Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật III – Năm C – Mùa Vọng

Bài đọc: Sop 3:14-18a; Phi 4:4-7; Lk 3:10-18.
1/ Bài đọc I: 14 Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
15 Án lệnh phạt ngươi, ĐỨC CHÚA đã rút lại,
thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa.
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là ĐỨC CHÚA.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.
16 Ngày ấy, người ta sẽ bảo Giê-ru-sa-lem:
“Này Xi-on, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời.”
17 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,
Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.
Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ,
sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng 18 như trong ngày lễ hội.
2/ Bài đọc II: 4 Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!
5 Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến.
6 Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.
7 Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô.
3/ Phúc Âm: 10 Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?”
11 Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.”
12 Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.”
14 Binh lính cũng hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.”
15 Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a!
16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.
17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.”
18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan báo Tin Mừng cho họ.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến.
Con người bị đau khổ hay thất vọng vì bị chi phối bởi rất nhiều sợ hãi như: thất bại, tù đày, nô lệ, tội lỗi, chia ly, chết chóc, và nhất là sự phán xét và hình phạt của Thiên Chúa. Ngược lại, con người vui mừng khi những sợ hãi này được cất nhắc đi như: tù nhân hay nô lệ trong chốn lưu đày sắp được phóng thích, như như sinh viên sắp ra trường vì đã hoàn tất mọi thách đố của các cuộc khảo hạch, như một người sắp được chính thức sống hạnh phúc với người mình yêu mến. Chủ Nhật III Mùa Vọng được gọi là Chủ Nhật của niềm vui và của hy vọng, vì Đấng Thiên Sai đã gần đến. Ngài đến để xua tan đi tất cả những đau khổ, thất vọng, tội lỗi, và mang lại niềm vui và ơn cứu độ đến cho muôn người.
Các Bài Đọc hôm nay diễn tả niềm vui tuyệt đỉnh khi con người có được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời; vì có Ngài là có tất cả mọi sự. Trong Bài Đọc I, ngôn-sứ Sophonia kêu gọi con cái Israel hãy vui mừng lên vì Thời Lưu Đày sắp chấm dứt. Thiên Chúa sắp “rút lại án phạt và đẩy xa kẻ thù” khỏi họ. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu Philipphê hãy vui mừng và phải vui luôn trong niềm vui của Thiên Chúa, vì khi một người đã có Chúa, họ không còn thiếu một sự gì nữa cả. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả kêu gọi dân chúng hãy vui mừng lên vì Đấng Thiên Sai gần tới. Ngài sẽ thanh tẩy mọi tội lỗi và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hãy nức lòng phấn khởi vì Đức Chúa đã rút lại án lệnh phạt ngươi.
1.1/ Nhà Israel vui mừng: Để hiểu trình thuật hôm nay, chúng ta cần hiểu hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Israel trong thời gian này. Toàn cõi Israel đã bị quân thù chinh phục, Đền thờ và thành thánh Jerusalem bị san phẳng, dân chúng đang sống trong hai nơi lưu đày: vương quốc Israel miền Bắc tại Assyria và vương quốc Judah miền Nam tại Babylon. Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, và chịu đựng mọi đau khổ của người lưu đày như thế, con cái Israel mất hết niềm tin và hy vọng. Nỗi đau thấm thía nhất là họ đã bị Thiên Chúa bỏ rơi để họ làm mồi cho quân thù.
(1) Lời kêu gọi vui mừng: Nhưng tình thương Thiên Chúa đã thắng vượt mọi sự bất trung của con cái Israel, đó là lý do mà tiên tri Sophoniah được sai đến để loan tin vui mừng cho con cái Israel: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy nức lòng phấn khởi.” Sion, Israel, và Jerusalem tượng trưng cho tất cả con cái Israel. Vì đây là một tin mừng vô cùng lớn lao mà họ đang mong đợi; nên họ không thể giữ trong lòng, mà phải biểu tỏ mãnh liệt ra bên ngoài.
(2) Lý do vui mừng: Tiên-tri Sophoniah nêu rõ lý do của sự vui mừng: “Án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa. Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa. Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến ngươi phải sợ.” Lý do của nô lệ và lưu đày là con cái Israel đã bất tuân chỉ thị của Thiên Chúa và chạy theo các thần ngoại bang; vì thế, Ngài đã để cho quân thù ngoại bang giày xéo đất nước để cảnh cáo và thanh luyện họ. Giờ đây, thời gian thanh luyện sắp chấm dứt, cảnh lưu đày sắp hết, nhất là họ được nối lại tình xưa nghĩa cũ với Thiên Chúa. Họ phải vui mừng mãnh liệt, vì khi có sự hiện diện của Thiên Chúa, Ngài sẽ bảo vệ họ, và quân thù sẽ không làm hại được họ.
1.2/ Thiên Chúa vui mừng: Đau khổ không chỉ hành hạ con người, nhưng còn ảnh hưởng đến Thiên Chúa, vì Ngài luôn yêu thương và lo lắng cho con người. Vì thế, khi con người được thoát khỏi cảnh nhục nhã u sầu, Thiên Chúa cũng vui mừng hoan hỷ với niềm vui của con người.
Tiên-tri diễn tả sự vui mừng của Thiên Chúa khi đón nhận con cái Israel trở về: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.”
2/ Bài đọc II: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa.
2.1/ Hãy luôn luôn vui mừng: Thánh Phaolô thực sự cảm nhận được niềm vui của người có Thiên Chúa là có tất cả. Chính vì thế mà ngài đã kêu gọi các tín hữu Philipphê: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến.”
Vui tươi là dấu chỉ một người có Thiên Chúa; vì thế, người tín hữu phải vui mừng luôn vì họ có Thiên Chúa ở với họ. Con người chỉ lo sợ và buồn sầu khi con người sống xa cách với Thiên Chúa và chạy theo những hào nhoáng của thế gian; để rồi phải lãnh nhận mọi hậu quả đau thương từ thế gian mang tới. Thánh Phaolô cũng khuyên các tín hữu phải sống “hiền từ rộng rãi,” có nghĩa phải sống công bằng và thương xót. Giống như Thiên Chúa, Ngài không chỉ đối xử công bằng, nhưng còn thương xót con người đã bất trung với Ngài; chỉ như thế, con người mới có cơ hội làm lại cuộc đời.
2.2/ Hãy cầu nguyện luôn: Con người lo lắng sợ hãi khi bị đe dọa bởi những khó khăn và thách đố trong cuộc sống. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy giải tỏa những lo âu sợ hãi bằng việc cầu nguyện: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.” Mấy điều con người cần lưu ý khi cầu nguyện với Thiên Chúa:
– Cầu nguyện với Thiên Chúa trong mọi sự: không có sự gì to lớn vượt quá uy quyền của Thiên Chúa, và cũng không có sự gì quá nhỏ đối với sự săn sóc nhân hậu của Ngài. Hãy đặt trong tay Thiên Chúa tất cả tội lỗi của quá khứ, các vấn nạn đang xảy ra trong hiện tại, và những lo âu sẽ xảy đến trong tương lai.
– Cầu nguyện với lòng tin tưởng tuyệt đối: Khi con người cầu nguyện với Thiên Chúa, họ phải tin họ đang cầu nguyện với: một Thiên Chúa khôn ngoan vì Ngài thấu hiểu mọi sự; một Thiên Chúa uy quyền vì Ngài làm được mọi sự; một Thiên Chúa là Cha nhân hậu vì Ngài sẵn sàng ban mọi ơn lành cho con cái của mình.
– Cầu nguyện giúp con người tìm được bình an trong tâm hồn: Một tác giả đã nói “bình an là hiệu quả của lời cầu xin tin tưởng.” Một khi đã tin tưởng hoàn toàn nơi tình yêu và uy quyền của Thiên Chúa, con người phó thác cho Ngài mọi sự, họ sẽ không còn ưu tư, lo lắng; và như thế, sẽ có được sự bình an thực sự trong tâm hồn. Thánh Phaolô cũng xác tín điều này với các tín hữu: “Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Giêsu Kitô.” Chỗ khác ngài nói: Nếu Thiên Chúa đã rộng lượng ban cho con người Đức Kitô, thì còn gì Ngài lại không ban cho con người?
3/ Phúc Âm: Phải làm gì để chuẩn bị đón mừng Chúa đến?
3.1/ Phải chuẩn bị tâm hồn bằng cách thay đổi cuộc sống: Không phải ai cũng có thể nhận ra và đón nhận Đức Kitô, Đấng Thiên Sai Thiên Chúa ban tặng cho con người. Lịch sử chứng minh, nhiều người không những đã không nhận ra Ngài, lại còn luận tội và tìm cách giết đi chính Đấng ban sự sống. Khi các người Do-thái tìm đến với Gioan, hỏi ông cách chuẩn bị để đón nhận Đấng Thiên Sai, ông cho biết con người cần khiêm nhường và thay đổi cuộc sống cho phù hợp với sự thật. Gioan cho những lời khuyên rất thực tế và cụ thể cho từng lớp người: ông không đòi hối nhân phải thay đổi nghề nghiệp; nhưng thay đổi thái độ thi hành nghề nghiệp đó.
(1) Với đám đông: Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Gioan dạy dân: Hãy thực thi bác ái bằng cách chia sẻ cho tha nhân những gì mình có. Đức Kitô cũng dạy dân: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
(2) Những người thu thuế: Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Cám dỗ của giới thu thuế là thu vào quá mức ấn định, để giữ lại cho mình số thu thặng dư đó. Gioan khuyên họ phải thực thi công bằng, bằng cách bằng lòng với số lương chính phủ trả, và trả lại cho tha nhân những gì mình đã thâu thặng dư.
(3) Những binh lính: Họ hỏi ông: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” Cám dỗ của binh lính là cậy mình có vũ khí trên tay nên dễ đàn áp dân chúng. Ông Gioan khuyên họ hãy sống thật với lương tâm, đừng lấy của người dân vô tội, đừng hãm hiếp phụ nữ; nhưng hãy bằng lòng với số lương chính phủ trả cho họ.
3.2/ Sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và Gioan Tẩy Giả: Cách thức sinh sống và rao giảng của Gioan làm nhiều người đặt câu hỏi: “biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Messiah!”
Ông Gioan rất thành thực và đánh tan mọi nỗi nghi ngờ của dân chúng, ông nói với dân hai sự khác biệt giữa Đấng Thiên Sai và ông:
(1) Sự khác biệt về uy quyền: Gioan nói về Đấng Thiên Sai: “Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Ông chỉ là người dọn đường cho Đấng Thiên Sai, người chuẩn bị tâm hồn cho dân để gặp gỡ Đấng Cứu Thế.
Đấng Thiên Sai còn có uy quyền xét xử và thưởng phạt con người tùy theo việc làm của họ: “Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” Gioan Tẩy Giả không có quyền xét xử và thưởng phạt con người.
(2) Sự khác biệt giữa hai phép rửa: Ông Gioan trả lời mọi người rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”
Phép rửa của Gioan là phép rửa mà truyền thống Do-thái vẫn làm cho những người muốn theo đạo Do-thái; đó là phép rửa trong nước để tha tội. Phép Rửa của Đức Kitô là Phép Rửa trong Thánh Thần và lửa để thánh hóa con người. Để xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, con người không chỉ cần được thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi, mà còn cần được làm cho trở nên thánh thiện và tinh tuyền. Điều này chỉ có thể hiện thực với Phép Rửa của Đức Kitô.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Khi con người sống xa Thiên Chúa, con người sống trong lo âu và sợ hãi. Để có niềm vui đích thực, chúng ta phải quay trở về với Thiên Chúa và sống trong sự hiện diện của Ngài.
– Con người nghĩ để có hạnh phúc, con người phải có tự do để làm bất cứ điều gì mình muốn. Thực tế chứng minh ngược lại: để có niềm vui và hạnh phúc đích thực, con người cần sống theo những lời chỉ dạy của Thiên Chúa.
– Niềm vui trọn vẹn chỉ có được khi con người hoàn toàn tin tưởng nơi Thiên Chúa. Ngài sẽ dạy dỗ, săn sóc, bảo vệ, và ban cho con người sự bình an đích thực trong tâm hồn.
– Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn bằng cách khử trừ mọi tội lỗi và sống công bằng bác ái với tha nhân.

Third Sunday – Year C – Advent

Readings: Zep 3:14-18a; Phi 4:4-7; Lk 3:10-18.
Reading 1 (Zep 3:14-18a):
Shout for joy, O daughter Zion!
Sing joyfully, O Israel!
Be glad and exult with all your heart,
O daughter Jerusalem!
The LORD has removed the judgment against you
he has turned away your enemies;
the King of Israel, the LORD, is in your midst,
you have no further misfortune to fear.
On that day, it shall be said to Jerusalem:
Fear not, O Zion, be not discouraged!
The LORD, your God, is in your midst,
a mighty savior;
he will rejoice over you with gladness,
and renew you in his love,
he will sing joyfully because of you,
as one sings at festivals.
Reading 2 (Phi 4:4-7):
Brothers and sisters:
Rejoice in the Lord always.
I shall say it again: rejoice!
Your kindness should be known to all.
The Lord is near.
Have no anxiety at all, but in everything,
by prayer and petition, with thanksgiving,
make your requests known to God.
Then the peace of God that surpasses all understanding
will guard your hearts and minds in Christ Jesus.
Gospel (Lk 3:10-18):
The crowds asked John the Baptist,
“What should we do?”
He said to them in reply,
“Whoever has two cloaks
should share with the person who has none.
And whoever has food should do likewise.”
Even tax collectors came to be baptized and they said to him,
“Teacher, what should we do?”
He answered them,
“Stop collecting more than what is prescribed.”
Soldiers also asked him,
“And what is it that we should do?”
He told them,
“Do not practice extortion,
do not falsely accuse anyone,
and be satisfied with your wages.”
Now the people were filled with expectation,
and all were asking in their hearts
whether John might be the Christ.
John answered them all, saying,
“I am baptizing you with water,
but one mightier than I is coming.
I am not worthy to loosen the thongs of his sandals.
He will baptize you with the Holy Spirit and fire.
His winnowing fan is in his hand to clear his threshing floor
and to gather the wheat into his barn,
but the chaff he will burn with unquenchable fire.”
Exhorting them in many other ways,
he preached good news to the people.
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh M. Tien, O.P.
I. THEME: Rejoice because our salvation is near.
People are sad, worry and hopeless because they are threatened by many fears such as: failure, prison, slavery, sins, separation, death, especially God’s judgment and punishment. In opposition, people are joyful when all these fears are lifted up: as prisoners or slaves were set free, as students were graduated after passing all examinations, as lovers were lived with their beloved.
The third Sunday of Advent is called “laetare,” meaning the Sunday of joy and hope because the Messiah is coming. He comes to take away all sufferings, sins and despair by filling up with joy, love and salvation.
Today readings express the wonderful joy when people have God in their life because when they have Him, they have everything. In the first reading, the prophet Zephaniah called the Israelites to be joyful because their time of exile is going to be ended. God shall take back His punishment and push away their enemies. In the second reading, St. Paul invited the Philippians to be joyful and to always rejoice in God, since when people have God in their life, they have no need of anything. In the Gospel, John the Baptist called people to rejoice because the Messiah is coming. He shall purify their sins and bring God’s salvation to them.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Be glad and exult with all your heart, because the Lord has removed the judgment against you.
1.1/ The Israelites should rejoice: To understand Zephaniah’s passage, we need to understand the historical background of the Israelites at this time. Their whole nation was conquerred by their enemies; the temple and their holy city Jerusalem were completely destroyed; their people were living in exiles: the Israelites in Assyria and the Judahites in Babylon. Living in such situation, the Israelites lost all their faith and hope. The most painful feeling is that they thought God forsook and handed them in the enemies’ hands.
(1) The calling to rejoice: But God’s love overcomes the Israelites’ betrayal and infidelity; this is the reason why the prophet Zephaniah was sent to announce the good new for Israel: “Shout for joy, O daughter Zion! Sing joyfully, O Israel! Be glad and exult with all your heart, O daughter Jerusalem!” Zion, Israel and Jerusalem represent for all the Israelites. Since this is so great and joyful new which they are waiting for, they can’t keep within themselves, but to shout for joy.
(2) The reason to rejoice: The prophet Zephaniah clearly gave the reason of their joy: “The Lord has removed the judgment against you, he has turned away your enemies; the King of Israel, the Lord, is in your midst, you have no further misfortune to fear.” The reason of the Israelites’ exile is their disobedience to God and chasing after foreign gods. To give them an opportunity to return, God must let their enemies to wipe out their country. Now, the time of purification is going to end and they don’t have to worry about misfortunes anymore because the king of Israel is in their midst. Like oracles of other prophets, the fulfillment must be considered in two levels: First, God liberates the Israelites from the exile and brings them back to re-establish their country. Secondly, God gives them the Messiah to dwell in their midst in order to teach and to bring salvation for them. They must rejoice because with God’s presence, their enemies shall have no power upon them.
1.2/ God will also rejoice when His people are joyful: Sufferings affect not only human beings but also God because of His love and care for them. Therefore, when people are liberated from shameful and painful exile, He also rejoice with their joy and gladness. The prophet described God’s joy when He welcomes the Israelites’ coming back, “The Lord, your God, is in your midst, a mighty savior; He will rejoice over you with gladness, and renew you in his love, He will sing joyfully because of you, as one sings at festivals.”
2/ Reading II: “Rejoice in the Lord always. I shall say it again: Rejoice!”
2.1/ Let always rejoice: St. Paul really felt the joy of a person who has God, because he has everything. This is the reason why he encouraged the Philippians: “Rejoice in the Lord always. I shall say it again: Rejoice! Your kindness should be known to all. The Lord is near.”
Joy is the sign of the person who has God; therefore, the believer must always rejoice because God is always with him. People are only worry and afraid when they live far away from God and chase after worldly vainglory; and then, they must receive all painful sufferings from them. St. Paul also teaches us an important lesson: true joy only comes from our relationship with God; we can’t find it from anyone or the world. He also advised the Philippians to be kind with all people; this means to live justly and to have compassion for people. Like God, He treats people not only with justice but also with mercy, even though people betrayed Him. Only with mercy, people may have a chance to renew their life.
2.2/ Let always pray: People are worry and fearful when they face difficulty and challenge in their life. St. Paul advised the faithful to get rid of them by a life of prayer, “Have no anxiety at all, but in everything, by prayer and petition, with thanksgiving, make your requests known to God. Then the peace of God that surpasses all understanding will guard your hearts and minds in Christ Jesus.” Several things people must be attentive to when they pray to God:
(1) Pray with God about anything: There is nothing which is greater than God’s mighty power; and there is also nothing which is too small for His attentive caring. Let put in His hands all of our past sins, our present problems, and our worries for future.
(2) Pray with a complete trust: When we pray to God, we must believe that we are praying to a wise God who understands all things; a powerful God who can do all things; a gentle Father who is ready to bestow all graces for His children.
(3) Prayer helps us to find true peace of mind: An author said, “peace is the effect of a trustful prayer.” Once people completely believe in God’s love and power, they entrust everything in His hands; they are no longer worry or fearful; therefore, they have the true peace of mind. St. Paul also ascertained this belief with his faithful, “the peace of God that surpasses all understanding will guard your hearts and minds in Christ Jesus.” In other place, he wrote: “If God gave us His Only Beloved Son, what else He can give and doesn’t give to people?”
3/ Gospel: What people need to prepare to welcome the Messiah’s coming.
3.1/ They must change their life: Not everyone can recognize and welcome Christ as the Messiah, sent by God to them. The history showed many people, not only didn’t recognize him but also condemned or killed him. When the Jews came to John and asked him about what they must do to prepare the way for the Messiah, he told them to be humble and changed their life according to the truth. John Baptist gave them concrete and practical advises depending on their situation. He didn’t demand them to change their career but the attitude when doing their job.
(1) To the crowd: They asked him, “What then should we do?”He said to them in reply, “Whoever has two cloaks should share with the person who has none. And whoever has food should do likewise.” John taught people to practice charity by sharing with others what they have because happiness isn’t depended on what they possess but on love they have for people. Christ also taught, “This is how all will know that you are my disciples, if you have love for one another” (Jn 13:35).
(2) To the tax-collectors: They came to be baptized and they said to him, “Teacher, what should we do?” John answered them, “Stop collecting more than what is prescribed.” The temptation of the tax-collectors is to collect more than what people should pay and to keep that extra money. John advised them to respect justice by being content with their salary and to return to others what they illegally collected.
(3) To the soldiers: They also asked him, “And what is it that we should do?” John told them, “Do not practice extortion, do not falsely accuse anyone, and be satisfied with your wages.” The temptation of the soldiers is to surpress people because they have weapons on their hands. John advised them to truthfully live according to their conscience, don’t steal from the innocent; don’t falsely accuse anyone and be content with their wages.
3.2/ The difference between the Messiah and John the Baptist: Observing John Baptist’s simple life and his way of preaching, many stipulated in their hearts that “whether John might be the Messiah.” He was very truthful and wiped out all people’s suspicion by mentioning two main differences between the Messiah and him:
(1) The difference in power: He said about the Messiah: “One mightier than I is coming. I am not worthy to loosen the thongs of his sandals.” He is only the herald for the Messiah, to prepare for people to meet the Messiah.
The Messiah has authority to judge and to compensate people according to their works:
“His winnowing fan is in his hand to clear his threshing floor and to gather the wheat into his barn, but the chaff he will burn with unquenchable fire.” John Baptist has no authority to judge and to punish or to reward people.
(2) The difference between the two baptisms: John made a difference between his baptism and Christ’s baptism: “I am baptizing you with water, but He will baptize you with the Holy Spirit and fire.”
John’s baptism is according to Jewish tradition for those who want to convert to Judaism. His baptism can’t forgive sins. Christ’s baptism is the baptism in Holy Spirit and fire. In order to receive salvation, people need not only be purified from their sins but also be sanctified by grace. These things can only be accomplished by Christ’s baptism.

III. APPLICATION IN LIFE:
– When we live far away from God, we live in anxiety and fear. In order to have true joy and happiness, we must return to God and live in His presence.
– Many people think that in order to be happy, they must have freedom to do what they want; but reality proves the opposite: to have true joy and peace, people must live according to God’s word and commandments.
– The perfect joy is achieved when we completely entrust our life to God. He shall teach, care for, protect and grant us the true peace of mind.
– To be able to receive God, we need to purify our mind by confessing our sins and by treating others with justice and charity.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP