhiệm hình như nó được luyện từ ngày còn bé thì phải. Nhiều và nhiều vị phụ huynh có con trẻ, khi cho chúng ăn, khi cho chúng chạy nhảy, khi cho chúng chơi … thế nào chúng cũng bị vấp té. Vấp té vì hấp tấp, vì lăng tăng, vì thiếu quan sát chướng ngại vật của trẻ vậy mà đa số các ông bố, các bà mẹ sau khi thấy con té thì vực con dậy và lấy tay đập vào cạnh bàn, đập vào cái ghế và dạy cho con trẻ biết rằng nó chính là thủ phạm gây cho con trẻ té chứ không phải là lỗi do chính con trẻ.
Tưởng chừng là chuyện nhỏ nhưng dần dần cái lối sống, lối nghĩ, lối hành động của trẻ nó sẽ in sâu vào tư tưởng của trẻ là vô trách nhiệm, chối bây bẩy những hành vi của mình. Từ những chuyện nhỏ đó nó vô tình đã dẫn đến cho con người tác hại vô cùng to lớn đó là trốn trách trách nhiệm.
Nhìn rộng hơn một chút chúng ta sẽ thấy ngay trong gia đình ngày hôm nay. Khi vui, khi hạnh phúc thì ai cũng giành phần của mình rằng mình là tác nhân mang đến hạnh phúc trong gia đình nhưng khi khốn khó một chút, khi gặp điều chẳng may chẳng lành thì từ chồng đến vợ đến con chẳng ai dám đứng ra lãnh cái trách nhiệm về mình cả. Vì trốn tránh trách nhiệm, từ chối bổn phận của mình trong gia đình nên rồi chuyện nhỏ nó xé ra thật to. Lỗ nó nhỏ vậy mà nó gây đắm thuyền ngày nào không hay. Mạnh chồng chồng chối, mạnh vợ vợ chối, mạnh con con chối bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để rồi dẫn nhau ra toà. Ra đến toà cũng chẳng tránh khỏi cái kịch bản chối.
Ngày hôm nay, nhiều đôi hôn phối chia ly vì cái nguyên nhân căn bản đó là chẳng ai chịu nhìn vào bổn phận và vị trí phải có của mình trong gia đình. Vì chối từ đời sống gia đình thì chẳng chóng thì chày một ngày nào đó cũng chia tay.
Mở rộng ra một chút, khi sống trong xã hội, hoà nhập với xã hội trong công việc làm ăn. Thử hỏi mấy người trong công ty, trong xí nghiệp dám đứng ra lãnh phần trách nhiệm của mình sau khi để lại hậu quả không tốt. Buồn cười ở chỗ là khi có nguồn lợi, khi đạt thành tích thì ai ai cũng đua nhau chen vai vào giành một phần của mình đã đóng góp để được cái thành tích ấy. Để rồi cuối cùng con người cứ quấn quýt với nhau trong cái vòng xoắn của sự vô trách nhiệm.
Nhìn lên một chút nữa, những vị có trách nhiệm với nước với dân. Đã là người thì chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, sơ xuất nhưng nhiều vụ án, nhiều sự việc xảy ra để lại những hậu quả khôn lường vậy mà người ta chỉ bị khiển trách vì vô ý đã gây hậu quả to lớn cho dân và cho nước.
Nhìn vào đời sống kitô hữu, lời Chúa trong trang Tin mừng hôm nay quả là một lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta. Chúng ta là công dân Việt Nam: Đúng! nhưng thật sự nó chỉ đúng ở khía cạnh vật chất, khía cạnh con người còn khía cạnh tâm linh, thiêng liêng thì phải nói chúng ta là công dân nước trời. Nước Trời có Thiên Chúa làm chủ như Chúa Giêsu nói Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian vì nước của chúng ta không thuộc về thế gian này như Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Chúng ta được Chúa mời gọi là chúng ta phải tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này để mai kia Chúa cũng sẽ tuyên xưng chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha.
Quả thật, chuyện tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta phải làm chứng về Chúa như vị mục sư đã can đảm tuyên xưng lòng tin vào Chúa trước mặt thế gian dẫu rằng họng súng, cái chết gần kề với ông.
Chúa Giêsu không thử thách chúng ta nghiệt ngã như viên sĩ quan thử thách vị mục sư kia là phải chết nếu không tuyên xưng. Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Chúa ngay trong đời sống thường nhật nhỏ bé hằng ngày.
Có nhiều người ngày hôm nay không dám làm dấu Thánh giá trước khi ăn cơm vì ngại! Dấu Thánh Giá và lời tạ ơn trước khi ăn là một nghĩa cử đẹp của một người biết ơn và một người nhìn nhận Chúa là Chúa của đời mình. Biết ơn trước mỗi bữa ăn điều này thật đúng và phải đạo vì lẽ ta có bữa ăn tạm gọi là cũng chẳng cao lương mỹ vị gì nhưng nhiều người khó nghèo hơn chúng ta, những nạn nhân của những cơn bão lụt, những vụ động đất làm gì mà có như ta, họ nằm mơ cũng chẳng có được như ta để rồi ta cảm ơn cũng chẳng thừa. Khi làm dấu ta tuyên xưng Chúa là chủ đời ta cũng đúng thôi vì thật ra cuộc đời của ta có nằm ngoài bàn tay của Chúa đâu như Chúa nhắc chúng ta: “thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu của anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30.31).
Có người thì tham dự Thánh lễ cắt đầu cắt đuôi. Có khi cha giảng mới đến và khi mọi người rước lễ thì kéo nhau về. Hành động như thế tự nó nó nói lên sự chối Chúa trước mặt người đời. Thử hỏi ai trong chúng ta đãi tiệc mà thực khách đến muộn về sớm không? Thử hỏi Chúa có buồn không khi con cái Chúa cư xử với Chúa như vậy?
Chưa hết, không phải đi lễ cắt trước cắt sau như thế mà thậm chí còn bỏ lễ Chúa nhật. Người ta vẫn thường nói “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để rồi có những người vô tư bỏ lễ Chúa nhật. Vì lẽ thường thì bỏ một lần xong lại cứ bỏ tiếp thôi, dần dần cái thói quen xấu bỏ lễ nó thâm nhập vào người ta lúc nào mà người ta không biết. Giữ đạo như thế phải chăng là một cách chối Chúa trước mặt người đời.
Còn những người đi lễ, thật sự thì có đi lễ đấy nhưng có làm cho thánh lễ nối dài trong cuộc sống hay là bước chân ra khỏi nhà thờ thì mọi chuyện đâu vào đấy. Sống Thánh lễ nối dài đó chính là một cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Chắc có lẽ Chúa không đòi buộc con cái Chúa sau khi tham dự Thánh lễ ra khỏi cổng nhà thờ là hô hoán lên rằng tôi mới đi lễ xong, tôi là người Công Giáo. Ngày nay cũng chẳng còn cấm đạo như thời Minh Mạng hay những thời khó khăn để Chúa đòi hỏi kitô hữu phải đổ máu đào để minh chứng về Chúa.
Phải nhìn nhận thẳng rằng chính những lúc cấm đạo, những lúc bắt đạo thì đời sống đạo của Kitô hữu rất cao, không chỉ là đời sống đạo mà cách hành đạo rất tốt. Ngày xưa càng cấm đạo người ta càng giữ đạo và càng làm chứng về đạo. Ngày nay tình hình tự do tôn giáo được mở ra một chút thì đời sống đạo lại tụt dốc. Ngày hôm nay có nhiều phương tiện hơn, có nhiều cơ hội đến nhà thờ hơn nhưng người ta lại ít đến với nhà thờ hơn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng ngày nay người ta không cần thầy dạy nữa mà người ta cần chứng nhân! Chứng nhân của Chúa là gì? nhận Chúa là Chúa, là chủ tể đời mình là gì? Phải chăng đó chính là ăn tiếng nói, cư xử, hành vi của kitô hữu mới chính là cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Và Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ, nhắc nhở mọi người chúng ta: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau”.
Chúa cũng sẽ chất vấn chúng ta về hành vi, về thái độ làm chứng hay chối Chúa trước mặt người đời trong ngày sau hết. Chắc có lẽ, tự vấn lòng mình, tự soi vào tận sâu thẳm lòng mình chúng ta chúng ta mới biết được là mối tình giữa chúng ta và Chúa nó được bao nhiêu hay là nó phai tàn theo năm tháng và sợ nó không còn nữa. Nếu nó mờ đi thì chúng ta phải tìm cách để cho nó sáng hơn để cho mọi người nhìn vào ta họ thấy có sự hiện diện của Chúa trong đời ta.
Làm chứng cho Chúa, làm chứng có Chúa chính là sống đời sống bác ái yêu thương.
Nguyện xin Chúa là chủ, là Chúa của Tình Yêu tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta tình yêu dạt dạo của Chúa và xin cho mỗi người chúng ta biết rộng mở tấm lòng để chia sẻ tình yêu mà chúng ta nhận được từ Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng về Chúa trước mặt người đời bằng cách ăn nết ở của chúng ta để ngày kia trên Thiên quốc Chúa cũng làm chứng cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã hứa.

16. Đừng sợ
Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.
Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:
– Các con đừng sợ. (Mt 10,26).
Chúa Giêsu không nói tới một sự sợ hãi chung chung, nhưng Người nói rõ về một sự sợ hãi đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy trong việc sống đức tin của mình. Chúng ta thường e dè, thường do dự mỗi khi nói những lời giống lời của Chúa, làm những việc giống việc của Chúa, bởi vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc. Chúng ta sợ bị chê là quê một cục, bị gọi là kẻ lên mặt đạo đức, hay là bị ngược đãi, như chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé.
Chúa Giêsu không phải là không biết đến những lý do của sự sợ hãi. Bởi vì có những người đã phải mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị và rất có thể mất cả mạng sống vì niềm tin nơi Ngài. Thế nhưng, bên trên những thiệt hại tạm bợ này là niềm hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho những ai trung thành với Ngài.
Trong cuộc sống, có những lúc hình như chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi. Sợ đọc kinh cầu nguyện trước mặt người khác. Sợ gặp phải những khó khăn khi trung thành sống đức tin của mình. Sợ làm dấu thánh giá trước bữa ăn. Sợ ngả mũ nón khi đi ngang qua nhà thờ. Sợ đổi đề tài khi có người kể những câu chuyện tầm phào và tục tĩu. Sợ không dám từ chối khi bè bạn rủ rê ăn nhậu và cờ bạc. Chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi khi Giáo hội bị nhạo cười, bị tấn công.
Trong tất cả những trường hợp ấy, chúng ta hãy nhớ tới lời khuyên của Chúa:
– Các con đừng sợ.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy khắc ghi lời Chúa đã nói: “Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha ta ở trên trời” (Mt 10, 32-33).
Như thế có nghĩa là, nếu chúng ta chối bỏ Đức Kitô thì Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta.
Ước mong rằng trong suốt cả cuộc đời, chúng ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi, bởi vì, “ai bền đỗ đến cùng, thì người đó sẽ được cứu thoát”.

17. Hãy là chứng nhân -Lm. Giuse Phạm Thanh Minh
“Điều Thầy nói với anh em trong bóng tối thì hãy nói ra giữa ánh sáng” (Mt 10,27)
I. Dẫn vào Phụng vụ Lời Chúa
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay nhắc nhở cộng đoàn chúng ta về sứ mạng loan báo Tin Mừng, tuyên xưng Đức Giêsu Kitô, bất chấp những trở ngại, bách hại và khổ đau.
1. Bài đọc 1 trích sách ngôn sứ Giêrêmia
Trước hết, trong bài đọc thứ 1 trích ngôn sứ Giêrêmia (Gr 20, 10-13), chúng ta đã nghe mô tả về cuộc đời của tiên tri Giêrêmia. Ông đã được Thiên Chúa tuyển chọn từ trong lòng mẹ để đảm nhận một sứ vụ đầy cam go, khó khăn và bạc bẽo. Mặc dù, ông không muốn, nhưng ông vẫn phải ra đi loan báo cho mọi người biết những tai ương mà Thiên Chúa sắp giáng xuống trên dân Người vì tội lỗi của họ. Vì vâng phục ý Chúa, ông đã bị mọi người ghét bỏ, bị xã hội bắt bớ, bị họ hàng tẩy chay và bị nhiều người chống đối. Họ đặt cho ông cái tên: “Lão tứ phía kinh hoàng”. Ông cảm thấy trơ trọi một mình trong đau khổ. Là tiên tri, ông sống trước nơi bản thân số phận cay đắng của dân bội bạc. Tất cả chỉ bởi một nguyên do, là trung thành với sứ vụ loan báo Lời Chúa.
Tuy bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành với sứ vụ, bởi vì như lời ông nói: “Chúa luôn ở với tôi như một trang chiến sĩ oai hùng”; hoặc bởi lý do sâu xa hơn như lời tâm sự của ông: “Tôi đã định không nghĩ đến Người nữa, không nhân danh Người mà nói nữa, nhưng Lời Ngài cứ như ngọn lửa bùng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt, khiến tôi không thể nén được”. Vì thế, sứ vụ loan báo Lời Chúa như một định mệnh phải thi hành, phải ưu tiên và Thần Khí Chúa ban bảo đảm cho việc hoàn thành.
2. Bài Tin Mừng hôm nay là diễn từ của Chúa Giêsu về Truyền giáo.
Trong Tin Mừng hôm nay (Mt 10, 26-33), Chúa Giêsu tiếp tục dạy các Tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng: “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, các con hãy nói ra nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy công bố trên mái nhà”. Lý do cấp thiết là hiện nay nhân loại còn nhiều dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa. Như trường hợp, hiện nay Tin Mừng chưa đến được với 93% dân số Việt Nam, dù rằng Tin Mừng đã được khơi động từ 500 năm rồi. Nguyên nhân phải chăng vì người Công Giáo Việt Nam còn dửng dưng không bận tâm xem việc loan báo Tin Mừng như trách nhiệm của Kitô hữu, hoặc bởi ngại ngùng, bởi họ sợ hãi, không dám thực hiện lời dạy của Chúa.
Đức Giêsu báo trước các Tông đồ sẽ bị bách hại, nhưng Ngài khuyến khích họ đừng sợ chi cả. Bởi vì khi bị bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình. Lý do khiến các môn đệ không phải sợ, đó là “sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ”. Dù thế nào, Tin Mừng cứu độ cũng sẽ được tỏ hiện vinh hiển. Hơn nữa, những kẻ bách hại cũng chỉ có thể “giết được thân xác; còn duy mình Chúa mới có thể tiêu diệt trọn con người, cả thân xác và linh hồn”.
Người Tông đồ còn được Chúa bảo vệ. Bất cứ điều xảy đến cho họ cũng nằm trong kế hoạch quan phòng khôn ngoan và yêu thương của Thiên Chúa. Nếu họ tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, và trung thành làm chứng cho Chúa trước mặt người đời, thì Ngài cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa Thiên Chúa.
Từ khi đi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Thiên Chúa là Cha, Người luôn luôn chăm sóc và yêu thương chúng ta. Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị muôn loài muôn vật Chúa đã tạo nên, từ những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa chăm sóc con người như thể người Cha nhân lành: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”; “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”; “Anh em cũng thế, sợi tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”; “Hãy xem chim trời, chúng không gieo vãi thế mà Cha anh em vẫn nuôi chúng; Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn mặc cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em Chúa còn săn sóc hơn nhiều”.
Thế nên, thái độ của người thừa sai trong khi thi hành sứ vụ là bất khuất trước những đe dọa của người đời, và phải hoàn toàn tin tưởng nơi Ngài. Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là các ông thuộc về Ngài, và tin vào sứ điệp của Ngài, cũng như hợp nhất với Ngài để được sự sống của Ngài.
II. Lời Chúa mời gọi người Kitô hữu sống chứng nhân Tin Mừng.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những khó khăn trong việc sống đạo; từ việc sợ bệnh tật, sợ mất tiếng tốt, sợ phải xa mất người thân… chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin Mừng, và chiếu dọi vào những thực tế ấy để chúng ta vừa tin tưởng và phó thác nơi tình yêu vô biên của Thiên Chúa, vừa quyết tâm chu toàn bổn phận hiện tại. Đó chính là “hành trang” cốt yếu của người Kitô hữu hôm nay.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta luôn xác tín rằng “môn đệ không hơn Thầy, tôi tớ không hơn chủ”. Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó, thua thiệt, bách hại, thập giá, của tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ đề ra một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài chính là con đường là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử thách. Chúng ta tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
Sau nữa, dầu muốn hay không, đã là môn đệ của Chúa Giêsu, người Kitô hữu còn phải làm chứng cho Tin Mừng. Làm chứng trong nhà thờ khi dâng lễ hay khi đọc kinh vẫn chưa đủ, mà còn phải làm chứng trong cuộc sống hằng ngày, mỗi lời nói, cử chỉ, hành động phải là những lời chứng, đan cử như đeo thánh giá trên ngực, buôn bán ngoài chợ, làm việc nơi công sở, nơi xí nghiệp, bất cứ ở môi trường nào cũng thực hiện công bằng bác ái, quảng đại yêu thương: tất cả những điều ấy là những lời chứng chứ không phải chỉ việc tử đạo mới là lời chứng. Và khi chúng ta làm chứng cho Chúa thì đây hẳn là mối lợi cho chúng ta, như Chúa đã đoan hứa: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng Ngự Trên Trời”.
Kết Luận:
Lạy Chúa, xin Chúa ban ơn đức tin cho chúng con, để chúng con biết an vui cậy trông nơi Chúa, dù đời chúng con luôn gặp nhiều thử thách gian lao, để chúng con trở thành nhân chứng cho tình yêu Chúa trước mặt mọi người. Xin cho chúng con luôn trung thành yêu Chúa cho dù chúng con phải chịu nhiều thiệt thòi và hy sinh, vì chúng con biết rằng Chúa luôn đồng hành với chung con trên đường đời. Amen.

18. Biết sợ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 10, 26-33
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay. Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ. Hôm nay Chúa Giêsu giúp ta phân định để biết sợ và không biết sợ.
Trước hết, Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng không có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí, vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.
Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời. Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúabị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết. Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.
Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên Chúa là chủ mọi loài. Thiên Chúa nắm quyền sinh tử. Thiên Chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên Chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.
Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.
Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả cuộc đời sau.
Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên Chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên Chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Chúa Giêsu vẫn nhắc nhở: “Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.
Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.
Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe doạ, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên Chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không?
2) Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không?
3) Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến?

19. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Những lời Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay thật mạnh mẽ và cương quyết. Ngài vẽ ra khuôn mặt của người môn đệ: phải công khai rao giảng những gì đã được nghe. Không sợ bị bách hại, nhưng tin cậy tràn đầy, vì Thiên Chúa vẫn kề cận bên chúng ta, giữ gìn mạng sống của chúng ta, và Ngài là Thiên Chúa toàn năng.
Chúng ta biết điều đó, nhưng chúng ta vẫn e sợ. Ai trong chúng ta vui mừng đi đến cái chết khốc liệt như thánh Inhaxiô Antiôkia đã vui mừng như đi vào lễ hội? Ngài mong ước được nghiền nát dưới hàm răng của thú dữ để được ở cùng Chúa Giêsu. Giáo dân muốn cứu ngài khỏi chết, nhưng ngài xin họ đừng làm gì cả, đừng ngăn cản ngài trở thành mồi cho thú dữ. Ngài chỉ mong được thành một với Chúa của ngài thôi. Đó là người môn đệ chân chính của Chúa Kitô. Còn chúng ta? Chúng ta có vui mừng chịu mọi sự khốn khổ vì Chúa không? Tại sao? Vì chúng ta không yêu mến Chúa. Yêu ai, người ta thường làm bất cứ điều gì để làm đẹp lòng người mình yêu, dù phải hi sinh, khổ cực. Nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa, thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh vì Ngài. Chúng ta chưa phải là môn đệ của Chúa. Có lẽ Chúa phải hỗ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Có lẽ nhiều người trong chúng ta có thiện chí nhưng không đủ can đảm.
Chúa Giêsu bảo chúng ta phải công bố trước mặt mọi người những gì anh em nghe Thầy nói lúc đêm hôm, hãy nói ra giữa ban ngày, những gì anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng. Chúng ta đã làm như Chúa bảo chưa? Chúng ta đưa ra mọi lý do để thối thoát. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta muốn được bình an không có vấn đề rắc rối, chúng ta sợ người ta chê cười… Chúa cũng biết chúng ta là những con chiên ở giữa bầy sói. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta đừng sợ: “Anh em đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Điều đó có nghĩa là linh hồn quan trọng, thân xác không thể so sánh với linh hồn. Hy sinh thân xác mà cứu được linh hồn thì quan trọng hơn. Chúng ta yêu thân xác đến độ không dám chịu đựng một vài cực nhọc bên ngoài: chúng ta ăn chay ngày lễ tro, chúng ta cũng ngại ngùng, rên siết, thánh lễ kéo dài một chút, chúng ta cũng phàn nàn… như thế chúng ta làm sao có thể làm chứng cho Chúa? Chúa muốn chúng ta là nhân chứng của Ngài, và chúng ta chỉ có thể làm chứng nhân cho Ngài khi chúng ta xem Ngài là tất cả, là tuyệt đối đáng yêu hơn cả bản thân chúng ta. Khi ấy, chúng ta mới có can đảm hiến dâng trọn vẹn. Rốt cùng chỉ có tình yêu chân thực, tình yêu “nguyên chất” mới có thể đưa đến sự hiến dâng trọn vẹn.
Có những sự hiến dâng để trục lợi, không có giá trị và đê hèn. Có những sự hiến dâng nửa vời, hời hợt, cũng chẳng mang lại lợi ích gì. Chúa Giêsu cho chúng ta tất cả, Chúa là Đấng tuyệt đối, Ngài đã cho đi tất cả, Ngài cũng đòi buộc tất cả. Ngài kịch liệt phản đối mấy ông Pharisêu vì họ chỉ là cái vỏ bên ngoài, những mã tô vôi. Họ làm méo mó hình ảnh của Thiên Chúa.
Chúa cũng là sự thật, Ngài không thể chấp nhận những gì là dối trá. Ngài chấp nhận tâm tình ăn năn của Maria Macđala, vì nàng thành thật. Ngài chấp nhận Phêrô sau khi chối Thầy, vì ông đã thành thật. Ngài đòi buộc chúng ta làm chứng nhân cho Ngài, thì chính chúng ta phải là bằng chứng sống động của Ngài. Ngài không hiện diện hữu hình, Ngài muốn chúng ta hiện diện cho Ngài giữa anh em chúng ta. Cái chết thảm thương của Ngài trên thập giá là một sự thật, rõ ràng, minh bạch, Ngài cũng muốn chúng ta thành sự thật hiển nhiên đó hôm nay, trong cái thế giới ích kỷ và man rợ của chúng ta. Phải dám dấn thân như Ngài, dám yêu thương như Ngài, nếu không, Ngài sẽ hổ thẹn vì chúng ta trước mặt Cha Ngài. Một lời nói nghiêm trọng chúng ta cần lưu ý.
Chúa Giêsu cũng là sự sống. Nhưng Ngài đến trong thế gian là để chết. Ngài chết vì chúng ta đã chết. Nhưng sự chết không thể thống trị Ngài, Ngài đã sống lại, chiến thắng sự chết để đưa chúng ta vào sự sống, sự sống thật, sự sống vĩnh cửu. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống hôm nay. Nếu chết là hết, thì cuộc sống này trở nên vô nghĩa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được cái xác mà không thể giết được linh hồn. Vì chúng ta còn một cuộc sống mai sau trong hạnh phúc và vinh quang, nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô thì chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài. Và nếu sống, đối với chúng ta, là Chúa Kitô, thì cái chết phần xác này có nghĩa lý gì, mà ngược lại, nó lại là ngưỡng cửa đưa chúng ta vào hạnh phúc vĩnh cửu. Tại sao các thánh tử đạo không sợ chết? Vì các ngài tin rằng sau khổ nhục trần gian, các ngài sẽ được hạnh phúc với Đấng họ tôn thờ yêu mến.
Hơn nữa, mạng sống chúng ta vẫn quí trọng hơn mạng sống của những con chim nhỏ. Cha trên trời còn săn sóc chúng, thì chúng ta không được Cha trên trời săn sóc hay sao? Mọi sợi tóc trên đầu chúng ta, Cha trên trời đã đếm rồi. Như thế, chúng ta sợ gì? Tin cậy vào Cha và cứ vui sống hiên ngang, vì chúng ta vẫn được yêu thương. Những người dám tin thì cũng dám liều mạng. Cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng.
Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, mong manh. Các tông đồ xưa kia đã yếu đuối, sợ sệt, đã chạy trốn và Phêrô chối Thầy, vì thế Ngài hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài không bỏ mặc đàn chiên nhỏ bé của Ngài giữa bầy sói dữ mà không lo chăm sóc. Ngài vẫn hiện diện giữa đàn chiên bé nhỏ của Ngài bằng tấm bánh hằng sống. Ngài vẫn tiếp tục nuôi dưỡng đàn chiên bằng chính thịt máu mình. Sống với Ngài là một bảo đảm, vì chính Ngài sống và hoạt động trong chúng ta nếu chúng ta không cản trở Ngài, nếu chúng ta hợp tác với Ngài. Niềm hy vọng của chúng ta không thể tàn lụi vì Ngài là Thiên Chúa, và Ngài luôn trung thành.

20. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt. 10, 29-31)
* * *
Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.
Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.
Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu… Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.
Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: “Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà.”
Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.
Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.
Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.
Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.
Có người đang khoẻ thì sợ những chứng bệnh nan y có thể xảy đến trong tương lai; người đang có việc làm hẳn hoi thì sợ có ngày mất việc và đói khát; người đang còn trẻ thì sợ khi già yếu không ai phụng dưỡng chăm sóc; người đang yên ổn sống trong tiện nghi thì sợ mai đây khi thất cơ lỡ vận, không còn được thoải mái như hiện giờ…
Thế là con người tự tạo ra vô vàn nỗi sợ rồi để cho chúng đe doạ và khủng bố đời mình.
* * *
Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.
Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A’ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: “có người sắp đánh bom tự sát!”.
Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!
* * *
Chính vì nỗi sợ gây nên nhiều bất hạnh cho con người như thế, nên qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su ba lần nhắn nhủ chúng ta đừng sợ vì có sự quan phòng che chở của Thiên Chúa; nếu chúng ta có ngã, có rơi thì cũng chỉ ngã, chỉ rơi trong bàn tay êm ái của Người.
“Anh em đừng sợ người đời…” (Matthêu 10, 26)
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. (Matthêu 10, 28)
“Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10, 29-31)
Thế nhưng, như người mù ngu xuẩn kia, chúng ta không dám tin vào lời Chúa dạy, chúng ta vẫn cứ sợ, cứ lo và cứ để cho những nỗi sợ hãi đó đe doạ, khủng bố chúng ta suốt đời.
* * *
Lạy Chúa, xin cho con tin rằng Chúa là Đấng quyền năng hằng che chở gìn giữ chúng con và giúp chúng con vượt qua tất cả phong ba bão táp trên đường đời.
Xin cho con tin rằng dù chúng con có vấp ngã và rơi xuống, thì có bàn tay Chúa đỡ lấy chúng con. Và mai đây, khi phải từ giã đời nầy, chúng con sẽ không phải rơi vào cõi hư vô tăm tối nhưng là rơi vào lòng bàn tay nhân ái của Chúa mà thôi.

21. Chúa là sự sống – Lm. Minh Vận, CRM
Theo bản năng tự nhiên, ai trong chúng ta cũng đều sợ chết, nhưng ai lại cũng phải chấp nhận cái chết, mà không ai được quyền chọn cho mình cái chết vừa ý. Có nhiều cái chết khác nhau: Chết vì bệnh, chết vì tuổi già, chết vì tai nạn xe cộ, vì đắm tầu, vì bị chém đầu, vì bom đạn chiến tranh, vì dịch tễ, vì ăn no quá, vì đói khát, vì lạnh quá, vì nóng quá… Lại chết ở đâu vào bất cứ lúc nào, giờ nào, không ai biết trước được, có người đang khỏe cũng lăn ra chết, đang vui chơi cũng lăn ra chết, còn đang trẻ măng đầy sinh lực cũng lăn ra chết…
I. CHẾT PHẦN HỒN MỚI LÀ ĐÁNG SỢ
Cái chết đáng sợ thật, nhưng còn cái chết đáng sợ hơn gấp ngàn lần thì nhiều người lại không quan tâm đến. Đó là cái chết phần linh hồn, chết vì tội lỗi, vì đang ở trong tình trạng mất ơn nghĩa Chúa. Ai phạm tội trọng là chết về phần linh hồn, vì họ phản nghịch, chống đối Chúa, mất ơn nghĩa với Người. Người phạm tội trọng là giơ chân đạp Chúa, đóng đanh Chúa, tuyên án tử hình Chúa Kitô. Kẻ phản bội Chúa như thế là họ đã chết về phần hồn, họ đã trục xuất Chúa ra và đón rước Satan vào thống trị linh hồn mình, đáng Chúa trừng phạt đầy ải trong hoả ngục muôn đời.
II. CHÚA LUÔN BAN SỰ SỐNG CHO TA
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa làm phép lạ cho ông Nazarô chết 4 ngày được sống lại. Chúa đã ban lại cho ông sự sống tự nhiên, sự sống phần xác để ông làm tông đồ vinh danh Chúa. Ông được chọn làm Giám Mục, đi rao giảng danh Chúa khắp nơi, chinh phục muôn linh hồn về cho Chúa… Chúa cũng yêu thương chúng ta như ông Nazarô, Người luôn ban cho chúng ta sự sống, không phải chỉ là sự sống phần xác tự nhiên, những còn là sự sống phần hồn, sự sống chân thật và siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu đời sau… Đó mới là sự sống chúng ta cần phải khao khát tìm kiếm và phải nỗ lực dùng mọi biện pháp để duy trì và làm phát triển thêm lên mãi. Sự sống đó chính là sự sống siêu nhiên, sự sống Chúa Kitô, sự sống ơn thánh. Sự sống đó làm cho chúng ta trở nên nghĩa thiết với Chúa, nên con ngoan thảo yêu dấu của Chúa và đáng được Chúa cho hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trong tình yêu muôn thuở.
III. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC SỐNG THẬT
Để đáng được sự sống chân thật, sự sống siêu mhiên, chúng ta cần phải chết đi cho tội lỗi, chết cho các tính mê nết xấu và sống cho Chúa Kitô, sống trong ơn nghĩa thánh của Người, được hiệp nhất nên một với Người trong sự thánh thiện. Khi đó chúng ta thoát khỏi vòng nô lệ thú tính tự nhiên và quyền lực Satan hỏa ngục, cho chúng ta được hưởng niềm an bình hạnh phúc trong tâm hồn, là thứ hạnh phúc chân thật mà chỉ có những người con ngoan thảo của Chúa, mới được nếm hưởng ngay khi còn sống nơi trần gian này.
Chính Chúa đã phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và kẻ nào đang sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời”. Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Đức Kitô ở trong anh chị em thì dù thân xác anh chị em có chết, thì linh hồn anh chị em cũng vẫn sống luôn mãi”.
Kết Luận
Cuộc đời chúng ta sẽ mất ý nghĩa, mất an bình hạnh phúc, nếu lương tâm chúng ta bị dầy vò bởi tội lỗi, tâm hồn chúng ta bị nặng trĩu vì bị ràng buộc và nô lệ bởi các tính mê tật xấu, bởi tội lỗi, khiến cho đời sống chúng ta phải rối loạn, mất bình an thư thái, dù bên ngoài chúng ta có sống trong giầu sang phú quí, quyền cao chức trọng, đầy đủ tiện nghi thế nào đi nữa.
Vậy để cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị và hạnh phúc thật, chúng ta hãy sống với lương tâm luôn trong sạch, không vấn vương tội lỗi, không nô lệ thú tính. Chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc thật ngay cả khi chúng ta gặp bất trắc nghịch cảnh, phải nghèo nàn thiếu thốn. Vì được Chúa luôn ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người. Khi tâm hồn chúng ta có Chúa ẩn ngự, chiếm hữu được Chúa là chúng ta được hạnh phúc, và chỉ có Chúa mới là hạnh phúc chân thật làm thỏa mãn mọi khát vọng của chúng ta.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta chỉ chuyên lo làm hài Chúa như Mẹ, luôn sống cho Chúa như Mẹ, sống vì Chúa như Mẹ, để chính Chúa nên sự sống chân thật và hạnh phúc của chúng ta.

22. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lời Chúa trong Thánh Lễ hôm nay thực sự là điểm quy chiếu cần thiết cho đời sống mỗi ngày trong một thời đại mà con người hầu như đã bị lạc lõng giữa muôn vàn giá trị. Chúng ta thử mường tượng khi lần đầu tiên bước vào một siêu thị, một hình ảnh của thế giới hiện đại, chúng ta thực sự bị hoa mắt, và bối rối biết bao?
Cuộc sống hôm nay với nền kinh tế thị trường, người ta quen dần với những khái niệm hàng hiệu, hàng nhái, hàng chất lượng cao… nhưng tất cả còn tùy thuộc khả năng tiếp thị: từ những thông tin, từ mẫu mã bao bì, từ cách tiếp cận. Nhưng vấn đề lớn hơn vẫn là sức mạnh của đồng tiền đã mở thông mọi cánh cửa cho cuộc sống, để rồi nó chế ngự mọi cách suy nghĩ, thậm chí còn là thước đo khả năng một con người, một tập thể. Nếu như còn một nhân tố đối trọng nào khác, có khả năng chi phối đồng tiền và sức mạnh của nó, thì có lẽ trong thực tế chỉ còn là bộ máy cơ cấu tổ chức xã hội. Đó là tất cả lối sống và làm việc của con người hôm nay. Trong cuộc sống này, ai ai cũng có thể thấy rằng thị trường và bộ máy cơ cấu thực ra mãi mãi là một biến động không ngừng, và nhiều khi đi từ thái cực này qua thái cực khác. Chính vì vậy, con người luôn bị giao động bất an. Càng làm lớn, càng phải lo sợ nhiều.
“Anh em đừng sợ” Chúa Giêsu nói với các Kitô hữu như thế. Lời mời gọi kèm theo một cách nhìn khác về cuộc sống: “những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Theo đó “kinh tế thị trường” có thể “giết được thân xác” với những quy luật phi nhân của nó. Và “kinh tế thị trường” tuy “không giết được linh hồn”, nhưng trong thực tế của con người sau tội nguyên tổ, thì nó có thể giam hãm con người trong vòng tội lụy. Thánh Phaolô đã đặc biệt có những suy nghĩ về vấn đề này trong đoạn thư Roma hôm nay “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết…” Chúng ta có thể thấy muôn vàn hệ lụy trong xã hội hôm nay: với thời mở cửa, thì cũng là lúc những tệ nạn xã hội: tham nhũng, hối lộ, đầu cơ trục lợi, lũng đoạn thị trường với những sản phẩm nhằm khích động bạo lực, dâm ô, xì ke, ma túy…làm tan nát nền móng đạo đức xã hội là gia đình. Người ta thừa nhận là hợp pháp việc “ly dị”, “hôn nhân thử”, “phá thai”, “ngừa thai”… Hậu quả là xã hội bất ổn, con người càng ngày càng sống trong lo sợ hãi hùng, và nhất là giới thiếu nhi, bị khuôn đúc thành “sản phẩm phục vụ lợi ích kinh tế”, không còn cơ hội đạt tới mức tự do tâm linh vốn là giá trị cao cả tối thượng của một con người. Đứng trước tình trạng ấy, sự khủng hoảng như một định kỳ không thể tránh, đã xảy ra trong mọi xã hội, cách riêng ở những xã hội phát triển cao, gây nên những đổ vỡ không lường.
Đức Giêsu không dừng lại ở mức độ một lời mời gọi, Ngài thúc bách môn đệ “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Đó là phương thuốc duy nhất có thể tái lập lại trật tự cho xã hội, cho nhân loại. Thánh Phaolô đã đón nhận lệnh truyền này một cách đặc biệt, mà theo Ngài thì tất cả những gì môn đệ đã nghe biết tựu trung chính là Con Người Đức Giêsu Kitô vì “nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Chính vì thế “tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ” chính là nhiệm vụ và vinh dự của người môn đệ.
Có nhiều cách để tham gia vào sứ vụ loan báo Đức Kitô, nhưng cách thế căn bản nhất cho hết mọi người vẫn là một cuộc sống thể hiện niềm tin vào sự quan phòng yêu thương của Chúa Cha như chính Đức Giêsu. Nếp sống ấy đã được các tiên tri đặc biệt rao giảng, nhiều khi bằng chính đời sống của các Ngài, như trường hợp của tiên tri Giêrêmia làm chứng. Và cũng vì thế truyền thống vẫn nhìn nhận Giêrêmia như là hình ảnh loan báo Đức Kitô.

23. Các con đừng sợ
Đâu là những nỗi sợ của chúng ta? Đứng trước những lời “Các con đừng sợ, hãy sợ, chớ sợ” của bài học ngày hôm nay, làm sao không nghĩ đến những người anh em của chúng ta đang sống tại các nước độc tài hoặc tại Châu Mỹ La tinh đang bị đe dọa và bách hại? Hiện nay có nhiều vị tử đạo hơn là vào thời kỳ đầu của Giáo hội. Đây là một điều người ta cố quên tại những nước mà việc tỏ ra mình là người Kitô hữu không nguy hiểm bao nhiêu. Trước hết bài suy niệm của chúng ta phải hướng về những người có lý do để hết sức sợ hãi, và về những người có thể chế ngự nỗi sợ của mình, đó là những người rao giảng Tin Mừng một cách anh hùng.
Nhưng trong khi cầu nguyện cho những người anh em bị bách hại của chúng ta và trong khi ngưỡng mộ họ, chúng ta đừng từ chối một câu hỏi có thể là khó chịu: ‘tôi có sợ hãi không?’
Đây không phải là những nỗi sợ của “cá nhân” của chúng ta: sợ đau khổ, sợ già hoặc sợ bom hạt nhân. Tin Mừng nói về những nỗi sợ trước điều mà đức tin đòi hỏi: sợ di luỵ đến bản thân, sợ dấn thân trong việc dạy giáo lý hoặc trong việc tông đồ khó khăn, sợ mất thời giờ, tiền bạc hay có lẽ linh hồn của mình vào đó. Khi Matthêu viết những câu vừa đen tối vừa làm hứng khởi này, Giáo hội của ngài đã nếm trải đủ loại khó khăn ở bên trong và những bách hại ở bên ngoài. Ba ngọn cờ ngài giương lên rất cao, nếu cần, sẽ làm cho chúng ta can đảm.
Sự khuyến khích đầu tiên: các con đừng sợ rao giảng Tin Mừng. Trong cuộc sống công khai của mình, Chúa Giêsu không thể mạc khải tất cả. Người ta không hiểu đó là cái gì và sứ điệp của Ngài tiến triển trong bóng tối. Nhưng đã có lễ Phục sinh và lễ Hiện xuống. Những người sợ hãi của ngày thứ sáu tuần thánh đã trở thành những người linh hoạt các đám đông. Không có lời mời gọi can đảm nào mạnh mẽ cho bằng bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ. Chúng ta phải thường xuyên đi vào trong bầu không khí xác tín và can đảm của các Kitô hữu đầu tiên. Một sự sợ hãi kỳ lạ đã xâm chiếm chúng ta kể từ công đồng Vatican II, đó là sợ trở thành những kẻ “háo thắng”. Chắc chắn phải tìm lại sự đơn sơ và sự kín đáo, nhưng không phải để đắm chìm trong một Kitô giáo toàn những người câm. Giữa các tiếng la của thế giới, chúng ta phải nghe tiếng la của Tin Mừng: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng giữa ban ngày, trên mái nhà!”. Đó là một cuộc chiến tôn trọng con người. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ đứng trước những kẻ tra tấn cương quyết bắt chúng ta chà đạp Thánh giá, nhưng khi chúng ta bị cám dỗ xấu hổ vì Chúa Kitô tại nơi làm việc chẳng hạn, thì ước gì lời cảnh báo của Ngài làm cho chúng ta trấn tỉnh đúng lúc: “Nếu các con nói về Thầy, Thầy cũng sẽ nói về các con; nếu các con chối Thầy, Thầy cũng sẽ chối các con”.
Sự khuyến khích thứ hai đối với những người anh em chúng ta bị đe doạ tra tấn và chết chóc: “Các con đừng sợ những kẻ giết hại thân xác các con, các con hãy sợ Đấng có thể giết chết linh hồn các con”. Đây là một nguyên tắc quan trọng và sáng chói để phân biệt giữa những nỗi sợ tốt và những nỗi sợ xấu. Cuối cùng chỉ có một điều cần phải sợ mà thôi, đó là người ta giật chúng ta ra khỏi Chúa Kitô, giật chúng ta ra khỏi sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Nhưng các bạn đã biết tiếng la chiến thắng chống lại mọi nỗi sợ hãi này rồi: “Nếu Thiên Chúa thân với ta, ai dám nghịch với ta?” (Rm 8,31). Không bị đe doạ lắm, có lẽ chúng ta cần phải xác minh những nỗi sợ hãi của chúng ta: chúng ta có sợ nhất những gì và những người có thể làm suy yếu đức tin của chúng ta hay không?
Sự khuyến khích thứ ba: chúng ta có một người Cha trên trời, Chúa Giêsu nói điều đó với những ẩn dụ dí dỏm Ngài dùng để truyền đạt một chân lý quan trọng: “Không có con chim sẻ đáng giá một xu nào rơi xuống đất mà không ngoài ý Cha các con trên trời, tóc trên đầu các con Ngài cũng đã đếm hết”.
Tốt hơn là người ta có thể nói đến sự quan phòng hay không? Đây không phải là sự siêu tổ chức của một Thiên Chúa có bộ óc điện toán. Đây là sự quan tâm chú ý của một người Cha nói với chúng ta qua Con của Ngài: “Con biết, đối với Ta Con đáng giá hơn tất cả các con chim sẻ trên thế giới này”.

