Ngày 10 tháng 1 GS
Bài đọc: 1 Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
1/ Bài đọc I: 5 Ai là kẻ thắng được thế gian, nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?
6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;
không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu.
Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.
7 Có ba chứng nhân: 8 Thần Khí, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.
9 Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10 Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình.
Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối,
vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
11 Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người.
12 Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
2/ Phúc Âm: 12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”13 Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh.14 Rồi Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”
15 Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh.16 Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào Đức Kitô giải thoát con người khỏi mọi tội và cho con người được sống muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
Binh pháp Tôn Tử dạy “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”, có nghĩa, “Biết ta biết người trăm trận trăm thắng.” Trong trận chiến thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần biết mình là con người yếu đuối, giới hạn và không biết hết sự thật; trong khi Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và có quyền năng vô hạn. Ngài biết tất cả sự thật và không có gì là không thể đối với Ngài.
Hai bài đọc hôm nay minh chứng chân lý này. Trong Bài đọc I, tác giả Thư thứ nhất Gioan xác nhận cả hai sự sống: thể lý và đời đời không phải do chúng ta có được; nhưng do bởi Thiên Chúa. Ngài dựng nên chúng ta và cho chúng ta chung hưởng cuộc sống đời đời nếu chúng ta đặt trọn vẹn tin tưởng vào Ngài. Để hiểu biết những chân lý này, chúng ta cần học hỏi để biết Thiên Chúa và Đức Kitô là ai. Trong Phúc Âm, một anh phong hủi biết mình không thể tự mình chữa lành; nhưng biết Chúa Giêsu là người có thể chữa anh khỏi bệnh nên anh đã đến xấp mình trước mặt Chúa Giêsu và van xin Ngài: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu đã chữa lành anh vì nhận ra sự khiêm nhường và lòng tin tưởng vững mạnh của anh.
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là sự sống và là sự sống đời đời của chúng ta.
1.1/ Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
(1) Phải tin vào Con Thiên Chúa để có sự sống: Niềm tin vào Đức Kitô là điều kiện duy nhất được đòi hỏi để một người được sống theo Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Jn 20:30-31) và Thư thứ nhất Gioan: “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.” (I Jn 5:11b-12)
(2) Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sẽ nhận được sự sống đời đời: Trong tiếng Hy-lạp, có nhiều danh từ dùng để chỉ sự sống như psyche (sự sống thể lý) hay aionios (sự sống đời đời). Cả hai tác giả của Tin mừng Gioan và Thư thứ nhất Gioan đều dùng danh từ aionios để chỉ sự sống đời đời. Các tác giả không muốn nói sự sống thể lý của con người sẽ kéo dài đến muôn đời; nhưng muốn nói tới sự sống đời đời mà chúng ta sẽ có ở nơi Thiên Chúa, một sự sống hoàn hảo, bình an và hạnh phúc, không còn khổ đau, ly tán hay bệnh tật.
1.2/ Có nhiều hơn hai nhân chứng đã làm chứng cho Đức Kitô là Thiên Chúa và là người thật.
Luật chỉ đòi hai nhân chứng để biết đó là chứng thật. Trong trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta có nhiều hơn hai nhân chứng xác nhận Đức Kitô là Thiên Chúa thật để chúng ta có thể tin vững vàng vào Ngài.
(1) Ba nhân chứng tác giả nêu ra hôm nay:
1. Thần Khí hay Thánh Thần: Tại phép rửa của Đức Kitô làm bởi Gioan Tẩy Giả bên giòng sông Jordan. Khi Chúa Giêsu lên khỏi nước, Thánh Thần xuất hiện dưới dạng chim bồ câu và đậu lại trên Ngài (Mt 3:16, Lk 3:22, Mk1:10).
2. Nước: Theo truyền thống, đây là phép rửa Gioan làm cho dân để tỏ lòng ăn năn thống hối, chứ không có quyền năng để tha tội. Nhưng phép rửa làm bởi Chúa Giêsu và Giáo Hội có sức để thanh tẩy hết mọi tội lỗi cho chúng ta.
