Tu sĩ:
Giuse – Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
NGÀY 01-01
BÀI SỐ 1
LỄ MẸ THIÊN CHÚA
ÔI DIỆU KỲ THAY ĐẤNG LÀ MẸ THIÊN CHÚA!
(Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21)
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa đã trở thành quen thuộc và cốt lõi của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, qua tước hiệu này, nhiều người cho rằng đây là một điều ngược ngạo, phạm thượng, lộng ngôn, bởi vì dựa trên suy tư của con người, một thụ tạo thì không thể trở thành mẹ của Đấng tạo thành được! Hơn nữa, xét theo góc độ tự nhiên, Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì Đức Giêsu là Ngôi Lời, có từ đời đời. Mặt khác, Mẹ cũng không sinh ra Thiên Chúa Ba Ngôi!
Vậy khi người Công Giáo tuyên tín Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, liệu có phải là điều trái khuấy và thái quá không? Đâu là nguyên lý khi Giáo Hội tuyên tín và mời gọi con cái của mình tôn kính Mẹ Maria như vậy?
1. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Trước tiên, chúng ta cần khởi đi từ góc độ tự nhiên: đã là con người, ai cũng phải được sinh ra bởi người phụ nữ. Vì thế, không ai hiện hữu trên trần gian này mà lại không có một người mẹ. Đây là quy luật mà Thiên Chúa đã an bài quan phòng. Dù bạn là vua chúa hay bậc thứ dân; dù là giàu hay nghèo… tắt một lời, bạn có là ai đi chăng nữa thì vẫn không thể khác đi được!
Ai là người sinh thành ra ta, người đó là mẹ ta. Mặc dù mẹ chỉ sinh ra chúng ta về mặt thể xác, nhưng trên phương diện toàn thể, mẹ là mẹ của “nhân linh ư vạn vật”, tức là mẹ theo nghĩa cả xác và hồn.
Theo cách hiểu trên, chúng ta sẽ đi thêm một bước nữa để thấy việc Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa như thế nào?
Khi Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của mình cho nhân loại, thì Người cũng muốn để con của mình được sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì thế, Thiên Chúa đã tuyển chọn Đức Maria và trang bị cho Mẹ ân sủng kỳ diệu, để Mẹ trở nên Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, cũng như nhiều ân huệ khác nữa…
Tất cả đều chuẩn bị cho Mẹ xứng đáng đảm nhận hồng ân cao quý là trở thành người cưu mang và sinh ra Đấng Cứu Thế làm người. Đặc ân kỳ diệu này đã được thánh Bonaventura ca tụng: “Chức làm Mẹ Thiên Chúa là to lớn phi thường nhất Thiên Chúa có thể ban cho một loài thụ tạo”; và được bà Isave thốt lên: “Bởi đâu tôi được ơn trọng này là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi” (Lc 1,43).
Tuy Mẹ Maria chỉ sinh ra Đức Giêsu về mặt tự nhiên, thể lý, tức là nhân tính, Mẹ không phải là người tác sinh Thiên Tính nơi Đức Giêsu, nhưng Mẹ lại được gọi là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì nơi Ngôi Vị Đức Giêsu, về mặt Thiên Tính, thì từ đời đời Ngài đã là Ngôi Lời Thiên Chúa, nay nhờ sự kết hợp của Mẹ Maria, bản tính tự nhiên kết hợp với bản tính siêu nhiên, trở thành Ngôi Vị cực thánh là Thiên Chúa Ngôi Hai làm người.
Vì thế, dù Mẹ là Mẹ theo bản tính nhân loại, nhưng cũng là Mẹ Thiên Chúa, bởi lẽ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Là người thật, Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; là Thiên Chúa thật, Ngài có từ đời đời, Ngài là Đấng Tự Hữu, cùng bản thể với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Như vậy, những gì thuộc về nhân tính nơi Đức Giêsu thì cũng thuộc về Thiên Tính nơi Ngôi Lời Thiên Chúa. Mẹ Maria sinh ra Đức Giêsu thì cũng sinh ra “Đấng Thiên Chúa làm người”.
Đây là đặc ân cao trọng vượt trên hết mọi loài thụ tạo. Thánh Tôma Aquynô đã nói về vai trò cao trọng của Mẹ như sau: “Tước vị Mẹ Thiên Chúa cao trọng hầu như vô cùng, vì Thiên Chúa không thể không cất nhắc Đức Mẹ lên bậc tốt lành và cao sang hơn được nữa” (St. Th q.25,a. 6ad 4). Vì thế, Mẹ xứng đáng muôn đời ca tụng là: “Đấng đầy ơn phúc”; vì “có Chúa ở cùng” cách đặc biệt.
2. Quyền thế của Đấng là Mẹ Thiên Chúa
Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ trở thành Nữ Hoàng Thiên Quốc. Nếu Đức Giêsu là vua trên khắp cõi trần gian và Thiên Quốc, thì Mẹ Maria cũng có uy quyền phổ quát trong tương quan là Nữ Tỳ của Thiên Chúa Cha, thân mẫu Đấng Cứu Thế và bạn nghĩa thiết của Chúa Thánh Thần. Vì thế, uy quyền và uy lực của Mẹ trước tòa Chúa thật lớn lao, không ai trên trần gian và Thiên Quốc ngoài Thiên Chúa có thể sánh bằng! Bởi lẽ Vương Quyền của Đức Giêsu lớn lao vô hạn, tồn tại qua muôn ngàn thế hệ, thì chức vị làm Mẹ của Thiên Chúa cũng tùy vào đó và trải dài cũng vô tận.
Nhờ tước vị cao sang quyền thế đó, Mẹ Maria đã trở thành Evà mới, phát sinh Đấng Cứu Thế là nguồn sự sống, thay cho Evà cũ đã đưa nhân loại đến chỗ diệt vong.
Mặt khác, Mẹ trở thành người chuyển cầu hữu hiệu cho nhân loại mỗi khi chúng ta chạy đến với Mẹ.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mặc dù vai trò và tước vị của Mẹ Maria rất cao trọng, nhưng Mẹ luôn luôn khiêm tốn trong thân phận của một Nữ Tỳ Thiên Chúa. Mẫu gương này của Mẹ mời gọi chúng ta hãy biết khiêm nhường, bởi vì chúng ta có là gì thì cũng đều do tình thương của Thiên Chúa chứ không phải do tài đức hay công khó của mình.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cùng nhau xây dựng hòa bình, bởi vì Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu, mà Đức Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, là Chúa của bình an. Lời hát của các thiên thần trong đêm giáng sinh đã mặc khải cho chúng ta biết sứ vụ của Đức Giêsu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ trong nhiệm thể Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chiến tranh, xây dựng tình huynh đệ, sống liên đới và trách nhiệm với con người cũng như xã hội hôm nay; cùng nắm tay nhau để xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống.
Hôm nay cũng là ngày đầu năm Dương Lịch, chúng ta hãy xin Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, ban cho mỗi người chúng ta được an vui hạnh phúc, mạnh khỏe xác hồn, nhất là luôn có lòng mến Chúa và yêu tha nhân như Mẹ, để năm mới này tràn đầy tình thương và lòng nhân ái nơi môi trường và cuộc sống của chúng ta. Amen.
NGÀY 01-01
BÀI SỐ 2
LỄ ĐỨC MARIA MẸ THIÊN CHÚA
MẸ THIÊN CHÚA LÀ NỮ VƯƠNG HÒA BÌNH
(Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21)
Hôm nay, toàn thể nhân loại hân hoan đón chào năm mới Dương Lịch. Riêng với người Công Giáo, niềm vui ấy còn gắn liền với sự thánh thiêng khi cùng nhau cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện đặc biệt cho hòa bình thế giới.
Thật là đặc biệt và ý nghĩa vì hai sự kiện này được diễn ra khi cả nhân loại đang cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Vua hòa bình. Trong tâm tình đó, xin mượn lời tác giả sách Dân Số để gửi đến anh chị em lời cầu chúc thánh thiện trong ngày đầu năm này: “Nguyện xin Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến, ban bình an và dủ lòng thương xót anh chị em” (x. Ds 6,25-26).
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Phụng vụ Giáo Hội ngày đầu năm Dương Lịch hướng chúng ta về Đức Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa. Đây là một ơn ban đặc biệt và vô cùng cao trọng vì chính Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến để sinh bởi người phụ nữ và sinh dưới chế độ lề luật” (x. Gl 4,4).
Như vậy, Thiên Chúa vốn vô hình, nhưng nay, Người đã trở nên hữu hình qua việc đón nhận dung mạo của một con người.
Thật vậy, khi Con Thiên Chúa làm người, Ngài cũng cần một người mẹ như bao trẻ em khác. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là một thiếu nữ Dothái, trinh nữ vẹn tuyền, để nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Mẹ thụ thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế.
Mặc dù Đức Maria không sinh ra Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Mẹ chỉ sinh ra Đức Giêsu, nhưng Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Mẹ thực sự là Mẹ Thiên Chúa (x. Công đồng Êphêsô năm 431). Đây là một mầu nhiệm mà chắc chắn chính Mẹ Maria cũng không thể hiểu được sự vĩ đại và cao cả này.
Nhờ Mẹ Maria đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa trong cung lòng mình, nên ngang qua đó, Thiên Chúa cũng tỏ dung mạo của mình trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria. Thế nên, Đức Maria được xứng đáng tôn vinh với tước hiệu cao trọng nhất, đó là Mẹ Thiên Chúa. Cũng chính vì lẽ đó mà Giáo Hội không ngớt tôn vinh và tôn nhận cũng như cầu khẩn Mẹ dưới tước hiệu cao quý này:
Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.
2. Tình Mẫu Tử của Mẹ Maria nơi chúng ta
Mối tương quan giữa Mẹ Maria và chúng ta có một sự mật thiết rất thiêng liêng, bởi vì Đức Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi Mẹ cưu mang và sinh thành Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Khi trở thành một con người giống như bao người, Đức Giêsu, trở thành Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc là chính chúng ta, thì Mẹ Maria cũng là Mẹ của tất cả mọi người.
Vì thế, nếu suốt cuộc đời của Mẹ đã theo sát Đức Giêsu từ lúc đầu thai đến khi về trời, thì Mẹ cũng luôn luôn đồng hành với con cái của Mẹ trên trần gian mọi lúc mọi nơi.
Điều này không chỉ là tình mẫu tử gắn liền với vai trò làm Mẹ của Đức Giêsu, mà chính Đức Giêsu đã long trọng trao phó thánh Gioan là đại diện toàn thể nhân loại cho trái tim từ mẫu của Mẹ Maria: “Hỡi Bà, này là con Bà”. Đồng thời Ngài cũng trao phó Mẹ của Ngài cho chúng ta qua thánh Gioan: “Này là Mẹ anh”.
Chính vì lẽ đó mà cuộc đời của mỗi chúng ta luôn có Mẹ đồng hành. Niềm vui, nỗi buồn của chúng ta luôn có Mẹ cùng sớt chia. Thật vậy, nếu người mẹ trần gian luôn luôn yêu thương con cái mình hết mực, dù nó có xấu xí, tội lỗi thế nào đi nữa, thì bà vẫn yêu chỉ vì một lý do đơn giản, vì: nó là con của bà. Cũng vậy, Mẹ Maria, với vai trò là Nữ Hoàng Thiên Quốc, Mẹ của chúng sinh, thì không lý do gì mà Mẹ không yêu thương chúng ta như thể đã yêu thương và chăm sóc Đức Giêsu lúc còn tại thế.
Tình yêu của Mẹ Maria dành cho chúng ta thật lớn lao. Vì thế, chúng ta hãy yêu mến Mẹ, gắn bó cuộc đời của chúng ta cho Mẹ, để Mẹ dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu Con Chí Ái của Mẹ.
3. Mẹ Maria – Nữ Vương Hòa Bình
Hôm nay cũng là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới, chúng ta hãy hướng tâm tình về ý chỉ đó.
Kể từ khi Đức Giêsu nhập thể, giáng sinh và làm người, Ngài đã trở thành Hoàng Tử Hòa Bình. Sự xuất hiện của Ngài là trung tâm của hòa bình.
Tại sao vậy? Thưa, vì trước khi Con Thiên Chúa chưa làm người, không một ai và không có cách nào để làm cho: “Đất Trời giao duyên”. Bởi vì, do tội lỗi của Nguyên Tổ cũng như của cha ông đã phạm phải nên đã gây ra sự chia cắt này. Chính vì thế, giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách mà không thể trực tiếp gặp gỡ do sự bất xứng của nhân loại. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria cũng như đã giáng sinh và trở thành Đấng Emmanuen, thì cây cầu đó được nối lại, chiếc thang nối liền được dựng lên và con người được giao hòa lại với Thiên Chúa. Trong công cuộc vĩ đại của sự hòa giải này, Đức Maria đóng một vai trò quyết định. Bởi lẽ, khi Mẹ trở thành thân mẫu Hoàng Tử Hòa Bình thì Mẹ cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình.
Vì vậy, việc mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa trong ngày đầu năm Dương Lịch, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về nền hòa bình trên thế giới để cầu nguyện cho mọi người được an bình thư thái, hạnh phúc ấm êm.
Thật vậy, lời mời gọi cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia, biết cùng nhau ngồi lại để mưu cầu hạnh phúc cho người dân. Biết đặt trọng tâm của mọi hoạt động chính là con người. Biết nghĩ đến lợi ích của nhân loại lên trên quốc gia. Biết coi trọng tập thể hơn cá nhân luôn là lời hối thúc đến cần thiết.
Chúng ta không thể chấp nhận những ngụy biện về lợi tức kinh tế, chính trị, khoa học để gây chiến tranh. Không thể có một lý do nào được coi là xứng đáng khi nhân danh chiến tranh để xây dựng hòa bình. Bởi vì, không thể dùng mục đích tốt để biện minh cho hành động xấu!
Muốn làm được điều đó, những người có trách nhiệm phải trung thành với sự mách bảo của Lương Tâm, để sẵn sàng cho một cuộc hòa giải vì lợi ích của con người.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là Giáo Hội muốn chính mỗi người chúng ta hãy trở thành người xây dựng hòa bình trong chính đời sống thường ngày của mình. Đó là: sống tình huynh đệ với xóm làng, khu phố. Thực thi lòng bác ái với anh chị em đau khổ. Vươn mình ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để biết nghĩ đến người khác.
Làm được điều đó, chúng ta đang góp phần rất lớn vào trong công cuộc vĩ đại của thế giới trong việc bảo vệ và xây dựng hòa bình cho nhân loại.
Để kết thúc, xin mượn lời của thánh Phaolô để khẩn nài lòng thương xót của Thiên Chúa trên những người có trách nhiệm xây dựng hòa bình cũng như mỗi người chúng ta: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67,2-3).
Lạy Chúa Giêsu là Hoàng Tử Hòa Bình, xin Chúa ban cho mọi người trên thế giới này biết sống tâm tình của Mẹ Maria, đó là biết lắng nghe, suy gẫm và thực hành Lời Chúa dạy để thế giới này được bình an đích thực. Amen.
NGÀY 01-01
BÀI SỐ 03
LỄ ĐỨC MARIA – MẸ THIÊN CHÚA
NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN
(Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa.
Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa Trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.
Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp các dân tộc khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho thế giới được an bình thư thái.
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.
Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:
Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:
Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu… Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35).
Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).
Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.
Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa… Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô”.
Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
2. Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng
Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại.
Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở của Mẹ Maria trong vai trò là Thiên Chúa Thánh Mẫu.
Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc.
Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình!
Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!!
Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện đường trường trạm được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giả trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều.
Trước hết, đó là mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình.
Thứ đến, là một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người.
Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ.
Xét trên góc độ quốc gia, một đất nước được coi là hòa bình khi nơi ấy, con người được đảm bảo và tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên.
Trong lãnh vực giáo dục, nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo…
Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời…
Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt.
Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.
Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen.
NGÀY 02-02
LỄ ĐỨC MẸ DẤNG CHÚA VÀO ĐỀN THÁNH – LỄ NẾN
ĐỨC GIÊSU – ÁNH SÁNG SOI MUÔN DÂN
(Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40)
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông Phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Dothái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria .
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
NGÀY 11-02
LỄ ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
XIN MẸ CỨU GIÚP CHÚNG CON
(Is 66, 10-14c; Ga 2, 1-11)
Hôm nay, trong tâm tình của những người con, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng Lễ Đức Mẹ Lộ Đức. Khi mừng lễ này, Giáo Hội muốn tôn vinh Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội như chính Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và mặc khải cho thánh nữ Bernadette từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 2, năm 1858.
Mặt khác, Giáo Hội muốn làm toát lên sự kết hiệp mật thiết giữa Đức Mẹ với Thiên Chúa trong vai trò là nhịp cầu thông hiệp giữa Thiên Chúa và con người.
Đồng thời, Giáo Hội cũng không ngừng mời gọi con cái mình năng chạy đến với Mẹ, để cậy nhờ Mẹ trong vai trò là người thông chuyển ơn Chúa cho nhân loại.
1. Sự can thiệp của Mẹ Maria rất tế nhị và hữu hiệu
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trình thuật việc Mẹ Maria và Đức Giêsu được mời đi dự tiệc cưới tại làng Cana. Mẹ Maria và Đức Giêsu đã nhận lời mời để đến chia vui với gia chủ trong ngày trọng đại.
Tuy nhiên, khi đám tiệc còn đang diễn ra, thì không may cho gia chủ vì sự cố hết rượu. Chắc chắn khi thấy hết rượu, chủ tiệc sẽ bối rối và lo lắng vô cùng, bởi vì nếu rượu hết lúc đám tiệc còn đang dang dở, thì chủ tiệc sẽ bị quan khách khinh thường và chê bai cũng như đôi tân hôn sẽ bị dè bửu… và đương nhiên, nỗi buồn sẽ ập đến với mọi người.
Tuy nhiên, mặc dù Mẹ Maria không phải là người uống rượu, cũng chẳng phải là chủ tiệc, nhưng Mẹ rất hiểu thấu đáo diễn tiễn tâm lý của gia chủ và đôi tân hôn cũng như của mọi người dự tiệc. Vì thế, Mẹ rất tế nhị và đầy tin tưởng vào quyền năng của Con mình, nên đã kịp thời can thiệp bằng cách đến bên Đức Giêsu và nói nhỏ: “Họ hết rượu rồi!”.
Sự can thiệp kịp thời này cho thấy Mẹ Maria rất chu đáo và đầy tình thương. Mẹ không hề dửng dưng trước nỗi khốn cùng của người xung quanh.
Giữa Mẹ Maria và Đức Giêsu có một sự kết hợp rất nhịp nhàng và kết quả. Mẹ rất ý thức vai trò của mình chỉ là cầu thay nguyện giúp chứ không phải là người ban phát, người thi ân giáng phúc chính là Đức Giêsu. Vì thế, Mẹ đã rất âm thầm và tế nhị khi đến báo cho Con của mình biết nỗi khó khăn của gia chủ và nỗi bất hạnh của đôi tân hôn nếu sự kiện hết rượu đến với họ.
Tuy nhiên, thay vì Đức Giêsu hào hứng để làm phép lạ, thì ngược lại, Ngài phản ứng xem ra có vẻ không đồng thuận với Đức Mẹ: Ngài nói: “Chuyện đó có can chi đến bà và tôi? Giờ tôi chưa đến”.
Nhưng Mẹ vẫn hy vọng và cuối cùng Đức Giêsu đã thi hành phép lạ đầu tiên trong cuộc đời công khai của mình do lời cầu xin của Mẹ Maria. Điều này cho thấy Đức Giêsu rất quý trọng và kính nể Mẹ Maria.
2. Tình mẫu tử nơi Mẹ Maria và chúng ta
Người Việt Nam chúng ta từ lâu đời đã có lòng yêu mến Đức Maria cách đặc biệt. Vì thế, nhiều nơi và nhiều cách, chúng ta tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ như: lần hạt Mân Côi; rước kiệu; dâng hoa; xây dựng tượng đài; nhiều người đã chọn Mẹ làm bổn mạng; nhiều hội đoàn mang danh Mẹ; nhiều nhà thờ được xây dựng mang tước hiệu của Mẹ…
Tất cả những việc làm ấy biểu lộ tâm tình yêu mến Mẹ. Vì thế, ở đâu có người Công Giáo Việt Nam, ở đó có hình ảnh và dấu ấn của Mẹ Maria.
Thế nên chúng ta dễ hiểu rằng: mỗi khi gặp thấy những chuyện vui buồn, sướng khổ, mỗi người thường hay chạy đến với Mẹ để van xin Mẹ thương cứu khổ cứu nạn cho mình, cho gia đình và mọi người.
Một trong những động lực thúc đẩy chúng ta chạy đến với Đức Mẹ trong niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác chính là biến cố tiệc cưới Cana. Nếu nơi tiệc cưới Cana, Mẹ đã thể hiện tình thương đặc biệt đối với gia chủ trong cảnh túng quẫn bần cùng như vậy, thì trong cuộc đời của chúng ta, chắc chắn Mẹ sẽ không thể không thi thố vai trò cứu khổ cứ nạn của mình cho con cái Mẹ đang ngày đêm cầu khấn Mẹ.
Hơn nữa, suốt cả cuộc đời của Mẹ đã kết hợp cách chặt chẽ với Đức Giêsu từ lúc nói lời xin vâng đến khi đứng dưới chân thập giá, đủ cho thấy nơi Mẹ có uy thế biết chừng nào!
3. Sứ điệp ngày lễ
Qua những gì chúng ta vừa chia sẻ, có lẽ chúng ta rất tự hào vì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người Mẹ tuyệt vời: vừa uy quyền lại đầy tình thương. Vừa tế nhị, kín đáo, âm thầm nhưng lại thấu hiểu rõ nỗi khổ của con cái.
Tuy nhiên, chắc chắn Đức Mẹ sẽ không muốn chúng ta chỉ ngửa tay đón nhận ơn lành mà không biết mở tay để trao ban. Vì thế, mỗi người chúng ta cũng hãy biết noi gương Mẹ, để sẵn sàng thi hành những điều tốt lành cho anh chị em mình, ngõ hầu xứng đáng với những gì mà mình đã nhận được.
Một trong những cách cần thiết và cấp bách hơn cả, đó là biết học nơi Mẹ bài học về sự liên đới và trách nhiệm.
Liên đới với người nghèo, người sống bên lề xã hội, người ốm đau bệnh tật để ra tay nâng đỡ. Liên đới với những người không có tiếng nói để bênh vực, nhằm tìm được công lý và công bằng cho những người thấp cổ bé họng.
Khi liên đới như thế, chúng ta noi gương Mẹ về tinh thần trách nhiệm qua sự kiện tiệc cưới Cana. Nếu xét theo nghĩa chặt, thì trong tiệc cưới năm xưa, chuyện hết rượu hay còn rượu sẽ không can dự gì tới Mẹ và Đức Giêsu. Tuy nhiên, là người được mời đến dự tiệc, Mẹ đã không vô trách nhiệm khi thấy người thân của mình lâm vào cơn nguy khốn, vì thế Mẹ đã lên tiếng cầu khẩn Đức Giêsu.
Cũng vậy, chúng ta không được phép tự cho mình vô trách nhiệm với những người kém may mắn hơn mình. Chúng ta cũng không bao giờ được phép ngụy trạng bằng những thứ đạo đức hão huyền một chiều, để tự cho mình được phép khước từ những người cùng đinh trong xã hội đến xin chúng ta nâng đỡ. Cần tránh thói dùng nhà thờ, hội đoàn, hay danh dự gia đình hoặc cá nhân để làm bình phong cho sự vô tâm của mình đối với người tội lỗi đang cần đến sự liên đới của chúng ta.
Chúng ta cũng đừng bao giờ lấy làm hạnh phúc trong chăn ấm nệm êm hay tiện nghi sang trọng, mà bên cạnh mình còn biết bao người đói khát, rét mướt và không có nhà ở.
Thật vậy, lương tâm con người tự nhiên cũng không cho phép ta an nhiên tự tại với những gì đang diễn ra trước mắt, huống hồ là Lương Tâm Công Giáo nơi chúng ta!
Vì thế, noi gương Mẹ, chúng ta hãy ra khỏi nội vi của những nơi an toàn để đến với những nơi đầu chiến tuyến của mặt trận để hiệp thông, an ủi và nâng đỡ anh chị em chúng ta cách thiết thực chứ không chỉ đầu môi chóp lưỡi trong những lý luận văn chương hay những khái niệm trừu tượng…
Khi ra khỏi biên cương và tiến ra những nơi nguy hiểm, chắc chắn sự an toàn của chúng ta sẽ không được đảm bảo! Nhưng ngày nay, Giáo Hội sẽ rất cần đến những con người mà trên thân mình mang đầy thương tích và đau khổ của những anh chị em đồng loại khi dám dấn thân để đem ánh sáng Tin Mừng đích thực ngang qua chính hành động của bản thân mình.
Hôm nay cũng là ngày thế giới cầu nguyện cho các bệnh nhân. Chúng ta cùng cầu xin Mẹ Maria chuyển cầu cho những anh chị em đang đau bệnh được an ủi nâng đỡ bởi ơn thánh của Chúa. Đồng thời cũng xin Mẹ thúc đẩy cho nhiều người biết sống tinh thần liên đới, trách nhiệm như Mẹ để biết sẵn sàng ra tay nâng đỡ anh chị em mình.
Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, quý trọng Mẹ Maria, nên Chúa đã không nỡ không nhận lời Mẹ chuyển cầu mà ra tay ban ơn cứu giúp gia chủ trong cảnh thiếu rượu giữa chừng. Xin Chúa cũng thương nhận lời Mẹ Maria chuyển cầu, mà ban cho cuộc đời của chúng con được dồi dào rượu của lòng liên đới, sẻ chia và trách nhiệm với nhau, ước gì từ nguồn năng lực rượu mới ấy mà tâm hồn chúng con được say nồng tình mến với Chúa và tha nhân. Amen.
NGÀY 25-03
BÀI SỐ 01
LỄ TRUYỀN TIN
KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ ĐÓN NHẬN Ý CHÚA
(Is 7,10-14. 8,10; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong công việc. Tiêu chuẩn để được trở thành trợ lý xứng đáng, đó chính là sự khiêm nhường. Nếu khiêm nhường thì sẽ dễ dàng đón nhận ý chủ và thi hành cách trung thực. Ngược lại, nếu tự kiêu tự đại, người trợ lý rất khó chấp nhận ý chủ và sẵn sàng đưa ý mình thay ý chủ. Như vậy, công việc của ông chủ sẽ bị người trợ lý phá hoại nếu hắn không tuân thủ mệnh lệnh trong sự khiêm tốn, và lẽ tất yếu, rất khó trung thành!
Hôm nay, Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thấy toát lên hai nhân vật chính: một là sứ thần, hai là Mẹ Maria. Sứ Thần là người truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria, còn Mẹ Maria là người đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa qua sứ thần.
1. Khiêm nhường để đón nhận Ý Chúa
Nội dung sứ điệp rất đặc biệt. Người đón nhận đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì khi đón nhận, ngay tức khắc, Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi sẵn sàng để Con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế và nhập thế nơi cung lòng mình.
Đây là một tin vừa gây shock, vừa hãnh diện nơi Mẹ. Shock là vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, ấy vậy mà giờ Thiên Chúa lại thách đố Mẹ khi truyền cho mình phải mang thai, cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa. Hãnh diện vì trong muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã chọn mình. Tuy nhiên, dù shock hay hãnh diện, Mẹ đã khiêm tốn để xin vâng trong lòng mến.
Từ thái độ khiêm nhường để đón nhận lời xin vâng, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thành hiện thực. Cũng kể từ khi lời xin vâng đầy xác tín và khiêm nhường ấy, mà: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14). Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của thiên thần, đây là giây phút Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời mà Mẹ đã được hấp thụ bởi cha mẹ của mình.
