LỄ TRO
Lời Chúa: Ge 2,12-18; 2Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6.16-18
MỤC LỤC
THỨ TƯ LỄ TRO 2
1. Yêu thương 2
2. Sống mùa chay – Lm Nguyễn Thanh Sơn 5
3. Mùa chay 9
4. Thay đổi chính con 12
5. Hoán cải nội tâm 14
6. Vấn đề giả hình 17
7. Chú giải của Fiches Dominicales 19
8. Hoán cải và sám hối 22
9. Cách thức thực hành mùa chay 38
10. Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 30
11. Mùa chay và ơn cứu độ – ĐGM. Bùi Tuần 36
12. Bụi tro 41
13. Ăn chay cách nào mới đẹp lòng Thiên Chúa?- JKN 43
14. Hãy xé lòng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 48
15. Hãy xé lòng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 51
THỨ NĂM SAU LỄ TRO (Lc 9,22-25) 54
1. Thập giá của con nặng quá! 54
2. Theo Chúa Giêsu 58
3. Thập giá mỗi ngày 59
THỨ SÁU SAU LỄ TRO (Mt 9,14-15) 65
1. Trên đường đến tiệc cưới Nước Trời 65
2. Ý nghĩa của việc ăn chay 69
3. Thời gian để sám hối 71
THỨ BẢY SAU LỄ TRO (Lc 5,27-32) 76
1. Cuộc gặp gỡ định mệnh 76
2. Tin mừng của lòng thương xót 80
3. Cứu vớt những gì đã hư mất 82
THỨ TƯ LỄ TRO
1. Yêu thương
Có một sự kiện rất phổ biến đó là ngày thứ tư lễ Tro, nhà thờ nào cũng đầy ắp những đến dự lễ, tuy ngày đó chẳng phải là ngày lễ buộc, đàng khác người ta đến không cốt để dự lễ, mà để được xức tro. Ai cũng cố gắng để làm sao có được một chút tro bỏ trên đầu, từ ông già bà cả đến đứa con nít. Không có tro thì như thiếu một cái gì quan trọng. Nhưng nếu hỏi tại sao lại phải bỏ tro lên đầu thì có lẽ không phải ai cũng trả lời được.
Một hiện tượng khác tương tự, đó là chuyện tàu lá trong ngày Chúa nhật lễ Lá. Mọi người phải kiếm cho được một tàu lá đem về giắt đâu đấy trong nhà. Nhưng nếu hỏi tại sao, thì cũng thật khó trả lời.
Và theo truyền thống, thì trong nhiều nhà thờ, những chiếc lá khô của năm trước được giữ lại, đốt thành tro để xử dụng trong ngày lễ tro năm sau. Thế là cái chu kỳ lễ tro và lễ lá, lể lá và lễ tro, trở thành một vòng khép kín.
Tuy nhiên có bao nhiêu người bỏ tro lên đầu màđã thực sự sám hối và có bao nhiêu người cầm lá trong tay đã thực sự đón Chúa. Đó mới là vấn đề. Đúng là cảnh xé áo chứ không xé lòng mà tiên tri Joel đã lên án. Trong khi đó, lẽ ra người ta không cần phải ưu tiên cho việc bỏ tro lên đầu nhưng phải ưu tiên cho việc sám hối, mà việc bỏ tro chỉ là biểu tượng bên ngoài.
Cũng vậy, vấn đề quan trọng không phải là kiếm cho được một tàu lá trong ngày Chúa nhật lễ Lá, ngày kỷ niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nhưng là đón Chúa Giêsu hôm nay đang đến với chúng ta trong tha nhân. Nhiều người đi lãnh tro, đi lãnh lá, nhưng cuộc sống của họ trước sau vẫn chẳng có gì thay đổi. Có thể ngay khi từ nhà thờ bước ra, họ đã kênh kiệu, lên mặt đạo đức, khinh ghét người này, hận thù kẻ khác. Có thể ngày đó họ sẽ đi bán hàng, vẫn thói tham lam lừa gạt, tìm cách bóc lột kẻ khác, kể cả những kẻ nghèo khổ. Và ngày lễ lá, sau khi cầm lá đem về, họ sẽ để lá vào trong bình đặt trên bàn thờ, hoặc giắt nó vào đâu đó, làm như bùa hộ mệnh, nhưng không hề nghĩ đến chuyện phải đón tiếp anh em trong cuộc sống hằng ngày: Ai đói cứ đói, ai khát cứ khát, ai không nhà cứ ở ngoài đường, ai trần truồng cứ việc chịu rét lạnh, ai cô đơn cứ việc cô đơn.
Điều còn khó chấp nhận hơn nữa, đó là người ta sẵn sàng ăn chay hãm mình để cầu nguyện cho những kẻ nghèo đói, làm như thể cứ ăn chay là kẻ đói sẽ no, cứ hãm mình là người nghèo trở nên giàu.
Trong khi mà đáng lẽ ra họ cần phải chia sẻ cơm ăn áo mặc cho người nghèo đói hơn là ăn chay hãm mình mà chẳng cho người nghèo đói được một chút cơm thừa canh cặn. Ấy vậy mà những kẻ ăn chay hãm mình, nhưng không chia sẻ cho người nghèo đói vẫn được tiếng là những người đạo đức. Họ giống hệt như ông Tư tế và thày Lêvi ở đền thờ về, khi trông thấy đồng bào mình bị đánh trọng thương nằm ở vệ đường, lại tránh qua bên kia mà đi, không thèm ngó tới. Đó là những kẻ giữ đạo hình thức. Cứ nhìn hiện tượng bên ngoài thì họ là những kẻ nhiệt thành, đạo đức. Họ là những người tự nghĩ mình trung thành với Chúa, bằng việc thực hành mọi nghi thức, mọi thói quen của đạo, nhưnglại không sống cái gì là chính yếu, là bản chất của đạo, đó là thực hành bác ái. Họ không hiểu rằng Thiên Chúa của chúng ta là Đấng muốn lòng nhân từ chứ không cần lễ tế, cùng với tất cả mọi nghi thức…Chính Ngài đã nói như thế qua tiên tri Isaia.
Khi nhìn vào đời sống của Đức Kitô, chúng ta thấy rõ Ngài là hiện thân của Thiên Chúa tình thương, chứ không phải là Thiên Chúa của lễ tế hay của những luật lệ và nghi thức của đền thờ. Trong ba mươi năm trước khi rao giảng Tin mừng, thì Ngài đã sống Tin mừng ấy bằng cách chia sẻ trọn vẹn đời sống bình thường hằng ngày với bà con lối xóm. Từ khi bắt đầu rao giảng Tin mừng, Ngài cũng ưu tiên dành thời gian và sức lực cho việc chữa bệnh và chăm lo cho mọi người, kể cả việc lo cho người ta ăn uống khi cần. Ngài không đặt nặng vấn đề ăn chay, hay giữ luật ngày Sabát theo tinh thần Do Thái, mà lấy con người làm cứu cánh của lề luật. Ngài chỉ dâng lễ tế có một lần và chỉ một lần là đủ, bởi vì Ngài không thể chết hai lần, nên cũng không thể dâng mình làm lễ tế lần thứ hai. Do vậy mà tất cả lệnh truyền mới của Ngài, thay thế cho lề luật cũ chỉ tóm gọn trong câu: Anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em.
2. Sống mùa chay – Lm Nguyễn Thanh Sơn
(Trích trong http://nguoitinhuu.com)
Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm Mt 6,1-6.16-18 để làm hành trang thiêng liêng cho con cái mình, khi khai mạc Mùa Chay Tịnh. Sau khi “xé lòng”, chúng ta được chính Đức Giêsu kêu mời thực hành ba việc hết sức cụ thể: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Trước khi chúng ta xắn tay áo để thực thi những việc này, chúng ta hãy ghi khắc trong tâm trí mình tinh thần của Đức Giêsu: “Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các ngươi mất công nơi Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời.”
Bản tính loài người chúng ta hay khoe khoang, phô trương công đức, để hòng được thiên hạ nhìn thấy, ngõ hầu họ ca tụng, vinh danh mình. Tinh thần của Đức Giêsu là khiêm nhường. Chúng ta nên xác tín rằng không có việc thiện nào chúng ta làm một cách thầm lặng, khiêm nhường, “trong phòng kín”, mà Cha trên trời lại không hay biết. Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Laura Bush, đã được báo chí khen ngợi là “người phụ nữ hoàn tất mọi việc trong âm thầm.” Tôi nguyện lấy tấm gương này làm “nghệ thuật sống” cho đời mình.
BỐ THÍ
Đây là việc thứ nhất chúng ta làm. Từ “bố thí” đối với tôi nghe không được nhẹ nhàng, khiêm hạ mấy, nhưng chúng ta tạm dùng từ bình dân quen thuộc này. Đây là nghĩa cử chia sẻ, giúp đỡ những người thiếu thốn vật chất. Đức Giêsu đã lên án người giàu đóng lòng mình lại, nghĩa là ích kỷ không chia cơm xẻ áo với người nghèo: “Khốn cho các ngươi, những kẻ giàu có! Vì các ngươi hiện đã có phần an ủi.”
Khi chúng ta “mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, mở trương mục tiết kiệm mình ký thác trong ngân hàng lớn, kéo dài bàn ăn nhà mình, cho các công tác từ thiện, chúng ta sẽ được Cha trên trời chúc phúc, và thưởng công. Tôi nhớ lời Thánh Phaolô: “Gieo sẻn thì gặt sẻn, gieo hậu thì gặt hậu.” Trong thực tế, người giàu có là người đã ban tặng nhiều; kẻ ích kỷ sẽ là kẻ nghèo nàn nhất thế gian.
Một điểm rất quan trọng tôi đã học được nơi Mẹ Têrêsa Calcutta, đó là khi chúng ta giúp người nghèo, chúng ta phải kính trọng và yêu mến họ, chứ không phải khi trông thấy họ đến cửa nhà mình, chúng ta nhìn họ bằng nửa con mắt để xua đuổi họ đi, hoặc ném cho họ vài đồng tiền giấy trị giá thấp nhất, bẩn thỉu, và nhàu nát, như những của bố thí, tức những của không đáng kể gì, ta vất đi, ta “thí” đi, cho người hành khất ăn xin!
Đức Giêsu dạy chúng ta khi giúp người nghèo thì “đừng thổi loa”, “tay trái đừng biết điều tay phải làm, hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Đấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi.”
Việc tương thân tương ái, chị ngã em nâng, một con ngựa đau cả tầu không ăn cỏ, một miếng khi đói bằng một gói khi no, chúng ta chia sẻ cho nhau phải có tính cao thượng, nghĩa là “bố thí mà không cầu đền đáp” của người thụ ân. Chúng ta cứ dấn thân cho đồng loại, Thượng Đế “sẽ hoàn trả lại” cho mình.
CẦU NGUYỆN
Việc thứ hai này chắc hẳn là thiết yếu nhất của các tín hữu chúng ta. Chúng ta hãy dùng những ngày Mùa Chay để kết hiệp làm một với Cha trên trời, nâng tâm hồn mình lên với Ngài. Chính nhờ sức mạnh của cầu nguyện mà Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian đã viên mãn công trình của Ngài.
Đức Giêsu cảnh giác chúng ta khi cầu nguyện thì “đừng lải nhải như người ngoại!” Họ lắm lời vì họ tôn thờ nhiều thần tượng, họ vái tứ phương, họ lạy khắp phía. Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn mình rằng “đừng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm”. Nói ít là nói những gì? Đức Giêsu đã dạy chúng ta một mẫu kinh cốt tủy, đó là Kinh Lạy Cha.
Mỗi ngày chúng ta hãy đọc ít nhất một lần Kinh Lạy Cha với tất cả tâm hồn mình, nghĩa là vừa đọc vừa suy niệm, chứ đừng đọc như thói quen, có khi chạy nhanh như xe hơi ngoài xa lộ liên bang!
Mẹ Têrêsa Calcutta khuyên chúng ta:
“Trong Mùa Chay, chúng ta hãy tấn triển tinh thần cầu nguyện và tĩnh tâm của mình. Hãy giải thoát trí huệ chúng ta khỏi hết thảy những gì không phải là Đức Giêsu. Nếu anh chị em thấy mình khó cầu nguyện, hãy cầu xin Ngài nhiều lần: ‘Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự vào trái tim con, hãy cầu nguyện với con, hãy cầu nguyện trong con — ngõ hầu con có thể học từ nơi Ngài cách thức cầu nguyện'”.
“Khi đến lúc cầu nguyện mà chúng ta không thể cầu nguyện, chúng ta hãy làm một việc hết sức đơn giản, đó là hãy để cho Đức Giêsu cầu nguyện trong chúng ta lên cùng Chúa Cha trong thinh lặng của lòng mình. Nếu chúng ta chẳng thể nói ra lời, Ngài sẽ nói cho chúng ta. Nếu chúng ta chẳng thể cầu nguyện, Ngài sẽ cầu nguyện thay chúng ta. Vậy chúng ta hãy trao cho Ngài sự bất khả và sự trống không của mình.”
ĂN CHAY
Việc thứ ba này cũng thật quan trọng, và nó phải được thực hành theo tinh thần của Đức Giêsu: “Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình (….) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa…”.
Việc ăn chay như vậy không phải là chuyện sầu buồn, tang chế; và người ăn chay sẽ không mang bộ mặt đưa đám vào dung nhan thật của mình!
Khi nghe từ “ăn chay” thường các tín hữu nghĩ đến việc ăn một bữa no, rồi một bữa nhẹ, theo luật chay tịnh của Giáo Hội chúng ta. Thật ra, ăn chay có một sức mạnh tâm linh lớn lao, chứ không chỉ đơn giản là việc ăn ít hơn thường ngày, như một lần kia, Đức Giêsu đã nói với các môn đồ mình: “Thứ quỉ này chỉ trừ được bằng việc ăn chay và cầu nguyện.”
Ăn chay để lòng chúng ta không còn nặng nề vì “say sưa chè chén”, như Tông đồ dân ngoại Phaolô đã huấn dụ những tay nhậu tục tử phàm phu! Ăn chay để lòng chúng ta vơi đi những tham lam, ghen tuông, và nóng giận của mình, và nhất là để nó được đổ vào tràn đầy hoa quả của Thánh Linh. (xem Ga 5:22) Ăn chay để con người chúng ta được nhẹ nhàng, thanh thoát, như cánh chim trời vút bay lên cao, như bông huệ ngoài đồng thỏa ngát hương thơm…
Khi ăn chay, trong thực tế, chúng ta sẽ dành được một số tiền, vậy phần ăn chay này chúng ta được kêu gọi tặng lại cho những người nghèo. Nếu chúng ta cất giữ nó vào “kho tàng dưới đất” của mình, việc ăn chay trở thành vô lý, vô nghĩa, vì bởi nhờ ăn chay mà chúng ta trở nên keo kiệt hơn, và ích kỷ hơn!