24. Để giúp nhau đừng sợ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trong những lời khuyên bảo của Chúa Kitô dành cho các môn đệ, trong thời gian ba năm rao giảng Tin Mừng lẫn sau khi từ cõi chết phục sinh, đó là “anh em đừng sợ!”. Bài Tin Mừng Chúa Nhật 12 Thường Niên A một lần nữa cho ta nghe sứ điệp này. Hẳn không là vô cớ khi Chúa Kitô thường lặp đi lặp lại sứ điệp ấy: Đừng sợ! Là con người, chúng ta khó tránh nhiều nổi sợ hãi, có nguyên nhân cũng nhiều mà vô cớ cũng không thiếu: sợ đói, sợ khát, sợ khổ, sợ thất bại, sợ thiên tai, sợ dịch bệnh, sợ gặp phải những điều xúi quẩy, không may… Phúc bất trùng lai mà họa vô đơn chí. Chính vì thế người ta thường hành xử kiểu khôn ngoan, tìm sự an toàn bằng cách không kiêng thì cũng dè. Những hình thức kiêng cử, úy kỵ trong dân gian là một minh chứng về nổi sợ hãi ít nhiều đã và đang hiển hiện. Là Kitô hữu, chúng ta có thoát ra ngoài cái vòng lẩn quẩn của sự bất an ấy không? Là Kitô hữu, hy vọng rằng ít có ai để cho nhiều nổi sợ hãi “vu vơ” khiến mình dây vào những chuyện mê tín. Tuy nhiên thử hỏi có ai dám vổ ngực xưng mình không hề sợ hãi bất cứ điều gì. Có nhiều nổi sợ như sợ đói, sợ khổ, sợ chết… mang tính tự nhiên dễ chấp nhận với kiếp nhân sinh. Tuy nhiên có những nổi sợ thiếu chính đáng cần loại bỏ. Được gợi ý từ ba bài đọc Lời Chúa ngày Chúa Nhật XII TN A, xin được chia sẽ một vài nổi sợ mà ta phải biết nói “không”hay là“ đừng sợ!”.
1. Đừng sợ sống trong sự thật: Xét về bình diện hữu thể, thì chỉ có một “sự thật” duy nhất đúng nghĩa đó là Đấng “có sao, có vậy” (Xh 3,14). Tất cả mọi sự hiện hữu khác khi chúng hiện hữu như chúng là, thì chúng chỉ tham gia hay thông phần vào “sự thật viên mãn” là chính Đấng sáng tạo. Xét về phưong diện luận lý hay tư duy thì sự thật là sự phù hợp giữa nhận thức với thực tại khách quan. Trên bình diện này thì nhận thức của “chiếc bình gốm” quả là có nhiều hạn chế về cả chính nó, đừng nói gì đến các chiếc bình khác hay đến người thợ gốm. Duy chỉ người thợ gốm mới hiểu rõ sản phẩm do mình làm nên.
Không sợ sai lầm khi khẳng định rằng duy chỉ có Thiên Chúa mới là sự thật viên mãn. Vì thế khi ở trong sự thật là ta đang ở trong Thiên Chúa, Đấng chăm sóc chúng ta từ đường đi nước bước đến cả số phận của từng sợi tóc trên đầu chúng ta (x.Mt 10,30). Xác tín được điều này thì lẽ nào ta lại sợ sống trong sự thật.
2. Đừng sợ đón nhận sự thật: Sự thật thì dễ mất lòng nhưng sự thật lại giải phóng chúng ta. Có nhiều khi ta biết sự thật nhưng không muốn đón nhận. Vì sự thật thường đòi hỏi ta phải thay đổi, thay đổi cái nhìn, thay đổi lối sống, đặc biệt khi sự thật lại đến từ những con người vai vế nhỏ hơn ta, chức vụ kém hơn ta. Hơn nữa, khi sự thật đòi hỏi ta phải từ bỏ một kiểu sống, một mối quan hệ hay một mối lợi nào đó. Có thể chần chừ, có thể lần lữa một thời gian, nhưng rồi sẽ có lúc ta phải trực diện với sự thật đó là lúc ta phải giả từ trần thế này.
Một trong những sự thật ta cần đón nhận đó là sự hiện hữu của tội và đầu mối của nó là thần dữ. Tội lỗi ở trong ta, ở giữa chúng ta. Thần dữ luôn rảo quanh ta như “sư tử rình mồi chờ cắn xé” (1P 5,8). Tuy nhiên Thánh Phaolô khẳng định: ở đâu tội lỗi càng lan tràn thì ở đó ân sủng càng chan chứa. Vì sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa qua công trình cứu độ của Đức Kitô (x. Rm 5,15). Đón nhận sự thật này thì thái độ của Kitô hữu chúng ta là sẽ không bi quan yếm thế và cũng không chểnh mảng coi thường nhưng sẽ luôn cẩn trong trong niềm hy vọng.
3. Đừng sợ công bố sự thật: “ Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không só gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27). Khi nói lên một sự thật là ta đã mặc nhiên nhìn nhận đồng thời đón nhận sự thật ấy. Và khi đã can đảm nói lên sự thật thì ta cũng đã chấp nhận nhữung hệ quả kéo theo. Ngôn sứ Giêrêmia là một trong những ngôn sứ cảm nhận điều này. Dù được đặt cho biệt danh “ Lão tứ phía kinh hoàng”, Giêrêmia vẫn trung kiên nói lời Chúa dạy. Giêrêmia đã phải gánh bao truân chuyên khốn khó vì đã công bố sự thật. Số phận của Vị Ngôn sứ trên các ngôn sứ là Đức Kitô còn bi thảm gấp bội. “Để làm chứng cho sự thật” (x.Ga 18,37), Đức Kitô đã phải gánh lấy án hình thập giá đau thương.
Cớ sao, đôi khi, đôi lần chúng ta ngại ngần nói lên sự thật? Dĩ nhiên là phải loại bỏ việc “không được nói” những gì theo luật dạy như những sự việc mang tính bí mật an ninh quốc gia, như bí mật tòa cáo giải, bí mật chuyện lương tâm cá nhân… hay “được nói không” tức là từ chối nói sự thật khi gây phương hại đến đức ái… Tuy nhiên, cần thú nhận rằng vẫn có không ít trường hợp “nói không được”, tức là không dám nói sự thật vì những nguyên cớ thiếu trong sáng và thậm chí là mờ ám, đen tối. Chúa Kitô đã tự xưng Người chính là Sự Thật (x.Ga 14,6). Và chúng ta đừng quên Người đã minh nhiên khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thẩy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta, ai ai cũng dẫy đầy lầm lỗi với kiếp người “đa thọ đa nhục”, càng sống lâu càng nhiều tội lỗi. Một trong những chiêu bài của thần dữ và những người xấu, những thế lực đen tối, để kìm giữ con người trong sự nô lệ, đó là gieo rắc nổi sợ hãi bằng nhiều hình thức. Một vài hình thức thông dụng chúng thường dùng đó là trấn áp, lên án, kết án, loại trừ… Nếu như chúng ta tích cực cộng tác với ơn Chúa dệt xây một môi sinh ắp đầy tình khoan dung, sự tha thứ, ắp đầy tình yêu thương đón nhận nhau, thì chắc chắn ta đã giúp cho tha nhân và cả chính bản thân mình, thêm can đảm ở trong sự thật, đón nhận sự thật và loan báo sự thật. Chính lúc này vương quốc Nước Trời đang trị đến, một vương quốc không hề có bóng dáng của sự sợ hãi.

25. ”Đừng Sợ” – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trên đời này có rất nhiều cái sợ: sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết.Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn dù không vẫn bị bủa vây bởi trăm ngàn mối hiểm nguy. Thấy rõ điều đó, nên khi dạy dỗ cho các môn đệ, Chúa Giêsu cho thấy con đường theo Chúa là gian khổ,là vất vả, nhưng vượt thắng khó khăn thử thách thì mới đạt được vinh quang. “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo”. Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn. Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang nhờ niềm tin và hy vọng “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế (Ga 14, 18). Trong đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm.
– Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy.
– Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
– Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh.hồn. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Lời căn dặn “Đừng sợ” của Chúa Giêsu đã trở thành sức mạnh cho Giáo hội. Hai mươi thế kỷ sau, Thánh Gioan Phaolô II, trong ngày đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội đã lập lại lời Thầy Chí Thánh: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, Đức Gioan Phaolô II không ngừng lặp lại với cả Giáo Hội và cả thế giới rằng “Đừng sợ!”.
Sống trong thời nhiễu nhương, có nhiều biến động tại Ba Lan và Đông Âu; cuộc đời nếm trải bao nhiêu thăng trầm dâu bể để có thể sống, học hành, rồi làm chủng sinh, linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng; Đức Gioan Phaolô II trải nghiệm qua những thách thức của nghịch cảnh, của khổ đau. Lập lại lời Chúa Giêsu, Ngài muốn nói lên tinh thần bất khuất, hiên ngang để trung thành với giáo lý Chúa Kitô, bảo vệ kỷ cương của Giáo Hội.
Đức Bênêđictô XVI tiếp nối đường hướng Đức Gioan Phaolô II, trong ngày lên ngôi giáo hoàng, ngài đã thắp lên lời hy vọng: “Hãy tiến lên phía trước”. Lý do để “tiến lên” là bởi có Chúa ở cùng. Nếu một phần tư thế kỷ trước là “Đừng sợ”, thì một phần tư thế kỷ sau lại là: “Hãy tiến lên phía trước, Thiên Chúa sẽ giúp đỡ chúng ta. Mẹ Chí Thánh của Người ở ngay bên cạnh chúng ta…”.
Đức Thánh Cha Phanxicô sau khi được bầu làm Giáo Hoàng vào ngày 13-3-2013, Ngài đã là cho nhiều người phải ngạc nhiên vì những hành động và các lời phát biểu của Ngài như là vị cha chung hiền lành và khiêm nhường. Nhiều lần ngài cũng dùng kiểu nói “đừng sợ”. “Rao giảng Tin Mừng là đích thân làm chứng về tình yêu Thiên Chúa, là vượt thắng sự ích kỷ của chúng ta, là phục vụ bằng cách cúi mình xuống rửa chân cho anh em chúng ta như Chúa Giêsu đã làm…Các con hãy ra đi, không sợ hãi, để phục vụ. Khi sống theo 3 điều này, các con sẽ cảm nghiệm được rằng người rao giảng Tin Mừng thì cũng được trở nên Tin Mừng. Ai thông truyền niềm vui đức tin, thì cũng nhận được niềm vui…Mang Tin Mừng là mang sức mạnh của Thiên Chúa để nhổ bỏ và phá hủy sự ác và bạo lực; để phá tan và đạp đổ những hàng rào ích kỷ, không bao dung và oán thù. Để kiến tạo một thế giới mới, Chúa Giêsu Kitô hy vọng nơi các bạn!..Đức tin hay đức cậy hoặc đức mến dĩ nhiên phải lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Điều này đồng nghĩa với giáo huấn “Hãy mặc lấy Đức Kitô”, đặt niềm tin nơi Người, chứ không ở nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực.”
Nội dung lời phát biểu của các nhà lãnh đạo lớn của Giáo Hội chính là lời của đức tin và là lời của hy vọng.
Tin yêu và hy vọng sẽ lướt thắng mọi sợ hãi. Chúa Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên “đừng sợ”.
1. Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
“Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”; “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, luôn tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình. Người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp con người nhận ra rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Chúa Giêsu khuyên: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ dại ngờ nhất.
2. Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
Con người – nhất là người Kitô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một đồng”, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa”. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, con người quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”!
Tình yêu giải phóng con người khỏi sợ hãi. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1Ga 4,18). Tình yêu giúp chúng ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của chúng ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà biết bao người dám chấp nhận tất cả cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che. Chúa Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Con người quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi” (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
3. Tin yêu và hy vọng
Trước nguy hiểm và thử thách, ai mà không sợ hãi. Chỉ có tin yêu và hy vọng mới giúp chúng ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Gian truân vẫn có thể xảy ra nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta trung thành với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22); “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17); “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). (NCK).
Nhờ tin yêu và hy vọng nên không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Kitô, dù cho đó là “gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác” (Rm 8, 35-39).Chính tình yêu Thiên Chúa cuốn hút con tim và làm cho người môn đệ “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ”, sống tương quan thiết thân với Người trong mọi nơi mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.

26. Sự hăm dọa gây ra sợ hãi
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công giáo của chúng ta.
Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ sự hăm doạ. Đó là một loại sợ hãi mà nó có liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe doạ bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia đã tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ (điều này đã xảy ta vào năm 587 BC).
Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chình những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ giao ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêtêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này mà thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở El Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người đã dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội của chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sức mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: “Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiếp tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con”.

27. Làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài sách tiên tri Giê-rê-mi-a hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Ông đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Ông bị xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, tiên tri Giê-rê-mi-a đã phải sống trước nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời. Tuy nhiên có một điều làm ta hết sức khâm phục vị ngôn sứ, đó là trong mỗi hoàn cảnh khó khăn như vậy, bao giờ ngài cũng hướng về Thiên Chúa, cầu khẩn Người thương che chở giữ gìn. Đáp lại, Thiên Chúa an ủi nâng đỡ ngài và thêm sức mạnh để ngài tiếp tục thi hành sứ vụ.
Bí tích Rửa tội cho Ki-tô hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Ki-tô, để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Trong sứ vụ ấy, chắc chắn chúng ta phải chấp nhận những thiệt thòi bách hại vì chúng ta là môn đệ Chúa. Nhưng tình yêu của Chúa là khí giới để chúng ta đối phó với nghịch cảnh và được can đảm để tiếp tục sống những gì Chúa Ki-tô dạy ta. Kẻ thù của ngôn sứ Giê-rê-mi-a tưởng ngài khiếp sợ trước những tấn công dồn dập nhưng ngôn sứ lại vững như đồng bởi vì “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng”. Thiên Chúa bênh đỡ vị ngôn sứ của Người là Giê-rê-mi-a thế nào thì Người cũng bênh đỡ chúng ta như vậy. Giê-rê-mi-a bị kẻ thù bách hại và được Thiên Chúa cứu thoát. Nhân loại bị tội lỗi làm cho phải chết và nhưng được Thiên Chúa cứu sống. Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Phao-lô Tông đồ nói: “Sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người”.
Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa lớn lao như vậy qua Chúa Giêsu Kitô. Cho nên, Chúa Giêsu khuyên “đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn”, vì chúng ta có Chúa là Đấng “có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Người sẽ bênh vực chúng ta vì chúng ta có một giá trị độc đáo đối với Người. Đến như những sinh vật nhỏ bé không giá trị như chim sẻ mà Chúa còn lo lắng cho chúng, thì đời nào Người lại bỏ rơi linh hồn chúng ta trong khi chúng ta có giá trị hơn chim sẻ trăm ngàn lần. Chẳng lẽ Chúa chăm sóc từng sợi tóc của chúng ta mà lại để kẻ thù cướp mất linh hồn ta. Chính Chúa Giê-su đã sống điều Người dạy. Người không sợ rao giảng Tin Mừng. Người không sợ nói lên những sai lầm của nhóm Pha-ri-sêu và kinh sư. Người không sợ những người có thể giết Người bằng cách lên án bất công và đóng đinh Người vào thập giá. Người chỉ kính sợ duy một mình Thiên Chúa Cha, Đấng có quyền trên sự sống xác hồn và cho Người được sống lại từ cõi chết.
Hôm nay, Chúa Giêsu ba lần trấn an các môn đệ đừng sợ: 1) Đừng sợ rao giảng lời chân lý vì Tin Mừng cần được công bố cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi thời; 2) Đừng sợ bị bách hại, đe dọa khi thi hành sứ vụ, vì tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa luôn ở cùng người được sai đi; và 3) Đừng sợ khi tuyên xưng Danh Thầy, vì lòng tín nghĩa sẽ được đền đáp. Tựa như Giê-rê- mi-a, vị ngôn sứ không hề nao núng trước những tai họa và bất công, chúng ta cũng được mời gọi đừng sợ sống làm chứng cho Chúa trong hoàn cảnh hiện tại. Hôm nay cũng thế, tội ác và tội lỗi tràn ngập thế gian, nhưng chúng ta có Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tái tạo ân sủng và nói cho ta biết: Thiên Chúa không bỏ ta mồ côi, nhưng đồng hành với chúng ta, mời gọi chúng ta tín thác nơi lòng từ bi và ân nghĩa của Ngài.
Bản chất con người thường sợ nguy hiểm, cho nên nhiều lúc không dám lộ ra căn tính đích thực là Kitô hữu. Chúng ta là Ki-tô hữu, là môn đệ Chúa Ki-tô, muốn làm chứng nhân của Chúa, chúng ta cần xác tín rằng bên ta luôn có Thiên Chúa hiện diện để bênh vực ta và giúp đỡ ta thi hành sứ mệnh chứng nhân. Noi gương Chúa Giê-su đã làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, ta cũng can đảm làm chứng cho những giá trị Tin Mừng bằng cách sống chính những giá trị ấy qua tư tưởng, lời nói cũng như hành động của ta trong cuộc sống thường ngày. Cụ thể, nếu sinh ra đời hay mỗi mai thức dậy sáng nay, chúng ta được thân hình lành lặn, khỏe mạnh, bình an, được sống tự do, không phải mang bệnh tật nào hay nằm trong phòng cấp cứu, thì chúng ta cần phải cảm tạ ơn Chúa đồng thời đừng sợ làm chứng tình yêu của Ngài qua việc phụng thờ Ngài và loan truyền quyền năng của Ngài. Hay nếu chúng ta sinh ra có cha có mẹ và ba mẹ của chúng ta vẫn còn sống, thì chúng ta còn may mắn hơn những người khác vì họ vẫn còn sống chung với chúng ta, vẫn thương yêu, săn sóc chúng ta. Như thế, chúng ta phải cảm tạ Chúa và làm chứng cho Chúa bằng việc phải thương yêu, chăm sóc các ngài tinh thần cũng như vật chất nhất là vâng lời các ngài. Nếu chúng ta chưa từng cảm nhận sự nguy hiểm ngồi mặt trận, sự cô đơn trong nhà tù, sự đau đớn khi bị tra tấn, cảnh nhục nhã, trốn tránh, sự đói ăn khát uống, cảnh sống lang thang vô gia cư… thì chúng ta cảm tạ Chúa vì chúng ta hạnh phúc hơn mấy trăm triệu người trên thế giới, đồng thời phải làm chứng cho Chúa bằng việc cầu nguyện, giúp đỡ, ủi an và chia sẻ vật chất cho họ. Và nếu bây giờ chúng ta đang gặp đau khổ về tinh thần cũng như vật chất, chúng ta đừng sợ “nghịch cảnh” ấy, vì đó là một hiện tượng rất gần gũi với con người trực tiếp hoặc gián tiếp dù người đó giàu, nghèo, chức quyền, thường dân, giáo sĩ hay giáo dân, bác sĩ hay bệnh nhân… Nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đâu khổ chúng ta không sợ. Nói rằng đau khổ làm sao mà không buồn, không khổ, không sợ sao được? Tôi đã từng thắc mắc như nhưng sau khi gặp đau khổ, tôi nghiệm ra rằng lúc mình gặp nghịch cảnh là cơ hội để nghiệm thấy quyền năng của Chúa, cần tin tưởng phó thác vào Chúa và Chúa sẽ ban cho ta giàu nghị lực, ý chí để vươn lên trong mọi nghịch cảnh. Vì chưng, Chúa nói: “ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức tin”. Trong hành trình sống đạo, hẳn không thiếu những nghịch cảnh. Tuy nhiên, khi đối diện với chúng, mỗi người chúng ta hãy kiên trì và trung thành với ơn gọi mà mình đã khám phá và cảm nghiệm được quyền năng của Chúa. Mỗi khi khó khăn thử thách đến với chúng ta, đừng sợ nhưng hãy trung thành đến cùng. Xin hãy nhớ rằng những điều tốt đẹp ngày hơm nay là kết quả của những thử thách ngày hôm qua. Vì thế, Đức Hồng Y Phanxicơ Xavie Nguyễn Văn Thuận của chúng ta: ” ‘Khổ’. Đúng vậy. Thương khó, bỏ dễ. Khó mới quí, bỏ là quỉ” (ĐHV, số 60).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhờ thế đức tin của Chúa ta mỗi ngày một vững mạnh và sắt son. Vì thế, đừng sợ trước những nghịch cảnh của cuộc đời, chúng ta hãy vui lòng vác Thánh giá theo chân Chúa. « Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin chúng ta đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Vì vậy, chúng ta được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người » (1Pr 1,7-9). Amen.

28. Chúa Nhật 12 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả Thiên Chúa phải chu toàn, dù họ là những ngôn sứ, tông đồ, nhà truyền giáo hay đơn giản là những môn đệ. Không được im lặng, hãy làm chứng và đừng bao giờ sợ hãi. Thiên Chúa ở cùng họ.
Gr 20: 10-13
Bài Đọc I trích dẫn “Lời Trần Tình” cuối cùng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Trong hoàn cảnh bị bách hại, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kêu cầu cùng Thiên Chúa, phó thác cho Ngài sứ mạng của mình và hát lên niềm vui của mình.
Rm 5: 12-15
Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Phần trích dẫn hôm nay gợi lên phản đề của triều đại ân sủng được Đức Giê-su thiết lập, phá hủy sự thống trị của cái chết và tội lỗi kể từ nguyên tổ A-đam.
Mt 10: 26-33
Tin Mừng trích dẫn “diễn từ về sứ vụ” của Đức Giê-su trong đó thánh Mát-thêu tập hợp những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài nhắm đến sứ mạng tương lai của họ: nói công khai và không sợ hãi, luôn luôn tuyên xưng Ngài là Chúa bất chấp những bách hại.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 10-13)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một ngôn sứ hấp dẫn nhất trong truyền thống ngôn sứ. Ông thi hành sứ mạng của mình ở Giê-ru-sa-lem vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn, nghĩa là vào thời kỳ bi thảm đặc biệt đối với quê hương ông: thời kỳ vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong, kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thánh bị quân Ba-by-lon tàn phá (598-587 tCn).
Vốn bản tính hiền hòa không muốn làm mất lòng ai, một tâm hồn rất đa cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận sứ mạng loan báo những tai họa, công bố những sứ điệp ngược lại với những viễn kiến của mọi người. Ông có sức mạnh rao giảng ăn năn sám hối cho các vị lãnh đạo và dân chúng, những người này cứng lòng tin không chịu nghe ông.
Trong tác phẩm của mình, thỉnh thoảng ông bày tỏ những phàn nàn, những xao xuyến, thậm chí những nghi ngờ nữa. Những lời trần tình tản mạn được các nhà biên soạn tập hợp lại dưới nhan đề: “Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” (11: 18-23; 12: 1-6; 15: 10 và 20; 17: 14-18; 18: 18-23; 20: 7-18). Vào Chúa Nhật này, chúng ta đọc Lời Trần Tình sau cùng.
1. Đơn độc một mình
Vào thời kỳ thế lực Át-sua hoàn toàn suy yếu, ấy vậy Giê-rê-mi-a lại loan báo những cuộc tấn công gây tang tóc từ phía một kẻ thù lân bang. Tuy nhiên, những lời loan báo của ông chẳng được ai quan tâm.
Khi Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so xâm chiếm vào 598 tCn, và một phần dân cư bị dẫn đi lưu đày, vị ngôn sứ báo trước cuộc lưu đày sẽ dài lâu, nhưng đó sẽ là cuộc thử thách có lợi, phong phú về phương diện tinh thần. Người ta gán cho ông có tinh thần chủ bại.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn báo trước những tàn phá mới càng trầm trọng hơn. Khi người ta đọc cho vua Giê-hô-gia-kim nghe những sấm ngôn của vị ngôn sứ, đọc đến đâu vua xé và ném vào lò lửa. Bằng hành động biểu tượng, ngôn sứ Giê-rê-mi đập vỡ chiếc bình gốm để cảnh tỉnh đồng bào ông đó sẽ là số phận của Giê-ru-sa-lem. Ông trở nên trò cười cho mọi người. Một ngày kia, trong Đền Thờ, ông công bố rằng những tàn phá sẽ sớm xảy đến. Người ta bắt ông, đánh đòn ông, xích ông lại. Một lần khác, người ta ném ông vào một cái giếng cạn đầy bùn.
Dân chúng chán ngấy vị ngôn sứ loan báo tai họa này. Thân nhân của ông, bạn bè của ông, những người đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông:
“Con nghe biết bao người vu cáo:
‘Kìa lão “Tứ phía kinh hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’
Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã.
Họ nói: ‘Biết đâu nó chẳng mắc lừa,
rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó’” (Gr 20: 10).
Ở Giê-ru-sa-lem, có những ngôn sứ khác đồng thời với ông tuyên sấm bình an, nhưng họ không được Đức Chúa ủy quyền. Giê-rê-mi-a biết rằng những lời của ông thì chân thật vì chúng phát xuất từ Thiên Chúa. Ông sống trước những biến cố khủng khiếp mà ông tiên báo và ông cảm thấy một nỗi phiền muộn mênh mông.
2. Thiên Chúa sẽ báo oán cho những phận hèn
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ nương tựa vào một mình Đức Chúa. Vốn là một con người cầu nguyện và nội tâm, ngôn sứ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa. Ông phó thác công việc của ông cho Ngài, vì biết rằng Đức Chúa là Đấng bênh vực những người đơn côi cô thế và phận hèn. Vị ngôn sứ mong ước được thấy đối thủ của ông phải hổ ngươi bẽ mặt:
“Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con
như một trang chiến sĩ oai hùng.
Vì thế những kẻ từng hại con
sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con.
Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề:
đó là nỗi ô nhục không thể nào quên” (Gr 20: 11)
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a diễn tả nhiều lần niềm ước mong này. Nhưng ông không bao giờ có ý định trả thù đối với bất kỳ cá nhân nào. Ông hoàn toàn phó thác vào duy chỉ một mình Thiên Chúa. Thỉnh thoảng ông thôi phàn nàn để cầu bầu cho những kẻ thù của ông.
3. Niềm hoan hỉ
“Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” kết thúc với một tiếng reo vui, tràn đầy niềm tín thác, vì ông tin chắc rằng lời nguyện xin của ông sẽ được nhậm lời:
“Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo” (Gr 20: 13).
Khi thành thánh Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lon đánh chiếm trong cảnh hỗn loạn vào năm 587 tCn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a được nể trọng và không phải bị dẫn đi lưu đày. Trong cảnh tang thương lớn lao của dân tộc ông, từ vị ngôn sứ loan báo tai họa, ông trở thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng. Ông khẳng định rằng không có gì bị mất đi, Thiên Chúa sẽ thiết lập một Giao Ước mới, Giao Ước sẽ được ghi khắc không phải trên bia đá mà trong lòng dạ của con người. Ông tiên cảm một tôn giáo mang chiều kích nội tâm hơn bằng chính cuộc sống của mình.
Sau khi ông qua đời, ảnh hưởng của ông thật lớn lao. Không một tác phẩm ngôn sứ nào được những người lưu đày ở Ba-by-lon đọc đi đọc lại nhiều như tác phẩm của Giê-rê-mi-a. Việc báo ứng mà ông đã từng khẩn nguyện với Thiên Chúa thuộc trật tự tâm linh.
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-15)
Trong chương năm thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô thiết lập tiền đề về ơn cứu độ phổ quát Đức Giê-su đem lại. Ngài là Đấng Cứu Độ của muôn người: không ai có thể được cứu mà không qua Ngài. Mọi người là những tội nhân, vì thế, tất yếu đều phải qua Ngài để được công chính hóa. Thánh nhân ca ngợi Đức Giê-su đích thật là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Trên cõi thế này, không ai có thể nên công chính nếu Đức Giê-su đã không hành động ở nơi người ấy.
Như trong chương trước đó, thánh Phao-lô đã ra sức thiết lập tiền đề của mình khởi đi từ truyền thống Kinh Thánh: tổ phụ Áp-ra-ham được cứu nhờ tin. Ở đây cũng vậy, thánh nhân lại viện dẫn Cựu Ước như phản đề. Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ duy nhất, nhờ chỉ mình Ngài mà ơn cứu độ đã xâm nhập trần gian. A-đam là tội nhân nguyên khởi, qua ông mà tội đã lan tràn đến hết mọi người. Cựu Ước và Tân Ước đối xứng với nhau thật hoàn hảo. Hình ảnh Cựu Ước loan báo được ứng nghiệm trong thế giới Ki-tô giáo. Rõ ràng toàn bộ chương trình cứu độ xuất phát từ chính Thiên Chúa. Tấm màn đen tối của Cựu Ước làm rực sáng lên Đức Ki-tô trong Tân Ước. Dự định của thánh nhân dễ dàng nhận ra: phải lớn tiếng cao rao ơn cứu độ phổ quát nơi Đức Giê-su Ki-tô.
Như vậy, chúng ta phải ghi nhận rằng thánh Phao-lô thiết lập tiền đề thần học của mình ở Rm 5: 12-21. Các câu 5: 1-11 hình thành nên một loại chuyển tiếp giữa tiền đề thần học này và tiền đề thần học trước đó: sự công chính hóa không bởi công nghiệp của Lề Luật nhưng bởi đức tin. Đó là tiền đề mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây.
Bản văn mà Phụng Vụ đề xuất cho chúng ta chỉ là một phần của đề tài mà thánh Phao-lô trình bày. Đề tài phải được đọc trên hậu cảnh mà chúng ta vừa mới gợi lên. Sự hiểu biết của đoạn trích này tùy thuộc vào hậu cảnh này.
Câu 12 bắt đầu một sự đối chiếu vĩ đại nhằm diễn tả tiền đề của thánh Phao-lô, vì thế thống trị toàn bộ bản văn và sẽ được nối tiếp chỉ ở câu 18. Hai thành viên của sự đối chiếu được tách riêng ra bởi một loạt những khảo sát thần học, những khảo sát này gặp thấy vài khía cạnh của vấn đề. Tư tưởng của thánh Phao-lô xô đẩy lẫn nhau; cường độ của suy tư vượt lên trên trật tự hợp lý. Trong niềm hưng phấn của cuộc tranh luận, thánh nhân suy nghĩ nhanh hơn là nói.
Để làm sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ trình bày sự đối chiếu theo sơ đồ như sau: vì một người duy nhất, tội lỗi xâm nhập thế gian, và từ đó, tội lỗi gây nên cái chết (5: 12); cũng vậy, vì một người duy nhất, sự công chính hóa đã được thực hiện, và từ đó, ơn công chính hóa này đem lại sự sống (5: 18).
Do từ sự đối chiếu này, bản văn phụng vụ chỉ giữ lại câu 12, vì thế, câu này chưa hoàn tất, thậm chí còn rườm rà phức tạp nữa. Vế thứ nhất của câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên cái chết” nối lại lập luận với điều đi trước: tóm lại, vì xuất hiện trong chức năng cứu độ viên mãn của mình, Đức Giê-su đặt mình trong tư thế đối lập với nguyên tổ A-đam. Vì bất tuân, nguyên tổ A-đam đã đem tội lỗi vào thế gian và hậu quả của nó là sự chết đã gây tác hại ngay tức khắc trên thân phận con người.
Sự chết cô động và tóm gọn tất cả sự dữ trong thế gian. Sự chết tinh thần hệ tại nơi sự đoạn tuyệt giữa con người với Thiên Chúa mà sự chết thể l‎ý xem ra là dấu chỉ rõ ràng nhất. Thánh Phao-lô lập luận trong viễn cảnh Cựu Ước, theo đó có một sự liên kết chặt chẽ giữa tội lỗi và mọi hình thức sự dữ trong thế gian. Con người phải chịu trách nhiệm đưa sự dữ vào trong công trình tạo dựng vốn tốt lành. Con người đã làm hỏng công trình của Thiên Chúa. Suy tư này dẫn chúng ta trực tiếp vào trọng tâm của giáo thuyết về tội nguyên tổ.
Vế thứ hai của câu 12 có thể được hiểu theo hai cách tùy theo cách giải thích của đại từ liên hệ Hy lạp: đại từ này có thể quy chiếu đến số nhiều: “mọi người” hay số ít: “người này” (A-đam) hoặc “sự chết” của vế đi trước đó. Theo cách hiểu thứ nhất: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội”, thánh nhân nhấn mạnh rằng, do tội của chính mình, con người liên đới với tội Ađam. Theo cách hiểu thứ hai: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì A-đam mọi người đã phạm tội”, thánh nhân soi sáng mối liên hệ nhân quả giữa tội A-đam và tội của toàn thể nhân loại, tội của toàn thể nhân loại một cách nào đó chuẩn nhận tội nguyên tổ. Ý nghĩa của câu không thay đổi là mấy nếu đại từ liên hệ được quy chiếu không đến nguyên tổ A-đam nhưng đến sự chết: “Sự chết đã lan tràn tới mọi người vì tình trạng của sự chết (gây ra bởi tội A-đam), mọi người đã phạm tội”. Văn phạm không giúp giải quyết cuộc tranh luận giữa các nhà chú giải. Vả lại, văn phạm không nêu lên vấn đề về ‎ý nghĩa sâu xa của đoạn văn, nó đem đến những dấu nhấn khác nhau trong một sự khẳng định tự căn bản vẫn là như nhau.
Các câu 13-14 nhấn mạnh sự kiện theo đó mọi người đều là tội nhân. Người ta có thể nghĩ rằng những người trước ông Mô-sê đã không bị tội tác hại. Họ đã không biết luật, vì thế họ đã không thể vi phạm luật. Tuy nhiên, phải nhận chân rằng họ cũng chết, cũng bị thống trị và nghiền nát do hậu quả của tội. Vì thế, người ta có thể kết luận rằng chính họ cũng là những tội nhân. Ở phần cuối của câu: “A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” thánh nhân dẫn đưa chúng ta từ hình bóng của Cựu Ước đến thực tại của nó trong Tân Ước.
Phản đề khởi sự ở câu 12 thật sự được khai triển ở câu 15. Đức Ki-tô trổi vượt vô cùng tận trên nguyên tổ A-đam. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi của con người. Nếu như tội lỗi của con người có thể hủy hoại tất cả công trình sáng tạo, thì ân sủng của Thiên Chúa đổi mới thế gian biết chừng nào! Thánh Phao-lô tiếp tục nhấn mạnh sự siêu vượt của Đức Ki-tô trong mối liên hệ với nguyên tổ A-đam ở những câu 16-17 và tiếp đó lấy lại sự đối chiếu còn bỏ lửng ở câu 12.
TIN MỪNG (Mt 10: 26-33)
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ thứ hai của Đức Giê-su được gọi “diễn từ về sứ vụ” (10: 5-42). Thánh Mát-thêu đã kết tập ở đây những lời khuyên bảo và những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài, nhắm đến sứ mạng tương lai của họ.
Đức Giê-su vừa mới phác họa bức tranh tăm tối về những khó khăn mà các Tông Đồ sẽ phải đối đầu: những thù ghét sẽ nổi lên dữ dội chống lại họ như đã chống lại Thầy họ, những lời vu khống mà người ta sẽ cáo tội họ như người ta cáo tội Thầy họ. Nhưng đừng để nỗi sợ hãi làm mình nao núng.
1. Sức mạnh của sứ điệp
Bất chấp thái độ thù địch, các môn đệ đừng sợ, hãy mạnh dạn lớn tiếng công bố giữa thanh thiên bạch nhật sứ điệp mà Ngài đã trao gửi cho họ: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10: 26).
Đức Giê-su giáo huấn chỉ một nhóm nhỏ môn đệ trong chỗ thân tình, còn với đám đông Ngài chỉ dạy bằng dụ ngôn; tuy nhiên, khi thời gian đến “không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Qua cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su sẽ đưa Mặc Khải đến hồi viên mãn. Lúc đó, các môn đệ của Ngài, các thừa tác viên của Lời Ngài, những người phục vụ Lời Ngài, sẽ phải thông truyền Lời Ngài cách công khai cho hết mọi người, công bố lớn tiếng Lời Ngài “trên mái nhà”. Mái nhà, theo kiểu xây nhà của người xứ Pa-lét-tin, là một sân thượng, ở đó vào lúc chiều hôm mát mẻ người ta trò chuyện với nhau từ sân thượng này sang sân thượng khác. Đức Giê-su đối lập Mặc Khải chưa hoàn tất với Mặc Khải nên trọn, cũng như sự nhát đảm hiện nay của nhóm Mười Hai với lời rao giảng đầy quyền năng của họ sau biến cố Ngũ Tuần.
2. Những kẻ bách hại không thể giết được linh hồn.
Các môn đệ sẽ trải qua những nhục hình, đòn vọt, tù đày…, và phần lớn trong số họ được phúc tử đạo. Tuy nhiên, những kẻ bách hại không thể làm gì được trên lương tâm của họ, đức tin của họ, chính trên pháo đài nội tâm này mà tâm hồn của mỗi người hình thành nên. Vì thế, Đức Giê-su khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Chính Thiên Chúa mà các môn đệ phải sợ vì chỉ mình Ngài mới có quyền năng ấn định số phận đời đời của con người. Như vậy, thánh Mát-thêu đối lập sợ hãi con người với sợ hãi Thiên Chúa. Theo nghĩa Kinh Thánh, “sợ hãi Thiên Chúa” dẫn đến một cuộc sống công chính, tránh xa tội lỗi. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô một cách nào đó tóm lược lời nói này: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em.” (1Pr 3: 14-15).
3. Tình phụ tử của Thiên Chúa.
Những lời khuyên bảo của Đức Giê-su được thánh Mát-thêu sưu tập và đặt bên cạnh nhau khiến gây nên những trái ngược. Sau Thiên Chúa là vị Thẩm Phán, lại đến Thiên Chúa là Phụ Tử, Ngài ân cần săn sóc các thụ tạo của Ngài, dù chúng chỉ là những chim sẻ không đáng giá là bao.
Kiểu nói: “Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” được mượn ở Cựu Ước: “Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa” (1Sm 14: 45; x. 2Sm 14: 11; 1V 1: 52), có nghĩa ơn quan phòng của Thiên Chúa.
4. Lời chứng của Chúa Con.
Viễn cảnh của những cuộc bách hại là điểm nhấn của diễn từ về sứ vụ. Giờ đây thánh Mát-thêu gợi lên những nguy cơ chối đạo có thể bất ngờ xảy đến: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Theo lối hành văn đối xứng rất được người Do thái ưa chuộng, lời khẳng định này hàm chứa lời tuyên bố tương tự theo lối phủ định: “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kỹ thuật hành văn này nhấn mạnh lời hứa của Đức Giê-su vào giờ xét xử thời chung cuộc.
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu này có một hậu cảnh bi thảm. Nó loan báo một thời kỳ bách hại dữ dội trong lịch sử. Những kẻ bách hại sẽ bất ngờ xuất hiện rất sớm. Vào năm 36, thánh Tê-pha-nô sẽ mở đầu một danh sách dài của những người tử đạo, tiếp đó thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, vào năm 42. Theo sau những bách đạo của chính quyền Do thái giáo, đến những bách đạo của chính quyền Rô-ma. Bản văn của sách Khải Huyền đã nêu rõ lời bối cảnh này: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2: 10).