3. Máu: là biểu tượng lạ tác giả dùng ở đây để nhấn mạnh đến sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu. Như chúng ta đã nói từ đầu, những người theo chủ thuyết Ngộ Đạo, họ dễ dàng tin vào hai biểu tượng Thánh Thần và nước; nhưng từ chối Đức Kitô phải chịu đau khổ vì họ quan niệm Thiên Chúa chẳng dại gì để mang lấy một thân xác xấu xa và chịu đau khổ. Hơn nữa, Cerinthus, một người đồng thời với tác giả của Thư thứ nhất Gioan, đã đưa ra những cắt nghĩa kỳ quặc để từ chối những đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu. Chẳng hạn: tại phép rửa tại sông Jordan, Chúa Giêsu có thần tính của Đức Kitô nhập vào; nhưng sau đó thần tính lìa bỏ Chúa Giêsu về trời để chỉ còn lại người tên Jesus phải chịu thương khó và chịu chết. Giáo Hội dạy chúng ta hoàn toàn ngược lại: chính vì những đau khổ và máu Con Thiên Chúa đổ ra mà tất cả tội nhân loại được tha thứ và mang ơn cứu độ cho mọi người.
(2) Thiên Chúa đã làm chứng hai lần cho con của Ngài: Lần thứ nhất tại biến cố chịu phép rửa của Chúa Giêsu khi dân chúng nghe tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17; Mk 1:11). Lần thứ hai tại biến cố biến hình của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ, tiếng Chúa Cha làm chứng: “Đây là Con Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy nghe lời Người” (Lk 9:30, Mk 9:7, Mt 17:5). Lời chứng của Chúa Cha là lời chứng có thế giá và mạnh mẽ hơn cả.
(3) Ngoài ra, chúng ta còn có lời chứng của John Baptist, khi ông thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, ông chỉ vào Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Jn 1:29, 36). Hơn nữa, chính tác giả của Thư thứ nhất Gioan cũng làm chứng về Chúa Giêsu ngay trong câu mở đầu như sau: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.”
2/ Phúc Âm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
2.1/ Niềm tin của người phong hủi:
(1) Anh tin Đức Kitô có quyền năng chữa anh khỏi bệnh phong hủi: Thông thường, trước khi làm phép lạ, Chúa Giêsu thường hỏi bệnh nhân: “Anh có tin là Ta có thể làm điều ấy cho anh không?” Trong trình thuật hôm nay, chúng ta không thấy câu hỏi của Chúa Giêsu, nhưng trong câu xin của anh phong hủi đã bày tỏ mạnh mẽ niềm tin của anh vào Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
(2) Việc anh phong hủi khiêm nhường biểu tỏ niềm tin bằng việc sấp mình trước mặt Chúa Giêsu chứng tỏ anh biết Chúa Giêsu là ai và anh là ai. Việc biết mình và biết người rất quan trọng để anh có thái độ cung kính trước Chúa Giêsu và để nhận lãnh việc chữa lành.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu:
Thời xưa, con người coi bệnh cùi là bệnh truyền nhiễm; vì thế bệnh nhân phải sống một nơi cô lập, xa hẳn những người lành mạnh; và không có thứ thuốc nào có thể chữa cho lành mạnh.
(1) Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. Việc Chúa Giêsu giơ tay đụng đến anh chứng tỏ Chúa Giêsu không quan tâm đến việc lây bệnh; nhưng chỉ quan tâm đến sức khoẻ và cuộc sống của anh. Ngài sẵn sàng giơ tay đụng đến anh để anh được chữa lành.
(2) Sau đó, Người truyền cho anh làm 3 việc:
– Thứ nhất, Ngài truyền cho anh không được nói với ai. Điều này thường xảy ra trong Tin Mừng Marcô nhiều hơn trong Lucas, vì Marcô cố ý dùng cách này, “bí mật Đấng Thiên Sai” để muốn nhấn mạnh rằng không ai nhận ra Đấng Thiên Sai chịu đau khổ, chỉ có một người duy nhất tuyên xưng là viên quan đại đội trưởng khi chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Quả thật! Người này là Con Thiên Chúa” (Mk 15:39b).
– Thứ hai, Chúa Giêsu truyền cho anh: Hãy đi trình diện với các tư tế. Ngày xưa dân chúng không có các y sĩ như chúng ta có hiện giờ. Các tư tế là những người có bổn phận khám xét và kiểm chứng. Nếu bệnh nhân thực sự được lành sạch hẳn, họ sẽ viết một chứng thư cho anh tuyên bố anh đã được sạch.
– Hãy dâng lễ vật đền tội như Luật truyền để làm chứng cho người khác biết: Dâng lễ vật sau khi đã được thanh sạch khỏi bệnh hủi được mô tả cách rất chi tiết trong Sách Levi (x/c 14:1-32).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Biết mình và biết người rất cần thiết trong việc cư xử với nhau.
– Chúng ta cần học biết về Thiên Chúa qua Kinh Thánh để biết cách cư xử với Ngài khi cầu nguyện và xin ơn.
– Chúng ta cần đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Đức Kitô cho đến hơi thở cuối cùng để được hưởng cuộc sống đời đời.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Friday after Epiphany
Viết bởi Lan Hương
FRIDAY AFTER EPIPHANY
Readings: I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
1/ First Reading: NAB 1 John 5:5 Who (indeed) is the victor over the world but the one who believes that Jesus is the Son of God? 6 This is the one who came through water and blood, Jesus Christ, not by water alone, but by water and blood. The Spirit is the one that testifies, and the Spirit is truth. 7 So there are three that testify, 8 the Spirit, the water, and the blood, and the three are of one accord. 9 If we accept human testimony, the testimony of God is surely greater. Now the testimony of God is this, that he has testified on behalf of his Son. 10 Whoever believes in the Son of God has this testimony within himself. Whoever does not believe God has made him a liar by not believing the testimony God has given about his Son. 11 And this is the testimony: God gave us eternal life, and this life is in his Son. 12 Whoever possesses the Son has life; whoever does not possess the Son of God does not have life. 13 I write these things to you so that you may know that you have eternal life, you who believe in the name of the Son of God.
2/ Gospel: NAB Luke 5:12 Now there was a man full of leprosy in one of the towns where he was; and when he saw Jesus, he fell prostrate, pleaded with him, and said, “Lord, if you wish, you can make me clean.” 13 Jesus stretched out his hand, touched him, and said, “I do will it. Be made clean.” And the leprosy left him immediately. 14 Then he ordered him not to tell anyone, but “Go, show yourself to the priest and offer for your cleansing what Moses prescribed; that will be proof for them.” 15 The report about him spread all the more, and great crowds assembled to listen to him and to be cured of their ailments, 16 but he would withdraw to deserted places to pray.
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Tien M. Dinh, O.P.
I. THEME: To be a witness for Christ.
In order to believe one thing is true, people need to: either see with their eyes, or to feel its effect, or to have witnesses. Many people say that they only believe when they see with their eyes, as St. Thomas, the apostle, when the other apostles told him of Jesus’ appearance to them. In the next appearance, Jesus said to Thomas that to believe when seeing is normal; but blessed are those who believe without seeing. Moreover, there are something people must believe though they don’t see, but can feel of their effects, such as: wind, electricity and life. Lastly, in most of cases, people believe through witnesses; especially after it is proved by two or three witnesses.
Today readings center on the theme: people must believe that Christ comes from God through witnesses. In the first reading, St. John listed out three witnesses for Christ which are the Spirit, water and blood. Whoever doesn’t believe in Christ, after has been witnessed, that one makes God a liar. In the Gospel, Jesus, after healing a leprosy, sent him to present himself to the priest and to offer a sacrifice, to prove that he is completely clean. This healing miracle is also a proof that Christ had healed him because he has God’s power.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: The Spirit, water and blood, all three witness one thing.
1.1/ Three of Christ’s witnesses: St. John said, “This is the one who came through water and blood, Jesus Christ, not by water alone, but by water and blood. The Spirit is the one that testifies, and the Spirit is truth.So there are three that testify,the Spirit, the water, and the blood, and the three are of one accord.”
To understand this passage, we need to read Johannine gospel to understand the historical background behind Jesus’ life. The passage in his gospel talked about water and blood as follows: “but one soldier thrust his lance into his side, and immediately blood and water flowed out. An eyewitness has testified, and his testimony is true; he knows that he is speaking the truth, so that you also may (come to) believe” (Jn 19:34-35). Water and blood are two important events in Jesus’ life. Water was used when he was baptized by John Baptist in Jordan river. Blood was poured out when he died on Golgotha Mt.
The reason why John emphasized on “water and blood” is because of the Gnostic heresy. Cerinthus, the represetative of this heresy believes that Jesus came in water but not blood. He believes that when Jesus was baptized, the Holy Spirit descended upon him and made him as the son of God. He doesn’t believe Jesus, as the son of God, died on the cross because God can’t suffer. He explained the Golgotha scene as follows: The Spirit went out of Christ and came up to heaven, the spirit of Simon Cyrene took the place of Christ and was nailed to the cross. St. John wanted to oppose this heresy by emphasizing that all three witnesses are necessary for one to believe in Christ who was sent by God to redeem people, especially by blood.
(1) The Holy Spirit: descended and anointed Christ when he was baptized by John Baptist (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). This baptism is completely different with John Baptist’s baptism (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). The Holy Spirit also descended to the apostles on the Pentecost (Acts 2:4), and is still active in the Church (Acts 8:17, 10:14).
(2) Water: At Jesus’ baptism, John Baptist bears witness for him, saying: “I saw the Spirit come down like a dove from the sky and remain upon him. I did not know him, but the one who sent me to baptize with water told me, ‘On whomever you see the Spirit come down and remain, he is the one who will baptize with the Holy Spirit.’ Now I have seen and testified that he is the Son of God” (Jn 1:32-34).
(3) Blood: In the Old Testament, the blood of animal must be poured out to redeem people’s sins. In the New Testament, Christ is the Lamb of God who takes away people’s sins by his death on the cross. He instituted the sacrament of the Holy Eucharist in the Last Supper, and the Church celebrates the Mass daily to continuously repeat Christ’s sacrifice on the cross to take away people’s sins.
1.2/ We must believe in Christ’s witnesses that he came from God.
(1) God’s witness is more important than human witnesses: The Law teaches that when there are two or three witnesses, their witness is true. Christ has many witnesses; for examples, John Baptist, the miracles that he did, the apostles, etc., but God’s witnesses are more important than human witnesses. There are at least two witnesses from God in Jesus’ baptism: the Father’s witness through the voice from heaven, saying: “This is my beloved son. Listen to him;” and the Holy Spirit’s witness through the image of a dove who descended and remained in him. People must believe these witnesses and believe in Christ, because “Whoever does not believe God has made him a liar by not believing the testimony God has given about his Son.”
(2) Must believe in Christ to have the eternal life: St. John said, “And this is the testimony: God gave us eternal life, and this life is in his Son.Whoever possesses the Son has life; whoever does not possess the Son of God does not have life.”
2/ Gospel: Show yourself to the priests to verify that you are clean.
2.1/ Jesus healed a man from leprosy:
(1) The leprosy’s proper attitude: First of all, he is a humble man and this was expressed by the fact that he fell prostrate before Jesus. Secondly, his trust in Jesus is expressed by his pleading, “Lord, if you wish, you can make me clean.” Lastly, his pleading pleased Jesus because he chose to follow Jesus’ will, not his own will; because there are many things which people want aren’t please God.
(2) Christ’s loving attitude: The Jewish law is very strict for the leprosies, they must live in camps, separated from people, and must avoid all contacts with people by shouting out: “Unclean! Unclean” when they see anyone coming close to them. But Jesus wasn’t fearful of becoming unclean, he stretched his arm to touch him and saying, “I do will it. Be made clean.” And the leprosy left him immediately.
2.2/ Jesus commanded him to do two things:
(1) Don’t tell anyone: Jesus did the healing out of his love for people so that they might believe in him and have eternal life, not to become famous. This is the reason why he ordered him not to tell anyone.
(2) “Go, show yourself to the priest and offer for your cleansing what Moses prescribed; that will be proof for them.” To certify that he is clean, he must present himself to the priest so that if the priest finds him clean, he shall issue a certification and the man can live with people. Moreover, he also has to offer a sacrifice as described in Leviticus 14.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We believe Christ came from God, not because we saw him, but because of his many witnesses. Our two most important witnesses are Scripture which wrote about God and the Spirit which enlighten us from inside.
– After believed in Christ, we must also witness for him by preaching the Gospel and living a worthy life so that others may recognize and believe in him.