Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm A

Chủ Nhật IV Mùa Chay, Năm A
Bài đọc: 1 Sam 16:1b, 6-7, 10-13a; Eph 5:8-14; Jn 9:1-41 (9:1, 6-9, 13-17, 34-38).
1/ Bài đọc I: 1 ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” 6 Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người ĐỨC CHÚA xức dầu tấn phong đang ở trước mặt ĐỨC CHÚA đây!” 7 Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” 10 Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “ĐỨC CHÚA không chọn những người này.” 11 Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: “Các con ông có mặt đầy đủ chưa?” Ông Gie-sê trả lời: “Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.” Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: “Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.”
12 Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó! “
13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí ĐỨC CHÚA nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
2/ Bài đọc II: 8 Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; 9 mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. 10 Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.
11 Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. 12 Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.
13 Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra;
14 mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!
3/ Phúc Âm: 1 Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.
2 Các môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”
3 Đức Giê-su trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
4 Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”
6 Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù,
7 rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
8 Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”
9 Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”
10 Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”
11 Anh ta trả lời: “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.”
12 Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
13 Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu.
14 Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát.
15 Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”
16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát;” kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ.
17 Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”
18 Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?”
20 Cha mẹ anh đáp: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh.
21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.”
22 Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
23 Vì thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
24 Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.”
25 Anh ta đáp: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!”
26 Họ mới nói với anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?”
27 Anh trả lời: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?”
28 Họ liền mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy bởi đâu mà đến.”
30 Anh đáp: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!
31 Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.
32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.”
34 Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.
35 Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” 36 Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”
37 Đức Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.”
38 Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
39 Đức Giê-su nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
40 Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”
41 Đức Giê-su bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!”
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ánh sáng và bóng tối, nhìn thấy và đui mù
Có mắt nhìn không có nghĩa là nhìn thấy, vì có rất nhiều những việc xảy ra chung quanh mà con người có mắt vẫn mù lòa không thấy. Chẳng hạn, biết bao nhiêu kỳ công của Thiên Chúa phơi bày trước mắt con người, mà nhiều người vẫn không nhận ra sự hiện hữu của Ngài và tin vào Ngài. Hay vì biết bao công ơn và tình yêu của cha mẹ dành cho mà một người mới có được như hôm nay, thế mà họ vẫn chẳng nhận ra để rồi tiếp tục sống vô ơn như mọi sự tự nhiên có.
Các bài đọc hôm nay đặt trọng tâm trong việc biết nhận ra và đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, tác giả Sách Samuel thứ nhất tường thuật sự kiện Thiên Chúa chọn David làm vua. Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn bên trong và coi nhẹ những vóc dáng bên ngoài; ngược lại, ngôn sứ Samuel coi trọng vóc dáng bên ngoài vì không thấy được những đức tính cao đẹp trong tâm hồn. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Ephesô phải sống đời sống mới trong Đức Kitô, vì ngài không chỉ nhìn thấy những tai hại của nếp sống cũ mang lại, mà còn nhìn thấy những lợi ích của đời sống mới khi họ chịu để cho Lời của Đức Kitô hướng dẫn cuộc đời. Trong Phúc Âm, thánh Gioan không chỉ tường thuật phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh; nhưng còn tường thuật tiến trình đức tin trong việc anh nhận ra Chúa Giêsu và tuyên xưng niềm tin nơi Ngài. Ngược lại với tiến trình của anh là diễn tiến dần dần trở nên đui mù của những kẻ tự nhận họ sáng mắt và biết Lề Luật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.
1.1/ Samuel tuy là ngôn sứ nhưng ông chỉ biết đánh giá theo dáng vẻ bên ngoài: Khi Đức Chúa đã truất phế vị vua đầu tiên của Do-thái là Saul, Ngài sai ngôn sứ Samuel chuẩn bị sẵn dầu đến Bethlehem, vào nhà ông Jesse, vì Ngài muốn chọn một trong những người con trai của ông này làm vua. Khi ông Jesse cho dẫn ra người con cả, Samuel nghĩ đấy là người Đức Chúa muốn xức dầu tấn phong, vì Eliab vừa là con cả, vừa có dáng bộ to lớn của ông vua; nhưng Đức Chúa cho Samuel biết không hội đủ điều kiện để làm vua theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Ngài nói với Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: “Đức Chúa không chọn những người này.”