29. Tình yêu giúp ta thắng vượt sợ hãi – JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm thấy sợ hãi khi gặp nguy hiểm là điều tốt hay xấu? Tại sao?
2. Trước hai tệ hại – cái lớn cái nhỏ – mà ta không thể tránh cả hai, thì ta nên đón nhận cái nào? Khi chịu cái hại nhỏ để tránh được cái hại lớn, thì ta nên vui lòng đón nhận hay miễn cưỡng chấp nhận?
3. Cái gì khiến cho một người mẹ xông vào đám cháy để cứu con mình? Tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại có thể giúp ta thắng vượt sợ hãi không?
4. Thiên Chúa có quan tâm tới ta khi ta chấp nhận nguy hiểm vì tình yêu Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Biết sợ hãi là một ơn huệ của Thiên Chúa
Một trong những điều rất thông thường thuộc bản năng của con người là biết sợ hãi. Bản năng biết sợ hãi là do Thiên Chúa đặt để ngay trong bản tính con người, nhờ đó con người – và cả loài vật nữa – mới biết tự vệ và tránh được những khó khăn, bất lợi, tai nạn, đau khổ, chết chóc có thể xảy đến với mình. Bản năng biết sợ ấy là điều tốt lành: Thiên Chúa muốn con người biết sợ hãi, và có rất nhiều nỗi sợ hãi là tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi tạo dựng con người. Ngài đã nói với con người: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” (St 2,16-17). Qua câu Thánh Kinh này, ta thấy Thiên Chúa muốn con người biết sợ chết, và việc xa tránh cái chết bằng cách vâng lời Thiên Chúa là một sự khôn ngoan. Trong một số trường hợp nào đó, người không biết sợ có thể là do thiếu trí khôn, thiếu sáng suốt, không nhận ra những nguy hiểm đang xảy đến với mình. Người ta thường dùng từ ngữ “điếc không sợ súng” để chỉ những người này.
2. Phải sợ cái đáng sợ hơn, và chấp nhận cái tệ hại nhỏ hơn
Tuy nhiên giữa những điều tệ hại, có những tệ hại nhỏ hơn và có những tệ hại lớn hơn. Người khôn ngoan là người nhận định chính xác tệ hại nào lớn hơn, tệ hại nào nhỏ hơn. Khi có hai điều tệ hại mà ta không thể tránh được cả hai, thì người khôn ngoan phải biết sợ và tránh điều tệ hại lớn hơn cho dù chưa xảy đến, vì nó gây đau khổ nhiều hơn; đồng thời biết chấp nhận tệ hại nhỏ hơn cho dù nó sẽ xảy ra ngay trước mắt. Thật là ngu xuẩn năm ta tránh tệ hại nhỏ để phải chịu tệ hại lớn hơn.
Tuy nhiên, người có bản lãnh, có trí tuệ, mặc dù biết sợ, nhưng luôn luôn làm chủ được bản năng biết sợ của mình để can đảm chấp nhận những tệ hại nhỏ hơn trước mắt hầu tránh được những tệ hại lớn hơn; hoặc can đảm chấp nhận những tệ hại cho cá nhân mình hầu tránh những tệ hại lớn hơn cho tập thể hay xã hội. Một khi đã nhận thức và chấp nhận điều tệ hại nhỏ hơn, thì ta không còn sợ hãi nó nữa. Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, sẵn sàng tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình… Cũng cần phân biệt: người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra được rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Đức Giêsu khuyên ta: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Nhưng than ôi, biết bao người lại sẵn sàng chấp nhận bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ ngu xuẩn nhất.
3. Tình yêu giải phóng khỏi sợ hãi
Tuy nhiên, chỉ biết so sánh giữa hai tệ hại để tránh tệ hại lớn và chấp nhận tệ hại nhỏ thì có vẻ tính toán quá. Thiên Chúa muốn ta hành động theo sự thúc đẩy của tình thương chứ không chỉ theo sự co cụm của sợ hãi, hay theo sự tính toán hơn thiệt. Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo (1Ga 4,18). Tình yêu giúp ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh một bà mẹ yếu ớt không ngần ngại xông vào căn nhà đang cháy để cứu đứa con của mình đang bị mắc kẹt trong đó là một minh họa sống động nói lên điều ấy. Chính khi thắng được sợ hãi để thể hiện tình yêu, ta mới chứng tỏ được tình yêu ấy là lớn lao và chần thật: “Friend in need, friend indeed” (bạn lúc cùng khốn là bạn thật). Tình yêu – đối với Thiên Chúa và tha nhân – có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu.
Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà ta dám chấp nhận tất cả. Nó giúp ta vượt được những nỗi sợ hãi mà thế gian có thể gây cho ta khi loan báo Tin Mùng, khi làm tông đồ, khi tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương. Càng sẵn sàng chấp nhận đau khổ, sẵn sàng “vác thánh giá” vì yêu thương, ta càng bớt sợ hãi. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm; do đó sở dĩ sợ hãi nhiều là do yêu thương ít.
4. Niềm tin vào sự quan phòng giúp ta bớt sợ hãi
Nhưng không phải là cứ chứng tỏ tình yêu bất chấp nguy hiểm thì chắc chắn ta sẽ gặp phải nguy hiểm và khốn khổ đâu. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che ta. Đức Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng. Chúng ta quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); và “đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài. Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.
5. Đừng quá sợ nguy hiểm khi làm việc cho Thiên Chúa
Khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã báo trước những khó khăn mà các ông sẽ gặp phải: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16); “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,17-18). Nếu Đức Giêsu đã gặp nguy hiểm và bị bách hại, chắc chắn những người tiếp tục sứ mạng của Ngài cũng phải như vậy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là quỉ vương Bendêbun, huống chi là người nhà” (Mt 10,24-25). Nhưng trong bài Tin Mừng này Đức Giêsu đã lập lại 3 lần câu “đừng sợ!” (Mt 10,26.28.31).
Trước nguy hiểm mà đừng sợ sao được? Chỉ có tình yêu và hạnh phúc do tình yêu ấy đem lại mới giúp ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5,11-12). Hoạn nạn vẫn có thể xảy ra để trắc nghiệm niềm tin và lòng trung thành của ta đối với Thiên Chúa: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 10,22). Đau khổ vì Ngài, hay chết vì Ngài không bao giờ là vô ích: “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17). Và “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18).
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin cho con cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Cha dành cho con. Cho con biết đáp lại tình yêu ấy một cách quảng đại bằng sự dấn thân không sợ hãi cho công việc của Cha, cho việc tạo bình an và hạnh phúc cho những người chung quanh con. Xin cho con dám chấp nhận mọi đau khổ có thể xảy đến vì sự dấn thân của con. Chỉ như thế con mới chứng tỏ được tình yêu của con đối với Cha và với mọi người là chân thực.

30. Suy niệm của JKN
CÂU HỎI GỢI Ý:
1) Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu nào đúng hơn?
2) Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống không?
3) Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?
SUY TƯ GỢI Ý:
Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức “vô úy” (không sợ) hay “can đảm” mà người Kitô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giêsu: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”, hoặc hậu quả xấu: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”.
1) Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Kitô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Kitô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Kitô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
– vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
– ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Kitô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Kitô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Kitô giáo “thuốc phiện”, đầy tính ru ngủ… Kitô giáo đó khác hẳn với thứ Kitô giáo do Đức Giêsu thiết lập, một Kitô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giêsu coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9,13); “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật” (Mt 23,23b); “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện thân của Đức Giêsu – cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: “Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng sẽ nói “Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn”… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!” (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải “dám”, phải “vô úy”, “không sợ”, phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức “vô úy” rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
2. Tại sao lại “đừng sợ”?
Đức Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”. Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giêsu nói với ta: “Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…” (Mt 25,41tt). Hoặc “Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…”. Bài Tin Mừng cũng nói: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy”. Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người – nhất là người Kitô hữu – là “con cái Thiên Chúa” (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên “giống như Ngài” (St 1,26), “theo hình ảnh của Ngài” (1,26.27), được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào”, thế mà “không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa”. Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, đến nỗi “tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
3. Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát “một cách có lý” hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Kitô hữu cần năng tự vấn!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con là người nhút nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!

31. Đừng sợ làm nhân chứng cho Đức Kitô
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy làm chứng nhân cho Ngài: “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời” (Mt 26,32).
Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, có ý nghĩa như thế nào?
Chắc chắn không chỉ là việc dùng lời nói, để tuyên bố rằng tôi theo đạo Công Giáo, tôi tin vào Đức Kitô, hay chỉ là đi rao giảng rằng, Ngài là Con Thiên Chúa, đã tử nạn và đã phục sinh. Nhưng chắc chắn và quan trọng hơn là việc sống, sống chứng nhân cho Đức Kitô. Mà sống chứng nhân cho Đức Kitô chính là sống bác ái yêu thương. Chúa Giêsu luôn nhấn mạnh về việc sống Lời Chúa, sống bác ái yêu thương.
Trong bữa ly Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Điều giúp mọi người nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).
Lòng yêu thương mà Ngài dạy luôn bao hàm sự hy sinh, như Ngài nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13).
Chúng ta thường e dè sợ hãi khi sống chứng nhân tình yêu vì sợ mất mát thua thiệt. Do vậy, trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy bảo các môn đệ: “Đừng sợ”, đến ba lần:
– “Anh em đừng sợ người ta” (Mt 10,26);
– “Anh em đừng sợ những kẻ giết chết thân xác” (Mt 10,28);
– “Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,31).
Chính sự sợ hãi đã khiến nhiều người trong chúng ta giữ một thái độ, nguội lạnh, thiếu nhiệt tâm và thiếu quảng đại trong đời sống thường ngày. Ngược lại, chúng ta cần phải can đảm, không e sợ tuyên xưng mình là môn đệ của Đức Giêsu, bằng những thái độ khoan dung tha thứ, bằng sự hy sinh phục vụ, bằng sự sẵn sàng cho đi mà không mong nhận lại. Điều này thật là có ý nghĩa nhất là khi chúng ta sống trong một thế giới đầy những nghi ngờ tranh chấp và thù địch.
Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị vị khách này kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa”.
Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà”. Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.
Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”
Khi đến nơi tên cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh đấy. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa”.
Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra”.
Không sợ bị thua thiệt, không sợ bị bách hại để làm chứng cho tình yêu cho chân lý. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và các môn đệ của Ngài, là chúng ta, cần phải tiếp tục làm.
Đức Giêsu nói: “Hãy làm chứng cho Ta trước mặt người đời”. Nhiều người nghĩ rằng làm chứng cho Chúa bằng tham dự lễ Chủ Nhật là đủ, bằng giữ luật Chúa, ăn chay cầu nguyện là đủ. Nhưng Chúa Giêsu còn đòi chúng ta làm chứng cho Ngài ngoài những việc đó.
Chúng ta làm chứng cho Chúa chính trong cuộc sống thường ngày. Giữa một xã hội có nhiều sự gian ác chúng ta làm chứng cho sự thiện hảo. Giữa một xã hội thất vọng chán chường, chúng ta làm chứng cho sự hy vọng vui tươi. Giữa một xã hội đầy dẫy nghi ngờ và chia rẽ, chúng ta làm chứng cho sự tin tưởng, đoàn kết yêu thương.
Chúng ta phải là chứng nhân cho Chúa trên đường đi, trong hàng quán, trên xe, trong chợ, trong công xưởng nhà máy, trong trường học cũng như trong những văn phòng làm việc, nơi đồng ruộng… Nói tắt một lời, làm chứng cho Chúa mọi nơi.
Tất cả những điều này đòi chúng ta có đức tin mạnh mẽ và can đảm không sợ sệt; không sợ bị thua thiệt, bị coi thường; không sợ bị trù dập, bị bách hại. Chúng ta cần gắn bó với Đức Giêsu, Đấng đang đồng hành với chúng ta trên con đường dương thế, trên mọi nẽo đường đời để chúng ta thêm can đảm, vững tâm, để làm điều Đức Giêsu đã làm, thực hiện sứ vụ Đức Giêsu đã thực hiện. Đó là làm chứng cho chân lý và tình yêu.

32. Hãy sợ tội – Lm. Nguyễn Hùng
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:
– Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?
Nông dân trả lời:
– Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người kia hỏi tiếp:
– Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?
– Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
– Vậy ông có trồng khoai tây không?
– Không có, vì sợ sâu đất.
Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:
– Vậy thì ông trồng cái quái gì?
– Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.
Sợ là một yếu tố tâm lý có ảnh hưởng lớn trong đời sống con người. Bậc cha mẹ và giới giáo dục thường dùng hình phạt gây sợ hãi để huấn luyện con cái, học sinh khi còn nhỏ. Chính phủ và các thể chế điều hành nắm vào sự sợ hãi đến một mức nào đó để giữ kỷ luật, trật tự. Các hãng bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, sức khoẻ, sinh mạng… cũng khai thác yếu điểm tâm lý này nơi con người để… phát tài. Vụ khủng bố lớn ngày 11/9/2001 và những vụ khủng bố gần đây tại Do Thái cho chúng ta thấy có những người quá khích dùng nỗi sợ hãi như võ khí để khống chế, gây áp lực trên những cường quốc như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, Do Thái…
Sợ hãi quá mức làm cho con người bị tê liệt, không thể làm gì được giống như ông nông dân kể trên. Ngược lại không biết sợ là gì khiến con người trở nên điên cuồng, quá khích, mất quân bình như những tử sĩ Palestine ôm bom tự tử để giết người của phe Do Thái. Sợ đúng mức giúp con người xa tránh những điều nguy hiểm, bảo vệ an toàn bản thân, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống. Vì thế sợ hãi không phải là điều hoàn toàn xấu. Nó là một phần trong bản năng tự vệ, sinh tồn của con người.
Thế nào là sợ hãi đúng mức? Đối tượng của sự sợ hãi chính đáng là những gì có thể gây tổn thương, nguy hại đến tính mạng của người ta. Khi đi vào rừng người ta sợ cọp từ trong bụi nhảy chồm ra xơi tái là điều chính đáng. Các cô nường khi thấy con gián, con chuột xuất hiện trong nhà vội vàng trèo lên bàn đứng hét không phải là nỗi sợ chính đáng.
Trong bài Phúc Âm Chúa Kitô dạy cho các môn đệ biết nỗi sợ chính đáng. Chúa nói đừng sợ những người bắt bớ ai theo Chúa Kitô vì họ chỉ có thể làm hại đến thân xác, cùng lắm giết chết phần xác. Cuộc sống ở trần gian này rồi cũng sẽ chấm dứt không sớm thì muộn. Nếu phải chết sớm để làm chứng cho Chúa Kitô thì điều đó là cách diễn tả tình yêu đến tột cùng mà Ngài đã làm gương. Đó là một vinh dự, không phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ Chúa muốn nói chính là tội lỗi, chống lại Thiên Chúa, cắt đứt mọi liên hệ với Ngài để tự đưa mình vào hoả ngục, nơi đoạ phạt đời đời.
Chúa muốn nhắc nhở rằng nguy hại đến thân xác không đáng sợ bằng những gì gây hại đến linh hồn. Chúng ta cần chú ý đến điểm này vì xã hội nặng vật chất này đang ru chúng ta vào cơn mê ngủ hưởng thụ, chôn vùi lương tâm mình trong vật chất. Có nhiều điều bệnh hoạn thông truyền qua phim ảnh, báo chí, Internet dưới danh hiệu “người lớn” (Adult) thật sự đang đầu độc cả người lớn và trẻ con. Có những cách gian lận chính phủ, hãng Satellite Disc, cable TV, sở làm… mà người Kitô hữu vướng vào và vẫn đi rước lễ tỉnh queo. Tất cả những điều đó đem lại cho con người thoải mái trong chốc lát, nhưng sẽ đưa linh hồn vào chốn đoạ phạt đời đời. Đó mới là điều đáng sợ và phải xa tránh.

33. Chờ đợi gì nơi cuộc sống?
Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:
– Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:
– Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:
– Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?
Cô mỉm cười nói:
– Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi. (Trích Món Quà Giáng Sinh)
“Anh em đừng sợ”. Sợ hãi làm cho chúng ta ra tê liệt, làm cho chúng ta không còn là chính chúng ta nữa. Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có biết bao nhiêu là cái sợ: sợ gặp phải đau khổ, sợ mất việc làm, sợ cô đơn, sợ thất bại, sợ tai nạn, sợ chết… không phải riêng chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chính các Tông đồ xưa cũng đã phải trải qua nhiều cái sợ: sợ địch thù, sợ nói trước công chúng, sợ bị bỏ rơi, và nhất là sợ chính Thiên Chúa bỏ rơi.
Tại sao lại có nhiều sự sợ hãi như thế? Phải chăng chúng ta chưa cảm nghiệm được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, chưa thực sự đặt niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, chưa cảm nghiệm được tình yêu bao la của Ngài! Ngày nay chúng ta sợ không giám nói lên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa trước thế giới đầy tân tiến. Nhiều người còn cho rằng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh cho chúng ta thấy đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta sẽ vô ý nghĩa…
Không, dù tài ba mấy đi chăng nữa, dù tân tiến mấy chăng nữa con người khoa học vẫn “không một lời” trước cái chết của một người thân mình! Chỉ có đức tin vào Thiên Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa và làm tan biến sự sợ hãi. Sức mạnh của khoa học không thể nào phá hủy được phẩm giá cao quí của con người: những người con đáng yêu của Thiên Chúa, và chỉ tình yêu Ngài mới xứng đáng. Đừng sợ, hãy sống như cô nữ sinh Áo: đi tìm cho mình một ý nghĩa cuộc sống đích thực trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ, và giám làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

34. Đừng sợ sống Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Nabucôđônôsor bành trướng đế quốc Canđê đến tận Palestine. Sang năm 597 B.C, nhà vua chiếm Giêrusalem và đưa một số đông người Do thái sang lưu đày bên đất Babylon. Đây là đợt lưu đày thứ nhất. Năm 587 B.C., do sự nổi dậy của dân cư Giêrusalem, đạo binh Canđê lại tiến đánh và tàn phá đền thờ. Đợt lưu đày thứ hai bắt đầu.
Giêrêmia trải qua gian đoạn thê lương đó trong lịch sử Do thái. Được linh ứng, ông lên tiếng báo trước các tai ương sẽ đổ xuống trên những kẻ phản bội Giavê, thành đô sẽ tan nát dưới bàn tay ngoại bang. Ông cũng răn đe sự lạm dụng nơi thờ phượng để trục lợi riêng tư và kêu gọi một cuộc cải cách phụng tự.
Thế nhưng chẳng ai nghe Giêrêmia, thậm chí còn tố cáo ông là kẻ gieo tai rắc vạ, là người chủ bại, là tên bán nước. Rốt cuộc ông bị bắt nhốt. Các đầu mục Do thái muốn giết ông. Người ta ném ông xuống giếng, nhưng một hoạn quan ngoại giáo đã cứu ông. Về sau, khi những người Do thái ám sát quan tổng trấn Gôđôlia, rồi vì sợ bị trả thù, nên họ đã trốn sang Ai cập, kéo theo Giêrêmia. Và trên vùng đất xa lạ này ông bị giết chết.
Phải đương đầu với bao gian khổ, bị tẩy chay và bắt bớ, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành sống trọn vai trò người ngôn sứ của Giavê. Ông một thân một mình chấp nhận bao lăng nhục đoạ đày để Lời Chúa được công bố và rao truyền. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Trước khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhắn bảo các ông: “Đừng sợ chúng.” Tức là đừng nhát đảm trước những kẻ gian dối và phủ nhận chân lý Phúc âm, nhưng hãy can đảm loan báo sự thật.
“Điều gì Thầy nói với anh em trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng. Điều gì anh em nghe rỉ tai, hãy rao lên trên mái nhà” (Mt 10:27). Tin Mừng Đức Kitô phải được truyền rao cho hết mọi người. Thánh Phaolô từng quả quyết: “Quả như nơi tôi có sự thật của Đức Kitô thì sẽ không ai bịt miệng tôi được” (2 Cor 11:10).
Song trên hành trình loan báo chân lý, gieo rắc tin mừng sự sống, không phải là không có kẻ thù chống đối ngăm đe. Khó khăn, nhục nhằn, khổ đau, và cả cái chết đang chờ đợi bước chân của người ngôn sứ. Nhưng Đức Giêsu lại một lần nữa nhắc nhở: “Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn.”
Thử thách và khổ đau của thân xác không đáng là gì khi so với sự sống của tâm hồn có Đức Giêsu—Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thánh Phaolô đã không ngừng viết đi viết lại niềm xác tín của mình: “Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón, để lợi được Đức Kitô” (Pl 3:8). Có Đức Kitô là có tất cả. Mất Đức Kitô là mất tất cả.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: “Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8:28).
Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.
Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: “Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng.”
Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.
Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.
“Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục.” Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công… mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: “Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng.”
Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.

35. Điều đáng phải sợ
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Không biết tự bao giờ, chúng ta bắt đầu có những nỗi sợ hãi mà không thể giải thích được! Từ khi nào con trẻ lại sợ bóng tối? Lớn dần lên bắt đầu sợ ma, nhưng lại thích nghe từ bạn bè, người lớn những chuyện về ma quỷ? Và rất nhiều nỗi sợ khác đáng lí ra không nên khiếp sợ thì chúng ta lại sợ hãi vô cùng!
Có lẽ vì bản tính yếu đuối của con người, và hậu quả của sự tội, nên chúng ta thường trở nên hoảng sợ trong ý nghĩ, sợ hãi do trí tưởng tượng hay suy đoán mà ra. Trong khi đó, những việc nên sợ, những chuyện không đáng phải sợ thì chúng ta lại xem đó là điều không đáng sợ và cho đó là bình thường, chẳng cần bận tâm!
Thật ra, chẳng phải đến thời đại chúng ta mới có điều này, mà từ rất xa xưa, thời Cựu ước đã diễn ra qua lời thuật lại của tiên tri Giê-rê-mi-a: sợ bị vu cáo, sợ người thân thích rình xem sự vấp ngã của bản thân, sợ bị mắc lừa, sợ bị nhục nhã ê chề…. Và trên hết điều đáng kính sợ và nên làm mà không được quên: “hãy ca tụng Chúa, hãy ngợi khen Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo, cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ” (x. Gr 20, 13).
Nỗi sợ hãi chiếm lĩnh con người, tâm tư, ý nghĩ, chi phối các sinh hoạt của con người, cho nên chúng ta thường có xu hướng không sợ những điều đáng/nên phải sợ. Có nhiều cha bạn của con rất ư là sợ ma! Khi nghe đến chuyện một linh mục sợ ma, thì phản ứng đầu tiên của giáo dân là: ôi, cứ tưởng chỉ có giáo dân sợ thôi chứ, các cha mà cũng sợ ma sao! Thật ra, đâu phải trở thành linh mục rồi mới sợ ma hay hết sợ ma! Trước khi được đào tạo trở thành một thừa tác viên linh mục, thì ứng viên đã có nỗi sợ này từ nhỏ rồi, và điều này cứ theo đương sự suốt (có thể mức độ sợ sẽ giảm dần theo năm tháng!!!). Ngoài ra, rất nhiều câu chuyện về một số cha ngại đến nỗi sợ không dám tiến gần quan tài để rảy nước Thánh hay an ủi gia đình tang quyến, mà chỉ đứng từ xa rảy nước Thánh khi cử hành các nghi thức tang lễ tại gia và trong Thánh lễ an táng, đặc biệt trong nghi thức tiễn biệt! Một trong nhiều lí do mà chúng ta thường được nghe: sợ ngã bệnh hay cơ thể sẽ trở nên không khoẻ khi tiếp xúc với hơi người đã qua đời!
Ở đây, chúng ta không có tham vọng tìm ra nguyên nhân hay lí do hầu giải thích; tuy nhiên dẫu biết một lí do gì đi chăng nữa, chúng ta đều thấy điều mà chúng ta không đáng sợ thì chúng ta lại sợ hãi vô cùng; ngược lại, điều chúng ta nên và đáng phải sợ thì chúng ta cho là bình thường! Nào là chúng ta sợ mỗi khi lãnh nhận bí tích Hoà giải, ngại xếp hàng đi xưng thú tội lỗi của mình; trong khi đó chúng ta lại không sợ việc phạm tội, không sợ làm Chúa phiền lòng, chẳng e sợ khi làm người khác tổn thương như nói xấu anh chị em, nói sau lưng người khác, dèm pha, đồn thổi, loan tin thất thiệt…Chúng ta sợ, không dám tuyên xưng đức tin qua đời sống đạo, sợ không dám làm chứng cho Chúa giữa đời; trong khi đó chúng ta dường như lại không sợ một khi chưa chu toàn bổn phận sống đạo và làm gương lành gương tốt trong gia đình, lối xóm, cộng đoàn giáo xứ! “Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33). Chúng ta sợ người khác hại đến thân thể, thân xác, ảnh hưởng đến đời sống vật chất, đời sống thể lý của mình, nhưng chúng ta lại không sợ bị mất linh hồn, mỗi khi chúng ta rơi vào cạm bẫy tội lỗi, thói hư tật xấu, xa lìa, hờ hững, dửng dưng trước sự thống khổ của anh chị em, xa rời, nguội lạnh trong đời sống đức tin, làm những việc không ích lợi cho đời sống linh hồn! “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục” (Mt 10, 28). Chẳng phải những gì Chúa dạy nên và đáng phải kính sợ, thì chúng ta cần để tâm, khắc sâu trong lòng mà nỗ lực sống thực thi mỗi ngày sao? “Các con đừng sợ những gì, những việc, những ai không đáng lo hãi, vì các con đáng giá hơn chim sẻ bội phần” (x. Mt 10, 31), vì chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đổ máu ra cứu chuộc chúng ta, giúp chúng ta vượt lên những nỗi sợ hãi vô hình này. Và nhờ ân sủng đức tin mà chúng ta được lãnh nhận, cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, ban cho chúng ta lòng can đảm, sự khôn ngoan vượt thắng những sợ hãi này, như lời xác tín của Thánh Phao-lô gửi cho giáo đoàn Rô-ma “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người (x. Rm 5, 15).
Giờ đây, chúng ta cùng khẩn cầu xin Chúa giúp mỗi người chúng ta vượt lên những sợ hãi dưới đây, và cho chúng con luôn biết tín thác vào Chúa và sống như lời nhắn nhủ của Ngài “các con đừng sợ hãi…” qua đôi dòng suy tư trở về với lòng mình ‘chẳng ngại/chẳng sợ….nhưng lại sợ’:
Lạy Chúa, lắm lúc chúng con:
Chẳng ngại nhắm mắt làm điều trái với lương tâm
Nhưng e sợ mở mắt cảm thông, chia san với anh chị em.
Chẳng sợ đưa tin buồn, tin hãi, tin vịt
Nhưng e ngại loan truyền Tin Mừng, tin tưởng, tin vui.
Chẳng ngại đưa chân đến những nơi đánh mất nhân phẩm
Nhưng e sợ bước chân tới những ai đang khốn khổ nghèo hèn.
Chẳng sợ tích trữ quá nhiều của cải vật chất, đánh mất linh hồn
Nhưng e ngại chia sẻ thật lòng với anh chị em.
Chẳng ngại để cuộc sống mình câu kết với tội lỗi
Nhưng e sợ trao đời sống mình trong bàn tay Chúa.
Chẳng sợ mỗi khi tự mãn tự kiêu với thành quả bản thân
Nhưng e ngại chia vui thành công với người khác.
Chẳng ngại xét đoán, lên án người khác
Nhưng e sợ mỗi lúc nhìn lại bản thân mình.
Chẳng sợ với những dự định ảo của bản thân
Nhưng e ngại đón nhận chương trình của Chúa.
Chẳng ngại khi chỉ biết tung tăng ngao du khắp nơi
Nhưng e sợ mỗi lúc tham dự Thánh Lễ trọn vẹn.
Chẳng sợ khi ưu tiên đi phượt những nơi xa xôi
Nhưng e ngại đến với những ai đang gần kề cần đến mình.
Chẳng ngại mỗi lúc mua sắm, tiêu tiền thả ga
Nhưng e sợ khi phải giúp đỡ, bớt xén từng đồng.
Chẳng sợ học đòi gương mù gương xấu
Nhưng e ngại học – sống gương tốt gương lành.
Chẳng sợ khi mất nhiều thời gian cho tán gẫu, ‘buông dưa buông lê’
Nhưng e sợ mỗi lần tâm sự, cầu nguyện cùng Chúa.
Chẳng ngại buông lời khiến anh chị em tổn thương
Nhưng e ngại nói lời xin lỗi – cám ơn với người…..
‘E ngại’ mà vậy thì thôi
‘Chẳng sợ’ ra thế, hỡi ôi làm gì?
Làm ngược lại chẳng hại chi
Mang điều tươi sáng, tiếc gì người ơi! Amen!

36. Sống trong tin tưởng
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chủ Nhật’)
Chúa đề ra một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và hành động của mình: Có một lối xử sự của riêng Phúc âm. Người môn đệ cần thầm nhuần để nên giống Thày. Đàng khác gương mẫu sống động không ai ngoài chính Chúa. Vì thế như Chúa Giêsu đã gặp những chống đối, các môn đệ cũng sẽ bị chống đối nhưng họ không có gì phải sợ. Trước hết, họ hãy giữ niềm tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ tỏ rạng mặc dầu quyền lực của dối trá thống trị, họ chớ sợ tiếp nối công trình của Thày để loan truyền Tin Mừng. Chúa Giêsu nói rằng Ngài dạy trong bóng tối, điều ấy có nghĩa là Ngài trao truyền sứ điệp trong vòng các người thân tín, trong khung cảnh giới hạn và tối tăm của miền Galilêa. Ngài hành động như thế là vì thận trọng và vì muốn tôn trọng các dự định quan phòng giao phó việc rao truyền sứ điệp cho những vị khởi sự Giáo Hội. Những vị ấy sẽ phải nói trên mái nhà. Việc này nhắc đến một tập tục đặc biệt của miền Trung Đông. Buổi chiều, khi trời hạ cơn nóng, người ta hay tụ tập trên sân thượng. Nhà này nối qua nhà khác, cho nên các mái nhà làm thành một thứ công trường. Nói trên mái nhà tương đương với loan báo Tin Mừng sẽ gây ra nhiều chống đối hung bạo, Chúa dạy như thế. Từ lời cảnh cáo này, Ngài bảo các môn đệ cách thức định giá sự vật và phải đặt lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa ra sao.
1) Đừng sợ những kẻ giết được thân xác… Điều này có nghĩa là sự sống con người có những kích thước vượt quá phạm vi thể xác. Các quyền lực thế gian có thể làm hại thể xác nhưng đấy không phải là phần chính yếu của con người. Chúng không thể nào phá hủy con người trong những gì là nhân bản nhất, căn cốt nhất, những gì bất tử. Bản chất linh thiêng, nơi phát xuất những quyết định hữu trách và những khả năng chân chín hưởng nhận hạnh phục, đó mới là kho tàng đích thật của con người. Điểm thấm nhập của Phúc âm vào trong con người là linh hồn tự do, hữu trách, bất tử, được gọi tới hưởng hạnh phúc sung mãn. Người môn đệ của Đức Kitô phải biết rằng bản thể linh thiêng đáng cho ta hy sinh bản thể nhục phàm. Có thể xảy ra những trường hợp đặc biệt và các thánh tử đạo xưa và nay chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng có một vấn đề mà chúng ta phải nghĩ tới và có thể đặt ra bằng câu hỏi sau đây: trong cuộc sống thường ngày chúng ta có đặt vị trí ưu tiên cho các giá trị siêu nhiên không?
2) Không có một con chim sẽ nào rơi xuống ngoài ý Cha các ngươi. Các khó khăn, các cơn cám dỗ, các chướng ngại, các vấn đề, các sự trục trặc của chúng ta,… Thiên Chúa đều thấu tỏ. Giữa các khó khăn, dầu thế nào mặc lòng chúng ta luôn làm đúng khi quy hướng về Chúa Cha! Ngài canh phòng cho con cái Ngài và Ngài không để cho chúng chịu thử thách quá sức. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cam kết sẽ can thiệp ngay trong mỗi trường hợp để giải thoát chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào thế giới như mắc cửi và Thiên Chúa là Đấng đã làm nên sẽ không phá bỏ đi. Nhưng chúng ta có được một phương kế phi thường: mọi khó khăn nhỏ nhặt nhất có thể làm đề tài nói chuyện riêng tư với Chúa vì Ngài biết sự khó khăn ấy. Không có gì xảy đến cho chúng ta mà Ngài không thấu tỏ. Mà Chúa Cha muốn điều tốt lành cho chúng ta. Do đó nếu chúng ta phó thác tất cả cho Thiên Chúa, mọi sự đều góp phần mưu ích cho chúng ta.

37. Can đảm, trung thành
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong giây phút đầu tiên đăng quang ngôi Giáo Hoàng, Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã để lại lời hiệu triệu và có âm hưởng mạnh trên toàn thế giới, ngài nói: “Đừng sợ, hãy mở cửa lòng đón Đức Kitô”. Lời mời gọi này được gợi hứng từ chính lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe: “Vậy anh em đừng sợ người ta […] Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 26. 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách. Ngược lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đón nhận mọi hiểm nguy và ngay cả cái chết khi loan báo Tin Mừng Nước Chúa.
Đừng sợ!
Trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta thấy có nhắc tới 365 từ ngữ “đừng sợ”. Như vậy, hàm ý cho thấy rằng: trong một năm với 365 ngày, tương ứng với 365 từ ngữ “đừng sợ”, tức là con người ngày nào cũng phải đối diện với sự sợ hãi. Vì thế, lời trấn an “đừng sợ” của Đức Giêsu chính là lời làm cho người môn đệ được an ủi trước những sợ hãi, thử thách, đau khổ trong cuộc đời.
Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước cho các môn đệ về những đau khổ và hệ lụy xảy đến khi các ông loan báo Tin Mừng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10, 28).
Đi thêm một bước nữa, như một lời đảm bảo, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ biết trước những công khó của các ông sẽ không bị rơi vào quên lãng, ngược lại sẽ được Thiên Chúa ghi dấu và thưởng công xứng đáng, Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (Mt 10, 29).
Tuy nhiên, như một điều kiện cần và đủ, đó là: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10, 32-33).
Khi nói như thế, Đức Giêsu đã vạch ra con đường đầy gian khổ nhưng cũng đầy vinh quang của các Tông đồ và tất cả những ai tiếp bước trên con đường sứ vụ ấy.
Đặc tính của người môn đệ
Khi tiếp nhận lệnh truyền của Đức Giêsu về sứ vụ truyền giáo, Giáo Hội đã xác định rất rõ bản chất của mình, đó là truyền giáo. Vì vậy, là Kitô hữu, chúng ta không có lý do gì để khước từ sứ mạng cao quý này.
Tuy nhiên, nếu đã cùng một sứ vụ với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng cùng chung số phận với Thầy của mình. Nếu Đức Giêsu đã trải qua đau khổ rồi mới tới vinh quang, thì người môn đệ cũng không có con đường nào khác nếu muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi hoàn cảnh.
Nếu đường của Thầy là đường của trò. Số phận của Thầy cũng là của trò. Và nếu Đức Giêsu trước kia đi đến đâu cũng có một số người ủng hộ; một số người dửng dưng; và một số người quyết giết chết Ngài cho bằng được, thì đến lượt chúng ta, con đường êm xuôi, bằng phẳng, nhưng lụa, hoa hồng chắn chắn là qua xa lạ. Ngược lại, thử thách, đau khổ, xỉ nhục, bắt bớ và giết chết lại là điều chắc chắn sẽ đến với những ai đi trên con đường ấy, bởi vì: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
Đứng trước những hệ lụy đó, để được thành công với sứ vụ, người môn đệ cần có những đặc tính sau:
Trước tiên là dấn thân:
Nếu vì sợ mà không dám dấn thân thì chưa phải là môn đệ. Đã là môn đệ thì phải dấn thân, mà dấn thân đồng nghĩa với cái chết.
Người đời thường nói: “Nếu sợ mà không dám vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con”; hay “ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai” (Nguyễn Bá Học).
Người môn đệ chân chính của Đức Giêsu chính là phải vượt ra khỏi sự an toàn, bảo đảm cho bản thân, để: “Như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Nên chúng ta chấp nhận ngay cả khi bị tổn thương, bắt bớ, tù đầy và cái chết, để miễn sao Tin Mừng được loan báo.
Thứ đến là không sợ hãi
Chúng ta cũng đọc thấy đây đó những câu chuyện nói về sự gương kiên trì hay vượt khó của các vĩ nhân. Có những người chấp nhận ngay cả cái chết để bảo vệ quan điểm, lý tưởng và lẽ sống của mình.
Cũng vậy, người môn đệ của Thầy Giêsu khi đã chọn Ngài làm chân lý, sự thật, lẽ sống và cùng đích cho cuộc đời, thì lẽ đương nhiên, chúng ta phải đánh đổi và chấp nhận mọi sự, để bảo vệ và đạt được mục đích ấy.
Cảm nghiệm về vấn đề này, Giáo Phụ Tertullianô đã viết như sau:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa. Câu:”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên pháp trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Cuối cùng là biết cậy trông vào Chúa
Thật là mầu nhiệm! Nếu bình thường, bản tính con người ai cũng rất sợ đau khổ và chết chóc, thế nhưng tại sao những môn đệ của Đức Giêsu lại vững tâm, can trường và liều mạng đến như vậy? Thưa đơn giản, đó là vì các ngài đã “Tín thác đường đời cho Chúa và tin tưởng vào Ngài” bởi vì: “Ơn ta đủ cho con” (2 Cr 12,9); và “ hằng ở với con” (Gr 1,10) “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 26,20).
Chính bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng nói đến sự an bài quan phòng của Thiên Chúa trên cuộc đời của người môn đệ nếu biết cậy trông, phó thác nơi Chúa, Ngài nói: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30).
Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, dấn thân lên đường thi hành sứ vụ đến với muôn dân. Hãy đón nhận mọi thử thách gian khổ trong cuộc đời như một điều kiện cần để đạt được sự sống đời đời. Luôn biết phó thác và cậy trông nơi Chúa, vì chẳng lẽ chúng ta xin Chúa con cá mà Ngài lại cho con rắn, hay xin bánh lại cho đá? Không đời nào! Cũng vậy, những lúc nguy biến và khổ đau, Ngài thường vác chúng ta trên vai; hay trước những thử thách, bất trắc, thất bại trong cuộc đời, chúng ta luôn nhớ rằng: Chúa đóng của chính thì Ngài sẽ mở ra cho chúng ta cửa sổ; Chúa đóng đường chính, Ngài sẽ mở đường phụ, và biết đâu, cửa sổ hay đường phụ lại tốt đẹp hơn và an toàn hơn cho chúng ta???
Tin tưởng điều đó, chúng ta hãy can đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trung thành với sự thật như lời Ngài đã phán: “Anh em đừng sợ người ta […]. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10, 26-27).
Như vậy, không thể vì bất cứ mối lợi gì mà đánh đổi sự thật. Mất đi sự thật, ấy là chúng ta mất đi căn tính, bởi sự thật thuộc về Thiên Chúa, còn gian dối thuộc về ma quỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con trung thành với sứ vụ và đón nhận mọi thử thách đau thương trong cuộc đời. Amen.

38. Chúa Nhật 12 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Trong cuộc sống, con người chúng ta sợ nhất điều gì? Phải chăng là sợ ma, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, chiến tranh…? Nhưng tại sao con người lại sợ những điều vừa kể trên? Vì nó làm cho con người đau khổ, lo lắng, bất an. Thật vậy, cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều điều làm cho con người phải sợ. Chính vì lẽ đó, Lời Chúa hôm nay hướng dẫn soi sáng, và dạy chúng ta: Hãy tin vào Thiên Chúa, hãy cậy trông vào Ngài, với niềm hy vọng nơi Chúa, Ngài sẽ ban ơn giúp sức, phù trì và dạy chúng ta phải sống như thế nào trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Trong bài đọc 1, từ miệng ngôn sứ Giêrêmia cho biết, con người vu cáo, lên án lẫn nhau, con người lừa lọc nhau để tìm cái lợi cho bản thân; và rồi con người phải lãnh lấy những hậu quả mà mình gây ra. Người chịu đau khổ nhất là những con người nghèo, những người phận nhỏ. Khi những con người này kêu van, Chúa đã dùng ngôn sứ đến để an ủi, dạy bảo họ là hãy vững tin vào Chúa, Ngài đã nghe tiếng họ kêu van và Chúa sẽ ra tay bênh đỡ, cứu sống. Ơn cứu giúp này được dành cho tất cả những ai biết kính sợ và đặt niềm tin cậy vào Chúa vì “Ngài sẽ giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.
Bài đọc 2 trong thư gởi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô đã khuyên nhủ cho họ biết về những ơn ban của Thiên Chúa. Đó là ơn tha thứ và thánh hóa. Ơn của Chúa ban lớn lao gấp bội trước những yếu đuối và tội lỗi của con người. Nhưng không phải cứ cậy dựa vào lòng thương xót Chúa mà ỷ lại, rồi cứ thản nhiên mà phạm tội; để rồi coi việc yếu đuối và tội lỗi như là chuyện của con người, sau đó đến cầu xin là Chúa sẽ tha thứ. Chúa biết con người yếu đuối, dễ chiều theo ý riêng mà phạm tội, đồng thời Chúa luôn ban ơn kêu mời và ban huấn lệnh để giúp con người sống theo ý Chúa. Điều quan trọng là chúng ta có tin tưởng vào đường lối-huấn lệnh và thánh ý Chúa. Chính khi chúng ta tin, thì ân sủng của Chúa mới tuôn đổ trên chúng ta, và nhờ chính ơn Thánh Chúa mới giúp chúng ta vượt qua được những yếu đuối, tội lỗi để trở nên những ngưới con cái tốt lành của Chúa.
Tin mừng Mattheu hôm nay có tới 3 lần Chúa Giêsu lặp đi lặp lại “anh em đừng sợ”. Chúa mời gọi chúng ta đừng sợ cái gì? Tại sao lại đừng sợ? “Đừng sợ” cũng chính là sứ điệp mà Thánh GH. Gioan Phaolo II trên cương vị Giáo hoàng của mình Ngài đã gởi đến cho đoàn chiên. “Anh chị em đừng sợ, bởi vì chính Thiên Chúa là Chúa của chúng ta.” Đừng sợ để giao phó cuộc sống của mình cho Chúa dẫn dắt và hướng dẫn. Ngài sẽ có cách cho chúng ta và chính Ngài sẽ ban ơn phù trì. Điều này được chứng minh qua cuộc đời của một vị Thánh. Chúng ta biết trong cuộc sống của Gioan Phaolo II, biết bao nhiêu điều đau khổ, mất mát, tang thương đã xảy đến cho Ngài. Mất mẹ, mất cha, mất tất cả anh chị em, chỉ còn lại một mình Ngài. Thế mà, trước lời mời gọi của Chúa, JPII đã tín thác, hoàn toàn thuận theo Thánh ý Chúa. Ngài đã từ bỏ tất cả để chọn Chúa. Với con người tín thác như vậy, Chúa đã trao cho Ngài những sứ vụ đặc biệt trong Giáo hội. Không những thế, Chúa còn dẫn dắt và bảo vệ Ngài trên những nẻo đường mà không ai nghĩ tới. Có lúc tưởng chừng như Ngài sẽ bị chết vì bị sát hại; lúc lớn tuổi, Ngài lại bị bệnh pakinson, thế mà không bao giờ Ngài thất vọng, ngã lòng vẫn trông cậy vào Chúa. Cuộc sống của Ngài là cả một hành trình liên lỉ tín thác vào Chúa trong sự che chở và chỉ bảo của Mẹ Maria. Thật vậy, Thánh GH JPII đã tin, đã sống, và đã công bố niềm tin của mình vào Chúa và trở nên một mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta,những ai tin và sống dấn thân cho Chúa.
Thưa anh chị em, điều gì đang làm cho chúng ta lo sợ, bất an? Những lúc chúng ta bỏ Chúa, chối Chúa, không tin vào Ngài và làm theo những ý riêng ích kỷ, hẹp hòi, tìm tư lợi riêng, những lúc như vậy chúng ta chắc chắn sẽ gặp những điều lo lắng, bất an. Thật vậy, tội lỗi chính là căn nguyên làm cho con người bất an và hoang mang lo lắng nhất. Vì không có Chúa thì chắc chắn không có nguồn ơn thánh và bình an đích thực.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy tin vào Thiên Chúa và những ơn ban của Ngài, vì chúng ta thực sự là những người con mà Chúa luôn yêu thương cách đặc biệt. Vậy, liệu bạn và tôi ngay từ bây giờ có dám can đảm mà dấn thân để đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa, và để cho Chúa hoàn toàn hướng dẫn cuộc sống của chúng ta trong thánh ý Ngài? Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn của mọi ơn phúc, xin uốn nắn tâm hồn chúng con, để chúng con luôn sống trong tin yêu và phó thác. Amen.

39. Mạnh dạn tuyên xưng
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Tại sao trước tiên Chúa Giêsu đã che dấu sứ điệp của người? Và ai sẽ tỏ lộ sứ điệp đó ra?
2. Chúa Giêsu báo cho môn đồ hay họ sẽ bị bách hại đến chết (c. 8) nhưng đồng thời người lại nói chúa quan phòng cũng chăm sóc cả chim trời (c.29). Như thế không mâu thuẫn sao?
3. Các huấn lệnh này hôm nay đem đến cho ta điều gì giúp quán triệt sứ mệnh Kitô hữu?
***
1. Trong phần cuối diễn từ về sứ mệnh này, rõ ràng mt đã tách diễn từ khỏi bối cảnh lịch sử của nó trong cuộc đời Chúa Giêsu để làm thành một giáo huấn có tầm mức rộng lớn hơn cho mọi môn đồ người. Cơ hội cụ thể của diễn từ, được trình trong 9, 35- 10, 1 hình như đa bị quên lãng. chính kết luận soi sáng ý nghĩa toàn bộ.
Thành thử ở đây tác giả không có ý ghi lại cách chính xác việc sai phái các sứ đồ đến cùng các chiên lạc nhà israel” (10, 6), như Chúa Giêsu đã muốn để tiếp nối việc rao giảng của người bằng lời nói và hành dộng. Đúng hơn việc sai phái đó là cơ hội để tác giả giải thích cho giáo hội biết môn đồ là gì và vai trò của kẻ ấy ra sao. Do đấy mt 10 xuất hiện như là một bài học cho giáo hội và chỉ có thể hiểu được trong nhãn giới đó mà thôi.
2. Một ý tưởng nổi bật hơn hết: môn đồ là người được sai nhờ được sai đi mà người ta có địa vị môn đồ. Ở đây mt không nhắm mô tả một “hữu thể mới ” (theo kiểu của gioan) cho bằng là tiên quyết khẳng định có một ý muốn cao hơn đang ảnh hưởng trên môn đồ. Chính Chúa GGiêsu chọn lựa và tự do kêu gọi kẻ ấy, rồi sau đó sai phái ra đi. Và kẻ ấy chỉ nên môn đồ khi chấp nhận sự chọn lựa, khi lắng nghe và vâng phục lời kêu gọi trong cuộc sống mỗi ngày. Tất cả những thái độ này tương ứng với một định luật căn bản trong hành động của Thiên Chúa, mà thánh kinh mặc khải cho chúng ta từ abraham (st 12, 1- 4) đến Gioan tẩy giả (lc 1, 17; 3, 2).
3. Tuy nhiên bản văn Mt không chỉ muốn tái dựng hoàn cảnh lịch sử thời Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ trần thế (một công việc dầu sao cũng hơi khó thực hiện), nhưng còn cho biết hoàn cảnh mà chính tác giả đang chứng kiến trước mắt khi biên soạn diễn từ. Rõ ràng là tác giả muốn áp dụng các lời Chúa Giêsu vào hiện tại. thành thử mất nét giúp nhận ra cách chắc chắn việc áp dụng đó phải được giải thích theo hoàn cảnh được xét đến lúc bấy giờ và trong khung cảnh của thời gian đó. Cũng có thể dùng chúng như khởi điểm để giải thích hoàn cảnh hôm nay, vì chúng đã tạo nên một giai đoạn giải thích, áp dụng chính xác trong “thời của giáo hội” và như thế chúng là chiếc cầu liên kết “thời của Chúa Giêsu” với “thời của Giáo hội”.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Vậy đừng sợ chúng”: Chữ “vậy” liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
“Bị bại lộ… bị thấu biết”: Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ… Bước đầu của “các điều mới” do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa… thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
“Những kẻ giết được xác”: Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con”: lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
“Ta cũng xưng kẻ ấy ra”: Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: “Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17…). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ”. Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn… Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng”.
2) Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
3) Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
4) Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.

40. Đừng sợ
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ đi loan báo công khai giáo huấn của Người và làm chứng cho Người trước thế giới Người biết rằng họ sợ hãi. Và họ có lý do để sợ hãi vì biết rằng họ phải đối đầu với khó khăn và bách hại. Vì thế, không chỉ một lần nhưng có đến ba lần, Người nói với họ anh em đừng sợ.
Một đôi khi, nếu chúng ta thiếu can đảm và cảm thấy sợ hãi thì đó là một việc bình thường và tự nhiên. Bất cứ người nào đã hoàn thành đại sự đều phải có lần biết đến sợ hãi. Chúng ta nghĩ đến tiên tri Giêrêmia (bài đọc một) đến Martin Luther King, và đến chính Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani.
Sợ hãi không nhất thiết là một điều xấu. Đôi khi sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo chúng ta về sự hiện diện của một nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân huệ. Tuy nhiên, sợ hãi có thể là một dị tật. Nó có thể làm tê liệt mỗi con người. Nó làm cho một con người trở nên hèn nhát.
Ngày xưa có một con chuột rất sợ mèo. Một thày phù thủy thương hại nó và hóa phép cho nó thành một con mèo. Nhưng sau đó, nó lại sợ những con chó. Vì thế thày phù thủy đổi nó thành một con chó. Nhưng rồi nó lại sợ những con báo. Vì thế thày phù thủy hóa phép cho nó thành một con báo. Nhưng rồi nó lại sợ những thợ săn. Tới nước này, thày phù thủy bỏ cuộc. Ông đổi nó trở lại thành con chuột, và nói “Tao làm cho mày điều gì, cũng chẳng giúp được mày vì mày có tâm hồn của một con chuột”.
Đức Giêsu biết rằng các tông đồ sợ hãi. Người hiểu những nỗi sợ hãi của họ và xem xét một cách nghiêm túc. Khi Người nói với họ anh em đừng sợ hãi, Người nói với chính nỗi sợ của họ và làm cho chúng dịu bớt. Người cố gắng đem đến cho họ lòng can đảm. Người cố gắng động viên họ vượt qua sợ hãi, vì biết rằng sợ hãi có thể làm cho họ trở nên nhút nhát, không thể hoàn thành sứ vụ của mình.
Bằng cách nào, Người có thể giúp họ vượt qua những nỗi sợ hãi? Trên căn bản, qua sự tín thác và trông cậy vào Thiên Chúa. Người thúc giục họ hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái chăm lo cho sự sống và sự chết của những thụ tạo dù nhỏ nhất và ít giá trị nhất như những con chim sẻ. Đức Giêsu bảo đảm với họ rằng Thiên Chúa biết từng chi tiết của đời họ, và sẽ nâng đỡ họ trong mỗi lần khủng hoảng.
Ngôn sứ Giêrêmia duy trì ơn gọi của ông trong suốt thời kỳ rối loạn. Thời kỳ này chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và đền thờ. Mạng sống của ông thường xuyên bị đe dọa. Tuy nhiên, dù sự gì xảy ra, ông luôn tin tưởng vào ơn gọi của mình. Vậy chính điều gì đã giúp ông có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và luôn luôn trung thành với sứ mạng của mình? Đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa ở bên cạnh ông:”Đức Chúa ở bên cạnh tôi, một trang anh hùng dũng mãnh”.
Đức Chúa ở bên cạnh chúng ta. Và trong lúc cảm thấy sợ hãi, chúng ta không được để cho sự sợ hãi làm chúng ta tê liệt. Sống đời sống Kitô hữu đòi hỏi phải có lòng can đảm. Nhưng mặt khác cách sống có ý nghĩa nào cũng đòi hỏi lòng can đảm. Trong cuộc sống cái gì đòi hỏi nhiều tính anh hùng như sự can đảm thông thường.
Lòng can đảm là nhân đức quan trọng nhất, bởi vì nếu không có lòng can đảm bạn không thể thực hành bất cứ nhân đức nào với sự bền bỉ. Đức tin là một suối nguồn của lòng can đảm. Là những người sống đức tin, chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với bất cứ điều gì xảy đến.
Tự do lớn nhất là tự do thoát khỏi mọi sợ hãi, chúng ta không thể vượt qua sự sợ hãi, chúng ta không thể sống một đời sống có phẩm giá. Tuy nhiên, sợ hãi và can đảm không loại trừ nhau. Chúng có thể cùng tồn tại. Can đảm không phải là không bao giờ sợ. Nó sợ nhưng vượt qua nỗi sợ, hoặc nó tiến hành bất chấp nỗi sợ hãi. Là môn đệ của Đức Giêsu có tâm hồn của con chuột không đủ. Người ta cần có một trái tim can đảm. Xin Đức Giêsu ban cho mỗi người chúng ta trái tim can đảm đó.

41. Nhìn vào
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ làm chứng cho Người trong thế gian, Người biết họ đặt đời sống họ trong sự nguy hiểm. Người biết rằng vì lẽ đó họ sợ. Người cũng đã biết những sợ hãi của họ và cố gắng nó giảm nhẹ nó, Người nói với họ đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Họ nên sợ Thiên Chúa, Đấng có thể bắt tội một người phải chịu số phận tệ nhất là hình phạt đời đời.
Đó là điều mà người ta gọi là sự sợ hãi lành thánh mà chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Kinh thánh nói “Sợ hãi Thiên Chúa là bắt đầu của sự khôn ngoan”. Điều đó có nghĩa là sợ làm mất lòng Thiên Chúa, sợ mất Thiên Chúa và sợ hình phạt đời đời. Nhưng nỗi sợ hãi này có thể là những sức mạnh thúc đẩy mạnh mẻ. Một đôi khi, sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo sự hiện diện của một mối nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân sủng.
Nhưng Đức Giêsu không nói với chúng ta rằng chúng ta phải đặt mối liên hệ với Thiên Chúa trên nền tảng của sự sợ hãi. Đúng ra, Người thúc giục chúng ta đặt mối liên hệ ấy trên nền tảng đức tin. Người nói: “Hai con chim sẽ có thể mua với một xu phải không? Thế mà không có một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Điều Đức Giêsu làm là cố gắng đưa chúng ta từ nỗi sợ hãi đến đức tin. Sợ hãi sinh ra hoài nghi, tạo ra khoảng cách để tự vệ và được an toàn. Đức tin dẫn đến sự gần gũi thân mật, và ý thức về sự an toàn. Một tôn giáo tốt làm cho người ta hết sợ. Một tôn giáo xấu tăng thêm nỗi sợ hãi trong lòng con người.
Khi Đức Giêsu nói “Không có một con chim sẻ nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”. Người muốn chúng ta hiểu rằng nhận thức và sự chăm sóc của Thiên Chúa bao trùm tất cả và đi xa đến mức nào. Bất cứ điều gì xảy ra cho một thụ tạo của người, dù là một thụ tạo vô nghĩa nhất, thì Thiên Chúa đều thấy và đối với người, đều quan trọng – vâng, cả trường hợp một con chim sẻ rơi xuống. Sự việc Người không ngăn cản nó rơi xuống, không có nghĩa là Người thờ ơ đối với nó. Thiên Chúa không bao giờ thờ ơ lãnh đạm về số phận của bất kỳ thụ tạo nào.
Vậy nếu Thiên Chúa quan tâm đến những con chim sẻ, chúng ta có thể tin chắc rằng Người quan tâm đến chúng ta là những con cái của Người. Dù chúng ta không có được sự bảo đảm rằng không có điều gì xấu sẽ xảy ra cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cả khi phải chết, Thiên Chúa sẽ chăm sóc chúng ta.
Đức tin không phải là một ảo tưởng trấn an rằng mọi sự đều tốt đẹp. Đúng ra, nó có nghĩa là biết rõ đời sống có đầy những sự rủi ro, bất trắc, tuy nhiên vẫn vui mừng trong mọi biến cố – đó là yếu tính của đức tin.
Ngày nay, nhờ có máy Camêra an ninh, chúng ta thường hay bị nhìn, bị theo dõi bằng một con mắt lạnh lùng, vô cảm chỉ nhằm chụp lấy chúng ta khi chúng ta làm điều quấy. Cảm giác có người theo dõi chúng ta không phải là một cảm giác dễ chịu. Nhưng cảm giác có ai đó nhìn chúng ta để chăm sóc là một cảm giác yêu thương. Thiên Chúa không theo dõi chúng ta. Thiên Chúa chăm nom chúng ta. Niềm xác tín Thiên Chúa chăm nom chúng ta đem lại cho chúng ta niềm an ủi, sức mạnh và hy vọng, đặc biệt là trong những lúc khó khăn và nguy hiểm. Sau cùng chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm dịu đi những nỗi sợ hãi sâu xa nhất của chúng ta.

42. Đừng sợ
Trong Tin mừng, Đức Giêsu kêu gọi những người làm nhân chứng cho Người. Nhân chứng là những người không sợ thừa nhận mình là môn đệ của Người, sẵn sàng dấn thân vào giữa một thế giới hoài nghi và đôi khi thù địch. Sợ hãi là một điều làm cho các Kitô hữu không dũng cảm và quảng đại làm chứng cho Tin mừng. Ba lần, Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ.
May mắn thay, trong Giáo Hội, luôn luôn có những người được ân sủng của Thiên Chúa, có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và làm chứng cho Tin mừng trong những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm.
Oscar Romero là một ví dụ đáng chú ý. Khi ông được phong làm Tổng Giám mục ở San Salvador năm 1977, ông là một người bảo thủ. Nhưng sau đó ít lâu, ông đã thay đổi khi ông thấy những điều đang xảy ra. Mỗi Chúa nhật, ông giảng tại nhà thờ lớn. Bài giảng của ông nảy lửa đến nỗi những công việc trong nước dừng lại khi ông cử hành thánh lễ. Ông đã công khai lên án những tội ác mà các nhân viên trong chính phủ đã gây ra và không ai có thể nói ra.
Ông luôn bị de dọa bị ám sát. Một vài người bạn tốt nhất của ông đã bị giết chết. Còn ông, ông không thể im lặng. Ông cũng không thể trốn tránh hoặc bỏ đi. “Khi thấy có sự nguy hiểm, người mục tử không thể bỏ chạy và để mặc cho bầy chiên chống đỡ. Tôi sẽ ở lại với giáo dân của tôi”, ông nói. Ông bị bắn chết vào tháng ba năm 1980 khi đang dâng thánh lễ. Theo Romero, không cần phải tỏ ra can đảm mà phải hiểu rằng những kẻ thù của ông muốn bắt ông phải sợ, và nếu ông không sợ họ thì họ không có quyền lực nào trên ông cả. Họ có thể giết chết thân xác ông, nhưng họ không thể giết được linh hồn ông.
Còn có câu chuyện của một linh mục, trong suốt thời kỳ diệt chủng ở Ruănđa (1994) đã cho người Tutsis ẩn náu trong nhà ông. Khi một bọn phiến loạn đến trước cửa nhà ông và ra lệnh ông đuổi họ đi, ông từ chối làm điều đó, chúng bắn ông và bắt những người Tutsis đi. Cho dù chúng ta không thể ao ước tính cách anh hùng ở mức độ cao như thế thì những người như thế là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Lời của Đức Kitô chắc chắn áp dụng cho họ:”Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Mỗi nơi đều cần chứng từ của người Kitô hữu. Đức Kitô nói: “Làm chứng cho Thầy trước mặt thiên hạ”. Chính trong thế giới chúng ta phải hoạt động tích cực và có ảnh hưởng. Làm những môn đệ bí mật của Đức Kitô không đủ. Chúng ta phải đem lại cho dân chúng chứng từ về đức tin Kitô giáo.
Trong một vài quốc gia làm chứng cho Đức Kitô là đặt đời sống mình vào nơi nguy hiểm. Nhưng trong phần lớn các quốc gia, sự việc không như thế. Nhưng những nước sau cũng cần phải có những nhân chính, bởi vì đức tin và những giá trị Kitô đã bị xói mòn. Trong những nước này, việc làm chứng có khi còn khó khăn hơn. Điều mà chúng ta có lẽ phải đối diện, không phải là sự thù nghịch hoặc chống đối, nhưng là một điều gì còn khó khăn hơn: sự lãnh đạm chết chóc. Làm chứng trong trường hợp này đòi hỏi một sự can đảm đặc biệt. Điều này có nghĩa là chúng ta phải vượt qua nỗi sợ hãi của chúng ta về điều người ta sẽ nghĩ về mình hoặc nói về mình, và nỗi sợ hãi về cái giá mà chúng ta phải trả trong những lời lẽ như “Hãy để mặc kệ chúng tôi”.
Khi Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ, Người không nói rằng họ phải không bao giờ cảm thấy sợ hãi. Người biết rằng đôi khi họ phải sợ. Vấn đề là họ cảm thấy nỗi sợ hãi nào có thể là nỗi sợ hãi làm họ tê liệt hoặc trở nên quá nhút nhát khiến họ không thể làm tròn sứ mạng của họ. Đức Giêsu đã tìm cách động viên họ để họ có thể hoạt động giữa những nỗi sợ hãi.
Họ phải vượt qua sự sợ hãi như thế nào? Người thúc giục họ phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đấng chăm nom với lòng yêu thương sự sống và sự chết của họ những thụ tạo nhỏ bé nhất và ít có giá trị nhất, ví dụ như những con chim sẻ.

43. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
A. Hạt giống…
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài báo trước là người tông đồ sẽ bị bách hại nhưng khuyến khích họ đừng sợ, vì những lý do sau:
– Lý do thứ nhất: khi chịu bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình (cc 24-25 đoạn phía trước).
– Lý do thứ hai: những kẻ bách hại chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn họ.
– Lý do thứ ba: người tông đồ còn được Chúa bảo vệ, bất cứ điều gì xảy đến cho họ cũng nằm sẵn trong kế hoạch quan phòng của Chúa.
– Lý do thứ tư: nếu họ vẫn trung thành và can đảm thì họ sẽ được phần thưởng là Chúa sẽ tuyên bố nhận họ là người của Ngài.
B…. nẩy mầm.
1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (x. Cv 5,40-41). Xin cho con thêm tình yêu Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng được chịu khổ vì Chúa.
2. “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy đấng ngự trên trời”: Ta tuyên bố nhận Chúa bằng một cuộc sống đạo mạnh dạn không sợ dư luận, bằng cách tận dụng những cơ hội tốt để nói về Chúa cho người khác hiểu, và bằng cách chọn lựa coi trọng những giá trị siêu nhiên hơn những giá trị tự nhiên.
3. Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài:
– Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu?
– Một tỷ năm.
– Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu?
– Một tỷ đô la.
Anh liền xin: “Ngài có thể cho tôi một xu?”
Chúa nói: “Đợi một phút”. (Góp nhặt)
4. Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.
– Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?
– Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em!
– Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh? (Góp nhặt)
5. Nữ bác sĩ Sheila Cassidy đến nước Chilê làm việc phục vụ cho dân nghèo. Một hôm cô trị bệnh cho một lãnh tụ phe đối lập. Chính quyền biết chuyện nên bắt giam cô. Cô đã thuật lại như sau: “… Sau 4 ngày bị giam cầm và tra tấn, họ để tôi một mình trong phòng giam… Nhưng lạ thay, tôi không cảm thấy cô đơn và buồn chán, trái lại còn cảm thấy vui nữa, vì tôi biết có Chúa ở với tôi”. Bác sĩ Sheila đã cảm nghiệm được điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn chúng con”.
Hãy tự hỏi bạn sợ điều gì nhất trong đời? Và bạn sẽ nói gì với Chúa về nỗi sợ đó?
6. “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi bị đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc khổ đau” (Thánh nữ Bernadette Soubirous)

44. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
SỢI CHỈ ĐỎ
Chủ đề: Vững lòng trông cậy Chúa dù đang sống giữa khó khăn
Sợi chỉ đỏ: Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau:
– Ngôn sứ Giêrêmia bị dân do thái tìm cách làm hại (Bài đọc I – Gr 20,10-13): “Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng”
– Tác giả Tv 68 bị những người thân thích bài xích (Đáp ca – Tv 68): “Chúa nghe những người cơ khổ”
– Các sứ giả Tin Mừng bị bách hại (Mt 10,26-33): “Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”
Những vai chính trong 3 bài đọc trên đều vững lòng trông cậy nơi Chúa, với niềm xác tín được Chúa bảo vệ và giải thoát.
– Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ): “Do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần”
Minh họa
“Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta trên dương thế này thường xuyên gặp phải biết bao khó khăn gian khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng nếu chúng ta trông cậy vào Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ và giải thoát chúng ta.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa củng cố lòng trông cậy của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
– Nhiều khi gặp đau khổ, chúng ta đã bỏ đọc kinh cầu nguyện.
– Nhiều khi vì quá khổ, chúng ta phiền trách Chúa.
– Nhiều khi trong lúc khó khăn, chúng ta mê tín dị đoan.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng “Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng”.
2. Đáp ca (Tv 68)
Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của một người công chính đáng bị kẻ ác hãm hại, cùng một tâm tình với ngôn sứ Giêrêmia. Giữa những lúc khó khăn như thế, tác giả vẫn ngợi khen Chúa và tin chắc rằng Ngài sẽ nhậm lời.
3. Tin Mừng (Mt 10,26-33)
Đoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ “Đừng sợ”, bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở: “Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi”
4. Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Trong đoạn được trích đọc tuần trước, Phaolô đã bắt đầu luận đề người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà là nhờ đức tin.
Trong đoạn thư hôm nay, Phaolô đưa ra lập luận thứ nhất để chứng minh luận đề ấy:
– Do tội của Ađam mà tất cả loài người phải gánh hậu quả là cái chết.
– Do công của Đức Giêsu Ađam mới mà tất cả loài người được ơn nghĩa dư đầy của Thiên Chúa.
Như thế, con người được ơn nghĩa của Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về sự sợ
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “đừng sợ”. Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài:
– Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị năng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
– Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác: a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người; b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì “Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Cha Charles de Foucauld đã nói: “Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả”
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói “Đó là ý Chúa”; thành công hay thất bại, họ cũng nói “đó là ý Chúa”; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói “Để Chúa lo”… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! “Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm”!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng:
– Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: “Ta hằng ở với con” (Gr 1,10), “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)…
– Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (bài Tin Mừng hôm nay)
– Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: “Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì” (Mt 632).
3. Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la lớn trên mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diếm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, l61i suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ. (G. Bessière, Dieu si proche, DDB, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 211-212).
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.
Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: “Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”. Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: “Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột”.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, và hân hoan sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận, phải là quyết tâm của từng người kitô hữu. Trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của người tín hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần chăm sóc giữ gìn Người / để nhờ Người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắc son.
2. Ngày nay / nhiều kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / mất đức tin chỉ vì vốn liếng giáo lý không đủ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dùng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
3. Nhiều tín hữu hiểu một cách đơn giản rằng / tin là giữ một số lề luật của Chúa và Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu hiểu rằng / tin là gắn bó cùng Chúa và dấn thân theo Người đến cùng.
4. Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa / và hiên ngang sống đức tin / phải là thái độ căn bản của mọi tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn khôn ngoan chỉ tin tưởng một mình Chúa / và mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong đời sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn rất yếu kém, chúng con dễ hoang mang giao động trước mọi thử th1ch trong cuộc sống. Vậy, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc lời “Xin tha nợ chúng con”, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta không phó thác vào sự quan phòng của Chúa.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em hãy mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa giữa đời.

45. Đừng sợ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy…
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc là Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng ” Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2) Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ – căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ – Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!… Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”. Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi. “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian… Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn…
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2) Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên “mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.

46. Đừng sợ! – Lm. Nguyễn Khoa Toàn
It is not death that a man should fear, but he should fear never beginning to live.”
Marcus Aurelius, một điệp viên bị bắt và đuợc giải giao tới trước mặt một vị tướng. Ông này cho người tù do thám kia được chọn hoăc bị xử bắn hoặc phải đi qua một cửa đen. Người tù lưỡng lự một chút rồi chọn án tử hình. Khi bản án đuợc thi hành xong, vị tướng nói cùng những người hầu cận: “Người ta thường chọn những gì đã biết hơn là mạo hiểm phiêu lưu đến những gì chưa biết!” Một người liền hỏi: “Thế việc gì sẽ xảy ra sau cánh cửa đen kia?” “Tự do!” vị tướng lạnh lùng trả lời.
Đã có bao lần trong đời sống, khi phải diện đối diện với sự thật, chúng ta thường sợ. Không phải kính sợ Thiên Chúa mà là sợ hãi dư luận. Sợ người này buồn! Sợ người kia bối rối! Sợ ai đó ở gần ở xa suy nghĩ hoang mang. Và cái sợ vẫn vơ mơ hồ không tưởng ấy cứ vương vít. Cứ ám ảnh hằng hằng. Cứ xoáy vào óc. Cứ len lấn vào tim làm ngại bước chân đi. Rồi ngại không dám nhìn vào và nói lên sự thật. Cuối cùng, sự quẫn trí kia đã làm chúng ta sợ Sự Thật. Rồi lạc Đuờng. Và mất đi Sự Sống…
Thật thế, triết gia Bertrand Russell đã viết: “Sợ hãi là nguyên nhân đưa đến mê tín dị đoan và dã man tàn bạo.” Và theo Russell, “chế ngự sợ hãi là bước đầu đưa đến sự khôn ngoan.” Sợ đã làm con người cùn nhụt, bất toại về ý chí: thay vì giúp tiến bước thì kéo thụt lùi dần; chiến thắng trong tay thành chiến bại trong tim. Sợ như một vi khuẩn lan nhanh. Một người sợ thì cả nhà, cả xứ, cả xóm làng đều sợ, như Gilbert Murray nhận xét: “Nếu lao phổi là bệnh dịch trắng thì sợ hãi là bệnh dịch đen.”
Trong diễn văn nhậm chức năm 1933, Tổng Thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt đã phát biểu: “Điều duy nhất mà chúng ta phải sợ chính là sự sợ hãi.” Nói một cách khác, điều mà chúng ta cần phải chế ngự là sự sợ hãi nếu không thì sự sợ hãi sẽ chế ngự chúng ta.
“Đừng Sợ!” Chúa Giêsu trấn an mỗi chúng ta khi Người đưa tay cho Phêrô run rẫy bấp bênh đi trên mặt nuớc. Và Người đã cảnh tỉnh những ai chỉ biết sợ loài nguời mà lại không mảy may sợ Đấng tạo dựng loài người, vì càng sợ hãi con người bao nhiêu, càng khinh dễ Con Người bấy nhiêu.
Như trong “Dead Man Walking” – một cuốn phim rất cảm động kể lại câu chuyện có thật về Sr Helen Prejean và công việc mục vụ cho những người chờ nhận bản án tử hình, trong đó có Matthew Poncelet. Một đoạn phim, theo tôi, có ý nghĩa nhất là mẫu đối thoại giữa hai người. Poncelet khăng khăng chối tội nhưng rồi lại nói: “Tôi biết Chúa thương và tha thứ cho tôi.” Sr Prejean liền thách thức Poncelet đối diện với sự thật: “Anh không thể cho rằng Chúa sẽ tha thứ khi anh không dám thú nhận tội mình làm!”Rõ ràng là Poncelet chỉ sợ chết chứ không một mảy may sợ Chúa. Nhưng rồi với sự can đảm kiên trì và với lòng nhân ái rất bao dung, Sr Prejean đã giúp Poncelet diện đối diện với sự thật để có thể vững bước chân trên Đường gặp Sự Thật. Và Sự Sống.
Cuốn phim chấm dứt và đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi lệ khi Poncelet, ngay trước khi chết, đã thú nhận sự thật ghê tởm mình làm để có thể đạt đến Sự Thật một đời mong muốn. Nếu muốn bước đi trên con Đuờng để Sống và làm chứng nhân cho Sự Thật, chúng ta không nên chiều theo những thị hiếu tầm thường, những lời nói thiếu bề dày suy nghĩ và những cái nhìn thiếu chiều sâu toan tính. Chúng ta phải -ought to- luôn vững tin vào Chúa. Và vào chính chúng ta. Hãy đừng sợ người đời.
Hãy đừng ngại khó khăn. Và như Seneca đã nói, “không phải vì sự việc khó khăn mà chúng ta không dám; vì chúng ta không dám nên sự việc mới khó khăn.” Thuyền đời bé lắm nhưng đại dương thì cơ hồ như vô tận, nhưng không vì thế mà lại lỏng tay chèo vì Thần Linh Sự Thật đang thổi hơi giúp thuyền chúng ta luôn no gió căng buồm…

47. Đừng sợ – Fernandez
1) Dũng cảm trong đời thường
Trong bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay (Mt 10,26-33), Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta đừng sợ, nhưng hãy sống như con cái Thiên Chúa. Nhiều khi chúng ta tình cờ gặp những người luôn bị cuộc sống nhọc nhằn này đè nặng. Nghịch cảnh và trở ngại hình như cứ chực giăng mắc bủa vây những khi người ta chỉ dựa vào sức riêng con ngưới để thắng vượt chúng. Chúng ta cũng cũng thường gặp những Kitô hữu hay xấu hổ khi phải nói về Chúa hay phải nói không với cái xấu và trong những lúc cần phải xưng mình là những môn đệ trung thành của Đức Kitô. Họ sợ những lời người ta nói ra nói vào, sợ luôn những nhận xét phê bình, sợ phải lội ngược dòng đời hay bị nhòm ngó để ý. Chắng lẽ giữa môi trường ngoại giáo nơi mà người ta thường đề cao những giá trị tiền tài của cải một Kitô hữu lại không thể để cho người ta chú ý đến mình hay sao?
Chúa Giêsu nói chúng ta đừng quan tâm đến phê bình chỉ trích hay vu khống. “Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết” (Mt 10 26-33). Thật là xấu hổ nếu như có ai khám phá ra chuyện chúng ta e ngại loan báo khắp năm châu bốn bể cho mọi người biết chân lý mà Thiên Chúa đã ký thác cho chúng ta! Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai thì hãy lên mái nhà rao giảng. Nhiều khi chúng ta giữ yên lặng vì đó là hành động tốt nhất phải làm, có thể là vì những lý do khôn ngoan siêu nhiên hay động cơ đức ái nhưng không bao giờ được viện cớ sợ hãi hay nhút nhát. Là những Kitô hữu, chúng ta không được làm bạn với bóng tối hay trở thành những xó xỉnh ẩn nấp; chúng ta là bạn hữu của ánh sáng, của công khai cởi mở trong ngôn từ và hành động. Thời đại chúng ta đang sống đây lại càng tới mức cần chúng ta công bố chân lý sự thật một cách rõ ràng minh bạch. Sự giả dối và ngộ nhận hiện đang dẫn đưa nhiều tâm hồn tới chỗ lầm đường lạc lối. Có vẻ là phi lý, nhưng nhiều khi ngay cả học thuyết đúng đắn, những quy tắc ưlng xử luân lý (vốn thường theo sát lương tâm người ta trong lao động và trong cuộc sống gia đình, là lẽ thường tình của lương tri) lại bị coi nhẹ kém cả học thuyết sai lầm kỳ quặc mà người ta coi là “tiên tiến” hay “tiến bộ”.
Chúng ta không nên sợ mất những uy tín hào nhoáng giả tạo, hay bị chỉ trích phê bình hay thậm chí có khi bị sát hại vì chúng ta lội ngược dòng hay đi ngược lại những gì đang được coi là thịnh hành. Chúa Giêsu quả quyết rằng: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thằy, Đấng ngự trên trời”. Người vẫn hằng ban thưởng cho chúng ta một cách trọn vẹn cho tất cả những lần chúng ta bị người đời hiểu lầm vì chúng ta đã sống dũng cảm trong cuộc đời này, trong một thế gian thường xuyên mất khả năng hiểu biết mọi điều trừ ra những giá trị vật chất. Thánh Phaolô nói rằng: “Tôi coi mọi sự khổ đau đời này không ra gì so với vinh quang đã được tỏ hiện cho chúng ta” (Rm 8,18). Vì thế, thánh Gioan Kim khẩu chú giải thêm rằng, ai mà lại không ra sức đạt được vinh quang cao cả ấy, để sống thân thiết bằng hữu với Thiên Chúa, mang lấy Đức Kitô trong mình, nhận lãnh những phần thưởng từ Thiên Chúa ban sau bao nỗi đớn đau âu lo của trần thế. Nếu những người lính chiến trần gian này vinh quang trở về cố hương sau khi đã chiến thắng quân thù, thì còn gì vinh hiển và đáng ca ngợi hơn một khi chúng ta khải hoàn trở về thiên quốc sau khi đã chế ngự được quỷ dữ…; giương cao dấu hiệu chiến thắng…; được ngồi bên hữu Thiên Chúa khi Người đến xét xử, được đồng thừa tự với Đức Kitô; được xếp hàng với các thiên thần, với các Tổ Phụ, các Tông đồ và các tiên tri; được hân hoan vui mừng vì có Nước Trời là của mình.
2) Sức mạnh của chúng ta là biết mình trở nên con cái Thiên Chúa
Dù sống hay chết cũng không sợ, nhưng luôn luôn vui tươi khi phải giáp mặt với những khó khăn trầm trọng nhất, kiên trì đương đầu với những trở ngại đòi hỏi nhiều nỗ lực hy sinh, bình thản chịu đựng bệnh tật. Yên tâm trước một tương lai bấp bênh… Thiên Chúa muốn chúng ta sống như thế đó. Những khi có thể đươc, chúng ta nên thường xuyên mỗi ngày nhớ rằng chúng ta đã là con cái Thiên Chúa, đặc biệt là kẻ hi chúng ta bị những âu lo tương lai đen tối bủa vây tấn công. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
Như thế Thiên Chúa đã tỏ rõ tình cảm vĩ đại Ngài dành cho chúng ta và cái giá trị to lớn Ngài đã đặt nơi con người. Thánh Hiêrônimô đã chú giải đoạn Tin Mừng này như sau: Nẻo những con chim sẻ rê mạt kia vẫn luôn nhờ sự Quan Phòng của Thiên Chúa mà chẳng hề con nào rơi xuống, anh chị em là những thụ tạo đã được phú ban một định mệnh vĩnh cửu nhờ có linh hồn bất tử làm sao có thể lo sợ Đấng mà anh chị em tôn kính là Cha sẽ không chăm lo săn sóc cho anh chị em cách riêng hay sao?
Việc được làm con cái Thiên Chúa sẽ củng cố tăng cường sức mạnh cho chúng ta khi những yếu đuối bản thân bủa vây tư bề và những trở ngại giăng mắc trên đường đời; khi phải đương đầu với những khó khăn giữa một môi trường luôn luôn thù nghịch với Thiên Chúa và nhiều khi đối nghịch thô bạo với những lý tưởng Kitô giáo. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Giêrêmia ngỏ lời với chúng ta nhưng Đức Chúa ở bên tôi như người chiến binh oai hùng. Đây chính là tiếng kêu thống thiết của tiên tri trong cảnh lẻ loi bị quân thù bao vây tư bề. Những khi nguy hiểm cận kề, hay mây mù bão tố giăng kín, chúng ta có thể lập đi lặp lại những lời tự nhủ mình như thế này Thiên Chúa, là Cha tôi, Ngài luôn ở bên tôi như người chiến sĩ oai phong. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Dominus, illuminatio mea et salus mea, quem timebo? (Tv 27,1)
Và đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta (1Ga 5,4), Thánh Gioan tông đồ đã tuyên bố như thế giữa lúc bao nhiêu khó khăn đang ập tới ào ạt từ một thế giới ngoại giáo. Chính trong thế giới đó người Kitô hữu, vẫn là những công dân bình thường, đã lao động trong những ngành nghề khác nhau và thực hiện sứ vụ tông đồ một cách có hiệu quả. Và nền tảng vững chắc của một đức tin không hề lay chuyển tạo đà phát triển cho một niềm tin không mơ hồ hay ngây ngô chút nào, nhưng là một niềm kiên vững hân hoan của Kitô hữu, mặc dù có nhiều giới hạn và sự xấu xa bản thân, luôn biết rằng Đức Kitô đã nhờ Cây Thập Giá và Sự Sống lại của Người mà chiến thắng vinh quang. Có Chúa là ánh sáng và là ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ gì ai? Lạy Chúa, con còn sợ gì nữa? Con còn sợ ai nữa? Vì Chúa là ngườl canh giữ bảo vệ của cuộc đời con.
3) Can đảm và tín thác vào Thiên Chúa giữa mọi thử thách lớn nhỏ trong đời sống thường ngày
Chúa Giêsu khuyên chúng ta đừng sợ gì cả, ngoại trừ tội lỗi là nguyên nhân phá hủy tình thân hữu với Thiên Chúa và dẫn chúng ta tới chỗ bị án phạt đời đời. Khi đối diện những khó khăn, chúng ta phải tỏ ra mạnh mẽ và can đảm, như những người con đích thực Thiên Chúa. Chúa Giêsu thường bảo chúng ta đừng sợ những ai chỉ giết được thân xác anh em nhưng không thể huỷ diệt linh hồn; anh em nên sợ người có thể hủy diệt cả hồn lẫn xác anh em trong hỏa ngục. Kính sợ Thiên Chúa là một trong bẩy ơn Chúa Thánh Thần, sẽ giúp chúng ta chiến đấu một cách kiên quyết hơn với tội lỗi, với tất cả những gì có thể chia rẽ chúng ta với Thiên Chúa. Đức kính sợ ấy sẽ nhắc nhở chúng ta xa tránh những dịp tội lỗi chớ quá tự tin vào chính mình, hãy luôn nhớ rằng bản thân chúng ta có một đôi chân đất sét, mỏng dòn dễ vỡ. Những sự dữ phần xác, ngay cả cái chết, cũng không thấm tháp gì khi so sánh với những sự dữ phần hồn, với tội lỗi.
Chúng ta không nên lo lắng bất cứ chuyện gì trừ ra lo sợ đánh mất Thiên Chúa. Nỗi lo sợ canh cánh này chính là tâm tình con thảo không muốn làm mất lòng Chúa. Nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta có thể trải qua nhiều thử thách lớn lao. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta nhiều ơn cần thiết để chúng ta chịu đựng vượt qua và lớn lên mãi trong đời sống nội tâm. Ơn của Ta đủ cho các con, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta như thế.
Đấng đã giúp thánh Phaolô xưa kia thì nay cũng giúp đỡ chăm sóc chúng ta những khi chúng ta chạy đến kêu cầu Thiên Chúa, khiêm tốn và tin tưởng: Lạy Chúa, xin Chúa đừng tin con. … nhưng con đây, con đặt hết lòng tin vào Chúa. Rồi khi chúng ta cảm thấy trong trái tim này cái nhìn yêu thương cảm thông và dịu dàng của Đức Kitô – vì Người không bao giờ bỏ rơi chúng ta – chúng ta sẽ hiểu ra đầy đủ ý nghĩa của những lời thánh Phaolô tâm sự: ‘virtus in infirmitate perficitur’. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. (2Cor 12,9). Nếu chúng ta có đức tin vào Chúa Giêsu, mặc dù đã bao lần chúng ta làm lỡ – hay, đúng hơn, mặc dù chúng ta có biết bao lầm lỡ – chúng ta vẫn cứ trung thành với Thiên Chúa Cha chúng ta: quyền năng thần linh của Ngài sẽ chiếu sáng trên chúng ta, và luôn nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta.
Tuy nhiên, trong đời thường chúng ta sẽ phải sống mạnh mẽ và dũng cảm cả trong những chuyện nho nhỏ: những khi chúng ta lịch sự nhưng cương quyết từ chối một lời mời đi đến những chốn mà một Kitô hữu đàng hoàng sẽ cảm thấm bứt rứt khó chịu, những khi chúng ta phải mạnh dạn góp ý cho các giáo viên đang dậy dỗ con em chúng ta; những khi chúng ta phải cắt ngang câu chuyện nào đang đến hồi rẽ sang chuyện đáng ngờ hay những khi thấy có một cơ hội mời người bạn nào đó đi nghe hội thảo về đức tin, hay gợi chuyện dẫn tới cơ hội khéo léo khuyên nhủ ai đó đi xưng tội. Công việc tông đồ đầy tham vọng của chúng ta thường bị trì trệ hay đình đốn chỉ vì cái tính rụt rè nhút nhát trong những chuyện nho nhỏ như thế thôi. Và cũng chính nhờ những can đảm trong những việc nho nhỏ như thế mà cuộc sống chúng ta thêm nhiều hoa trái.
Trong giờ phút bị bỏ rơi bên thập giá, Đức Nữ Trinh Maria đã đứng đó bên Con mình, sẵn lòng cùng chung một số phận với con. Chúng ta hãy xua tan nỗi sợ sệt không dám sống như những Kitô hữu có trách nhiệm những lúc môi trường chúng ta đang sống không còn dễ dàng thuận lợi. Những lúc ấy Đức Maria sẽ đứng bên chúng ta, giúp đỡ chúng ta trong mọi cơn khốn khó.

48. Chứng nhân Tin Mừng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khuyên nhủ chúng ta rằng:
– Đừng sợ hãi khi phải nói lên sự thật. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ngài sẽ ân thưởng cho chúng ta, nếu nếu chúng ta luôn trung thành với Ngài.
Đồng thời, Ngài cũng truyền dạy chúng ta:
– Đừng sợ hãi, trái lại hãy can đảm công bố Tin Mừng cho muôn dân. Hãy kêu to trên mái nhà và đừng giấu kín sự gì. Bởi vì một ngày kia, tất cả đều được bật mí, tất cả đều được phơi bày.
Đừng sợ hãi khi phải đứng trước mặt thiên hạ, bởi vì sự ác và đau khổ sẽ bị giới hạn trong thời gian và không thể nào giết hại được linh hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta không trung thành với sứ mạng Chúa đã trao phó, thì chỉ nên sợ hãi trước Đấng có thể ném cả thân xác lẫn linh hồn chúng ta xuống hỏa ngục mà thôi, bởi vì những kẻ độc ác nhất trên trần gian cũng không thể nào sát hại được linh hồn chúng ta.
Đừng sợ hãi con người, bởi vì con người không thể nào cướp mất khỏi tâm hồn chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Trong khi đó, Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta. Ngài đã nuôi từng con chim sẽ và đã đếm từng sợi tóc trên đầu. Chúng ta còn cao trọng hơn những con chim sẻ và quí giá hơn những sợi tóc bội phần. Ngài đã dành cho mỗi người chúng ta một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim của Ngài.
Bởi đó, hãy tin tưởng vào tình thương cũng như vào quyền năng của Ngài và đừng bao giờ chối bỏ Ngài. Vì chưng, tuyên xưng Ngài trước mặt người đời, thì sẽ được cứu thoát. Còn chối bỏ Ngài trước mặt người đời, thì sẽ bị trừng phạt.
Ngay trong lòng Giáo hội, cũng không thiếu gì những khuyết điểm, những sai lỗi, những lầm lạc, khiến cho chúng ta cảm thấy băn khoăn và bối rối.
Không phải chỉ có những kẻ thù đã tấn công Giáo hội, mà hơn thế nữa, nhiều lúc chính những người giáo dân hữu danh vô thực, mang tên gọi tín hữu, nghĩa là là có đức tin, hay mang tên gọi Kitô hữu, nghĩa là có Đức Kitô, nhưng lại chẳng bao giờ sống đạo, sống đức tin của mình. Hơn thế nữa, họ còn quay lưng chống lại Đức Kitô cũng như chống lại Giáo hội của Ngài, hay ít nữa là họ cũng đã chối bỏ Đức Kitô, chối bỏ Giáo hội từ thẳm sâu cõi lòng của mình.
Như thế, trong phạm vi đức tin, chúng ta thấy có hai loại nguy hiểm.
Loại thứ nhất, đó là những bắt bớ, cấm cách trực tiếp nhắm vào đức tin của chúng ta. Còn loại thứ hai, cũng không kém phần nguy hiểm, đó là những sự tấn công gián tiếp, vừa tinh vi lại vừa tế nhị, vốn thường được mặc lấy những hình thức, những lý do bên ngoài vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Chẳng hạn như để hoán cải thế gian, tôi phải đi sâu vào ngôn ngữ, vào tập tục, vào cách nhìn, vào cách nghĩ cũng như vào cách sống của thế gian, để rồi cuối cùng tôi đã bị nhận chìn lúc nào cũng không hay.
Trung thành gắn bó với Đức Kitô và Giáo hội bao giờ cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh, có khi phải hy sinh cả bản thân, cả mạng sống của mình, thế nhưng đó lại là điều kiện để được cứu độ, như lời Chúa đã phán:
– Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.

49. Quan phòng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rôma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và lớn nhất của họ là gì, người thì đề nghị nên gọi là “Thần giầu sang”, người thì cho rằng nên gọi là “Thần khôn ngoan”, người khác nữa đề nghị nên gọi là “Thần uy quyền”. Sau cùng, một ông nghị phát biểu: “Theo ý tôi, chúng ta nên gọi là “Thần nhân lành”, vì nếu chúng ta gọi là “Thần giầu sang” thì những người khó có gì? Nếu chúng ta gọi là “Thần khôn ngoan” thì những người bình dân, đơn sơ chất phác có gì? Và nếu chúng ta gọi là “Thần uy quyền” thì những người khiêm tốn có gì? Vậy chúng ta muốn vị thần ấy hợp với tất cả mọi người thì chúng ta chỉ có thể gọi là “Thần nhân lành”, mọi người đều hoan nghênh.
Đối với chúng ta, những người tin Chúa Kitô, thì hơn thế nữa, chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt đẹp biết bao khi gọi Thiên Chúa là “Cha nhân lành” của chúng ta. Người Hy Lạp, Rôma ngày xưa đã không biết Chúa là Cha. Thích Ca Mâu Ni không thấy Chúa là Cha, Mahômét cũng không hề rao giảng Chúa là Cha, cả dân Do Thái trong Cựu Ước không bao giờ có ý tưởng xưng hô Chúa là Cha. Đối với họ, Thiên Chúa là ông chủ nghiêm khắc, Đấng đã ban truyền những điều răn trong sấm chớp và ánh sáng, Đấng thẩm phán sửa dạy họ nghiêm khắc mỗi khi họ bất tuân hay phản bội, nhưng từ khi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại: Chúa là Cha, Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Thiên Chúa không phải là một ông chủ độc ác, nhìn chúng ta như bầy tôi, nô lệ, nhưng Chúa là Cha, Người luôn luôn săn sóc và yêu thương chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy rõ ý tưởng đó. Sau khi khuyến khích các môn đệ hãy can đảm và mạnh dạn công bố cho mọi người biết tất cả những điều Chúa đã dạy các ông trong nơi kín đáo, Chúa khích lệ các ông đừng sợ chi cả, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, vì Thiên Chúa là Cha, Đấng thông biết mọi sự và quan phòng tất cả.
Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia: “Nào người mẹ có thể quên con mình không? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn chúng sao?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Thánh Âu Tinh nói: “Lo lắng cho cả vũ trụ còn vĩ đại hơn làm cho năm ngàn người no nê bằng năm chiếc bánh, vậy mà chẳng ai lạ lùng về chuyện đó. Chúa săn sóc mỗi người dường như chỉ có một người đó ở trên đời và Chúa săn sóc tất cả mọi người dường như Chúa săn sóc cho một người”.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta như thế, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Đừng sợ không có nghĩa là đừng làm gì, đừng lo đến sinh kế, đừng cố gắng nỗ lực. Không, ngàn lần không. Đừng sợ không phải là như vậy, nhưng có nghĩa là cứ làm, cứ lo sinh kế, cứ cố gắng nỗ lực, đồng thời phải tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Nhưng như vậy có phải là chúng ta tin chắc vào đôi tay rắn chắc khỏe mạnh chăng? Tin vào tuổi đang lên, đầy sức sống nghị lực chăng? Hoặc cậy dựa vào những người khác? Không, vì đôi tay khỏe mạnh này ngày mai sẽ yếu đi, tuổi đôi mươi sẽ chóng qua, còn nghị lực thì rất mỏng giòn, còn những người khác mà chúng ta cậy dựa vào hôm nay thì thường hay thay đổi, thiếu thiện chí và làm sao họ có thể bảo đảm cho chúng ta lâu dài được. Ngoài những điều trên, chúng ta phải trông cậy vào một sức mạnh khác, có thể bảo đảm cho chúng ta hôm nay và mãi mãi về phần hồn cũng như phần xác, sức mạnh đó chính là Thiên Chúa, vì Ngài là Cha của chúng ta, Người hoàn toàn hiểu những nhu cầu, những thiếu thốn, những ước mơ của chúng ta và Người biết những điều nào thích hợp và cần thiết cho chúng ta hơn. Cho dù một người mẹ trần gian chăm chỉ nhất, yêu thương con cái nhất, còn có thể không biết đến một vài nhu cầu của con mình, bà có thể quên sót, nhầm lẫn trong việc lo liệu hoặc lâm vào tình trạng không thể giúp đỡ con mình được. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ lâm vào tình trạng như thế. Do sự quan phòng, Ngài biết, Ngài thấy và Ngài có thể làm được tất cả.
Tuy nhiên, để được Thiên Chúa yêu thương săn sóc như thế, Chúa đòi chúng ta phải tin tưởng vào Chúa, tuyệt đối tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa, Người là Cha của chúng ta, Người luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.

50. Nỗi lòng – Trầm Thiên Thu
“Đừng sợ chi cả!”. Đó là một mệnh lệnh của Thiên Chúa – đơn giản và ngắn gọn, nhưng không dễ thể hiện, đồng thời là lời Ngài động viên mỗi chúng ta. Và đó cũng là nỗi lòng không của riêng ai!
Trong ca khúc “Hát Nữa Đi Em” (Thanh Sơn – Phố Thu) có một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Đời ai không có những tâm sự buồn?”. Dạng câu “phủ định nghi vấn” được sử dụng để làm mạnh nghĩa cách nói xác định, nghĩa là ai cũng có những nỗi lòng thầm kín “không biết tỏ cùng ai”. Chắc chắn nhứ thế! Chỉ có Thiên Chúa biết, bởi vì Ngài thấu suốt mọi sự (1Cr 12:4-6), và vì vậy, chúng ta đừng ngần ngại tâm sự với Ngài về khúc nhôi của riêng mình.
Trình thuật Gr 20:10-13 nói về tâm sự của ngôn sứ Giêrêmia. Ông bộc bạch: “Con nghe biết bao người vu cáo: ‘Kìa, lão Tứ-Phía-Kinh-Hoàng!, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!’. Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: “Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó!”. Ông Giêrêmia bị người ta ghét và đặt cho một nickname là “Tứ Phía Kinh Hoàng”. Cái lên nghe rất “kêu”, và nó cho thấy rằng thiên hạ ghét ông đữ lắm!
Tuy vậy, ông vẫn tin tưởng: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên”. Cây ngay không sợ chết đứng. Có ít xít ra nhiều, thậm chí người ta còn đặt điều, bịa chuyện để hại người khác. Có những người không ngại miệng “dựng đứng” câu chuyện gì đó, đúng là giết người không cần dao, cái lưỡi thật đáng sợ!
Với bản tính nhân loại, thấy mình bị người ta xa lánh thì ai cũng cảm thấy buồn, nhưng phải cố gắng vượt qua tất cả để có thể vẫn mãi là chính mình, và không thù hận kẻ đã ghét bỏ mình. Ông Giêrêmia cũng có cảm giác như vậy, nhưng ông đã chiến thắng và thành tín cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”. Giữ được niềm tin khi mọi người ủng hộ mình là điều không khó, nhưng giữ được niềm tin khi người khác ghen ghét mình là điều không dễ chút nào.
Với tâm trạng đau khổ, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Âu cũng vì Ngài, mà con bị người đời thoá mạ, chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày. Anh em nhà kể con như người dưng nước lã, hàng máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi. Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân. Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu” (Tv 69:8-10). Độc ác bị hành, hiền lành bị ghét. Chẳng làm sao vừa lòng hết mọi người. Đời là thế! Chấp nhận thực tế đó để lòng mình thanh thản.
Hãy noi gương Thánh Vịnh gia tâm sự với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14). Đừng lo sợ chi, bởi vì tất cả không ngoài ý Chúa: “Chính Người đánh phạt rồi lại xót thương, đẩy xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm, rồi kéo ra khỏi đại họa tiêu vong, chẳng có chi thoát khỏi tay Người” (Tb 13:2).
Thánh Vịnh gia tiếp tục cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17). Ai cũng là tội nhân nên luôn cần được tha thứ. Cứ kiên tâm cầu nguyện, Chúa vẫn lắng nghe, vẫn biết nỗi lòng của chúng ta, Ngài chưa ra tay vì “giờ Ngài chưa đến” đó thôi. Sự thật mãi mãi là sự thật, không thể khác hơn, bởi vì Thiên Chúa là chân lý, là nguồn sự thật: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhận lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm. Ca tụng Chúa đi, hỡi trời cao đất thấp, hỡi biển sâu cùng hải vật muôn vàn!” (Tv 69:33-35).
Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh tương phản: Ông Ađam và Đức Kitô Giêsu – một vị gieo mầm tội, một vị diệt gốc tội. Hai hình ảnh tương phản nhưng vẫn cùng một tổng thể, như đầu mở và đầu khép của vòng tròn. Thật kỳ lạ, Tội Nguyên Tổ được Giáo Hội gọi là “Tội Hồng Phúc” (Felix Culpa – Happy Fault) khi công bố Tin Mừng Phục Sinh (Exultet).
Thánh Phaolô giải thích: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội. Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Ađam đến thời Môsê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Ađam đã phạm. Ađam là hình ảnh Đấng sẽ tới” (Rm 5:12-14). Vì sai lầm mà sinh ra luật. Luật như dây cương cần thiết để kiềm chế con ngựa chứng. Tất cả chúng ta đều là những con ngựa bất kham đối với Thiên Chúa, cần phải được đóng hàm thiếc và cột dây cương trên đường đua về đích là Nước Trời.
Thánh Phaolô giải thích thêm: “Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5:15). Vẫn là hai hình ảnh tương phản – một bên sa ngã và phải chết, một bên giải thoát và cứu sinh.
Kiếp phàm nhân là những chuỗi giằng co giữa thiện và ác, lành và dữ, yêu và ghét, tội và phúc,… Sự giằng co đó liên tục xảy ra mọi nơi và mọi lúc, phải can đảm và mạnh mẽ mới khả dĩ vượt qua chính mình. Đó là nỗi niềm chung của chúng ta, những người mặc xác phàm trong cuộc lữ hành trần gian này. Không hề đơn giản, nghĩa là vô cùng nhiêu khê, vì thế mà chúng ta luôn phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn để chúng ta chiến thắng mọi mưu ma chước quỷ – trước tiên là phải chiến thắng chính mình, vì chính mình là nội gián nguy hiểm nhất. Đúng như tiền nhân dạy: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Mọi thứ phải bắt đầu từ chính mình.
Cả trình thuật Mt 10:26-33 (tương đương Lc 12:2-9) là lời động viên của Chúa Giêsu, Ngài khuyến khích chúng ta can đảm nói sự thật và nói công khai, nghĩa là không sợ chi cả. Trong đó, Ngài đưa ra ba cái “đừng” và muốn chúng ta phải cố gắng thực hiện.
Cái “đừng” thứ nhất: “Anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng”.
Cây kim để trong bọc lâu ngày còn bị lòi ra kia mà. Thế thì chắc chắn chẳng có gì giấu nổi, mọi bí mật sẽ được bật mí – bằng cách này hay cách nọ. Thẳng thắn thì chẳng làm gì phải sợ ai, chỉ những ai “cong queo” thì mới lén lút vì sợ người khác biết. Không sợ người ta nên mới dám ăn to nói lớn, nói công khai, nói rõ ràng, nói huỵch toẹt. Có sao nói vậy là thượng sách, bởi vì chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Cái “đừng” thứ nhì: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Chúa Giêsu bảo “đừng sợ” những kẻ không đáng sợ, mà hãy sợ Đấng đáng sợ. Ngài giải thích rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, so sánh thú vị. Con chim bé nhỏ có đáng chi mà Ngài còn lo cho nó sống thoải mái thì lẽ nào Ngài lại làm ngơ chúng ta, những người được tạo dựng giống hình ảnh Ngài (x. St 1:26-27) chứ? Sợi tóc mong manh còn được Ngài đếm rạch ròi trên đầu mỗi người kia mà! Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta tin tưởng và phó thác, bởi vì Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định mọi sự.
Cái “đừng” thứ ba: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Gọi là cái “đừng” thứ ba nhưng không thấy chữ “đừng”. Theo ý thì chúng ta thấy Chúa Giêsu bảo “đừng” chối Ngài. Ai không sợ thì mới không chối Ngài – tức là tuyên xưng Ngài, còn ai sợ thì chối ngay. Không hẳn là nói thẳng rằng “tôi không tin”, nhưng qua động thái có thể chứng tỏ sự chối bỏ Ngài.
Ai hèn nhát mà chối bỏ Thiên Chúa sẽ bị chết thêm lần thứ hai: “Những kẻ hèn nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai” (Kh 21:8). Đó là hồ lửa được mệnh danh là “cái chết thứ hai”, nơi dành cho Tử thần và những người không có tên trong Sổ Trường Sinh (x. Kh 20:14-15).
Nỗi lòng của tín nhân luôn được Thiên Chúa lắng nghe và thấu hiểu, còn nỗi lòng của kẻ bất tín thì bị lãng quên mãi mãi!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Ngài thấu suốt nỗi lòng của con, dẫu con ngồi hay đứng, con cười hay khóc. Xin thương cứu con thoát khỏi mọi mưu ma chước quỷ, dù đêm hay ngày. Xin hướng lòng con lên tới Ngài, mọi nơi và mọi lúc. Ngài tri thức siêu phàm, con không thể hiểu nổi, nhưng xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi thứ theo Thánh Ý Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

51. Đừng sợ – Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có thứ tình cảm sợ hãi. Như vậy, tự bản chất con người đã có sẵn tính sợ hãi. Ai cũng có nỗi sợ hãi. Còn sống trên đời là còn sợ. Không sợ cái này thì sợ cái khác. Không sợ người này thì sợ người kia. ‘Trẻ sợ ma, già sợ chết’. Đàn bà con gái thì sợ xuống sắc lắm. Họ mong đến tuổi hồi xuân may ra còn cứu vãn được ít nữa!
Trong Kinh thánh có rất nhiều lần Thiên Chúa phán ‘đừng sợ’. Thời cựu ước, nhiều vị ngôn sứ khi được Thiên Chúa chọn gọi cũng thoái thác vì sợ hãi, nhưng Thiên Chúa luôn bảo họ rằng: đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi. Mẹ Maria khi được sứ thần báo tin sẽ mang thai Chúa Giêsu cũng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an: ‘Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”(Lc 1,30). Khi Chúa Giêsu hiện ra trên mặt biển, các tông đồ sợ hãi tưởng là ma, Chúa bảo: chính Thầy đây, đừng sợ!
Tin Mừng Mt 10,26-33 Chúa Giêsu nhắc tới ba lần “đừng sợ”. Chúa Giêsu đã thấy trước những nỗi khó khăn, thử thách, gian truân bách hại mà các môn đệ sẽ phải đương đầu với những thế lực trần gian nên Ngài đã trấn an các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết giết thân xác mà không giết được linh hồn”. Ngài đã từng cầu nguyện rất nhiều cho các môn đệ, vì Ngài biết giữa họ và thế gian trái ngược nhau cho nên thế gian sẽ ghen ghét, vu khống, đánh đòn và giết hại các môn đệ của Chúa. Nhưng nếu đã chấp nhận làm môn đệ Chúa thì không sợ chi cả.
Thấy trước sự bắt bớ các tông đồ sẽ phải đương đầu cho nên Chúa Giêsu trấn an: đừng sợ. Lời trấn an này không chỉ dừng lại là lời an ủi, động viên, khích lệ mang tính tâm lý giao tiếp mà là một lời có kèm theo sức mạnh đồng hành của Chúa ‘vì có Ta ở với ngươi’ mà. Đây là một loại sức mạnh sánh ngang tầm với vũ khỉ bảo hộ được trao gửi làm hành tranh khi các ông phải đơn thân độc mã chống chọi với mọi nghịch cảnh éo le. Chính vì thế, sau này, hầu như chẳng môn đệ nào sợ hãi trước sức mạnh của thế gian, của kẻ thù bách hại.
Ngày 22/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II khởi đầu sứ vụ Phêrô đã nói: ‘đừng sợ’! Ngày 24/4/2005 ĐTC Bênêđictô XVI khởi đầu sứ vụ cũng nhắc lại và thêm: ‘Tôi không cô đơn, tôi không phải gánh vác một mình, điều mà thực ra tôi không bao giờ gánh vác nổi. Và lời cầu nguyện của anh chị em, những bằng hữu thân mến của tôi; lòng sốt mến, đức ái đức tin đức cậy của anh chị em đồng hành với tôi’.
Đặc tính của người lãnh đạo là can đảm và bình tĩnh. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Nếu sợ hãi bỏ chạy thì đoàn chiên sẽ tan tác. Các giám mục, linh mục, cha ông chúng ta đã không sợ hãi bỏ chạy khi có lệnh cấm đạo.
Chúa Giêsu thấy chúng ta thường hay sợ hãi nên Ngài trấn an ‘đừng sợ’. Chúng ta được cấp trên giao nhiệm vụ và bảo đừng sợ thì sẽ cảm thấy bình tĩnh, an vui, can đảm thi hành nhiệm vụ. Người môn đệ Chúa là người công bố niềm hy vọng và sự sống cho mọi người bằng lời nói và việc làm, cho nên phải can đảm: nếu thế gian, xã hội này sống gian dối, không muốn sống trong sự thật, chúng ta phải minh chứng về Tin mừng của Chúa là sự thật. Nếu thế gian tối tăm không muốn tiếp nhận ánh sáng, sợ những hành động đen tối bị phơi bày, chúng ta hãy minh chứng cho họ về Tin mừng là sự sáng thế gian. Nếu thế gian sống chia rẽ, hận thù, không yêu thương kẻ thù, chúng ta hãy minh chứng về Tin mừng là tình yêu. Nếu thế gian tranh giành nhau, đấu đá nhau thậm chí chém giết nhau để đạt của cải, danh vọng, chức quyền, chúng ta hãy minh chứng cho họ biết về Tin mừng cứu độ có sức giải phóng tất cả. Cha Charles de Foucauled nói: ‘cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là không bao giờ sợ hãi gì cả’.
Đức Tổng giám mục giáo phận San Salvador – Oscar Rômêô không chấp nhận bất công xã hội, mỗi chủ nhật ngài giảng đều tố cáo tội ác mà đa số do các viên chức chính phủ. Lời của ngài ảnh hưởng rất lớn tới xã hội. Khi ngài giảng mọi người ngưng việc lắng nghe. Tính mạng của ngài bị đe doạ. Một vài người bạn bè của ngài bị giết. Ngài vẫn không im tiếng, không trốn đi nơi khác. Ngài nói: ‘một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi’. Và ngài đã bị bắn chết dưới làn đạn vào tháng 3/1980 lúc đang dâng thánh lễ.
Số phận đời đời của chúng ta cũng tuỳ thuộc vào tư cách sống chứng nhân cho Lời Chúa, chứ không phải trên tư cách là một người mang một tên gọi cho dẫu tên gọi ấy hay lắm, đẹp lắm, xứng đáng lắm. Chúa đã từng từ chối dứt khoát những kẻ chỉ thờ kính Ngài bằng môi miệng còn lòng dạ thì xa Chúa. ‘Hãy xéo đi hỡi quân làm điều gian ác. Ta không biết các ngươi là ai’.
‘Vì phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời'(Mt 10,33). Chắc chắn chúng ta phải sợ Đấng ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: ‘nhưng có Chúa ở với tôi như một chiến sĩ oai hùng, nên những kẻ tìm hại tôi sẽ phải lảo đảo và không thắng nổi tôi’. Đó là niềm xác tín của một ngôn sứ, một nhân chứng. Và không một nhân chứng nào thoát khỏi con đường gian nan, bấp bênh. Vậy nếu trong cuộc sống đề cao tình nghĩa yêu thương mà chúng ta gặp những gian nan thử thách, trù dập, vu cáo, chống đối…đó là những dấu chỉ chắc chắn nhất chúng ta đã đi đúng con đường của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta đã không sợ hãi thì hãy can đảm rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm ở tất cả mọi nơi mọi lúc.

52. Người tông đồ nhiệt thành
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Các bài đọc của tuần XI mời gọi các Kitô hữu hãy trở nên sứ giả Tin mừng, đem ơn cứu rỗi của Chúa đến cho mọi người. Tuần này, Chúa báo trước cho chúng ta rằng muốn làm tông đồ của Chúa phải can đảm, vững tâm, đừng sợ trước những gian nan thử thách. Nếu Chúa là chủ và là Thầy mà người ta còn xử tàn tệ như thế, thì chúng ta, những tôi tớ, những môn đệ của Chúa cũng không tránh khỏi con đường đó. Nhưng Chúa khuyên chúng ta đừng lo âu sợ hãi vì Thiên Chúa quan phòng luôn nâng đỡ, che chở và hộ phù mọi sứ giả của Chúa. Hãy có một đức tin vững vàng và một đức cậy sáng suốt mà hành động, và phần thưởng của chúng ta đang chờ nếu biết xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
Người ta thường nói:”Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử”: không vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Muốn đem Tin mừng đến cho người khác thì người tông đồ phải biết dấn thân và dấn thân cũng gần có nghĩa như liều mạng. Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân. Ngài không nề quản những khó khăn vất vả, những gian nan thử thách, ngay cả đến tính mạng của mình vì ngài luôn tâm niệm:”Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin mừng”. Các thánh Tông đồ cũng đã dấn thân rao giảng Tin mừng và kết cục là đã nhận lấy cái chết vì Chúa.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở cho cúng ta cái tư tưởng là “Đừng sợ”. Chúng ta có thể tìm thấy từ ngữ “đừng sợ” 365 lần trong Thánh Kinh. Người Tông đồ chỉ có thể tìm được sự can đảm nếu biết tin cậy phó thác cho Chúa. Chính Ngài sẽ ban ơn đầy đủ để chúng ta có thể hòan thành sứ mạng đã được giao phó. Qua kinh nhgiệm, thánh Phaolô đã khẳng định được tư tưởng trên khi ngài nói:”Omnia possum in eo qui me confortat”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 20,10-13.
Tiên tri Giêrêmia là một con người đau khổ triền miên. Ông đã lãnh nhận nhiệm vụ tuyên sấm cho người Do thái, một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm: Ông phải vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là trò hề cho họ nhạo báng sỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên: Ôi, hành hung, ức hiếp… nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr 20,7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa… Ông tiếp tục công bố sứ điệp vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bài đọc 2: Rm 10,226-33.
Bài đọc 2 hôm nay chỉ là chủ đề phụ, không hoàn toàn ăn khớp với bài đọc 1 và bài Tin mừng, theo đó, thánh Phaolô dạy chúng ta rằng nếu vì liên đới với nguyên tổ Ađam mà chúng ta phải mang tội và phải chết, thì nhờ kết hợp với Đức Kitô, chúng ta sẽ được lãnh nhận ân sủng và sự sống.
Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn lao hơn tội lỗi và sự chết là lương bổng của tội lỗi, khiến cho tội của Adam trở nên “Tội hồng phúc” (bài Exultet) vì nhờ đó mà Ngôi Hai Thiên Chúa mới xuống thế làm người và ở cùng chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Mt 10,26-33.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng tuần trước: Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng nhưng đồng thời Ngài cũng phải khuyến cáo họ rằng rao giảng Tin mừng không phải là một chuyện dễ dàng, phải dùng đến nội lực, phải can đảm và vững lòng trông cậy trước những khó khăn chồng chất, ngay cả khi bị hãm hại. Đừng sợ! vì Chúa quan phòng luôn ở bên cạnh để che chở. Đừng sợ vì Cha trên trời đã lưu ý đến cả những con chim chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu từng người. Chúa đã dựng nên tất cả, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn những thứ bé nhỏ như thế, huống chi đối với các tông đồ của Chúa. Ngoài ra, Chúa còn hứa ban thưởng cho những ai dám tuyên xưng Chúa ra trước mặt thiên hạ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chân dung người tông đồ
Bản chất của Kitô hữu là truyền giáo. Mọi người phải trở thành sứ giả Tin mừng. Sứ mạng thì cao qúi, nhưng thực thi sứ mạng đó rất cam go, việc rao giảng đòi hỏi nơi người tông đồ một số đức tính mà thiếu nó thì không thành công. Dựa theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta cho rằng muốn thành công trong việc rao giảng, người tông đồ phải có 3 đức tính sau đây:
I. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI DẤN THÂN.
Đứng trước những công việc khó khăn, ai cũng thấy ái ngại. Những khó khăn trong việc rao giảng Tin mừng không phải là tình cờ hay do may rủi, nhưng đã được Chúa Giêsu báo trước: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Con chiên sẽ là mồi ngon cho bầy sói, nguy cơ bị ăn thịt luôn rình rập. Người tông đồ phải sống hiền lành như con chiên, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Tin mừng.
Chúa Giêsu cũng còn cho biết: số phận của tông đồ là bị bách hại, vì nếu Chúa Giêsu mà còn bị bách hại thì làm sao họ lại tha các môn đệ? Vì thế, Chúa đã dặn trước:”Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em ; anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến. Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,23-24).
Bài đọc hôm nay cũng cho biết tiên tri Giêrêmia phải loan báo cho dân biết những hình phạt mà Thiên Chúa sẽ trút xuống dân. Những lời loan báo này chẳng hay ho gì đối với dân, lại làm cho họ bực mình, nên họ đã chống đối ông, hành hạ ông và muốn giết ông (x. Gr 20,10-11). Các tông đồ nhận trách nhiệm đi rao giảng lời Chúa cho muôn dân, cũng bị người ta chống đối, hành hạ và giết chết. Các ông đã phải dấn thân vào chỗ nguy hiểm. Số phận các ông cũng giống như Chúa Giêsu.
Những Kitô hữu đầu tiên rất ý thức về sự quan trọng của việc truyền bá đức tin. Họ mang trong lòng lời dặn dò của Chúa Giêsu trước khi về trời là hãy rao giảng Tin mừng cho đến tận cùng trái đất. Tuy nhiên, loan báo Tin mừng một cách công khai đã không phải là một chuyện dễ dàng, bởi vì, trong thời gian đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu đã bị bách hại. Giữa những người Do thái, nhiều người xem những người chuyển sang Kitô giáo như là những kẻ phản bội, và tìm cách loại trừ. Làm chứng đức tin trong thời kỳ này, đôi khi là liều mạng sống. Chính vì thế mà một vài người bị cám dỗ sống âm thầm, kín đáo, không dám lên tiếng.
Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”.. Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua: 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì:
Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai.
(Nguyễn Bá Học)
Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng: con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục: con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không?
– Thưa con muốn.
Một sự dấn thân trọn vẹn: Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn (André Sève, Sương mai, tr 77).
II. NGƯỜI TÔNG ĐỒ PHẢI CAN ĐẢM: ĐỪNG SỢ.
Con người không biết sợ được coi là một người can đảm. Nói theo kiểu bình dân, người ta gọi đó là người “có gan cóc tía”. Con người dám liều mạng vì lý tưởng cao cả, không gì có thể lay chuyển được chí khí của họ., không khó khăn nào có thể làm cho họ chùn bước hay bỏ cuộc. Tấm gương sán lạn của thánh Phaolô tông đồ đã chứng tỏ điều đó. Cuộc hành trình truyền giáo của Ngài đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhưng không gì làm cho ngài chùn bước:
Cũng có lúc mưa dồn sống vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong,
Chí những toan xẻ núi lấp sông,
Làm nên đấng phi thường đâu đấy tỏ.
(Nguyễn công Trứ)
Nhưng bình thường, con người có nhiều nỗi lo sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thấn v.v… Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống… Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng… Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng bảo cho các tông đồ:”Đừng sợ”. Ngài đã thấy trước bao nhiêu gian nan khốn khó đang chờ đón các ông khiến các ông nản lòng. Hãy can đảm lên vì đã có Chúa ở bên. Các ông hãy nhớ lại lần vượt biển bị sóng gió đánh tơi bời, tưởng chừng thuyền chìm tới nơi. Nhưng Chúa Giêsu đã can thiệp, sóng gió phải vâng lời Ngài, biển lại trở nên tĩnh lặng như tờ. Ngài khuyên bảo các ông một mặt dựa vào Chúa, một mặt cứ vững tay chèo lái con thuyền đời mình:
Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng.
(Ca dao)
Chúa Giêsu bảo:”Đừng sợ vì không có gì che giấu mà sẽ không bị tỏ lộ ra, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn La tinh có câu:”Chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Đức thánh Cha Gioan Phaolo II hay nhắc đến đề tài này trong các huấn dụ của ngài.
Khi vua Giacôbêâ VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đầy André Meville, ông khảng khái đáp:”Vua không thể treo cổ hoặc lưu đầy chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bầy, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người nhận đúng phần công của mình.
Người tông đồ nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể toi mạng. Người đời không ưa chân lý vì “chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau” (Diogens). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng ngài nói lớn như nói với chính mình:”Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy”. Kế đó, ngài ngưng, rồi nói tiếp: ”Latimer, Latimer. Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông:”Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”. Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Các tín hữu thời sơ khai đã gặp bao nhiêu khó khăn, nhưng họ tỏ ra luôn vững tin, không nao núng trước những thử thách. Sử gia Tertullianô đã viết về họ:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, tại vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.. Câu:”Kẻ muốn theo Ta phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng Kitô hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu.Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường”.
Người làm tông đồ phải được huấn luyện, tập cho mình biết hy sinh chịu đựng mà không kêu ca phàn nàn. Người làm tông đồ hãy theo cách huấn luyện thanh niên ở thành Spartes: Hằng năm, một số trẻ em thành Spartes cử hành lễ CHỊU ĐỰNG, các em phải chịu đựng cho roi quất vào mình, máu chảy, thịt rách nhưng không được thối chí hay khóc lóc. Châm ngôn của họ là đau không khóc, đói không than. Ngoài ra, các em phải tự mưu sinh ở trong rừng một thời gian, chiến đấu với thú rừng để sinh tồn.
Chớ gì người tông đồ tỏ ra kiên trung, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để một lòng một dạ theo chân Chúa dù phải đòn vọt, gông cùm hoặc phải nhận lấy cái chết:
Chân xiềng cổ lại đeo gông,
Chết anh anh chịu, anh không buông nàng.
(Ca dao)
Truyện: Gương can đảm.
Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau:
Ghèssèssén là một bé trai Eùthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui ve ûvà sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Oâng không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.
Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.
Ngày nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi:
Con đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ôâng ôm hôn con, và con hôn đầu gối Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve:
– Ta và Mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ: “Dạ”.
Con đã trả lời:
– Không.
Cha con nói gằn giọng:
– Mày nói gì?
– Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.
– Im đi! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!
– Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.
Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to:
– Đồ bị chúc dữ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo! Ta thích mày chết đi còn hơn!
Ôâng nghiến răng, nắm tay đấm. Ôâng dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to:”Phải phạt nó”.
Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại:
– Hãy bỏ tôn giáo đó đi! Nếu không, tao giết mày như một con vật.
– Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.
Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.
Ba con lại hỏi một lần nữa:
– Có bỏ đạo Công giáo không?
Con trả lời:
– Không, thà chết…
Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ôâng hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích!
Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu:
– Cho con đến Gouala, nhà các Cha.
Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ôâng đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.
Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói:
– Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao? Xin đừng sợ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.
III. NGƯỜI TÔNG ĐỒ LUÔN TRÔNG CẬY VÀO CHÚA.
Trên bước đường truyền giáo, người tông đồ không còn biết trông cậy vào ai, chỉ còn biết trông cậy vào sự quan phòng của Chúa. Tuy không thấy Chúa nhưng phải tin rằng lúc nào cũng có cánh tay của Chúa đang hướng dẫn và hộ phù.
Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống:”Ta hằng ở với con” (Gr 1,10) hoặc “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 26,20).
Người tín thác vào Chúa luôn tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không có gì xẩy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa:”Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”(bài Tin mừng hôm nay).
Người phó thác cho Chúa xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Một người cha tốt lành lo cho con tất cả, đem đến cho con những gì tốt lành nhất:”Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”(Mt 6,32).
Truyện: Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.
Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em:
– Em đang làm gì vậy?
Em bé trả lời:
– Cháu đang chơi thả diều.
Người kia ngạc nhiên hỏi tiếp:
– Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.
Em bé thưa lại:
– Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.
Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài.
(Hạt giống âm thầm, tr 196)
Chúng ta hãy tiếp tục triển khai lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Hãy tìm hiểu câu nói đầy ý nghĩa này:
Thiên Chúa đóng kín cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.
Đây là câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống của đạo sâu xa. Thiên Chúa đóng kín cửa chính đó là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc ta đương đầu với thử thách khó khăn. Lúc đó chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn, và trước đó ta không ngờ những kinh nghiệâm đau thương tiêu cực, mà ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa, để mời gọi ta bước ra một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị ta sẵn sàng đón nhận những hồng ân mới.
Nhìn lại cuộc sống, có thể mọi người chúng ta sẽ cảm nghiệm được những giây phút, Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta.
Khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, thì Ngài sẽ mở ra cửa sổ, chúng ta hãy nhìn trong những biến cố đau thương, tiêu cực xẩy ra trong cuộc đời, với tinh thần tích cực lạc quan và sự tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Chính những lúc ta gặp thử thách đen tối, là lúc ta cần tin tưởng phó thác vào Chúa nhiều hơn nữa. Hãy ngắm nhìn thấy những cánh cửa sổ Thiên Chúa mở ra cho cuộc đời mình. Mỗi người chúng ta cần sống trong sự hiện diện của Ngài, cần lưu hướng về Ngài trong việc thực hành cầu nguyện đối thoại với Ngài. Khi gặp thử thách đau thương, chúng ta không nên giảm bớt hay bỏ quên việc cầu nguyện, chạy đến tiếp xúc với Thiên Chúa.

53. Đừng sợ
Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.
Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau: “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi”. Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra đúng vấn đề của chúng ta khi nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Phúc âm hôm nay tiếp tục những hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các tông đồ khi Ngài sai họ ra đi loan truyền Tin Mừng của Vương Quốc Thiên Chúa. Những giá trị của Tin Mừng rất khác biệt với những giá trị của trần thế. Do đó sứ điệp của Tin Mừng và ngay cả những người loan tin cũng thường bị người đời từ chối và chống báng. Lịch sử của Giáo Hội đã chứng minh rằng hầu như tất cả các tông đồ đã bị giết chết một cách thê thảm. Thánh Phêrô và Anrê đã bị đóng đinh trên thập giá. Thánh Gioan Tiền Hô, Giacôbê và Phaolô đã bị chặt đầu. Thánh Barthôlômêô đã bị lóc thịt lột da. Thánh Stêphanô bị ném đá chết… Vì thế, các tông đồ sợ hãi khi phải thi hành sứ mạng trong một thế giới thù nghịch là điều rất tự nhiên. Nhưng nếu vì sợ hãi để cứu lấy xác thịt mà bỏ rơi việc rao giảng Tin Mừng lại là một nguy hiểm nữa. Do đó Chúa Giêsu đã hướng dẫn họ làm thế nào chiến thắng nỗi sợ hãi này. Điều chính yếu là hãy nhìn vào chính Chúa Giêsu như một vị anh hùng gương mẫu như Ngài đã dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ”.
Phúc âm đưa ra hai sự sợ hãi: sợ bị tố cáo gian, bị tuyên án, và sợ bị hại thân xác, bị chết. Trong bất cứ trường hợp nào, Chúa Giêsu dạy họ phải chiến thắng sự sợ hãi bằng cách tập trung tâm trí vào, không phải đời này và bây giờ, nhưng vào Vương Quốc Thiên Chúa sẽ đến mai sau. Phải có sự phó thác tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo số 303 đã nói: “Thánh Kinh nhất trí làm chứng rằng: sự ân cần chăm lo của Chúa quan phòng thì cụ thể và trực tiếp. Ngài chăm lo cho mọi sự vật, từ những sự vật bé nhỏ nhất đến những biến cố lớn lao nhất của vũ trụ và của lịch sử”. Đúng như lời Chúa phán: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”.
Một mục sư cùng với một nhóm học sinh từ Canađa đi sang Kenya – một quốc gia ở phía đông Phi Châu – theo chương trình huấn luyện về truyền giáo vào mùa hè. Họ sử dụng chiếc xe Jeep để có thể lái đến những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Trong một chuyến viếng thăm nọ, chiếc xe Jeep bị hỏng và họ phải mướn những người thợ máy địa phương trong làng sửa chữa giùm. Người thợ máy đã tìm ra chỗ hỏng nhưng phải đi lên tỉnh để mua đồ phụ tùng về thay thế, rồi mới trở về để sửa xe được. Anh phải làm việc vất vả suốt ba ngày mới sửa được chiếc xe Jeep.
Mục sư kể rằng vì sợ công việc sửa chữa này quá tốn kém, ông tìm cách bắt ép anh thợ máy địa phương tính giá rẻ. Ông đã đi vào trong phòng vệ sinh, lấy gần hết số tiền đang có trong ví ra và dấu vào trong hai đôi vớ. Ông làm vậy với ý đồ là khi người thợ máy nói với ông số tiền phải trả, ông sẽ mở ví ra và nói: “Anh hãy nhìn xem, đây là tất cả số tiền của tôi có”. Sau đó, ông đi khỏi phòng vệ sinh và sẵn sàng lên đường. Ông nói với anh thợ máy,:Và bây giờ, anh tính bao nhiêu tiền công sửa xe?” Anh thợ máy nhìn mục sư và nói: “Thưa mục sư, ngài là người của Thiên Chúa. Tôi làm việc này cho Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ trả công cho tôi. Đối với ngài thì miễn phí, khỏi tính tiền”. Mục sư kết thúc câu chuyện với lời thú nhận rằng anh thợ máy, qua đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đã chiến thắng được nỗi sợ hãi của sự nghèo nàn và sự dính bén tới tiền bạc, mà chính ông, một nhà truyền giáo đã không thể làm được việc đó.
Trong phần mở đầu của cuốn sách suy niệm có tựa đề là “St. Teresa’s bookmark”, “Cái đánh dấu trang sách của thánh têrêsa” đã ghi những lời sau đây: “Đừng để điều gì quấy rối bạn, đừng để điều gì làm bạn sợ hãi. Tất cả mọi sự sẽ qua đi, còn Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Kiên trì đạt được tất cả. Đối với người có Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì – chỉ mình Thiên Chúa là đủ”.
Những lời này cũng tóm tắt đầy đủ ý nghĩa của những bài Thánh Kinh trong thánh lễ hôm nay dạy ta phải tin tưởng vào tình yêu, sự quan phòng và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ từ bỏ những ai trung thành với Ngài.

54. Đừng sợ
Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.
Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được”.
Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết: “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu”. Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.
Cũng giống như thánh nữ Têrêsa Avila, sự nghiệp của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất, cũng bị sàng sẩy bởi vô số những kinh nghiệm ngập tràn sợ hãi. Khi được Thiên Chúa gọi, ông sợ mình còn quá trẻ. Ông sợ không biết phải nói gì và nói thế nào để dân chúng biết ông nói nhân danh Thiên Chúa. Ông sợ phải đối chọi với những người khác về sự thật tội lỗi của họ. Ông sợ phải nói lời của Thiên Chúa. Ông sợ vì không nói lời của Thiên Chúa và khi đã nói ra ông lại sợ những hậu quả của hành động của mình. Nhưng sau cùng nhờ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa tiên tri đã hát lên rằng: “Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau:
“Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi. Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra. Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa”.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”.

55. Thân phận – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Đâu là thân phận con người giữa trời đất? Cao cả hay thấp hèn? Vĩ đại hay tầm thường? Sâu sắc hay hời hợt? Can đảm hay nhát sợ? Tất cả chỉ tìm được câu trả lời trong Đức Giêsu Kitô.
ĐỪNG SỢ!
Có nhiều mãnh lực đang đe dọa mạng sống con người. Thiên nhiên, muông thú v.v. đều dễ dàng áp đảo con người bé nhỏ và yếu đuối. Nhưng những mãnh lực đó không đáng sợ bằng chính con người. Vì sợ hãi có người chấp nhận mọi điều kiện để bảo toàn mạng sống, dù phải bán rẻ linh hồn, danh dự v.v. Vì sợ hãi, nhiều người không dám làm gì, chỉ khoanh tay nhìn thời sự xoay vần. Đúng là hạng chết nhát! Tệ hơn nữa, nỗi sợ còn đẩy nhiều người vào con đường gian ác, ngu xuẩn, phản bội. Trước những sợ hãi phi lý đó, Đức Giêsu trấn an: “anh em đừng sợ người ta.” (Mt 10:26) Người nhấn mạnh: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.” (Mt 10:28) Nếu có phải sợ, chỉ nên sợ một mình Thiên Chúa, vì Người là “Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10:28)
Nhưng Thiên Chúa không muốn đối xử với các tín hữu với bộ mặt ghê sợ đó. Trái lại, “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:16) Bằng chứng, “ngay tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” (Mt 10:30) Người săn sóc từng người. Người làm bá chủ chim trời cá biển, tới mức “không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em.” (Mt 10:29) Chính Thiên Chúa đã làm cho “anh em quí giá hơn muôn vàn chim sẻ.” (Mt 10:31) Thực ra, giá trị cuộc sống không đo bằng số lượng vật chất, nhưng bằng chính niềm tin nơi Thiên Chúa.
Nếu tất cả không xảy ra ngoài thánh ý Thiên Chúa, tại sao phải sợ hãi trước các mãnh lực đe dọa con người? Chính cái chết là đầu mối sinh ra mọi sợ hãi nơi con người. Thực vậy, “vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết.” (Rm 5:15) Nhưng “tử thần đã bị chôn vùi.” (1 Cr 15:54) “Thực vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết.” (1 Cr 15:25) Nếu tử thần không lướt thắng nổi Người, thì những người trông cậy Chúa còn phải sợ chi nữa? Nhưng nếu không sống trong nguồn ân sủng là Thiên Chúa, con người chỉ còn sợ hãi. Chẳng có sức mạnh nào lấn át được Thiên Chúa! Vậy mà Thiên Chúa dùng tất cả sức mạnh tình yêu nhằm bảo vệ con người. Vượt qua nỗi sợ hãi bình thường, các môn đệ sẽ can đảm dấn thân làm chứng cho Chúa trước muôn dân. Với cánh tay hùng mạnh, Thiên Chúa “đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo,” (Gr 20:13) để trở thành nguồn hi vọng độc nhất của toàn thể nhân loại.
Chỉ niềm tin mới mạc khải tất cả lý do tại sao có niềm hi vọng lớn lao. Càng tin tưởng vào Thiên Chúa càng không lo sợ. Thực vậy, “ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (Rm 5:15) Chính nguồn ân sủng lớn lao đó khiến chứng nhân can đảm leo “lên mái nhà rao giảng điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm hay điều anh em nghe rỉ tai.” (Mt 10:27) Lời giảng phải bộc lộ tất cả niềm tin sâu xa nơi Thiên Chúa. Tất cả định mệnh con người tín hữu đều tùy thuộc vào sứ mệnh rao giảng. Thực vậy, công cuộc Phúc âm hóa nhân loại hôm nay không thể hoàn thành, nếu người tín hữu không dấn thân tích cực vào việc làm chứng cho Đức Kitô. Bởi thế, Chúa mới nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,” (Mt 10:32) Nhờ những tiếng nói gan dạ đó, cả nhân loại sẽ bừng tỉnh trước Tin Mừng được các chứng nhân mạnh dạn “nói ra giữa ban ngày.” (Mt 10:27)
MỘT CHỨNG TỪ CAN ĐẢM
Càng suy nghĩ càng thấy các chứng nhân Tin Mừng có đủ lý do vượt lên trên mọi sợ hãi để “rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.” (2 Tm 4:2) Mỗi thách đố đều thức tỉnh Giáo Hội và làm nảy sinh những phương pháp Phúc âm hóa mới lạ, phù hợp với các biến chuyển trên thế giới. Hôm nay, cuộc rao giảng Tin Mừng đang gặp thách đố lớn tại Hoa Kỳ vì vấn đề lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ Hoa Kỳ. Đứng trước vấn đề đó, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ có đưa ra những giải pháp hợp tình hợp lý không? Giáo Hội đã làm gì trước sức tấn công như vũ bão của lực lượng truyền thông, mà không đánh mất nét Tin Mừng trên khuôn mặt của mình?
Như Đức Giêsu, Giáo Hội phải thể hiện được nét nhân từ ngay khi phải chiến đấu quyết liệt. Trước hết, ĐHY Oscar Rodriguez Maradiaga giáo phận Tegucigalpa, Honduras, đã lên tiếng tố cáo giới truyền thông Hoa Kỳ và nêu đích danh ông Ted Turner, người sáng lập đài CNN, “người công khai chống Công giáo.” Các tờ báo New York Times, Washington Post, và Boston Globe đang áp dụng các chiến thuật giống như các bạo chúa Diocletian, Neron, Stalin và Hitler để bách hại Giáo Hội (CWNews 11/06/02).
Trước cơn bách hại của giới truyền thông, các vị lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Trong suốt buổi họp tại Dallas, các ngài không ngừng khẩn nài Thánh Linh trợ giúp. Kết quả những biện pháp đã được công bố để đề phòng các vụ vi phạm tính dục trẻ em. Các ngài đã chính thức xin lỗi các nạn nhân và gia đình của họ. Một chính sách cấm các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em thi hành công vụ, kể cả việc dâng lễ và phục vụ trong các hội từ thiện Công giáo. ĐGM Wilton Gregory nói: “Từ nay trở đi, những người bị phát giác vi phạm tính dục trẻ em sẽ không được làm việc trong Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ nữa.” (Zenit 14/06/02) Nhưng các giám mục quyết định các linh mục lạm dụng không tức khắc bị loại khỏi hàng ngũ linh mục như chính sách “bất khoan dung” đề ra. Các linh mục đó có thể bị đẩy về hàng ngũ giáo dân, nhưng tiến trình tùy thuộc vị giám mục chủ chăn, cùng với ban cố vấn chủ yếu là giáo dân. ĐHY Anthony Bevilacqua giáo phận Philadelphia đã trả lời Hội Nhà Báo: chính sách đó phản ánh nhu cầu tỏ bày “tấm lòng cảm thông của Đức Kitô” đối với các linh mục. (Zenit 14/06/02) Thế là giới truyền thông đã vô tình tạo cơ hội cho Tin Mừng được rao giảng qua thái độ bao dung và nhân hậu của Giáo Hội.
Phải chăng đây cũng là cơ hội cho các linh mục nhận thức rõ về chính mình như những “thừa tác viên của lòng nhân hậu” hay như “chứng nhân của lòng Thiên Chúa xót thương.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) ĐHY Cipriani kêu gọi các linh mục hãy phục hồi tất cả giá trị của bí tích giao hòa như tặng phẩm của lòng Thiên Chúa xót thương. Sứ mệnh và lẽ sống của linh mục “là một dụng cụ sống động của ân sủng Thiên Chúa.” (Zenit 17/06/2002) Giáo Hội là điểm qui tụ những “thừa tác viên phục vụ lòng tha thứ của Thiên Chúa.” (Cipriani: Zenit 17/06/2002) Có thể thấy rõ chứng từ ấy trong cách Giáo Hội Hoa Kỳ đối xử với các giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ em.

56. Anh em đừng sợ
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Thánh Mátthêu ghi chép rất rõ, đây là Lời Chúa Giêsu dành cho Mười Hai Tông Đồ, bài học căn bản này là bài học để cho các Tông Đồ lo công việc sứ mạng Tin Mừng của Chúa trao cho. Ngài cho biết thời gian gian truân khổ ải còn trổi vượt hơn cực hình mà ngôn sứ Giêrêmia phải làm chứng thời xưa. Thiếu niềm tín thác, người được sai đi rao giảng Tin Mừng sẽ sống trong hồi hộp lo sợ không ngừng, sợ phải nói lên sự thật, sợ người có thế lực hành hạ: “Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con”.
Câu kết thúc bài học của Chúa Giêsu trong Phúc Âm hôm nay nghe như dễ, nhưng thực hành điều ấy không dễ: “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên trời. Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên trời.”
Các Tông Đồ Chúa đã vâng lệnh loan truyền Lời Chúa khắp nơi, không giấu diếm điều gì, các ngài loan truyền điều gì đã nghe và đã thấy khi thụ huấn nơi Chúa Giêsu. Bài học Phúc Âm hôm nay thực hành qua các thế hệ kế tiếp các Tông Đồ, không những hàng Giám Mục là những người thừa kế sứ mạng các Tông Đồ, mà cả đến những người thấp kém nhất trong Hội Thánh của Chúa Kitô. Nhớ lại lịch sử các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta sẽ cảm phục lòng tín thác anh dũng của các ngài, dù sống trong cơ cực, dù gông cùm, dù bị hành hình khủng khiếp, các ngài không hãi sợ nhưng vẫn một lòng cậy tin, và các ngài còn hát lên để ca khen Danh Chúa Kitô trước án tử hình của các ngài.
Nhưng nếu các bạn chưa tin yêu Ngài, chúng ta cũng đừng hãi sợ, vì Chúa Giêsu dặn như thế, vì chính sợ hãi sẽ làm cho chúng ta mất can đảm, mất bình tĩnh.
Đức Phật đã tu luyện cao thâm, một hôm có một tên cướp giết người đến hăm dọa mạng sống của ông, ông nói với tên cướp ấy rằng, khi anh giết tôi, xin anh thỏa mãn nguyện vọng cuối cùng đời tôi, là anh hãy chặt đứt cành cây kia đi.
Chỉ một lát gươm cành cây rơi xuống đất.
Tên cướp nạt lớn: “Còn gì nữa?”
Đức Phật bình tĩnh nói: “Bây giờ xin anh ráp cành cây ấy lại với thân cây như cũ”.
Tên cướp cười ngất: “Ông điên hả, chỉ có người điên mới làm như ông bảo”.
“Anh chính là người điên ấy, vì anh hành động ấu trĩ quá. Anh có biết rằng, người có thế lực là người biết xây dựng và là những người có thể chữa lành được”.
Thánh Kinh đồng hóa Thiên Chúa với sự khôn ngoan thượng trí, nếu chúng ta cầm, đọc và nghiền ngẫm Thánh Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều hữu ích cho cách xử thế của chúng ta hằng ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Đừng sợ hãi, hãy tín thác vào Chúa”. Nếu bạn quá lo sợ, bạn sẽ làm hại chính bản thân.
Ngày nọ Dịch Tả vội vã đến làng Damas, dọc đường gặp nhóm người đi buôn bán, anh trưởng đoàn ấy hỏi:
– Anh đang tính làm kế hoạch gì vậy?
Dịch Tả đáp rằng:
– Tôi đi lấy một ngàn mạng sống tại làng Damas.
Xong việc Dịch Tả trở về, gặp lại nhóm trưởng giả ấy, họ cật vấn:
– Anh nói chỉ giết một ngàn người, nhưng sao đến mười ngàn người chết?
Dịch Tả mỉa mai:
– Tôi chỉ giết đúng một ngàn thôi, phần còn lại là do họ quá sợ hãi mà bị chết đó thôi.
Trong các cuộc di tản bởi chiến tranh, trong các biến cố do thiên tai khủng khiếp, kê ra số người chết vì sợ gấp nghìn lần số người chết vì bom đạn và thiên tai.
Chúa Giêsu hiểu rất rõ tâm trạng sợ sệt của chúng ta, đặc biệt của các đồ đệ của Ngài, nên khi vừa sống lại, Ngài đã đến đem bình an cho họ và đã trao ban Thánh Thần cho họ. Khi lãnh nhận Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống, Phêrô đã can đảm đứng lên rao giảng Tin Mừng và tiếp theo đó các sứ đồ đã hãnh diện vì được chịu khổ nhục và cực hình vì Danh Chúa.
Cọp chết để da, ta chết để sống. Người Kitô hữu chúng ta sống vì Tin Mừng của Chúa Kitô, và những ai tìm biết Chúa Kitô, sống Tin Mừng Chúa Kitô, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ giữ lời hứa, Ngài sẽ giới thiệu chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha, để chúng ta được Chúa Cha nhìn nhận chúng ta và chúng ta được sống hạnh phúc.

57. Thiên Chúa quan phòng
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta còn nhớ: khi sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông đừng mang theo bao bị, bạc tiền, nghĩa là Ngài đòi các ông phải ra đi trong một tình trạng bấp bênh nhất. Sở dĩ như vậy là để các ông tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Ngài.
Chúng ta cũng thế. Sống giữa những gian nan và thử thách, khổ đau và hiểm nguy, rất có thể chúng ta sẽ bị gục ngã. Tuy nhiên, nếu có chết, thì cũng chỉ là một cái chết về phần xác mà thôi.
Thế nhưng, đối với những người có đức tin, nhận biết giá trị đích thực của linh hồn, thì cái chết này không đáng sợ. Thân xác có chết nhưng giữ được linh hồn là giữ được tất cả. Trái lại, mất linh hồn là mất hết.
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng để tâm lo lắng cho thân xác một cách thái quá, mà lãng quên phần linh hồn của mình, đúng như lời Chúa đã cảnh báo:
– Tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu đuối.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Đối với chúng ta thì khác. Là người Kitô hữu, chúng ta tin tưởng vào việc quan phòng của Chúa. Chúng ta xác tín rằng Ngài hằng yêu thương và chăm sóc chúng ta.,
Đó không phải là một sự quan phòng yếu ớt đến độ Ngài không thể trợ giúp chúng ta được gì cả, nhưng là một màu nhiệm phong phú và ngập tràn tình thương. Chúng ta có một người Cha trên trời. Ngài là nguồn mọi tình phụ tử. Nếu một người cha phần xác mà còn biết yêu thương và chăm sóc cho con cái mình, thì huống nữa là Thiên Chúa, người Cha chúng ta ở trên trời, Ngài dư quyền năng và ngập tràn tình thương, lẽ nào Ngài lại chẳng đoái nhìn và chăm sóc cho con cái mình hay sao?
Là con Thiên Chúa, chúng ta có quyền được Ngài gìn giữ và chở che. Bởi đó, chúng ta phải biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Nước Thiên Chúa hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, rồi sau đó mới đến những tạo vật khác.
Và những thụ tạo ấy cũng phải được chúng ta nhìn dưới ánh sáng của Chúa. Chim trì không gieo không gặt, mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi ăn. Cánh hoa đồng nội không dệt không may mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và tô điểm bằng những màu sắc lộng lẫy. Vậy chúng ta lại chẳng đáng giá hơn chim trời và cánh hoa đồng nội đó sao?
Dù gặp phải cảnh nghèo túng hay gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn có thể vui mừng cảm tạ Chúa vì Ngài biết những việc Ngài làm và những sự chúng ta cần đến.
Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em:
– Con có đau lắm không?
Em trả lời:
– Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.
– Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không?
– Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.
Và cha Vianney đã nhận xét:
– Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa.
Riêng trong lãnh vực tông đồ truyền giáo, chúng ta hãy ý thức: Chúng ta là những thành viên trong “công ty” của Chúa. Việc chúng ta làm là việc của Chúa. Chính Chúa mới là Đấng quản trị mọi sự. Ngài là người đầu tiên bị thiệt thòi hay được hưởng lời. Ngài là người chịu trách nhiệm nhiều nhất.
Do đó, cuộc sống của chúng ta liên hệ tới Ngài nhiều hơn là liên hệ tới chính bản thân chúng ta. Không có điều gì xảy ra ngoài ý muốn của Ngài. Ngài điều khiển mọi việc chúng ta làm. Chúng ta thành công là chính Ngài thành công. Chúng ta thất bại là chính Ngài thất bại.
Từ đó, Chúa luôn đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta hai thái độ chính yếu:
– Thái độ thứ nhất, đó là phải thừa nhật quyền ưu tiên của Chúa, của Nước Trời. Đây phải là việc chúng ta lo liệu trước tiên vì chỉ có Ngài, chỉ có nước Ngài mới đáng kể. Giữ được linh hồn mình là giữ được tất cả. Còn mất linh hồn là mất hết.
– Thái độ thứ hai, đó là phải xác tin rằng Chúa sẽ không bao giờ để cho chúng ta phải thiếu những gì chính đáng và cần thiết. Và nếu có thiếu chăng nữa, thì ơn lành của Ngài cũng sẽ bù lại. Vậy hãy để cho Chúa hành động và hướng dẫn dòng đời chúng ta.
Với hai thái độ trên, chúng ta có thể mỉm cười và cảm tạ Chúa giữa những đau khổ và thử thách mình phải gánh chịu.

58. Sợ hãi
Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.
Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích:
– Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.
– Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?
Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên:
– Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.
Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”.
Vâng, chính tình yêu hoàn hảo dành cho những người phong cùi bất hạnh đã khiến ông Raoul Follereau không một chút sợ hãi vi trùng Hansen ghê rợn, không mảy may kinh khiếp máu mủ hôi tanh của bệnh nhân phong cùi.
Chính tình yêu hoàn hảo là tình yêu đã dẫn Đức Giêsu đến chân thập giá.
Chính tình yêu hoàn hảo đã thúc đẩy các tông đồ can đảm chịu bách hại và bình thản bước tới cái chết.
Chỉ trong một đoạn ngắn của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nhắc lại ba lần câu: “Anh em đừng sợ”. Con người có muôn vàn nỗi sợ; sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói. Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt… Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra. Nếu đem phơi trần các nỗi sợ hãi, có khi chúng ta phải phá lên cười… Không ít người để cho nỗi sợ hãi biến các buổi bình minh tươi sáng, an bình thành những chiều hoàng hôn ảm đạm, buồn thảm!
“Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”. Một khi đã yêu Chúa rồi, chúng ta sẽ can đảm rao giảng lời Chúa, chúng ta chẳng còn sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Một khi đã yêu anh em rồi, chúng ta chẳng còn sợ ai đố kỵ, ghen ghét, hận thù; chẳng còn ghê tởm, kinh hãi những kẻ thấp kém, đốn mạt, hung hăng. Chính tình yêu là khí giới xua đuổi mọi sợ hãi đang dằn vặt con người, cho dù là cái chết. Vì chính tình yêu của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta từ đêm dài tăm tối của tử thần đến bình minh sáng lạn của đời sống mới.
Nếu Thiên Chúa là đấng nhân ái đã lấy tình yêu rộng lớn của Người mà ôm ấp nhân loại vào lòng thì chúng ta hãy mạnh dạn mà đặt trọn niềm tin nơi Người. Thật vậy, hôm nay Đức Giêsu khẳng định: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Nếu Thiên Chúa là đấng độc nhất vĩnh cửu, đã dùng sự khôn ngoan mà hướng dẫn, dùng sức mạnh mà bảo vệ, dùng tình yêu mà giữ gìn con người, thì chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không tin cậy phó thác nơi Người.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu, Người đã nâng đỡ chúng ta trên mọi nẻo đường, và luôn sẵn sàng ban cho chúng ta muôn vàn ân huệ trong mỗi thăng trầm của cuộc sống, thì chúng ta còn lý do gì để bi quan và sợ hãi.
Chính đức tin thắng vượt sợ hãi, đức tin là con đê vững chắc để chống lại những đợt sóng dữ dội là các nỗi sợ hãi. Đức tin đem lại sự an bình nội tâm để đối phó với căng thẳng và gánh nặng của cuộc đời. Đức tin biến cuồng phong thành gió mát, thất vọng thành hy vọng.

59. Hãy nói ra giữa ánh sáng
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Chương 10 ghi lại những điều liên quan đến việc chọn lựa nhóm Mười Hai, sứ vụ và phần thưởng cho họ. Dàn bài của chương nầy có thể phân chia như sau: bổn phận phải làm của các tông đồ (10,5b-15); những phản ứng của con người trước hoạt động của các tông đồ (10,16-25); làm thế nào để chịu được và vượt qua những hoàn cảnh bất thuận lợi như thế (10,26-39); cuối cùng là phần thưởng dành cho các tông đồ (10,40-42). Đoạn 10,26-39 có thể phân chia thành hai phần: bổn phận loan báo điều đã nghe (10,26-31); tương quan với Chúa Giêsu (10,32-39). Cấu trúc của đoạn 10,26-31 như sau: – Mở đầu và kết thúc bằng mệnh mệnh “Vậy đừng sợ!” (10,26a.31a); – Loan báo là ý muốn của Thiên Chúa (10,26b-27); – Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ (10,28-31). Sự xuất hiện của mē oun + phobeomai, “đừng sợ”, trong hai câu 10,26 và 31 làm thành inclusio đóng khung đoạn nầy. Các câu 10,32-33 thuộc về đoạn tiếp theo, và nói đến tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Giêsu và con người.
Chủ đề của đoạn là đề đến việc đừng sợ để loan báo tin mừng. “Đừng sợ” xuất hiện đến 3 lần (10,26a.28.31a). Một đàng việc loan báo tin mừng là ý muốn của Thiên Chúa nên không có gì phải sợ. Thiên Chúa sẽ trợ giúp để việc ấy được hoàn thành. Đàng khác Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ. Người không để họ phải hư nát hoàn toàn do bắt bớ và giết chết khi loan báo tin mừng. Loan báo là ý muốn của Thiên Chúa (10,26-27). Mở đầu hai câu là mệnh lệnh ngỏ với các tông đồ “Đừng sợ chúng!” (c. 26). Autous, “chúng”, ám chỉ những người bắt bớ các tông đồ (x. 10,19.23) và “người đời” (10:17.32). Tiếp theo là mệnh đề gar, “vì”, giải thích lý do tại sao không phải sợ hãi. Mệnh đề nầy được trình bày thành hai phần song song và đồng nghĩa: “điều che đậy sẽ được mở ra – điều giấu kín sẽ được thấu biết”. Câu hỏi đặt ra là nội dung của điều được giấu kín là gì? Chủ ngữ của động từ ở dạng thụ động apokalyptō, “tỏ lộ” và ginōskō, “thấu biết”?
Tin mừng, cho đến lúc trước khi các tông đồ được sai đi, được rao giảng cách đặc biệt và riêng tư cho họ (13,11). Bây giờ đã đến lúc tin mừng phải được loan báo bởi các tông đồ. Tin mừng nầy không thể bị che giấu do sợ hãi, vì Thiên Chúa sẽ ban cho các tông đồ điều họ sẽ nói (10,19), và Chúa Thánh Thần sẽ nói trong họ (10,20). Như thế, Thiên Chúa là tác nhân làm cho tin mừng được tỏ lộ, apokalyptō, và nhận biết, ginōskō, qua lời rao giảng của các tông đồ. Vậy, các tông đồ không phải sợ những người bắt bớ, vì lúc Thiên Chúa muốn cho tin mừng được loan báo là lúc Người hoạt động trong các tông đồ để điều nầy được thực hiện.
Câu 27 tiếp theo trình bày cách thế loan báo tin mừng như thế nào để được gọi là không sợ hãi. Các tông phải loan báo tin mừng nơi ánh sáng và trên mái nhà. Hai câu 26 và 27 được trình bày gồm những cặp từ tương phản: che dấu-tỏ lộ, giấu giếm-nhận biết, bóng tối-ánh sáng, rỉ tai-loan báo. Chúa Giêsu không nói rõ nội dung loan báo là gì, mà chỉ nói “điều Tôi nói với anh em”. Chúng ta có thể hiểu “điều” ấy chính là những lời giáo huấn của Người. Trong câu 11,25 chúng ta gặp thấy cả hai hạn từ kryptō, “giấu giếm”, và apokalyptō, “tỏ lộ”. Chúng có Thiên Chúa làm chủ ngữ. Từ “tỏ lộ” được dùng duy nhất cho Chúa Cha (10,27;11,25; 16,17) và Chúa Con (11,27). “Tỏ lộ” là đưa ra ánh sáng điều đã được thực hiện mà người ta chưa biết đến. Điều được tỏ lộ liên quan trực tiếp đến các lời, việc và Chúa Giêsu; tauta “những điều nầy” ám chỉ các lời nói và việc làm của Chúa Giêsu (11,25). Nói tóm, đó là mầu nhiệm Nước Trời. Vậy các tông đồ không phải sợ, vì Thiên Chúa muốn điều Người đã nói với các ông qua Chúa Giêsu được tỏ lộ ra cho mọi người.
Thiên Chúa gìn giữ người tông đồ (10,28-31). Chủ đề “đừng sợ” tiếp tục được bàn đến trong đoạn nầy. Chúa Giêsu đưa ra mệnh lệnh “Đừng sợ!” hai lần, và phân biệt hai đối tượng khác nhau (10,28[2x]). Câu 28 chia thành hai phần kết cấu theo dạng đối đảo: A “…giết thân xác, …không thể giết được linh hồn” – A’ “…có thể giết linh hồn và thân xác”. Trường hợp thứ nhất “Đừng sợ người chỉ giết được thân xác” ám chỉ sự kiện các tông đồ sẽ bị bắt và bị giết (x. 24,9), như các ngôn sứ trước họ đã chịu (x. 23,34.37). Trường hợp thứ hai “Phải sợ Đấng có thể giết chết thân xác, và ném linh hồn vào hoả ngục” ám chỉ quyền năng và quan phòng của Thiên Chúa. Theo kết cấu đối đảo nầy, việc giết được hay không giết được linh hồn là điểm được nhấn mạnh. Chỉ sợ ai giết được linh hồn mà thôi.
Sōma mà Chúa Giêsu nói đến bao hàm cả con người hơn là một thể xác. Nhiều lần Matthêô dùng từ nầy để chỉ cả con người, bao hàm cả linh hồn và thể xác, như khi nói đến việc tay hay chân có thể gây nên dịp tội. Trong trường hợp nầy “toàn sōma”, nghĩa là cả con người, bị ném xuống hoả ngục (5,29-30; x. 6,23.25). Tuy nhiên, Matthêô cũng phân biệt sōma, “thể xác” và psychē “linh hồn” như hai yếu tố tách biệt trong một vài trường hợp, chẳng hạn như ở câu 28 nầy (x. 26,12; 27,58.59). Psychē, “linh hồn”, đồng nghĩa với sự sống của con người (2,20; 6,25). Khác với sōma, psychē không bị tiêu tán bởi cái chết. Bởi đó, Chúa Giêsu thường nói phải lo lắng cho sự sống đời sau hơn là sự sống đời nầy (16,25.26; 20,28). Vậy, lý do thứ hai người tông đồ không phải sợ là vì người bắt bớ không có quyền năng như Thiên Chúa để có thể giết được linh hồn.
Một lý do khác nữa để đừng sợ dựa trên sự lo lắng và quan phòng cách đặc biệt của Thiên Chúa (10,29-30). Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chim sẻ và giá trị của nó để nói đến việc chăm sóc của Người. Trong Matthêô con chim sẻ trị giá chỉ một đồng tiền bằng đồng (assarion); trong khi giá của nó trong Luca là hai đồng (Lc 12,6). Một đồng tiền bằng đồng (copper coin) trị giá chỉ bằng một phần mười sáu của đồng bạc (denarius). Một đồng bạc là lương làm công một ngày (20,2). Giá không đáng kể của con chim ngụ ý giá trị của nó rất khiêm tốn. Rồi việc nó chết đi, “rơi xuống đất” không ngoài sự cho phép của Thiên Chúa; tương tự việc một sợi tóc rơi xuống. Vậy, Chúa Giêsu đưa ra lý chứng a fortiori. Người đi từ điều nhỏ nhất là giá trị của con chim và sợi tóc (10,30) để đi đến điều lớn hơn là các tông đồ. Việc con chim chết đi, hay sợi tóc rụng xuống Thiên Chúa còn cho phép, huống gì là việc các tông đồ bị bắt bớ hay giết đi đều không ngoài ý muốn của Thiên Chúa.
Để kết luận, Chúa Giêsu thêm lần nữa mệnh lệnh “Vậy đừng sợ!” (10,31). Lần nầy, oun, “vậy”, qui về những điều đã trình bày trước như là nền tảng cho mệnh lệnh nầy. Khẳng định “Các con quí giá hơn nhều chim sẻ” muốn nói là các tông đồ có một chỗ đặc biệt trong sự chăm sóc của Thiên Chúa (x. 6,26).
Chúa Giêsu sai các tông đồ đi loan báo tin mừng. Thử thách và bắt bớ luôn đến với họ. Tuy nhiên họ không phải sợ bất cứ điều gì, vì Thiên Chúa luôn ở với họ. Người muốn tin mừng được loan báo, nên Người ban cho các tông đồ miệng lưỡi và ân sủng. Nếu phải bị giết chết, điều ấy là ý muốn của Người. Người tông đồ chỉ sợ một mình Thiên Chúa để khỏi sợ những điều khác.

60. Chú giải và suy niệm của William Barclay
Mt 10, 26-31:
SỨ GIẢ ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI SỢ HÃI
Trong đoạn Kinh Thánh ngắn này, ba lần Chúa Giêsu truyền bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ giả phải có lòng can đảm không hề sợ hãi, phải khác người thường.
1. Mệnh lệnh thứ nhất trong câu 26-27 nói lên sự không sợ trong hai phương diện:
a) Họ không phải sợ vì chẳng có gì che giấu mà sẽ không lộ ra và chẳng có gì kín mà sẽ không biết. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ chiến thắng. Châm ngôn La tinh có câu: “Chân lý vĩ đại và chân lý sẽ thắng”. Khi James VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đày Andrew Melville, Melville đáp: “Vua không thể treo cổ hoặc lưu đày chân lý”. Khi Kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí tử đạo vì đức tin, ta phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự việc được phơi bày, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của Kitô hữu sẽ được minh giải và mỗi người sẽ nhận lãnh đúng phần thưởng của mình.
b) Họ không sợ hãi, nhưng can đảm rao giảng sứ điệp mình đã nhận. Những gì Chúa Giêsu truyền bảo, họ phải nói lại cho loài người. Câu này đủ nói lên chức năng thật của người truyền giáo.
Trước hết chính ta phải nghe, ta phải ở riêng với Chúa Giêsu để trong những giờ phút tăm tối, Ngài có thể phán dạy, và trong nơi cô quạnh, Ngài có thể thì thầm bên tai ta. Không ai có thể nói về Chúa Giêsu trừ người đã được Ngài nói với. Không ai có thể công bố chân lý trừ phi đã được nghe vì không ai có thể nói điều mà mình không biết. Khi những ngày trọng đại của cuộc cải chính sắp thành hình, Colet mời Erasmus đến Oxford để giảng loạt bài về Môsê hay Isaia, nhưng Erasmus biết mình chưa sẵn sàng. Ông viết thư phúc đáp: “Tôi là người học để sống với chính mình nên tự biết tôi thiếu chuẩn bị, không dám nhận mình có đủ tri thức cần cho công tác lớn như vậy, tôi cũng không nghĩ mình có đủ sức mạnh để chống chọi nổi với sự ghen ghét của nhiều người khi họ cương quyết giữ lập trường. Cuộc chiến đấu không cần người mới tập tễnh mà cần một tướng lãnh lão luyện. Chắc anh cũng không cho tôi là người khiếm nhã trong việc từ chối một địa vị mà nếu tôi nhận thì trở thành người vô cùng khiếm nhã. Anh Colet ơi, như Plautus đã nói, anh đòi nước nơi đá bọt là điều không khôn ngoan. Tôi quả là liều lĩnh nếu dạy điều mình chưa từng học. Làm sao tôi có thể sưởi ấm những tấm lòng lạnh lẽo khi chính tôi còn đang rét run cầm cập?” Người nào giảng và dạy trước hết phải ở trong nơi kín nhiệm để nghe và học.
Thứ hai, người truyền giáo nói điều mình đã nghe Chúa Kitô và phải nói dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể mất mạng. Người đời không ưa chân lý, như Diogenes nói: “Chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau”. Một lần Latimer đang giảng, có cả vua Henry dự, ông biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng, ông nói lớn như nói với chính mình: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henry đấy”. Kế đó ông nghỉ, rồi nói tiếp: “Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây”.
Người đem một sứ điệp nói cho loài người nhưng phải nói trong sự hiện diện của Chúa. Khi chôn John Knox, người ta nói về ông “Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người”. Chứng nhân là người không biết sợ, vì họ biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh mọi phán xét tạm thời. Người truyền giáo là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì biết rằng, dù nghe hay nói thì đều ở trong sự hiện diện của Chúa.
SỨ GIẢ KHÔNG SỢ HÃI
LÒNG CAN ĐẢM CỦA NGƯỜI NGAY THẲNG
2. Mệnh lệnh thứ hai ở trong câu 28. Một cách đơn giản, điều mà Chúa Giêsu nói là không có hình phạt nào của con người có thể so sánh được với số phận tối hậu của một người phạm tội bất trung và bất tuân Chúa. Con người có thể giết chết thể xác nhưng Chúa có thể lên án chết linh hồn. Ở đây có ba điều cần lưu ý:
a) Có người tin vào sự bất tử có điều kiện. Đó là niềm tin chủ trương rằng phần thưởng của nhân đức là linh hồn người lành sẽ thăng lên, lên mãi cho đến chừng người ấy hội nhập với sự bất diệt, với phúc lành của Thiên Chúa và hình phạt cho kẻ dữ vì nó không sửa chữa đường lối mình dù Chúa đã kêu gọi, linh hồn người ấy cứ đi xuống luôn cho đến cuối cùng là tiêu tan, chấm dứt hiện hữu. Chúng ta không thể dựng nên một giáo lý chỉ dựa trên một đoạn Kinh Thánh nhưng điều Chúa Giêsu phán ở đây lại giống như vậy.
Người Do Thái biết rõ sự kinh khủng về hình phạt của Chúa:
“Quả Ngài có quyền trên sự sống và sự chết, Ngài đưa xuống tận âm phủ rồi Ngài kéo lên. Còn người ta bởi lòng ác có thể giết chết, nhưng khi linh hồn xuất rồi, nó không tài nào dẫn về được cũng không giải thoát được linh hồn ra khỏi âm phủ” (Kn 16, 13-14)
Trong cuộc khởi nghĩa Macabêô, bảy anh em trong gia đình tử đạo đã khuyến khích nhau bằng cách nói rằng: “Đừng sợ kẻ tưởng có thể giết chúng ta, vì cực nhọc và đau đớn khủng khiếp của phần hồn trong khổ hình đời đời đang chờ những kẻ phạm giới luật của Chúa”.
Chúng ta nên nhớ rằng sự trừng phạt của loài người chẳng nghĩa lý gì đối với sự trừng phạt của Thiên Chúa và phần thưởng Ngài ban.
b) Điều thứ hai đoạn này dạy chúng ta là còn một chỗ trong đời sống mà chúng ta có thể gọi là sự kính sợ thánh. Người Do Thái biết rõ sự kính sợ này. Người ta kể một ngày kia rapbi Jochanan đau. Môn đệ đến thăm. Nhìn thấy họ, ông khóc. Các môn đệ thưa: “Ôi ngọn neon của Israel, trụ cột tay hữu, cái búa đại năng, tại sao người khóc?” Người đáp: “Nếu ta bị dẫn đến trước một vua trần gian là người nay còn mai mất, nếu có giận ta thì cơn giận của người ấy không phải là vĩnh viễn, nếu người ấy có bắt giam ta thì sự giam cầm cũng không phải là muôn đời, nếu có lên án tử hình thì sự chết không phải đời đời, người đó ta có thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng của hối lộ, vậy mà ta cũng còn khóc. Phương chi bây giờ được đưa đến trước Vua muôn vua, Đấng Thánh đáng chúc tụng, Đấng vẫn sống và còn mãi đến đời đời. Nếu Ngài nổi thịnh nộ cùng ta, cơn giận của Ngài là vĩnh viễn; nếu Ngài hạ ngục, sự tù đầy là vĩnh viễn; nếu Ngài lên án chết, sự chết đó là đời đời. Ngài là Đấng ta không thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hoặc bằng hối lộ. Hơn nữa, trước mặt ta có hai con đường, một dẫn đến thiên đàng, còn đường kia dẫn đến địa ngục, và ta không biết sẽ được dẫn đi đường nào, ta lại không khóc sao?”
Không phải tư tưởng gia Do Thái quên đi tình yêu. Tình yêu là điều trọng đại nhất. Người ta nói: “Phần thưởng cho người nào hành động vì tình yêu là gấp đôi hoặc gấp tư. Hãy hành động với lòng yêu thương, vì nơi nào có sợ hãi thì nơi đó không có tình yêu, và nơi có tình yêu thì nơi đó không có sợ hãi, ngoại trừ trong sự tương giao của Chúa”. Người Do Thái bao giờ cũng chắc chắn, trong liên hệ với Chúa, có cả yêu lẫn kính: “Kính sợ Chúa và yêu mến Ngài, luật dạy cả hai, hãy hành động với tình yêu và lòng kính sợ. Hành động bởi tình yêu, không ai yêu mà lại ghét. Hành động bởi kính sợ, vì không ai kính sợ mà dám chống nghịch”. Người Do Thái cũng không bao giờ quên sự thánh thiện của Chúa, chúng ta cũng phải vậy.
Đối với người tín hữu, vấn đề càng ràng buộc hơn, vì chúng ta không phải sợ Chúa phạt, nhưng sợ làm buồn lòng Ngài. Người Do Thái cũng như Chúa Giêsu không bao giờ phải đối diện với mối nguy tình cảm hóa tình yêu của Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, nhưng Ngài cũng thánh thiện vì Ngài là Chúa. Trong lòng và trong tư tưởng chúng ta phải có chỗ cho tình yêu để đáp ứng tình yêu của Thiên Chúa, cho sự tôn sùng, kính sợ để đáp ứng sự thánh thiện của Ngài.
c) Hơn nữa, đoạn này cho chúng ta biết có những điều tệ hại hơn cả sự chết, mà một trong đó là sự bất trung. Nếu một người phạm tội bất trung, nếu họ dùng danh dự đánh đổi lấy sự an thân thì không còn đáng sống nữa. Người ấy không thể đối diện với loài người và với chính mình, càng không thể đối diện với Chúa. Có lúc những tiện nghi, an toàn, dễ dãi và chính đời sống khiến chúng ta phải trả giá đắt.
SỰ GIẢI THOÁT KHỎI SỢ HÃI VÌ CHÚA CHĂM SÓC
3. Mệnh lệnh thứ ba ở trong câu 31, dựa vào sự chắc chắn được Chúa chăm lo từng li từng tí. Nếu Người chăm sóc chim sẻ thì chắc chắn Ngài chăm sóc con người.
Mátthêu nói rằng hai con chim sẻ bán đi để lấy 1 xu, ấy thế chẳng có con nào rơi xuống đất mà Chúa lại không biết. Luca cho ta biết lời Chúa Giêsu phán đó dưới một hình thức hơi khác: “Năm con chim sẻ há chẳng bán 2 đồng xu sao? Thế mà trước mặt Chúa không một con nào bị bỏ quên” (Lc 12,6). Điểm đáng lưu ý ở đây là: hai chim sẻ bán được 1 đồng xu (đồng xu là assarion, tức là 1/16 đơniê), nhưng người mua sẵn sàng trả 2 xu để được không phải bốn mà đến năm con chim sẻ. Con chim được thêm ở trong tình trạng mặc cả, không có giá trị gì. Cả đến con chim sẻ bị mặc cả Chúa cũng chăm sóc đến, mà theo sự tính toán của con người, nó chẳng đáng giá gì. Nhưng cả đến con chim sẻ cho thêm đó cũng đáng giá trước mặt Chúa.
“Chẳng một con chim nào rơi xuống đất mà Chúa không biết”. Theo văn mạch chữ “rơi” khiến ta tự nhiên nghĩ đến sự chết nhưng rất có thể tiếng Hy Lạp dịch từ một từ Aram có nghĩa là “đậu trên đất”. Không phải Chúa chỉ lưu ý đến con chim sẻ rơi xuống và chết, mà hơn nữa Ngài còn lưu ý mỗi lần nó đậu xuống và nhảy trên đất. Lý luận của Chúa Giêsu là nếu Thiên Chúa còn chăm lo đến một con chim sẻ như thế huống chi là chúng ta!
Người Do Thái cũng biết và hiểu rõ lời Chúa đang phán. Không một dân tộc nào có quan điểm như thế về sự chăm sóc tỉ mỉ của Chúa đối với thụ tạo của Ngài. Rapbi Chanina nói “Ở thế hệ này không ai làm tổn thương đến ngón tay mình, trừ phi Chúa đã định”. Các rapbi có câu “Chúa nuôi cả thế gian từ cái sừng trâu cho đến cái trứng của con rận”. Hillel có lời giải thích kỳ diệu về Thánh vịnh 136. Thánh vịnh ấy khởi đầu bằng câu chuyện về Chúa là Thiên Chúa sáng tạo, Chúa làm nên bầu trời, trái đất, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao (câu 1-9), kế đến, mô tả Chúa của lịch sử và Chúa giải cứu Israel từ Ai Cập và chiến đấu cho dân này (câu 11-24), sau hết tiếp tục nói đến Chúa là Đấng ban đồ ăn cho mọi loài xác thịt (câu 25). Chúa dựng nên thế gian, Chúa kiểm soát lịch sử cũng chính là Chúa ban đồ ăn cho loài người. Bánh chúng ta ăn mỗi ngày cũng do một hành động của Chúa giống như hành động tạo thành vũ trụ và giải phóng khỏi thân phận nô lệ Ai Cập. Tình thương của Chúa không chỉ thấy trong sự toàn năng của cuộc tạo thành và trong những biến cố lớn của lịch sử, nhưng còn thấy trong việc chăm sóc thể xác con người hằng ngày. Sự can đảm của sứ giả vua dựa trên xác tín rằng dù việc gì xảy ra, sứ giả không bao giờ trôi dạt ra khỏi tình thương và sự chăm sóc của Chúa. Sứ giả biết thời giờ của mình vĩnh viễn ở trong tay Chúa, Ngài sẽ chẳng quên, chẳng bỏ con người, con người sẽ được sự chăm sóc của Ngài bao bọc. Nếu vậy, chúng ta còn sợ ai?
Mt. 10, 32-33
SỰ TRUNG TÍN VÀ BAN THƯỞNG
Đoạn Kinh Thánh này đề cập đến hai phương diện của người Kitô hữu trung thành. Nếu một người trung thành với Chúa Giêsu đời này, Ngài sẽ trung thành với người ấy ở đời sau của người ấy. Nếu một người hãnh diện nhận Chúa Giêsu là chủ, Ngài sẽ vui nhận người ấy là tôi tớ của Ngài.
Một sự kiện lịch sử rõ ràng là nếu trong Hội Thánh sơ khai không có những người khi đối diện với sự chết, khổ hình, đau đớn, đã không chịu chối bỏ Chúa Giêsu thì chắc không có Hội Thánh ngày nay. Hội Thánh ngày nay được xây dựng và thiết lập trên sự trung thành tuyệt đối của những người giữ vững lòng trung tín của họ.
Pliny, quan tổng đốc xứ Bithini viết cho hoàng đế Trajan về cách ông đối xử với người tín hữu trong tỉnh mình. Những điệp viên đã báo cáo cho ông về một số Kitô hữu. Pliny kể lại là đã cho những Kitô hữu này cơ hội để cầu khẩn các thần của Rôma, dâng hương và rượu lên ảnh tượng hoàng đế và cuối cùng là bắt buộc họ nguyền rủa danh Giêsu. Và ông thêm rằng: “Không thể bắt buộc những người thật sự là Kitô hữu làm những việc này”. Ngay cả đến các quan tổng đốc cũng thừa nhận sự bất lực của mình trong việc lay chuyển lòng trung thành của họ.
Dù vậy người ta vẫn có thể chối Chúa Giêsu:
1. Chúng ta có thể chối Chúa bằng lời nói. Người ta thuật chuyện về J. P. Mahaffy, một học giả nổi danh thế giới, xuất thân từ đại học Trinity, Dublin. Khi được hỏi ông có phải là Kitô hữu không thì ông đáp “Có, nhưng không tích cực như vậy”. Ông muốn nói rằng mình không để Kitô giáo xen vào xã hội mà ông đang giao du và những thú vui mà ông ưa thích. Đôi khi chúng ta nói với người khác rằng mình là thành viên Hội Thánh nhưng chẳng quan tâm gì đến sinh hoạt trong Hội Thánh. Chúng ta không có ý sống khác người thế gian. Chúng ta tham dự đầy đủ mọi vui chơi của thế gian, và ta lại trông mong người đời phải tôn trọng những nguyên tắc mơ hồ của chúng ta.
Người tín hữu không trốn tránh thế gian nhưng là biến đổi mình cho khác với thế gian.
2. Chúng ta có thể chối Chúa bằng sự im lặng. Một nhà văn Pháp thuật chuyện đem người vợ trẻ vào một gia đình cổ. Gia đình này không chấp nhận cuộc hôn nhân đó, dầu vậy họ rất lịch thiệp, không biểu lộ sự phản đối bằng lời nói hoặc chỉ trích. Nhưng về sau, người vợ trẻ thổ lộ rằng bà khốn khổ suốt đời vì “sự đe dọa của những cái không nói ra”.
Trong đời sống cũng có những đe dọa của những điều không được nói ra. Trong đời sống, nhiều lần chúng ta có cơ hội nói vài lời cho Chúa để phản đối điều ác, giữ lập trường và tỏ ra chúng ta ở bên nào. Trong những trường hợp đó, nhiều khi chúng ta thấy giữ im lặng dễ hơn là nói. Nhưng sự im lặng đó là sự chối bỏ Chúa. Thật vậy, rất có thể nhiều người đã chối Chúa Giêsu do sự im lặng hèn nhát của mình hơn là bởi những lời có chủ tâm.
3. Chúng ta có thể chối Chúa bằng hành động. Chúng ta có một lối sống biểu lộ một sự khước từ liên tục đức tin mà chúng ta đã xưng nhận. Có người đã tuyên thệ trung thành với Phúc Âm, mà vẫn có thể làm trái Phúc Âm. Người ta đã quyết định đi theo Thầy là Đấng bảo phải vác thập giá, lại sống cuộc đời chỉ chú ý đến tiện nghi và thoải mái: Người ta đã bước vào phục vụ Đấng tha thứ cho mình và được dạy bảo tha thứ cho anh em mình, lại vẫn sống giận dữ, cay đắng thù oán anh em mình. Người ta từng chăm nhìn lên Chúa Giêsu đã chịu chết vì tình thương nhân loại, lại vẫn có thể sống cuộc đời hoàn toàn không có chút ý niệm gì về phục vụ, tình yêu và quảng đại Chúa dạy.

61. Chú giải của Noel Quession
Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
Ngày nay, chúng ta thấy việc truyền bá Phúc âm trong thế giới sống theo vật chất của chúng ta thật khó khăn. Vào thời của Thánh Mátthêu, điều đó cũng đã khó khăn rồi. Người ta cảm thấy trong những câu này của Đức Giêsu một ý muốn khích lệ: Anh em chớ nản chí, hãy vượt lên trên sự sợ hãi để rao giảng! Không gì có thể ngăn cản sức mạnh truyền bá chân lý. Sự thuyết giáo của Đức Giêsu tự nó là một hành động rất khiêm nhường, một “sứ điệp được che giấu… nói lúc đêm hôm… nói nhỏ vào tai”. Sau nhiều thế kỷ, chúng ta thấy rằng Tin Mừng đã đi giáp vòng trái đất và vượt qua mọi chướng ngại. Lạy Chúa, xin nhắc chúng con có lòng can đảm để nói về Lời Chúa.
“Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.
“Anh em đừng sợ!”
Ba lần, điệp khúc này trở lại trong miệng Đức Giêsu (Mt 10, 26.28.31). Tôi tưởng tượng Đức Giêsu ngửng cao đầu một cách hiên ngang khi nói ra những lời đó. Chính Người chưa khi nào Người sợ hãi. Người biết Người sẽ bị giết chết bởi lẽ sự thù hận của các kẻ thù dâng cao lên xung quanh Người như một con sóng đáng sợ, ngay khi Người bắt đầu đi rao giảng. Nhưng Đức Giêsu biết những “giá trị thật”.
Đối với Người, đời sống trần gian ít giá trị so với sự sống đời đời mà Người biết từ bên trong như Con của Cha. Con người có thể tấn công sự sống của thân xác. Nhưng họ không có quyền gì trên “sự sống thật” hoàn toàn thoắt khỏi ảnh hưởng của họ. Thánh Vịnh 123,7 đã nói đến linh hồn thoát khói lưới của kẻ đánh lưới chim muốn bắt lấy nó”.
Người tử đạo biết điều đó và theo bước Đức Giêsu. Người bị bách hại cao cả hơn kẻ bách hại người ấy. Người bị hành hình cao cả hơn tên đao phủ. Bề ngoài, kẻ bách hại mạnh hơn: hắn có vũ khí, có quyền lực bạo tàn. Hắn chỉ mạnh trên bình diện của sự tàn ác… mạnh một cách thú vật!
Người bị bách hại mạnh bởi một sức mạnh nội tâm không thể đánh bại. Là một gói cơ bắp lớn hơn những cơ bắp của đối thủ thì không đáng kể. Là một lih hồn mạnh mẽ” hơn, đó mới là đáng kể.
Đúng hơn anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.
Hỏa ngục, tiếng Do Thái là “Gué-H.innum” là một thung lũng ở phía Nam Giêrusalem, được coi như một hình ảnh tượng trương của Hỏa Ngục. Thung lũng đó bị chúc dữ từ những thời xa xưa vì là nơi người ta đã sát tế nhiều người. Đó là nơi bi thảm dùng để thiêu sinh trẻ con, người ta đặt chúng trên những cánh tay đã nung nóng đỏ của thần Moloch. Vào thời của Đức Giêsu thung lũng hỏa ngục tộc ác đó luôn là một bãi rác tởm lợm mênh mông của thành Giêrusalem. Người ta thường xuyên đốt rác và xác người chết ở đó. Cách nay hai năm, tôi mạo hiểm đến đó một mình, giữa những tảng đá bị lửa làm cháy nám. Đây đó, một vài cuộn khói còn bốc lên… Than ôi, truyền thống nhân loại còn ghi nhớ mãi sự tàn bạo kinh hoàng ấy, và đâu phải chi có ở Giêrusalem!
Tuy nhiên Đức Giêsu lặp lại với chúng ta: “Đừng sợ những kẻ. giết thân xác… hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt linh hồn!”. Công thức này đáng kinh ngạc và cũng nghịch lý “Linh hồn” không thể giết được!. Công thức đáng sợ? Vậy “giết một linh hồn” có nghĩa là gì?
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta, Đức Kitô khẳng định, chính là đánh mất đức tin…
Nỗi sợ hãi duy nhất của chúng ta phải là sợ không đủ can đảm để “tuyên xưng và sống đức tin của chúng ta”.
Không phải những kẻ bách hại làm mất Giáo hội… mà là những kẻ bỏ đạo!
Điều làm Giáo Hội phải động viên toàn bộ lực lượng chính là sự đánh mất đức tin trong các linh hồn! Khi người ta nghĩ đến những chiến dịch của dư luận để cứu lấy các hải cẩu con, hoặc cá voi, hoặc những phong cảnh cần được bảo vệ, hoặc các di tích cổ… thì thử hỏi người ta làm gì để cứu lấy các linh hồn? Người ta phải làm gì để con người không bị hư mất, không bị phá bủy từ bên trong khi đánh mất hết mọi ý nghĩa của cuộc sống? Các cộng đoàn Kitô hữu sẽ bị phán xét sau này, về những “linh hồn” mà họ để cho mất đi, Đó là hoả ngục! Đó là điều Đức Giêsu sợ! Đó là điều chúng ta phải sợ!
Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”.
Một hình ảnh không thể nào quên được. Đối với Đức Giêsu, không gì thoát được sự chăm chút lạ lùng của Chúa Cha. Biến cố nhỏ nhất đã được Thiên Chúa muốn hoặc dự kiến. Ví dụ như một con chim rời khỏi tổ. Một hiện tượng vô nghĩa chăng? Không, Thiên Chúa chăm sóc mọi tạo vật của Người. Không có gì thoát khỏi Người. Những công thức triệt để này được đánh dấu bới tâm thất Sê-mít không nên làm cho chúng ta kết luận về một thứ thuyết định mệnh phải, quả thật không có gì thoát khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa dẫn đưa các sự vật theo bản chất của chúng: những con người tự do được Thiên Chúa hướng dẫn một cách tự do… Thiên Chúa chăm chút đến những hành động tự do của chúng ta: không một hành động nào thoát khỏi Người. Nhưng Người tôn trọng chúng… và có thể nói rằng, Người muốn chúng, khi chúng ta muốn chúng! Đó chính là trách nhiệm rất lớn của tự do con người.
“Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người chúng đếm cả rồii. Vậy anh em đừng sợ: anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Thay vì làm chúng ta sợ, sự chăm chút của Thiên Chúa trên mỗi hành động của chúng ta phải làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui: tôi được yêu mến… yêu mến không chút xao nhãng… không một phút giây nào lơi lỏng. Đấng yêu tôi, biết tôi đến từng chi tiết nhỏ. Người biết tôi hơn cả tôi biết chính mình.
Sự cầu nguyện của tôi trong lúc này có thể có hình thức sau đây: tôi để cho Thiên Chúa nhìn tôi! Các bạn cố gắng nhận thức một cách cụ thể rằng sức mạnh sáng thế vĩ đại trong lúc này không bị vận hành của vũ trụ và lịch sử hoàn vũ làm cạn kiệt mà còn hoàn toàn lưu tâm đến “tôi”: Dưới mắt Thiên Chúa, tôi “đáng giá” hơn tất cả chim chóc của thế gian! Và trên thế gian có nhiều tổ chim chóc? Cha Cardjin, người sáng lập J.O.C. (thanh lao công) đã nói: “Linh hồn của một công nhân trẻ còn đáng giá hơn tất cả vàng bạc của thế gian!”.
Vậy thì, Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự xảy đến cho con? Chúa săn sóc trên mọi sự? Chúa yêu thương con? Quả thật, làm sao con có thể sợ? Điều gì xấu có thể đến với con, nếu con vẫn ở dưới ánh mắt của Chúa. Nhưng một cách chính xác, tất cả vấn đề là ở chỗ đó.
Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Phải vấn đề “linh hồn” vẫn luôn là điều chủ yếu. Một cách chính xác đây là sự tuyên xưng đức tin! Phải là một sự tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người… do đó không chỉ là, một. loại đức tin dưới tầng hầm mà không ai có thể xác nhận. Cũng không chỉ là tự nhủ mình là “tín hữu’ khi nói ra điều đó, không gây mâu thuẫn cũng không gặp nguy hiểm nào… hoặc khi điều đó không đem lại sự cam kết nào..khi điều đó không thay đổi gì cho đời sống tôi. Vấn đề là “tuyên bố nhận Đức Giêsu”, trước một tòa án, trước một người nào đó không đồng ý, và đang cố làm cho các bạn nói điều ngược lại, trước một người nào đó sắp chế giễu các bạn, sắp hành hạ, tra khảo các bạn, hoặc gởi các bạn như một người điên đến bệnh viên tâm thần, như điều đã xảy ra trước đây ở Liên xô.
Có phải tôi tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ không?
Có phải tôi thực hành đức tin của tôi? tôi trả giá nào cho điều đó? Tôi hy sinh điều gì? Có phải tôi phục vụ Thiên Chúa và Đức Kitô của Người? Hoặc có phải tôi chỉ dùng thời gian để phục vụ chính mình? Tôi làm gì cho Thiên Chúa?
Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Một lần nữa, chúng ta thừa nhận rằng chính chúng ta tạo nên sự phán xét của chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Giêsu chỉ chia ly với những người đã chia ly với Người, chỉ chối những người đã bắt đầu chối Người trước kia. Chối Đức Giêsu. Tôi nghĩ đến sự chối Chúa của Thánh Phêrô… mà Đức Giêsu đã tha thứ một cách tài tình sau ba lần tuyên xưng đức tin và tình yêu mến của Thánh Phêrô: “Phêrô, anh có yêu Thầy không?”. Vậy không có sự chối Chúa nào là không tránh được. Và chung cuộc, không một tội lỗi nào, dù nặng nề nhất mà không thể tha thứ được.
Một cách chính xác là với điều kiện phải “tuyên bố nhận Đức Giêsu” và tin một cách chắc chắn rằng Đức Giêsu cứu độ và tha thứ.
Tất cả sự nghiêm túc của tự do chúng ta nằm trong khả năng mà chúng ta dùng để nói: “Tôi tin vào Chúa”…đến độ sẵn sàng chịu đổ máu nếu cần. Chúng ta chớ quên điều đó.
Đến độ chịu đổ máu! Điều này hiếm khi có hình thức của sự tử đạo. Nhưng điều đó thường mang khuôn mặt của sự trung tín anh hùng của chúng ta, của những bổn phận hàng ngày, của những can đảm trước điều xảy đến, của những thử thách…

62. Đừng sợ – Chú giải của Fiches Dominicales
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy…
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc là Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng ” Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2. Những người được sai đi của Đức Giêsu không đượcc sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ – căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ – Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: Các con đừng sợ!… Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”. Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng ta trước mặt người đời, ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi. “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian… Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn…
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2. Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên “mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.

63. Dũng cảm tuyên xưng
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau:
1) Dẫn nhập (9,36–10,5a):
a) Các yếu tố xác định (9,36-38),
b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a);
2) Phần chính (10,5b-42):
a) Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15),
b) Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42);
3) Kết (11,1).
Riêng phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau (các đoạn in nghiêng thuộc về bài đọc phụng vụ):
1) Sự bách hại các tông đồ phải chịu (10,16-39):
a) Hoàn cảnh tởng quát của các sứ giả (10,16),
b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23),
c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25),
d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31),
e) Tương quan của các ông với Đức Giêsu (10,32-39);
2) Việc tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục
Bản văn 10,26-33 có thể chia thành hai phần:
1) Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (10,26-31);
2) Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (10,32-33 [39]).
3.- Vài điểm chú giải
– Vậy anh em đừng sợ (26): Từ ngữ “vậy” nối cc. 26-27 với phần đi trước, nhưng không phải là để đưa tới một kết luận, mà là một lời khích lệ. Ý nghĩa không phải là” đừng sợ họ, bởi vì họ không thể làm gì anh em; nhưng là: đừng sợ họ, bởi vì anh em không được mong mình có một số phận bớt đau thương hơn Thầy (cc. 24-25). Như thế, dù vẫn sợ những người bách hại, anh em phải đảm nhận lấy nỗi sợ hãi ấy mà cứ tuyên xưng niềm tin. Anh em sợ hãi người ta là chuyện dễ hiểu (cc. 17-25), nhưng đừng vì thế mà thôi làm chứng.
– được tỏ lộ … được biết (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là: Thiên Chúa tỏ lộ … Thiên Chúa thấu biết. Lý do thứ nhất khiến môn đệ không phải sợ, đó là sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ. Dù thế nào, Tin Mừng cuối cùng sẽ tỏa rạng vinh hiển.
– những kẻ giết thân xác (28): Lý do thứ hai khiến không phải sợ, đó là sự sống chân chính của con người được bảo vệ. Những kẻ bách hại chỉ có thể “giết” (apoktenai); duy mình Thiên Chúa mới có thể “tiêu diệt” (apolesai) trọn con người (“thân xác” và “linh hồn”).
– hỏa ngục (28): Từ Hy-lạp geenna (được dịch là “hỏa ngục”) phiên âm từ Híp-ri gê-Hinnôm. Gần cổng thành phía nam Giêrusalem, có thung lũng gọi là gê’-Hinnôm hoặc gê’ben-Hinnôm (“thung lũng của con cái Hinnôm”). Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc của người Ammôn) đã lên tới cực độ (Gr 7,30–8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những tác nhân xử lý các tử thi, đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (hp) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), nay trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi.
– Ngoài ý của Cha anh em (29): Lý do thứ ba khiến không phải sợ, đó là Thiên Chúa quan phòng trên toàn thể thọ tạo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lý do khiến các môn đệ không được nao núng (26-31)
Mt không kể cho biết cách nào và khi nào thì lời loan báo về số phận của các sứ giả được chứng thực. Nhưng tác giả mô tả nhiều lần các lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó (16,21; 17,22t; 20,18t) và ghi chi tiết cả diễn tiến thực hiện cuộc Thương Khó nữa (ch. 26–27). Như vậy, trước khi các môn đệ và tôi tớ rơi vào số phận này, Thầy và Chúa của họ đã phải chịu rồi.
Đoạn 10,26-31 nhắc các tông đồ nhớ lại nhiệm vụ trọng yếu của các ông là loan báo thẳng thắn và công khai sứ điệp đã nhận từ nơi Đức Giêsu (x. 10,7; 10,27). Đức Giêsu nhấn mạnh ở đấy: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10,27) và kết thúc bằng “Vậy anh em đừng sợ” (10,31), và cả ở 10,28, Người nhắc lại “anh em đừng sợ”. Dù sợ hãi khi đứng trước những đe dọa của bạo lực loài người, các sứ giả không được để mình bị ngăn cản khiến không chu toàn được nhiệm vụ. Họ phải thắng vượt nỗi sợ hãi này và tiếp tục trung thành với nhiệm vụ. Để đạt được như thế, họ phải đừng để ý đến người ta, nhưng phải để ý đến Thiên Chúa. Quyền của Ngài là có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (10,28) thì đáng sợ hơn nhiều, còn sự ân cần chăm sóc và sự quan phòng đầy tình phụ tử thì đáng họ tin tưởng hoàn toàn (10,29-31).
* Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu (32-33 [39])
Đoạn cuối cùng nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu (10,32-39). Coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Người, là con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là loan báo không sợ hãi sứ điệp của Người (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Người, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự hiệp nhất trọn vẹn với bản thân Người và phải được coi trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng hơn mọi sự và mọi người.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ can đảm loan báo sứ điệp của Người (10,27). Người cũng yêu cầu các ông phải tin tưởng hoàn toàn nơi Người (c. 32). Các ông phải chứng tỏ một cách vô điều kiện là cách ông thuộc về Người và tin vào sứ điệp của Người, mà trước tiên đây là sứ điệp của Cha trên trời. Một ngày nào đó, Đức Giêsu sẽ tuyên bố nhận hay từ khước các ông là tùy điểm này (c. 28). Một lần nữa Đức Giêsu lại tỏ cho thấy địa vị và uy quyền vô song của Người. Án xử của Thiên Chúa về chúng ta, cũng như số phận đời đời của chúng ta, tùy thuộc cách chúng ta đối xử với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sợ loài người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”, là chuyện liều lĩnh. Tác giả ghi lại đây cả những lời đe dọa (về hỏa ngục), đây là dấu cho thấy rõ ràng là chỉ đưa những lời khuyến cáo mà thôi thì vẫn không cản được các tín hữu sa sút (x. 5,22.29; 23,15.33). Phải đe dọa để họ nhớ rõ giáo huấn của Đức Giêsu: nếu họ nhận Đức Giêsu trước mặt người đời, Đức Giêsu sẽ nhận họ trước mặt Thiên Chúa; nếu họ chối Đức Giêsu trước mặt người đời, Người cũng sẽ chối họ trước mặt Thiên Chúa.
2. Người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha. Họ cũng ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản. Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
3. Nếu việc làm chứng đôi khi đưa người môn đệ đến chỗ chết, thì không phải là mặc dù được Thiên Chúa là Cha quan phòng, người ấy vẫn phải chết! Y như thể Cha có mặt lúc vị tử đạo bị giết, nhưng không thể cứu được người ấy. Mt nhấn mạnh rằng, tuy có mặt vào lúc con cái mình bị giết, Thiên Chúa vẫn không muốn tách cái chết ấy ra khỏi ý muốn của Ngài: nếu Thiên Chúa giúp đỡ vị tử đạo chính là vì cuối cùng Ngài muốn vị ấy phải chết.

64. Vững lòng trông cậy Chúa
DÙ ĐANG SỐNG GIỮA KHÓ KHĂN
1. Bàn về sự sợ.
Con người có nhiều nỗi sợ: sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người: không có sức làm việc không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ: sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không: có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo “đừng sợ”. Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài:
– Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị nặng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
– Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác:
a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người;
b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì “Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Cha Charles de Foucauld đã nói: “Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả”
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt: gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói “Đó là ý Chúa”; thành công hay thất bại, họ cũng nói “đó là ý
Chúa”; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói “Để Chúa lo Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ: đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! “Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm”!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng: Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy: “Ta hằng ở với con”, “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
– Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc tiên đầu các con đã được đếm cả rồi”. (bài Tin Mừng hôm nay)
– Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất: “Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”
3. Im hay nói?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la lớn trên mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diềm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cầll như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và, truyền đạt.
Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà khống bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã di diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội.
Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe. Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe đọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi”. Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đúng lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: “Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột”.

65. Sứ giả
Không có chỗ nào sự chân thành của Chúa Giêsu được bộc lộ thật linh động bằng ở đây. Ngài phán với các môn đệ đúng điều họ sẽ gặp nếu họ chấp nhận chức năng làm sứ giả của Ngài. Tại đây Ngài đưa ra những đòi hỏi rất cao, rất mạnh và không thể dung hòa được, và cũng cho họ biết chẳng những được Thiên Chúa chăm sóc nhưng cũng được thiện cảm của loài người.
Trước hết Chúa Giêsu cho biết cái giá phải trả khi chấp nhận làm sứ giả:
1. Một lựa chọn quyết liệt:
khi một chính nghĩa xuất hiện, hậu quả tất nhiên là chia rẽ giữa con người, những kẻ đáp ứng và những kẻ chối từ chính nghĩa đó. Đối diện với Chúa Giêsu là phải đối diện với một chọn lựa, hoặc tiếp nhận hoặc chối bỏ Ngài. Thế gian bị chia đôi bởi những người thừa nhận Chúa Giêsu và những người không chấp nhận Ngài. Điều chua chát nhất trong cuộc chọn lựa này là kẻ phải loại bỏ lại chính là người thân. Có thể một người vì quá yêu gia đình đến nỗi không dám dấn thân phục vụ và hi sinh. Không dám theo Chúa vì không dám xa gia đình hoặc e ngại nguy hiểm.
Một người có thể đã từ chối phục vụ trong một sứ mạng nào đó vì người đó để tình cảm riêng làm tê liệt. Con người ít khi phải đối diện với sự lựa chọn này, có người suốt đời không hề gặp, nhưng sự thật vẫn là: những người thân yêu có thể trở thành kẻ cám dỗ nếu những lo nghĩ về họ có thể ngăn cản chúng ta làm theo điều Chúa muốn.
2. Chúa Giêsu hứa ban thập giá:
Người dân Galilê hiểu rất rõ thập giá. Khi tướng La mã Varus dẹp tan cuộc phản loạn của Giuđa ở Galilê, ông đóng đinh 2000 người Do thái vào thập giá trồng dọc hai bên đường cái xứ Galilê. Thời đó phạm nhân phải vác thập giá của mình đến chỗ hành hình. Những kẻ nghe Chúa nói đã từng thấy kẻ tử tội loạng choạng dưới sức nặng của cây gỗ và chết trong đau đớn cực độ. Những vĩ nhân của đức tin biết rõ điều họ đang làm. Khi một vị tử đạo bị dẫn đến trước quan tòa, ngài nói với quan tòa: “Thưa quan, luật pháp của Chúa chúng tôi đã dự bị hai cách tuân thủ: một là làm cách tích cực điều lương tâm tôi tin rằng buộc mình phải làm; hai là nơi nào mà tôi không thể tích cực vâng phục lương tâm tôi được, thì tôi sẵn lòng nằm xuống để chịu mọi đau khổ người ta đem tới cho tôi.”
Kitô hữu có thể phải hy sinh những tham vọng riêng, sự thoải mái và tiện nghi mình được hưởng, hi sinh công trình mình đã thành đạt, cũng có thể dẹp bỏ mơ ước, phải biết rằng những cái huy hoàng mình thoáng thấy không phải là để cho mình. Sẽ phải hy sinh ý muốn mình, vì không có kitô hữu nào có thể làm điều mình muốn mà phải làm điều Chúa muốn. Trong Kitô giáo bao giờ cũng có thập giá vì Kitô giáo là Đạo thập giá.
3. Ngài ban cho một cuộc phiêu lưu:
Chúa bảo họ:”Ai giữ mạng sống thì mất, còn ai đành mất mạng sống vì Ngài sẽ giữ lại được”. Nhiều lần điều đó đã được chứng minh cụ thể. Một điều luôn luôn đúng là nhiều người có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng cứu được rồi thì lại mất, vì chẳng còn nghe ai nói đến nữa.
Epicteus nói về Socrates: “Bởi chịu chết mà ông được sống, vì ông không chạy trốn”. Socrates có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng làm thế con người Socrates rồi cũng sẽ chết và sẽ chẳng còn ai nghe thấy tên ông nữa.
Trong đời sống kitô hữu không có chỗ nào cho chính sách thủ thân. Người nào dành ưu tiên đi tìm sự thoải mái, yên ổn cùng sự thỏa mãn những khát vọng riêng, người đó có thể được tất cả những điều này, nhưng sẽ không bao giờ hạnh phúc, vì bạn đã được sai đến trần gian để phục vụ Chúa và anh chị em mình. Người ta có thể ôm giữ sự sống mình nếu muốn, nhưng bạn sẽ mất tất cả những gì làm cho cuộc đời đáng sống và có giá trị cho người khác. Con đường phục vụ Chúa và tha nhân, con đường làm trọn mục đích Chúa cho chúng ta, con đường dẫn đến chân phúc là dấn thân, sử dụng cuộc đời mình cách không ích kỷ, vì chỉ như thế mới tìm được sự sống trong đời này và cả trong cõi vĩnh cửu “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Người sứ giả đích thực được Thiên Chúa ân cần săn sóc và sẽ được dân chúng tôn trọng. Khi Chúa Giêsu phán những lời này thì Người cũng dùng lối nói thông thường của người Do thái. Bao giờ họ cũng cảm thấy đón tiếp sứ giả của ai là tiếp nhận chính người đó. Tỏ lòng tôn kính sứ giả là tôn kính nhà vua đã sai người đến. Hoan nghênh người đại diện bạn cũng chính là hoan nghênh chính bạn mình. Người Do thái bao giờ cũng cảm thấy tôn trọng người đại diện là tôn trọng chính người đã ủy thác. Điều này áp dụng cho những nhà thông thái, những người dạy chân lý của Thiên Chúa. Các rabi thường nói:”Kẻ nào tiếp đãi người khôn ngoan không khác gì đem trái đầu mùa dâng cho Thiên Chúa. Kẻ nào chào hỏi người học thức chẳng khác gì chào mừng Chúa”. Nếu ta tiếp một người thật thuộc về Chúa tức là tiếp nhận Đấng đã sai người ấy.
Lời Chúa đây trình bày bốn mắc xích trong sợi dây cứu chuộc:
– Thiên Chúa yêu thương, từ đó khởi sự toàn thể tiến trình cứu chuộc.
– Chúa Giêsu đem sứ điệp yêu thương đến với loài người.
– Loài người làm sứ giả, các tiên tri rao giảng, các người tốt làm gương, các môn đệ học hỏi và truyền lại cho người khác Phúc Âm mà chính họ đã nhận.
– Người tiếp nhận sứ giả và sứ điệp của Thiên Chúa nhờ đó tìm được sự sống cho linh hồn mình.
Trong đoạn Lời Chúa này có một điều thật đẹp, thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ khiêm cung.
a) Chúng ta không thể đều là tiên tri, giảng và rao truyền lời của Thiên Chúa, nhưng người nào tiếp đãi sứ giả của Chúa sẽ nhận phần thưởng không kém chính vị sứ giả đó. Có nhiều người đã từng làm nhân vật đối với công chúng, có nhiều người với tiếng nói có thể nhen lửa trong lòng hàng vạn con người, có những người đã từng mang một gánh nặng vô cùng lớn lao về trách nhiệm và sự phục vụ công chúng; tất cả những người đó đều vui mừng làm chứng rằng họ không bao giờ duy trì được nỗ lực và yêu cầu của công tác nếu không có tình thương và sự chăm sóc, thiện cảm và tâm tình phục vụ của những người ẩn tích ở nhà. Khi đó sự cao trọng thật trước mặt Chúa người ta sẽ rất thường thấy một người chuyển động thế gian mạnh mẽ hơn cả lại hoàn toàn tùy thuộc vào một người khác, một người ẩn danh không ai biết đến. Các tiên tri cũng phải có bữa ăn, phải có áo quần, tiên tri cũng có một gia đình. Mong những ai thường làm những công tác dẫu dễ bị quên ơn như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt quần áo, coi em…đừng bao giờ suy nghĩ đó là những công việc chán ngắt và buồn tẻ mà là công tác cao trọng nhất của Chúa: và chắc sẽ được lãnh phần thưởng của tiên tri hơn là những người chỉ lo hội họp bỏ bê gia đình.
b) Tất cả chúng ta không thể đều là những gương sáng về việc lành, cũng không thể tất cả đều được cả thế giới biết là công chính, nhưng ai có thể giúp một người trở nên tốt sẽ nhận được phần thưởng của người tốt. G.H. Gee kể một câu truyện khá hay. Một cậu bé trong làng kia, sau nhiều gian nan, đã đạt đến chức mục sư. Người đã giúp cậu trong những ngày còn đi học là người thợ sửa giày trong làng. Ông này như nhiều đồng nghiệp khác, là người đọc nhiều, thấy xa và đã giúp cậu bé rất nhiều. Rồi đến ngày cậu được phép giảng dạy, ông thợ giày nói: “Mơ ước của tôi là được làm người rao giảng Phúc Âm, nhưng hoàn cảnh đời tôi không cho phép. Còn anh, anh đã đạt được điều mà tôi không thể đạt được. Tôi muốn anh hứa rằng sẽ để tôi đóng và sửa giày miễn phí cho anh. Tôi cũng muốn anh mang giày tôi đóng mỗi khi lên tòa giảng, như vậy tôi sẽ cảm thấy rằng anh đang đứng trên giày của tôi để giảng một Phúc Âm mà tôi mong muốn rao giảng”. Bằng cách đó, người thợ giày đang phụng sự Chúa y như người truyền đạo và phần thưởng sau này của người thợ giày cũng y như vậy.
c) Không phải tất cả chúng ta đều dạy trẻ được, nhưng mỗi người đều có thể phục vụ trẻ. Có lẽ chúng ta không biết phương pháp dạy, nhưng buộc phải làm những nghĩa vụ đơn sơ mà nếu thiếu trẻ không sống được. Có lẽ trong đoạn này có ý không nói nhiều đến trẻ con về phương diện tuổi tác, nhưng nói về phương diện đức tin. Rất có thể các rabi thường gọi các môn sinh là bầy nhỏ. Có thể về phương diện kỹ thuật và văn hóa chúng không biết dạy, nhưng vẫn có thể dạy bằng đời sống và gương sáng mà một người đơn sơ nhất cũng có thể làm được.
Vẻ cao đẹp của giáo huấn này là nhấn mạnh đến sự vật đơn giản. Chúa và Hội Thánh bao giờ cũng cần đến những người hùng biện, những gương sáng của cuộc đời thánh thiện, các giáo sư lớn, những người mà tên tuổi thường được nhắc đến, nhưng Chúa và Hội Thánh cũng cần đến những người có một gia đình hiếu khách, những bàn tay săn sóc việc nhà, có tấm lòng quan tâm chăm sóc do tình yêu kitô hữu: “Tất cả mọi phục vụ đều bằng nhau trước mặt Thiên Chúa ” (Browning) “hãy cám ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm”(Tago).

66. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Người có công khởi xướng công cuộc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên Việt Nam là Ðức Cha Thể (Théodore Cuénot sinh ngày 8 tháng 2, 1802; chết rũ tù ngày 14 tháng 11,1861; và được phong Thánh ngày 19 tháng 6, 1988).
Tư tưởng loài người không phải là tư tưởng Thiên Chúa
Nhiều lần Ðức Cha Thể đã căn dặn các vị thừa sai của ngài là phải hết sức né tránh viên thủ lãnh dân tộc Bana tên Khiêm. Danh tiếng ông Khiêm lẫy lừng khắp vùng. Ði đến đâu ông cũng được người ta tôn kính. Ông nói giỏi tiếng Kinh và buôn bán lớn với người Kinh nên họ kể ông như trọng tài khi có tranh chấp với thổ dân. Ông Khiêm còn được nhà nước An Nam thừa nhận: các quan ở đồng bằng muốn lấy lòng và lợi dụng uy tín của ông nên đã vận động triều đình Huế ân thưởng ông một bằng cấp, qua đó nhìn nhận ông là thủ lãnh của tất cả các dân tộc thiểu số và phong cho ông chức đại diện của vua An Nam vùng Cao Nguyên. Tước hiệu này vuốt ve lòng tự ái ông Khiêm khiến ông trở thành nhân vật tận tâm tận lực với công việc của triều đình Huế. Như vậy dễ hiểu lý do tại sao các vị thừa sai lén lút lên vùng cao nguyên giảng đạo ngược với ý muốn của Hoàng Ðế An Nam đang bắt bớ đạo, không sợ ai cho bằng sợ ông Khiêm.
Nhưng Thiên Chúa quan phòng có đường lối riêng của Người. Người sử dụng kẻ mà mọi thừa sai đều né tránh. Khi hai vị thừa sai là Cha Cung và Cha Phan Tần (Combes và Fontaine) cùng phái đoàn vào làng Kon Phar thì người đầu tiên họ gặp chính là ông Khiêm!
Một trong số nô lệ của ông, chán cảnh tôi đòi, đã bỏ trốn và đến trú ẩn ở Kon Phar, nơi cách xa làng ông đến ba ngày đường. Ông Khiêm đã vượt khoảng cách đó đến bắt tên nô lệ trở về. Cuộc gặp gỡ bất ngờ đã làm hai vị thừa sai sững sờ! Giá mà họ hay trước được vài tiếng đồng hồ về sự hiện diện của con người đáng sợ này ở Kon Phar, chắc không khi nào họ dám tới gần đó. Nhưng hai vị chỉ biết điều ấy vào đúng lúc hai vị đứng đối diện với ông Khiêm!
Nhìn những con người da trắng kỳ lạ đến từ một con đường rất ít sử dụng, ông Khiêm tin rằng họ chỉ có thể là những nhân vật quan trọng nào đó, lìa bỏ xứ sở mình vì mắc trọng tội. Diện mạo của hai cha với làn da trắng, sóng mũi cao, râu rậm, quá khác xa những người mà ông từng thấy từ trước đến nay, đã làm ông bối rối, đoán già đoán non. Sau một lúc ngập ngừng ban đầu, ông Khiêm lấy lại bình tĩnh và tới tấp nêu câu hỏi: “Các ông là ai? Các ông từ đâu đến? Các ông có vẻ là những nhân vật quan trọng, vậy lý do nào khiến các ông thực hiện cuộc hành trình vất vả như thế này? Hai ông có phải là những người Kinh từ một tỉnh rất xa? Tôi chưa bao giờ thấy người nào có làn da trắng như các ông! Thật tôi thấy thương hại các ông trong cái xứ khốn khổ này. Hãy thành thật cho tôi hay. Tôi cảm mến các ông. Mặc dầu các ông có chuyện gì ở đồng bằng đi nữa, tại xứ Bana này các ông không phải sợ chi cả. Tôi đây như là vua của vùng này, và người Kinh cũng sẽ không làm gì được các ông đâu.”
Tiến thoái lưỡng nan
Các vị thừa sai thấy ngay hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan của mình. Dầu muốn dầu không, bắt buộc các vị phải đặt mình trong vòng tay ông Khiêm! Hai vị thầm cầu nguyện rồi phó dâng bản thân theo thánh ý Thiên Chúa.
Vào dịp này cha Cung có viết cho Ðức Cha Thể rằng: “Chúng con đã gắng hết sức và làm mọi cách để tránh gặp ông Khiêm. Nhưng trong khi cố né tránh thì chúng con lại rơi vào tay ông ta. Có khi Thiên Chúa nhân lành muốn dùng ông ta để làm sáng danh Người chăng!” Mấy giòng cha Cung viết đã làm cho Ðức Cha Thể lo âu không ít. Ðọc thư xong, im lặng một lát, rồi ngài nói với Linh Mục đang ở bên ngài rằng: “Dầu sao, đó là việc của Chúa, Người biết rõ điều phải xảy ra cho vinh danh Người. Về phần cha đây, cha đã cam kết xây dựng miền truyền giáo này. Cha mới dâng Chúa một lời khấn, lời khấn ấy sẽ trói buộc cha suốt đời.”
Trở lại với phản ứng của ông Khiêm. Ông nhận ra ngay nỗi lo âu của những người Kinh đối diện với ông, nhất là hai người da trắng. Ông vội vỗ về họ bằng cách lập đi lặp lại rằng: “Ðừng sợ, tôi sẽ giúp đỡ các ông. Tôi sẽ làm cho các ông tất cả những điều các ông muốn. Ðể minh chứng rằng tôi không có ý lừa dối các ông và lưỡi tôi thực sự là thông ngôn của lòng dạ tôi, tôi muốn ngay hôm nay kết nghĩa anh em với các ông, nếu các ông không thấy tôi bất xứng.” Ông dùng những từ trang trọng nhất trong thổ ngữ của ông mà nói: “Hai cha lớn này, tôi xin gọi là cha của tôi, còn hai chúng ta – ông thân thiết xích lại gần thầy sáu Do cùng đi với hai cha và nói – sẽ là anh em.”
Kết nghĩa anh em với lãnh tụ dân tộc
Theo thủ tục kết nghĩa anh em, hai bên giao nộp một ghè rượu và một gà mái, các chú mai mối xẻ ra làm hai đều nhau, cả tim, gan và từng cái đùi cũng phân làm hai, rồi trao vào tay mỗi người sắp kết nghĩa. Hai ống trúc cùng được cắm một trật vào một trong hai ghè rượu, và trước khi hai đương sự bắt đầu uống rượu thì một chú mai mối, với giọng trịnh trọng đọc lên những lời có tính cách công thức như sau: “Các anh hãy nhớ và đừng bao giờ quên rằng hôm nay hai người đã trở nên anh em với nhau; bạn hữu của người này là bạn hữu của người kia; bà con thân tộc của người này là bà con thân tộc của người kia. Nếu vô phúc mà một trong hai anh, phản bội người anh em của mình thì sấm sét hãy nghiền nát nó đi! Nó phải bị bắt và bị làm nô lệ! Nó phải chết khốn nạn và xác nó không được chôn cất, trở nên mồi cho cá dưới nước hay quạ trên rừng”
Từ lúc đó, lòng thành tín của ông Khiêm không bao giờ phai mờ. Ông luôn là người bạn chí thiết với các thừa sai. Ông không hề ngần ngại cả trước những trợ giúp hết sức nguy hiểm. Chính ông với phương tiện nô lệ và voi của mình, đã đảm trách việc vận chuyển qua ngã An Sơn, tất cả những gì người ta phải gởi lên cho các thừa sai từ địa phận Ðàng Trong sau này. Các quan ở đồng bằng hay tin các thừa sai trú ẩn vùng Cao Nguyên đã chỉ thị cho ông bắt giữ các vị ấy, nhưng ông Khiêm đã biết xử lý khéo léo, vừa làm hài lòng các quan, vừa không lỗi phạm tình bạn đối với các thừa sai.
Câu chuyện vừa kể cho thấy quả thật các thừa sai của Chúa tuy phải khôn ngoan như con rắn nhưng tới mức nào đó lại phải hiền lành như và đơn sơ như chim bồ câu vì phải đặt mình để tay Chúa dẫn đưa, thâm tín rằng truyền giáo chính là công trình của Thiên Chúa.
Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ
Bài Tin Mừng hôm nay là một phần của bài giảng về truyền giáo trong đó các môn đệ được dạy cho biết họ phải hành xử như thế nào đúng theo tinh thần của Ðức Giêsu (Mt 10,5-15) và họ sẽ gặp phải những khó khăn nào (16-42). Lời dạy chủ yếu là “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà.” (cc.24-25).
Vậy các môn đệ đừng trông chờ những sứ vụ dễ dàng và xuôi chảy, Ðức Giêsu có ý chuẩn bị các ông đối phó với những tình huống thù địch và chống đối.
Ðiều quan trọng là các ông không được sợ (Mt 10,26-33). Phải can đảm tuyên xưng đức tin mà không được bỏ cuộc. Ðiều các ông cần phải thâm tín là Nước Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến và người chứng chính là Ðức Giêsu (cc.26-27): khi ấy sự giả hình của đối phương sẽ bị chính Chúa phanh phui. Các môn đệ cần phải tín thác vào Thiên Chúa (cc.28-30). Người ta chỉ có thể làm hại thân xác chứ không thể hủy hoại được linh hồn. Cuối cùng, cần phải nhắm thẳng cuộc phán xét trong ngày sau hết (cc.31-33). Giá trị tối hậu sẽ là lòng thành tín mà các ông duy trì đối với Ðức Giêsu, bởi lẽ kết quả cuộc chung thẩm sẽ dựa vào lòng thành tín đó.
Ðừng sợ, Hãy tin tưởng đối thoại
Dưới ánh sáng của Công Ðồng Vaticanô II, bổn phận truyền giáo bao hàm cuộc đối thoại trong tinh thần tôn trọng những ai chưa đón nhận Tin Mừng. Các tín hữu sẽ rút ra từ cuộc đối thoại này những lợi ích của chính họ. Họ sẽ học hỏi để “biết rõ tất cả những gì là chân lý và ân sủng có nơi các dân tộc, như nhờ một hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa.” (AG 9). Nếu họ loan Tin Mừng cho những người không biết chính là để củng cố, kiện toàn, xây dựng chân lý và lòng thiện hảo được Thiên Chúa đổ tràn xuống giữa con người và giữa muôn dân, và để thanh luyện họ khỏi những lầm lạc và sự dữ “để Thiên Chúa được vinh quang, ma qủy phải xấu hổ, con người được hạnh phúc” (AG 9; xem Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 856).
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về việc ông Khiêm kết nghĩa anh em với thầy sáu Do và tận tình giúp đỡ và che chở các vị thừa sai: Bạn thấy khó hiểu hoặc nghi ngờ? Bạn nghĩ xem ra có sự an bài của Thiên Chúa, vì truyền giáo là việc của Chúa? Bạn có ý nghĩ khác?
2. Bạn nghĩ gì về câu Tin Mừng “Hai con chim sẻ chỉ bán được một xu phải không? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý muốn của Cha anh em, thì đối với anh em cũng vậy. Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” (cc.29-30). Hai câu vừa trích cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến bạn vì bạn có giá trị trước mặt Người? Hai câu ấy còn cho thấy Chúa biết bạn hơn bạn biết chính mình, vì bạn đâu biết được số tóc bạn có trên đầu? Hai câu ấy có giúp bạn tín thác vào Chúa chăng?

67. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Lệnh lên đường
Bài Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của “Bài Giảng Về Sứ Mệnh Truyền Giáo” (Mt 10). Các môn đệ được Ðức Giêsu sai đi loan báo “Nước Trời đã đến gần” (Mt 10,7). Họ được Ngài cho biết trước những khó khăn trên đường thi hành sứ mạng của mình, một sứ mạng được so sánh với hình ảnh “chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Do vậy, bị ngược đãi và bị bách hại là số phận thường tình của những môn đệ trung thành với sứ mạng được trao.
“Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Sứ mạng của người môn đệ tiếp nối sứ mạng của Con Thiên Chúa đã lĩnh nhận từ Cha. Chính vì vậy, người môn đệ cũng có chung số phận của Thầy “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Ðược sai đến thế gian, sống giữa thế gian (x. Ga 17,11) nhưng các môn đệ lại là những người không thuộc về thế gian (x. Ga 17,16) vì họ đã được tuyển chọn và được tách khỏi thế gian bởi Cha (x. Ga 17,6) và bởi Thầy Giêsu (Ga 15,19). Chính đây là lý do của việc họ bị thế gian thù ghét và bách hại (x. Ga 15,19).
Vinh Quang nơi Thập Giá
Ðức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính cuộc khổ hình Thập giá. Giờ tử nạn của Ngài cũng chính là giờ Cha tỏ bày vinh quang cho Con Người (x. Ga 17,1-2). Ngay giây phút chết bi thương trên khổ giá, Ðức Giêsu tỏ cho con người biết phẩm giá cao quí nhất của mình: Ðó là phẩm giá làm con Thiên Chúa: viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Vì Ðức Giêsu, người môn đệ sẽ bị mọi người thù ghét (Mt 10,22). Thế nhưng, những đau khổ mà người môn đệ phải chịu lại mang một ý nghĩa thật lớn lao, đó là “cùng chịu đóng đinh với Ðức Kitô vào Thập Giá” (Gl 2,19). Như thánh Phaolô xưa, người môn đệ của Ðức Kitô Giêsu qua bao đời vẫn có thể nói: “những gian nan thử thách Ðức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
Trong đức tin, người môn đệ vẫn hằng lấy mầu nhiệm Thập Giá của Thầy làm vinh quang của mình “Vinh quang của ta là Thập Giá Ðức Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta”. Người môn đệ là người được chính Thầy tỏ lộ cho biết những mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 13,11), đó là mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho họ (x. Cl 1,26). Mầu nhiệm này đã được thánh Phaolô xác định cách rõ ràng, đó là mầu nhiệm “Ðức Kitô đang ở giữa nhân loại, Ðấng ban cho con người niềm hy vọng đạt tới vinh quang (x. Cl 1,27). Ðức Giêsu muốn cho người môn đệ tiếp tục công cuộc tỏ bày mầu nhiệm cứu độ ấy cho những ai chưa được nghe thấy: “Những điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng (Mt 10,27). Vì mục đích và sứ mạng rao giảng này, người môn đệ phải vất vả chiến đấu (x. Cl 1,29), nhưng chính Ðức Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hoạt động mạnh mẽ nơi người môn đệ, khi họ thi hành sứ mạng được trao. Người môn đệ luôn cảm nhận một sức sống trào dâng nơi đời mình, một sự sống nhiệm mầu được diễn tả bằng câu nói: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Có Ðấng Phục Sinh đồng hành
Vì có Ðức Kitô Phục Sinh đồng hành trên đường thi hành sứ mạng, nên người môn đệ vẫn hằng cảm thấy niềm vui khi bị bách hại và chịu thử thách trăm bề (x. Cl 1,24). Như Ðức Giêsu, Ðấng hằng vâng ý Cha, lấy ý Cha làm lương thực của mình (x. Ga 4,34), người môn đệ cũng được mọi người tín thác vào tình thương quan phòng của Cha để luôn vâng ý Cha.
Ngắm nhìn vũ trụ bao la, thế giới xinh đẹp, người môn đệ khắc ghi sâu đậm nơi lòng mình tình Cha vẫn hằng ấp ủ đỡ nâng tất cả mọi loài thọ sinh. Tuy là Ðấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn, nhưng Cha vẫn mãi mãi là Ðấng rất mực từ nhân. Cha hằng chăm sóc cho từng cánh hoa đồng nội, trang điểm cho đẹp xinh hơn cả vinh hoa tột bậc của vua Salomon quí phái (x. Mt 6,29). Cha giữ gìn từng cánh chim bé bỏng, nuôi chúng no đủ từng ngày (x. Mt 6,26) và không con nào phải rơi xuống đất ngoài ý Cha (Mt 10,29). Riêng đối với những môn đệ của Con Chí Ái, những người thuộc về Cha (x. Ga 17,6), Cha ân cần săn sóc đến nỗi biết đến từng sợi tóc trên đầu họ (x. Mt 10,30). Trong tình thương diệu vời của Cha, người môn đệ có cùng một lòng tri ân, thán phục của tác giả thánh vịnh 138:
“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Ði mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Lẫn nơi nào cho khuất Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện
Ðến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn.
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con (câu 5-9)
Chẳng giết được linh hồn
Hãy noi gương thánh nữ tử đạo Anê Lê Thị Thành. Người phụ nữ này bị bắt chính vì bà đã cho các thừa sai trú ẩn nơi nhà mình. Bà đã hành xử giống như nhóm phụ nữ cùng với Nhóm Mười Hai theo chân Ðức Giêsu và đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Ðức Giêsu và các môn đệ (x. Lc 8,1-3).
Tại Nam Ðịnh, quan toà bắt bà Anê Thành chối đạo, bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.”
Các quan truyền đánh đòn bà, lúc đầu bằng roi, sau bằng thanh củi lớn quật vào chân bà. Dịp chồng bà đến thăm, bà đã giải thích lý do tại sao bà chịu đựng nổi cơn đánh đập hung bạo đó: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn.”
Dã man nhất là màn thả rắn độc vào trong áo bà Thành đang mặc. Họ đã túm lấy tay áo bà, có ý để rắn bị bức xúc sẽ cắn vào người bà. Nhưng bà Thành bình tĩnh lạ thường, không nhúc nhích, nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra.
Người con út của bà Thành là Luxia Nụ tới thăm mẹ và thấy y phục mẹ mình đầy vết máu, nên khóc nức nở. Bà Thành an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Bà Thành còn nói với cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Ðàng.”
Trong thời gian ngồi tù, bà Thành không những chịu cực hình tra tấn, chịu đói, chịu khát, mà còn chịu khổ vì bệnh kiết lị hành hạ. Nhưng bà được an ủi nhiều vì có hai nữ tu cùng bị giam, săn sóc và giúp đỡ bà. Các linh mục cũng gởi thuốc, đến thăm và ban bí tích hoà giải, xức dầu.
Cuối cùng bà đã phó linh hồn trong tay Chúa theo gương Thầy Chí Thánh ngày 12 tháng 7, 1841, sau ba tháng bị giam, hưởng thọ 60 tuổi, và được Ðức Gioan Phaolô II phong hiển thánh năm 1998.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn được đánh động nhất về điều gì trong cuộc tử đạo của thánh Anê Lê Thị Thành? Bạn nghĩ thánh Anê Thành nêu gương sáng nào cho người môn đệ Chúa Giêsu?
2. Trong thế giới công nghiệp ta hiện đang sống, bạn thấy người Kitô hữu phải hy sinh từ bỏ đặc biệt về những khía cạnh nào trong cuộc sống để theo chân Chúa Giêsu?

68. Đừng sợ
Trong xã hội ngày nay, có người vì sợ nghèo đói, sợ lao động mà lao vào một cuộc sống phi đạo đức. Có người trái lại, vì muốn làm giàu nhanh chóng, cũng đã thẳng tay chà đạp nhân phẩm của người khác và của chính mình nữa. Cả hai loại người trên đều đánh mất giá trị làm người và đã gây ra những thiệt hại to lớn không chỉ về kinh tế, xã hội mà còn về tinh thần, đạo đức cho cộng đồng nhân loại. Trong đời sống tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng, cũng luôn có mối đe doạ rình rập giết chết lòng tin của người có đạo. Đó là nỗi sợ hãi. Sợ không kiếm được hay mất việc làm, sợ bị người đời gièm pha, chê cười, khinh khi, sợ bị xã hội kết án và loại trừ chỉ vì họ muốn sống theo những giá trị của Tin Mừng. Không thiếu những Kitô hữu đã đầu hàng, đã thoả hiệp để được yên ổn, để được vinh thân phì da, để được chức tước, địa vị xã hội. Họ sợ những người, những thế lực có thể giết hại họ phần xác.
Tuy nhiên, cũng không thiếu những Kitô hữu, có khi rất bình thường, lại thắng vượt được nỗi sợ hãi ấy, để sống chết với niềm tin vào Thiên Chúa. Họ vững tin rằng mọi sự, mọi chuyện đều nằm trong bàn tay Thiên Chúa. Họ vững tin rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương mọi người. Họ tin vào lời của Thiên Chúa là Đức Kitô. Khi vượt thắng nỗi sợ hãi, họ thường phải chịu thiệt thòi cách này hay cách khác, có khi liên luỵ tới cả mạng sống, tài sản, danh dự và địa vị xã hội. Họ là những người mà ngay từ đầu, Hội Thánh đã dành cho một danh xưng đầy trân trọng: Martyrion, có nghĩa là các chứng nhân, các vị tử đạo.
Tôn giáo nào cũng có những chứng nhân đích thực của mình. Họ luôn được tôn kính và noi theo. Họ luôn là niềm vinh hạnh của cộng đồng tôn giáo. Nhìn sâu hơn nữa, chúng ta sẽ thấy được rằng: cuộc sống theo niềm tin Kitô giáo luôn là một sự chọn lựa. Trong mọi sinh hoạt như kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị, chúng ta đều được mời gọi sống tin vào Thiên Chúa và phó thác trong tay Ngài. Chúng ta đều được mời gọi chứng tỏ cho mọi người thấy chúng ta nhận ai, theo ai, tin ai, bằng lời nói và bằng việc làm một cách dứt khoát, không hèn nhát, không thoả hiệp, không đầu hàng.
Hơn bao giờ hết, trong lúc xã hội đang đi vào cái thế bất ổn, thì người tín hữu chúng ta nên tự kiểm điểm một cách bình tĩnh và khách quan, để thấy hết được những đòi hỏi của Tin Mừng trong cuộc sống hôm nay, hầu nhờ đó sống trung tín với những lựa chọn của mình. Có như thế, chúng ta mới không hổ thẹn với Thiên Chúa và với dân tộc như lời Ngài đã phán: “Ai xưng tụng Ta trước mặt thiên hạ thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta”.

69. Can đảm làm chứng cho Chúa – Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trước khi sai các môn đệ đi truyền giáo, Đức Giê-su khích lệ các Tông đồ đừng sợ hãi, nhưng hãy mạnh dạn rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì ba lý do như sau: Một là vì các ông đang nắm giữ chân lý; Hai là vì thế gian chỉ có thể làm hại được về phần thể xác. Ba là vì các ông có Thiên Chúa luôn an bài mọi sự. Đức Giê-su cũng hứa sẽ bênh vực những ai dám can đảm tuyên xưng Danh Người trước mặt người đời.
CHÚ THÍCH:
– C 26-27: + Anh em đừng sợ người ta: Đừng sợ là lời động viên và trấn an các môn đệ mà Đức Giê-su đã làm nhiều lần trong thời gian giảng đạo như: Khi dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,26; Mc 4,41), khi tiên báo việc các ông sẽ bị bách hại (x. Mt 10,19-20), khi khuyên các ông vững tin vào Chúa quan phòng (x. Lc 12,22), khuyên đừng sợ trước những biến động của ngày tận thế (x. Mc 13,7), trước những thử thách về đức tin (x. Mt 10,26-33), khi đi trên mặt nước lúc đêm tối (x. Mt 14,27; Mc 6,50), khi hiện ra vào chiều ngày phục sinh (x. Ga 20,19-20). + Không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ…: Chính Thiên Chúa sẽ thực hiện việc bày tỏ sự thật về Người cho loài người, mặc cho có những kẻ cố tình che giấu bưng bít. + Điều Thầy nói lúc đêm hôm…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông ở Ga-li-lê giống như nói trong đêm tối, thì các ông hãy can đảm rao giảng công khai giữa thanh thiên bạch nhật. + Hãy lên mái nhà rao giảng…: Điều Đức Giê-su nói riêng với các ông như nói rỉ tai, thì hãy lên mái nhà tức là trên sân thượng giống như chiếc bục giảng, để nói to cho đám đông đứng dưới sân được nghe. Tương tự như trong thời đó, vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Sáu hằng tuần, người có trách nhiệm sẽ phải lên trên sân thượng ngôi nhà cao nhất, thổi kèn để loan báo cho mọi người biết đã bắt đầu ngày Sa-bát là ngày người Do thái phải kiêng việc xác.
– C 28-31: + Anh em đừng sợ: Lời Đức Giê-su động viên các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo. + Những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn: Sự sống của con người bao gồm cả thể xác lẫn linh hồn. Đừng sợ người đời vì cùng lắm họ cũng chỉ giết hại các ông về phần thể xác, chứ không thể giết hại được linh hồn vốn có đặc tính thiêng liêng bất tử. + Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục: Thiên Chúa là Cha nhân từ nhưng cũng là vị Thẩm Phán công minh uy quyền. Ngày tận thế, Người sẽ trừng phạt và tiêu diệt cả hồn lẫn xác những kẻ chống đối Người trong hỏa ngục muôn đời. + Hai con chim sẻ… Ngay đến tóc trên đầu anh em Người cũng đếm cả rồi: Không có gì xảy ra cho các Tông đồ mà nằm ngoài thánh ý Chúa Cha. Loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu, mà Chúa Cha cũng quan tâm gìn giữ không để con nào bị chết đói. Hoặc như những sợi tóc trên đầu chẳng mấy giá trị, thế mà Thiên Chúa cũng quan tâm đếm hết. Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không quan tâm giúp đỡ các Tông đồ hay sao? + Anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ: Thái độ của người thừa sai, là phải tin cậy phó thác cuộc sống trong tay Thiên Chúa, Đấng đầy khôn ngoan và hằng yêu thương săn sóc họ hơn muôn ngàn con chim sẻ.
– C 32-33: + Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên ha…: Trong ngày cánh chung (x. Mt 25,31-46), thay vì xét xử, Đức Giê-su sẽ làm trạng sư bầu chữa cho các Tông đồ trước tòa Chúa Cha. + Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ…: Người môn đệ trung thành làm chứng cho Đức Giê-su trước mặt người đời như thế nào, thì sau này Người cũng sẽ bênh đỡ họ trước tòa phán xét của Thiên Chúa thế ấy. Do đó, các thừa sai cần phải can đảm trung thành làm chứng cho Chúa, dù có thể vì đó mà bị người đời thù ghét giết hại.
CÂU HỎI:
1) Trong thời gian giảng đạo Đức Giê-su đã trấn an các môn đệ là “Đừng sợ” khi nào? 2) Tại sao Đức Giê-su lại khuyên môn đệ phải leo lên mái nhà rao giảng Tin Mừng? 3) Đức Giê-su khuyên môn đệ không nên sợ những kẻ nào nhưng cần phải sợ ai? Tại sao? 4) Đức Giê-su nêu ra 2 ví dụ nào cho thấy sự quan phòng của Thiên Chúa để khuyên môn đệ hãy tín thác vào quyền năng và tình thương của Người? 5) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì cho những ai trung thành làm chứng cho Người vào ngày phán xét sau này?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục… Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,28.32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Trong đức tin không có chỗ cho sự sợ hãi
Một viên sĩ quan người Anh có một đức tin mạnh mẽ. Ông đang cùng vợ con đáp chuyến tàu đi sang thuộc địa Ấn Độ nhận nhiệm vụ mới. Khi tàu rời bến được hai ngày thì trời bắt đầu nổi cơn giông bão. Mọi người trên tàu đều lo sợ cuống cuồng mà vợ viên sĩ quan lại là người sợ hãi nhất. Đang khi đó, viên sĩ quan chồng bà vẫn tỏ vẻ bình thản như không có điều gì xảy ra. Thấy chồng có thái độ như thế, bà vợ khóc lóc và trách móc ông đã thờ ơ trước sự an nguy của vợ con. Bấy giờ viên sĩ quan chẳng nói chẳng rằng, đi vào phòng riêng lấy ra một thanh kiếm. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ như để đe dọa. Đầu tiên bà tái mặt đi vì sợ hãi nhưng ngay sau đó bà lại cười lên khanh khách, không tỏ vẻ gì là sợ hãi cả. Viên sĩ quan liền hỏi vợ: “Làm sao em lại có thể cười khi bị anh dí mũi kiếm vào ngực như thế?” Bà vợ trả lời: “Tại sao em phải sợ khi lưỡi kiếm ấy đang ở trong tay của người chồng rất thương yêu em?” Bấy giờ viên sĩ quan mới giải thích: “Vậy tại sao em lại muốn anh phải lo sợ khi anh xác tín rằng cơn bão này được đặt dưới quyền của Thiên Chúa, là Cha hằng thương yêu và muốn sự an lành cho con cái? Do đó, chúng ta không cần phải sợ. Ta chỉ cần làm hết sức mình, rồi phó thác vận mệnh cuộc đời ta trong tay Chúa quan phòng là đủ. Dù ta có phải chết hay được sống thì mọi sự cũng đều có ích cho phần rỗi đời đời của ta.
Vậy, mỗi lần gặp một tai nạn, hay một con bệnh hiểm nghèo, ta hãy cầu xin Thiên Chúa, noi gương Đức Giê-su trước cuộc tử nạn đã cầu xin Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Đau khổ có giá trị giúp chúng ta lập công đền tội, làm cho đức tin chúng ta thêm vững mạnh, và làm cho ta trở nên con Thiên Chúa. Chính vì ý thức được giá trị của đau khổ như thế, nên thánh nữ Béc-na-đét Sô-bi-rớt (Bernadette Soubirous) đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi chịu đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc con chịu khổ đau”.
2) Thái độ can đảm hay nhát sợ phát xuất từ trái tim:
Một câu chuyện ngụ ngôn được kể lại như sau: “Ngày xưa có một chú chuột nhắt rất sợ bị mèo vồ. Một vị thuật sĩ khi thấy thái độ sợ sệt của chú chuột liền thương hại và đã biến chú hóa thành một con mèo to lớn. Nhưng rồi chú mèo này khi thấy con chó sói tới gần lại leo vội lên cây vị sợ bị sói ăn thịt. Vị thuật sĩ thương hại nên lại biến chú mèo thành một con chó sói to lớn. Thế nhưng chú sói này khi thấy thợ săn đến gần lại sợ hãi và ba chân bốn cẳng chạy trốn. Bấy giờ, vị thuật sĩ đành chịu thua, và nói với chú sói rằng: “Ta không thể giúp gì được cho mi đâu, vì mi chỉ có trái tim của một con chuột nhắt mà thôi!”. Nói rồi vị thuật sĩ lại biến chú sói to kia trở lại thành một con chuột nhắt như cũ.
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng CN hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, vững tâm, trung thành và tín thác nơi Chúa, đừng sợ hãi trước những gian nan thử thách gặp phải. Trái lại, cần có một đức tin vững mạnh và sống động, để sẵn sàng đương đầu với mọi hiểm nguy và cả sự chết nữa trên bước đường loan báo Tin Vui Nước Trời.
1) Anh em đừng sợ:
– Sợ hãi là chuyện thường tình của kiếp người. Nỗi sợ hãi thường mang nhiều bộ mặt khác nhau: Sợ bệnh tật, sợ cô đơn, sợ bị lừa gạt, sợ bị phụ bạc, sợ chia ly, sợ bị kẻ thù làm hại… Dường như nỗi sợ luôn ám ảnh mọi người. Sợ hãi sẽ làm cho người ta trở nên khép kín, không dám tiếp xúc với người khác, không dám làm điều gì khác thường và luôn cảnh giác đề phòng tha nhân. Nếu cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh lâu dài, chúng ta sẽ có nguy cơ bị đau bao tử, tinh thần rối loạn và sẽ mau già trước tuổi.
– Về phạm vi đức tin, sự sợ hãi làm cho các tín hữu trở thành nhát đảm, không dám công khai đến nhà thờ dự lễ cầu nguyện, không dám nói về Chúa và có thể chối Chúa khi phải kê khai lý lịch, khi cần tuyên xưng đức tin, giống như ông Phê-rô xưa đã chối Thầy ba lần do sợ hãi (x. Mt 26,69-75).
– Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su ba lần nhắc nhở các môn đệ đừng sợ:
Đừng sợ người đời, nhưng hãy mạnh dạn nói lời Chúa cách công khai (26-27);
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà thôi (28);
Đừng sợ vì ta có Thiên Chúa là Cha đầy quyền năng, hằng thương yêu và quan phòng gìn giữ ta. Người luôn quan tâm đến từng con chim sẻ không mấy giá trị và nắm rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta (29-31).
2) Cần vượt qua nỗi sợ hãi thường tình:
– Thực ra cảm giác sợ hãi là điều tự nhiên và không xấu. Ngay Đức Giê-su tuy khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (x. Ga 14,1), nhưng trước cuộc khổ nạn chính Người cũng có cảm giác sợ hãi (x. Ga 12,27; 13,21). Trong vườn cây Dầu, Đức Giê-su đã vô cùng xao xuyến và tâm sự với ba môn đệ thân tín như sau: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy” (Mt 28,37-38). Rồi khi bị treo trên thập giá, Đức Giê-su cũng có cảm tưởng như bị Chúa Cha bỏ rơi, nên đã sợ hãi và đã kêu lớn tiếng rằng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46).
– Tuy nhiên, Đức Giê-su đã chiến thắng nỗi sợ hãi ấy, khi Người quyết vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu chén này không thể rời khỏi con, nhất định con phải uống, thì xin cho ý Cha được thể hiện” (Mt 26,42). Chính nhờ chiến thắng cảm giác sợ hãi và chấp nhận con đường “qua đau khổ vào trong vinh quang”, mà nhân loại chúng ta mới nhận được hồng ân cứu độ. Hôm nay Chúa Giê-su Phục Sinh cũng động viên mỗi người chúng ta: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để anh em được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).
3) Hãy can đảm làm chứng cho Chúa:
– “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Anh em hãy xin chủ ruộng sai thêm thợ đến gặt lúa về”. Mỗi người chúng ta khi chịu phép rửa tội là chúng ta được tái sinh làm con Thiên Chúa. Khi đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su, là chúng ta cũng như “Chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16), chúng ta cũng sẽ trải nghiệm các cơn thử thách, xỉ nhục, bắt bớ và giết hại giống như Thầy Giê-su, như lời Người dạy: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi” (Mt 10,24).
– Khi chịu phép Thêm Sức là chúng ta được tăng thêm sức mạnh của Thánh Thần để nên tông đồ đem Chúa đến với mọi người chung quanh. Cần cầu xin ơn Thánh Thần để đón nhận được bảy ơn Thánh Thần, như Hội Thánh cầu xin trong khi ban phép Thêm sức: “Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa”. Hãy nghe lời Chúa dạy: “Anh em đừng sợ” giống như Hội Thánh sơ khai đã không khiếp nhược nhưng hăng say đi rao giảng Tin Mừng.
– Cần tín thác cậy trông tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Bình thường, ai cũng sợ bị bắt bớ đánh đòn và sợ bị giết chết. Nhưng chúng ta cần tín thác vào Chúa như lời Chúa Giê-su hôm nay: “Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi” (Mt 10, 30). Dù chúng ta đang gặp nhiều gian nguy đau khổ, nhưng chúng ta tin vững vào quyền năng và tình thương quan phòng của Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN:
1) Ngày nay chúng ta thường lo sợ về những điều gì? Để thắng được nỗi sợ hãi, chúng ta phải làm gì? 2) Chấp nhận theo Chúa đòi phải bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Vậy trong cuộc sống hôm nay, chúng ta phải từ bỏ những gì không phù hợp với đức tin và sứ mệnh làm chứng cho Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin lắng nghe lời con cầu nguyện: Xin hãy ban cho con sức mạnh của ơn thánh, để con loại khỏi lòng trí những đam mê xấu xa tội lỗi. Xin hãy ban cho con sức mạnh của lòng can đảm, để con sẵn sàng chấp nhận mọi nỗi buồn vui xảy tới trong đời con. Xin hãy ban cho con sức mạnh hy sinh, để con quên mình dấn thân gánh vác thập giá đời con và những đau khổ của anh em gây ra cho con. Xin ban cho con một sức mạnh kiên cường, để con không chịu khuất phục trước cường quyền bạo lực và không làm ngơ trước gương xấu tội ác, nhưng sẵn sàng bênh vực công lý và hòa bình. Xin ban cho con một sức mạnh dẻo dai để con biết nâng cao tâm hồn khỏi những lo lắng cơm áo gạo tiền thường ngày. Và cuối cùng xin ban cho con một sức mạnh trổi vượt, để con luôn khiêm nhường, tin cậy chạy đến nép mình trong bàn tay âu yếm của Chúa, và dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa và tha nhân theo thánh ý Chúa.
– Lạy Chúa. Nhiều lần chúng con đã tỏ ra khiếp nhược sợ hãi khi giao tiếp với người khác, hoặc khi gặp phải những gian nan thử thách liên tiếp xảy đến. Trong những giờ phút đen tối đó, nhiều lần chúng con đã không dám biểu lộ đức tin, đã gián tiếp chối Chúa khi không dám khai tôn giáo của mình trong bản lý lịch; Nhiều khi chúng con không dám làm dấu thánh giá ở chỗ đông người, không dám đeo dây chuyền có hình Thánh giá Chúa, không dám trưng bày bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng nhất trong nhà, không dám mở miệng bênh vực Chúa và Hội Thánh khi nghe những kẻ vô tín phỉ báng bất công. Xin giúp con chăm chỉ học hỏi Lời Chúa để ngày một hiểu biết và yêu mến Chúa hơn. Xin cho con thêm can đảm để dám bênh vực công lý và làm chứng cho Chúa. Xin ban thêm đức tin cho con để nhìn thấy Chúa đang ở trong con, để cậy trông phó thác đời con cho Chúa. Xin cho con sự khôn ngoan, biết khi nào nên nói và nói về Chúa cách nào cho hiệu quả. Nhờ đó, con sẽ chu toàn được sứ mệnh làm tông đồ mở mang Nước Chúa, loan báo Tin Mừng giữa lòng xã hội hôm nay.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

70. Can đảm lên đường loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Huệ Minh)
Sợ hãi là một trong những thất tình của con người. Có lẽ trong đời người, không ai mà không phải sợ hãi trước một điều gì. Vì vậy, để vượt lên trên nỗi sợ hãi luôn là một khát vọng của ý chí con người. Thế nhưng, trong thực tế ta thấy nếu bảo rằng rèn luyện ý chí đến độ không còn biết sợ bất cứ điều gì thì lại là hành vi thái quá, có khi dẫn đến thái độ ngang tàng, kiêu ngạo. Vậy, vấn đề là người ta phải biết sợ điều gì và không nên sợ điều gì.
Trang Tin Mừng hôm nay ở trong bối cảnh sứ vụ cứu độ của Chúa Giêsu.
Sau khi tuyển chọn các môn đệ, Chúa sai họ đi với định hướng duy nhất là loan báo Nước Trời đã đến gần trong thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chúa cũng tiên báo cho họ về những cuộc bách hại họ sẽ phải trải qua như bị nộp, bị thù ghét vì danh Chúa và họ sẽ đồng số phận bị loại bỏ như Chúa. Chúa biết điều đó làm cho các ông rất sợ hãi nên Chúa đã trấn an và khuyến khích: “Đừng sợ!” vì Chúa luôn hiện diện bên họ. Chúa trấn an họ: một khi đã đặt niềm tin vào Chúa, họ sẽ được yêu thương chăm sóc vì mạng sống con người còn quí hơn chim trời và hoa cỏ đồng nội.
“Đừng sợ!”, là lời Thiên Chúa đã nói hơn 365 lần trong Thánh Kinh để trấn an dân Chúa trong lịch sử cứu độ; và cũng là lời Chúa Giêsu liên tục củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người. Vì thế, là những Kitô hữu trong ơn gọi bước theo sứ mạng của Chúa Giêsu giữa lòng thế giới đầy tràn những biến động hiện nay, chúng ta hãy tin rằng: Chúa Giêsu cũng đang nói với mỗi người chúng ta: Đừng sợ! “Lòng anh em đường xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1). Đây là một lời trấn an rất cần thiết và có sức nâng đỡ tuyệt vời nhất cho thân phận yếu hèn của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu tỏ lộ cho các môn đệ thấy những khốn khó các ông sẽ phải chịu, khi kiên vững tin vào giáo huấn của Người và thực thi sứ mệnh Người trao cho. Tuy nhiên Người cũng khích lệ các ông: “anh em đừng sợ …”; Người biết rõ những điều Người rao giảng và truyền cho các ông loan báo cho mọi người là Chân lý Cứu Độ mà Chúa Cha muốn con người đón nhận để được giải thoát; do đó, Đức Giêsu cũng muốn các ông phải mạnh dạn loan báo cho dân chúng nơi các thành thị, thôn làng được biết và các ông phải can đảm đương đầu với những gian truân và bách hại do những kẻ chống đối Tin Mừng gây ra, vì đó là diễm phúc của những người đặt trọn niềm tin vào Người, và nhờ đó các ông chứng thực đức tin và lòng yêu mến Thiên Chúa của mình.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến điểm yếu kém nhất nơi con người đó là sự sợ hãi: Sợ hãi trước quyền lực thế gian, ma quỷ và đam mê, hưởng thụ vật chất; sợ bị gian khổ, bị người đời chê cười, có người sẵn sàng đánh đổi lương tâm, đánh đổi sự công chính để chiều theo những điều độc ác, gian tà. Còn với các môn đệ, cũng có thể vì không vượt thắng được nỗi sợ hãi nên chần chừ, hoặc không dám thể hiện niềm tin của mình.
Chúa Giêsu một lần nữa nhấn mạnh đến đối tượng của đức tin nơi người môn đệ là: “Thiên Chúa”, Đấng luôn quan tâm bảo vệ, gìn giữ những kẻ Ngài yêu thương và trao ban hạnh phúc cho họ. Thiên Chúa quan phòng yêu thương những kẻ thuộc về Ngài vì Ngài nhân từ, độ lượng và hay thương xót; Ngài đòi hỏi những ai yêu mến Ngài phải hết lòng tin tưởng, cậy trông nơi quyền năng và tình thương của Ngài. Đồng thời Ngài mời gọi phải can đảm, mạnh mẽ tuyên xưng Con chí ái của Ngài là Đức Giêsu Kitô, dung mạo của lòng thương xót và thứ tha Ngài đã dành cho nhân loại.
Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Như vậy hạnh phúc Nước Trời hoàn toàn lệ thuộc vào lòng yêu mến “Con Thiên Chúa làm người” và những ai can đảm sống và thực thi giáo huấn của Người.
Hẳn mọi người con nhớ khi đăng quang trong ngôi vị giáo hoàng, cả hai Đức Thánh Cha: Gioan Phaolô II và Bênêđitô XVI đều nhận lãnh sứ vụ trong thái độ nương tựa vào lời Chúa: “Đừng sợ!”
Vâng, chính niềm xác tín vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Giáo Hội như Đầu nhiệm thể của Người, mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trở nên một nhân vật xây dựng hòa bình được toàn thế giới mến phục và Đức Bênêđictô XVI mới dám can đảm nhận chức Giáo Hoàng khi đã cao niên. Từ kinh nghiệm này, trong vai trò đại diện cho Chúa Kitô, các ngài lại tiếp tục trấn an các tín hữu: “Đừng sợ! Hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” (ĐTC GP II), và “Hãy mở rộng ra những cánh cửa cho Chúa Kitô, và các con sẽ tìm thấy sự sống thật.” (ĐTC Bênêđictô XVI).
Tâm tình này nhắc nhớ người tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha và đừng sợ bất cứ điều gì. Người tín hữu cũng nên ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử đạo, một cách thanh thản.
Tin tưởng vào Thiên Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ được giải cứu khỏi thử thách, nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị kết án sẽ được biện minh và được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng và can đảm.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Chúa Giêsu mong muốn nơi các môn đệ trong khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, là phải mạnh dạn can đảm trước những đe dọa của người đời. Phải tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Người hằng quan tâm săn sóc chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, thất vọng trước những bắt bớ của người đời. Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng chúng ta phải sợ vì Người có quyền lấy mất sự sống đời đời khỏi chúng ta. Nhưng Người cũng là người Cha đầy lòng nhân ái, thế nên chúng ta cứ an tâm.
Là những người tin và đi theo Chúa Giêsu, mỗi tín hữu chúng ta phải nối tiếp sứ mệnh làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Cho dù cuộc sống còn nhiều khó khăn thử thách. Chúng ta hãy can đảm tin tưởng vì Chúa luôn ở bên chúng ta.
Ta cùng xin Chúa thêm ơn cho ta để ta can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô trong lời nói và trong mọi việc làm; và Loan báo Tin Mừng Cứu Độ cho mọi người đang sống chung quanh ta.