Nguyện xin Chúa Kitô ban cho chúng ta Mùa Chay Tịnh sung mãn thánh ân Ngài.
3. Mùa chay
Vào năm 1220, có một nhà hiệp sĩ lên đường làm một cuộc hành hương để viếng thăm thánh địa. Ông ta cặm cụi đi ngày đi đêm, mong sao chóng được đặt chân đến vùng đất quê hương của Chúa Giêsu.
Sau nhiều tháng, ông đã tới được đỉnh Canvê. Tại đây, ông đã mường tượng ra cái chết thương đau của Chúa Giêsu trên thập gía và ông đã quyết tâm xa tránh tội lỗi, bởi vì chính tội lỗi là nguyên nhân khiến cho Chúa phải chịu chết một cách thương đau như vậy. Đồng thời cũng chính tại đây, ông đã sống lại giây phút vinh quang khi Chúa Giêsu phục sinh tiến ra khỏi mồ.
Sở dĩ tôi kể lại mẩu chuyện trên đây là để chúng ta cùng nhau đi vào những tâm tình chính yếu của mùa chay.
Thực vậy, mùa chay trước hết phải là thời gian thuận lợi để sám hối ăn năn.
Như ông hiệp sĩ đã chia sẻ niềm đau với Chúa Giêsu khi Ngài bị bọn lý hình đánh đòn, đội mạo gai và đóng đanh chân tay vào thập giá, chúng ta cũng hãy quì gối xuống trước thập giá Chúa Giêsu và suy gẫm về những khổ đau Ngài đã phải chịu vì chúng ta. Và chúng ta hãy thân thưa với Ngài:
Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã chịu chết trên thập giá.
Nhất là trong tuần thánh, chúng ta hãy dâng những hy sinh nhỏ bé của chúng ta để kết hiệp với những khổ đau của Chúa, hầu đền bù những tội lỗi chúng ta đã vấp phạm.
Tiếp đến, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta cùng chịu chết với Chúa Giêsu.
Thực vậy, cao điểm của mùa chay là buổi chiều ngày thứ sáu tuần thánh, khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Buồi chiều hôm ấy, toàn thể Giáo hội đều để tang Chúa, đều tưởng niệm cái chết của Ngài. Chính nhờ cái chết tủi nhục này mà chúng ta được ơn cứu độ, được ơn tha thứ.
Chính vì thế, chúng ta hãy chết cho tội lỗi như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ. Chúng ta nên nhớ rằng vui thú do tội lỗi đem lại thì chỉ kéo dài trong thoáng chốc, nhưng đau khổ mà nó gây ra lại kéo dài cho đến muôn ngàn đời.
Tại Paris, có một ông hà tiện. Suốt cả cuộc đời, ông chỉ có một nỗi băn khoăn lo lắng, đó là tìm tiền kiếm bạc. Ông làm việc cả ngày Chúa nhật và không ngần ngại dùng mọi phương thế, cho dù là bất công, cho dù là tàn bạo, miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình. Trước khi chết, ông nói với nhưng người thân rằng:
– Hãy để vào tay tôi một đồng tiền vàng. Vì nó mà tôi sống và cũng vì nó mà tôi chết.
Những người thân đã làm theo lời căn dặn. Họ đã để cả một nắm tiền vàng vào lòng bàn tay của ông, nhưng những đồng tiền vàng này cứ rơi xuống giường, bởi vì bàn tay của ông lúc đó đã cứng đơ, không còn cầm nắm được nữa.
Cũng vậy, cái chết sẽ làm tiêu tan những vui thú tội lỗi. Chính vì muốn chúng ta chết đi cho tội lỗi, mà hôm nay, khởi đầu mùa chay, Giáo hội đã xức tro trên đầu chúng ta và nhắc nhở:
– Hời người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Sau cùng, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta chuẩn bị đón mừng niềm vui Phục sinh.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã chết, nhưng sau ba ngày Ngài đã sống lại. Sự phục sinh của Chúa chính là một phép lạ vĩ đại nhất mà Ngài đã thực hiện.
Thân xác đau khổ của Ngài đã được chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Đó cũng là một hình ảnh nhắc cho chúng ta nhớ rằng:
– Không phải chúng ta chỉ chết đi cho con người cũ, là con người tội lỗi, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải sống lại cho con người mới, con người được phục sinh, mang hình ảnh và dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa.
Hãy cùng đau khổ với Chúa Giêsu và nhất là hãy chết đi cho con người tội lỗi, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được chia sẻ niềm vui Phục sinh với Ngài.
4. Thay đổi chính con
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới. Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi chính con. Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cạch mạng, thì cách mạng bản thân là điều tiên quyết. Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân. Chúa Giêsu đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ… Không ai nghèo đến nỗi không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có khi vô danh của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là điều không đáng kể trong đại dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia cũng sẽ chỉ là sa mạc khô cằn.
5. Hoán cải nội tâm
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
6. Vấn đề giả hình
Ba việc làm căn bản của lòng đạo dức người Do Thái là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúng ta ghi nhận điều này là Chúa Giêsu thừa nhận giá trị của các việc làm ấy, để các môn đệ Người đem thực hành, song Người dạy cho họ biết các việc đó phải có phẩm chất thế nào. Chúng ta gặp lại ở đây một trong các mối ưu tư trọng yếu hàng đầu của Chúa Giêsu. Người muốn huấn luyện các môn đệ Người phải đi tìm cái chân, cái thật. Chúa Giêsu lên án các xu hướng thầm kín trong con người ta lo đi tìm, ở ngay trong những việc cao đẹp nhất, cái gì có lợi hay có danh cho mình. Chúa Giêsu thốt ra một lời bài xích hết sức nặng nề: Giả hình.
Chúng ta phải hiểu rõ lời đó. Trong ngôn ngữ của Chúa, tiếng đó không những có nghĩa là một thứ “hai lòng” giả dối, nó biểu lộ ra bên ngoài cái khác với bên trong. Chúa Giêsu đã lên án điều đó khi nói đến những người Biệt phái và kỷ lục Người tố cáo họ tựa như những ngôi mộ được sơn quét vôi trắng bên ngoài. Ơ đây Người không phải đối chống lại những kẻ ra vẻ cầu nguyện, ăn chay bố thí thật. Nhưng Người tố cáo các cung cách họ các làm việc đó, ý muốn của họ là đi tìm sự thoả mãn có tính cách nhân loại trong các việc này. Người cho chúng ta thấy có một thứ giả hình có thể gọi được là thành thực. Các người Do Thái mà Chúa bài bác, có cầu nguyện, ăn chay, bố thí cách thực tình. Nhưng chỗ mà sự dối trá giả hình len lỏi vào đó là ý định của họ trong các việc ấy. Ý định đó, đáng lý chỉ hướng về Chúa cách đơn sơ, trọn vẹn thì lại quay về chính mình và lấy làm thích thú được thiên hạ quý trọng. Đôi khi họ vô tình đi tìm kiếm cái lợi lộc là sự quý trọng của kẻ khác mà không hay biết, hay là sự bằng lòng thoả mãn của chính mình. Những việc như cầu nguyện, ăn chay, bố thí chỉ có mỗi một mục đích là ngợi khen Thiên Chúa. Nếu ai cầu nguyện, ăn chay, bố thí đề tự đề cao mình là biển thủ những cái thuộc về Chúa. Những việc làm trong đời sống đạo đức, như cầu nguyện hay ăn chay có thể ẩn tàng một mục đích nhân loại và vì thế trở thành giả hình.
Chúng ta nhấn mạnh điều này. Chúa Giêsu nói: “… Để được người đời ca ngợi”. Sống giữa mọi người, ai lại không lo đến thế giá của mình. Người ta thường muốn trung thành với những việc đạo đức nhưng không đồng thời cũng lại muốn cách thầm kín không những được kẻ khác coi như những người đạo đức cách “điều hoà”, mà còn muốn tự ban cho mình một thế giá nào; người ta tự cho mình là đều đặn, là đúng chừng mực, không như kẻ này người nọ. Chúa tố cáo cái tâm tình đó như một người giả hình khéo léo tế nhị. Chúa muốn lòng trung thành với Người chỉ lo lắng đến một vị Thẩm phán là Thiên Chúa. Ai trong chúng ta có thể quả quyết rằng họ không thực sự chỉ chú ý đến cái nhìn của ‘Chúa Cha là Đấng thấu suốt mọi điều bí ẩn’?
Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng, điểm này phải trở thành đối tượng cho sự tỉnh thức của chúng ta. Chúa phán: “Hãy coi chừng’. Trong lốâi hành văn của thánh sử Matthêu, sự kêu gọi cảnh giác đó có nghĩ một bên là phải đoạn tuyệt với não trạng thông thường (tìm tư lợi) và một bên là sự tỉnh thức không nhượng bộ một xu hướng tự nhiên nào. Nói chung, Phúc Âm đòi hỏi chúng ta phải gớm ghét sự dối trá. Phúc Âm muốn rằng cách ăn ở của chúng ta, các hành vi chúng ta, lời kinh nguyện lòng bác ái của chúng ta thảy đều phù hợp với một thực tại nội tâm. Nhưng thêm vào đó, Phúc Âm đòi hỏi là không một việc gì trong tất cả mọi việc trên, lại có thể trở thành cho chúng ta, đối tượng của một sự khoái trá bên trong, hoặc là vì được người khác ngợi khen, hoặc là tìm thấy ở đó một lý do để tự đề cao mình.
7. Chú giải của Fiches Dominicales
SỐNG DƯỚI ÁNH MẮT CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Sống dưới mắt Chúa Cha
Bằng năm luận đề tương phản liên tiếp, Đức Giêsu trình bày đời sống công chính mới, đối lại lối sống công chính của các kinh sư và biệt phái.
Trong bài đọc I lễ Tro, Đức Giêsu nói đến 3 trụ cột, làm nên khung sườn đời sống đạo của người Do Thái, và người ta còn thấy ở mọi tôn giáo, đó là: bố thí (ngày nay người ta dùng từ chia sẻ), cầu nguyện và chay tịnh.
Chúa không khinh thường những việc đó, Người muốn nêu bật phải có tinh thần thế nào khi thực hành những việc ấy: “Nếu anh em muốn sống như người công chính, anh em phải coi chừng chớ có phô trương những việc ấy trước mặt thiên hạ để người ta thấy. Sự công chính “đích thực” hệ tại thích nghi với ý Thiên Chúa, Đấng độc nhất có thể biết những gì thầm kín trong tim con người.
2) Chia sẻ
Claude de Tassin giải thích: “Bố thí là một cơ chí quan trọng Do Thái, giống như dịch vụ từ thiện của xã hội thời nay, nhằm tỏ tình huynh đệ do Giao ước đòi buộc: cứu giúp người nghèo khó có sức xoá sạch tôi lỗi (Tob 12,9) và có giá trị ngang với lễ Hy tế. (Si 4,6; 7, 10)” (“LEvangle de Matthieu, Centurion, 1991, trang 72).
Đức Giêsu không chối bỏ tinh thần tu đức này, nhưng Người tố giác cách làm phô trương. Bố thí không phải để “được sự vinh vang do người ta, cũng không để đề cao mình cho người ta thấy (từ Hyporite có nghĩa phô trương mình) nhưng trong nơi kín nhiệm, phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa để một mình Người đánh giá nghĩa cử đó: để “Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người”.
Nguy cơ mà Đức Giêsu kêu gọi phải coi chừng, là để cái bề ngoài, cái nhìn thấy được chiếm ưu thế… Nó không phải là một nguy cơ tưởng tượng đâu, ngay cả đốt với thời đại ngày nay, tuy dưới những hình thức tân tiến. Tính vô vị lợi và tính khiêm nhu cũng không dễ hơn cho các cộng đồng hội thánh hơn là cho các cộng đoàn thế tục. Nào chúng ta, những thành viên, những người phụ trách hoặc người tổ chức không thường bị cám dỗ nhận là của mình những dịch vụ hoặc công việc mà ta cống hiến công sức; khoe khoang công trạng và quyền lợi của ta trước mặt mọi người đấy sao! Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thật tôi bảo thật anh em, họ đã được phần thưởng rồi. Điều mà ta không gởi lại cho mình, thì Thiên Chúa đón nhận. Cả đến lòng quảng đại cũng vậy. Cử chỉ chia sẻ được đầy đủ ý nghĩa khi vì yêu mà tặng không. Chỉ có Thiên Chúa có thể ghi sổ tình yêu, bởi vì kích thước của tình yêu là vô tận.
3. Cầu nguyện
Cả việc cầu nguyện cũng không được thi hành “để biểu diễn” “để tỏ cho người ta thấy”, nhưng để nói với Cha, Đấng ngự nơi bí ẩn: “Cha ngươi Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho ngươi”.
Đức cha Daloz nói: “Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi người ta sống chân thành với lương tâm, sông hướng nội. Cần phải chủ động tìm phương thế để đừng quấy rầy cuộc gặp gỡ thân mật, cá nhân với Chúa Cha. Khi bàn đến một hành động quan trọng như việc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đức Giêsu dạy ta phải gạt bỏ mọi nguy cơ khiến cho người ta lấy cái nhìn của người trần, thế chỗ cho cái nhìn của Cha trên trời. Cầu nguyện để cho người ta nhìn, thay vì cầu nguyện Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, tức là bôi nhọ việc cầu nguyện, là nhằm sai mục đích, là một dạng thờ ngẫu tượng, vì nó hướng lời cầu nguyện, thay vì vào Đấng mà lời nguyện nhắm tới, thì hướng về lợi lộc của người giả bộ cầu nguyện”. (Sđd, trang 66).
4. Chay tịnh
Chay tịnh tự căn bản là một dấu hiệu của tang chế. Claude Tassin quảng giải: “Kỷ niệm ngày đền thờ bị phá huỷ, người ta ăn chay. Nhưng một người Do Thái đạo đức còn biết một nguyên nhân tang tóc to lớn hơn cả việc phá huỷ đền thờ, đó là tội lỗi, sự chết thật sự đối với mối liên hệ sống động với Thiên Chúa. Những nhóm tôn giáo thích gia tăng việc ăn chay đền tội; thí dụ nhóm Pharisêu ăn chay 2 lần mỗi tuần; họ còn thêm những dấu hiệu tang tóc thích hợp, như không tắm rửa, không xức thuốc thơm” (Sđđ trang 77) .
Đức Giêsu không công kích giá trị của việc ăn chay. Nhưng Người muốn bảo môn đệ hãy coi chửng cách làm phô trương.
Không được ăn chay để kéo sự trầm trồ khen ngợi của người ta, để tỏ cho người ta thấy là mình ăn chay, nhưng phải đặt dưới cái nhìn của Chúa Cha và phó thác hoàn toàn cho người. “Và Cha của anh Đấng thấu suốt nhũng gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”.
Khi thuật lại những lời này của Đức Giêsu, một lần nữa Mátthêu muốn can ngăn những Kitô hữu, còn muốn trung thành với việc ăn chay (ông không phản đối việc này), đừng nên tìm danh giá thay vì chỉ cần Thiên Chúa chứng giám.
Đức cha Daloz còn quả quyết: “Nguy cơ giả hình, về vấn đề chay tịnh này, không còn đe doạ chúng ta. Cần có một loại nhận định khác cần thiết cho giới tín hữu trẻ để giữ cho việc chay tịnh ý nghĩa đích thực của nó. Trong một thế giới pha trộn các tôn giáo và phong trào tục hoá đang nở rộ, thái độ của niềm tin chân thật đòi hỏi người tín hữu phải hiểu đúng ý nghĩa của chay tịnh. Để được điều đó chỉ cần trỏ về với những lời của Đức Giêsu. Chay tịnh mà Chúa đề cập ở đây là nhằm thanh tẩy hay giải thoát bản thân, cũng không phải là một cố gắng, hay một khổ chế để làm chủ bản thân hơn. Nó cũng không chỉ là một cuộc giải phóng tâm hồn qua sự khổ chế thể xác, để ta có thể chiêm ngắm những chân lý thần linh tốt hơn. Đức Giêsu cũng không đề cập chay tịnh như một phương thế tỏ tình liên đới với những người đói rách, hoặc như một tự chế để chia sẻ cho tha nhân. Những ý đó đều tốt và bổ ích, và Hội Thánh, phụng vụ và các tác giả tu đức đều khuyên dạy…Chay tịnh chân thật “xô” chúng ta rời cái “lỗi” bản thân, lột trần chúng ta trước Thiên Chúa. Không phải là một cuộc biểu diễn tâm linh… Nhưng là một phương tiện giúp ta sống nghèo trước Thiên Chúa, là một của lễ hiến dâng bản thân ta nhờ sức mạnh khổ chế, trong ân huệ mà Thiên Chúa ban chính mình cho ta nếu ta tự đặt mình dưới con mắt Thiên Chúa trong bóng tối và trong lột bỏ, mà không ham đạt kết quả, chỉ hoàn toàn vì tình yêu và với lòng tin… Giống như cầu nguyện, giống như bố thí, chay tịnh mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ thực thi, phải thi hành trong bí ẩn của tình nghĩa với Cha, bí ẩn của đức tin” (Sđd, trang 82).
BÀI ĐỌC THÊM
Hãy lột bỏ một nạ!
(Claude Tassin, trong cuốn “L’evangile de Matthieu, Centurion, trang 72).
“Từ giả hình (hypocrite) chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Máccô, 3 lần trong Tin Mừng Luca, ngoài ra, không chỗ nào trong Tân ước có từ đó, ngoại trừ trong Tin Mừng Mátthêu, từ đó xuất hiện tới 14 lần, như một trong những từ tán thán ưa dùng để chỉ giới kinh sư và biệt phái.
Theo nghĩa hiện tại, thái độ giả hình là “che giấu con người thật mà phô trương những phẩm chất tốt mà mình không có” (Tự điển Petit Larousse). Mátthêu chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp trong việc từ đó tuột dốc về hướng xấu. Đối với Mátthêu, từ đó còn giữ ý nghĩa theo ngôn ngữ Hy Lạp thực tế: hypocrite nghĩa là “diễn viên”, là người đóng một vai cho khán giả xem, – “cho phòng trưng bày” – không nên quên rằng ở tuồng cổ xưa diễn viên mang mặt nạ. Theo nghĩa xưa, từ “hypocrite” không mang ngụ ý xấu (là đánh lừa khán giả) nếu hoàn cảnh chung quanh không chỉ rõ ý đó .
Sử dựng từ của Mátthêu khiến ta chú ý 2 điều:
1/ Tự căn bản, giới kinh sư và biệt phái muốn nêu gương một lòng trung thành tuyệt đối với Lề Luật cho một dân tộc nhỏ bé thường bị mất phương hướng. Mátthêu cho thái độ này như là nhằm phô trương trưng bày, và do đó ông gieo rắc sự nghi ngờ trên ý hướng nội tâm của những kẻ muốn đặt mình làm mẫu gương. Nhưng linh đạo Pharisêu cũng phi bác thái độ đạo đức phô trương.
2/ Sẽ không tốt cho cuộc tranh luận nếu vịn vào những người biệt phái đã được ngòi bút Matthêu tô vẽ, coi như họ là chứng cớ chắc chắn. Thường thì trong những cuộc tranh luận người ta hay cường độ nhân chứng, chính Matthêu muốn cho người tín hữu tránh rơi vào lỗi này, như vậy mục tiêu chính mà ông nhắm là họ trước tiên qua chân dung méo mó này.
8. Hoán cải và sám hối
1) Nỗ lực hướng tới sự hoán cải tâm hồn cách đặc biệt trong mùa này.
Chúng ta đang ở thời điểm đầu mùa Chay, là thời gian để sám hối và canh tân nội tâm chuẩn bị cho lễ Phục sinh. Phụng vụ của Hội Thánh không ngừng kêu mời chúng ta thanh tẩy linh hồn và bắt đầu lại.
Chúng ta đọc thấy trong Bài đọc I: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu”. Rồi khi xức tro trên trán chúng ta, linh mục nhắc chúng ta nhớ lại những lời trong Sách Sáng Thế. “Hãy nhớ ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”.
“Hãy nhớ ngươi là bụi đất…” Hãy nhớ! Dù được nhắc nhở, đôi khi chúng ta vẫn quên điều này: không có Chúa, chúng ta chẳng là gì cả. “Không có Chúa, tất cả sự vĩ đại của con người chỉ là nhúm tro bụi, trên chiếc đĩa đặt cạnh bàn thờ trong ngày Thứ Tư lễ Tro. Đó là cái mà Hội Thánh dùng để ghi dấu trên trán chúng ta”.
Thiên Chúa muốn chúng ta từ bỏ các sự vật trần gian và quay về với Người. Người muốn chúng ta từ bỏ tội lỗi, nguyên nhân của sự già cỗi và chết chóc, và quay về dòng nước sự sống và hân hoan. “Đức Giêsu Kitô là ân sủng cao vời của toàn bộ mùa Chay. Người tự bộc lộ mình cho chúng ta trong Tin mừng với tất cả sự đơn sơ giản dị”
Hướng lòng về với Chúa, hay hoán cải, nghĩa là chúng ta phải sẵn sàng vận dụng mọi phương thế để sống như Người mong đợi. Chúng ta phải tuyệt đối trung thực với bản thân. Chúng ta không được làm tôi hai chủ. Chúng ta phải yêu Chúa hết lòng hết linh hồn, và tránh xa mọi tội nhẹ cố ý. Mọi người trong chúng ta đều phải gắng sức đạt được điều này, cho dù hoàn cảnh công việc, sức khỏe, gia đình, tuổi tác thế nào.
Đức Giêsu đang mong chờ một con tim thống hối, một con tim nhận biết những yếu đuối và tội lỗi của mình và sẵn sàng giải thoát mình khỏi chúng. “Bấy giờ, các ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các ngươi…” Thiên Chúa muốn chúng ta chân thành đau buồn về các tội đã phạm, bằng việc đi xưng tội, và bằng những hành vi khổ chế và sám hối vì yêu Chúa. Đối với chúng ta, hoán cải nghĩa là tìm kiếm sự tha thứ của Thiên Chúa và nguồn sức mạnh trong bí tích Hòa Giải. Đấy là cách chúng ta bắt đầu lại và hoàn thiện mỗi ngày. Để khích lệ lòng thống hối, Hội Thánh trình bầy cho chúng ta Thánh vịnh thống hối mà vua Đavít đã thốt lên, và rất nhiều vị thánh đã dùng những lời này để cầu xin Chúa thứ tha tội lỗi:
Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
Mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
Dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
Đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.
Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
Đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài.
Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
Và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con.
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài. (Tv 50)
Hôm nay Thiên Chúa sẽ lắng chúng ta nếu chúng ta thốt lên lời nguyện xin: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.
2) Các việc sám hối. Năng xưng tội, hãm mình, làm phúc bố thí
Lòng hoán cải thật sự được thể hiện qua cung cách xử sự của chúng ta. Chúng ta chứng tỏ mình thật sự muốn cải thiện. Qua lề lối làm việc hay học tập, chúng ta biểu lộ điều ấy ra qua cách ăn nết ở trong gia đình; dâng lên Chúa những việc hãm mình nhỏ bé làm cho cuộc sống của những người chung quanh dễ chịu hơn, và làm cho công việc của chúng ta đạt hiệu quả cao hơn. Chúng ta cũng có thể bày tỏ bằng cách dọn mình chu đáo và xưng tội thường xuyên.
Hôm nay Chúa yêu cầu nơi chúng ta một sự hãm mình đặc biệt để dâng lên Chúa với tinh thần vui vẻ: đó là ăn chay và kiêng thịt, củng cố tinh thần nhờ khổ chế thể xác và thú vui xác thịt, nâng linh hồn chúng ta lên Chúa, đẩy lùi mọi ham muốn nhục dục bằng cách cho chúng ta sức mạnh để vượt qua và kìm chế các đam mê, và khuất phục con tim để không tìm kiếm điều gì khác ngoài việc làm vui lòng Chúa trong mọi sự.
Trong mùa Chay, Hội Thánh đòi hỏi những dấu chỉ sám hối (kiêng thịt từ tuổi 14, và ăn chay trong độ tuổi từ 18 đến hết 59 tuổi), đưa chúng ta xích lại gần Chúa hơn và đổ vào linh hồn chúng ta một niềm vui đặc biệt. Hội thánh cũng yêu cầu chúng ta quảng đại làm phúc bố thí cho kẻ khó. Chúng ta sẽ làm việc này với lòng xót thương, muốn an ủi người đang thiếu thốn hay đóng góp vào việc tông đồ, tùy theo phương tiện đang có trong tay, vì lợi ích của các linh hồn. Mọi Kitô hữu đều có thể làm phúc bố thí – không chỉ người giàu có và thế lực, mà cả những ai có mức sống trung bình và ngay cả người nghèo; nhờ vậy những người không ngang bằng nhau về khả năng bố thí lại trở nên bình đẳng với nhau trong tình yêu và tình thương.
Từ bỏ của cải vật chất, hãm mình và chay tịnh thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi và giúp chúng ta tìm thấy Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày. Vì ai cất công tìm Kiếm Thiên Chúa đêm ngày trong khi vẫn muốn bám víu vào sở thích và lợi thú của bản thân, sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Các việc bổn phận thường ngày của chúng ta chính là nguồn đem lại những cơ hội hãm mình: trật tự ngăn nắp, giữ đúng giờ giấc, tập trung sự chú ý và năng lực vào công việc… Thông qua mối quan hệ với người khác chúng ta sẽ tìm ra cơ hội chế ngự tính ích kỷ nơi bản thân chúng ta và giúp tạo ra một bầu khí ấm áp dễ chịu hơn quanh mình. Và việc hãm mình tốt đẹp nhất là từng vượt sự ham muốn của xác thịt, sự ham muốn của đôi mắt, và lối sống kiêu hãnh nơi những việc nho nhỏ trong suốt cả ngày. Những việc khổ chế của chúng ta phải là những việc không gây phiền nhiễu cho người khác nhưng làm cho chúng ta “duyên dáng” hơn, thông cảm hơn và cởi mở hơn trong các mối quan hệ với mọi người. Các bạn chưa được gọi là hãm mình nếu các bạn còn quá tự ái; nếu các bạn chỉ nghĩ cho mình; nếu các bạn nhục mạ người khác; nếu các bạn không biết từ bỏ những thứ không cần thiết và đôi khi cả những thứ cần thiết, nếu các bạn buồn chán vì các sự việc không diễn ra theo cách mà các bạn kỳ vọng. Trái lại, các bạn có thể dám chắc mình đã khổ chế nếu các bạn biết cách làm cho bản thân các bạn trở nên “mọi sự cho mọi người, để cứu độ mọi người” (1Cr 9,22).
Mỗi người chúng ta cần phải phác họa ra một kế hoạch cụ thể để dâng các việc hãm mình lên Chúa mỗi ngày trong suốt mùa Chay này.
3) Mùa Chay là thời gian để tiến đến gần Chúa hơn
Chúng ta không thể để cho ngày hôm nay qua đi mà không khơi dậy trong sâu thẳm linh hồn chúng ta một niềm khát khao trở về, như đứa con hoang đàng, để xích lại gần Chúa hơn. Qua Bài đọc 2 trong thánh lễ hôm nay, thánh Phaolô nói với chúng ta rằng đây là thời điểm tuyệt vời để chúng ta trở về với Thiên Chúa. “Chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu… Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”. Một lần nữa Chúa lại nói với mỗi người chúng ta tận sâu thẳm linh hồn: “Hãy trở về với Ta. Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.
Bây giờ là lúc cuộc hoán cải trong Đức Kitô được duy trì nhờ ân sủng đặc biệt của Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao thông điệp của mùa Chay luôn luôn đầy ắp niềm vui và hy vọng, cho dù nó là một thông điệp chứa đựng tâm tình thống hối và khổ chế.
Nếu có ai trong chúng ta nhận thấy mình buồn phiền, thì người ấy cần phải nghĩ ngay rằng. “Đó là vì tôi chưa ở gần Đức Kitô cho đủ…”. Nếu có người trong chúng ta cảm thấy mình có khuynh hướng hay nóng giận, bẳn gắt, người ấy cũng phải tự nhắc nhở mình như vậy. Nếu người này la lối trách mắng về những sự việc xảy ra quanh mình, anh ta sẽ đi chệch mục tiêu; anh ta sẽ nhìn sai phương hướng. Đôi khi sự lãnh đạm hay buồn phiền là do mệt mỏi hay đau ốm… nhưng thường là do thiếu quảng đại trong khi làm điều Chúa đòi hỏi, do yếu đuối trong cuộc đấu tranh thanh luyện các giác quan, thiếu quan tâm đến tha nhân… Tóm lại, nó bắt nguồn từ tình trạng thờ ơ lãnh đạm.
Nếu chúng ta ở gần Đức Kitô, chúng ta sẽ luôn luôn tìm ra phương thuốc chữa trị thái độ thờ ơ lạnh nhạt và khôi phục lại sức mạnh để chiến thắng những khuyết điểm mà tự sức mình chúng ta không thể nào vượt qua. Khi một người tự nhủ: “Tôi không thể nào chừa bỏ tật xấu lười biếng. Tôi trơ lì mất rồi; dường như tôi không tài nào hoàn thành điều đã khởi sự, thì hôm nay người ấy nên nghĩ rằng: “Tôi phải ở gần Đức Kitô cho đủ”. Đó là lý do vì sao mỗi khi chúng ta nhận ra một khiếm khuyết, một yếu điểm trong cuộc sống của mình… chúng ta cần phải kiểm điểm ngay lập tức: “Dường như tôi chưa kiên trì: tôi chưa ở gần Đức Kitô. Tôi không vui vẻ: tôi chưa ở gần Đức Kitô. Và Đức Kitô sẽ nói: Nào! Hãy quay lại! Hãy trở về với Cha với cả tấm lòng!”