Vâng phục Chúa, qua lời thiên thần truyền, Mẹ nhận mình là một người tôi tớ. Rõ ràng trong sự vâng phục, qua tiếng xin vâng của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng, phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Cũng chính lời xin vâng của Mẹ như thế, mà từ nay, Mẹ trở thành Evà mới thay thế cho Evà cũ đã bất tuân. Từ nay mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..
Qua lời kinh này, đức khiêm nhường lại càng đậm nét hơn nơi Mẹ, vì thế, Mẹ đã dâng lại cho Chúa tất cả vinh dự mà Người ban tặng cho Mẹ.
2. Sứ điệp Ngày Lễ
Mỗi khi mừng lễ Thiên Chúa Nhập Thể, hay còn gọi là lễ Truyền Tin, Giáo Hội mong muốn con cái của mình khám phá ra sứ điệp nền tảng của ngày lễ:
Trước tiên, đó chính là noi gương Thiên Chúa. Người đã yêu thương thế gian và Người yêu đến cùng, bằng việc trao ban chính Con Một của mình để biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thứ đến, việc nhập thế của Đức Giêsu lộ hiện rõ đức khiêm nhường. Thật thế, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận từ bỏ vinh quang, mang lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế để cứu chuộc con người.
Cuối cùng, học nơi Mẹ Maria bài học vâng phục thẳm sâu. Sự vâng phục nơi Mẹ được khởi đi từ đức khiên nhường, nên khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận trong sự tín thác.
Có thể nói: nhân đức khiêm nhường chính là điểm nổi bật nơi Mẹ Maria. Vì khiêm nhường, nên Mẹ Maria mới sẵn sàng vâng lời tuyệt đối để trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ nhân đức này mà Mẹ được thuộc trọn về Chúa là Đấng hằng yêu quý những tâm hồn khiêm tốn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Ngày hôm nay, sống đức khiêm nhường quả là một thách đố đối với mọi thành phần. Chúng ta nói về đức khiêm nhường thì rất hay và “kêu”, nhưng khi đòi hỏi phải sống đặc tính của đức khiêm nhường thì lại là một “miếng xương” khó nuốt.
Thật vậy, nhiều người vẫn xin Chúa ban cho mình ơn khiêm nhường, nhưng khi Chúa gửi thử thách đến, nhất là những thử thách đụng đến lòng tự trọng, danh dự, thế là ta sẵn sàng nổi khùng và phàn nàn, trách móc nếu không muốn nói là khẳng khái khước từ!
Cũng vẫn có nhiều người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ như: tiền, tình, quyền… để đi theo Chúa, nhưng cái tôi thì không chấp nhận bỏ. Những người đó, họ đâu biết rằng: bỏ mọi sự, nhưng cái tôi không bỏ thì kể như chưa bỏ gì cả!
Mừng lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể, xin cho chúng ta biết noi gương Thiên Chúa để xót thương mọi người như Chúa đã xót thương đến nhân loại tội lỗi. Biết noi gương Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa – người, chấp nhận tất cả để cho người khác được hạnh phục và được cứu độ. Noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng khiêm nhường và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Chúng ta cần hiểu rằng: đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Khi có được nhân đức này, chúng ta mới hy vọng thuộc về Chúa cách trọn vẹn nhờ loại bỏ được những thói xấu như: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con về tình thương cao vời của Thiên Chúa ngang qua biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu. Xin Chúa ban cho chúng con học được bài học khiêm nhường thẳm sâu nơi Mẹ Maria. Ước gì qua sự khiêm nhường của mỗi người chúng con, kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc đời mỗi chúng con. Amen.
NGÀY 25-03
BÀI SỐ 02
LỄ TRUYỀN TIN
ƠN CỨU CHUỘC NGANG QUA SỰ VÂNG PHỤC
(Is 6, 10-14; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Nói cách khác, hôm nay, chúng ta long trọng mừng biến cố Thiên Chúa chính thức thực hiện lời hứa cứu độ với nhân loại khi trao ban Con của Người xuống thế và nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Qua biến cố vĩ đại này, tinh thần phụng vụ hướng chúng ta về hai mẫu gương vâng phục của Đức Giêsu và Mẹ Maria, đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương Đức Giêsu và Mẹ Maria để sống sự vâng phục trong cuộc sống đạo hôm nay.
1. Vâng phục để cứu độ
Khi nói đến sự vâng phục, chúng ta nhớ ngay đến đoạn Kinh Thánh mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philípphê, ngài viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7).
Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giêsu không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Emmanuen, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giêsu đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Sự vâng lời của Đức Giêsu hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, vì thế, Ngài đã nói: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa” Tv 39, 8a – 9a) ; hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài đã vâng lời và vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự và đã chấp nhận đổ máu mình ra nhằm cứu chuộc con người.
Chính vì sự vâng phục này, mà nhân loại đón nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật.
2. Vâng phục để đồng công cứu chuộc
Khi nói đến sự vâng phục của Đức Giêsu, chúng ta không thể không nói đến sự vâng phục của Đức Maria. Mặc dù phụng vụ canh tân ngày nay không còn tập trung nơi Đức Maria như trước kia vào thời Trung Cổ. Tuy nhiên, khi nói đến ơn cứu chuộc của Đức Giêsu nhờ sự vâng phục mà có, thì Giáo Hội cũng luôn đề cao sự cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc ấy cũng bằng chính sự vâng phục nơi Mẹ.
Sự vâng phục của Mẹ Maria được đánh giá rất cao trọng, bởi vì khi Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kế hoạch riêng tư của Mẹ hoàn toàn sang trang và chuyển hướng khác, để nhường cho chương trình và ý định của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại.
Nói như thế, là vì Đức Mẹ ngay từ khi còn nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phụng sự Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại có chương trình riêng cho người thiếu nữ Sion này, đó là muốn Mẹ nhận lời và cưu mang Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại.
Biết được ý định ngàn đời của Thiên Chúa, nên sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế,Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ), Mẹ Maria đã mau mắn trong tự do để thưa lên với Thiên Chúa ngang qua sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ). Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại tràn đầy niềm hân hoan, vì từ nay, Con Thiên Chúa đã đến và ở với loài người.
Khi chọn Mẹ Maria, người thiếu nữ Sion để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Thiên Chúa đã khai mở một kỷ nguyên mới, thiết lập một dân tộc mới thay thế cho dân cũ đã bị cái chết bao phủ do tội bất tuân của Evà. Từ nay, muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì từ cung lòng Mẹ đã cưu mang Đấng là Nguồn Ơn Cứu Độ, Nguồn Mạch Sự Sống.
Cũng chính lời xin vâng này, mà cuộc đời của Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trọn vẹn. Mẹ đã trở thành Đấng đồng công cứu chuộc với Con Chí Ái của mình.
3. Người Kitô hữu sống tinh thần vâng phục
Sứ điệp Lời Chúa và tinh thần phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu và Mẹ Maria như là mẫu gương tuyệt hảo cho sự vâng phục trong đời sống đức tin hằng ngày của mỗi người.
Nếu trước kia, nơi Đức Giêsu, Ngài đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để vâng phục Thiên Chúa Cha qua việc đến trần gian trong thân phận là một con người nhằm cứu chuộc nhân loại; và nếu Mẹ Maria khi vâng lời Thiên Chúa và sẵn sàng để cho thánh ý của Người được thực hiện, thì đến lượt chúng ta, nếu muốn trở nên người môn đệ đích thực của Chúa trong lòng Giáo Hội hôm nay, thiết nghĩ con đường tự khiêm tự hạ và vâng phục trong lòng mến của Đức Giêsu và Mẹ Maria chính là lựa chọn của chúng ta.
Tuy nhiên, với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin!
Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sang Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên “nô lệ tội lỗi” (SGLHTCG. Số 1733).
Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con chính người Con Một duy nhất của Cha đến trần gian qua cung lòng Mẹ Maria, để chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc của Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Xin Cha ban cho chúng con biết noi gương Con Một Cha và Đức Trinh Nữ Maria để sẵn sàng hiến dâng cuộc đời của mình trong sự vâng phục nhằm cộng tác vào công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Amen.
NGÀY 13 – 05
LỄ ĐỨC MẸ FATIMA
ĐÁP LỜI MẸ – HÃY THỰC THI MỆNH LỆNH FATIMA
(Is, 61,9-11; Lc, 11,27-28)
Không có bà mẹ nào mà không thương yêu con cái của mình. Cũng vậy, người mẹ sẽ rất vui mừng nếu con cái ngoan hiền, thảo hiếu. Ngược lại, bà mẹ ấy sẽ rất đau khổ khi chúng là những đứa con hư hỏng và không biết vâng lời. Mặt khác, trong vai trò làm mẹ, người mẹ sẽ không an tâm khi trước mặt chúng là những cạm bẫy nguy hiểm đang rình sẵn để làm hại chúng!
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Fatima để kỷ niệm biến cố Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima nước Bồ Đào Nha, ngày 13-5 -1917 và ban hành những sứ điệp cấp bách cho nhân loại, nhằm giúp con cái Mẹ được thêm lòng yêu mến Chúa, được hạnh phúc và bình an.
1. Nội dung các sứ điệp qua các lần hiện ra của Đức Mẹ
Các cuộc hiện ra của Mẹ Maria tại Fatima với ba trẻ nhỏ là: Lucia, Giaxinta và Phanxicô. Trong mỗi lần hiện ra như vậy, Mẹ Maria đều mang đến cho nhân loại những sứ điệp qua trung gian các em nhỏ này. Mặt khác, Mẹ cũng muốn chính các em phải là người thực thi sứ điệp ấy trước hết!
Với lần hiện ra đầu tiên, ngày 13-05-1917, Mẹ đã khuyên nhủ rằng:“Chúng con hãy lần hạt Mân Côi hàng ngày, để cầu cho thế giới được chóng hòa bình và chiến tranh sớm chấm dứt”.
Sau đó một tháng, cũng vào ngày 13-06-1917, Mẹ căn dặn thêm về việc lần hạt: “Các con hãy lần hạt và sau mỗi chục thì đọc: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa Hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng thương xót Chúa hơn”.
Ngày 13-07-1917, Đức Mẹ muốn chính các em cộng tác với Mẹ trong công việc hoán cải thế giới bằng việc mời gọi các em hy sinh để cầu nguyện cho kẻ có tội và đền tội thay cho những người xúc phạm đến Trái Tim Mẹ.
Tiếp theo, ngày 13-08-1917, Đức Mẹ đã mạc khải cho các trẻ em này thấy được Hỏa ngục và các hình khổ mà những kẻ có tội phải chịu, đồng thời Mẹ cũng nói lên ý muốn của Thiên Chúa là: thiết lập lòng sùng kính Trái Tim Mẹ trên khắp thế giới để tránh khỏi chiến tranh và sẽ có hòa bình.
Đồng thời, Đức Mẹ tha thiết xin mọi người hãy dâng Nước Nga cho Trái Tim Mẹ, siêng năng rước lễ đền tạ Mẹ trong các ngày thứ Bẩy đầu tháng. Mẹ cũng báo trước rằng: nếu dâng Nước Nga cho Mẹ thì Nước Nga sẽ có hòa bình và sẽ không truyền bá những giáo thuyết sai lạc.
Kế đến, ngày 13 -09-1917, Đức Mẹ nói riêng với Lucia: “Con hãy nói với mọi người tiếp tục lần hạt mỗi ngày để xin cho chiến tranh chóng chấm dứt”.
Cuối cùng, ngày 13-10-1917, Đức Mẹ bày tỏ ước nguyện được xây một nhà thờ tại nơi Mẹ đang hiện ra để tôn kính Mẹ. Bên cạnh đó, Mẹ cũng mặc khải danh của Mẹ là: “Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi” và tiếp tục kêu gọi lần hạt mỗi ngày để được hưởng hòa bình.
Tóm lại, trong tất cả những lần hiện ra, các sứ điệp của Đức Mẹ được thâu tóm trong ba mệnh lệnh chính, nhằm cứu vãn tình cảnh bi đát của thế giới, đó là: hãy cải thiện đời sống; hãy lần hạt Mân Côi; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ.
2. Tầm quan trọng của ba mệnh lệnh Fatima
Ba mệnh lệnh Fatima của Mẹ Maria được ví như chiếc kiềng ba chân. Vì thế, khi thực hiện, chúng ta phải thi hành cách song song. Nói cách khác, ba mệnh lệnh này như ba vòng tròn đan quyện vào nhau mà không thể tách rời.
Tuy nhiên, để thực thi cho được tốt và ý thức, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân và ý nghĩa của các mệnh lệnh này, cũng như thấy được sự cấp bách của nó trong thế giới hôm nay.
Trước tiên là mệnh lệnh: “Hãy cải thiện đời sống”.
Cải thiện đời sống hay hoán cải là những cụm từ được nhắc tới rất nhiều lần và nhiều cách khác nhau từ thời Cựu Ước sang đến Tân Ước.
Lý do đề tài này được nhắc đi nhắc lại và mỗi lúc lại càng ráo riết hơn, vì: hoán cải, sám hối là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu độ.
Chính vì vậy, nên tại Fatima, trong những lần hiện ra, Đức Mẹ thường xuyên đề cập đến vấn đề sám hối.
Tiếp theo là mệnh lệnh: “Hãy siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Chuỗi Mân Côi là bản Tin Mừng rút gọn, nơi đó, chúng ta lần lượt suy gẫm cuộc đời Chúa Cứu Thế từ lúc tượng thai trong lòng Đức Mẹ đến khi Ngài được đưa về trời, đồng thời chúng ta cũng cùng với Giáo Hội chiêm ngắm công phúc của Mẹ khi được Thiên Chúa ân thưởng trên Thiên Đàng.
Điều đặc biệt trong lần cuối cùng Mẹ hiện ra tại Fatima, ngày 13-10-1917, Mẹ đã mặc khải tước hiệu của mình là: “Nữ Vương Rất thánh Mân Côi”.
Như vậy, Kinh Mân Côi rất quan trọng. Qua lời kinh này, Thiên Chúa và Mẹ sẽ cứu thế giới khỏi tai ương hoạn nạn, nhất là chiến tranh.
Cuối cùng là mệnh lệnh: “Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Ngày Mẹ đem Đức Giêsu lên đền thờ để dâng cho Thiên Chúa, lúc ấy, Mẹ được cụ già Simêon nói tiên tri rằng: “… chính Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,35).
Vì vậy, Trái Tim Mẹ sẽ rất đau khổ khi con người xúc phạm đến Đức Giêsu, con yêu quý của Mẹ. Trái tim Mẹ cũng rất khổ tâm khi nhân loại thờ ơ với việc tôn thờ Thiên Chúa. Trái tim Mẹ sẽ không thể yên khi nhìn thấy con người đang ngày càng đi vào hố diệt vọng của tội lỗi.
Chính vì điều này mà Mẹ Maria mời gọi con cái mình siêng năng chạy đến và tôn sùng Trái Tim Mẹ để xin Mẹ tha thứ vì những lỗi lầm xúc phạm đến Trái Tim Chúa và Trái Tim vẹn sạch Mẹ. Đồng thời sẽ được Mẹ yêu thương, vỗ về và chở che.
3. Sống sứ điệp Fatima
Mừng lễ Đức Mẹ Fatima hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp của Mẹ vẫn còn tính thời sự nếu không muốn nói là cấp bách! Chính vì thế, mỗi người hãy đáp lại lời mời gọi của Mẹ Maria cách yêu mến và trung thành, để đáng được tận hưởng những ơn phúc do những việc tốt đẹp chúng ta làm qua lời mời gọi của Mẹ.
Thứ nhất, đó là: chúng ta hãy thể hiện sự sám hối thực sự và chân thành. Sống khiêm nhường để nhìn nhận sự thiếu xót của mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và Đức Mẹ. Ý thức những điều lỗi lầm mà mình đã phạm đến Chúa và Đức Mẹ như là những lưỡi gươm đâm thấu Trái Tim Chúa và Mẹ, từ đó, biết quay về để lãnh nhận Bí tích Giáo Hòa.
Thứ đến, đó là: thể hiện lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ bằng nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như: luôn mang hình ảnh của Đức Mẹ nơi mình. Trong gia đình luôn có hình ảnh hay tượng Đức Mẹ để ở nơi xứng đáng. Siêng năng chạy đến với Đức Mẹ để thổ lộ tâm tình vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại để xin Mẹ chúc lành.
Một số những việc đạo đức khác cũng nên thực thi như: mang áo Đức Bà. Siêng năng đọc những kinh đã được Giáo Hội soạn ra để tôn vinh Đức Mẹ…. Đặc biệt, tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ bằng cách tận hiến và phó thác mọi công việc cho Mẹ.
Cuối cùng là: siêng năng lần hạt Mân Côi. Hãy năng lần hạt Mân Côi khi ở một mình hay đọc chung với cộng đoàn. Không ngừng cổ võ cho con cháu, anh chị em và những người khác, để mọi người cùng nhau lần hạt Mân Côi hằng ngày. Hãy dâng đất nước Việt Nam thân yêu cho Trái Tim Đức Mẹ, đồng thời dâng gia đình, vợ chồng, con cái, anh chị em và mọi người cho Trái Tim Mẹ, để xin Mẹ biến đổi và ban bình an, niềm vui và hạnh phúc đích thực cho mỗi người và dân tộc chúng ta.
Lạy Mẹ Fatima, xin cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của Mẹ, đó là luôn biết cải thiện đời sống, siêng năng lần hạt Mân Côi, tôn sùng Trái Tim Mẹ để được hưởng một nền hòa bình đích thực. Xin vòng tay từ ái của Mẹ đón nhận mỗi người chúng con, đất nước Việt Nam và toàn thế giới vào trong Trái Tim Mẹ để Mẹ giữ gìn, che trở và yêu thương như Mẹ đã thể hiện tình yêu thương từ mẫu đặc biệt với ba trẻ nhỏ khi xưa. Amen.
NGÀY 31-05
LỄ ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABETH
KHÔNG KHIÊM NHƯỜNG, KHÔNG BIẾT TẠ ƠN!
(Xp 3, 14 -18a hoặc Rm 12, 9-16b; Lc 1,46-56)
Ngày 04-10-2006, giáo dân của Giáo Phận Bắc Ninh tập trung rất đông đủ tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận để cử hành thánh lễ An táng cho Đức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến. Trong phần tiễn biệt, người ta rất ấn tượng với những dòng di chúc của Đức Cha. Nói đúng hơn, đây là lá thư mục tử cuối cùng của cuộc đời ngài trên dương thế. Tâm thư này được viết trước khi lên bàn mổ để các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật mà ngài đã được báo cho biết là 95% sẽ chết, chỉ có 5% là sống sót.
Trong bức tâm thư đó, ngài viết cho mọi thành phần trong gia đình Giáo Phận. Tuy nhiên, người ta chú tâm hơn với phần viết cho các nữ tu của Tu hội Con Đức Mẹ Hiệp Nhất. Nội dung đại khái như sau: “Các con yêu quý, khi ở trong Giáo Phận, cha thấy các con thua kém chị em của các hội dòng khác. Bởi vì họ trổi trang hơn chúng con về nhiều mặt, nào là: kiến thức, khả năng mục vụ, giáo tiếp, nhan sắc… Tuy nhiên, cha nhận thấy nơi chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thành. Đây chính là nét đẹp nơi tâm hồn chúng con. Cha thiết nghĩ có khi lớ ngớ như chúng con lại dễ vớ Thiên Đàng nhanh hơn cha”.
Khi viết cho các nữ tu như vậy, có lẽ Đức Cha muốn nói lên một điều, đó là Chúa thương những người hiền lành, đơn sơ, chân thành, nhất là khiêm nhường.
Tại sao vậy? Thưa, bởi vì người khiêm nhường là người thuộc về Thiên Chúa, nên dễ dàng đi vào mối tương quan mật thiết với Người.
Ngược lại, người kiêu ngạo là người không thuộc về Thiên Chúa, và đương nhiên, không thể hiệp thông được với Người. Nói cách khác, khiêm nhường là con đẻ của Thiên Chúa. Kiêu ngạo là con đẻ của ma quỷ. Chính vì vậy mà Thiên Chúa bênh đỡ và bảo vệ người khiêm nhường, còn kẻ kiêu ngạo thì sẽ bị Người tiêu diệt như lời thánh Phêrô đã nói: “Thiên Chúa chống lại kiêu kiêu ngạo” (1 Pr 5,5).
1. Mẹ Maria, Người Nữ Tỳ khiêm hạ
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth hôm nay làm toát lên vẻ đẹp của sự chia sẻ và khiêm nhường nơi Mẹ Maria.
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Luca giới thiệu cho chúng ta một người phụ nữ tuyệt vời: ngài là người tràn đầy ân sủng; là người có phúc hơn hết mọi người phụ nữ và nơi cung lòng của ngài sẽ xuất hiện Đấng Cứu Chuộc mà muôn dân mong đợi.
Tuy nhiên, với những ơn cao trọng lớn lao như vậy, tác giả lại cho thấy được xảy ra nơi một Nữ Tỳ hèn mọn và rất đỗi khiêm nhường, người đó chính là Mẹ Maria.
Thật vậy, chắc chắn Mẹ là người biết rõ Người Con mà mình đang cưu mang là ai? Người Con ấy quyền thế cao sang biết chừng nào? Hơn nữa, lời ca tụng của bà chị họ là Êlisabeth lại càng làm nên sự uy nghi, tự hào, bà nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ […] Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi” (x. Lc 1, 42-43)
Tuy nhiên, Mẹ Maria đã không tự kiêu để nhận những vinh dự đó về cho mình, ngược lại, Mẹ đã dâng nó lại cho Thiên Chúa trong tâm tình khiêm nhường của một người nữ tỳ hèn mọn.
Quả thật, nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ được những ơn cao trọng có một không hai trong lịch sử nhân loại như vậy, Mẹ phải hãnh diện đến tự kiêu. Nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ biết mình có phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian, ắt Mẹ sẽ vỗ ngực xưng tên để huênh hoang, tự đắc với đời. Và như một hệ quả, nếu không khiêm nhường tuyệt đối, Mẹ sẽ phá hoại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo.
Vì thế, nơi Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận hồng ân của Thiên Chúa trong tâm thế của một người môn đệ, một nữ tỳ khiêm nhu. Điều này đã được chứng minh khi Mẹ cất lên lời kinh Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Người đã làm trên phận nữ tỳ hèn mọn của mình.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ lội ngược dòng lịch sử cứu độ để nhận thấy bàn tay uy quyền và thương xót của Thiên Chúa đã cứu và giải thoát dân khỏi biết bao nguy biến.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ Maria đã gia nhập vào dòng người thánh thiện để ca ngợi sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, khi Người đưa cánh tay mạnh mẽ để hạ gục kẻ kiêu căng, truất bỏ những người quyền thế, để người giàu có trở về tay không, còn người nghèo khổ, thấp hèn lại được đầy dư.
Cuối cùng, cất lên lời kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cùng với muôn người ngóng trông ơn cứu độ để cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì Người đã thực hiện lời hứa với các Tổ phụ và Tiên tri khi trao ban Con Một của Người xuống trần gian cứu chuộc con người.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta cũng cùng nhau lội ngược dòng để đọc lại lịch sử cuộc đời của mình dưới tâm thức của người thụ ơn, để thấy được những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời chúng ta.
Những ơn đó là: ơn được sinh ra làm người trong một gia đình. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Được lớn lên với biết bao ân cần, lo lắng của mọi người mà Chúa gửi đến để chăm sóc cho ta. Ngài cũng cứu chúng ta biết bao lần qua những cơn bạo bệnh. Ngài che chở ta và giải thoát ta khỏi biết bao nguy biến, tai ương… nhất là ơn được sống tới ngày hôm nay. Rồi sức khỏe, trí thông minh, và rất nhiều khả năng khác mà Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta…
Tuy nhiên, khác với Mẹ Maria, nhiều khi chúng ta chưa đủ nhạy bén hay vô tình mà quên đi nghĩa vụ của người thụ ơn với Thiên Chúa. Hoặc cũng có lúc chúng ta có thái độ giảm nhẹ mầu nhiệm để thay vào đó là khái niệm tự nhiên có, nên việc biết ơn có vẻ cũng vì đó mà bị giảm nhẹ theo!
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, khô khan, nên chưa khiêm nhường đủ để nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta khi đứng trước hồng ân lớn lao như vậy, hãy có tâm tình của Mẹ Maria để cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Người đã làm trên và trong cuộc đời chúng ta. Đồng thời, noi gương Mẹ, mỗi người cũng hãy chia sẻ niềm vui với những anh chị em xung quanh, nhất là sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến chúng ta, để vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là những mối ưu tư và lo lắng của chúng ta.
Mặt khác, luôn sống tâm tình khiêm nhường và tín thác nơi Thiên Chúa, biết nhạy bén như Mẹ Maria để không chỉ bản thân mình cần cám ơn, chúc tụng Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn làm những bổn phận đó trong tư cách là dân Thiên Chúa khi cảm tạ và chúc tụng thay cho người khác.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, đường lối khiêm nhường là cách thức Thiên Chúa thể hiện quyền năng. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương khiên nhường của Đức Trinh Nữ Maria để sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và để thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng con.
Xin cũng cho chúng con biết quan tâm, lo lắng cho mọi người, nhất là những người khổ đau, nghèo đói đang cần đến chúng con. Amen.
THỨ BẢY SAU LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MARIA
CÙNG CHUNG NHỊP MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI VỚI MẸ
(Is 61, 9-11; Lc 2,45-51)
Nói đến trái tim, ai cũng hiểu rằng nó là biểu tượng của tình yêu. Nói về những gì sâu xa, thiêng liêng và thầm kín nhất, người ta cũng hay dùng biểu tượng của trái tim để diễn tả!
Cũng chính vì vậy, mà hôm nay, phụng vụ Giáo Hội cho mừng kính lễ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria.
Qua đó, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy uốn nắn trái tim mỗi người trở nên giống trái tim của Mẹ Maria, một trái tim trong trắng, tinh tuyền; một trái tim tràn đầy tình yêu với Thiên Chúa và đầy lòng nhân ái, bao dung và thương xót với con người.
1. Lịch sử lễ Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria
Lịch sử phụng vụ lễ “Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ”, được tiến triển qua từng giai đoạn. Vào năm 1787, Đức Thánh Cha Piô VI đã ưu ái ban phép cho các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabriel được mừng lễ trong cộng đoàn vào ngày 22/8. Đến năm 1799, lễ này được phép cử hành rộng rãi trong khắp Giáo Phận Palermô nước Ý. Năm 1805, ngài cho phép bất cứ nơi đâu muốn mừng lễ này thì đều được.
Điều đáng ghi nhớ nhất, đó là vào năm 1917, tại Fatima, từ ngày 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917. Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ nhỏ là Jacinta, Phanxicô và Luica tại Fatima – Bồ Đào Nha. Trong ngày 13 tháng 7, Mẹ đã cho các trẻ này biết rằng: ”Để cứu những người tôi lỗi, Thiên Chúa đã ước ao thiết lập việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ”.
Sau đó, mệnh lệnh tôn sùng Trái Tim Mẹ được ban bố và kêu gọi mọi người hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ như Mẹ đã mặc khải.
Vào ngày mồng 8 tháng 12 năm 1942, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng dâng thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Năm sau, vào tháng 5 năm 1943, Đức Thánh Cha đã khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy tôn sùng Trinh Nữ Rất Thánh, nhất là bằng cách đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình đích thực. Đồng thời, ngài kêu gọi mọi người hãy dâng bản thân, gia đình, dân tộc và thế giới cho Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ.
Đến Năm 1945, Đức Thánh Cha chính thức thành lập lễ “Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22 tháng 08.
Sau này, dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phaolô VI, vào năm 1969, ngài đã thiết lập lễ này cách cụ thể và quyết định việc mừng kính vào thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
2. Ý nghĩa lễ Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria
Mỗi khi chiêm ngưỡng Trái Tim Mẹ Maria, chúng ta cảm nhận được nơi Trái Tim Mẹ một sự tinh tuyền, trong sạch, trọn lành, thánh thiện và tràn đầy tình yêu. Một tình yêu dạt dào với Thiên Chúa. Luôn hướng về Thiên Chúa và: “Ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” (Lc 2, 19).