1.2/ Thiên Chúa chọn và thần khí Đức Chúa nhập vào David: Samuel hỏi ông Jesse: “Các con ông có mặt đầy đủ chưa?” Ông Jesse trả lời: “Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.” Ông Samuel liền nói với ông Jesse: “Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.”
David vừa là đứa con út vừa không có bộ vó của một ông vua như Saul. Nếu xét theo tiêu chuẩn của con người, David không xứng đáng làm vua; nhưng Đức Chúa đã chọn và xức dầu tấn phong cậu. Tại sao? Trước tiên để cho mọi người thấy đó là việc làm của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người. Ngài có thể biết một trẻ yếu ớt theo tiêu chuẩn con người thành một vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử của Do-thái. Thứ hai, tiêu chuẩn làm vua của Do-thái phải là người biết kính sợ Thiên Chúa và lo lắng cho dân được an cư lạc nghiệp, Đức Chúa đã nhìn thấy những nét đẹp này nơi tâm hồn của David mà người đời không thấy được.
2/ Bài đọc II: Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!
2.1/ Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối: Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Ephesô: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Chúa.” Ngài có ý muốn nói khi các tín hữu lãnh nhận bí-tích Rửa Tội, là họ đoạn tuyệt với mọi bóng tối của cuộc sống cũ với những thói quen xấu xa và đam mê bất chính của nó; để mặc lấy Đức Kitô là ánh sáng và sự thật. Họ không chỉ tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô; nhưng còn phải thực hành những gì Ngài dạy để trở nên những con cái của ánh sáng, những người luôn biết làm những gì chân thật, biết sống công chính và thánh thiện trước mặt Thiên Chúa. Để có thể thực hiện những điều này, họ phải dứt hẳn ngay cả việc nói tới những tội lỗi cũ, vì nó tạo cơ hội cho họ trở về với nếp sống cũ.
2.2/ Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi: Thánh Phaolô liệt kê một số công dụng của ánh sáng và đồng hóa ánh sáng với Đức Kitô.
(1) Ánh sáng phơi bày mọi chỗ tăm tối: Ánh sáng chiếu tỏa đến đâu là bóng tối bị xua tan đến đó. Tất cả những khuyết điểm, xấu xa, tội lỗi chỉ có thể bị vạch trần nhờ ánh sáng. Người ta chỉ có thể đánh lừa người khác hay phạm tội trong những nơi tối tăm hay dưới ánh đèn mờ.
(2) Khi được phơi bày, mọi tội lỗi sẽ mất đi: “Bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng.” Bao lâu con người còn ở trong bóng tối, tội lỗi còn thống trị con người; nhưng nếu con người có can đảm đi ra khỏi bóng tối và sống trong ánh sáng, con người sẽ từ bỏ tội lỗi, biết sống thánh thiện, và trở thành con cái của ánh sáng. Những người phạm tội thích ở trong bóng tối để ánh sáng không phơi bày tội lỗi của họ; nhưng những người ghét tội thích ở trong ánh sáng để những việc lành của họ được tỏ lộ ra (Jn 3:20-21).
(3) Đức Kitô là ánh sáng cho con người: Khi chịu phép Rửa Tội, con người được trao cho cây nến sáng và được dặn: “Hãy mang lấy ánh sáng của Đức Kitô.” Vì thế, Ngôi Lời là ánh sáng thật soi chiếu trần gian, như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Ánh sáng đồng nghĩa với Lời Chúa, nếu một người chịu để cho Lời Chúa hướng dẫn cuộc đời và sống như vậy, họ sẽ ra khỏi chốn tối tăm và bước vào ánh sáng; nhưng nếu con người không chịu để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời, họ sẽ ngủ mê trong bóng tối, tử thần sẽ hướng dẫn và cướp đi cuộc đời của họ.
3/ Phúc Âm: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
3.1/ Người mù được Chúa Giêsu chữa cho nhìn thấy cách thể lý: Truyền thống Do-thái đồng hóa bệnh tật với tội lỗi (Jer 31:29-30), đó là lý do các môn đệ hỏi Người, khi họ nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”
Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.” Ngài không bác bỏ sự liên hệ giữa tội lỗi và hình phạt; nhưng Ngài muốn nói tới những trường hợp người chịu bệnh là lý do để mọi người nhìn thấy công trình của Thiên Chúa và tin vào Ngài.