Đây là thời gian để mỗi người trong chúng ta nhận biết mình được Đức Kitô thúc đẩy. Những ai có khuynh hướng trù trừ do dự hãy biết rằng đã đến lúc phải quyết định dứt khoát. Những ai bi quan chán nản và nghĩ rằng những lỗi lầm của mình là vô phương cứu vãn hãy biết rằng thời điểm đã đến. Mùa Chay đã bắt đầu, và chúng ta hãy coi đây là thời điểm để thay đổi và hy vọng.
9. Cách thức thực hành mùa chay
Hôm nay bắt đầu mùa chay, mùa ăn năn thống hối tội lỗi, cải thiện đời sống, cùng chết với Chúa Kitô để được sống lại vinh hiển với Ngài. Việc lãnh nhận một chút tro trên đầu nhắc lại một thực hành thời xa xưa khi những tội nhân tỏ lòng ăn năn thống hối bằng cách mặc áo nhặm và bỏ tro trên đầu.
Từ thế kỷ thứ 10, việc xức tro trên đầu đã được phổ biến trong Giáo Hội. Đây là một nghi thức nói lên thân phận mỏng dòn của con người là tro bụi và sẽ trở về bụi tro, đồng thời, nêu bật sự khiêm nhường và quyết tâm trở về đường ngay nẻo chính.
Trong việc sửa đổi đời sống cho tốt, Giáo Hội mời gọi chúng ta thực hành ba việc lành, đó là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Nhưng khi làm các việc đạo đức đó chúng ta phải làm đúng theo cách thức Chúa dạy, nghĩa là làm vì lòng ăn năn sám hối, vì lòng mến Chúa yêu người, chứ không làm vì thói khoe khoang, giả hình.
Là người Công giáo, hàng ngày chúng ta đọc kinh cầu nguyện để thờ phượng Chúa là Thiên Chúa chúng ta, để tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban, để xin lỗi Chúa vì những lỗi lầm chúng ta đã phạm mất lòng Chúa, để xin Chúa ban ơn cần thiết cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho Giáo Hội. Nhưng đặc biệt trong mùa chay, chúng ta sẽ cầu nguyện sốt sắng hơn, chăm chỉ hơn, khiêm tốn hơn và với lòng chân thành thống hối tội lỗi để được Chúa thứ tha và sống một đời sống tốt đẹp hơn.
Cũng thế, trong mùa chay, chúng ta sẽ cố gắng hy sinh hãm mình nhiều hơn, để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa hầu thánh hóa bản thân và cứu rỗi linh hồn người khác. Nhất là chúng ta biết sống liên đới chia sẻ với những anh em nghèo khổ chung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng thời gian thuận tiện Chúa ban để cải hóa tâm hồn và xây dựng cuộc sống Kitô của chúng ta. Xin Chúa giúp sức để mùa chay thánh này thật sự chuẩn bị tâm hồn chúng ta xứng đáng cử hành những biến cố của tuần thánh dẫn đến cuộc Phục Sinh khải hoàn của Chúa.
10. Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
BỐ THÍ
Bác ái, danh từ làm ta khó chịu khi vừa nghe thấy. Giới thợ thuyền trong một vài trường hợp chấp nhận bác ái, nhưng luôn luôn đề cao quyền lợi, công bình trước. Thái độ đó được hoàn toàn thông cảm. Lần nào cũng thế, Tin Mừng không đề cập đến một vấn đề khác. Chúa Kitô chỉ muốn nói rằng khi thực hành bố thí, hãy thực hành theo tinh thần thích hợp. Đó là một bổn phận bất biến, vì luôn luôn có những kẻ giàu sang, đồng thời cũng có những người nghèo đói. Những ai có nhiều hơn, may mắn hơn, phải tự giúp kẻ ít may mắn. Những lời nói của Chúa Kitô được giải thích theo hai ý nghĩa. Trước hết, theo nghĩa tiêu cực: Chúa Kitô kết án việc thực thi bác ái sai lạc:
“Đừng thổi kèn trước mặt người đời”. Có những việc thiện chỉ là tự kiêu tôn giáo trá hình dưới lớp vỏ đức ái. Chỉ biết dùng hành vi thực hiện thiện hảo như một nhãn hiệu. Có những cử chỉ nhân đức do lòng ích kỷ, chỉ vì mục tiêu tuyên truyền hơn là lòng săn sóc trung thực. Người thực thi bác ái không được rao trên mái nhà, đòi hỏi phải được ghi công, tuyên dương trên báo chí hay tri ân công cộng, nghĩa là nêu lên cho mọi người thấy Sự giúp đỡ càng bí mật lại càng hữu hiệu, Chúa Kltô đã dùng một hình ảnh thỏa đáng: tay trái đừng biết việc tay phải làm. Cũng thế, ngay giữa chi tộc mình, cử chỉ cũng vẫn được giữ kín. Đôi khi, giúp đỡ để cứu trợ một thiệt hại vật chất vẫn chưa đủ, còn cần đến lời an ủi và thái độ thông cảm khi hành động. Trong các công việc, không được chỉ xử trí theo thủ tục, mà còn phải trực tiếp gặp gỡ cá nhân. Thật là trái ngược với Kitô giáo, nếu chỉ muốn khai thác sự khốn nạn của kẻ đồng loại để khoe khoang sự đại lượng cá nhân. Phải thực thi bác ái với sự hạ mình thông cảm, không được thi hành với sự tự mãn kiêu kỳ, hay lên mặt dạy luân lý, hoặc làm ra vẻ thánh nhân giữa các tội nhân. Mọi cách biệt sẽ bị xóa đi, nếu ta quan niệm rằng chỉ có một Cha chung trên trời.
Mặt khác, Thầy chí thánh đã tỏ lộ ý nghĩa thứ hai trong giáo huấn của Người khi tuyên bố. “Chúa Cha nhìn thấy trong bí mật”. Không phải nỗi khốn khổ của đồng loại là căn do nẩy sinh lòng bác ái, nhưng chính Thiên Chúa mới là căn do làm phát sinh lòng bác ái của ta. Con người sẽ bị tình cảm chi phối nhiều, và người ta sẽ ưa tiên giúp đỡ những ai khéo léo trình bày sự khốn khổ của mình cách đáng thương và cảm động, mặc dầu họ đã phóng đại. Như thế, có lẽ người ta sẽ giúp đỡ những kẻ nghèo giả tạo, mà quên đi sự khốn khổ thầm kín lớn hơn. Trái lại, nếu người ta hành động cho Thiên Chúa, người ta sẽ tự vấn trước mặt Chúa về những người phải giúp đỡ, và về thời gian thuận tiện. Đức bác ái phải được thực thi cách ý thức, theo thời giờ và cách thức thuận tiện, đối với những kẻ xứng đáng.
Trong tất cả mọi lãnh vực, con người tinh thần được phú ban một loại sáng suốt, với cái nhìn luôn lượng về Chúa, họ học biết cách phục vụ Chúa với sự thận trọng. Những kẻ nào có tâm hồn giống nhóm Biệt phái, sẽ lạm dụng tôn giáo để làm bộ thánh thiện, làm cho ki tô giáo ra một hình ảnh sai lạc và thô kệch. Hãy cẩn thận, đừng thực thi bác ái trước mặt kẻ khác. Vào thời đại chúng ta, lời cảnh cáo của Chúa Kitô không dư thừa chút nào.
Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên rằng Chúa Kitô đã nêu lên một động lực vụ lợi rõ rệt: “Chúa Cha thấy trong bí mật, Ngài sẽ thưởng cho”. Phải chăng luân lý Công giáo là luân lý vì phần thưởng? Hiển nhiên, Chúa Kitô đã tiên báo và chấp nhận không hàm hồ rằng phải thực thi thiện hảo trước mặt Thiên Chúa trước hết. Tuy nhiên, trong một viễn tượng thiêng hứng, họ có thể trở về với bản ngã riêng bằng cách ước mong không đánh mất Thiên Chúa, nhưng luôn luôn tiến gần về Ngài. Phần thưởng của người Công giáo chính là Thiên Chúa, nên trong khi tìm kiếm phần thưởng, tức là họ tìm kiếm Thiên Chúa, như thế, họ đã hành động theo lệnh của Ngài. Đó không phải là lợi ích nhất thời, Chúa Cha sẽ trả lời bằng cách ban chính tình yêu của Ngài. Tìm kiếm Thiên Chúa để thấy hạnh phúc trong ngài đó là một thái độ Công giáo đích thực, được Chúa Kitô chấp nhận và khuyến khích.
CẦU NGUYỆN
Làm dơ bẩn bác ái bằng cách thực thi theo những mục đích ích kỷ, là làm ngược lại thần linh. Bóp méo kinh nguyện để khoe lòng đạo đức là một phạm thượng. Làm như vậy không còn là một thờ kính thánh thiện nữa, nhưng là bắt Thiên Chúa phục vụ những mục đích trục lợi của ta. Mầu nhiệm bí mật nhất của tâm hồn và tính chất cá biệt thâm sâu nhất bị tục hóa, và hạ xuống như một lối giả hình lấy thái độ bên ngoài cầu nguyện để làm việc ngược lại, đó là trình bày một sự thánh thiện sai lạc, không còn gì thảm hại hơn. Những người sốt sắng nửa mùa thường thích đóng kịch. Còn người cầu nguyện thực sự xa tránh mọi người, không đa ngôn, không gây động đạc ồn ào, để đi vào im lặng và thanh vắng, ở đó, họ sẽ tìm gặp được Thiên Chúa. Kinh nguyện là gì, nếu không phải là nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Kẻ giả hình cũng làm vẻ bề ngoài như thế, nhưng thực ra, tâm hồn họ thì hướng về trần giới. Tín hữu cầu nguyện mở tâm hồn ra trước Thiên Chúa, còn kẻ giả hình thì luôn khép kín trước Thiên Chúa. “Khi con muốn cầu nguyện, hãy vào phòng riêng”. Bị cuộc sống bên ngoài luôn thu hút, đôi khi con người cần phải nghỉ ngơi và hồi tâm, giống như một tế bào, họ lui về phòng mình, giữ cho lòng mình khỏi bị lôi kéo vào làn sóng ồn ào huyên náo. Nếu không, họ sẽ chết trong ồn ào Người Công giáo phải tìm nơi kinh nguyện một nguồn mạch không cạn, và một sự tươi trẻ vĩnh viễn cho tâm hồn. Nhưng rất cần phải lui vào thinh lặng, để nghe được tiếng Đấng Tối cao, và trong sự thanh vắng, họ đi sâu vào cuộc đối thoại với Chúa. Những màu sắc sặc sỡ của những tờ bích chương chói sáng chỉ gây những ảo giác. Tiếng động của hàng ngàn loa phóng thanh chỉ làm chúng ta điếc tai: Trong ồn ào, chúng ta không còn nhận biết được giọng nói của Thiên Chúa.. Chỉ khi nào ta trở về với im lặng, ta mới sử dụng cách chính đáng những khả năng của ta. Hãy vào phòng riêng cầu nguyện, không phải là một công việc hao phí thời giờ, trái lại, đó là sự tập trung năng lực để hoạt động kết quả. Cầu nguyện để biến thành bình thiên. liệu cho cuộc sống. Trong khi cầu nguyện, những bình chứa tinh thần được đổ đầy tràn. Nếu chúng trống rỗng, các động cơ hoạt động sẽ dừng lại, không hoạt động được nữa.
Hình như chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy Chúa Kitô đã cầu nguyện trong nơi mình ở, mà không cầu nguyện trong đền thờ hay trong giảng đường. Giữa thời đại tự do hiện nay, trong lúc con người chống lại chủ nghĩa cá nhân quá khích, thì ngược lại, trong lãnh vực tôn giáo, phải cố gắng tự tạo cho mình một đời sống độc lập. Con người ngã về khuynh hướng khinh thường bầu khí thinh lặng, đề cao ồn ào huyên náo, và hạ thấp kinh nguyện cá nhân cũng như những giờ chiêm niệm. Lời Chúa dạy không phải chỉ là lởi bênh vực cho kính nguyện tư riêng cá nhân, nhưng còn là một đòi hỏi phải sử dụng lối cầu nguyện này nữa. Ngoài kinh nguyện cá nhân, con người còn phải sử dụng lối kinh nguyện cộng đồng nữa, vì con người là một con vật có trí khôn và có xã hội tính. Do đó, sự tham gia vào kinh nguyện và hy tế cũng phải có tính cách cộng đồng. Chỉ có lòng đạo đức nào có hai phương diện này mới bảo đảm cho tín hữu sự viên mãn và sung túc tinh thần. Sự thờ kính cộng đồng nếu không sống động nhờ lòng đạo đức cá nhân, sẽ bị lu mờ dần, và biến các nghi thức thành những dấu hiệu bên ngoài trống rỗng. Kinh nguyện chiêm niệm mà không hướng về cộng đồng, sẽ thiếu căn bản và đưa đến cô lập tinh thần. Vậy phải thi hành cả hai tác động, vừa lui mình về phòng nựng, vừa phải đến đền thờ để cầu nguyện. Hai hình thức cầu nguyện này có tính cách bất khả phân ly và bó buộc.
ĂN CHAY
Ăn chay đối với người Công giáo hình như là việc tự nhiên. Nhưng khó khăn là khi nói đến tinh thần phải có khi ăn chay.
Khổ hạnh thuyết mà người ta thường khoe khoang đều lố bịch và mâu thuẫn, vì nó biến lòng thống hối thành tội lỗi: con người giả bộ khổ hạnh ngoài mặt, còn thực sự lại khác hẳn. Họ làm bộ để người ta tin rằng họ ăn chay. Thực ra họ giả bộ ăn chay, họ đã tục hóa phương thế thánh hóa siêu nhiên.
Vẻ thống hối bên ngoài đầy nguy hiểm, vì nó trở nên quá lộ liễu che đậy dục vọng mình cách ích kỷ, dưới chiêu bài luân lý và tôn giáo. Đặc tính của mặt nạ là giả, không gì xấu xa hơn mặt nạ về lòng sốt sắng, vì nó làm cho người khác chê cười và hơn nữa, nó còn làm cho họ chế nhạo cả tôn giáo nữa.
Tuy nhiên, cũng không được rơi vào một thái cực khác, đó là chối bỏ tất cả mọi hành động thống hối bên ngoài. Không thể vì thấy một vài lạm dụng mà kết án hành động thống hối. Người ta vẫn ăn chay, nhưng với một ý hướng trong sạch. Người ta sẽ ăn chay để làm vinh danh Chúa, không phải để tôn vinh con người. Kẻ khắc khổ giả tạo không phải là một người từ bỏ, nhưng là một người tham vọng. Tuy họ từ bỏ, nhưng chỉ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất, thỏa mãn tính kiêu căng của mình. Họ muốn phô trương sự thánh thiện của mình, họ muốn tô điểm mình bằng tấm áo khiêm tốn giả hiệu, họ để cho lớp vỏ hy sinh giả tạo bao bọc tính nhu nhược yếu đuối. Nguyên động lực của thái độ ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng là nhân loại. Người ta chối bỏ Thiên Chúa vì quá yêu mình, trong khi đúng ra, phải chối bỏ mình và chấp nhận tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta không thể chinh phục tha nhân được bằng sự nghiêm khắc quá đáng. Phải có nhiều tinh thần trong hành động thống hối, mới lôi cuốn được kẻ khác. Những săn sóc và nếp sống vệ sinh’hằng ngày, y phục gọn ghẽ, tác phong đáng yêu thì thường nói lên tinh thần thống hối nghiêm nghị, hơn là sự bừa bãi dưới chiêu bài khinh thường của thế gian. “Hãy xức dầu thơm trên đầu”.
Lòng tự kiêu khoe khoang không thể là lòng thống hối được Lòng thống hối trung thực là một điều cần thiết và nghiêm trọng, và không được phép giả bộ. Những bộ mặt khô khẳng không thể chứng tỏ một tinh thần tôn giáo, cũng như một thân xác gầy còm cũng không chứng tỏ một tinh thần tiến bộ.
Hướng nhìn về Chúa và thánh ý Ngài sẽ nói lên thái độ phải có. Chúa đã an bài những ngày lễ và mùa thống hối. Mọi người đều hướng về ngài nếu họ chỉ tin vào Ngài. “Cha ngươi sẽ nhìn thấy nơi bí mật”. Người ta có thể đánh lừa con người. Còn Thiên Chúa biết cả những nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn; ngài không thể bị đánh lừa. Những người khổ hạnh giả bộ, thích nghe những lời ca ngợi khen lao, đó là những phần thưởng nhân loại. nhưng cuối cùng, họ dấn thân phục vụ kẻ gian dối. Vì vậy Tin Mừng dạy: “Hãy ăn chay, nhưng trong tinh thần chân thành” và “khi con ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu”.
(Richard Gutzwiller, Suy niệm Tin Mừng Matthêu. Niềm Tin. Tr. 119-126 và 157-160).
11. Mùa chay và ơn cứu độ – ĐGM. Bùi Tuần
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ. Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi.
Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).
Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ.
Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc 8,30-31).
Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr 5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa.
Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga 10,10).
Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó.
Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm.
Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.
***
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
12. Bụi tro
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
– Hời người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
– Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi.
Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
– Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đọa thân xác, nhưng bà trả lời:
– Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầunguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
13. Ăn chay cách nào mới đẹp lòng Thiên Chúa?- JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay – thường đi đôi với hãm mình – là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay – phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái – là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay – phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm – để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tủy bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
14. Hãy xé lòng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”. Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
15. Hãy xé lòng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ni-ni-vê. Ni-ni-vê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Gio-na đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giô-en đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2, 12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hèn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.
THỨ NĂM SAU LỄ TRO (Lc 9,22-25)
1. Thập giá của con nặng quá!
Có một người ngoài Kitô giáo đã chỉ vào thánh giá và hỏi rằng: “Tại sao người Công giáo thờ một hình tượng ghê rợn và thê thảm như vậy?” Quả thật, đối vơiù người đời thì hình khổ thập giá là một điều đáng kinh hãi. Tuy nhiên Chúa Giê-su lại coi đó là phương thế duy nhất dẫn đến sự sống. Khi Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Đám đông nói Thầy là ai?”, ông Phê-rô tuyên xưng Người là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Chắc hẳn khi nói câu này, ông Phê-rô nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ dùng quyền uy của Đấng Thiên Sai để tái lập thịnh vượng cho đất nước Do Thái. Nhưng trái với điều ông nghĩ, Chúa Giê-su báo cho các môn đệ biết trước Người sẽ hoàn thành sứ mạng thiên sai bằng con đường đau khổ và thập giá. Chúng ta cùng nhau nghe lại đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 9, 22-25 thuật lại câu chuyện này:
“Đức Giê-su bảo rằng: “Con Người phải chịu khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sống lại”. Rồi Người nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi ích gì?”
* * *
Thích sướng ngại khổ, tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Ai lại chẳng muốn đời mình xuôi chèo mát mái, khỏi phải đương đầu với gian nan trắc trở. Là Kitô hữu, chúng ta cũng không ra ngoài tâm trạng đó. Lắm lúc chúng ta muốn sống đạo một cách khỏe khắn, không phải nhọc công gắng sức, không phải hy sinh khổ chế. Chúng ta mong ước quê trời, và chúng ta cũng mong ước đường lên quê trời cho thật êm ả! Lời Chúa ngày hôm nay đánh thức chúng ta khỏi tâm trạng cầu an đó. Lời đầu tiên mà Chúa Giê-su muốn gởi đến cho mỗi người chúng ta trong mùa Chay năm nay là: “Ai muốn theo tôi”.
Qua lời mời gọi trên đây, Chúa Giê-su muốn chúng ta xét lại cách chúng ta vẫn sống đạo hàng ngày. Chúng ta có thật sự sống theo tinh thần Tin mừng không, hay chúng ta chỉ là những Ki-tô hữu trên danh xưng? Chúng ta có thật sự sống chết vì đức tin không, hay đức tin cũng chỉ là một thứ gia vị thêm vào trong cuộc sống của chúng ta? Hôm nay, Chúa Giê-su muốn mỗi người chúng ta lựa chọn và xác định lại lập trường của mình trong việc sống đạo. Người muốn chúng ta có một quyết định dấn thân quyết liệt và dứt khoát, chứ không chỉ giữ đạo ngoài đầu môi chót lưỡi, hoặc giữ đạo theo thói quen. Người muốn chúng ta thật sự lên đường theo Người tiến về quê trời.
Tiếp theo lời mời gọi lên đường, Chúa Giê-su đưa ra cho chúng ta các điều kiện để vững vàng tiến bước. Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
Người ta kể một câu chuyện vui như sau: Có một người nọ than vãn với Chúa Giê-su rằng cây thập giá mình đang vác nặng nề quá, còn những cây thập giá của một số người khác thì lại nhẹ nhàng hơn. Chúa Giê-su bảo người ấy đem cây thập giá kia vào kho, rồi cho người ấy tự do lựa chọn một cây khác thích hợp với mình. Sau một thời gian lựa lọc, người ấy chọn được cây thập giá ưng ý và hí hửng đem tới khoe với Chúa Giê-su. Ngài mĩm cười và nói: “Đây chính là cây thập giá mà con đã bỏ vào kho hồi nãy!”
* * *
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, con người đánh mất niềm an vui hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho thuở ban đầu. Vì phạm tội, con người bị đuổi khỏi vườn địa đàng, là nơi họ được hưởng hạnh phúc bên Chúa. Ở ngoài vườn địa đàng, con người phải tự lực cánh sinh. Đàn ông phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để có cơm ăn áo mặc. Đàn bà phải mang nặng đẻ đau để lưu truyền nòi giống. Kể từ đó, con người phải liên tục đối đầu với những khó khăn và trở ngại trong cuộc sống. Đau khổ và thập giá là hậu quả của tội lỗi. Con người tìm mọi cách, nhưng không tài nào thoát ra được. Nếu Thiên Chúa không ra tay cứu vớt thì nhân loại phải muôn đời sống trong khổ ải.
Vì yêu thương, Đức Giê-su Ki-tô đã xuống thế làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người như chúng ta, để chia sẻ những đau khổ và thập giá của chúng ta. Sau cùng, Người đã dùng chính cái chết và sự sống lại của mình để đánh bại tội lỗi và sự chết. Nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su, đau khổ và thập giá mang một ý nghĩa mới. Vất vả cực nhọc vẫn còn đấy. Nhưng chúng không đè bẹp được những ai tin vào ơn cứu độ của Người. Trái lại, chúng trở nên những cơ hội giúp con người thanh luyện và thăng tiến bản thân. Như một vận động viên leo núi, để lên cao, người ấy phải tốn nhiều sức lực và mồ hôi, có khi còn kèm thêm máu và nước mắt. Nhưng đổi lại, người ấy được hưởng niềm vui chinh phục đỉnh cao. Nếu ngại khổ ngại khó, người ấy sẽ đứng mãi dưới chân núi mà ôm ấp giấc mộng không thành!
Cuộc sống đạo của chúng ta cũng tương tự như thế. Để theo chân Đức Giê-su tiến lên đỉnh Can-vê, chúng ta cũng phải trải qua bao gian lao vất vả. Hành trình đức tin là một hành trình leo ngược lên con dốc sa ngã mà ngày xưa tổ tông chúng ta đã lao xuống. Con đường đi lên đòi hỏi phải nỗ lực không ngừng. Có khi phải chấp nhận tủi nhục, phải gánh chịu thiệt thòi. Thoạt nhìn từ bên ngoài, thập giá mà mỗi người chúng ta đang vác đôi khi nặng nề quá sức mình, và đôi lúc có vẻ phi lý. Thế nhưng câu chuyện vui mà chúng ta vừa nghe trên đây nhắc chúng ta nhớ rằng: những gian khổ mà chúng ta phải trải qua chính là những phương tiện thích hợp giúp chúng ta nên thánh. Chúa không trao cho chúng ta những thập giá vượt quá sức của chúng ta. Khi trao thập giá, Người luôn ban cho chúng ta các ơn cần thiết giúp chúng ta vác được nó mà đi theo Người. Nếu chúng ta thấy thập giá của mình quá nặng nề, ấy là vì chúng ta chỉ vác nó với sức riêng của chúng ta thôi. Chúa Giê-su biết rõ điều này nên Người dạy chúng ta phải từ bỏ chính mình trước đã rồi mới vác thập giá. Khi từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ cậy dựa vào Chúa, sẽ bước đi dưới sự nâng đỡ của Chúa. Nhờ ơn phù trợ ấy, chúng ta sẽ vác được thập giá của mình và mạnh dạnh theo Chúa lên đỉnh đồi Can-vê, can đảm chịu đóng đinh với Người để được cùng sống lại với Người.
Lạy Chúa, đứng trước thập giá, ai mà không ngại ngùng run sợ. Có ai dám tự hào là mình sẽ hiên ngang vui vẻ vác lấy nó? Chúa biết rõ con là con người yếu đuối, hay ngại khổ ngại khó. Xin ban cho con ơn can đảm và quảng đại, để con hăng hái vác thập giá hằng ngày mà tiến bước theo Chúa. Xin Chúa cho con hiểu và sống lời Chúa dạy: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. A -men.
2. Theo Chúa Giêsu
Trong lịch sử Giáo hội, từ 2.000 năm qua đã có biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân dâng hiến cuộc đời phục vụ Chúa trong tha nhân. Ơn gọi của mỗi người thường khác nhau, nhưng có điều chắc chắn là tất cả đều được kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa, theo gương mẫu của Chúa Kitô.
Con đường ơn gọi sống đời tận hiến là hành trình tìm về khổ đau, về cái chết trên thập giá và sự phục sinh vinh hiển. Sống đời tận hiến, sống niềm tin Kitô giáo là chấp nhận thiệt thòi, mất mát, là hy sinh từ bỏ để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu. Nói cách khác sống ơn gọi kitô hữu, ơn gọi làm môn đệ Chúa, ơn ogị trở thành công dân Nước Chúa cần một lựa chọn quyết liệt và dứt khoát. Chúa Giêsu đòi hỏi những ai dấn bước theo Ngài sự lựa chọn ấy, cũng như chính Ngài đã lựa chọn dâng hiến cuộc đời và mạng sống vì yêu mến Chúa Cha và để cứu độ con người. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy thập gía mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu có ngặt nghèo và đòi hỏi quá đáng chăng? Không. Ngài chỉ muốn cho chúng ta đước hoàn toàn thanh thoát và hạnh phúc trên con đường sống đời kitô hữu và đặc biệt là đời tận hiến. Bởi vì chúng ta không thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người một cách thiết thực, nếu còn bị ràng buộc bởi tiền tài, danh vọng, tình cảm.
Xin Chúa ban sức mạnh, để chúng ta kiên quyết dấn thân theo Chúa với một tâm hồn thanh thản và tràn trề hạnh phúc.
3. Thập giá mỗi ngày
1) Không có Kitô giáo chân thật nếu không có thập giá. Thập giá của Đức Kitô là nguồn bình an và vui mừng.
Mùa Chay khai mạc từ hôm qua, và bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải vác lấy thập giá của mình nếu chúng ta muốn theo chân Đức Kitô. Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.
Chúa hướng đến mọi người khi nói về thập giá hằng ngày. Và những lời này vẫn giữ đầy đủ nguyên vẹn giá trị. Đó là những lời được gởi tới tất cả những ai muốn theo Người. Không có thứ Kitô giáo không có thập giá và hy sinh dành cho những Kitô hữu mềm yếu và nhu nhược. Lời của Người đặt ra một điều kiện tuyệt đối cần thiết: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Một thứ Kitô giáo tẩy chay thập giá hy sinh tự nguyện và sám hối, viện cớ rằng chúng chỉ là những thực hành lỗi thời của đầu thời Trung cổ hoàn toàn không còn phù hợp với thời kỳ nhân văn hiện đại, sẽ là một thứ Kitô giáo nhạt nhẽo vô vị chỉ trên danh nghĩa mà thôi. Nó không bảo vệ nguyên vẹn giáo lý của Tin mừng, cũng chẳng thúc đẩy nhân loại theo sát bước chân của Đức Kitô. Nó là một thứ Kitô giáo không có sự giải thoát, không có ơn Cứu chuộc.
Một trong những triệu chứng rõ rệt nhất cho thấy sự thờ ơ lãnh đạm đã len lỏi vào linh hồn là tẩy chay thập giá, coi thường những việc hãm mình nhỏ bé, khinh chê sự hy sinh và từ bỏ mình. Đàng khác, trốn tránh thập giá là quay lưng lại với sự thánh thiện và niềm hân hoan; bởi vì một trong những hoa trái của linh hồn khổ chế chính là khả năng xác lập quan hệ với Thiên Chúa và tha nhân, và sự bình an sâu thẳm, ngay cả khi gặp đau đớn và thử thách từ phía bên ngoài. Người nào khước từ khổ chế sẽ không tránh khỏi bị sa vào cạm bẫy do chính các giác quan giăng ra và không thể có những tư tưởng siêu nhiên được.
Đời sống nội tâm không thể đạt được bất kỳ sự tiến bộ nào nếu không có tinh thần hy sinh và khổ chế. Thánh Gioan Thánh giá nói rằng sở dĩ có người đạt tới sự kết hiệp với Chúa ở mức độ cao là vì quá nhiều người khước từ hy sinh và khổ chế. Thánh nhân còn nói: Nếu ai muốn một ngày kia chiếm hữu được Đức Kitô, thì đừng bao giờ gạt bỏ thập giá khi tìm kiếm Người.
Chúng ta cũng đừng quên rằng khổ chế gắn bó chặt chẽ với niềm hân hoan, và rằng khi tâm hồn chúng ta được thanh tẩy nó sẽ trở nên khiêm tốn hơn, nhờ đó linh hồn chúng ta có thể tiếp cận một cách gần gũi hơn với Thiên Chúa và tha nhân. Đây là điều nghịch lý lớn của sự khổ chế Kitô giáo. Có vẻ như là việc chấp nhận và hơn thế nữa, tìm kiếm sự đau khổ là nguyên nhân khiến cho những Kitô hữu tốt lành, trong cuộc sống, trở thành những người đáng buồn nhất.
Nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Sự khổ chế chỉ sản sinh buồn chán khi người thực hành quá vị kỷ, thiếu lòng quảng đại và thiếu tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự hy sinh luôn luôn đem đến niềm hân hoan giữa khổ đau, và hạnh phúc vì biết rằng…
2) Thập giá là những điều nhỏ nhặt hằng ngày.
Ngày nào có thập giá của ngày ấy, không một ngày nào trôi qua mà chúng ta không phải vác lấy thập giá do Chúa gởi đến, cũng không có ngày nào qua đi mà chúng ta không đón nhận ách của Ngài…
Con đường thánh thiện sẽ ngày ngày dẫn chúng ta đến thập giá. Đây không phải là con đường đau khổ, bởi vì chính Đức Kitô sẽ xuất hiện để giúp đỡ chúng ta, và không có chỗ cho sự buồn bã khi có Người đồng hành. Tôi hân hoan lặp lại một lần nữa: không một ngày nào trôi qua mà không có thập giá.
Thập giá của Chúa mà chúng ta phải vác mỗi ngày chắc chắn không phải là thập giá do tính ích kỷ, đố kỵ hay biếng nhác… sinh ra. Nó không phải là kết quả của sự xung đột trong “con người cũ” và lòng yêu mình. Thứ thập giá ấy không do bởi Chúa; thập giá ấy không có khả năng thánh hóa.
Đôi khi chúng ta sẽ gặp thấy thập giá trong một số thử thách ngặt nghèo, bệnh tật đau đớn và trầm trọng, kiệt quệ túng quẫn, cái chết của người thân yêu… đừng quên rằng ở bên Chúa Giêsu có nghĩa là chúng ta thường phải đón nhận thập giá. Khi chúng ta phó thác trong tay Chúa, Người thường để chúng ta phải nếm trải đau khổ, cô đơn, chống đối, vu oan, bôi nhọ và sỉ nhục, từ bên trong cũng như bên ngoài. Sở dĩ thế là vì Người muốn hun đúc chúng ta nên giống Người, “đồng hình đồng dạng” với Người. Thậm chí Người còn muốn chúng ta bị coi là rồ dại và bi liệt vào số những kẻ điên khùng.
Chúa sẽ ban cho chúng ta ân sủng và sức mạnh cần thiết để vác lấy thập giá. Chúng ta sẽ hiểu ra rằng Người ban ơn cho các bạn hữu của Người nhiều cách, và thường chúc phúc họ bằng cách cho họ chia sẻ thập giá với Người và đồng công cứu chuộc với Người.
Tuy nhiên, chúng ta sẽ tìm thấy thập giá mỗi ngày nơi những điều trái ý vụn vặt có thể xảy đến trong công việc thường là bởi những người sống chung quanh. Đó có thể là một điều bất ngờ hay bất ưng, tính cách khó ưa của một người mà chúng ta phải sống chung, những kế hoạch bị thay đổi vào giờ phút chót, các thiết bị hay đồ dùng hỏng hóc đúng vào lúc cần sử dụng. Sự khó chịu hay bất tiện, có thể do thời tiết nóng, lạnh, hay do tiếng ồn… những sự hiểu lầm…
Chúng ta phải can đảm chấp nhận và dâng chúng lên cho Chúa trong tinh thần đến tội thay vì phàn nàn kêu ca. Lúc đó, những việc hãm mình xảy đến bất ngờ này có thể giúp linh hồn chúng ta lớn mạnh trong tinh thần sám hối, và phát triển các nhân đức nhẫn nại, bác ái, thông cảm: nghĩa là phát triển trong sự thánh thiện. Nếu chúng ta chấp nhận những trở ngại với một tinh thần tiêu cực, nó sẽ xúi giục chúng ta nổi loạn, nóng nảy hay chán chường thất vọng. Nhiều Kitô hữu mất hết hứng thú vào cuối không phải do những nỗi bất hạnh to tát, mà chỉ vì họ không biết thánh hóa sự mệt nhọc trong công việc, những khó khăn và bất mãn nho nhỏ xảy đến trong ngày. Nếu chúng ta biết đón nhận thập giá, dù lớn hay nhỏ, nó sẽ sản sinh sự bình an và niềm vui từ giữa đau khổ và giúp linh hồn lập công phúc xứng đáng với cuộc sống vĩnh cửu. Nếu không chấp nhận thập giá, linh hồn trở nên ngang ngạnh và nổi loạn bên trong. Sau đó mau chóng bộc lộ ra bên ngoài dưới hình thức thất vọng chán chường và cau có bẳn gắt. Vác lấy thập giá quả là một điều cao cả vĩ đại… Điều đó có nghĩa là dũng cảm đối mặt với cuộc đời, không tỏ ra yếu đuối hay hèn kém. Nó có nghĩa là chúng ta chuyển thành sức mạnh đạo đức những khó khăn thử thách không bao giờ thiếu trong cuộc sống của chúng ta; nó có nghĩa là cảm thông với đau khổ của nhân loại; và cuối cùng nó có nghĩa là thật sự biết yêu thương: Người Kitô hữu nào tránh né hy sinh sẽ không tìm thấy Thiên Chúa và niềm hạnh phúc.
3) Dâng lên Chúa những nỗi thất vọng: Các chi tiết nhỏ nhặt của đời sống khổ chế
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo”. Ngoài việc đón nhận thập giá gặp thấy trên đường đời, chúng ta còn phải tìm kiếm những sự hãm mình nho nhỏ để nuôi dưỡng tinh thần sám hối mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta. Để cho đời sống nội tâm được thăng tiến, sẽ rất có ích nếu chúng ta làm nhiều việc hãm mình nhỏ trong tâm trí, được ấn định và chọn trước để chúng ta có thể thực hiện chung mỗi ngày.
Các việc hãm mình nây sẽ giúp chúng ta rất nhiều trong khi chế ngự sự ươn lười, chống lại tính ích kỷ lúc nào cũng chực bộc phát ra. Cảnh giác thói kiêu căng… Một số việc hãm mình giúp ích cho chúng ta trong công việc như giữ đúng giờ giấc, trật tự ngăn nắp, tập trung sự chú ý, bảo quản dụng cụ hay thiết bị làm việc. Một số việc hãm mình khác sẽ giúp chúng ta sống đức mến tốt hơn: biết mỉm cười vui vẻ dù gặp khó khăn, quan tâm và trân trọng người khác, tạo điều kiện thuận lợi cho công việc của họ, phục vụ họ trong những việc nhỏ nhặt của đời sống thường ngày, và không bao giờ cau có bẳn gắt với người khác. Những việc hãm mình khác nữa nhằm chế ngự lòng ham thích sự dễ dãi thoải mái, kiểm soát các giác quan bên trong cũng như bên ngoài, kìm chế thói hiếu kỳ tọc mạch: chúng ta có thể ấn định một số việc hãm mình cụ thể trong bữa cơm, cách ăn mặc… Dù chúng không phải là những điều lớn lao, nhưng chúng ta phải tập thành thói quen thực hiện chúng một cách bền bỉ và vì lòng yêu mến Chúa.
Vì khuynh hướng chung của bản tính con người là tránh né những gì đòi hỏi sự nỗ lực, nên chúng ta phải rất nghiêm nhặt trong những vấn đề này, thay vì chỉ cốt sao có ý hướng tốt và lấy đó làm thỏa mãn. Đôi khi chúng ta cần phải viết cụ thể những việc hãm mình ấy ra trên giấy hẳn hoi, để dựa vào đó mà xét mình và không quên chúng. Chúng ta cũng phải nhớ rằng những việc hãm mình làm Chúa vui lòng nhất là những việc có liên hệ với đức mến, việc tông đồ, và lòng trung thành đối với các bổn phận.
Chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng chúng ta đã sẵn sàng đi theo Người bằng cách vác lấy thập giá hôm nay và mỗi ngày.
THỨ SÁU SAU LỄ TRO (Mt 9,14-15)
1. Trên đường đến tiệc cưới Nước Trời
Ăn chay là một trong ba việc làm chính để tỏ lòng sám hối ăn năn. Thế nhưng, trong bài Tin mừng mà chúng ta sắp nghe sau đây, ăn chay lại là một đề tài tranh luận giữa các môn đệ của ông Gio-an và Chúa Giê-su. Bài Tin mừng theo thánh Mát-thêu 9,14-15 thuật lại việc này như sau:
“Bấy giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay.”
* * *
Để có thể hiểu cuộc tranh luận này một cách rõ ràng hơn, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về việc ăn chay của thời bấy giờ: theo sách Lê-vi 16,19-31 thì luật cũ chỉ buộc người Do Thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội. Đến thời Chúa Giê-su, ngoài việc giữ chay mỗi năm một lần này, người ta còn tự nguyện giữ những ngày chay chung vì những lý do khác. Ngoài ra, một số người đạo đức còn giữ thêm những ngày chay riêng, như nhóm Pha-ri-sêu ăn chay một tuần hai lần.
Như vậy, việc ăn chay mà các môn đệ ông Gio-an thắc mắc ở đoạn Tin mừng trên đây là việc giữ chay riêng vì lòng đạo đức, chứ không phải vì luật buộc. Đức Giê-su và các môn đệ của Người không phủ nhận giá trị của việc ăn chay theo truyền thống, bởi chính Người cũng đã vào hoang địa ăn chay bốn mươi đêm ngày trước khi ra đi rao giảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới của thời Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su muốn nhắc lại rằng mục đích chính của việc ăn chay trong thời Cựu ước là để chờ đón Đấng Mê-si-a. Hiện nay, việc họ tự nguyện ăn chay là tốt, nhưng có một việc còn tốt hơn: đó là nhận biết Đức Giê-su Na-da-rét chính là Đấng Mê – si-a mà Chúa Cha sai đến để cứu độ trần gian.
Để giúp các môn đệ ông Gio-an có thể mở lòng ra mà nhận biết Người, Đức Giê-su trả lời họ bằng một câu hỏi gợi ý: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ?” Nếu những người môn đệ này của ông Gio-an đã có mặt khi xảy ra cuộc tranh luận trước đây giữa các bạn đồng môn và một người Do Thái về việc thanh tẩy, hẳn họ sẽ nhớ ngay lại lời thầy mình đã nói về Đức Giê-su như sau: “Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn chú rể, đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của Thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”. Phải, Đức Giê-su chính là chú rể trong tiệc cưới Nước Trời. Bao lâu có Đức Giê-su ở cạnh, thì bấy lâu họ không phải âu sầu phiền não. Chỉ khi nào mất Chúa họ mới phải ăn năn khóc lóc tôi!
* * *
Chúa Giê-su đã rất sát với đời thường khi đưa ra hình ảnh tiệc cưới và chú rể để nói về Nước Trời và bản thân Người. Vâng, tiệc cưới là một hình ảnh quá quen thuộc với chúng ta. Ở bất cứ nơi nào thời nào, ngày cưới luôn luôn là một ngày trọng đại, một ngày vui vẻ cho gia đình. Và các nhân vật chính luôn là chú rể và cô dâu. Phải, Nước Trời là một bữa tiệc cưới, trong đó Đức Giê-su chính là chàng rể, và Giáo Hội chính là cô dâu. Sự kết hợp giữa Đức Giê-su và Giáo Hội mang lại hạnh phúc và hoan lạc đời đời cho những ai tham dự tiệc cưới đó, tức là cho những ai gia nhập vào gia đình Giáo Hội. Khi một gia đình có tiệc cưới, mọi thành viên trong gia đình đều vui mừng phấn khởi. Ai cũng muốn bắt tay vào việc, mỗi người tùy sức mình mà đóng góp cho niềm vui chung. Trong ngày đó, ai cũng trở nên dễ mến dễ thương, ai cũng trở nên ân cần tử tế. Nhờ sự hiện diện của chú rể, không khí trong nhà đượm nét đầm ấm và vui tươi. Tất cả mọi ưu tư phiền muộn đều tạm gác lại. Mọi người tập trung tận hưởng niềm vui của ngày hôn lễ. Đâu cũng nghe tiếng cười. Đâu cũng thấy đèn hoa.
Là con cái của Giáo Hội, chúng ta đang được tham dự tiệc cưới của Đức Ki-tô và Giáo Hội. Đức Ki-tô đã phục sinh vinh hiển, đã được Chúa Cha trao ban danh dự và vinh quang. Còn Giáo Hội, vì đang lữ hành dưới trần gian, nên vẫn còn mang nơi mình những tì tích và khuyết điểm của con cái. Giáo Hội đang cố gắng thanh tẩy và canh tân để ngày càng trở nên hiền thê xứng đáng của Đức Ki-tô. Trong nỗ lực này, Giáo Hội luôn kêu gọi chúng ta sám hối và canh tân. Vào những năm cuối thế kỷ 20, Đức thánh cha Gio-an Phao-lô 2 đã liên tục đưa ra những sáng kiến táo bạo để thúc đẩy Giáo Hội tiến sâu và tiến nhanh hơn trong công cuộc sám hối và canh tân này. Chính trong năm Đại thánh 2000 vừa qua, Ngài đã cùng Giáo Hội thực hiện rất nhiều việc cụ thể, đáng lưu ý là việc tổ chức những ngày thánh cho các ngành giới. Trong những ngày ấy, tất cả mọi con cái Giáo Hội đều được mời gọi tham gia tích cực vào việc thanh tẩy bản thân để trở nên con người mới. Qua các phương tiện thông tin, chúng ta đã cùng hiệp thông với nhau, đã chia sẻ cho nhau những hồng ân mà mình nhận được trong những ngày trọng đại ấy.
Hình ảnh Giáo Hội lữ hành chen vai sát cánh trên hành trình về quê trời là một hình ảnh tuyệt đẹp. Trong đoàn lữ hành này, mỗi người nương tựa vào Chúa Ki-tô và vào nhau để tiến bước. Chúng ta cũng có thể liên tưởng đến hình ảnh một gia đình đang nắm tay nhau đi dự tiệc cưới Nước Trời. Con đường đến nơi dự tiệc còn xa. Những gian nan trắc trở còn nhiều. Trên con đường lữ hành này, chúng ta cần nhiều trạm dừng chân để bồi bổ dưỡng sức. Những ai đau yếu cần được thuốc thang chữa trị. Những ai yếu mệt cần được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mùa Chay năm nay là một trong những trạm dừng chân đó. Các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay là những phương thế để chúng ta chữa trị và bồi bổ cho linh hồn mình thêm mạnh khỏe. Ước mong sao mỗi người chúng ta vận dụng được những phương thế này một cách hữu hiệu, để sau chặng nghỉ chân, chúng ta tiếp tục hành trình một cách vững vàng hơn.
Lạy Chúa Giê-su, ngôn sứ Ê-li-a kiên cường biết bao mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Khô-rếp, huống chi con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp con sống mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ được chữa trị và bồi bổ bằng các việc bố thí, cầu nguyện và ăn chay, con hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. A-men.
2. Ý nghĩa của việc ăn chay
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
3. Thời gian để sám hối
1) Chay tịnh và các dấu chỉ sám hối khác trong giáo huấn của Đức Giêsu và trong đời sống của Hội Thánh.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta việc các môn đệ Gioan Tẩy giả hỏi Đức Giêsu: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisiêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”
Vào thời đó, việc ăn chay là một dấu chỉ của tinh thần sám hối mà Chúa đòi hỏi nơi con người. Trong thời Cựu ước chúng ta có thể thấy chay tịnh là một hành vi tôn giáo nhằm mục đích bày tỏ tình yêu và sự phó mình cho Thiên Chúa. Khi được thực biện song song với cầu nguyện, việc chay tịnh diễn tả lòng khiêm nhường trước mặt Chúa. Người ăn chay hướng về Thiên Chúa trong tâm tình hoàn toàn lệ thuộc và phó thác vào Người. Trong Thánh Kinh, chúng ta thấy việc chay tịnh và các việc sám hối khác được thực hiện trước khi khởi sự bất cứ nhiệm vụ khó khăn nào, để van nài Chúa thứ tha tội lỗi, chặn đứng một tai họa, cầu xin ơn cần thiết để hoàn thành sứ mạng, và chuẩn bị tâm hồn để diện kiến Chúa.
Vì biết rõ kết quả của việc chay tịnh, Gioan Tẩy giả đã dạy cho các môn đệ mình về tầm quan trọng và sự cần thiết của việc thực hành sám hối này. Ở điểm này, ông Gioan có chung quan điểm với những người Biệt phái đạo đức và yêu lề luật, bởi thế các môn đệ của ông tỏ ra vô cùng ngạc nhiên khi thấy Đức Kitô không làm cho các môn đệ của Ngài thấm nhuần tinh thần chay tịnh như họ. Nhưng Chúa bảo vệ lập trường của mình. “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ”. Theo các ngôn sứ, Chàng Rể là chính Thiên Chúa, Đấng bày tỏ Tình yêu với con người.
Ở đây Đức Kitô một lần nữa tuyên bố thiên tính của Ngài và gọi các môn đệ là các bạn hữu của Chàng Rể. Họ đang ở với Ngài và vì thế họ không cần phải ăn chay. Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay. Khi Đức Giêsu không còn hiện diện một cách hữu hình với họ, bấy giờ họ sẽ phải hãm mình khổ chế nếu họ muốn nhìn thấy Ngài bằng đôi mắt của linh hồn.
Trong thời kỳ đầu Hội Thánh đã tuân giữ các việc thực hành sám hối theo tinh thần Đức Giêsu truyền lại. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến các cử hành phụng tự đi kèm với chay tịnh. Thánh Phaolô không thỏa mãn với việc đơn thuần chịu đựng đói khát trong những hoàn cảnh bó buộc, mà còn thường xuyên thực hành việc ăn chay có chủ ý. Hội Thánh vẫn trung thành tuân giữ và đề cao việc thực hành sám hối này, cùng với những lời khuyên thích đáng nhận được khi thụ hưởùng.
Tuy nhiên, chay tịnh chỉ là một hình thức sám hối. Còn có những hình thức khổ chế thân xác khác nữa tạo điều kiện dễ dàng hơn cho việc hoán cải và kết hiệp với Chúa. Hôm nay chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta sống tinh thần sám hối mà Mẹ Hội Thánh muốn chúng ta tuân giữ suốt cuộc đời, đặc biệt trong mùa Chay này như thế nào?
2) Chiêm ngắm Nhân tính cực thánh của Chúa qua mười bốn chặng đàng Thánh giá. Hăm hở nhiệt thành cứu chuộc.
“Hãy sám hối”, Đức Giêsu rao giảng ngay từ đầu đời hoạt động công khai, như Gioan Tẩy giả đã rao giảng, và sau này các Tông đồ cũng làm thế trong thời kỳ đầu của Hội Thánh. Chúng ta cần ăn năn sám hối để đền bù quá nhiều tội lỗi của bản thân chúng ta và của người khác. Chúng ta không thể nhận biết Đức Giêsu Kitô nếu chúng ta không có tinh thần sám hối và hoán cải; bằng không chúng ta vẫn bị tội lỗi thống trị. Chúng ta không được tránh né sự sám hối vì sợ hãi, hay vì hoài nghi tính hữu ích của nó, hoặc vì thiếu cái nhìn siêu nhiên. Bạn e ngại sám hối ư? … Bạn sợ sám hối sẽ giúp bạn đạt được Sự Sống vĩnh cửu ư? Để giữ lấy sự sống hiện tại khốn khổ này, bạn không thấy người ta phải trải qua cuộc giải phẫu đau đớn đó sao? Tránh né sám hối cũng đồng thời là tránh né sự thánh thiện và kết quả của việc này là khước từ chính ơn cứa độ.
Niềm khao khát “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô sẽ dẫn dắt chúng ta chấp nhận lời mời gọi cùng chịu đau khổ với Người. Mùa Chay chuẩn bị tâm hồn chúng ta chiêm ngắm các biến cố Thương khó và Tử nạn của Đức Giêsu. Nhất là vào các ngày thứ Sáu trong mùa Chay, nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ lại thứ Sáu Thánh đầu tiên khi Đức Kitô hoàn thành công trình cứu chuộc, chúng ta có thể suy niệm về các biến cố đã diễn ra trong ngày ấy được gom góp lại thành mười bốn chặng đường Thánh giá. Đó là lý do vì sao chân phước Escrivá khuyên chúng ta: Với Đường Thánh giá, các bạn thật sự có một việc thờ phượng hiệu quả và vững chắc. Hãy dành ra một ít phút mỗi ngày thứ sáu để rảo qua mười bốn chặng đường thương Khó và Tử Nạn của Chúa chúng ta. Tôi bảo đảm rằng các bạn sẽ nhận được sức mạnh cho cả tuần sau đó.”
Trong việc tôn sùng truyền thống này, chúng ta sẽ chiêm ngắm Nhân tính cực thánh của Đức Kitô, Đấng tỏ ra cho chúng ta thấy Ngài phải chịu đau đớn trong thân xác một con người, nhưng không đánh mất vẻ uy nghi cao cả của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ sống lại chính những giây phút cứu chuộc thế giới, và chiêm ngắm Đức Giêsu bị tuyên án tử hình trên thập giá (Chặng thứ hai) Chúng ta sẽ thấy Người mở ra một con đường mà chúng ta phải đi theo. Mỗi lần Đức Giêsu ngã sấp dưới sức nặng của cây thập tự lòng chúng ta lại tràn ngập nỗi kinh hoàng, bởi vì chính tội lỗi của chúng ta và của toàn thể nhân loại đã đè nặng lên Thiên Chúa. Lúc đó khát vọng hoán cải sẽ trỗi lên trong chúng ta: Thân xác kiệt quệ của Đức Giêsu giờ đây lảo đảo dưới cây thập tự đồ sộ. Trái Tim yêu thương của Người hầu như chỉ còn thở thoi thóp vì các cơ bắp đã quá bải hoải yếu nhược, và tay chân Người bủn rủn vì mang đầy thương tích… Bạn và tôi không thể nói được gì: lúc này chúng ta hiểu được vì sao cây thập tự lại nặng đến thế. Chúng ta khóc lóc về những tội lỗi xấu xa của mình và sự vong ân bội nghĩa của lòng dạ con người. Từ tận đáy sâu linh hồn chúng ta nổi lên một hành vi bày tỏ lòng ăn năn thống hối thật sự, vực chúng ta trỗi dậy khỏi vũng bùn tội lỗi. Đức Giêsu đã ngã xuống để chúng ta có thể đứng lên, một lần và mãi mãi.
3) Công việc hằng ngày là nguồn cung cấp những việc hãm mình nhỏ bé. Các ví dụ. Việc hãm mình thụ động
Những việc hãm mình mà Chúa yêu cầu chúng ta hầu như luôn luôn có sẵn trong công việc thường ngày. Chúng ta có cơ hội hãm mình ngay từ sáng sớm: mau mắn thức dậy đúng vào giờ đã ấn định, lướt thắng tính ươn lười ngay từ giây phút đầu ngày; giữ đúng giờ giấc; hoàn tất công việc cho đến chi tiết cuối cùng; nở một nụ cười thật tươi ngay cả khi mệt nhọc hay khi lòng không muốn; chừng mực điều độ trong khi ăn uống; từ bỏ ý kiến riêng của bản thân. Để được như vậy, trên hết chúng ta cần phải tuân theo lời khuyên đặc biệt: Nếu các bạn thật sự muốn sám hối, nghĩa là sám hối và hân hoan, các bạn phải trung thành với những giờ cầu nguyện hằng ngày. Sốt sắng, quảng đại với Chúa và không cắt bỏ bớt xén. Và các bạn phải bảo đảm rằng những phút cầu nguyện ấy được thực hiện vào những thời gian cố định, chứ không phải chỉ khi cảm thấy cần. Đừng xem thường những chi tiết này. Nếu các bạn khuất phục được bản thân mình để làm việc thờ phượng này mỗi ngày, thì tôi có thể cam doan với các bạn rằng các bạn sẽ luôn luôn hạnh phúc.
Bên cạnh những việc khổ chế được coi là “thụ động” chúng tự xuất hiện chứ không do chúng ta tìm kiếm – những việc khổ chế chúng ta tự đề ra cho bản thân (và tìm kiếm chúng) được gọi là khổ chế tích cực. Trong số đó những việc hãm mình liên quan đến sự kìm chế các giác quan bên trong và đặc biệt quan trọng đối với sự thăng tiến nội tâm và giúp chúng ta đạt được sự thanh sạch trong tâm hồn. Đó là sự khổ chế trong trí tưởng tượng – tránh sự độc thoại trong đó óc tưởng tượng viễn vông đi lang thang, bằng cách biến nó thành một cuộc đối thoại với Chúa: Chúng ta cố gắng kiểm soát khuynh hướng lật qua lật lại xăm xoi những sự việc vun vặt. Nếu chúng ta không phanh lại kịp thời, thì lòng tự phụ và kiêu hãnh sẽ làm chúng ta chao đảo đến mức đánh mất sự bình an và sự hiện diện của Chúa. Khổ chế trong trí nhớ: tránh những hồi tưởng vô bổ làm lãng phí thời gian và dẫn chúng ta rơi vào những cám dỗ nghiêm trọng hơn. Khổ chế trong trí suy luận – để bắt nó tập trung trực tiếp vào bổn phận của phút giây hiện tại, và tránh tham gia xét đoán người khác để sống khiêm tốn và bác ái tốt hơn. Tóm lại, chúng ta tránh những thói quen không phù hợp với người con của Chúa. Chúng ta hãy quyết tâm ở gần Chúa trong những ngày này bằng cách chiêm ngắm Nhân tính cực thánh của Đức Giêsu qua Mười bốn chặng đường Thánh giá sống động và đáng nhớ. Vì chúng ta, Người đã đi hết chặng đường Thương khó.
THỨ BẢY SAU LỄ TRO (Lc 5,27-32)
1. Cuộc gặp gỡ định mệnh
Trong cuộc sống, gặp gỡ nhau là việc thường tình. Tuy nhiên, có những cuộc gặp gỡ làm thay đổi vận mệnh của một đời người. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Lê-vi là một trong những trường hợp đó Chúng ta cùng nghe câu chuyện này trong Tin mừng theo thánh Lu-ca 5,27-32:
“Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các ngài. Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” Đức Giê-su đáp lại họ rằng: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
* * *
Trong tất cả các cuộc hoán cải được thuật lại trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn là Đấng ngỏ lời đầu tiên. Trong thời Cựu ước, Gia-vê Thiên Chúa thường khiển trách nặng lời và đe dọa trừng phạt để thức tỉnh kẻ tội lỗi. Còn trong thời Tân ước, Đức Giê-su thường kêu gọi một cách khoan dung nhân từ để giúp người có tội sám hối canh tân.
Trở lại với câu chuyện ông Lê-vi, chúng ta biết rằng trong xã hội Do Thái thời Chúa Giê-su, những người làm nghề thu thuế bị dân chúng ghét bỏ và liệt vào hạng tội lỗi. Ông Lê-vi là một nhân viên thu thuế, và người ta nhìn ông với cặp mắt đầy ác cảm. Sự ác cảm này không phải là vô cớ, vì khi làm nghề thu thuế, hầu chắc ông khó tránh được những lần lem nhem tiền bạc, đút lót đầu này ăn chận đầu kia. Sống chung với những người thu thuế, làm sao ông có thể tránh được những thói hư tật xấu của họ? Ông cha ta có nói: “Gần mực thì đen”, câu nói này chắc cũng không ngoa! Có tiền có quyền thì dễ có cơ hội giao du với những người xa hoa phóng đãng. Số bạn bè mang tiếng là “bọn thu thuế và quân tội lỗi” đến dự tiệc tại nhà ông hôm ấy có thể minh chứng phần nào cho điều này.
Tuy hành nghề thu thuế, tuy sống lăn lộn với giới bất lương tội lỗi, nhưngõ thâm tâm ông luôn cảm thấy bất an. Ông cảm thấy đời mình có cái gì đó không ổn, có cái gì đó cần phải bỏ đi, có cái gì đó cần phải sửa sang chỉnh đốn lại. Ban ngày ông ra bàn thu thuế loay hoay với tiền bạc, với những kẻ trên cúi dưới lòn. Nhưng đêm về, đối diện với chính mình, ông thấy buồn da diết: tiền bạc không mang lại cho ông niềm vui đích thật! Từng đêm rồi lại từng đêm, ông dằn vặt khổ sở vì những ý nghĩ tốt xấu cứ đấu tranh dai dẳng trong tâm hồn. Ông muốn tìm cho mình một lối thoát, thế nhưng cái thòng lọng của nghề nghiệp, của lợi nhuận vẫn cứ xiết chặt lấy ông.
Mấy hôm rồi, quanh bàn thuế, ông nghe người ta nói nhiều đến một Thầy Giê-su nào đó đã mang lại an vui cho nhiều người. Lê-vi nửa tin nửa ngờ: Thầy Giê-su là ai mà có thể làm được điều đó? Ông tò mò tìm hiểu và nghe được rất nhiều điều thú vị. Ông thầm ước mong mình có cơ hội gặp được vị Thầy có sức cảm hóa ấy, nhưng công việc bàn thuế và các mối giao lưu nghề nghiệp cứ chiếm hết giờ của ông!
Thế rồi hôm nay, một ngày định mệnh của đời ông: Thầy Giê-su đi ngang trạm thu thuế, thấy ông và gọi ông. Không chần chừ, ông đứng dậy đi theo Người, liều mất cả việc làm béo bở, liều chịu mọi hậu quả rắc rối có thể xảy đến sau này.
Lê-vi đã khởi sự tiến trình hoán cải. Ông đã cương quyết rời bỏ bóng tối để đi ra miền đất ánh sáng. Ông cương quyết làm lại cuộc đời. Cơ hội đã tới, ôÂng phải bám lấy nó, không thể để cơ hội hiếm hoi này vuột khỏi tay ông. Ông đã quá ngán ngẩm những đêm dài trằn trọc. Phải cương quyết ra đi thôi. Ông về nhà tổ chức một bữa tiệc lớn, mời Thầy Giê – su, các môn đệ của Thầy và các thân bằng quyến thuộc của mình đến chung vui, để nói lên quyết định trọng đại của mình, để từ giả họ mà đi theo vị thầy mà ông tin là sẽ mang lại cho đời mình niềm hạnh phúc an vui đích thật.
Bữa tiệc vui này lại làm xốn xang những người Pha-ri-sêu và những kinh sư thuộc nhóm của họ. Vốn tự xưng là công chính, những người này mới lẩm bẩm trách tại sao các môn đệ của Chúa Giê-su lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi! Những người Pha-ri-sêu và những kinh sư này không muốn hoán cải và cũng không muốn thấy những người khác hoán cải! Chúa Giê-su điềm tĩnh trả lời: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn ” .
* * *
Tiến trình hoán cải là con đường trở về được Thiên Chúa vạch ra cho chúng ta, là những tội nhân. Tiến trình này cho chúng ta thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa biểu lộ qua Đức Giê-su Ki-tô. Người không đến để luận tội chúng ta, nhưng để vạch cho chúng ta thấy tội lỗi của mình mà hoán cải, hầu được giải thoát khỏi vòng cương tỏa của tội lỗi và được sống an vui thanh thản. Qua các câu chuyện thuật lại trong các sách Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giê-su luôn tìm dịp đến với những người tội lỗi. Người lân la chuyệân trò với họ. Người cùng ăn cùng uống với họ, để khơi dậy nơi họ niềm hy vọng vươn lên khỏi tình cảnh đáng thương của mình. Và khi kẻ tội lỗi đã có thiện chí hoán cải, Người luôn tạo cơ hội thuận tiện để giúp họ làm lại cuộc đời.
Chúng ta là những tội nhân trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Vì là người có tội, chúng ta thường mang nhiều mặc cảm. Chúng ta muốn vươn lên, muốn thoát ra khỏi tình trạng đáng buồn của mình. Nhưng có lúc chúng ta không đủ can đảm, có lúc lại chẳng có ai chìa tay ra nâng đỡ chúng ta! Chúa Giê-su hiểu rõ tâm trạng này. Người là vị Lương Y từ ái sẵn sàng ra tay cứu chữa mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Người là vị Mục Tử nhân lành biết rõ từng con chiên của mình. Người sẵn sàng tạm rời chín mươi chín con chiên đã yên ổn trong đàn để đi tìm một con chiên lạc, và đưa nó trở về sum họp với đàn .
Lạy Chúa, con là một tội nhân hư hỏng. Những tội lỗi mà con quen phạm cứ mãi dằn vặt trong tâm hồn con. Con rất muốn dứt bỏ những tội lỗi ấy. Nhưng rồi con cứ sa đi ngã lại mãi, khiến nhiều lúc con nản chí muốn buông xuôi. Nhân mùa Chay này, xin Chúa giúp con đảm đứng dậy như ông Lê-vi, đi ra khỏi vùng đất tối tăm của sự chết, để theo Chúa tiến về miền đất ánh sáng của sự sống muôn đời. Amen.
2. Tin mừng của lòng thương xót
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình. Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân. Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất. Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
3. Cứu vớt những gì đã hư mất
1) Đức Giêsu đến như một Lương Y để cứu chữa toàn thể nhân loại, vì tất cả chúng ta đều là bệnh nhân. Khiêm nhường để được chữa lành.
Bài Tin mừng hôm nay nói với chúng ta về ơn gọi của Matthêu; Chúa đã kêu gọi ông thế nào, và ông đã mau mắn đáp lại Người ra sao: “Ông bỏ tất cả đứng dậy đi theo Người “. Người môn đệ mới này tỏ lòng biết ơn đức Giêsu bằng một bữa tiệc mà theo đánh giá của thánh Luca là bữa tiệc “lớn”; có đông đảo người thu thuế và người khác cùng ăn với các ngài. Tất cả các bạn hữu của ông đều đến dự tiệc.
Người Pharisêu coi đó là chuyện chướng tai gai mắt. Họ hỏi các tông đồ: “Sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tộl lỗi?”. Các viên chức thu thuế bị liệt vào hạng người tội lỗi vì những khoản lợi nhuận khếch xù mà họ vơ vét được qua việc thu thuế và vì họ cộng tác với ngoại bang.
Câu trả lời của Đức Giêsu cho người Pharisêu thật an ủi: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”. Đức Giêsu đến để giới thiệu vương quốc của Người cho tất cả nhân loại; sứ mạng của Người có tính phổ quát. Ơn cứu độ không bị điều kiện hóa bởi công trạng của đối tượng mà ơn cứu độ nhắm tới; nó mở rộng ra cho tất cả mọi người, không hề có sự phân biệt. Đức Giêsu đến vì hết mọi người, bởi tất cả chúng ta đều đau yếu và đều là tội nhân; không có ai tốt lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều phải tìm kiếm lòng thương xót và sự tha thứ của Thiên Chúa để được sống và đạt tới ơn cứu độ. Nhân loại không bị phân chia thành hai loại; người công chính nhờ nỗ lực tự thân, và người tội lỗi. Tất cả chúng ta đều cần Chúa mỗi ngày. Nếu người nào nghĩ mình không cần đến Thiên Chúa, người ấy sẽ không được ban cho sức mạnh; người ấy tiếp tục bị đè bẹp bởi cái chết nội tâm hay bệnh tật của mình.
Những lời của Đức Giêsu, Đấng mạc khải mình là Thầy Thuốc thôi thúc chúng ta khiêm tốn và tin tưởng xin ơn tha thứ tội lỗi của bản thân và của tất cả những ai muốn xa cách Chúa mãi. Hôm nay chúng ta mượn lại lời của thánh Têrêxa để thưa với Người rằng: Ôi lạy Chúa là Thiên Chúa chân thật, điều mà con đang cầu xin Chúa thật khó quá, đó là Chúa sẽ yêu mến những kẻ không yêu Chúa; Chúa sẽ mở cửa cho người không gõ cửa; Chúa sẽ chữa trị cho người thích đau ốm hơn là được lành mạnh! Lạy Chúa, Chúa nói rằng Chúa đã đến để tìm kiếm những kẻ đau yếu. Lạy Chúa, xin Chúa đừng chấp nê sự mù quáng của chúng con, nhưng xin hãy nhìn đến dòng máu Con Chúa đã đổ ra vì chúng con. Ước chi lòng thương xót của Chúa giãi sáng trên tội lỗi xấu xa; Lạy Chúa, xin hãy nhớ rằng chúng con đã được chính tay Chúa dựng nên. Nếu chúng ta khiêm tốn trở về với đức Giêsu, Người sẽ luôn luôn rủ lòng thương xót chúng ta và những ai chúng ta đang cố gắng lôi kéo lại gần Chúa hơn.
2) Đức Giêsu chữa lành bệnh tật của chúng ta. Hiệu quả của bí tích Sám Hối
Trong Cựu ước, đấng Mêsia được mô tả như người mục tử đến để yêu thương săn sóc đàn chiên, băng bó thương tích và chữa lành kẻ yếu đau. Người đã đến để tìm lại những gì đã mất, kêu gọi tội nhân, lấy sự sống của mình làm giá chuộc cho nhiều người. Chính Người là đấng đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta…
Đức Kitô là đấng chữa lành mọi đau đớn tật nguyền nơi chúng ta. Người là thầy thuốc của chúng ta, là Người chữa cho chúng ta khỏi căn bệnh ích kỷ, nếu chúng ta để cho ân sủng của Người thâm nhập vào linh hồn mình. Chúng ta phải đến với Người như bệnh nhân tìm đến lương y, để thú nhận những sai trái và bày tỏ ý muốn được chữa lành. Đức Giêsu đã dạy chúng ta rằng căn bệnh trầm trọng nhất là giả hình và kiêu căng, xui khiến chúng ta giấu giếm tội lỗi của mình. Chúng ta phải hoàn toàn thành thật với Người. Chúng ta phải kể hết sự thật và phải nói: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể làm cho con được sạch “. Chúa biết con yếu đuối; con cảm nhận được sự yếu đuối của bản thân, con đau khổ vì những lần sa ngã. Chúng ta hãy đơn sơ cho Người xem các thương tích, và nếu vết thương sưng tấy lên, chúng ta cũng cho Người xem luôn. Lạy Chúa, Chúa đã cứu chữa biết bao linh hồn; xin hãy giúp con nhận ra Chúa là vị thần y tài ba, mỗi khi con có Chúa ngự trong lòng hay mỗi khi con chiêm ngắm Chúa đang hiện diện trong Nhà tạm. Đôi lúc Chúa sẽ hành động trực tiếp trong linh hồn chúng ta: “Ta muốn, con hãy sạch đi “; cứ tiếp tục khiêm tốn hơn, và đừng lo lắng gì. Những lúc khác, nhất là khi chúng ta phạm tội trọng, Chúa sẽ nói: “Hãy đi trình diện với các tư tế”. Hãy đến với bí tích Hòa Giải, ở đó linh hồn sẽ luôn luôn tìm thấy phương dược thích hợp, cùng với sự bình an và niềm vui khôn xiết.
Chúng ta có thể đoan chắc rằng Thiên Chúa sẽ luôn luôn khích lệ và giúp chúng ta bắt đầu lại. Chính Người cầm quân lâm trận, và một vị tướng lãnh trên chiến trận tỏ lòng kính trọng đối với chiến binh thế nào, sau khi đã tháo chạy, biết can đảm quay lại tấn công quân địch, hơn là những chiến binh không bao giờ – đào ngũ nhưng cũng chưa bao giờ dám có một hành động dũng cảm. Nên thánh không phải là không bao giờ sa ngã, nhưng là biết luôn luôn trỗi dậy bắt đầu lại sau mỗi lần sa ngã. Mắc khuyết điểm không phải là điều xấu xa – tất cả chúng ta đều có khuyết điểm – nhưng thỏa hiệp với chúng và buông vũ khí đầu hàng mới thật là điều tệ hại. Đức Kitô, vị Thần Y sẽ cứu chữa chúng ta và giúp chúng ta đủ sức chiến đấu.
3) Cậy trông vào Chúa khi biết mình yếu đuối “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. Hy vọng vào hoạt động tông đồ.
Nếu một lúc nào đó chúng ta cảm thấy hết sức chán nản do bệnh tật trong tâm hồn, chúng ta đừng quên những lời an ủi này của Đức Giêsu: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”. Người luôn luôn ở sát ngay bên chúng ta, cho dù chúng ta sai phạm trầm trọng đến đâu, cho dù chúng ta xấu xa khốn nạn đến thế nào; chỉ cần chúng ta thật sự chân thành, thế là đủ.
Cũng đừng quên điều này: luôn luôn có một giải pháp cho mỗi vấn đề: Có lẽ Chúa muốn chúng ta tăng cường cầu nguyện và hãm mình, hiểu biết và thương yêu nhiều hơn. Thánh Augustinô nói: Mọi bệnh tật của bạn sẽ được chữa lành hết. Bạn sẽ nói: “Nhưng bệnh tật của tôi nhiều vô kể”. Vị Lương Y có quyền năng vô cùng. Đối với Người, Đấng toàn năng, không có căn bệnh nào là vô phương cứu chữa; bạn hãy để mình được cứa chữa, hãy phó thác trong tay Người. Chúng ta hãy tiến đến gần Người, như những kẻ mù lòa, què quặt, bại liệt đã tìm dến Người. Chỉ những người biết mình nhơ nhuốc xấu xa mới ước mong được thanh tẩy; chỉ những người ý thức bản thân mình bị thương tích mới cảm thấy cần phải được chữa lành. Chúng ta cảm thấy lo lắng bất an cho đến khi nào bệnh tật nơi mình được chữa lành hết.
Ngày đó Matthêu đã từ bỏ lối sống cũ để khởi đầu một cuộc sống mới với Đức Kitô. Hôm nay chúng ta hãy lấy lời cầu nguyện của thánh Ambrosiô làm của mình: Như Matthêu, con cũng muốn bỏ lại sau lưng nếp sống cũ kỹ và chỉ đi theo một mình Chúa thôi, lạy Chúa là Đấng chữa lành các thương tích trong linh hồn con. Ai sẽ phân rẽ con ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa…? Con bị cột chặt vào Đức tin, bị đóng đinh vào Đức tin, con bị trói buộc bởi sợi dây tình yêu thánh thiện. Mọi giới răn của Chúa sẽ như một thanh sắt nung đỏ để lại ấn tích trên thân thể con mãi mãi… những vết đốt thần kỳ gột sạch vết thương con khỏi ung mủ nhiễm trùng. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cắt bỏ tội lỗi hư thối của con. Xin hãy mau đến hút ra hết chất độc của đam mêvà cắt sâu vào vết thương để mầm bệnh không lan tràn khắp cơ thể con… Con đã tìm thấy một vị Lương Y cư ngụ trên trời, nhưng ban phát thuốc chữa cho người thế. Chỉ một mình ngài có thể chữa lành các vết thương của con thôi; chỉ một mình Ngài mới có thể hóa giải nỗi khổ đau trong tim con và xua tan mọi nỗi sợ hãi trong linh hồn con, bởi vì Ngài biết tường tận con người của con.
Nhiều bạn hữu của Matthêu có mặt tại bữa tiệc cảm thấy mình được đức Giêsu ân cần tiếp đón và cảm thông. Sau này họ sẵn sàng toàn tâm toàn ý trở lại với Người và đón nhận giáo lý của Người, cho dù điều này buộc họ phải thay đổi hoàn toàn. Họ làm thành một phần của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên tại nước Do thái. Đức Giêsu vận dụng mọi hoàn cảnh để đưa con người đến với ơn cứa độ. Chúng ta phải bắt chước Người về điểm này khi thực thi việc tông đồ cá nhân.