Một tình yêu tràn đầy xót thương với nhân loại. Vì thế, Mẹ luôn là trạng sư đứng ra bênh đỡ và phù trợ con cái. Việc thiếu rượu tại tiệc cưới Cana và sự can thiệp của Mẹ với Đức Giêsu để xin Ngài làm phép lạ hóa nước thành rượu cho gia chủ khỏi bị xấu hổ đã chứng minh cho thấy: nơi Mẹ, có một trái tim tràn đầy nhân ái và xót thương.
Trải qua suốt dòng lịch sử, Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi và làm rất nhiều phép lạ để cứu vãn thế giới khỏi cảnh tương tàn chiến tranh. Mặt khác, Trái Tim Mẹ cũng đã rung động khi con cái của mình khắp nơi bị bách hại, bắt bớ… đang ngày đêm kêu van thống thiết tới Mẹ, và Mẹ đã hiện ra để chữa lành bệnh tật, ban ơn bình an và giải thoát khỏi tai ương, hoạn nạn…
Nói chung, Mẹ đã luôn luôn thể hiện thật sâu đậm vai trò từ mẫu của mình đối với con cái. Vì thế, bất cứ ai chạy đến với Mẹ sẽ không phải về không bao giờ!
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Sứ điệp ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy năng chạy đến với Mẹ để nép mình trong Trái Tim dịu hiền của Mẹ để được Mẹ thương yêu. Khi nép bên Trái Tim Mẹ như vậy, sứ điệp được truyền lan, đó là: khi chúng ta được nghe, được cảm, và được thấu tình yêu thương của Mẹ trên cuộc đời mình, thì hãy trở nên giống Trái Tin Mẹ, để biết yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Biết suy đi và nghĩ lại những hồng ân Chúa ban xuống trên cuộc đời chúng ta hằng ngày, để qua đó, biết uốn nắn trái tim của mình từ chỗ dửng dưng, vô cảm, cứng ngắc, trai đá, thành trái tim chan chứa tình yêu thương, liên đới, trách nhiệm để sống tình huynh đệ với mọi người, nhất là những người nghèo và bị bỏ rơi.
Như vậy, noi gương Mẹ, chúng ta không thể không lên đường để cứu giúp những ai cần đến chúng ta. Chúng ta có thể đem đến cho những người cô đơn những nụ cười thân thiện. Đến với những người đói khát bằng lòng nhân ái. Đến với những người bất hạnh bằng niềm vui Tin Mừng. Đến với những người bị bỏ rơi, đang sống ở bên lề xã hội, nơi gầm cầu… một tình yêu huynh đệ. Đến với những người ốm đau, bệnh tật bằng một hành động nâng đỡ yêu thương cụ thể…
Mặt khác, mỗi khi mừng lễ Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hãy noi gương Mẹ, sống trong sạch, tinh tuyền và thánh thiện, để xứng đáng được Thiên Chúa ngự vào và được trở thành đền thờ của Thiên Chúa.
Lạy Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành với chúng con trên bước đường dương thế. Xin Mẹ uốn nắn trái tim chúng con nên giống Trái Tim Mẹ, để Trái Tim Mẹ và trái tim chúng con cùng chung nhịp đập mến Chúa và yêu người. Amen.
NGÀY 16-07
LỄ ĐỨC MẸ NÚI CÁT MINH
CÁT MINH, CHỐN BỒNG LAI HUYỀN NHIỆM
(Dcr 2, 14-17 ; Mt 12, 46-50)
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Núi Cát Minh. Tại sao lại có tước hiệu này? Núi Cát Minh ở đâu? Lịch sử của lễ này như thế nào? Và, lễ này có ý nghĩa gì trên cuộc đời của người tín hữu? Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu để thêm lòng yêu mến Mẹ Maria dưới tước hiệu đặc biệt này.
1. Lịch sử và ý nghĩa
Núi Cát Minh là một ngọn núi có thể nói là bồng lai tiên cảnh tại đất nước Palestine (x. Is 33,9; 35,2; Gr 46,18; 50,19; Am 1,2).
Tại ngọn núi này, vào khoảng hơn 1000 năm trước Chúa Giáng Sinh, ngôn sứ Êlia đã đứng lên thách thức các thần Bana là những người chống đối lại lời rao giảng của của ông, tất cả khoảng 400 vị. Cuối cùng, ngôn sứ Êlia đã chiến thắng nhờ lời cầu nguyện mà ông dâng lên Thiên Chúa và được Chúa nhận lời qua việc cho lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ thành lễ vật toàn thiêu (x. 1V 18,16-40).
Cũng tại Núi Cát Minh, vào thời Trung Cổ, khoảng năm 1155, có những nhà ẩn tu đã tìm đến nơi đây để tu luyện, dần dần họ sống thành cộng đoàn thay cho lối sống riêng lẻ như trước. Từ đó, nơi đây thành hình một cộng đoàn đan tu chuyên lo việc cầu nguyện. Sau này cộng đoàn đan tu đã lấy tên thành Dòng Cát Minh. Các tu sĩ ở đây đã chọn tiên tri Êlia làm tổ phụ của dòng. Cũng từ đây, sau này phát xuất ra nhiều dòng tu khác trong Giáo Hội.
Bên cạnh đó, các tu sĩ còn bày tỏ lòng tôn kính Đức Maria cách đặc biệt. Các ngài tôn sùng và noi gương Mẹ về đời sống chiêm niệm. Họ xác tín rằng, nơi Mẹ Maria là khuôn mẫu cho đời sống chiêm niệm, bởi vì Kinh Thánh đã nói: Mẹ luôn suy đi và nghĩ lại trong lòng cũng như đem ra thực hành trong đời sống những điều Thiên Chúa muốn (x. Lc 2,19. 51b).
Ngoài việc các tu sĩ yêu mến Đức Mẹ ra thì chính Đức Mẹ cũng tỏ lòng thương mến các tu sĩ cách đặc biệt, vì thế, năm 1251, tại Núi Cát Minh, Đức Mẹ đã trao cho thánh Simon Stock trong một thị kiến tại Cambridge khăn choàng vai, còn được gọi là “Bộ Áo Đức Bà”. Đây là dấu chứng tình thương của Mẹ dành cho con cái.
Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ Núi Cát Minh được thiết lập khoảng năm 1380 vào thời Đức Giáo Hoàng Honorius III (1226). Nhưng mãi đến năm 1726, lễ này mới được phổ biến rộng rãi trong toàn Giáo Hội.
2. Mẹ Maria, gương mẫu đời sống chiêm niệm
Mỗi khi mừng kính lễ Đức Mẹ Núi Cát Minh, Giáo Hội mong muốn con cái mình noi gương Mẹ về đời sống chiêm niệm trong thinh lặng, để nhận ra thánh ý Thiên Chúa và thi hành.
Mặc dù Kinh Thánh không nói nhiều về tinh thần chiêm niệm nơi Đức Maria. Tuy nhiên, chỉ một vài đoạn cũng đủ cho thấy Mẹ có một đời sống cầu nguyện rất sâu xa.
Trong biến cố giáng sinh, sau khi các mục đồng đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu, khi họ ra về, Kinh Thánh nói về Đức Maria như sau: “Bà Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng!” (Lc 2,19. 51b).
Qua câu nói này, tác giả Kinh Thánh muốn diễn tả nơi nội tâm Mẹ có một sự chiêm niệm rất sâu lắng và luôn kết hiệp mật thiết với Chúa cách liên lỷ.
Vì thế, cả cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy Mẹ đã thể hiện một con người với những tính cách nội tâm sâu xa như:
– Khi đủ 8 ngày, theo luật Môsê, Mẹ đã lên đền thờ thực thi nghi lễ tẩy uế và tiến dâng Con của mình cho Thiên Chúa. Lúc ấy, cụ già Simêon đã nói tiên tri về Hài Nhi và cũng tiên báo về những nỗi khổ đau mà Mẹ phải chịu. Mẹ đã không tỏ ra lo sợ, ngược lại, âm thầm và hiến dâng cho Thiên Chúa tất cả.
– Khi được thánh Giuse báo tin là sẽ phải trốn sang Aicập để lánh nạn, rồi một thời gian sau cũng từ Aicập trở về, Kinh Thánh không nói gì thêm, nhưng theo lẽ thường, chúng ta hiểu, Mẹ Maria đã hoàn toàn âm thầm và vâng phục thánh Giuse để thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
– Sau khi cùng con đi lễ đền thờ Giêrusalem, khi tan lễ, Đức Giêsu ở lại đền thờ, trong khi Mẹ Maria đã trở về. Sau 3 ngày mới phát hiện con không cùng về với đám bà con thân thuộc, vì thế Mẹ đã hối hả quay trở lại đền thờ để tìm, khi tìm thấy, Mẹ hết sức bình tĩnh và nhẹ nhàng.
– Biến cố tiệc cưới Cana đã làm cho chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi cách hành xử khôn khéo và tế nhị của Mẹ khi thấy gia chủ hết rượu. Mẹ rất nhẹ nhàng đến bên Đức Giêsu và nói: “Họ hết rượu rồi”.
– Trong suốt lộ trình thương khó của Đức Giêsu, Mẹ đã theo sát con yêu trên từng bước đường đau thương ấy trong âm thầm và xót xa ! Rồi khi đứng dưới chân thập giá, Mẹ đã chứng kiến cảnh tượng hãi hùng đến ghê rợn khi người ta hành hạ Con Yêu. Tuy nhiên, Mẹ vẫn âm thần nén nỗi đau vào trong để kết hợp với Con nhằm cứu chuộc nhân loại.
– Trong thinh lặng, Đức Giêsu đã trao thánh Gioan cho Mẹ và trao Mẹ cho thánh Gioan, Mẹ đã âm thầm đón nhận.
Và đến khi cùng với các Tông đồ quy tụ trong nhà Tiệc Ly, Mẹ cũng âm thầm trong sự sâu lắng để tha thiết xin Chúa Thánh Thần ngự xuống.
Như vậy, nơi Mẹ Maria, chúng ta tìm thấy đời sống cầu nguyện và chiêm niệm thật tuyệt vời được diễn ra mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
3. Mẹ Maria, khuôn mẫu của việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay, tác giả đã chỉ ra cho chúng ta thấy sự tài tình và khéo léo của Đức Giêsu khi đề cao Mẹ mình trước dân chúng.
Đức Giêus đã ca ngợi sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa nơi Mẹ Maria qua câu nói: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Có lẽ hơn ai hết, Đức Giêsu hiểu Mẹ mình hơn tất cả mọi người ! Vì thế, câu nói này tuy gián tiếp, nhưng nó lại trực diện nơi người nghe để ai nấy hiểu rằng: Mẹ Maria là người tiên phong trong việc lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa.
Tinh thần vâng phục tuyệt đối nơi Mẹ biểu trưng cho một tâm hồn tràn đầy Chúa. Vì thế, đời sống chiêm niệm và cầu nguyện cách sâu xa và mật thiết là điểm nổi bật nơi Mẹ Maira.
Mừng lễ Đức Mẹ Núi Cát Minh hôm nay, Sứ điệp ngày lễ và Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến đời sống cầu nguyện. Chỉ khi cầu nguyện trong tinh thần yêu mến, chúng ta mới thực sự trở thành môn đệ của Chúa cách trung thành. Bởi vì nhờ cầu nguyện, chúng ta biết được thánh ý Thiên Chúa. Nhờ đời sống chiêm niệm, chúng ta mới nhạy bén để thực thi thánh ý của Người.
Nếu cây không có nhựa hoặc không có ánh sáng mặt trời quang hợp, cây sẽ chết. Nếu cá không nước, cá cũng chết. Tương tự như vậy, con người và các động vật khác, nếu không có oxy thì cũng chẳng thể tồn tại được. Đời sống cầu nguyện nơi chúng ta cũng cần như nhựa cây, như nước, như oxy trong đời sống thường ngày vậy.
Noi gương Mẹ Maria, chúng ta hãy yêu mến đời sống cầu nguyện trong thinh lặng để suy đi nghĩ lại những biến cố đã xảy đến với chúng ta, từ đó, biết nhận ra thánh ý của Thiên Chúa và thi hành.
Bên cạnh đó, cần phải chuyên chăm đọc và suy gẫm Lời của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, để từ đó, biết sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa như Mẹ Maria khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, đời sống chiêm niệm và cầu nguyện nơi Mẹ Maria đã trở nên tấm gương sáng soi cho cuộc đời đầy bon chen, xô bồ hiện nay trong xã hội. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương Mẹ Maria mà yêu mến đời sống cầu nguyện, để tâm hồn chúng con lúc nào cũng có sự hiện diện của Chúa. Như thế, mỗi người sẽ sống đẹp lòng Chúa và sẵn sàng thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời chúng con cách mau mắn. Amen.
Ngày 05-08
LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ ĐỨC BÀ CẢ
MẸ MARIA – NGƯỜI DIỄM PHÚC
(Kh 21, 1-5a ; Lc 11, 27-28)
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma. Khi mừng lễ cung hiến này, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình yêu mến Mẹ Maria cách đặc biệt dưới tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Qua đó, năng chạy đến với Mẹ, để nhờ Mẹ chuyển cầu cho chúng ta những ơn lành hồn xác lên Thiên Chúa.
Mặt khác, qua lễ này, Giáo Hội luôn nhắc nhở con cái mình ý thức về đền thờ nơi tâm hồn mỗi người, để sống sao cho xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự như Mẹ Maria khi xưa.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lịch sử và ý nghĩa của ngôi đền thờ cổ kính mà hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm cung hiến.
1. Lịch sử Đền Thờ
Đền thờ Đức Bà Cả được xây dựng trên một ngọn đồi có tên là Esquilino để tôn kính Mẹ Maria dưới tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.
Theo tương truyền kể rằng: vào đêm mồng 04 rạng sáng ngày mồng 05 tháng 08 năm 356, Đức Mẹ đã hiện ra trong giấc mơ và ban cho ông Giovanni là một người đạo đức, giàu có một thị kiến như sau: “Hãy xây cất một ngôi đền thờ trên đỉnh đồi Esquilino”. Cùng lúc, ông được chứng kiến cảnh tuyết rơi cách kỳ lạ vào mùa hè. Trong thời điểm này, Đức Giáo Hoàng Liberio cũng được Đức Mẹ tỏ cho biết thị kiến giống như đã tỏ cho ông Giovanni.
Vốn dĩ là người đạo đức, lại giàu có và rất sùng kính Đức Mẹ, nên ông bà Giovanni đã quyết định dùng số tiền lớn của mình vào việc xây dựng đền thờ để dâng kính Đức Mẹ như đã được Đức Mẹ chỉ dẫn trong thị kiến.
Đền thờ này được Đức Giáo Hoàng Sixto III (432-440) tái thánh hiến dâng kính Đức Mẹ vào ngày 5 tháng 8 năm 432, tức là một năm sau khi Công Đồng Chung Êphêsô tuyên bố tín điều Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa.
Ngày nay, mỗi khi mừng lễ cung hiến Đền Thờ Đức Bà Cả, người ta vẫn cử hành một nghi thức tượng trưng, đó là thả những cánh hoa hồng màu trắng từ trần nhà xuống trên các tín hữu, để nhắc nhớ mọi người về biến cố Đức Mẹ xuống tuyết trên đỉnh đồi Esquilino trong thị kiến cho ông Giovanni và Đức Giáo Hoàng Liberio.
Việc mừng kính kỷ niệm Cung Hiến Đền Thờ Đức Bà Cả hôm nay, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Đức Maria trong vai trò Mẹ Thiên Chúa, đồng thời cũng làm toát lên vẻ đẹp toàn mỹ nơi Mẹ trong tư cách là người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ, vì nơi Mẹ, Mẹ đã luôn biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
2. Mẹ Maria, người diễm phúc
Trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trình thuật việc Đức Giêsu đang rao giảng giữa đám đông, lúc ấy, mọi người đang chăm chú lắng nghe, thì bỗng nhiên, có một người phụ nữ đã thốt lên lời ca tụng Đức Maria, bà nói: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm”. Có lẽ vì người phụ nữ này thấy Đức Giêsu là nhà thông thái, giảng dạy hấp dẫn và đầy uy quyền… khác hoàn toàn với các Luật Sĩ, Kinh Sư và Pharisêu! Vì thế, bà khen ngợi người đã sinh ra và nuôi dưỡng Đức Giêsu?
Người phụ nữ này thật có lý và hoàn toàn không hề sai trong việc khen ngợi người mẹ đã cưu mang Đức Giêsu như vậy. Tuy nhiên, câu nói ấy đúng nhưng chưa đủ, bởi vì bà mới chỉ nói được phần ngọn mà chưa lột tả được phần gốc của vấn đề. Nói cách khác, mới nói được phần quả mà chưa nói được phần nhân. Chính vì thế mà Đức Giêsu đã tiếp lời và chỉnh lại câu nói của bà, Ngài nói: “Đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Qua câu nói này, Đức Giêsu đã đi xa hơn rất nhiều để chỉ cho dân chúng biết rằng: niềm vinh dự, phúc đức của Mẹ Maria không nằm ở chỗ kết quả, tức là làm Mẹ Đấng Cứu Thế, mà nó nằm ở chỗ biết lắng nghe, tuân giữ và thi hành Lời Chúa cách mau mắn trong vai trò Nữ Tỳ Thiên Chúa. Kể từ khi Mẹ đón nhận lời xin vâng, nhiều nhân đức nơi Mẹ được triển nở. Một trong những hồng ân lớn lao nhất và nó đem lại cho Mẹ niềm vinh dự và hạnh phúc, đó là: từ lòng Mẹ đã sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đức Giêsu.
3. Sứ điệp ngày lễ
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, linh hồn và thân xác chúng ta được thánh hiến để thuộc về Chúa. Vì thế, nơi tâm hồn chúng ta chính là đền thờ của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Tuy nhiên, trải qua năm tháng với những cạm bẫy và cám dỗ, cộng với sự yếu đuối của bản năng, nên tâm hồn chúng ta đã bị vấy đục do tội lỗi gây nên. Vì thế, đền thờ của chúng ta đã bị ô uế!
Nguyên nhân chính làm cho tâm hồn chúng ta bị dơ bẩn như vậy, đó là chúng ta không lắng nghe Lời Chúa cách chân thành và thực thi cách mau mắn! Lời Chúa không đụng chạm đến cung cách sống của chúng ta. Ngược lại, Lời Chúa trở nên xa lạ với những lựa chọn của mình. Vì thế, khi Lời Chúa không còn chiếm vị trí ưu tiên, không còn vai trò dẫn lối đưa đường, không còn là lý tưởng, là lẽ sống cho cuộc đời, lúc đó, chúng ta sẵn sàng buông theo chiều gió để ngả theo những sự hấp dẫn của xác thịt, tiền bạc, chức quyền… và những thứ bất chính khác mà sẵn sàng đánh đổi tất cả để đạt được mục đích đen tối và tội lỗi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy biết noi gương Mẹ Maria, đó là: yêu mến Lời Chúa, năng suy gẫm và đem ra thực hành trong đời sống. Đồng thời, hình ảnh tuyết rơi phủ kín đồi Esquilino, nơi được xây dựng đền thờ tôn vinh Mẹ đã mặc khải cho thấy tình thương của Mẹ thật nhiệm mầu và dạt dào trên con cái của mình. Hình ảnh đó mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ, đó là tâm tình bác ái, sẻ chia và yêu thương với những anh chị em chung quanh chúng ta.
Khi đạt được điều đó, tâm hồn chúng ta an vui và hạnh phúc thực sự, bởi vì có Chúa là gia nghệp và cùng đích của mình.
Như vậy, việc mừng kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Đức Bà Cả, Giáo Hội không nhằm mục đích nêu cao vẻ đẹp huy hoàng, lộng lẫy của đền thờ cho bằng ngang qua đó, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy xây dựng đền thờ tâm hồn của mỗi người trên nền tảng Lời Chúa. Hãy trang hoàng đền thờ ấy bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa cũng như tô điểm bằng những nhân đức khác, để có một đền thờ xinh đẹp dâng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, ngõ hầu Người vui lòng và đến cư ngụ cũng như rộng tay ban cho chúng ta nhiều ơn phúc.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội người Mẹ tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ trong việc trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa, để tâm hồn chúng con thực sự trở nên đền thờ sống động như Mẹ khi xưa. Amen.
NGÀY 14 – 08
LỄ VỌNG ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
MẸ ĐẦY ƠN PHÚC
(1 Sb 15, 3-4. 15-16; 16, 1-2; 1 Cr 15, 54-57; Lc 11, 27-28)
Chiều hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng vọng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Khi mừng lễ này, mỗi người chúng ta hãy cùng với Mẹ Maria, để tạ ơn Chúa, vì Người đã đoái thương đến Mẹ, mặc dù Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn mọn.
Thiên Chúa yêu thương Mẹ, bởi vì cả cuộc đời Mẹ đã sẵn sàng thưa “xin vâng” với Thiên Chúa; đã nhạy bén để lắng nghe và trung thành thực thi Lời Chúa trong lòng mến.
Chính vì điều này mà Thiên Chúa đã không để thân xác Mẹ phải chịu cảnh hư hoại như mọi loài thụ tạo khác, nhưng đã đưa lên trời cả hồn lẫn xác, để đảm nhận vai trò Nữ Hoàng Thiên Quốc, ngõ hầu xứng đáng với vai trò Mẫu Tử của Con Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
1. Mẹ Maria là người diễm phúc
Lời kinh Kính Mừng mà chúng ta vẫn thường lặp đi lặp lại: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ”. Đây chính là lời thiên sứ kính chào Đức Maria trong biến cố truyền tin Thiên Chúa nhập thể.
Qua lời chào đầy ân sủng này, Thiên Chúa muốn giới thiệu cho mọi người biết: Mẹ là người xứng đáng đảm nhận vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Hôm nay, thánh sử Luca tiếp tục cho chúng ta thấy Mẹ thực sự là người diễm phúc khi trình thuật một phụ nữ đang chăm chú nghe Đức Giêsu giảng, và đột nhiên, bà đã thốt lên: “Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú” (Lc 11, 27 ).
Khi thốt lên như thế, bà thể hiện sự ngưỡng mộ đến trân trọng người mẹ đã cưu mang, dưỡng dục Đức Giêsu.
Thật là mát lòng, hãnh diện và hạnh phúc biết bao cho Đức Giêsu khi người ta ca tụng Mẹ của mình!
Trước tình huống này, chắc chắn Đức Giêsu rất hài lòng với lời ca tụng của người phụ nữ kia về Mẹ Maira. Tuy nhiên, nhân cơ hội này, Đức Giêsu muốn đưa Mẹ Maria lên vị trí cao hơn, xứng với giá trị và lựa chọn của Mẹ, Ngài nói: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28 ). Khi nói như thế, Đức Giêsu đã âm thầm đề cao Mẹ của mình và muốn giới thiệu Mẹ Maria cho mọi người noi gương.
Những mẫu gương sáng ngời nhất nơi Mẹ Maria là: xin vâng, lắng nghe, thực hành, trung thành và yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn.
Trước tiên là mẫu gương về sự lắng nghe:
Nơi Mẹ Maria toát lên tâm hồn khiêm nhường tột độ. Mẹ chỉ nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa mà thôi. Mẹ nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Nhưng nơi tâm hồn Mẹ thật sâu lắng biết bao vì Mẹ luôn “khắc ghi và suy niệm mọi điều đó trong lòng” ( Lc 2,19).
Hơn nữa, Mẹ đã sống trọn vẹn hai tiếng “xin vâng”.
Mẹ xin vâng không chỉ trong những hoàn cảnh xuôi thuận, may mắn, mà còn trong những biến cố khó khăn và thử thách.
Thật vậy, Mẹ đã xin vâng qua biến cố truyền tin; trong cảnh nghèo nàn khi sinh con; đắng cay khi phải trốn chạy Hêrôđê. Đau buồn khi cảnh thất lạc con trong đền thờ; nhung nhớ khi con từ giã mái ấm gia đình để lên đường thi hành sứ vụ.
Xin vâng khi người ta thù oán ghét ghen con của mình, rồi chứng kiến cảnh con mình bị người ta đả đảo và đòi giết chết; trong đau đớn tột cùng khi thấy con bị đánh đập tàn nhẫn.
Xin vâng khi cùng con lê từng bước chân đẫm máu lên đồi Canvê; lặng người khi chứng kiến từng nhát búa chát chúa giáng xuống để đóng chặt chân tay con mình vào thập giá.
Xin vâng khi nhìn thấy cảnh tượng người ta dựng thập giá lên và lấy lưỡi đòng đâm thấu cạnh sườn con mình, nhất là đau xót đến tột cùng khi hai tay giang ra ôm trọn xác con bất động, đẫm máu và đầy thương tích vào lòng…
Như vậy, trong mọi trường hợp và cảnh huống, Mẹ luôn thưa xin vâng với tâm tình tuân phục và tin yêu, điều đó cho thấy: Mẹ luôn muốn thi hành thánh ý của Thiên Chúa cách trọn vẹn và trung tín.
Chính vì vậy, Mẹ xứng đáng để cho mọi người khen ngợi là người có phúc.
2. Thiên Chúa ân thưởng Mẹ trên thiên đàng
Một người được coi là hạnh phúc chính là một người được yêu và yêu hết mình! Tức là được nhiều người yêu mến và cũng mến yêu mọi người. Đây là mẫu người hạnh phúc.
Nơi Mẹ Maria, Mẹ thật hạnh phúc khi Mẹ được Thiên Chúa yêu thương từ đời đời. Vì thế, Người đã chuẩn bị từ muôn thủa để cho Mẹ được diễm phúc cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Tương xứng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho Mẹ, Mẹ cũng đã đáp trả và dành trọn vẹn linh hồn cũng như thân xác để yêu và chỉ yêu một mình Thiên Chúa mà thôi. Chính vì thế, Mẹ là người hạnh phúc.
Để chứng minh cho nhân loại thấy Thiên Chúa yêu thương Mẹ cách đặc biệt, đó là việc Người ân thưởng Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác.
Việc cất nhắc Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác cho ta thấy: Mẹ là người đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Vì thế, việc Mẹ được hưởng trọn vẹn linh hồn và thân xác trên trời mà không phải hư hoại như bất cứ loài thụ tạo nào là điều hiển nhiên.
3. Mẹ lên trời , niềm hy vọng của chúng ta
Biến cố Đức Mẹ lên trời hôm nay đã đem lại cho chúng ta niềm hy vọng cũng được lên trời như Mẹ trong tương lai.
Tại sao vậy, thưa vì khi Mẹ Maria xuất hiện, Mẹ đã thay thế cho Evà cũ. Nếu Evà cũ đã đưa con người đến chỗ diệt vong vì sự bất tuân của bà, thì nơi Mẹ Maria, Mẹ đã sinh ra nhân loại trong ân sủng qua lời xin vâng của Mẹ. Mẹ thực sự trở thành Mẹ của một dân tộc mới qua trung gian là Đức Giêsu. Bởi vì: “… nhân loại là chi thể của Thân mình Đức Giêsu – Con Chí Ái của Mẹ” (x. Ep 5,30), nên lẽ đương nhiên, Mẹ được gọi là Evà mới, là Mẹ của tất cả những ai sinh ra trong Đức Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Ngài.
Tuy nhiên, muốn được ân thưởng hạnh phúc nước trời như Mẹ, chúng ta hãy noi gương Mẹ để lắng nghe, thực hành và trung thành với thánh ý Thiên Chúa. Đây là con đường chắc chắn và ngắn nhất để được lên trời với Mẹ.
Nhưng muốn được lắng nghe tiếng Chúa, chắc chắn chúng ta phải nhạy bén với những dấu chỉ thời đại. Muốn được nhạy bén để nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa, tâm hồn chúng ta phải có chất tố của sự thánh thiện. Không có điều này, chắc chắn chúng ta không thể nhận ra đâu là ý Chúa, đâu là ý phàm nhân.
Tuy nhiên, việc thực thi Lời Chúa đòi hỏi một quá trình, buộc chúng ta phải hy sinh. Con đường thực thi Lời Chúa được ví như người leo dốc, phải đổ mồ hôi, phải vất vả lắm mới mong đạt tới đích!
Như vậy, dù có khó khăn thế nào đi nữa, hãy cố gắng thì sẽ vượt qua, nhất là giữa những khó khăn của cuộc đời, chúng ta có Mẹ ở bên, Mẹ sẽ đồng hành để giúp cho mỗi người vượt qua những thử thách, khổ đau và cạm bẫy của ma quỷ, ngõ hầu chúng ta đạt tới đích, đó là được hưởng hạnh phúc đời đời trên nước trời.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết nhạy bén với các dấu chỉ thời đại, nhất là qua Tin Mừng của Chúa. Xin Mẹ cũng ban cho mỗi người chúng con biết sẵn sàng đón nhận lời xin vâng trong mọi hoàn cảnh. Biết mau mắn thực thi Lời Chúa mọi nơi, mọi lúc với thái độ của một người tôi tớ trung thành và yêu mến tha thiết.
Ước gì sau cuộc đời tại thế này, mỗi người chúng con cũng được về trời để hưởng hạnh phúc ngàn thu như Mẹ. Amen.
NGÀY 15-08
BÀI SỐ 01
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
MẸ LÊN TRỜI LÀ NIỀM VINH HẠNH CHO MỌI TÍN HỮU
(Kh 11, 19; 12, 1-6.10; 1Cr 15, 20-27; Lc 1, 39-56)
Hôm nay toàn thể Giáo Hội hân hoan, long trọng mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Đây là một trong những lễ quan trọng về Mẹ Maria.
Lễ này được chính thức bắt đầu mừng kính cách công khai rộng rãi trên toàn thể Giáo Hội qua tín điều Đức Maria hồn xác lên trời vào ngày 1-11-1950 của Đức Thánh Cha Piô XII. Điểm chính yếu trong Tín điều nêu rõ: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiễm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”.
Giờ đây, một lần nữa, chúng ta cùng nhau đào sâu về ý nghĩa này cách đặc biệt, để thêm niềm xác tín, yêu mến và nhất là qua thánh lễ này, mỗi người hãy ái mộ những sự trên trời.
1. Kinh Thánh tiên trưng về biến cố đặc biệt này
Sự kiện Đức Maria về trời là một điều vĩ đại. Biến cố này cho thấy Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cách trọn vẹn trong vinh quang Thiên Quốc. Nó đánh dấu một bước ngoạt mới trong công trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Khi cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời trong vinh quang, Thiên Chúa muốn đề cao vai trò của mẹ như là ưu phẩm có một không hai trong thế giới loài người. Cũng từ đó, khơi gợi lên lòng kính yêu của con cái trần gian về Mẹ mình như một kiệt tác tuyệt vời trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Chính vì lẽ đó, Kinh Thánh đã nhiều lần tiên trưng về biến cố vĩ đại này:
Trong sách Sáng Thế, ngay sau khi Evà phạm tội bất tuân Thiên Chúa, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế được sinh ra bởi Người Nữ Đầy Ơn Phúc (x. St 3, 15). Lời xác tín này được lập lại khi sứ thần Gabriel đến truyền tin và kính chào Mẹ bằng ngôn từ hết sức kính trọng và suy tôn: kính chào Bà đầy ơn phúc (x. Lc 1, 28).
Rõ nét hơn cả, đó là sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Còn Người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc, tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho Bà một chỗ … Bà được ban cho đôi cánh Đại Bàng, để bay vào sa mạc, lên Ngai của Ngài… Bà đã tiến vào sa mạc, ở đó đã sẵn một chỗ Thiên Chúa dọn sẵn cho bà” (x. Kh 12, 5-14).
Trên đây là một số hình ảnh minh họa về Mẹ Maria như là một Đấng Đầy Ơn Phúc đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.
Còn trong truyền thống Giáo Hội, các thánh đã ca ngợi Mẹ và rất vui mừng, hãnh diện khi Thiên Chúa trọng thưởng Mẹ một cách đặc biệt.
2. Các Giáo Phụ nói về biến cố trọng đại này
Nơi các thánh Giáo Phụ, việc tin nhận Mẹ Maria vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác được các ngài tuyên tín như là một điều đương nhiên, bởi vì: “Mẹ đồng trinh vẹn tuyền. Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa chí thánh bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, nên thân xác Mẹ không thể bị hư nát như hậu quả của cái chết thân xác mang tội Tổ Tông và tội riêng”.
Thánh Gioan Đamscênô thì quả quyết: “Người đã gìn giữ nguyên vẹn được sự Đồng Trinh sau khi sinh thì nhất định giữ được sự nguyên vẹn Thân Xác sau khi chết. Người đã cưu mang trong lòng Đấng Tạo Hóa, Con mình, thì cũng phải ở bên tòa Con Mẹ. Thiên Chúa Cha đã đính hôn Mẹ là Hiền Thê thì nhất định phải được ở phòng loan trên Trời. Mẹ ngắm nhìn Con Mẹ sinh ra và trên Thánh Giá, thì phải được chiêm ngắm Con Mẹ trên Trời”.
Còn thánh Giêmanô Constantinô thì nói: “Nếu thân xác Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, không bị hư hoại và được đưa về Trời, thì điều đó không những xứng hợp với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Mẹ nữa… Theo Kinh Thánh, Mẹ kiều diễm; thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thật là nơi Thiên Chúa ngự trị. Cũng vì thế, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất”.
Với thánh Germanô thì cảm nghiệm sâu xa khi tuyên tín: “Thân xác Mẹ diễm phúc chí thánh trong trắng đến nỗi không thể trở về bụi đất được nữa”.
Ngoài ra, việc Mẹ Maria được rước lên trời cả hồn lẫn xác, chúng ta cũng nhận thấy đây là điều hiển nhiên, vì Mẹ đã cùng chịu đâu khổ với Đức Giêsu con của Mẹ, thì không có lý do gì Mẹ lại không được vinh quang với con của Mẹ trên Thiên Quốc, và thân xác của Mẹ không thể bị hủy hoại khi chính thân xác này đã cưu mang và sinh hạ cũng như nuôi dưỡng Đấng Hằng Sống.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi thánh Tôma Aquinô lý luận rằng: “Yêu ai là muốn sự lành cho kẻ ấy”. Thiên Chúa yêu thương Đức Mẹ hơn mọi tạo vật, không lẽ Ngài từ chối việc Mông Triệu đáng công thưởng cho kẻ Ngài yêu sao?” (Thomas III, 17, 2).
Với tất cả những lý chứng trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: “Với tư cách là Mẹ Thiên Chúa, là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là hoa quả tốt nhất của Ơn Cứu Độ, là thành quả vĩ đại nhất của Ơn Thánh, là kì công tuyệt vời của Thiên Chúa, hẳn Mẹ phải xứng đáng được hưởng ơn hồn xác lên trời.
3. Mẹ lên trời, niềm hy vọng của chúng ta
Mỗi khi mừng lễ Mẹ Maria hồn xác lên trời, Giáo Hội tuyên xưng tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của Đức Mẹ và giúp cho người tín hữu thêm xác tín vào niềm hy vọng phục sinh của mỗi người. Đồng thời, mời gọi con cái của mình hãy hướng về Mẹ Maria như là mẫu gương sáng ngời, ngõ hầu noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời này cũng được phục sinh vinh hiển.
Sứ điệp của ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời hôm nay mời gọi chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa tha thiết, trung thành tuân giữ những điều Chúa truyền dạy trong việc suy niệm, yêu mến và thực hành như Mẹ để đáng được trở thành người có phúc.
Bên cạnh đó, Lời Chúa hôm nay gợi lại cho chúng ta tâm tình cần phải có, đó là lời tạ ơn. Tạ Ơn thiên Chúa như Mẹ Maria. Mẹ đã coi mình là người không xứng đáng. Nhưng được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, nên Mẹ đã cất cao lời tạ ơn Chúa vì người đã đoái thương đến phận hèn mọn. Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng hãy tạ ơn Chúa như Mẹ khi xưa, vì biết bao ơn lành Người đã ban xuống trên cuộc đời chúng ta, mặc dù không xứng đáng.
Bên cạnh đó, chúng ta hãy biết chạy đến với Mẹ Maria với niềm tin tưởng sẽ được Mẹ ra sức phù trì bênh đỡ và chuyển cầu cho chúng ta như xưa Mẹ đã cứu giúp gia chủ trong tiệc cưới tại Canan.
Thiết nghĩ, nhờ gương sáng của Mẹ Maria trong việc sống đức tin, cậy, mến… sẽ là điểm cuốn hút đời sống nội tâm mỗi người, để mai ngày, chúng ta cũng được chung hưởng phúc vinh quang trên Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, sống trung thành với Lời Chúa dạy, để sau cuộc đời tại thế này, chúng con được về vui sống bên Mẹ trong vinh quang của Thiên Chúa. Amen.
NGÀY 15-08
BÀI SỐ 2
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
MẸ MARIA LÀ ƯU PHẨM CỦA THIÊN CHÚA
(Kh 11, 19a; 12, 1-6a. 10; 1Cr 15, 20-27; Lc 1, 39-56)
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên Chúa, một thụ tạo được ưu tuyển và trổi vượt trên hết mọi loài được dựng nên. Bởi vì Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn cách đặc biệt. Không những thế, Thiên Chúa còn gìn giữ Mẹ cách nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Những ân huệ đó không thể có nơi bất cứ loài thụ tạo nào ngoài Mẹ.
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Đức Maria hồn xác về trời. Khi mừng lễ này, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng nhau khám phá vị thế ưu việt của Mẹ trong chương trình cứu độ nơi tín điều, truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội. Mặt khác, việc Đức Maria hồn xác lên trời có tầm ảnh hưởng thế nào đến đời sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta?
1. Giáo huấn của Giáo Hội
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng, và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus. Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: “Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, Thiên Chúa không thể để thân xác Mẹ hư nát nơi lòng đất và đã đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời “Xin vâng” tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vậy, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang cây sự sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể “nhục thân bất hoại” theo lẽ thường được.
1. Cùng với Mẹ ngợi khen Thiên Chúa
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Mẹ lên trời, chúng ta hãy cùng với cả triều thần ca mừng Nữ Hoàng Thiên Quốc: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10).
Thật vậy, phụng vụ hôm nay làm toát lên vẻ huy hoàng và sắc thái hân hoan, vì: kể từ đây, Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất; làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ đáng được mọi đời khen ngợi vì Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc”; “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Mẹ trở thành Evà mới, thành cây quả phúc mà Thiên Chúa đem trồng vào vườn Địa Đàng mới để được cưu mang và sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đấng Cứu Thế.
Sự xuất hiện của Mẹ đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Lịch sử cứu độ được mở ra với biết bao ân huệ.
Đứng trước hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, và đặt mình trong tâm tình của Mẹ, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm nơi Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1, 46-48).
Đây chính là lời kinh tuyệt mỹ mà Mẹ Maria đã cất lên để ca tụng Thiên Chúa, và đây cũng là những cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhiệm mầu.
Biến cố Mẹ được đưa về trời, đã đem lại cho con người niềm hy vọng lớn lao và tuyệt đối.
Bởi vì sự phục sinh của Mẹ gắn liền với sự phục sinh của Đức Kitô: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu […] cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (x. 1Cr 15, 20-22).
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Bởi vì “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
“Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương Trời Đất, hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh của tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
NGÀY 22-08
LỄ ĐỨC MARIA NỮ VƯƠNG
MẸ MARIA: NỮ HOÀNG THIÊN QUỐC
(Is 9, 2-4. 6-7; Lc 1, 26-38)
Ngày 1 tháng 11 năm 1954, bốn năm sau khi tuyên bố tín điều Đức Maria hồn xác về trời, Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng đội triều thiên lên tượng Đức Trinh Nữ là: “Sự cứu rỗi của dân thành Rôma và toàn thế giới”. Đức Thánh Cha cầm những vòng vàng dát đá quí từ khắp thế giới gởi về, để đặt trên đầu tượng Đức Giêsu và Mẹ Maria kèm với lời nguyện: “Xin Mẹ cai quản trên Giáo Hội, trên mọi trí khôn, mọi cõi lòng, mọi cá nhân, mọi gia đình cũng như mọi xã hội và mọi quốc gia. Trên mọi cộng đoàn, những người quyền thế. Xin Mẹ hãy cai trị trên mọi nẻo đường và mọi quảng trường, trong thành thị và chốn thôn quê, trên nền trời, trên mặt đất và cả biển khơi”. Ngài còn nói: “Vương quyền của Đức Maria là một thực tại siêu vượt thế trần, đồng thời lại thấm nhập mọi cõi lòng và chạm tới phần cốt yếu sâu thẳm nhất có tính cách siêu nhiên và bất tử”.
1. Niềm hạnh phúc cho tất cả những người tin
Đây là một niềm vui và hạnh phúc tuyệt vời cho tất cả những ai mang trong mình niềm tin vào Thiên Chúa và lòng yêu mến Mẹ Maria. Thật vậy, ngày Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác đã làm cho cả Triều Thần Thiên Quốc phải kính cẩn nghiêng mình. Đoạn Kinh Thánh sau đây mang tính thần bí của thánh Gioan trong sách Khải Huyền cho ta thấy rõ điều đó: “Có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên muời hai ngôi sao” (Kh 12,1). Và như một lẽ tất yếu, Triều Thần Thiên Quốc đồng thanh tung hô: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10); Thánh Vịnh 44 được hòa vào bản nhạc du dương mà các Thiên Thần đang véo von ca hát làm nên vẻ huy hoàng của ngày Mẹ được tôn phong: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy” (Tv 44, 10).
Thật vậy, hôm nay là ngày tuyệt vời của Mẹ. Ngày Mẹ được Thiên Chúa Ba Ngôi tôn vinh làm Nữ Vương và Bà Chúa của toàn thể tạo vật. Với tước hiệu này, Mẹ trở thành: “Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế: “Vua các vua, Chúa các chúa” ( Kh 19, 16 ).
Khi được Thiên Chúa tôn phong, Mẹ đảm nhận vai trò: “Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969). Điều này được thánh giám mục Anphongsô đệ Liguori cảm nghiệm: “Chúng ta hãy cảm tạ Nữ Vương rất dấu yêu của chúng ta, bởi vì mọi ơn chúng ta được lãnh nhận đều từ tay Mẹ và nhờ lời cầu bầu của Mẹ” (Vinh Quang Đức Mẹ, II ). Và trong truyền thống Giáo Hội, chúng ta thấy xuất hiện lời kinh cổ xưa nhất ca ngợi Mẹ và cũng thể hiện niềm tin nơi Mẹ trong vai trò Nữ Vương: “Kính chào Đức Nữ Vương, Bà là Mẹ xót thương, Ngọt ngào cho cuộc sống, Kính chào lẽ cậy trông” (Salve Regina).
Tại sao Đức Maria lại được Thiên Chúa ân thưởng như vậy?
Thưa! Cả cuộc đời của Mẹ luôn trung thành tuân theo thánh ý Thiên Chúa Cha, được tràn ngập ân sủng của Chúa Thánh Thần và luôn gắn bó với Đức Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời trần thế: từ lúc sinh ra, rao giảng và dưới chân thập giá, sống lại và lên trời. Vì thế, vương quyền cao sang và vinh dự của Mẹ được gắn liền với vương quyền tuyệt đối của Con Mẹ. Thật vậy, khởi đi từ Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa thì cũng xuất phát từ Ngài.
Như vậy, theo lẽ tất nhiên, vì Thiên Chúa đã yêu thương Mẹ cách tuyệt đối, gìn giữ cách nhiệm mầu, nên việc đặt Mẹ vượt trên mọi thần thánh, và đổ tràn trên Mẹ tất cả ân sủng trên trời là một ân ban từ lòng quảng đại của Thiên Chúa trên thụ tạo ưu tuyển, tuyệt mỹ và toàn hảo.
2. Khẩn cầu Mẹ trong vai trò Nữ Vương
Thật ý nghĩa khi Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập lễ này sau lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Qua tước hiệu cao quý này, ngài đã mời gọi con cái của Giáo Hội hãy hướng lòng lên Mẹ trên ngai tòa ân sủng để khẩn cầu Mẹ lúc gặp phải nghịch cảnh, thất bại hay đang lầm lũi trong tối tăm của tội lỗi. Ngài còn mời gọi con cái của mình, dù là là bất hảo và phàm ngôn, nhưng là con cái, chúng ta hãy lấy tình con thảo để ca khen Mẹ trong tâm tình tin tưởng, yêu mến, phó thác. Đồng thời luôn luôn vâng phục những lời Mẹ nhắn nhủ và biết noi gương Mẹ để thi hành thánh ý Thiên Chúa cách mau mắn.
Vì vậy, hãy can đảm chạy đến với Mẹ, Mẹ sẽ trở che, vỗ về, an ủi, trong vai trò là “Đấng Hằng Cứu Giúp”. Chúng ta có quyền hy vọng điều đó, vì Mẹ là Bà Chúa của mọi thụ tạo (x Thánh thi kinh sáng lễ Đức Mẹ lên trời).
Để kết thúc, xin được mượn lời bài hát: “Chút tình con thơ” của nhạc sĩ lm. Nguyễn Duy để nói lên niềm hy vọng của chúng ta ở nơi Mẹ trong vai trò là Trạng Sư:
“Mẹ ơi, trên trần gian, con chưa thấy ai, đến nhờ Mẹ mà Mẹ không thương giúp. Mẹ ơi, con biết rằng tình Mẹ rất bao la, luôn dõi nhìn từng nhịp bước con thơ”
Vì “Mẹ nguồn cậy trông cho người thất vọng. Mẹ là niềm tin cho người lữ thứ. Mẹ là niềm vui cho người buồn đau. Mẹ là nghỉ ngơi cho người đơn côi”.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con tạ ơn Chúa đã ban tặng cho chúng con một người Mẹ tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria Nữ Vương. Xin Chúa nhận lời Đức Mẹ chuyển cầu, ban cho chúng con được ơn can đảm, trung thành với Chúa đến cùng như Mẹ, để sau cuộc đời này, chúng con được cùng Mẹ hưởng vinh phúc trên Nước Trời và ca ngợi Chúa không ngừng. Amen.
NGÀY 08-09
LỄ SINH NHẬT ĐỨC MARIA
MẸ MARIA LÀ EVÀ MỚI
(Mk 5, 2-5a hoặc Rm 8, 28-30; Mt 1, 1-16. 18-23)
Sự sống là điều quý giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người. Việc tổ chức mừng sinh nhật cho chính mình cũng như cho người khác là dịp nhắc nhở ta về sự quý giá đó để tạ ơn Thiên Chúa qua sự hiện hữu của mình hay của người khác.
Hôm nay, cùng với toàn thể nhân loại, chúng ta mừng sinh nhật Đức Trinh Nữ Maria. Ngài là Mẹ Đấng Cứu Chuộc và qua thiên chức cao cả đó, Mẹ cũng là mẹ các chi thể của Đức Kitô là chính chúng ta. Mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ, chúng ta hiệp cùng Giáo Hội ca tụng, tung hô Mẹ: “Lạy Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, nhờ việc Mẹ sinh ra mà thế gian được tràn ngập hoan lạc và khích lệ, vì bởi lòng Mẹ, mặt trời công chính là Đức Giêsu đã đến trong thế gian, chính Người sẽ kéo chúng con ra khỏi sự chết và đưa vào đời sống vĩnh cửu”. Và cùng với chính Mẹ, chúng ta ca tụng Thiên Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1, 49-50).
Thật vậy, ngày Mẹ sinh ra, cả Triều Thần Thiên Quốc và mọi loài mọi vật dưới đất hân hoan, vui mừng, hy vọng. Bởi vì Mẹ sinh ra báo hiệu thời cứu rỗi đã đến, là Rạng Đông đi trước Mặt Trời Công Chính là Đức Kitô. Mẹ chính là Sao Mai soi sáng và dẫn đưa nhân loại đến với Đức Kitô. Mẹ đến để phục hồi vai trò làm Mẹ Chúng Sinh mà Evà đã đánh mất do tội bất tuân. Mẹ chính là Evà mới,nghĩa là sự sống và là Mẹ của các người sống. Bởi vì như Evà đầu tiên đã được rút ra từ cạnh sườn của Ađam, để trở nên một con người sống động thế nào, thìcũng vậy, Đức Maria, với tất cả rạng ngời của sự sống và vô nhiễm nguyên tội,Mẹ bước ra từ trái tim của Ngôi Lời vĩnh cửu là chính Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch sự sống.
Mẹ Maria chính là ưu phẩm; là bảo vật mà Thiên Chúa đã dấu kín từ lâu; là hình ảnh đã được tiên báo trong Tiền Tin Mừng. Mẹ cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho nhân loại. Nơi Mẹ, Mẹ vừa là Nữ Tỳ của Thiên Chúa, vừa là Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể và Mẹ của toàn thể chúng sinh. Việc tuyển chọn Mẹ để trở thànhMẹ Thiên Chúa là một mầu nhiệm cao cả, bởi vì liên hệ trực tiếp đến công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Chính trong vai trò này, mà Mẹ đã góp phần của mình nhằm hoàn tất vai trò cứu độ loài người của chính Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta tôn kính Mẹ bởi vì Mẹ đã đón nhận thánh ý Thiên Chúa qua lời “xin vâng”. Khi Mẹ đón nhận thánh ý Chúa như thế, Ngôi Hai Thiên Chúa đã Nhập Thể trong cung lòng Mẹ. Đây chính là một vai trò trọng yếu trong công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi nhiệm cục cứu độ của Người.
Nhưng khi tôn kính những ơn huệ của Mẹ không thôi thì chưa đủ, mà còn noi gương những nhân đức của Mẹ mới là những người con thảo hiếu của Mẹ trên trời.
Quả thật, Công đồng Vaticanô II đã nói: “Lòng sùng kính chân chính… phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Noi theo mẫu gương của Mẹ, chính là bắt chước những gương sáng củaMẹ để lại. Những mẫu gương nổi trội nơi Mẹ chính là: đức tin, đức ái, lòngkhiêm nhường, tinh thần ngoan ngùy với Thiên Chúa trong vai trò là Nữ Tỳ của Người.
Lạy Chúa, ngày sinh nhật của Đức Giêsu Con Một Chúa, Chúa đã mở đầu kỷ nguyên cứu độ, thì hôm nay, ngày sinh nhật của Thánh Mẫu người, xin Chúa cũng rộng ban muôn phúc lộc. Và cho chúng con hưởng bình an. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
NGÀY 12 – 09
LỄ DANH THÁNH ĐỨC MARIA
CAO CẢ THAY DANH THÁNH MẸ MARIA!
(Gl 4,4-7; hay Ep 1,3-6. 11-12; Lc 1, 39-47)
Nói về mẹ hay viết về mẹ, có lẽ chẳng ai có thể suy cho vừa, nói cho đủ, viết cho thấu, bởi vì: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình”; hay “Có tát cạn biển đông mới tỏ tường lòng mẹ…”. Ấy là mới chỉ nói về một người mẹ trần gian, huống hồ là suy, nói và viết về Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Nhân loại!
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Danh Thánh Đức Maria, qua lễ này, Giáo Hội muốn giới thiệu cho cho chúng ta thấy: “Danh Thánh của Mẹ rất uy quyền và rất tuyệt mỹ, khiến nhân loại không thể không vui mừng, hãnh diện và ngất ngây, say mê…”.
1. Danh Thánh Mẹ Maria rất uy quyền
Mẹ Maria là một thụ tạo trổi vượt trên muôn vàn thụ tạo. Mẹ là người nữ tuyệt mỹ và là Đấng Đầy Ân Sủng, cao trọng hơn hết mọi người phụ nữ trên trần gian.
Thánh Tôma Aquinô đã ca ngợi Mẹ như sau: “Maria có nghĩa là Sao Biển. Vì vậy, ví như thuỷ thủ được sao biển hướng dẫn vào hải cảng thế nào, thì các Kitô hữu muốn tới vinh quang cũng đều nhờ sự cầu bầu Hiền Mẫu của Mẹ Maria như vậy”.
Danh Thánh Mẹ vượt không gian và thời gian để muôn người và mọi thế hệ phải cất tiếng tung hô Mẹ Diễm Phúc.
Danh Thánh Mẹ được coi trọng đến độ: ngoài danh Đức Giêsu và Thiên Chúa ra, không có tên nào trọng, đáng kính cho bằng tên Ðức Mẹ. Thánh Giêrônimô khẳng định rằng: “Tên Maria chẳng phải cha mẹ hay người thế gian đặt cho ngài, nhưng chính Thiên Chúa soi lòng ông thánh Gioakim và bà thánh Anna đặt tên ấy cho Mẹ Maria”.
Vì thế:
“Thánh Danh Maria các thiên thần trông ngóng
Khát vọng được nghe thánh danh vinh hiển, uy hùng
Ngỡ ngàng hỏi nhau: “Bà nào lên giữa không trung?”
Như rạng đông rực rỡ, như vầng nguyệt diệu huyền
Như đạo binh dàn quân, lệnh Nữ Vương thẳng tiến
[…]
Nghe Danh Mẹ, mọi thụ tạo cúi đầu cung kính
Uốn gối tôn vinh, quỷ hoả ngục phải sấp mình
Vạn vật muôn loài, chiêm ngưỡng trong lặng thinh
Thánh Danh Mẹ, thanh thoát vẻ dịu hiền tuyệt diệu” (Mặc Trầm Cung).
Như vậy, với Danh Thánh Mẹ Maria được cất lên thì: “Các thiên thần vui mừng, các quỉ dữ run rẩy. Kêu xin tên này, các tội nhân được ơn phúc và ơn tha thứ” (Thánh Canisiô) .
2. Hãy không ngừng kều cầu Danh Mẹ
Ngay từ những thế kỷ đầu của Kitô Giáo, Danh Thánh Đức Maria đã được nhiều người biết đến và tôn kính. Họ cũng đã cử hành phụng vụ thánh lễ để tôn kính Thánh Danh Mẹ tại một số nơi. Nhưng mãi đến năm 1683, Đức Thánh Cha Innôcentê XI mới chọn ngày 12 tháng 09 hàng năm làm ngày toàn thể Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng lễ tôn kính Thánh Danh Đức Maria.
Khi quyết định chọn ngày này để tôn kính Thánh Danh Mẹ, Đức Thánh Cha đã muốn đặt để Giáo Hội và từng người dưới sự che chở của Thánh Danh Mẹ.
Thật vậy, danh xưng Maria trong tiếng Dothái có nghĩa là “Ngôi Sao Biển”.
Như vậy, nếu Giáo Hội được ví như con thuyền đang lênh đênh trên biển khơi, thì Đức Maria được ví như “Ngôi Sao Biển” chiếu sáng cho con thuyền của Giáo Hội đi đúng đường, đúng lối.
Vì thế, mỗi người chúng ta được mời gọi hướng nhìn lên Mẹ Maria như ngôi sao dẫn lối soi đường, để giúp chúng ta đi đúng hướng.
Thánh Bênađô viết: “Khi bạn chiến đấu với bão táp trên biển cuộc đời, hãy ngước nhìn lên Sao Biển là Mẹ Maria. Nếu những ngọn gió cám dỗ thổi vào chiếc thuyền lòng bạn, hay nếu bạn bị va đụng bởi những tảng đá đau khổ, hãy nhìn lên Ngôi Sao – và hãy gọi tên Mẹ! Nếu bạn bị những đợt sóng tham vọng hay đố kỵ xô đẩy, hãy nhìn lên Ngôi Sao – hãy gọi tên của Mẹ! Nếu cơn nóng giận hay tham lam đánh bạt chiếc thuyền lòng bạn, hãy nhìn lên Mẹ Maria! Nếu bạn đang thất vọng vì tội lỗi quá nhiều, hãy tưởng nghĩ đến Mẹ! Trong những khó khăn và nguy hiểm, hãy nhớ đến Mẹ – hãy réo gọi Mẹ! Đừng để Danh Thánh Mẹ rời xa môi miệng bạn. Hãy tưởng nghĩ đến Mẹ luôn luôn! Có Mẹ, bạn sẽ không lạc lối. Được Mẹ chở che, bạn sẽ không sợ gì. Mẹ sẽ dẫn bạn đến với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của bạn!”.
Trong thực tế, chúng ta cũng đã thấy: có biết bao người khô khan nguội lạnh, nhưng chỉ vì nể một ai đó hay vì một lời hứa với người đã khuất, nên hằng ngày vẫn trung thành đọc kinh kính Mẹ và kêu cầu Danh Mẹ, đến giờ phút cuối, Mẹ đã giúp vượt thắng cám dỗ của ma quỷ và gìn giữ như của riêng Mẹ vậy. Những người bị ma quỷ tấn công, họ đã kêu cầu Danh Mẹ và đã được Mẹ bảo vệ. Những người ốm đau bệnh tật, luôn kêu Danh Mẹ trợ giúp và tăng sức mạnh, Mẹ đã chữa lành… Những người bị bách hại, kêu tên mẹ và không ngớt van xin, Mẹ đã giải thoát…
Tắt một lời: tất cả những ai có lòng yêu mến, cậy trông Mẹ và kêu cầu Danh Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ thương yêu và cứu giúp, bởi vì từ xưa tới nay, chưa từng có ai chạy đến với Mẹ mà lại về không bao giờ!
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Thánh Công đồng Vatican II đã xác nhận việc sùng kính Thánh Danh Đức Maria như sau: “Nhờ hồng ân Thiên Chúa, Đức Maria được tôn vinh, vượt trên hết các thiên thần và loài người, và ngài là Mẹ Rất Thánh của Thiên Chúa và loài người, và đã tham dự vào các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Do đó, ngài đáng được Giáo Hội tôn vinh và đặc biệt sùng kính”.
Vì thế, đã từ lâu đời, Giáo Hội không ngừng khuyến khích mọi tín hữu hãy có lòng tôn kính Thánh Danh Mẹ.
Việc tôn kính Thánh Danh Mẹ có thể được diễn ra trong đời sống cộng đoàn hoặc riêng tư mỗi người, qua những cách thức đặc trưng riêng hay theo những công thức đã được Giáo Hội chuẩn nhận.
Nhất là yêu mến Mẹ qua việc siêng năng tham dự thánh lễ thứ Bảy hằng tuần và nhất là đầu tháng. Siêng năng lần Chuỗi Mân Côi chung hay riêng. Noi gương các nhân đức của Mẹ để bắt chước và sống trong đời sống hằng ngày.
Tuy nhiên, lòng sùng kính Mẹ phải phát xuất từ sự chân thành trong tâm tình con thảo đối với Mẹ. Lòng sùng kính Mẹ còn phải được khởi đi từ tấm lòng thanh sạch, khiêm nhường, khiết tịnh, yêu mến, tin tưởng, phó thác nơi Mẹ.
Hãy tập cho mình một thói quen tốt, đó là: hãy năng kêu cầu Danh Thánh Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại của chúng ta luôn có Mẹ đồng hành.
Cần tránh những thói châm biếm những người bình dân khi họ tỏ klòng tôn kính Mẹ theo cách chân thành của họ. Tránh tình trạng tôn kính Mẹ mà làm lu mờ việc tôn thờ Thiên Chúa. Tránh lấy Danh Mẹ Maria ra để làm bình phong cho những sự giả tạo và tội lỗi cũng như gian ác!
Lạy Mẹ Maria, Danh Thánh Mẹ trổi vượt hơn muôn loài thọ tạo. Danh Thánh Mẹ làm cho các thiên thần và các thánh hân hoan vui sướng. Danh Thánh Mẹ làm cho người thế được an ủi và hy vọng. Danh Thánh Mẹ khiến cho ma quỷ phải kinh khiếp.
Xin Mẹ bầu chữa cho chúng con được thêm niềm tin tưởng, phó thác nơi Mẹ, tránh xa dịp tội làm mất lòng Mẹ và xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con được hưởng ơn cứu chuộc. Amen.
NGÀY 15-09
LỄ ĐỨC MẸ SẦU BI
ĐAU KHỔ CỦA CON LÀ SẦU BI CỦA MẸ
(Dt 5, 7-9; Ga 19, 25-27)
Mấy năm gần đây, nhiều lúc cả thế giới nín lặng trong sự bàng hoàng trước những tàn ác của Phiến quân Hồi Giáo (IS). Gần đây nhất là tại Philippines. Những kẻ này đã chặt đầu và nã đạn hàng ngàn người vô tội chỉ vì họ trung thành với đức tin Công Giáo và không chịu cải đạo sang nhà nước Hồi Giáo tự xưng. Hàng triệu người phải bỏ quê hương, xứ sở để sơ tán, lánh nạn. Sự ngang tàng, ác độc của Phiến quân Hồi Giáo cực đoan đã làm cho cả thế giới phải ghê rợn! Vì thế, không thể ngồi yên, những nhà lãnh đạo từ mọi phía, đang tìm mọi cách để ngăn chặn sự độc ác này. Đồng thời, nhiều tổ chức, tùy hoàn cảnh, khả năng, đã ra tay giúp đỡ các nạn nhân.
Có lẽ qua sự kiện này, đã để lại trong đầu chúng ta những câu hỏi: tại sao nhân loại lại phải quan tâm đến chuyện của một đất nước khác? Những hình khổ, chết chóc của người dân phải chịu có ảnh hưởng gì với chúng ta?
Câu trả lời hết sức đơn giản, bởi lẽ chúng ta có một mối liên hệ trong tình yêu và đức tin. Vì thế, nỗi đau của người dân ở các nơi bị hại cũng là nỗi đau của chúng ta. Chúng ta không bị đổ máu, nhưng trong mầu nhiệm hiệp thông, chúng ta cũng có một phần trách nhiệm. Chúng ta không phải ly tán, nhưng trong sự liên đới, chúng ta phải cảm thương.
Hôm nay, phụng vụ mừng kính lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Đây là cơ hội để chúng ta có dịp cảm nghiệm được sự kết hiệp mật thiết giữa hai cuộc đời trong cùng một sứ vụ là cứu chuộc nhân loại.
Khi thiết lập lễ này, Giáo Hội muốn chúng ta cùng nhau chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria trên các chặng đường thương khó của Đức Giêsu. Bởi vì cả cuộc đời của Mẹ luôn theo sát Đức Giêsu, Con của Mẹ trên mọi nẻo đường.
Như vậy, niềm vui, nỗi buồn, thành công hay thất bại của Con cũng là của Mẹ. Mọi đau thương của Con, Mẹ đều ôm trọn vào tim, để rồi suy đi nghĩ lại trong lòng!
Cuộc đời của Mẹ cũng có những lúc vinh quang chan hòa, nhưng cũng không thiếu cảnh đau thương, xót xa.
Vì thế, lần dở lại các chặng đường của Đức Giêsu từ thủa ấu thơ đến khi rao giảng, chịu chết, an táng và lên trời, chúng ta đều thấy dấu ấn của Mẹ Rất Thánh ẩn hiện trong đó.
Những đau khổ ấy được tô đậm qua những sự kiện quan trọng:
Khởi đi từ việc cùng thánh Giuse lên đường trở về Belem để đăng ký nhân khẩu, đêm về, không thể tìm được quán trọ chỉ vì nghèo và bụng mang dạ chửa; rồi sinh Đức Giêsu trong cảnh màn trời chiếu đất nơi máng cỏ bò lừa; chưa hết khó khăn thì lại gặp cảnh khốn đốn khi hay tin vị vua tàn ác là Hêrôđê tìm giết Hài Nhi, nên đã cùng với thánh Giuse chạy trốn sang Ai Cập; chẳng bao lâu, lại long đong đưa Hài Nhi trở về Nazareth, rồi bị lạc mất Đức Giêsu trong đền thờ lúc 12 tuổi; đỉnh cao của cảnh bi thương trần lụy khi chứng kiến người ta đả đảo con mình; thấy được kẻ ác đánh đập tàn bạo, dã man; đau điếng khi thấy con bị những lằn roi chí tử giáng xuống trên mình; chứng kiến cảnh quan tòa vì nhu nhược mà kết luận bản án bất công; chưa hết, buồn tê tái khi môn đệ thân tín bán đứng Con Chí Ái, Phêrô chối không nhận Thầy; xót xa khi thấy con vác thập giá và ngã gục trên đường; xé lòng khi nghe từng tiếng búa chát chúa kèm theo tiếng kêu của Con khi bị quân lính đóng đinh; nín thở nhìn con thoi thóp từng hơi trên thập giá; buốt nhói khi đứng dưới chân thập giá chứng kiến con chút hơi thở cuối cùng; ngất lịm khi nhìn quân lính đâm cạnh nương long và tang thương khi ôm xác con vào lòng; tủi phận khi phải an táng con trong ngôi mồ mượn….
Như vậy, cuộc đời của Mẹ luôn gắn liền với Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu được Mẹ ấp ủ trong lòng. Con đường thập giá mà Đức Giêsu mang trong sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha, cũng được Đức Mẹ “xin vâng” và lưu lại trong trái tim.
Điểm lại những đau thương mà Mẹ Maria phải chịu, chúng ta khám phá ra một người Mẹ can đảm, hiên ngang và thi hành trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời của mình nơi các biến cố.
Thật vậy, cả cuộc đời của Mẹ, Mẹ đã sống trọn vẹn lời “xin vâng” với Thiên Chúa. Mẹ “xin vâng” cả lúc vui lẫn khi buồn. “Xin vâng” trong mọi hoàn cảnh. “Xin vâng” đến trọn cuộc đời.
Nói khác đi: cuộc đời của Đức Giêsu là một cuộc đời luôn vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, thì cuộc đời của Mẹ Maria là cuộc đời trọn tình vẹn nghĩa với lời “xin vâng”.
Bởi lẽ, nơi cuộc đời và sứ mạng của Đức Giêsu cũng chính là cuộc sống của Mẹ, nên không lạ gì nỗi đau của Con cũng là của Mẹ. Chỉ khác một điều là Đức Giêsu thì mang trên thân xác, còn Mẹ thì mang trong tâm hồn.
Thật thế, lời của tiên tri Simêon đã được ứng nghiệm cách trọn vẹn: “… chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 35). Như vậy, cách nào đó, Mẹ đã trở nên đồng hình đồng dạng với Con Chí Ái.
Mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi hôm nay, chúng ta được an ủi rất nhiều, vì trong cuộc sống của chúng ta, mọi khía cạnh đều có Đức Giêsu đi qua và có Mẹ Maria cảm thông.
Mỗi khi gặp khó khăn, mây mù giăng lối, chúng ta hãy biết ngước nhìn lên Mẹ như Mẹ đã ngước nhìn lên Thánh Giá Chúa khi xưa và sẵn lòng đón nhận mọi nghịch cảnh xảy đến trong đời, ngõ hầu mọi sự đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin Mẹ ban cho chúng con hiểu lòng Mẹ, an ủi Mẹ, và sẵn lòng chịu mọi sự khốn khó cho nên vì lòng yêu mến Chúa như Mẹ, để sau cuộc đời này, chúng con được bên Mẹ trong Nước của Con Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô muôn đời. Amen.
NGÀY 07-10
BÀI SỐ 1
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI – SỢI DÂY YÊU THƯƠNG
(Kn 3,9-15.20; Cv 1, 12- 14; Lc 1,26-38)
Một linh mục đã kể câu chuyện như sau: buổi tối nọ, có cuộc điện thoại mời ngài đến một bệnh viện gần đó để xức dầu cho một bệnh nhân. Người bệnh là một bà cụ già trạc tuổi 80. Khi đến nơi, cụ đang trong cơn nguy kịch. Vì thế, tay bên trái thì chằng chịt dây truyền nước và thuốc vào cơ thể, nhưng tay còn lại thì cụ không rời tràng hạt Mân Côi.
Vị linh mục nói tiếp: “Tôi có thể ví Tràng chuỗi Mân Côi như là sợi dây truyền mà Mẹ đang truyền nước và thuốc tâm linh vào trong cuộc đời của mỗi chúng ta để tăng thêm sinh lực, nhất là đức tin, cậy, mến nơi Thiên Chúa như Mẹ”.
Hôm nay, mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng sự kết hiệp mật thiết sâu xa của Mẹ Maria nơi Thiên Chúa, cũng như cảm nghiệm được tình mẫu tử nơi Mẹ Maria với con cái.
1. Cuộc đời Mẹ luôn hướng về Thiên Chúa
Có lẽ không ai là người Việt Nam lại không biết bài hát “Xin Vâng” của linh mục nhạc sư Kim Long! Bài hát này được gợi hứng từ chính đoạn tin Mừng Lc 1,26-38 mà chúng ta vừa nghe.
Qua bài hát này, chúng ta nhận thấy cuộc đời Mẹ là một cuộc đời xin vâng.
Khởi đi từ việc Mẹ xin vâng lời Thiên Chúa truyền dạy qua thiên sứ: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Chính nhờ lời xin vâng này mà Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Từ đây, Mẹ đã hoàn toàn vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Mẹ đã cộng tác vào công trình cứu độ này cách trung thành. Nói cách khác: Thiên Chúa có thể tùy nghi sử dụng Mẹ như một nữ tỳ khiêm hạ đầy lòng mến để phục vụ cho công trình cứu chuộc của Thiên Chúa trên và trong nhân loại. Hình ảnh và thái độ của Mẹ Maria trong bài Tin Mừng hôm nay khác hoàn toàn với hình ảnh và thái độ của Evà trong thời Cựu Ước.
Nếu một Evà muốn sống tự do và sử dụng tự do để chống đối lại Thiên Chúa, thì với một Maria, Evà của Tân Ước đã sử dụng tự do để quy phục Thiên Chúa.
Nếu một Evà ham quyền, háo danh trong sự kiêu ngạo, thì với Mẹ Maria, một con người khiêm nhường, và hoàn toàn đón nhận thánh ý Chúa và ra sức làm cho ý Chúa được nên trọn trong thân phận nữ tỳ của Người.
Một Evà là mẹ của chúng sinh, nhưng đã gieo rắc tội chết cho nhân loại, thì với Mẹ Maria, Evà mới, Mẹ đã trở thành Mẹ của một thế hệ mới, thế hệ được ngụp lặn trong ân sủng, tình thương và sự sống nhờ lời xin vâng tuyệt đối trung thành với Thiên Chúa.
Trong suốt cuộc đời của Mẹ, lời xin vâng ấy được lặp lại rất nhiều, có thể nói là liên lỷ đối với Thiên Chúa qua việc gắn bó vơi Đức Giêsu – Con của Mẹ.
Từ khi trẻ Giêsu còn thơ ấu đến lúc trưởng thành, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê… Mẹ luôn hướng về con của Mẹ như hoa hướng dương hướng về mặt trời. Mẹ vui niềm vui của Đấng Cứu Thế. Buồn nỗi buồn của Đấng Cứu Chuộc. Cùng Lo lắng cho sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Con Chí Ái của Mẹ đang thi hành.
Chính sự kết hiệp với Con Chí Ái của Mẹ cách liên lỷ như vậy, nên Mẹ đã trở thành người phi thường khi can đảm đứng dưới chân thánh giá để đồng công cứu chuộc với Đức Giêsu.
Có thể nói: từ khi đón nhận lời xin vâng, Mẹ đã tuyệt đối trung thành với lời tâm huyết thủa ban đầu. Vì thế, dù vui, buồn, sướng, khổ, Mẹ luôn tin tưởng phó thác và cậy trông nơi Thiên Chúa. Cả cuộc đời Mẹ được dệt nên bản tình ca “Xin Vâng” để thánh ý của Thiên Chúa được nên trọn.
Khi gắn bó với Thiên Chúa như vậy, chắc chắn Mẹ được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt. Hơn nữa, vì Mẹ đã cưu mang Con Thiên Chúa, mà Người Con ấy cũng là Thiên Chúa, nên Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa. Bởi vậy, trước mặt Thiên Chúa, Mẹ Maria là Nữ Hoàng Thiên Quốc, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng đáp lại lời cầu xin của Mẹ cho con cái của mình.
2. Mẹ Maria luôn hướng về con cái
Người Công Giáo chúng ta thật hãnh diện và vui mừng vì có một người Mẹ luôn luôn yêu thương con cái của mình hết mực.
Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội đã vén mở cho chúng ta thấy tình mẫu tử tuyệt vời ấy nơi Mẹ Maria.
Chẳng hạn như: Mẹ đã lên đường viếng thăm và giúp đỡ bà Êlisabét một thời gian; hay như việc Mẹ lên tiếng kêu cứu Đức Giêsu ra tay cứu giúp gia chủ tại tiệc cưới Cana khi trong tình trạng thiếu rượu.
Hơn nữa, chúng ta thật vinh phúc vì được chính Đức Giêsu trao phó cho Mẹ Maria dưới chân thập giá qua thánh Gioan. Và, hình ảnh thật thắm đượm tình Mẹ – con giữa Mẹ Maria với Giáo Hội lúc sơ khai, đó là Mẹ đã cùng với các môn đệ quây quần bên nhau nơi nhà Tiệc Ly để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Giáo Hội.
Những hình ảnh đó cho thấy sự kết hợp mật thiết của Mẹ dành cho con cái chốn trần gian.
Một trong những biến cố quan trọng cho thấy Mẹ uôn dõi theo con cái của mình đang lữ thứ chốn trần gian và sẵn sàng ra tay bênh đỡ khi con cái gặp hiểm nguy, đó là:
Vào năm 1571, lúc đó, anh em Hồi Giáo đang làm một cuộc viễn chinh nhằm chinh phục thế giới về cho mình. Họ đi từ Trung Đông sang Á Châu rồi Ấn Độ và đổ bộ đến Âu Châu. Tới đâu, thì nơi đó trở nên hoang tàn, chết chóc đến tang thương. Điểm cuối cùng mà họ nhắm tới, đó là nước Ý, nơi đó có thủ đô của Giáo Hội Công Giáo và Đức Giáo Hoàng. Họ muốn san bằng và phá hủy hết tất cả những dấu tích của Giáo Hội. Vì thế, đội quân viễn chinh đã chuẩn bị đầy đủ vũ khí và một đội quân tinh nhuệ đã sẵn sàng chiến đấu.
Trước tình trạng nguy hiểm đó, họa Hồi Giáo đang đến gần, Đức Giáo Hoàng Piô X rất vững niềm trông cậy, ngài đã giữ được bình tĩnh và phát động chiến dịch cầu nguyện với kinh Mân Côi để xin Đức Mẹ cứu giúp.
Kết quả thật bất ngờ! Quân Hồi Giáo bỗng dưng bị suy yếu đến lạ thường, và cuối cùng, trái tin Mẹ đã toàn thắng. Con cái Mẹ hân hoan ca mừng chiến công hiển hách do tình thương của Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ maria.
Biến cố này rơi vào đúng ngày 7-10, vì thế, ngày này được dâng kính Đức Mẹ Maria dưới tước hiệu Mân Côi.
3. Mỗi người chúng ta hãy gắn bó cuộc đời mình nơi Mẹ Maria
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta được mời gọi noi gương Mẹ Maria trong việc gắn bó, vâng phục Thiên Chúa. Chính nhờ sự gắn bó với Thiên Chúa cách tuyệt đối như vậy, mà Mẹ đã trở thành Đấng Đầy Ân Sủng để chuyển cầu cho chúng ta.
Mặt khác, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu thương của Mẹ Maria với Giáo Hội và từng người chúng ta. Khi chiêm ngắm như vậy, chúng ta hãy noi gương Mẹ để cũng biết sống xót thương anh chị em mình như Mẹ đã thương xót chúng ta.
Cuối cùng, lời mời gọi yêu mến Mẹ Maria cách thiết thực mà Giáo Hội không ngừng tha thiết nhắc lại chính lời Mẹ nhắn gửi khi xưa: “Hãy tôn sùng Mẫu Tâm Mẹ, ăn năn sám hối, cải thiện đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con xin tạ ơn Cha đã ban cho chúng con một người Mẹ tuyệt vời là Đức Maria. Xin cho chúng con biết yêu mến Mẹ, noi gương Mẹ và thực hành Lời Chúa cách tuyệt đối trong sự vâng phục như Mẹ khi xưa. Amen.
NGÀY 07-10
BÀI SỐ 2
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
KINH MÂN CÔI, LỜI KINH KỲ DIỆU
(Cv,1, 12-14; Gl 4, 4-7; Lc 1, 26-38)
Người Việt Nam ta từ xưa tới nay và chắc chắn về sau, lòng tôn sùng Đức Mẹ Maria luôn là một điểm sáng. Điều này hiển nhiên tại các gia đình, đền đài, nhà thờ, dòng tu và những trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đây đó.
Như vậy, tràng hạt Mân Côi chính là một vật bất ly thân của chúng ta, bởi vì qua lời kinh Mân Côi, người Kitô hữu đang cùng với Mẹ theo sát Chúa Giêsu trên các chặng đường cứu chuộc. Hơn nữa, khi đọc kinh Mân Côi với tâm tình của Đức Mẹ, ấy là lúc chúng ta cùng với Mẹ suy đi và nghĩ lại trong lòng tất cả mọi biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại dưới cái nhìn ân sủng và giá trị cứu chuộc.
1. Lợi ích của việc lần Chuỗi Mân Côi
Nói đến Chuỗi Mân Côi, người ta thường hay nhớ đến những ơn lạ tình thương do lòng thương xót Thiên Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Những ơn đó ta có thể liệt kê ra đây như một dấu tích từ ái của Mẹ dành cho con cái như: những ơn chữa lành bệnh tật, tai qua nạn khỏi, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái thảo hiền. Nhưng có lẽ ơn mà nhiều người được hơn cả, đó là ơn hoán cải đời sống, trở về với Chúa.
Như vậy, cuộc đời của người Kitô hữu luôn gắn bó với Mẹ Maria cách mật thiết, khăng khít và nhiệm mầu.
Điều này đã được chứng minh cách cụ thể nơi tổ tiên chúng ta!
Nhớ lại biến cố Lavang, Trà Kiệu… Những nơi này, khi xưa, cha ông chúng ta đã phải hứng chịu biết bao gian lao khốn đốn do nạn bắt đạo gắt gao của các vua chúa quan quyền. Đời sống đạo của các ngài luôn bị đe dọa. Giữa cơn cuồng phong bão táp, các ngài đã phải trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc hay dồn nén trong nhà thờ… Lúc này, cha ông chúng ta chỉ biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa qua trung gian Mẹ Maria. Vì thế, trên tay không rời Chuỗi Mân Côi, cửa miệng không ngừng vang lên kinh Kính Mừng, tâm hồn hoàn toàn phó thác, cậy trông Mẹ thương cứu giúp… Cuối cùng, Mẹ đã hiện ra để an ủi, củng cố lòng tin, bảo vệ con cái và hứa sẽ nâng đỡ cho khỏi ngàn nỗi hiểm nguy.
Nhìn ra thế giới, chúng ta cũng thấy Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp để Giáo Hội được bình an, trong đó phải kể đến những sự kiện lớn như:
Vào thế kỷ 13, tại niềm Nam nước Pháp, có bè rối Albigeois nổi lên chống đối Giáo Hội. Thấy được mối nguy cơ khó giải này, nên thánh Đaminh đã phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi, cuối cùng, Đức Mẹ đã đưa được những tâm hồn ngông cuồng này trở về với Giáo Hội.
Tiếp đến, vào năm 1571, lúc ấy, Giáo Hội đang bị quân Hồi Giáo đe dọa tiêu diệt. Họ đang sôi sục tiến về Rôma với mục đích bắt Đức Giáo Hoàng Piô V, và tham vọng san bình địa đền đài và biến thủ đô của Giáo Hội trở thành trung tâm của Hồi Giáo.
Họ sẵn sàng chém giết, bắt bớ tất cả những ai chống đối. Thời điểm này, họ rất thuận lợi khi hướng gió và mặt trời luôn ở phía sau họ, khiến cho việc tiến về thành đô Rôma rất thuận lợi.
Khi nghe tin dữ này, Đức Giáo Hoàng rất bình tĩnh, ngài đã xin ơn soi sáng và phát động chiến dịch lần Chuỗi Mân Côi để phó thác mọi sự cho Đức Mẹ. Quả thật, Mẹ đã cứu Giáo Hội một cách nhiệm mầu! Bởi vì quân Hồi Giáo là một quân hùng hậu, vũ khí tối tân, họ đứng về phía chủ động và đang gặp thuận lợi về nhiều mặt. Người Công Giáo thì ít ỏi, thô sơ… Nhưng nhờ sự can thiệp của Đức Mẹ, vì thế, nếu trước đó họ rất thuận lợi bởi hướng gió, nhưng chẳng bao lâu, họ đã bị chính hướng gió xoay chiều đổi hướng liên tục, khiến các con tàu của chúng đâm vào nhau và phá vỡ chiến trận.
Chẳng mấy chốc, tin thắng trận của người Công Giáo đã đến Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tuyên bố, đây là hồng ân phép lạ do lời chuyển cầu của Mẹ Maria. Hôm đó rơi vào đúng ngày 07 -10. Vì thế, ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi được thiết lập để tạ ơn Đức Mẹ.
Có thể nói rằng: trải qua dòng thời gian, đã nhiều lúc Giáo Hội đến bến bờ vực thẳm do lòng đạo đức xuống dốc, suy thoái hoặc bị kẻ thù đe dọa. Trong những thời điểm quan trọng đó, để cứu vãn tình thế, Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi kia để ban cho nhân loại sứ điệp nhằm đưa lịch sử sang trang. Trong các lần đó, không nơi nào Mẹ đặt chân đến mà không mời gọi con cái siêng năng lần Chuỗi Mân Côi để đón nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Như vậy, kinh Chuỗi Mân Côi là một kinh rất có giá trị trước tòa Chúa và Mẹ Maria.
2. Giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi
Tại sao Kinh Mân Côi lại có hiệu lực đến như vậy?
Thưa, rất đơn giản, bởi vì qua lời kinh Kính Mừng, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại lời Sứ Thần ca tụng, tôn vinh và chân nhận uy quyền của Mẹ.
Nhưng có lẽ điều đặc biệt hơn cả khi lần Chuỗi Mân Côi, đó là: chúng ta suy đi nghĩ lại trong lòng mọi biến cố nơi cuộc đời của Chúa Giêsu như Mẹ, đồng thời dõi bước theo Mẹ và cùng Mẹ bước đi trên các chặng đường cứu chuộc của Chúa Giêsu.
Thật vậy, khởi đi từ làng quê Nazareth, chúng ta cùng với Mẹ vui mừng tạ ơn Chúa đã đoái thương đến Mẹ và nhân loại khi chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mẹ sẵn sàng chia sẻ niềm vui cứu độ cho mọi người qua trung gian người chị họ. Niềm vui ấy trở nên tuyệt đỉnh khi Mẹ sinh hạ Con Thiên Chúa.
Sau thời gian Mẹ – Con cùng chung mái nhà, giờ đây, Con của Mẹ ra đi thi hành sứ vụ Chúa Cha trao phó, Mẹ đã âm thầm theo sát Con Yêu như một người môn đệ trung tín. Những lúc vui, thành công, Mẹ luôn luôn âm thầm. Nhưng những khi Con Mẹ bị chống đối, vu vạ, cáo gian, Mẹ đã tìm đến để dõi theo, an ủi, động viên…
Có thể nói, từ làng quê Nazareth đến đỉnh đồi Canvê, Mẹ luôn luôn đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, khi thì trực tiếp, khi thì gián tiếp cách nhiệm mầu. Chính vì thế, Mẹ xứng đáng được Chúa Giêsu ban tặng niềm vui Phục Sinh cùng với các môn đệ trong nhà Tiệc Ly. Sau cuộc đời tại thế, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hồng ân trổi vượt muôn loài, đó là cho Mẹ được diễm phúc thăng thiên cả hồn lẫn xác. Cuối cùng, Thiên Chúa đã tôn phong Mẹ làm Nữ Hoàng Thiên Quốc bên tòa Chúa uy linh.
Như vậy, có thể nói: khi chúng ta lần Chuỗi Mân Côi với trọn lòng mến, chúng ta đã cùng với Mẹ sống Tin Mừng của Con Mẹ cách sống động nhất.
3. Sống sứ điệp Ngày lễ
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ dưới tước hiệu Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy khám phá ra: “Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…” (thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II).
Hơn nữa, chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giáo Hoàng Piô X khuyên nhủ: “Khi gia đình không được an vui hoà thuận, hãy lần Chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng Chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần Chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”. Ngài nói thêm: “Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối”.
Thật vậy, kinh Mân Côi là một vũ khí sắc bén để chống lại ma quỷ. Là liều thuốc hòa bình cho những ai bất an. Là nguồn nâng đỡ cho những ai yếu đuối. Là niềm hy vọng cho những người tội lỗi. Là ngọn lửa mến cho những ai nguội lạnh. Là bảng chỉ đường, ngọn hải đăng cho những ai lạc lối.
Thấy được giá trị và ơn ích của Chuỗi Mân Côi, mỗi người chúng ta hãy siêng năng lần Chuỗi Mân Côi hằng ngày. Tuy nhiên, hãy đọc trong lòng mến chứ không phải đọc cho qua hay bị ép buộc. Đọc trong tâm tình của trẻ thơ phó thác và tin tưởng nơi Mẹ. Đọc trong tâm tình hiệp thông với Giáo Hội, và nhất là đọc trong tâm tình suy đi nghĩ lại trong lòng với chính Đức Mẹ.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Mẹ Maria những hồng ân đặc biệt, để Mẹ phân phát những ơn lành của Chúa cho nhân loại.
Xin Chúa cho chúng con biết vâng nghe lời Mẹ, để đáng được hưởng những ơn lành của Chúa ban qua Mẹ Maria. Amen.
Ngày 21-11
LỄ ĐỨC MẸ DÂNG MÌNH TRONG ĐỀN THỜ
DÂNG MÌNH ĐỂ THUỘC TRỌN VỀ CHÚA
(Dcr 2, 14-17; Mt 12, 46-50)
Trong cuộc sống, khi người ta yêu ai thì đều muốn thuộc trọn về người ấy và mong muốn được làm hài lòng người mà họ thương mến.
Cũng vậy, với Mẹ Maria, ngay từ khi còn nhỏ, song thân của Mẹ đã muốn Mẹ thấm đượm lòng yêu mến Thiên Chúa ngang qua việc dâng hiến người con yêu dấu của mình vào đền thánh và để lưu lại tại đó nhằm phục vụ đền thờ… Vì thế, ngay từ thủa ấu thơ, Mẹ đã ý thức việc dâng hiến trọn vẹn linh hồn và thân xác cho Thiên Chúa là để phục vụ và làm đẹp lòng Người.
Đây cũng là tâm tình mà phụng vụ Giáo Hội muốn làm toát lên trong ngày mừng lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh, để mời gọi con cái của mình noi gương Mẹ mà hiến dâng cuộc đời mình cho Chúa.
1. Lý do Mẹ Maria được dâng hiến cho Thiên Chúa
Vào thời Đức Mẹ, theo truyền thống Dothái Giáo, các trẻ em thuộc gia đình đạo đức thường được cha mẹ đem đến đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ cũng sẵn lòng để con của mình lại đền thờ nhằm phục vụ các tư tế và phục vụ đền thờ.
Về trường hợp Đức Maria, trong 4 Tin Mừng không thấy nói gì đến việc này, nhưng theo truyền thống đạo đức và dựa vào tiền Phúc Âm của thánh Giacôbê, thì từ khi ba tuổi, Đức Mẹ đã được thánh Gioakim và Anna đưa lên đền thánh để dâng mình cho Thiên Chúa và đã để Mẹ lưu lại đó cho tới lúc trọn tuổi mười hai.
Như vậy, đã từ lâu, truyền thống Giáo Hội dạy rằng: ngay từ lúc thiếu thời, Mẹ Maria đã được dâng hiến cuộc đời hiện tại và tương lai cho Thiên Chúa để làm vui lòng Người. Qua đó, với tuổi đời dần dần khôn lớn, Mẹ đã thấu hiểu ý nghĩa và giá trị của việc hiến dâng khi dành trọn cuộc đời của mình để hết tâm phụng sự Thiên Chúa trong ơn gọi độc thân trinh khiết.
Khi dâng mình cho Thiên Chúa như vậy, Mẹ Maria được ví như con thơ trong bàn tay Thiên Chúa, để chỉ vâng nghe và làm theo ý của Người mà thôi. Điều này đã được chính Đức Mẹ thốt lên khi Thiên Sứ truyền tin cưu mang Đấng Cứu Thế: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền” (Lc 1, 38).
Thật vậy, Mẹ Maria đã trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa qua việc trung thành phục vụ Đấng Cứu Thế trong thời gian Ngài sống nơi gia đình Nazareth. Hơn nữa, trong suốt cả cuộc đời Mẹ, Mẹ đã trung thành lắng nghe, tuân giữ và thực thi Lời Chúa cách trọn vẹn.
Quả thật, Mẹ đã có định hướng khi chọn Thiên Chúa làm lý tưởng và lẽ sống cũng như làm chủ cuộc đời mình.
Như thế, Mẹ đã không chỉ dâng một phần, hay một lần, mà dâng hiến liên lỷ và trọn vẹn con người cách toàn thể.
Chính vì điều này mà Thiên Chúa đã không ngần ngại qua miệng sứ thần Gáprien ca khen Mẹ là Đấng Đấy Ân Sủng; là người có phúc hơn mọi người phụ nữ (x Lc 1, 28).
2. Mỗi chúng ta cũng được mời gọi tận hiến cho Thiên Chúa như Mẹ Maria
Từ việc dâng mình của Mẹ Maria, chúng ta cũng được mời gọi dâng hiến cuộc đời của mình cho Thiên Chúa như Mẹ.
Thật thế, nơi cuộc sống của mỗi người, khi đến tuổi trưởng thành, ai ai cũng đều phải có những định hướng và lựa chọn cho cuộc đời. Không có định hướng, cuộc đời sẽ vô định.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cũng cần xác tín và định hướng thật rõ ràng để ta tiến bước mà không sợ sai đường trật lối.
Nói về sự chọn lựa và định hướng của đời sống tâm linh, chúng ta nhớ lại Bí tích Rửa Tội đã lãnh nhận! Khi ấy, mặc dù chúng ta còn nhỏ, nhưng thông qua Giáo Hội và cha mẹ, chúng ta được hòa vào trong sự sống thần linh của Chúa trong Giáo Hội nơi Bí tích Rửa Tội.
Khi ấy, chúng ta thuộc về Chúa, Chúa thuộc về ta, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Rồi khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, ta và Thiên Chúa cùng chung nhau một dòng máu ngang qua Mình và Máu Đức Giêsu mà ta tiếp rước.
Như vậy, ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Khi đã hoàn toàn thuộc về Người như thế, điều quan trọng là chúng ta ngày càng phải xây dựng mối tương quan cho thật tốt.
Những điều ta cần phải xây dựng, đó là yêu mến Thiên Chúa tha thiết. Luôn biết lắng nghe và sẵn sàng thi hành điều Chúa dạy.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã xác quyết rất rõ ràng khi đặt ra cho thính giả một câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (Mt 12, 48). Tuy nhiên, chính Ngài lại là người khẳng định khi chỉ tay vào nhóm người đang lắng nghe mình và nói: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12, 49-50).
Qua câu nói của Đức Giêsu trên đây, Ngài đã minh định và đề cao giá trị của người biết lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.
Như vậy, đối với chúng ta ngày nay cũng có thể nói được rằng: người Kitô hữu đúng nghĩa không phải chỉ mang trong mình cái danh là người Công Giáo, nhưng người Kitô hữu thực chất phải là người mang trong mình tâm tình của Đức Mẹ, đó là: luôn biết lắng nghe, thực hành và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Sứ điệp Lời Chúa và ngày lễ Đức Mẹ dâng mình trong đền thánh hôm nay mời gọi chúng ta hãy dâng hiến cho Thiên Chúa cuộc sống và cuộc đời của mình, để mình thuộc về Chúa và có Chúa làm gia nghiệp.
Mặt khác, hãy trở thành người con hiếu thảo của Thiên Chúa qua việc thực thi Lời Ngài dạy trong cuộc sống hiện tại ngang qua Tin Mừng và các dấu chỉ thời đại.
Cần năng chạy đến với Mẹ Maria để xin ngài thêm ơn trợ lực, để ta được trở thành người Kitô hữu đích thực như lòng Chúa mong ước.
Xin Mẹ cầu thay nguyện giúp để chúng ta biết noi gương Mẹ mà dâng hiến trọn cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, để Thiên Chúa sử dụng chúng ta theo thánh ý Người, ngõ hầu trở thành người hữu ích cho Giáo Hội và phần rỗi của tha nhân. Amen.
NGÀY 08-12
BÀI SỐ 01
LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
HỒNG ÂN VÔ NHIỄM NƠI MẸ MARIA
(St 3, 9-15, 20; Eph 1, 3-6, 11-12; Lc 1, 26-38)
Trong cuộc sống và văn hóa Việt Nam, không ai lại không biết đến cây sen và hoa sen. Hoa và cây sen đã trở nên rất gần gũi với con người Việt Nam, đến độ, nó đã được đưa vào ca dao để mọi người dễ nhớ, dễ thuộc và dễ hiểu:
“Trong đầm gì đẹp bàng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn”.
Lời ca dao thật ý nhị, đã khéo léo dẫn dắt người đọc hiểu được điều thanh tao của loài hoa này.
Tác giả hoàn toàn không dừng lại ở chỗ ca ngợi vẻ đẹp của cây và hoa sen theo nghĩa đen, nhưng người đọc cần phải đi xa hơn để hiểu ý nghĩa tham thúy của tác giả, đó là: ca ngợi con người nông dân Việt Nam suốt ngày chân lấm tay bùn, bình dân học vụ, chẳng khác gì cây sen cắm thân mình vào bùn đất. Ấy vậy mà không bị ảnh hưởng, lây lan mùi hôi tanh của bùn, tức là những tội lỗi, bon chen, tham sân si của cuộc đời. Ngược lại, họ đã sống tao nhã và sáng ngời, làm toát lên vẻ đẹp tiềm ẩn tuyệt mỹ của cha ông luôn tìm cách thoát ra khỏi cái vòng khổ lụy trần ai.
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đây là một lễ rất quan trọng trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa, vì: Mẹ được đặc ân vô nhiễm duy nhất trên trần gian, để cùng với Con Chí Thánh của Mẹ cứu chuộc nhân loại khỏi vòng tội lỗi.
1. Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội
Chính vì để lưu dấu nơi tâm hồn tín hữu, nên ngày 08 tháng 12 năm 1854, Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội qua thông điệp “Ineffabilis Deus”. Tuy nhiên, để xác thực, chính Mẹ Maria đã hiện ra với thánh nữ Bernadetta sau bốn năm kể từ khi công bố tín điều và tái khẳng định rằng: “Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội”.
Khi nói đến ơn vô nhiễm nguyên tội nơi Mẹ, chúng ta nhận thấy rằng: Mẹ Maria chính là bông hoa đẹp và tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa trang điểm cho vườn hoa Thiên Quốc. Nơi Mẹ toát lên vẻ đẹp rạng ngời của một Nữ Tỳ Thiên Chúa. Sự xuất hiện của Mẹ trên trần gian đã làm cho cả thế giới ngưỡng mộ vẻ đẹp dịu dàng, đoan trang, mực thước, bao dung nơi Mẹ. Đến nỗi từ bao đời, trong truyền thống của Giáo Hội đã tuyên xưng vẻ đẹp và ân phúc của Mẹ như: mẹ là Đấng thông ơn Thiên Chúa; tuyền vẹn mọi đàng; chẳng vướng bợn nhơ; rất đáng yêu mến, kính chuộng, ngợi khen; Mẹ có lòng khoan nhân; trung tín thật thà; đền vàng Đavít; hòm bia Thiên Chúa; là cửa Thiên Đàng… Tất cả những ân huệ đó gắn liền với đặc ân cao trọng nhất nơi Mẹ, đó là: Mẹ được trở nên Mẹ Thiên Chúa tạo thiên lập địa qua việc cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế Giêsu. Chính vì vậy mà Mẹ có tài có phép và là tòa Đấng Khôn Ngoan.
Tất cả những điều đó, Thiên Chúa quảng đại ban cho Mẹ để Mẹ xứng đáng trở thành Eva mới, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
2. Hệ quả của ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội
Thật ý nghĩa khi Đức Maria đã được Thiên Chúa tuyển trọn để trở thành Mẹ Thiên Chúa bằng đặc ân vô nhiễm nguyên tội.
Qua lời “Xin Vâng”, Mẹ đã lật lịch sử nhân loại sang một trang mới. Nếu trước đó, lịch sử nhuốm đầy tội lỗi, bợn nhơ, thì từ nay, lịch sử được máu của Con Mẹ rửa sạch.
Thật vậy, từ lúc Mẹ nói lời Xin Vâng, trời với đất giao hòa, và cũng từ lúc đó, Mẹ trở thành Eva mới. Một Eva trong trắng rạng ngời thay cho Eva bất tuân và tội lỗi. Một Eva sinh ra nguồn sống thay cho Eva sinh ra nhân loại trong tội.
Quả thật, lời đón nhận mệnh lệnh của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và ở giữa chúng tôi” (Ga 1,14). Qua việc đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa Làm Người trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã chấp nhận Đấng do Chúa Cha gửi tới, Đấng Cứu Chuộc loài người.
Cũng kể từ đây, lại một lần nữa, kế hoạch yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa lại được tràn ngập trong nhân loại.
Mẹ thật xứng với hồng ân vô nhiễm nguyên tội mà Thiên Chúa tặng ban cho Mẹ. Vì thế, muôn đời và muôn thế hệ sẽ khen Mẹ diễm phúc. Mẹ diễm phúc hơn mọi người phụ nữ. Mẹ xứng đáng muôn người ca ngợi và tán tụng. Mẹ mãi mãi là gương sáng soi chiếu cuộc đời chúng con.
3. Noi gương Mẹ sống lời “Xin Vâng”
Mỗi khi mừng lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta nhớ lại hồng ân ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Lúc đó, ta được thuộc về Chúa, Chúa thuộc về ta. Ta trở nên trong sạch vì đã được tẩy rửa khỏi tội tổ tông. Tâm hồn và cuộc sống của ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự.
Thế nhưng, trong đời sống thực tế, chúng ta đã làm cho tấm áo trắng ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội trở nên phai màu, huyen ố do tham sân si của cuộc đời.
Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hôm nay, chúng ta hãy xin với Mẹ cho chúng ta học được bài học phó thác, cậy trông nơi Thiên Chúa như Mẹ.
Khi đã phó thác và cậy trông tuyệt đối nơi Thiên Chúa, chúng ta có quyền hy vọng Chúa sẽ bảo vệ và tẩy xóa ta sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Ngài sẽ gìn giữ ta như của riêng nơi Ngài.
Mặt khác, chúng ta cũng noi gương Mẹ, sống lời xin vâng trong cuộc đời cách triệt để, ngõ hầu thánh ý Thiên Chúa được nên trọn trong cuộc sống của chúng ta.
Lời xin vâng ấy có thể là một thái độ vâng phục cha mẹ của con cái. Cũng có thể là một lời xin vâng để làm điều thiện mà tránh điều ác. Lời xin vâng ấy còn có thể là một sự hy sinh, hãm mình khi bị chỉ trích, vu khống… nó cũng có thể là một sự khước từ những điều trái khuấy, bê tha…
Sống được như thế, ấy là chúng ta đang làm cho Mẹ được hạnh phúc, và đang trở nên giống Mẹ khi: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Giờ đây, cùng với cả giáo Hội, chúng ta cùng nhau tôn vinh Mẹ:
Kính Chào Mẹ là Sao Bắc Đẩu
Đấng mệnh danh Hiền Mẫu Chúa Trời
Chói lòa trinh khiết gương soi,
Cửa vào cõi phúc tuyệt vời thiên cung.
Khi nhận tiếng “Kính Mừng” vinh dự
Gáp-ri-en thần sứ tặng ban,
Chữ “E-và” Mẹ đảo vần
Thành “A-ve” giữ bình an cho đời.
Xin cởi dây trói người tội lỗi,
Mở mắt ai tăm tối đui mù,
Đuổi xa hoạn nạn rủi ro,
Đổ tuôn hồng phúc tựa hồ mưa sa.
Xin khứng tỏ Mẹ là Từ Mẫu
Chuyển lời cầu đạt tới Hoàng Thiên,
Tòa cao Thánh Tử uy quyền,
Vua Trời Cứu Thế đã nên người trần.
Ôi Trinh Nữ siêu phàm khôn ví,
Ôi hiền hòa tuyệt thế Nữ Trinh,
Cứu đoàn con khỏi tội tình.
Trở nên thanh khiết hiền lành từ đây!
Xin giúp sống chuỗi ngày trong trắng,
Mẹ dẫn đường là chẳng phải lo,
Mai ngày gặp Chúa Giê-su,
Vui mừng hưởng phúc thiên thu chan hòa.
Lạy Thiên Chúa Ngôi Cha từ ái,
Lạy Ngôi Con quảng đại vô lường,
Thánh Thần trải rộng tình thương
Ba Ngôi hiển trị thiên đường quang vinh. Amen.
NGÀY 08-12
BÀI SỐ 2
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM
MARIA – MẸ ĐẦY ƠN PHÚC
(St 3, 9-15; Ep 1, 3-6. 11-12; Lc 1, 26-38)
Kể từ khi Ađam và Evà phạm tội bất tuân với Thiên Chúa, tội lỗi đã xâm nhập vào thế gian, khiến cho bất cứ ai sinh ra từ dòng giống của Ađam và Evà thì đều mang trong mình hệ lụy của tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn có một chương trình nhiệm mầu của Người dành cho kế hoạch cứu độ. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã tuyển chọn một người đặc biệt để cộng tác với Người. Người đó chính là Mẹ Maria. Khi được tuyển chọn để tham gia vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Người đã gìn giữ Mẹ cách tuyệt đối để nên người độc nhất vô nhị không bị vướng mắc tội tổ tông truyền. Vì thế, Mẹ hoàn toàn miễn nhiễm.
1. Kinh Thánh mặc khải về Đấng Đầy Ơn Phúc
Ngay từ trang đầu lịch sử cứu độ, sau khi Tổ Tông loài người sa ngã vì đã nghe theo lời xúi giục của ma quỷ. Thiên Chúa đã không bỏ mặc nhân loại trong sự chết, nhưng Người đã chuẩn bị cho nhân loại một người Mẹ tuyệt vời để thay thế cho những gì đã mất. Người Mẹ đó chính là Đức Maria sau này.
Trong sách Sáng Thế, Kinh Thánh cho biết: sau khi tuyên án, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Qua đó, Người đã mở ra cho con người một niềm hy vọng mới. Lời loan báo ấy được tuyên bố cách trọng thể: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3, 15).
Khi tuyên cáo như thế, Thiên Chúa cho thấy Người đã tuyển chọn một người phụ nữ khác thay thế cho Evà. Nơi người phụ nữ này, từ hành vi, thái độ hoàn toàn khác với Evà.
Nếu Evà đã thuận theo ma quỷ để chống lại Thiên Chúa, phá hoại kế hoạch cứu độ, thì nơi người nữ này, ngài đã cự tuyệt với tội lỗi cũng như trước những cám dỗ của nó. Vì thế, người phụ nữ này đã buông theo ân sủng và hoàn toàn thuận theo ý Thiên Chúa. Chính vì vậy Thiên Chúa đã ban cho người phụ nữ này quyền năng để chiến thắng và cùng thống trị Satan với Người.
Đến thời Tân Ước, những gì đã được tiên trưng trong Cựu Ước nay được ứng nghiệm.
Thật vậy, khi đến thời đã định, Thiên Chúa sai sứ thần Gabrien đến truyền tin cho Đức Maria. Sứ thần đã kính chào Mẹ Maria với một thái độ hết sức kính tôn: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28). Qua cuộc truyền tin này, chúng ta thấy Thiên Chúa đã nêu cao sự trong sạch của Mẹ Maria khi tuyên dương Mẹ là Đấng Đầy Ân Sủng.
Mẹ Maria đã được diễn phúc ấy, nên ngay từ khi truyền tin, Thiên Chúa muốn gọi chính tên Mẹ là Đấng Đầy Ân Sủng.
Quả thật Mẹ Maria đã, đang và mãi mãi được Thiên Chúa ở cùng, vì thế, Mẹ là người ưu tuyển, là Evà mới, nên lẽ tất yếu, Mẹ trở thành người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Từ những đoạn Kinh Thánh trên đây, chúng ta khẳng định chắc chắn rằng: Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội là điều tất yếu, vì Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cùng người thực hiện kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa trên nhân loại.
2. Đặc ân vô nhiễm nơi Mẹ Maria
Khi Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria để cộng tác với Người cách trực tiếp, thì Người không thể không bảo vệ cũng như đổ tràn ân sủng của Người xuống trên Mẹ Maria! Điều này đã được chứng minh cách tỏ tường như:
Mặc dù Kinh Thánh không nói gì về thời kỳ đầu thai cũng như thơ ấu của Mẹ, nhưng theo tương truyền thì Mẹ Maria được sinh ra trong một gia đình đạo đức. Cha mẹ của ngài là bà Anna và ông Gioaan Kim. Mẹ được cưu mang và sinh hạ khi song thân đã cao niên. Ngay từ khi còn nhỏ, Mẹ đã tự nguyện khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phục vụ Người. Tuy nhiên, cuộc đời của Mẹ sang trang để thay vào ý mình bằng ý Chúa qua việc đón nhận lời sứ thần thừa lệnh Thiên Chúa truyền tin cho Mẹ sẽ mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế. Từ khi đón nhận lời “Xin Vâng” lịch sử ấy, Mẹ đã đi vào cuộc đời của Đức Giêsu như hình với bóng. Cuộc sống của Mẹ là của Đức Giêsu. Vui buồn, thành công hay thất bại của Đức Giêsu cũng là của Mẹ. Vì thế, Mẹ luôn đồng hành với Con yêu của mình từ thời ấu thơ, đến khi ra đi loan báo tin mừng và ngay cả dưới chân thập giá trên đồi Canvê. Cuối cùng, Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ cả hồn lẫn xác trên Thiên Quốc và được tuyên dương là Nữ Hoàng Thiên Quốc.
Quả thật, cuộc đời Mẹ ân sủng ngập tràn. Mẹ trở thành người có phúc và xứng đáng để thay thế cho Evà cũ. Nếu Evà đã bất tuân Thiên Chúa và đi vào ngõ cụt của tội lỗi, gieo rắc sự tội và chết chóc cho con người, thì nơi Đức Maria, Ngài đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa và cưu mang nguồn sự sống nơi mình, nên ngang qua việc cưu mang, hạ sinh và gắn bó với Đức Giêsu là nguồn sự sống, Mẹ đã sinh chúng ta ra trong ân sủng của Người.
Thánh Phaolô đã trình bày hệ quả mà Evà để lại, ngài nói: “Nếu một người đã đem tội vào thế gian, và theo sau sự tội, là sự chết, vì thế, mọi người phải chết vì mọi người đã phạm tội.”…”vì tội một người mà sự chết do người ấy gây nên, đã thống trị loài người “… “vì một người không vâng lời, nên đã làm cho mọi người mắc tội” (x. Rôma 5,12-19 ).
Khi Đức Maria xuất hiện, Mẹ đã đi ngược lại với lựa chọn của Evà khi vâng lời Thiên Chúa cách tuyệt đối. Vì thế, Mẹ đã trở thành người cưu mang Cây Sự Sống là chính Đức Giêsu.
Như vậy, việc Thiên Chúa ân thưởng Mẹ để Mẹ trở thành người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ là lẽ đương nhiên. Khi ban cho Mẹ đặc ân này, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ hưởng nếm trước sự viên mãn tròn đày của NướcTrời, bởi vì từ cung lòng Mẹ đã “được đầy Ơn Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế là Con mình một cách đặc biệt, Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ mình, không mắc tội tổ tông truyền”. Đây chính là trọng tâm của tín điều mà Đức Giáo Hoàng Piô IX long trọng tuyên bố năm 1854 cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải tin để cho được rỗi linh hồn.
3. Đặc ân vô nhiễm nơi Mẹ Maria và cuộc đời chúng ta
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Giáo Hội mời gọi con cái của mình hãy cùng với chính Mẹ Maria tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã làm cho Mẹ những điều vĩ đại.
Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng quyền uy cao trọng, là Đấng làm chủ muôn loài muôn vật và là tác giả của mọi loài thọ sinh. Tuy nhiên, dù quyền năng, Thiên Chúa cũng không thể tác tạo một Maria thứ hai như Mẹ; dù lòng thương xót của Thiên Chúa có vô bờ vô bến, thì Người cũng không thể ban một ơn nào cao trọng hơn ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội mà Người đã ban cho Mẹ Maria.
Với những ơn cao trọng đặc biệt đó, Giáo Hội mời gọi người tín hữu hướng về Mẹ Maria như là một mẫu gương tuyệt vời cho đời sống thánh thiện của mình.
Trước hết, chúng ta nhìn lên Mẹ là mẫu gương của việc vâng phục, trung thành và gắn bó trọn đời nơi Thiên Chúa.
Thứ đến, đó là gương khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường này chúng ta nhận thấy rõ khi Mẹ thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Cuối cùng, Giáo Hội mời gọi con cái mình hướng về Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phúc và năng chạy đến với Mẹ trong tâm tình con thảo, để xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta được biết can đảm lướt thắng mọi cám dỗ của ba thù, ngõ hầu tâm hồn và thân xác chúng ta xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa ngự.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một người Mẹ trổi vượt trên muôn loài thọ tạo. Xin Chúa thương nhận lời Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là Mẹ của mọi người cầu thay nguyện giúp, mà ban cho chúng con biết yêu mến và bảo vệ đức trong sạch theo bậc sống của mình, để xứng đáng trở nên con Thiên Chúa, nhất là xứng đáng được Chúa ngự vào lòng chúng con qua Bí Tích Thánh Thể mà lát nữa đây chúng con sẽ tiếp rước. Amen.
NGÀY 08-12
BÀI SỐ 03
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
ƠN VÔ NHIỄM – ƠN ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ
(St 3, 9-15. 20 ; Ep 1, 3-6. 11-12 ; Lc 1, 26-38)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Khi quyết định công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội và thiết lập lễ này trong toàn thể Giáo Hội, Phụng vụ Giáo Hội muốn làm toát lên sự trinh nguyên nơi Mẹ Maria, đồng thời cũng muốn làm nổi bật sự độc nhất vô nhị trong nhân loại qua ơn vô nhiễm nguyên tội nơi Mẹ.
1. Cơ sở để Giáo Hội tuyên tín Đặc Ân Vô Nhiễm nơi Mẹ Maria
Khi Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín điều này, ngài không chỉ dựa vào sự đạo đức thuần túy, nhưng còn đi xa hơn khi lấy Kinh Thánh làm kim chỉ nam soi dẫn, nhằm khám phá ra mặc khải của Thiên Chúa trên điều mà mình tuyên bố.
Khởi đi từ đoạn Kinh Thánh trong sách Sáng Thế:
Sau khi Ađam và Evà nghe theo lời dụ dỗ của ma quỷ để phạm tội bất tuân chống lại Thiên Chúa, nên cũng từ đấy, con người mất đi phần phúc thủa ban đầu và không còn mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì yêu thương, Thiên Chúa không nỡ để con người trầm luân trong tội và phải chết, vì thế, Người đã hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người khỏi tay ma quỷ và sự chết do tội mang lại qua lời tuyên phán: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Người Nữ mà Thiên Chúa muốn nói ở đây chính là Đức Trinh Nữ Maria sau này.
Đến thời Tân Ước, biến cố truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria đã kiện toàn những gì đã được tiên báo trước đó.
Theo lời thiên sứ Gabriel khi truyền tin cho Đức Maria, Thiên Chúa muốn cho vị thiên sứ làm nổi bật 3 điểm trọng tâm để nói lên đặc ân vô nhiễm nơi Mẹ.
Thứ nhất là lời chào: “Kính chào bà Đầy ơn Phúc”. Đây là cách diễn tả sự tinh tuyền trinh nguyên không tỳ tích nơi Mẹ.
Thứ hai là lời tuyên bố ân sủng của Thiên Chúa trên Mẹ cách đặc biệt: “Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đây là lối nói Mẹ thuộc về Thiên Chúa và được Ngài yêu thương, gìn giữ cách nhiệm mầu. Khi Mẹ thuộc về Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, thì đương nhiên, Mẹ không thể mắc chút bợn nhơ.
Thứ ba là lời tôn vinh: “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”. Xác tín này cho thấy, Mẹ Maria trổi vượt trên muôn người và trở thành người độc nhất vô nhị trên trần gian được hưởng đặc ân này.
Kinh Thánh còn cho biết thêm, đó là: sau khi nhận lãnh vai trò làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa, Mẹ Maria đã lên đường viếng thăm chị họ là bà Êlizabéth. Khi vừa tới nơi, bà Êlizabéth được đầy tràn Thánh Thần nên đã thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 42-45).
Dựa vào những mặc khải trên, nên ngày 8 tháng 12 năm 1854, trong thông điệp “Ineffabilis Deus”, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã công bố Đức Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Ngài nói: “Ta tuyên xưng, công bố và xác quyết rằng tín điều này đã được Thiên Chúa mặc khải và vì thế phải được mọi tín hữu tin nhận cách chắc chắn, không được rút lại. Cụ thể, tín điều này xác quyết rằng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria ngay từ giây phút đầu tiên được tượng thai – nhờ ân ban và đặc sủng vô song Thiên Chúa toàn năng ban cho và nhờ công trạng của Đức Giêsu Kitô – đã được gìn giữ khỏi mọi vương vấn nguyên tội”.
Như một sự xác quyết để minh định sự vô nhiễm nơi Mẹ, nên lần hiện ra với thánh nữ Bernadette ở Lộ Đức năm 1858, Mẹ đã tự xưng mình là “Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Với tất cả những gì đã dẫn chứng trên đây, chúng ta hiểu được rằng: “Việc tiền định cho Đức Maria được vô nhiễm nguyên tội là điều tất yếu. Chính vì thế, Thiên Chúa đã chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Người đã ban cho Mẹ nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy” (x. Giáo Lý HTCG, số 490). “Mẹ đã được hoàn toàn gìn giữ khỏi tỳ ố của nguyên tội ngay từ lúc tượng thai trong lòng thân mẫu, và suốt cả đời, Mẹ vẫn luôn tinh tuyền không phạm tội riêng nào” (x. Giáo Lý HTCG, số 508; 506).
Như vậy, Thiên Chúa đã quyết định dùng con đường gìn giữ, bảo vệ Mẹ Maria khỏi mọi vết nhơ, trở nên Đấng Vô Nhiễm để lãnh nhận vai trò Thân Mẫu Đấng Cứu Thế.
Còn với chúng ta, mỗi người cũng được Thiên Chúa hoạch định cho mình một con đường cứu chuộc, con đường đó là chữa trị.
2. Sứ điệp ngày lễ
Điều này dễ hiểu, vì khi sinh ra, chúng ta đã mắc phải tội Tổ Tông, vì thế cần phải được chữa trị ngang qua Bí tích Rửa Tội. Hơn nữa, vì mang trong mình thân phận yếu đuối và luôn hướng chiều về sự tội như lời thánh Phaolô đã nói: “Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7, 15), thế nên, chúng ta luôn luôn cần đến ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa để Ngài chữa trị cho mỗi chúng ta. Điểm này, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã nói rõ: “Khi ban sự sống trong ân sủng của Chúa Kitô, phép Rửa Tội xoá sạch tội Nguyên Tổ và đưa con người về với Thiên Chúa, nhưng những hậu quả của một bản tính đã bị yếu đi và nghiêng về sự ác, sẽ vẫn tồn tại nơi con người, và con người được kêu gọi hãy sẵn sàng cho cuộc chiến đấu tinh thần” (x. Số 405); “Cuộc chiến đấu này đã khởi sự từ nguyên thuỷ và sẽ kéo dài cho đến ngày sau hết. Dấn thân vào trận chiến này, con người phải luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện. Phải cố gắng nhiều, và với ân sủng của Chúa, con người sẽ thực hiện được sự thống nhất nội tâm của mình” (x. Gl HTCG số 409).
Chính vì điều này, mà sứ điệp ngày lễ hôm nay nhắc cho chúng ta ý thức sự mỏng giòn của thân phận con người để cố gắng chiến đấu.
Đồng thời, luôn luôn mời gọi chúng ta cần tránh xa những xu hướng tội lỗi cũng như những hành vi tội lỗi dù trong tư tưởng, lời nói hay việc làm.
Muốn chiến thắng được những đam mê tội lỗi và những yếu đuối của bản năng nơi mỗi người, chúng ta không có cách nào khác, đó là kết hiệp mật thiết với Chúa như Mẹ Maria trong việc lắng nghe, suy niệm cũng như tuân giữ Lời Chúa, để có một đời sống nội tâm sâu xa và nhạy bén với sự thiện. Siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Giao Hòa và Thánh Thể.
Khi noi gương Mẹ Maria, chúng ta có quyền tin tưởng nhờ đặc ân vô nhiễm nơi Mẹ, chắc chắn sẽ được Thiên Chúa thương nhận lời và ban ơn, để chúng ta chiến thắng ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng. Chúng con xin ca ngợi điều kỳ diệu mà Chúa đã làm nơi Mẹ Maria, đó là cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Xin Chúa thương nhận lời Đức Mẹ chuyển cầu, mà ban cho chúng con những ơn cần thiết cho phần hồn cũng như phần xác, để chúng con chiến đấu với những cám dỗ trong cuộc sống hằng ngày, ngõ hầu được trung thành với Chúa trọn vẹn như Mẹ Maria khi xưa. Amen.
NGÀY 12 – 12
LỄ ĐỨC MẸ GUADALUPE
MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC MẸ YÊU THƯƠNG
(Bài đọc lấy phần chung về Đức Mẹ)
Trải qua suốt dòng lịch sử nhân loại, chúng ta thấy đã có rất nhiều lần Đức Mẹ hiển linh để tỏ lòng yêu thương con người cách đặc biệt. Biến cố Đức Mẹ hiện ra tại ngọn đồi có tên là Tepeyac gần Mexico City với một người thổ dân nghèo, tên là Juan Diego và mặc khải danh tính của Mẹ là “Đức Bà Guadalupe” đã chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng biến cố đặc biệt này để tôn vinh và khám phá ra tình yêu thương dạt dào của Mẹ Maria qua tước hiệu “Đức Bà Guadalupe”.
1. Lịch sử
Vào năm 1531, có một người thổ dân nghèo 57 tuổi, góa vợ và sống đơn thân tại một ngôi làng nhỏ gần thành phố Mexicô. Người đàn ông đó có tên là Juan Diego. Ông là một người đạo đức và có lòng tôn kính Đức Mẹ cách đặc biệt. Vì thế, vào một buổi sáng thứ bẩy, ngày 09 tháng 12, năm 1531, ông đến nhà thờ gần đó để tham dự lễ kính Đức Mẹ.
Tuy nhiên, khi đi ngang qua ngọn đồi Tepeyac, ông bỗng nghe thấy tiếng nhạc du dương đến kỳ lạ! Tiếp theo sau đó là một đám mây sáng chói xuất hiện, và người đứng trên đám mây ấy chính là một Trinh Nữ, hình dạng như người thổ dân và y phục thì rất giống công chúa của bộ tộc Aztec.
Vẫn còn đang ngỡ ngàng và rất nhiều thắc mắc về Trinh Nữ này! Thì kìa, Trinh Nữ đã chủ động tiến lại gần hơn và nói chuyện với ông bằng tiếng thổ dân của bộ tộc Aztec. Đồng thời, truyền cho ông hãy đến nói với đức giám mục của Mexico một thông điệp, đó là: yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.
Tuy nhiên, không thể dễ dàng để tin vào một chuyện lạ lùng này qua một người dân bình thường, vì thế, đức giám mục đã truyền cho ông Juan Diego trở lại đó và xin một dấu lạ để làm chứng cho điều ông nói là sự thật.
Thấy vậy, ông Juan Diego đã ra đồi gần chỗ Trinh Nữ hiện ra để hái những bông hồng tươi thắm giữa cả một rừng hoa hồng mơn mởn trổ hương, mặc dù ai cũng biết lúc này là mùa đông, nên không thể có bất kỳ thứ hoa nào!
Ông đã ngắt những bông hoa đẹp nhất và đựng chúng vào trong áo đi mưa để mang đến cho đức giám mục. Khi đến nơi, ông đã mở ra và cho đức giám mục xem. Ngay lập tức, hoa hồng rơi tràn ngập, và điều kỳ diệu nữa, đó là trên chiếc áo đi mưa bọc hoa lại xuất hiện hình Trinh Nữ và có chữ “Ðức Bà Guadalupe”.
2. Sứ điệp của “Đức Bà Guadalupe”
Khi Đức Mẹ hiện ra với ông Juan Diego, ngoài việc cho ông thấy những dấu lạ và bày tỏ ước muốn xây một nhà nguyện ngay trên đồi Tepeyac, cùng lúc, Đức Mẹ còn mặc khải sứ điệp cho ông, để qua ông, được lan truyền cho toàn thể nhân loại.
Nội dung sứ điệp đó là: Đức Mẹ mặc khải về Mẹ là Đức Nữ Trinh Maria Rất Thánh và Hoàn Hảo, là Mẹ của Thiên Chúa thật, là Đức Bà Guadalupe… Tiếp đó, Mẹ muốn xây dựng một ngôi nhà nguyện dành cho Mẹ tại đồi Tepeyac. Từ nơi đây, Mẹ sẽ trình bày về Thiên Chúa cho mọi người, để mọi người được biết và tôn thờ cũng như tán dương Thiên Chúa.
Cũng tại nơi đây, Mẹ sẽ dâng tất cả mọi người với những nỗi lòng của họ lên Thiên Chúa… đồng thời, Mẹ cũng hứa sẽ ban ơn cho những ai đau khổ đến cầu khẩn Mẹ tại nơi này.
Trên đây chính là nội dung sứ điệp bằng lời nói mà Mẹ Maria ban tặng cho nhân loại qua ông Juan Diego.
Ngoài sứ điệp bằng lời, Đức Mẹ còn mặc khải tình thương của Thiên Chúa cách đặc biệt khi hình dạng của Mẹ lúc hiện ra là một phụ nữ đang mang thai.
Hình ảnh này công bố một sứ điệp của Tin Mừng, đó là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ngài chính là Emmanuel, để qua đó, chúng ta biết đón nhận Ngài với cả tấm lòng yêu mến thì sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong tình yêu của Thiên Chúa.
Như vậy, qua sứ điệp bằng lời nói và hình ảnh, Đức Mẹ cho chúng ta thấy: Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn yêu thương hết mọi người, không phân biệt màu da, sắc tộc hay truyền thống, văn hóa… các Ngài yêu thương và ôm ấp mọi dân tộc, mọi hạng người vào trong trái tim của mình. Thiên Chúa và Mẹ Maria luôn đứng về phía người nghèo, thấp cổ bé miệng để bảo vệ và nâng đỡ họ. Không những thế, chính Chúa và Mẹ cũng đã tự đồng hóa mình với người nghèo, đau khổ, để đem lại cho họ niềm hy vọng.
Chính vì sứ điệp này được lan tỏa cách rộng rãi, nên nơi dân làng này đã được bình an và mọi người biết thương yêu nhau. Họ tin vào Chúa và Mẹ. Họ xin được trở thành Kitô hữu qua Bí tích Rửa Tội để phụng thờ Thiên Chúa và tôn vinh Đức Maria. Điều mà trước đó đối với họ là không thể xảy ra…!
3. Sống sứ điệp “Đức Bà Guadalupe”
Mừng lễ “Đức Bà Guadalupe” hôm nay, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy khám phá ra sứ điệp lời nói và hình ảnh của Đức Mẹ, để qua đó, biết áp dụng vào trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Nếu việc Đức Trinh Nữ Maria hiện ra với ông Juan Diego qua diện mạo là một thiếu nữ thổ dân đang mang thai, để mặc khải cho ông và bộ tộc cũng như đất nước ông hiểu rằng: Mẹ yêu thương hết mọi người và thai nhi trong bụng Mẹ chính là Đức Giêsu, Đấng là Emmanuel, đã đến để ở cùng và sống với nhân loại, nhằm cứu chuộc hết mọi người.
Mặt khác, Mẹ cũng muốn mặc khải cho mọi người hiểu rằng: cuộc đời của Mẹ luôn luôn có Chúa, và Chúa luôn luôn kết hiệp mật thiết với Mẹ để yêu thương nhân loại.
Hôm nay, Mẹ cũng dạy cho chúng ta biết rằng: dù chúng ta có là ai, dẫu là một người nghèo hèn, dốt nát và tội lỗi, hay là một người chân lấm tay bùn, hoặc là một người bị loại ra bên lề xã hội, bị mọi người coi dẻ và khinh khi, thì trước mặt Mẹ, chúng ta vẫn là một con người được Mẹ thương yêu và sẵn sàng nâng đỡ mọi nơi. Đồng thời, Mẹ luôn mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Đức Giêsu, vì chỉ có Ngài mới cứu chuộc được nhân loại mà thôi. Hãy sống tinh thần nghèo khó, hiền lành, cùng nhau xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và tình thương. Cụ thể, đó là đứng về phía người nghèo, người vô gia cư, người bị đàn áp, bắt bớ, bóc lột… người bị loại ra bên lề xã hội… người ốm đau, bệnh tật… để bảo vệ và đỡ nâng họ, nhằm giúp họ có một cuộc sống tốt hơn và chứa chan tình huynh đệ, ngõ hầu qua đó, họ nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và tin thờ Ngài.
Tiếp theo, sứ điệp tín lý mà Mẹ Maria còn muốn nhắm tới nữa, đó là: qua Mẹ để chúng ta đến với Chúa. Nhờ Mẹ để lời cầu nguyện của chúng ta xứng đáng được Chúa nhận lời.
Tránh tình trạng chỉ chạy đến cầu khẩn với Mẹ mà quên bổn phận và cốt lõi của chúng ta là phải tôn thờ Thiên Chúa. Điều đẹp lòng Chúa và Mẹ nhất, đó là chúng ta hãy cùng Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, hướng sự tôn thờ, tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Guadalupe, xin Mẹ cho chúng con biết yêu mến và đón nhận sứ điệp tình yêu của Mẹ, để chúng con sống đẹp lòng Chúa và tôn kính Mẹ cho phải đạo, đồng thời biết yêu thương anh chị em chúng con bằng tình yêu chân thành. Amen.
PHỤ LỤC:
Lịch sử, ý nghĩa và lòng tôn kính Đức Mẹ trong Tháng Năm
Có lẽ, không một ai trên Đất Việt là người Công Giáo mà lại không biết đến tháng Năm là tháng Hoa dâng kính Mẹ.S
Thật vậy, sinh hoạt tôn giáo tại các giáo xứ từ Bắc –Trung –Nam, cứ mỗi dịp tháng Năm về, ấy là lúc muôn con tim dạo rực hướng về Mẹ Maria như một ngọn hải đăng để tỏ lòng tôn kính, mến yêu.
Trong số vô vàn cách tỏ bày lòng tôn kính đối với Đức Mẹ nơi con dân Nước Việt, thì lòng đạo đức bình dân như: dâng hoa kính mẹ; rước kiệu Mẹ; lần chuỗi Mân Côi; rồi những bài thánh ca hết sức dễ thương được cất lên để ton vinh Mẹ là Nữ Hoàng Thiên Quốc.
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào tháng Hoa. Tháng Hoa đối với Giáo Hội Công Giáo mang một ý nghĩa đặc biệt vì nó được dành riêng để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.
Trước tiên, xin được khởi đi từ lịch sử của tháng Hoa, để thấy được diễn tiến của Giáo Hội trong việc sùng kính này.
1. Gốc tích tháng Hoa
Mới đây, dịp phong thánh cho hai vị Chân Phước Giáo Hoàng Gioan 23 và Gioan Phaolô 2 vừa qua tại Rôma, qua màn hình trực tiếp, chúng ta đều thấy thời tiết không còn lạnh lắm qua cách ăn mặc của người dân khắp nơi đổ về. Thời tiết lúc này bên Rôma cũng giống như khí tiết của ViệtNam tại các vùng Bắc Bộ. Khí hậu lúc này không còn rét đậm rét hại, cái rét mà nhiều người diễn tả: “rét cắt da cắt thịt”. Vì thế, cây cối trơ trụi và không phát triển là bao.
Từ những nét đặc trưng của khí hậu như thế, nên ngay từ những thế kỷ đầu, tại Rôma, thời điểm này, người ta tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên, bằng những cuộc rước linh đình để tôn kính Hoa là nữ thần của mùa Xuân.
Người Công Giáo thời điểm đó đã tôn giáo hóa ý nghĩa này và thánh hóa tập tục đó bằng cách rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng tốt tươi…
Ở nhiều nơi, người ta rước những cành lá có nụ, có hoa ở đầu cành, gọi là “Rước xanh”. Những cành hoa, lá, được đưa về nhà thờ trang trí và nhất là nơi ngai tòa Mẹ Maria.
Đối với các nghệ nhân, thì họ đua nhau điêu khắc hay vẽ những bông hoa thật đẹp để tôn lên vẻ đẹp kiều mỹ của Mẹ trên các bức tranh hay trên vách tường…
Còn các nghệ sĩ thì sáng tác những bài hát mang đượm lòng tôn kính. Các bài giảng về Mẹ cũng được soạn ra để cùng nhau sử dụng hầu bày tỏ lòng tôn kính.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã khởi xướng việc trang hoàng hoa muôn sắc chung quanh tượng Mẹ.
Còn thánh Philiphê Nêri, vào ngày 01 tháng 05, đã quy tụ các trẻ em lại quanh bàn thờ Mẹ, và hướng dẫn các em dâng lên Mẹ những bông hoa tươi sắc. Ngài cũng dâng lên Mẹ những đóa hoa lòng còn trong trắng đơn sơ để Mẹ dìu dắt các em.
Sang thế kỷ thứ 17, việc dâng hoa kính Mẹ được cử hành trong toàn dòng các nữ tu kín Clara. Mỗi chiều đều vang lên những bài hát kính Đức Mẹ. Từ đó, dần dần được lan rộng ra bên ngoài nơi các xứ đạo lân cận.
Đầu thế kỷ 19, việc tôn kính Mẹ được lan rộng nhiều nơi. Các nhà giảng thuyết đã có những bài giảng suất sắc về Mẹ. Linh mục Chardon là người có công nhiều nhất trong việc phổ biến lòng đạo đức này. Thời điểm trên, lòng tôn kính Mẹ được cử hành rầm rộ nhất là tại nước Pháp và một số nước lân cận.
Các Đức Thánh Cha được coi là gắn bó đặc biệt với Đức Mẹ, đó là: Đức Thánh Cha Piô VII, đã cổ võ việc sùng kính Mẹ vào tháng Năm. Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này. Và, đến thời Đức Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, đã thêm vào và có tính khuyến khích cao: “Việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.
Đầu thế kỷ 20, Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ được Đức Phaolô VI ban hành, trong đó có đoạn viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công Giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số 1).
Tháng 10 năm 2002, chuẩn bị mừng 25 năm Giáo Hoàng của đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngài gửi đến mọi thành phần dân Chúa bức Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi” về Kinh Mân Côi, lặp lại xác tín và lòng yêu mến Đức Mẹ. Và dịp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2003, ngài chỉ muốn nhắc lại xác tín này là “Hãy cùng với Đức Maria mà chiêm ngắm, bước theo và sinh Chúa Giêsu cho những người đồng thời với mình”.
Ngài cũng đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ:
– Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ”, công bố ngày 25.3.1987, để chuẩn bị Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc ngày lễ Mông Triệu năm 1988.
– Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi”, công bố ngày 16.3.2002.
Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003).
Như thế, việc tôn sùng Đức Mẹ không tách rời mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, mà Mẹ được ví như máng chuyển ơn của Người xuống cho nhân loại.
Lược qua một chút về lịch sử tháng Hoa, cũng như những hướng dẫn về lòng tôn sùng Đức Mẹ, chúng ta cùng tiếp tục tìm hiểu thêm về ý nghĩa của tháng này.
2. Ý nghĩa của tháng Hoa
Mẹ Maria cũng được ví như Người Nữ tuyệt vời, đẹp nhất trong muôn ngàn phụ nữ, Mẹ đẹp tâm hồn, Mẹ đẹp thân xác. Vì thế, nơi hoa tỏa ra mùi thơm ngào ngạt, tượng trung cho các nhân đức nơi Mẹ. Đồng thời, những sắc màu của hoa tượng trưng cho Mẹ là Mẹ muôn loài khi đón nhận vai trò làm Mẹ Thiên Chúa.
Đức Mẹ còn được ví như Hòm Bia của Thiên Chúa, mà hoa lại là vật được dùng để trang trí cho Hòm Bia Giao Ước thời Cựu Ước. Như thế, Đức Mẹ luôn ở bên Thiên Chúa. Và hoa lại ở bên Mẹ…!
Hẳn chúng ta còn nhớ, trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Môsê làm những nụ và cánh hoa để trang trí nơi cây đèn 7 ngọn đặt trước Hòm Bia Giao Ước. Hay như Salomon, ông đã ra lệnh cho nghệ nhân điêu khắc những cánh hoa bên trong và bên ngoài để trang trí nơi Cực Thánh trong đền thờ.
Bắt nguồn từ đó, hoa trong phụng vụ hay truyền thống của người Công Giáo luôn được coi trọng. Nó được dùng để trang hoàng cung thánh, bàn thờ hay để tỏ lòng tôn kính với các vị thánh, đặc biệt là Đức Mẹ. Tức là hoa được dùng vào vị trí trang trọng trong đời sống phụng vụ của Giáo Hội.
Mẹ Maria được ví như bông hoa thơm ngát trước tòa Chúa, nhưng trước đó Mẹ cũng là những con người rất đỗi bình thường như bao người phụ nữ khác. Tuy nhiên, được Thiên Chúa tuyển chọn, và qua tiếng “Xin Vâng” nên Mẹ đã trở nên tuyệt mỹ hơn muôn ngàn phụ nữ. Mẹ đã trở nên đóa hoa thơm ngát trước Ngai Thiên Chúa. Mẹ đã trở nên đóa hoa độc nhất vô nhị của thế giới loài người. Tại sao lại như thế, thưa chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và như một sự tất yếu, Mẹ là Mẹ loài người.
Nhờ ơn Chúa, Mẹ đã trở nên đóa hoa kiệt tác như: ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn đồng trinh trọn đời, Mẹ Thiên Chúa, Hồn xác lên trời và Mẹ như “hoa hường mầu nhiệm vậy”.
3. Ý nghĩa của việc dâng Hoa kính Mẹ
Tại sao lại dâng hoa mà không dâng những thứ khác? Thưa! Rất đơn giản, vì hoa là thứ đẹp nhất trong mọi loài Chúa dựng nên, chẳng thế mà Đức Giêsu đã ví sự lộng lẫy, tươi đẹp của hoa còn hơn cả vua Salomon: “Chúng con hãy xem hoa huệ ngoài đồng. Chúng không canh cửa, không xe dệt, thế mà Thầy bảo cho chúng con biết, ngay cả Vua Salômôn dù vinh hoa tột bậc, cũng không thể mặc đẹp bằng một bông hoa ấy”.
Các nhà thờ thường hay tổ chức dâng hoa kính Mẹ, lúc này, mỗi màu hoa lại tượng trung cho một nỗi lòng của con cái muốn dâng lên Mẹ, hay ca ngợi một nhân đức nào đó của Mẹ. Như vậy, Hoa biểu trưng cho lòng Mẹ và cũng là biểu trưng của lòng con người:
Hoa huệ trắng biểu trưng sự trong sạch khiết trinh nơi Mẹ;
Hoa hồng diễn tả lòng mến nồng nàn mà Mẹ dành cho Chúa;
Hoa lan toát lên sự trung thành, mạnh mẽ và can đảm nơi Mẹ;
Hoa sen tượng trưng phó thác, đại lượng và cung kính nơi Mẹ;
Hoa có màu tím tượng trung cho sự khiêm tốn …
Người Việt Nam chúng ta khi biết ơn ai, hoặc kính trọng ai, thường hay biểu cảm qua bó hoa hay bông hoa. Cũng vậy khi đón nhận được ơn lành từ Trên ban, người ta cũng dâng tạ bằng những bông hoa. Với người Công Giáo, những biến cố quan trọng trong đời sống đức tin như: khi Rửa tôi; Thêm Sức; lãnh nhận Hôn Phối; hay Truyền Chức thánh, người ta cũng tặng hoa cho những người được mừng, và ngay cả khi chết, người ta cũng biểu đạt bằng hoa trên quan tài, bên di ảnh hay nơi mộ phần. Hay khi gặp rủi ro, tai nạn, bệnh tật, khi hết bệnh, người ta cũng dâng hoa để tỏ làng biết ơn với Thiên Chúa, Đức Mẹ và các thánh…
Riêng với Đức Mẹ, người dân Việt Nam có lòng sùng kính đặc biệt. Từ khắp nơi, mọi thành phần, lứa tuổi, đều hân hoan, nô nức dâng kính Mẹ những đóa hoa tươi thắm mối dịp tháng Năm về.
Tuy nhiên, hoa được dùng để qua đó, diễn tả hoa thiêng cõi lòng của con người. Hoa sẽ tàn phai, héo úa, lòng người cũng sẽ tàn phai và ủ rũ nếu không đón nhận được sứ điệp từ những việc đạo đức này.
Vì thế, điều quan trọng chính là tấm lòng chân thành, đơn sơ, yêu mến, phó thác, cậy trông của mỗi chúng ta dành nơi Mẹ. Như thế, nhờ những cách hoa lòng, chúng ta sẽ được nâng tâm hồn lên với Mẹ để Mẹ đón nhận và bầu chữa cho chúng ta. Thật vậy, không một ai có lòng tôn kính Mẹ mà mất ơn cứu rỗi bao giờ.
4. Lòng sùng kính Đức Mẹ đem lại hy vọng được sự sống đời đời
Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Trong nhiệm cục ân sủng, kể từ khi Mẹ tin tưởng ưng thuận trong ngày truyền tin, sự ưng thuận mà Mẹ đã kiên quyết giữ trọn cho đến bên Thập Giá. Đức Maria tiếp tục thiên chức làm Mẹ cho tới lúc vĩnh viễn hoàn tất việc cứu độ mọi người được tuyển chọn. Thực vậy, sau khi về trời, vai trò của ngài trong việc cứu độ không chấm dứt, nhưng ngài vẫn tiếp tục liên lỉ chuyển cầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ giúp chúng ta được cứu độ đời đời …. Vì thế, trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ được kêu cầu qua các tước hiệu: Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian” (LG 62).
Vì Mẹ là Mẹ của Đầu thân thể mầu nhiệm Hội Thánh là chính Đức Giêsu và là “mẹ của nhân loại”(x. LG 54), và, Đấng Cứu Thế đã mang lấy đau khổ của mọi người thì Mẹ Maria, Đấng đồng công cứu chuộc, đã chia sẻ hơn ai hết các hậu quả tai ác của tội lỗi nhân loại khi đảm nhận sứ mệnh làm Mẹ Đấng Cứu Thế: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra” (Lc 2, 35).
Tuy nhiên, vai trò Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Đấng Phù Hộ và Đấng Trung Gian của Đức Mẹ phải gắn liền với Đức Giêsu Đấng là khơi nguyên và cùng đích của mọi điều thiện hảo.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cung minh định: “Trinh nữ Maria được công nhận và tôn kính là Mẹ đích thực của Thiên Chúa và của Đấng Cứu chuộc… Mẹ cũng thật sự là ‘Mẹ các chi thể Chúa Kitô’… vì Mẹ đã cộng tác bằng đức ái của mình vào việc sinh ra các tín hữu trong Hội Thánh, là những chi thể của Đức Kitô là Đầu. Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô, là Mẹ của Hội Thánh” (x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 963).
Việc sùng kính Đức Maria còn bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi vì: nhờ Người, với Người và trong Người, mọi vinh quang, danh dự đều quy về Cha trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần. Vì vậy, những biểu hiện tỏ lòng tôn kính Mẹ Maria cần phải dẫn đến việc tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thế nên, mọi việc tôn sùng Đức Mẹ phải nhằm vào sự kết hợp trực tiếp với Đức Giêsu, thiếu yếu tố này, mọi việc kể như vô hiệu.
Qua những gì đã chia sẻ ở trên dựa trên Giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta có quyền tin tưởng sẽ được cứu độ khi tôn sùng Đức Mẹ cách chính đáng và hợp với ý định và trong chương trình của Thiên Chúa.
Về điểm này, thánh Alphonsô quả quyết: “Hết mọi ơn thánh ở trong Chúa Giêsu như nguồn mạch: nhưng do ý định mầu nhiệm và thương xót của Chúa, không một ơn nào ban xuống cho loài người mà không có Mẹ cầu xin cho. Hơn nữa, Mẹ Maria là Mẹ đầy tình thương, Mẹ chỉ có một sứ mạng, một chức vụ là thương xót: đến nỗi những tội nhân khốn nạn nhất, tuyệt vọng nhất là những người đầu tiên được Mẹ cứu, Mẹ dấu yêu, miễn là họ đừng bỏ mất thiện chí cải tạo mà tin tưởng chạy đến với Mẹ”. Ngài còn kêu gọi tội nhân bằng lời tha thiết này: “Bạn hãy yêu mến Mẹ Maria! Hãy cầu xin Mẹ, thì bạn sẽ được cứu rỗi”; “Chúng ta được rỗi là do Mẹ cầu bầu”; “Tôi tớ Mẹ không ai có thể hư mất đời đời”.
5. Những việc làm cụ thể tỏ lòng tôn sùng Đức Mẹ theo truyền thống Việt Nam
Bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Người dân Việt Nam ngay từ lâu, đã có hình ảnh tốt đối với Đức Mẹ qua hình ảnh người mẹ trong đời thường.
Chắc chắn đã có lần anh chị em nghe lời giới thiệu ngọt ngào, truyền cảm, đầy xúc động của ca sĩ Thanh Lan trong băng nhạc chủ đề Quê hương và Lòng Mẹ như sau:
“Mẹ là dòng suối ngọt ngào”
“Mẹ là bóng mát dịu dàng”
“Mẹ là nguồn thương yêu bất tận”
“May mắn thay là những người còn mẹ”
“Mất mát thay là những người thiếu mẹ”
“Mỗi người chúng ta hãy dành một Bông Hồng cài áo Mẹ”
“Tất cả chúng ta đều trở nên bé nhỏ dưới ánh mắt, trong vòng tay và trong tình thương yêu bao la như biển cả của mẹ.”
“Mẹ đã che chở cho chúng ta trong những vinh nhục của cuộc sống, qua những sóng gió của cuộc đời”.
Như vậy, lòng sùng kính Đức Mẹ của chúng ta mang đậm nét kính trọng và mến yêu vì mang nặng tình mẫu tử. Qua hình ảnh người mẹ trần gian, thôi thúc chúng ta hướng về Mẹ trên trời. Thật vậy, trong cuộc sống, những lúc gặp khó khăn hay hoạn nạn, nhiều người đã thuộc nằm lòng những ca vãn ngợi khen, và cầu xin tha thiết như: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển… “; “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam…”; “Lạy Mẹ, xin yên ủi chúng con luôn luôn…”, v.v… rồi những kinh Kính Mừng, tràng chuỗi Mân Côi được đọc lên râm ran trong các thánh đường, nơi các gia đình, và trong mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại… Các cuộc rước linh đình, nhiều đền đài được mọc lên, nhiều nhà thờ được mang tước hiệu của Mẹ. Những thói quen đó đã đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một tinh thần sốt sắng, giàu đức tin, lòng mến và trung kiên giữ đạo dù trải qua trăm nghìn thử thách gian truân.
Tuy nhiên, việc sùng kính đó nhiều lúc đã làm cho không ít người xa lạ với đức tin, tức là họ đã nhìn nhận Đức Mẹ như là đấng Trung Gian tuyệt đối, mà quên mất rằng: “Mọi ảnh hưởng có sức cứu độ của Đức Trinh Nữ trên nhân loại, đều bắt nguồn từ công nghiệp dư tràn của Chúa Kitô” (x. LG 60). “Thực vậy, không bao giờ có thể đặt một thụ tạo nào ngang hàng với Ngôi Lời Nhập Thể và Cứu Chuộc” (Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 970).
Thiết nghĩ, nhân dịp này, mỗi chúng ta hãy nhìn lại việc sùng kính của mình dành cho Đức Mẹ, và nếu đang đi quá xa về cách thức biểu lộ niềm tin và cách tôn sùng Mẹ không đúng với Giáo Huấn của Giáo Hội, thì hãy chỉnh lại sao cho phù hợp, để lòng tôn sùng Đức Mẹ không mất đi hay xa lạ với Đức Tin Công Giáo mà lại làm cho đức tin được thêm khởi sắc và đúng như ý Chúa, ý Mẹ và Giáo Huấn của Giáo Hội mong muốn.
Vì thế, Công Đồng đã nhắc nhở: “Lòng tôn sùng chân chính không hệ tại ở những tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại ở sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67).
Mong sao, những việc tôn sùng Đức Mẹ của chúng ta sẽ dẫn đến việc noi gương Mẹ để sống cho đẹp lòng Thiên Chúa như Mẹ đã sống, để sau cuộc đời này, chúng ta được cùng Mẹ ca ngợi Thiên Chúa không ngừng trên Thiên Quốc.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con người Mẹ tuyệt với là Đức Maria. Xin cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa như Mẹ, biết noi gương các nhân đức của Mẹ, để sau cuộc đời nay, chúng con cũng được vào Thiên Quốc dự tiệc vui bên Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, xin đón nhận muôn vàn ý nguyện của chúng con dâng lên Mẹ qua những đóa hoa muôn sắc màu, ước gì chúng con được đón nhận những ơn lành của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ. Amen.
THÁNG NĂM, NGHĨ VỀ TÌNH MẪU TỬ NƠI MẸ MARIA
Thiên Chúa thật kỳ diệu, đã an bài cho con người trên trần gian phải được sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì thế, không ai xuất hiện trong cuộc đời này mà không có một người mẹ. Người mẹ ấy đã cưu mang, sinh thành, dưỡng dục chúng ta nên người.
Tuy nhiên, muốn có một người con khôn lớn, thảo hiền, người mẹ đã không khỏi: “Một nắng hai xương, tần tảo ngược xuôi” để kiếm từng đồng tiền, bát gạo nuôi con. Hơn nữa, nhiều đêm trái gió trở trời, mẹ đã phải thức trắng vì con: “Gió mùa thu mẹ ru con ngủ…năm canh chầy…thức đủ vừa năm…”, và đến tuổi cắp sách tới trường thì: “Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi. Con đi trường học, mẹ đi đường đời”. Thật là: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”;
Công khó, khổ đau và hy sinh của người mẹ không ai kể cho xiết. Tình yêu của mẹ không gì sánh bằng. Vì thế: “Dù đi cuối đất cùng trời, không bằng nghe thấy những lời mẹ ru”(Ca Dao).
Cảm nghiệm được tình mẹ cao quý như vậy, nên đã có người thốt lên: “Mẹ là tất cả, là niềm tự hào, là hạnh phúc, là báu vật mà Thượng Đế đã ban tặng cho con”.
Với người Công Giáo, chúng ta còn có một người Mẹ khác, Mẹ đó chính là Đức Maria.
Mẹ là người Phụ Nữ ưu phẩm hơn mọi bà mẹ trần gian, vì: “Thiên Chúa đã cho Mẹ được nên cao cả hơn mọi loài” (Thánh Andrê thành Crete). Mẹ cũng là Mẹ của mọi người hiện hữu trên thế gian. Người Mẹ này đã và sẽ yêu thương chúng ta bằng tình yêu rộng lớn trong ân sủng. Tình yêu ấy bắt nguồn từ Thiên Chúa nơi Con Một của Người là Đức Giêsu trong vai trò Trưởng Tử của mọi loài thọ sinh.
Nếu hình ảnh, cuộc sống và những hy sinh của người mẹ trần gian đã làm cho chúng ta không ngớt cảm phục, ca ngợi và biết ơn, thì Mẹ Maria còn là Đấng mà chúng ta phải ngợi khen, hiếu thảo và yêu mến gấp bội, bởi vì Mẹ yêu chúng ta bằng tình yêu trổi vượt trên mọi tình yêu của các bà mẹ trần gian.
Để hiểu rõ hơn về tình yêu giữa Mẹ Maria với con cái, chúng ta cùng nhau nhìn lại vai trò của Mẹ trong cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu, nơi Giáo Hội và mỗi người. Đồng thời, qua đó, trong tư cách là con, mỗi người cũng cần phải ưu tư về bổn phận thảo hiếu với Mẹ cách thiết thực, để tình yêu của Mẹ dành cho ta ngày thêm thắm thiết, mặn mà, nhất là chúng ta sẽ được hưởng nhiều ân huệ thiêng liêng nơi Mẹ trong vai trò Từ Mẫu của chúng ta.
1. Tình Mẫu Tử nơi Mẹ Maria trong cuộc đời Chúa Giêsu
Kinh Thánh đã diễn tả: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4).
Quả thật, từ lúc Mẹ nói lời “xin vâng” (x. Lc 1,38), Ngay lập tức, Mẹ đã chính thức trở thành Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa là Thánh Tử Giêsu. Cũng kể từ lúc đó, Mẹ chính thức cưu mang “Hòm Bia Thiên Chúa” (x. Xh 25, 10-11,17-18), nên Mẹ đã trân quý và kính cẩn kho báu của cả nhân loại đang cư ngụ trong cung lòng mình. Vì thế, Mẹ đã trở thành người diễm phúc hơn mọi người phụ nữ, bởi lẽ: “Đức Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ” đang hiện diện trong lòng dạ của Mẹ.
Suốt cuộc đời Mẹ luôn gắn bó với Đức Giêsu như hình với bóng. Mẹ đã không ngừng dõi bước Thánh Tử Giêsu trong gia đình Nazareth suốt 30 năm trường.
Trong thời gian này, chỉ với một câu Kinh Thánh mà tác giả Tin Mừng Luca trình thuật trong bối cảnh Đức Giêsu ngồi giữa những bậc thầy Dothái lúc 12 tuổi khi lên dự lễ tại đền thờ Giêrusalem và Mẹ tưởng rằng Ngài đi lạc…, lòng mẹ đã đau đớn và nỗi lo lắng dâng trào trong tâm hồn. Nên sau những ngày vất vả tìm con, khi gặp lại… niềm vui vỡ òa qua lời trách yêu: “Con ơi, sao con lại làm thế! Con có biết cha và mẹ đã vất vả tìm con?” (x. Lc 2, 46). Qua câu nói này, tác giả muốn diễn tả trọn vẹn tình Mẫu Tử của Mẹ đối với Đức Giêsu.
Sự gắn bó ấy còn được thể hiện ngay từ giây phút đầu tiên của sứ vụ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã hiện diện cùng với Con Yêu trong tiệc cưới Cana (x. Ga 2,5). Và chúng ta cũng thấy suốt 3 năm rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, Mẹ vẫn luôn dõi bước đồng hành và hiện diện bằng nhiều cách thế (x. Mt 12,47).
Đỉnh cao của cuộc đồng hành, ấy chính là theo sát Con Yêu trên các chặng đường thương khó, để như tiếp thêm sức mạnh cho Đức Giêsu nhằm hiệp thông cứu chuộc với Con của mình (Đàng Thánh Giá, nơi thứ 4). Lời của cụ già Simêon năm xưa đã ứng nghiệm trọn vẹn nơi cuộc đời của Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2, 33).
Cuối cùng, Mẹ đã đón nhận gia sản quý giá mà Đức Giêsu trối lại cho Mẹ trên Thánh Giá, đó là đón nhận Giáo Hội qua hình ảnh Gioan: “Này là con Bà” (Ga 19,26).
2. Tình Mẫu Tử nơi Mẹ Maria trong đời sống của Giáo Hội và mỗi người chúng ta
Kể từ khi Mẹ đón nhận lời trăn trối của Đức Giêsu, con yêu dấu của Mẹ trên Thánh Giá, để đón nhận thánh Gioan làm con của mình. Mẹ cũng đón nhận cả nhân loại trong vai trò Hiền Mẫu. Ngay sau khi an táng Ngườ Con Chí Ái, Mẹ đã trở về với các Tông đồ để cùng cầu nguyện với các ông, giúp các ông lãnh nhận Chúa Thánh Thần (x. Cv 1, 14). Sự hiện diện đầy Từ Mẫu này cho thấy: “Mẹ đã chuẩn bị, đã chứng kiến ngày công khai hoá Giáo Hội, cũng như Mẹ đã sinh Giáo Hội trong Chúa Giêsu. Mẹ thực là Mẹ Giáo Hội” (x ĐHV số 929).
Vì thế, lòng Mẹ đã không yên khi nhìn thấy con cái của mình bị khổ sai tụy điều, nên nhiều cách, Mẹ đã cứu Giáo Hội khỏi biết bao hiểm nguy cả phần xác lẫn phần hồn, vì: “Mẹ là đô thị an toàn, mọi người vào ẩn mình nơi Mẹ đều được an toàn” (Thánh Gioan Đamascenô); và “Mẹ Maria là tàu cứu vớt người ta khỏi chìm trong biển lửa đời đời” (Thánh Bênađô); nên: “Dầu tội lỗi đến đâu, nếu tôn sùng Mẹ, cũng không hư mất đời đời được” (Thánh Hilariô, Tiến sĩ Giáo hội). Mẹ cũng đã hiện ra ở nhiều nơi và ban những sứ điệp nhằm mời gọi con cái mình trung thành với Thiên Chúa, cải thiện đời sống để được hạnh phúc và xứng đáng hưởng ơn cứu chuộc (x. Sứ điệp Fatima).
Có thể nói, Mẹ đã không bao giờ chối bỏ lời nguyện xin của con cái, nếu điều ta xin có ích cho phần hồn, vì: “Danh thánh Mẹ chứa chan bao ơn phúc!”, nên: “Đức Maria quá đỗi khoan dung” (Thánh Bonaventura). Hơn nữa: “Mẹ Maria không chỉ đến với chúng ta khi chúng ta kêu cầu Mẹ, nhưng ngay cả một cách tự nguyện, Mẹ đi trước để gặp gỡ chúng ta”(Thánh Giêrônimô).
Cảm và thấy được vai trò ưu tuyển của Mẹ trước nhan Thiên Chúa, nên Ngày 29/4/1965, ĐGH Phao-lô VI ban hành Thông điệp “Mense Maio” với chủ đề “Cầu nguyện trong Tháng Năm cho sự duy trì nền hoà bình”. Trong thông điệp này, Đức Thánh Cha đã giải thích rõ: “Bởi vì Tháng Năm là một động lực mạnh mẽ cho việc cầu nguyện thường xuyên và sốt sắng hơn, và bởi vì những lời khẩn cầu của chúng ta sẽ dễ dàng chạm đến trái tim từ ái của Đức Maria trong suốt Tháng Năm này, đó là một thói quen rất được ưa chuộng mà các vị tiền nhiệm của Tôi chọn tháng này dâng kính Đức Maria, nhằm thôi thúc dân Ki-tô giáo dâng những lời nguyện chung với nhau bất kỳ lúc nào nhu cầu của Giáo Hội đòi hỏi hoặc khi có những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đe doạ nhân loại” (số 3); Ngài nói thêm: “Đức Maria là người đã trải qua những mối lo âu và vất vả của cuộc sống trần gian, những mệt mỏi của công việc nặng nhọc hằng ngày, những gian khổ và thử thách của kiếp nghèo, và những nỗi buồn sầu trên đồi Can-vê; nguyện xin Mẹ đến cứu giúp những nhu cầu của Giáo Hội và của toàn thể nhân loại” (Tđ “Mense Maio”, số 12).
Riêng với Giáo Hội Việt Nam, Mẹ đã tỏ tình yêu Mẫu Tử cách đặc biệt với Tổ Tiên và chúng ta ngày nay .
Thật vậy, từ khi đón nhận Tin Mừng cho tới hôm nay, dường như một Giáo Hội Việt Nam được sinh ra và lớn lên trong muôn vàn thử thách đau thương! Nào là nghèo đói, chiến tranh, loạn lạc, bắt bớ, cấm cách và bị giết chết… Trước những thực trạng đó, lòng Mẹ cũng như đang bị lưỡi gươm đâm thấu tận trái tim. Vì thế, nơi con tim Từ Mẫu, đã nhiều lần mở ra để diễn tả tình yêu dành cho con cái qua các lần hiện đến để bênh đỡ Giáo Hội và cứu giúp kẻ bần cùng.
Điển hình như tại La Vang – Huế, Mẹ đã hiện ra để bảo vệ, an ủi, bênh đỡ, củng cố đức tin, chữa lành bệnh tật và giải thoát khỏi sự sợ hãi. Không những thế, Mẹ còn hứa sẽ tiếp tục chuyển cầu cho con cái Mẹ nếu thành tâm đến cầu khẩn Mẹ tại nơi này.
Tại Trà Kiệu – Quảng Nam, trên nóc đền thờ, hình bóng Mẹ thật uy nghi, đôi tay không ngừng che chắn những viên đạn do tâm ác độc của những người thù nghịch với Giáo Hội đang ngày đêm phóng vào tín hữu. Thật cảm động khi đoàn con được núp dưới bóng Mẹ hiền. Vì thế, sự bình an được ngự trị vì có “Nữ Vương ban Sự Bình An” che chở.
Với địa danh La mã – Bến Tre, Mẹ đã thể hiện tình yêu thương đặc biệt khi hiển linh qua bức ảnh dưới tước hiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp, để qua đó, Mẹ luôn lắng nghe những tiếng kêu cầu thống thiết của con cái và ra tay phù trợ…
Hay như nơi núi rừng huyền bí Tây Nguyên – Măng Đen; Tà Pao – Phan Thiết, Fatima – Bình Triệu – Sài Gòn… cũng là những nơi Mẹ không ngừng chuyển trao ân sủng của Chúa cho con cái Mẹ…
Chỉ cần nhắc đến một vài linh địa mà Mẹ đã chọn để thể hiện tình yêu với con cái của Mẹ, chúng ta cũng đủ để hiểu được lòng Từ Mẫu của Mẹ quả là: “Như nước trong nguồn chảy ra”. Đồng thời, nhân dịp này, chúng ta cũng nhìn lại vai trò của mỗi người trong tư thế là con, để thấy được bổn phận hiếu nghĩa của chúng ta với Mẹ như thế nào, hầu sống sao cho xứng đáng vai trò con cái đối với người Mẹ kính yêu của chúng ta.
3. Bổn phận hiếu nghĩa của chúng ta với Mẹ Maria trong tương quan từ mẫu
Trên Thánh Giá, sau khi trao phó thánh Gioan cho Đức Mẹ, liền sau đó, Đức Giêsu cũng đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan.
Qua biến cố này, Đức Giêsu đã muốn cho tình Mẫu Tử giữa Mẹ Maria và chúng ta ngày thêm khăng khít.
Vì thế, bổn phận hiếu nghĩa của chúng ta với Mẹ là điều rất quan trọng.
Hình ảnh thánh Gioan đón Mẹ Maria về nhà mình, đã nói lên lòng hiếu thảo đó.
Tuy nhiên, điều chúng ta cần đặt ra, đó là: sống hiếu thảo với Mẹ Maria thì sống như thế nào? Phải làm gì để thể hiện tinh thần đó?
Thiết nghĩ, những việc cụ thể sau sẽ làm cho chúng ta thể hiện lòng hiếu thảo với Mẹ cách thiết thực nhất, chắn chắn Mẹ sẽ vui lòng. Những việc đó là:
Trước tiên, chúng ta tôn kính Mẹ. Khi tôn kính Mẹ, chúng ta nhìn nhận Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phúc, vì Thiên Chúa đã làm biết bao điều kỳ diệu nơi Mẹ. Mẹ trở nên người có phúc hơn mọi người phụ nữ, vì từ cung lòng Mẹ, Đấng Cứu Chuộc thế giới đã giáng sinh. Đây là ơn cao trọng mà mẹ đã được Thiên Chúa rủ thương đến phận Nữ Tỳ của mình. Trên trần gian này, từ thủa tạo thiên lập địa cho đến tận thế, không có ai và không một loài thụ tạo nào sánh bằng Mẹ. Chỉ mình Mẹ được Thiên Chúa ưu tuyển cách đặc biệt, nhiệm mầu, nên muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc (x. kinh Manificat). Hơn nữa, việc: “Sùng kính Mẹ Maria là phương thế an toàn nhất để được ơn chết lành” (Thánh Gioan Bosco).
Thứ hai, chúng ta hãy tỏ lòng vâng phục Mẹ Maria hết lòng. Khi vâng phục Mẹ Maria, ấy là chúng ta noi gương chính người Anh Cả Giêsu, Ngài đã vâng lời Mẹ Maria cách yêu mến: “Ngài theo cha mẹ về Nazareth và vâng phục hai đấng” (x. Luca 2,41-52). Hay như trong tiệc cưới Cana, Đức Giêsu đã vâng lời Mẹ mà làm phép lạ hóa nước lã thành rượu ngon, mặc dù giờ của Ngài chưa đến! (x. Ga 2, 1-12)
Với chúng ta, vâng lời Mẹ, còn là việc mau mắn đáp lại lời Mẹ khuyên dạy trong các lần hiện ra. Chẳng hạn như: siêng năng suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành; siêng năng lần hạt Mân côi; tránh xa dịp tội; cải thiện đời sống; ăn chay, cầu nguyện để khỏi sa trước cám dỗ.
Tiếp theo, là yêu mến Mẹ Maria: Thánh Gioan Berchmans đã nói: “Ai có lòng yêu mến Mẹ Maria sẽ được ơn bền đỗ”; và: “Ai có lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria sẽ không bao giờ bị hư mất” (Thánh Inhaxiô thành Antioch). Mẹ Maria, trong vai trò Mẫu Tử, Mẹ đã không ngừng quan tâm đến mọi nhu cầu của con cái, nhất là những người tội lỗi. Điều này đã được Thánh Bênađô và Thánh Anphongsô nói tới: “Tội lỗi nặng nề đến đâu mà đến cầu xin Mẹ, Mẹ cũng không xét xem họ có công nào đáng nhận lời không; Mẹ chỉ làm có một việc là đoái nhận và cứu giúp mọi người”. Vì vậy: “Những tội nhân nhận được ơn tha thứ chính là nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria” (Thánh Phêrô Chrisotlôgô).
Đến lượt chúng ta, hẳn cũng không có cách gì tốt đẹp và ý nghĩa cho bằng lấy tình con thảo để yêu mến Mẹ bằng tất cả con tim. Những biểu hiện đó có thể là: kiếm một đóa hoa tươi đồng nội dâng Mẹ, cung kính khi đi ngang qua tượng hoặc hình ảnh Mẹ; những lời kinh, tiếng hát, câu hò, điệu múa được cất lên bằng cả tâm hồn; những buồn vui, sướng khổ, thành công hay thất bại… chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để thổ lộ tâm tình.
Nhưng điều cốt lõi để thể hiện tình yêu trọn vẹn của ta với Mẹ, đó là: noi gương Mẹ, bắt chước những nhân đức mà Mẹ đã thể hiện lúc còn tại thế, nhất là gương: tin tưởng, lắng nghe Lời Chúa, khiêm nhường và phục vụ, sẵn sàng chia sẻ niềm vui cho người khác như Mẹ đã đem Chúa đến cho gia đình bà Êlisabét. Đồng thời hãy làm mọi việc với Mẹ và cùng Mẹ dâng lên cho Chúa để của lễ của chúng ta dù bất xứng do tội lỗi nhơ uế, thì vẫn được Chúa thương nhận lời vì có Mẹ là trung gian xứng đáng cầu thay nguyện giúp cho ta.
Cuối cùng, là tâm tình phó thác cho Mẹ Maria. Nếu trẻ thơ thực sự an tâm khi chúng được ở trong vòng tay âu yếm của bà mẹ, thì với chúng ta, mỗi người cũng hãy nép vào lòng Mẹ trong tâm tình phó thác để được an bình thư thái. Thánh Lôrensô thành Brindisi đã nói: “Thiên Chúa muốn mọi người, tất cả học biết sự thật này từ lúc còn thơ trẻ: đó là ai tin tưởng nơi Mẹ Maria, rằng ai cậy trông nơi Mẹ Maria sẽ không bị từ bỏ dù ở đời này hoặc đời sau”.
Như vậy, người Công Giáo chúng ta thật diễm phúc vì nhận ra vai trò Mẫu Tử nơi Mẹ Maria trên và trong cuộc đời của mình. Đây là ân ban lớn lao mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại nói chung và cho mỗi người chúng ta.
Trong lịch sử Giáo Hội, không có vị thánh nào không có lòng yêu mến Đức Mẹ. Vì thế, các ngài đã được Mẹ Maria gìn giữ như của riêng nơi Mẹ, nhờ đó, các ngài đã tiến bước trên con đường nhân đức cách trung thành, anh hùng và tràn đầy lòng yêu mến. Sau cùng, các ngài đã được lãnh nhận triều thiên mà Thiên Chúa dành cho những người được tuyển chọn. Còn chúng ta, chúng ta muốn được như thế không?
Nếu muốn, thì ngay giờ đây, còn chần chờ gì nữa mà không chạy đến với Mẹ để tôn vinh, vâng phục, yêu mến và phó thác cuộc đời của ta cho Mẹ… vì: “Mẹ là đại dương không bến bờ, một biển sâu khôn dò, một vực thẳm sâu của ân sủng” (Thánh Sophronius). Nên: “Mẹ nguồn cậy trông cho người thất vọng; Mẹ là niềm tin cho người lữ thứ; Mẹ là niềm vui cho người buồn đau; Mẹ là ủi an cho người đơn côi”.
Nguyện xin Mẹ Maria là: Nữ Hoàng Thiên Quốc, Hòm Bia Thiên Chúa, Trạng Sự bênh đỡ, Đấng Hằng Cứu Giúp… xin thương che chở, đỡ nâng, phù trì chúng con trên con đường lữ thứ chông gai. Để chúng con khỏi lạc lõng, bơ vơ giữa chợ đời hôm nay.
Lạy Mẹ Maria, con yêu mến Mẹ, toàn thân con thuộc về Mẹ, “tất cả của con là của Mẹ” (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II). Xin Mẹ đón nhận con như của riêng mẹ vậy. Amen.