Rồi Ngài nói tiếp: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Có hai tư tưởng quan trọng Chúa Giêsu mặc khải trong câu này: Thứ nhất, Chúa Giêsu là ánh sáng cho thế gian như Ngài đã nói ở nhiều nơi (Jn 1:4-9, 3:19-21, 5:35, 8:12, 9:5, 11:9-10, 12:35-36, 46), để họ nhìn thấy và tin vào Ngài. Thứ hai, mỗi người đều được Thiên Chúa ấn định cho một thời gian để làm việc cho Ngài, Chúa Giêsu cũng vậy. Tất cả mọi người phải làm việc của Thiên Chúa khi còn có thể, một khi đã mãn hạn, có muốn làm nữa cũng không làm được. Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Siloam mà rửa”. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.
3.2/ Người mù được soi sáng trong hành trình đức tin: Một điều làm Tin Mừng Gioan khác với Tin Mừng Nhất Lãm là Gioan không chỉ tường trình phép lạ; nhưng còn để ý đến những phản ứng của con người khi chứng kiến các phép lạ Chúa Giêsu làm. Trong trình thuật hôm nay, có hai phản ứng trái ngược nhau: phản ứng gia tăng đức tin của anh mù được sáng, từ chỗ không biết đến chỗ nhận ra và tin vào Chúa Giêsu; và phản ứng của những người Pharisees, từ chỗ sáng mắt đến chỗ phủ nhận phép lạ và gọi Chúa Giêsu là người tội lỗi.
(1) Người mù được sáng không biết Chúa Giêsu là ai trong khi những kẻ sáng mắt bắt đầu lẫn lộn. Có 3 phản ứng khi nhìn thấy anh mù lần đầu tiên được sáng: Phản ứng thứ nhất của những người hoài nghi, họ nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” Phản ứng thứ hai của những người xác quyết, họ nói: “Chính hắn đó!” Phản ứng thứ ba của những người phủ nhận, họ nói: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!”
Còn chính anh mù được sáng thì quả quyết: “Chính tôi đây!” Người ta liền hỏi anh: “Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” Anh ta trả lời: “Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy đến hồ Siloam mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” Họ lại hỏi anh: “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi không biết.”
(2) Người mù được sáng tuyên xưng Chúa Giêsu là ngôn sứ trong khi những kẻ sáng mắt bắt đầu mù: Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisees. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sabbath. Vậy, các người Pharisees hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”
Có một cuộc tranh luận xảy ra giữa họ về việc chữa bệnh trong ngày Sabbath và uy quyền của người chữa bệnh. Trong nhóm Pharisees, có người nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabbath.” Kẻ khác vặn lại: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh mù được sáng chắc chắn đã nghe cuộc tranh luận của họ, và cũng tự suy nghĩ về người đã làm ơn cho mình, anh tuyên xưng: “Người là một vị ngôn sứ!”
(3) Người mù được soi sáng phần trí tuệ để nhận ra Chúa Giêsu là người bởi Thiên Chúa mà đến trong khi những kẻ sáng mắt và làm thầy dạy kết tội Chúa Giêsu là người tội lỗi.
Có một sự kiện khác thường xảy ra là những người Pharisees điều tra cha mẹ của anh mù. Chúng ta thử tìm hiểu tại sao họ làm như thế? Có thể họ không tin anh đã mù thật và muốn lấy lời chứng từ cha mẹ anh. Điều này cha mẹ anh đã làm chứng: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” Có thể họ muốn biết về người chữa bệnh cho anh. Điều này cha mẹ anh không trả lời, có thể vì họ không biết hay vì sợ, như Gioan chú thích: “Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.” Sự kiện người Do-thái trục xuất các Kitô hữu ra khỏi hội đường chỉ xảy ra trong công đồng Jamnia, vào năm 90AD. Nhiều học giả cho trình thuật điều tra cha mẹ anh được thêm vào sau này.
A. Những người tự nhận mình là bậc thầy của thiên hạ vì tự ái kết tội Chúa Giêsu là người tội lỗi. Tuy đã nhận được lời chứng từ cha mẹ anh, họ vẫn không tin. Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” Rồi họ lại hỏi anh: “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” Anh mù được sáng bắt đầu bực mình vì họ cứ hỏi đi hỏi lại mãi một câu, anh châm biếm họ có lẽ cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng. Họ mắng nhiếc anh: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Moses. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Moses; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến.” Và họ hạ nhục anh: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.
B. Anh mù được sáng dùng lý luận để nhận ra Chúa Giêsu phải đến từ Thiên Chúa: Anh mù được sáng đưa ra một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” Rồi anh chất vấn uy quyền làm thầy dạy của họ: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” Anh không biết Lề Luật vì mù, nhưng anh không mất khả năng suy tư. Anh nhận ra lời cáo buộc của họ về người làm ơn cho anh là điều không đúng, và anh nhận ra Ngài phải đến từ Thiên Chúa.
(4) Người mù được sáng tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu trong khi những người sáng mắt trở nên đui mù.
A. Người mù được sáng tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi Người gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
Chúng ta có thể hiểu phần nào tâm trạng của anh: bị mù từ lúc mới sinh nay được chữa sáng, không một ai chia sẻ nỗi vui mừng với anh; trái lại, anh còn phải trải qua hết cuộc thanh tra này đến cuộc thanh tra khác, và sau cùng họ trục xuất anh khỏi hội đường. Chỉ một Người không chỉ chữa lành cho anh, nhưng còn đón nhận anh khi mọi người ruồng bỏ. Làm sao anh lại không tin nhận Người ấy!
B. Những người sáng mắt trở nên đui mù cách thể lý: Những người Pharisees có mắt mà không nhìn thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm thì cũng như mù vậy. Hơn nữa, họ còn được Chúa Giêsu nhắc nhở: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” Nhưng vì kiêu ngạo và tự ái, họ còn tự biện bác: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy,” nên tội các ông vẫn còn!” Họ tuy không nhìn thấy Chúa Giêsu làm phép lạ, nhưng đã có lời của hai nhân chứng, và theo Lề Luật, lời của hai nhân chứng đủ để cho họ tin. Hơn nữa, nếu họ chịu suy nghĩ đến ngọn nguồn như anh mù được sáng, họ cũng sẽ nhận ra Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa; nhưng họ để cho tính kiêu ngạo và tự ái làm mù mắt của họ
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy tập nhìn và đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Để được như thế, chúng ta phải để cho Lời Chúa soi sáng và thấm nhập tâm hồn.
– Khi chứng kiến những việc kỳ diệu Thiên Chúa làm nơi tha nhân, chúng ta hãy suy nghĩ cẩn thận đến ngọn nguồn để nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mặc khải. Đừng bao giờ để những tự ái, ghen tị, và lợi nhuận thống trị, để rồi chúng ta từ chối luôn cả những gì Thiên Chúa thực hiện.

SUNDAY OF THE 4 LENTA
Readings: 1 Sam 16:1b, 6-7, 10-13a; Eph 5:8-14; Jn 9:1-41 (9:1, 6-9, 13-17, 34-38).
1/ Reading I: RSV 1 Samuel 16:1 The LORD said to Samuel, I will send you to Jesse the Bethlehemite, for I have provided for myself a king among his sons.” 6 When they came, he looked on Eliab and thought, “Surely the LORD’S anointed is before him.” 7 But the LORD said to Samuel, “Do not look on his appearance or on the height of his stature, because I have rejected him; for the LORD sees not as man sees; man looks on the outward appearance, but the LORD looks on the heart.” 10 And Jesse made seven of his sons pass before Samuel. And Samuel said to Jesse, “The LORD has not chosen these.” 11 And Samuel said to Jesse, “Are all your sons here?” And he said, “There remains yet the youngest, but behold, he is keeping the sheep.” And Samuel said to Jesse, “Send and fetch him; for we will not sit down till he comes here.” 12 And he sent, and brought him in. Now he was ruddy, and had beautiful eyes, and was handsome. And the LORD said, “Arise, anoint him; for this is he.” 13 Then Samuel took the horn of oil, and anointed him in the midst of his brothers; and the Spirit of the LORD came mightily upon David from that day forward.
2/ Reading II: RSV Ephesians 5:8 for once you were darkness, but now you are light in the Lord; walk as children of light 9 (for the fruit of light is found in all that is good and right and true), 10 and try to learn what is pleasing to the Lord. 11 Take no part in the unfruitful works of darkness, but instead expose them. 12 For it is a shame even to speak of the things that they do in secret; 13 but when anything is exposed by the light it becomes visible, for anything that becomes visible is light. 14 Therefore it is said, “Awake, O sleeper, and arise from the dead, and Christ shall give you light.”
3/ Gospel: RSV John 9:1 As he passed by, he saw a man blind from his birth. 2 And his disciples asked him, “Rabbi, who sinned, this man or his parents, that he was born blind?” 3 Jesus answered, “It was not that this man sinned, or his parents, but that the works of God might be made manifest in him. 4 We must work the works of him who sent me, while it is day; night comes, when no one can work. 5 As long as I am in the world, I am the light of the world.” 6 As he said this, he spat on the ground and made clay of the spittle and anointed the man’s eyes with the clay, 7 saying to him, “Go, wash in the pool of Siloam” (which means Sent). So he went and washed and came back seeing. 8 The neighbors and those who had seen him before as a beggar, said, “Is not this the man who used to sit and beg?” 9 Some said, “It is he”; others said, “No, but he is like him.” He said, “I am the man.” 10 They said to him, “Then how were your eyes opened?” 11 He answered, “The man called Jesus made clay and anointed my eyes and said to me, `Go to Siloam and wash’; so I went and washed and received my sight.” 12 They said to him, “Where is he?” He said, “I do not know.” 13 They brought to the Pharisees the man who had formerly been blind. 14 Now it was a Sabbath day when Jesus made the clay and opened his eyes. 15 The Pharisees again asked him how he had received his sight. And he said to them, “He put clay on my eyes, and I washed, and I see.” 16 Some of the Pharisees said, “This man is not from God, for he does not keep the Sabbath.” But others said, “How can a man who is a sinner do such signs?” There was a division among them. 17 So they again said to the blind man, “What do you say about him, since he has opened your eyes?” He said, “He is a prophet.” 18 The Jews did not believe that he had been blind and had received his sight, until they called the parents of the man who had received his sight, 19 and asked them, “Is this your son, who you say was born blind? How then does he now see?” 20 His parents answered, “We know that this is our son, and that he was born blind; 21 but how he now sees we do not know, nor do we know who opened his eyes. Ask him; he is of age, he will speak for himself.” 22 His parents said this because they feared the Jews, for the Jews had already agreed that if any one should confess him to be Christ, he was to be put out of the synagogue. 23 Therefore his parents said, “He is of age, ask him.” 24 So for the second time they called the man who had been blind, and said to him, “Give God the praise; we know that this man is a sinner.” 25 He answered, “Whether he is a sinner, I do not know; one thing I know that though I was blind, now I see.” 26 They said to him, “What did he do to you? How did he open your eyes?” 27 He answered them, “I have told you already, and you would not listen. Why do you want to hear it again? Do you too want to become his disciples?” 28 And they reviled him, saying, “You are his disciple, but we are disciples of Moses. 29 We know that God has spoken to Moses, but as for this man, we do not know where he comes from.” 30 The man answered, “Why, this is a marvel! You do not know where he comes from, and yet he opened my eyes. 31 We know that God does not listen to sinners, but if anyone is a worshiper of God and does his will, God listens to him. 32 Never since the world began has it been heard that any one opened the eyes of a man born blind. 33 If this man were not from God, he could do nothing.” 34 They answered him, “You were born in utter sin, and would you teach us?” And they cast him out. 35 Jesus heard that they had cast him out, and having found him he said, “Do you believe in the Son of man?” 36 He answered, “And who is he, sir, that I may believe in him?” 37 Jesus said to him, “You have seen him, and it is he who speaks to you.” 38 He said, “Lord, I believe”; and he worshiped him. 39 Jesus said, “For judgment I came into this world, that those who do not see may see, and that those who see may become blind.” 40 Some of the Pharisees near him heard this, and they said to him, “Are we also blind?” 41 Jesus said to them, “If you were blind, you would have no guilt; but now that you say, `We see,’ your guilt remains.
________________________________________
I. THEME: Light and darkness, sight and blindness
People have eyes; but it doesn’t mean they would see because there are many things happened around them that they don’t see. For examples, there are so many God’s wonderful works displayed before their eyes, some still don’t recognize His existence and believe in Him. There are so many favors which parents have done for their children so that they become what they are now; many children still don’t recognize the favors and continue to live ungracefully as though they never happened.
Today readings center on the theme people must recognize and evaluate all things according to God’s standards. In the first reading, the author of the First Book of Samuel reported the event God selects David to be the king of Israel. God sees through the heart and disregards the appearance while the prophet Samuel paid attention to the appearance because he can’t see the beauty of a human mind. In the second reading, St. Paul advised the Ephesians to live a new life in Christ because he not only knew the dangers of their old life but also the benefits of the new life when they let Christ’s word guide their life. In the Gospel, the author of the Fourth Gospel not only reported a miracle in which Jesus healed a man born blind, but also wanted to highlight the progress of his faith in his recognition of Jesus’ identity and believing in him. Beside his progress is the gradually becoming blindness of the Jews who pride themselves on their sight and knowing about God; but denied Jesus who is sent by God and the miracle.
II. ANALYSIS
1/ Reading I: “For man looks on the outward appearance, but the Lord looks on the heart.”
1.1/ The prophet Samuel evaluated the candidate according to his appearance: When the Lord deposed Saul, the Israelites’ first king, because of his disobedience, He sent the prophet Samuel to Jesse’s house in Bethlehem to anoint one of his children to replace Saul.
When Jesse introduced Eliab, his first son, Samuel thinks he is the one whom God wants to be the king before he is Jesse’s first-born and has a high stature of a king; but God let Samuel know Eliab didn’t have qualities according to God’s standards. He said to Samuel, “Do not look on his appearance or on the height of his stature, because I have rejected him; for the Lord sees not as man sees; man looks on the outward appearance, but the Lord looks on the heart.” Then, Jesse made seven of his sons pass before Samuel, but the prophet said to Jesse, “The Lord has not chosen these.”
1.2/ God selected David, the youngest son to be the king: Samuel said to Jesse, “Are all your sons here?” He replied, “There remains yet the youngest, but behold, he is keeping the sheep.” Samuel said to Jesse, “Send and fetch him; for we will not sit down till he comes here.”
David is both the youngest and has a small stature. If considering him according to human standard, he isn’t worthy to be the king; but there are reasons for God’s choice. First, God wants people to know that it is His work, not human merits. God has power to make a young and weak child to be the most famous king of the Israelites. Secondly, the good king must be the one who reveres God and cares for His people. God sees the beauty of David’s mind which people didn’t recognize it.
2/ Reading II: “For the fruit of light is found in all that is good and right and true.”
2.1/ Don’t co-operate in useless things of the children of darkness: St. Paul advised the Ephesians, “For once you were darkness, but now you are light in the Lord; walk as children of light and try to learn what is pleasing to the Lord. Take no part in the unfruitful works of darkness, but instead expose them.”
Paul would like to say that when the Ephesians received the sacrament of Baptism, they promised to terminate all darkness of their old life, together with all bad habits and immoral passions; to put on Christ who is the light and the truth. They not only proclaimed their faith in Christ but also promised to practice what he teaches to become the children of light, those who always act according to the truth, live righteous and holy before God. In order to achieve these things, they must stop speaking of the things that they used to do in secret, because it creates chances for them to return to their old life.
2.2/ Christ shall enlighten you: St. Paul identified Christ with light and describes some applications of light.
(1) Light displays all darkness: Wherever light shines to, darkness is dispelled. All weaknesses, evil desires and sins are displayed by light. People can be deceived or sin in darkness or dim places.
(2) Sins shall disappear when they are displayed: Paul said, “When anything is exposed by the light it becomes visible, for anything that becomes visible is light.” As long as people stay in darkness, sins dominate their life; but if people have courage to come out of darkness and to live in light, they shall give up their sins, live holy and become the children of light. Those who sin like to stay in darkness so that light can’t display their sins; but those who hat sins like to stay in light so their good works are displayed (Jn 3:20-21).
(3) Christ is the light for men: When people are baptized, the minister hands for them a candle which is lighted from the Paschal candle, and commands, “Put on Christ’s light.” Therefore, the Word is the true light that shines in the world, as Jesus said to his disciples in today gospel, “As long as I am in the world, I am the light of the world.”
Light is identified with God’s words. If people let God’s words guide their life and live according to it, they shall get out of darkness and enter into light; but if people don’t let God’s words guide their life, they shall sleep in darkness, and death shall guide and take away their life. Therefore, Paul invited his faithful, “Awake, O sleeper, and arise from the dead, and Christ shall give you light.”
3/ Gospel: “For judgment I came into this world, that those who do not see may see, and that those who see may become blind.”
3.1/ The man born blind was healed by Jesus: The Jewish tradition identifies suffering is the result of sin (Jer 31:29-30), either of the individual or the parents or the ancestors’ sins. This is the reason why Jesus’ disciples asked Jesus, “Rabbi, who sinned, this man or his parents, that he was born blind?”
Jesus answered them, “It was not that this man sinned, or his parents, but that the works of God might be made manifest in him.” Jesus didn’t deny the connection between sin and punishment; but he gave us another reason for suffering—that the works of God might be made manifest in him. The works of God are the miracles that Jesus performed to light up the faith in people (Cf. Jn. 5:36; 6:28-29; 7:3; 10:25, 32, 37; 14:10-12; 15:24). In this chapter, what Jesus did to the man born blind, led him to profess his faith in Jesus.
Then, Jesus continued, “We must work the works of him who sent me, while it is day; night comes, when no one can work. As long as I am in the world, I am the light of the world. There are two important revelations in this sentence:
(1) Jesus is the light of the world as he mentioned in many places (Jn 1:4-9, 3:19-21, 5:35, 8:12, 9:5, 11:9-10, 12:35-36, 46), so that people can see and believe in Him.
(2) God gives everyone a fixed time to work for Him, including Jesus’ time on earth. All must fulfill God’s works during this time; when this time is expired, people can’t work.
At Jesus’ time, people don’t work at night because they don’t have electricity as we have now. People only work during the day; night is the time to sleep.
Jesus healed many blind people in the gospels. Sometimes he healed them by touching their eyes (Mt. 9:29; 20:34), or by commanding (Mk. 8:25-26; 10:52; Lk. 18:42). In this passage, he healed the man born blind by making mud with his spittle and anointing around the blind’s eyes. The reason why Jesus made mud probably is to give an occasion for the Pharisees to accuse him of working in the Sabbath later. Sending the blind to Siloam to wash reminds us of Elisha’s sending of Naaman the Syria to wash his leprosy in the Jordan River. He went and washed and his sight is recovered.
3.2/ The healing man was enlightened in his journey of faith: One notorious thing that makes a difference between the Johannine gospel and the Synoptic is that John not only reported the miracle but also the reactions of those who witnessed the miracles. In today gospel, there are two opposite reactions: while the man born blind’s faith is progressed from not knowing Jesus to his recognizing and believing in him, some Pharisees and Jews condemned Jesus as a sinner because he violated the Sabbath.
(1) The man didn’t know who Jesus is and the ones who know him before are confused. The author reported three reactions of people after the man was healed. Someone recognized he was the beggar and now healed. Other said it is not him. Still other said it is someone likes him.
The man who was healed confirmed “I am!” They said to him, “Then how were your eyes opened?” He answered, “The man called Jesus made clay and anointed my eyes and said to me, `Go to Siloam and wash’; so I went and washed and received my sight.” They said to him, “Where is he?” He said, “I do not know.”
(2) The healing man proclaimed Jesus as a prophet while some Pharisees became blind: There are two questions the Pharisees wanted to ask the man: The first is, “How were your eyes opened?” He answered, “The man called Jesus made clay and anointed my eyes and said to me, `Go to Siloam and wash’; so I went and washed and received my sight.” At first, he only knew the one who healed him as “the man called Jesus.” The second question is, “Where is he?” The man said, “I do not know.”
The Pharisees were confronted with a dilemma: Some of the Pharisees said, “This man is not from God, for he does not keep the Sabbath.” Violating the Sabbath is the sign of the sinner and can be stoned to death. We knew that Jesus argued many times against this accusation somewhere in the Synoptic, “Is it lawful on the Sabbath to do good or to do harm, to save life or to kill?” (Mk. 3:4). Charity is more important than keeping the Sabbath. But others said, “How can a man who is a sinner do such signs?” There was a division among them. When facing a dilemma, people must make an effort to find out the true answer. The healing man heard their discussion and he might also ponder the identity of the one who healed him. Therefore, when was asked by the Pharisees about the healer’s identity, he said to them, “He is a prophet.”
(3) The man was enlightened to recognize his healer must come from God while the Jews condemned his healer is a sinner: The people who interrogated the parents now are the Jews, not the Pharisees as in the first interrogation. The Jews asked his parents, “Is this one your son, who you say was born blind? How then does he now see?” His parents answered, “We know that this is our son and that he was born blind; but how he now sees we do not know, nor do we know who opened his eyes. Ask him; he is of age, he will speak for himself.”
His parents had a valid reason to answer “we do not know,” because they didn’t witness the healing. He is of age means he can live by himself. In today society, one must be over 18 years old. His parents said this because they feared the Jews, for the Jews had already agreed that if any one should confess him to be Christ, he was to be put out of the synagogue. This comment must be added later because there is no proof of being “put out of the synagogue” at Jesus’ time. At the Jewish Council at Jamnia on 95 AD, they did issue a decree like that.
For the second time they called the man who had been blind, and said to him, “Give God the praise; we know that this man is a sinner.” They seem to accept the fact that the miracle happened and tell the man to “give God the praise.” They condemned the healer is a sinner because he violated the Sabbath. The man reasoned, “Whether he is a sinner, I do not know; one thing I know, that though I was blind, now I see.”
The third interrogation is between the Jews and the man born blind. They said to him, “What did he do to you? How did he open your eyes?” This is the third time he is interrogated with the same question, and he is getting angry. He answered them, “I have told you already, and you would not listen. Why do you want to hear it again? Do you too want to become his disciples?” And they reviled him, saying, “You are his disciple, but we are disciples of Moses. The Jews chose to protect the law and Moses is identified with the law, “We know that God has spoken to Moses, but as for this man, we do not know where he comes from.”
The man began to reason, “Why, this is a marvel! You do not know where he comes from, and yet he opened my eyes.” God gives him the intellect to reason. His eyes were blind but not his reason. He was enlightening to know the truth from the falsity. The healing of his eyes is the fact that can’t be denied. He continued, “We know that God does not listen to sinners, but if anyone is a worshiper of God and does his will, God listens to him.” His reason can be outlined as follows:
– He knows the truth is that “if anyone is a worshiper of God and does his will, God listens to him.”
– “Never since the world began has it been heard that any one opened the eyes of a man born blind.”
– But God listened to Jesus and healed him.
And the man concluded, “If this man were not from God, he could do nothing.” He believed that Jesus is from God.
The Jews are in position of the ones who must know better than him because they have eyes to study the law. They should be able to give him the answer about Jesus! But they answered him, “You were born in utter sin, and would you teach us?” And they cast him out.
The Jews who follow the Jewish tradition believed punishments are the result of sins. The man was born blind because he is a sinner, born in utter sin because he is blind from his mother’s womb. Due to his physical blind, he is also blind in intellectual and spiritual areas. In opposition, they pride themselves with their sight, knowledge and relationship with God as the leaders of people. When were challenged by the man, they not only got angry but also used their power to suppress the man who questioned their authority by casting him out.
(4) The man confessed his faith in Jesus while some Jews and Pharisees became blind:
A. Jesus and the man born blind: When Jesus heard that they had cast him out, and having found him he said, “Do you believe in the Son of man?” Blind from birth and was healed should be a joyful event to celebrate; but it is sad that the man was interrogated so many times and cast out from the synagogue. He must defend himself because his parents didn’t defend him because they fear of the Jews. Only Jesus is the person who not only healed him but cared enough to search for him when he is cast out. He answered, “And who is he, sir, that I may believe in him?” Jesus said to him, “You have seen him, and it is he who speaks to you.” At this moment, he was enlightened to know that Jesus is the one who healed, cared for and was talking to him, so he confessed, “Lord, I believe”; and worshiped him.
B. Jesus and the Pharisees: Jesus said, “For judgment I came into this world, that those who do not see may see, and that those who see may become blind.” Jesus talked about both physical seeing (eyes) and spiritual seeing (the truth). The man now sees and understands the truth about Christ while the Jews don’t understand the truth about him.
Some of the Pharisees near him heard this, instead of humbly finding the correct answer of their question about Jesus, they let their pride take over and felt being humiliated by Jesus’ proclamation, so they said to him, “Are we also blind?”
Jesus said to them, “If you were blind, you would have no guilt; but now that you say, `We see,’ your guilt remains. God gives people the eyes to see and the intellect to reason about what they are seeing to recognize God’s existence, power and identity. If having both these faculties, the eyes and the intellect, and failing to recognize things about God, people shall be judged by Him.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We should see, think and evaluate everything according to God’s standard. In order to achieve this, we must let God’s word enlighten and permeate our soul.
– When witnessing God’s wonderful works in others, we should carefully reason to the root to understand what God wants to reveal to us. Never let our pride, jealousy and greed govern our mind so that we deny even His wonderful works.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP