Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật II – Năm C – Mùa Vọng

Bài đọc: Bar 5:1-9; Phi 1:4-6, 8-11; Lk 3:1-6.
1/ Bài đọc I: 1 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
2 hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng.
3 Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
4 Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi là “Bình an xây dựng trên công chính,”
và “Vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa.”
5 Vùng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy.
Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui.
6 Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.
7 Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
8 Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,
9 vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.
2/ Bài đọc II: 4 Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, 5 vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. 6 Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. 8 Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. 9 Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, 10 để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm. 11 Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: 1 Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu vương miền A-bi-lên, 2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa.
3 Ông liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong sách ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5 Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự cần thiết của Thiên Chúa trong cuộc đời con người.
Tình thương và uy quyền của Thiên Chúa vẫn ấp ủ và bảo vệ con người; nhưng để cảm nhận được, con người cần có con mắt đức tin và trái tim đầy tình yêu. Nhiều người nghĩ họ có thể đi tìm vinh quang cho cuộc đời mà không cần biết đến Thiên Chúa; nhưng thực tế đã chứng minh đó chỉ là vinh quang nhất thời, giả tạo, và không mang lại niềm vui cũng như bình an đích thực cho con người.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và sự cần thiết phải sửa dọn tâm hồn để có thể lãnh nhận Ngài. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruch nhận ra sự khờ dại của toàn thể con cái Israel khi họ từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang và vinh quang giả tạo của trần thế. Hậu quả là mất nước, Đền Thánh bị phá hủy, và vua quan cũng như dân chúng phải chịu lưu đày cực khổ. Tiên-tri cũng nhận ra tình thương và uy quyền của Thiên Chúa: nếu toàn dân chịu xám hối và ăn năn trở lại, Thiên Chúa sẽ hủy bỏ tang phục mà họ đang mặc trên mình. Ngài sẽ mặc cho họ áo choàng công chính, đội triều thiên vinh quang, và chiếu dọi ánh vinh quang vĩnh cửu của Ngài trên họ. Trong Bài Đọc II, Phaolô, sau khi đã có kinh nghiệm về hạnh phúc của một người được Thiên Chúa hoàn toàn chiếm hữu, đã chia sẻ niềm vui và cầu nguyện cho các tín hữu cũng sẽ được hưởng niềm vui và hạnh phúc như ông; nhưng họ phải hoàn toàn đặt trọn niềm tin yêu nơi Đức Giêsu Kitô và cố gắng sống tinh tuyền thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Ngài đến. Trong Phúc Âm, Gioan Tiền Hô được Thiên Chúa trao sứ vụ dọn đường cho Đấng Thiên Sai tới bằng việc kêu gọi con người sửa dọn tâm hồn và thay đổi cuộc sống. Khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, chỉ những người đã chuẩn bị tâm hồn sẽ được “nhìn thấy” ơn cứu độ của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
1.1/ Thiên Chúa là Đấng giải thoát con cái Israel: Tác giả của Sách tiên-tri Baruch được nhiều học giả cho là thư ký của tiên-tri Jeremiah. Sách này có thể được viết trong Thời Lưu Đày hay sau đó, khi tác giả có cơ hội suy nghĩ nhiều về tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel, dù họ đã bất trung phản bội Ngài.
(1) Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương: Tác giả nhìn lại lịch sử Israel và cảm nhận được uy quyền của Thiên Chúa. Ngài điều khiển các thế lực chính trị để sửa phạt và bắt con cái Israel đi lưu đày trước khi cho họ trở về. Mục đích của việc sửa phạt là để mở mắt cho họ nhìn thấy tình thương và uy quyền của Ngài dành cho họ. Sách Baruch có nhiều tư tưởng tương tự với Sách tiên-tri Jeremiah, một trong những điều tương tự là tác giả ví Jerusalem như một người vợ mất chồng là Thiên Chúa, và mất con cái là tất cả dân chúng bị lưu đày. Sự khổ nhục này bị các Dân Ngoại chê trách làm cho niềm đau càng quặn thắt hơn.
Trình thuật hôm nay nói về việc Thiên Chúa sẽ đổi ngược số phận hoàn toàn của bà mẹ Jerusalem trong ngày Ngài ra tay cứu độ. Ngài sẽ cho toàn thể địa cầu nhìn thấy vinh quang của Jerusalem: “Hỡi Jerusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa, và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi.”
Hai bài học quí giá Ngài dạy cho con cái Israel: Thứ nhất, “vinh quang phát xuất từ lòng kính sợ Thiên Chúa.” Tất cả các vinh quang ngoài Thiên Chúa chỉ tạm thời và gây ra mọi nỗi ô nhục cho họ. Thứ hai, “bình an xây dựng trên công chính.” Nếu họ không tuân hành những Lề Luật Thiên Chúa dạy và đối xử công bằng với mọi người, chiến tranh sẽ lan tràn và nhân loại không bao giờ được bình an.
(2) Con cái Israel được trở về vinh quang từ nơi lưu đày: Có hai áp dụng cho lời tiên tri này. Thứ nhất, là cuộc hồi hương của con cái Israel vào năm 538 BC theo chiếu chỉ của hoàng-đế Ba-tư là Cyrus. Cuộc trở về này tuy vui mừng, nhưng không vinh quang huy hoàng như trình thuật diễn tả hôm nay: “Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng.” Thứ hai, tác giả có lẽ muốn nói tới vinh quang của Israel trong ngày Đấng Thiên Sai ngự đến.
1.2/ Israel phải chuẩn bị để đón Đấng Thiên Sai: Để những điều này xảy ra, con cái Israel phải chuẩn bị tâm hồn, ăn năn xám hối về những lỗi lầm họ đã xúc phạm tới Thiên Chúa, và đặt trọn vẹn niềm tin yêu nơi Ngài. Tác giả viết: “Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.”
Khi Đức Chúa lãnh đạo dân Người trở về, Israel sẽ được thịnh vượng và bình an: “Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Israel, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người.”
2/ Bài đọc II: Thiên Chúa hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi con người.
2.1/ Thiên Chúa khởi sự mọi điều nơi con người: Lá thư gởi cho các tín hữu Philip được viết từ nơi lao tù. Đây là cộng đoàn có thể nói rất được yêu mến bởi thánh Phaolô. Hai điều ngài muốn chia sẻ với họ: Thứ nhất, Thiên Chúa là Đấng bắt đầu hành trình đức tin nơi con người, khi Ngài ban cho con người hiểu được những gì thánh Phaolô rao giảng về Đức Kitô để họ tin vào Ngài. Không những thế Ngài còn nuôi dưỡng và nâng đỡ đức tin của các tín hữu để họ có thể trung thành cho đến hơi thở cuối cùng. Thánh Phaolô xác tín với họ điều này: “Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Giêsu Kitô quang lâm.” Nói cách khác, từ khởi sự cho đến hoàn thành niềm tin của con người đều do bởi ơn thánh của Thiên Chúa. Thứ hai, Thiên Chúa cho con người tham gia vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Theo kinh ngiệm của Phaolô, sứ vụ rao giảng Tin Mừng không phải là một bổn phận; nhưng là một ân huệ Thiên Chúa ban cho các tín hữu được cộng tác với Ngài trong việc làm cho Nước Chúa trị đến.
2.2/ Đời sống công chính là hiệu quả ơn thánh của Thiên Chúa và sự cộng tác của con người: Thánh Phaolô cầu xin 2 điều cho các tín hữu Philipphê:
(1) Thiên Chúa ban lòng mến: Tình yêu của Đức Kitô là động lực thúc đẩy thánh Phaolô và các tín hữu làm mọi sự, ngài nói: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, cùng với kiến thức và tất cả mọi thấu hiểu.”
Lòng mến là điều kiện tiên quyết thúc đẩy việc học hỏi: khi yêu ai hay thích điều gì, con người sẽ tìm mọi cơ hội để tìm hiểu, để biết về điều đó hay người đó hơn. Nếu không có sự thúc đẩy của tình yêu, con người sẽ không bận tâm để tìm hiểu. Càng tìm hiểu bao nhiêu, con người càng có kiến thức nhiều. Khi các tín hữu càng yêu mến Đức Kitô, họ sẽ ra sức tìm hiểu để biết Ngài, và càng hiểu về Đức Kitô bao nhiêu, họ càng thấu hiểu những gì liên quan tới Ngài. Điều này sẽ giúp cho con người nhận ra những sai lầm giả trá của thế gian.
(2) Các tín hữu sống thánh thiện: Đức tin không bao giờ ở mức độ thuần tri thức, nhưng thúc đẩy con người tới chỗ hành động. Lại một lần nữa, thánh Phaolô chứng tỏ ơn cứu độ đến với con người không chỉ bởi niềm tin, nhưng còn tùy thuộc vào việc làm để chứng tỏ niềm tin của các tín hữu. Hai điều các tín hữu phải làm trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm là phải giữ mình sạch tội, và phải cố gắng để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện hơn. Chỉ như thế, các tín hữu mới có thể “đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.”
3/ Phúc Âm: Tất cả phải chuẩn bị đường cho Đức Kitô đến.
3.1/ Tình hình chính trị và tôn giáo trong thời Đức Kitô nhập thể: Phần đầu của trình thuật hôm nay, thánh Luca muốn nhấn mạnh đến tính cách lịch sử của biến cố Đức Kitô Nhập Thể trong hậu trường của thế giới:
– Tình hình thế giới: Toàn vùng Cận Đông thời đó đều nằm dưới sự cai trị của đế quốc Rôma, năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tiberius.
– Tình hình nước Palestine: Khi Herode Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con của ông cai trị: Herode Antipas làm tiểu vương miền Galilee, người em là Philíp làm tiểu vương miền Ituraea và Trachonitis, Herode Archelaus điều khiển miền Judah, cùng với Pontius Pilate làm tổng trấn miền Judah.
– Tình hình tôn giáo: Hannah là thượng tế về hưu, nhưng có thế lực rất mạnh. Caiaphas, con rể của Hannah là thượng tế đương quyền; nhưng bị lệ thuộc rất nhiều vào Hannah.
Sống dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, trong thời kỳ đất nước bị chia ba, lại thêm bè phái trong hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo; con dân Israel mong đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng họ khỏi những thế lực này.
3.2/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả: Trong thời kỳ khó khăn như vậy, Thiên Chúa vẫn nhớ tới con người, Ngài sai Gioan Tẩy Giả tới để mang Tin Mừng cho con người, như trong trình thuật hôm nay: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Zachariah là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Jordan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.”
Bổn phận của Gioan Tẩy Giả được sai tới là để chuẩn bị tâm hồn cho mọi người đón nhận Thiên Chúa. Sứ vụ của ông đã được loan báo trước trong sách ngôn sứ Isaiah: “Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.”
Không phải ai cũng có khả năng đón nhận món quà vô giá Thiên Chúa gởi đến là Người Con Một của Ngài. Để có thể nhận ra và đón nhận Ngài, con người phải chuẩn bị tâm hồn cùng với ơn thánh của Thiên Chúa. Điều Gioan khuyên dân chúng đây không phải là những chuẩn bị bề ngoài, mà là tâm hồn bên trong. Con người phải loại trừ những kiêu căng, ích kỷ, mọi thứ tham lam… trước khi họ có thể nhận ra ơn cứu độ của Thiên Chúa.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự cho con người. Để được vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, chúng ta cần phải biết kính sợ và tin tưởng hoàn toàn nơi Ngài.
– Để có thể đón nhận Thiên Chúa, con người cần biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng: tránh xa tội lỗi, luyện tập nhân đức để càng ngày càng trở nên tinh tuyền thánh thiện.
– Ơn cứu độ không chỉ dành cho một dân tộc hay một số người; nhưng mở rộng đến cho mọi dân tộc và mọi người. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong việc mang ơn cứu độ đến cho mọi người.

Second Sunday – Year C – Advent

Readings: Bar 5:1-9; Phi 1:4-6, 8-11; Lk 3:1-6.
1/ First Reading: NAB Baruch 5:1 Jerusalem, take off your robe of mourning and misery; put on the splendor of glory from God forever: 2 Wrapped in the cloak of justice from God, bear on your head the mitre that displays the glory of the eternal name. 3 For God will show all the earth your splendor: 4 you will be named by God forever the peace of justice, the glory of God’s worship. 5 Up, Jerusalem! stand upon the heights; look to the east and see your children gathered from the east and the west at the word of the Holy One, rejoicing that they are remembered by God. 6 Led away on foot by their enemies they left you: but God will bring them back to you borne aloft in glory as on royal thrones. 7 For God has commanded that every lofty mountain be made low, and that the age-old depths and gorges be filled to level ground, that Israel may advance secure in the glory of God. 8 The forests and every fragrant kind of tree have overshadowed Israel at God’s command; 9 for God is leading Israel in joy by the light of his glory, with his mercy and justice for company.
2/ Second Reading: NAB Philippians 1:4 Praying always with joy in my every prayer for all of you, 5 because of your partnership for the gospel from the first day until now. 6 I am confident of this, that the one who began a good work in you will continue to complete it until the day of Christ Jesus. 8 For God is my witness, how I long for all of you with the affection of Christ Jesus. 9 And this is my prayer: that your love may increase ever more and more in knowledge and every kind of perception, 10 to discern what is of value, so that you may be pure and blameless for the day of Christ, 11 filled with the fruit of righteousness that comes through Jesus Christ for the glory and praise of God.
3/ Gospel: NAB Luke 3:1 In the fifteenth year of the reign of Tiberius Caesar, when Pontius Pilate was governor of Judea, and Herod was tetrarch of Galilee, and his brother Philip tetrarch of the region of Ituraea and Trachonitis, and Lysanias was tetrarch of Abilene, 2 during the high priesthood of Annas and Caiaphas, the word of God came to John the son of Zechariah in the desert. 3 He went throughout (the) whole region of the Jordan, proclaiming a baptism of repentance for the forgiveness of sins, 4 as it is written in the book of the words of the prophet Isaiah: “A voice of one crying out in the desert: ‘Prepare the way of the Lord, make straight his paths. 5 Every valley shall be filled and every mountain and hill shall be made low. The winding roads shall be made straight, and the rough ways made smooth, 6 and all flesh shall see the salvation of God.’”
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh M. Tien, O.P.
I. THEME: The important presence of God in the human life
God’s love and power protect people all moments of their life; but to recognize them, people need the eye of faith and the full love of heart. Many people think that they can find glory for themselves without God’s help; but reality shows that kind of glory is only temporal, fake and doesn’t bring true joy and peace for them.
Today readings want to emphasize God’s important presence in the human life and the necessary to prepare our mind to be able to receive him. In the first reading, the prophet Baruch recognized the foolishness of the Israelites when they forsook God to chase after foreign gods and vain glories of the world. The results of their reckless life were their country is lost, the temple is completely destroyed, the kings and all people are on exile. However, Baruch also recognized love and power of God’s plan: If people repent and return, God shall take off their robe of mourning and misery, put on them the robe of righteousness and the glorious throne and shine His splendor of glory on them forever. In the second reading, St. Paul, after having experience of the one who is completely possessed by Christ, shared his joy and prayed for the faithful to also share his joy and happiness. He advised them to completely put their faith and love in Christ and to live holy when they are waiting for his second coming. In the Gospel, God gave John the Baptist the mission to prepare the way for the Messiah to come by calling people to prepare their mind and to change their life. When the Messiah appears, only those who prepared shall see God’s salvation.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: God shall let all the earth to see Jerusalem’s splendor.
1.1/ God is the One who shall liberate Israel from exile: Baruch is considered by many as Jeremiah’s secretary. His Book could be written during the exile or after it, when he had the occasion to reflect on God’s love for the Israelites though they betrayed Him.
(1) God punished and then had compassion: Baruch reflected on Israel’s history and recognized God’s power. He controlled all political powers to punish the Israelites and to sent them on exile before He gave them an opportunity to come back. The purpose of His punishment is to let the Israelites recognize His love and power for them. The Book has many similar ideas with Jeremiah’s Book; one of the similar image is that they compared Jerusalem as a wife who lost her husband, God, and her children, the exiled people. These losts were mocked by the Gentiles and the Israelites felt more painful and shameful.
Today passage emphasized that God shall completely reverse the fate of the Jerusalem’s mother in the day He liberates her. He shall let all the earth see the glory of Jerusalem, as announced by the prophet: “Jerusalem, take off your robe of mourning and misery; put on the splendor of glory from God forever:Wrapped in the cloak of justice from God, bear on your head the mitre that displays the glory of the eternal name.For God will show all the earth your splendor.”
Two valuable lessons God taught the Israelites: First, the glory comes from the fear of God. All worldly glories are temporal and cause for them all kinds of shame. Secondly, true peace is built on justice. If they don’t obey God’s law by treating people with justice, war shall spread out and the humankind shall never has true peace.
(2) The Israelites shall triumphantly return from exile: There are two fulfillments of this prophecy. First, there is the return of the Israelites to their country on 538 B.C. according to Cyrus’ decree, the Persian king. This return though joyful but not glorious splendor as the author’s description in today passage: “Led away on foot by their enemies they left you: but God will bring them back to you borne aloft in glory as on royal thrones.” Secondly, the author might want to mention the glory of Israel when the Messiah come.
1.2/ The Israelites must prepare to welcome the Messiah: In order for all these things to happen, the Israelites must prepare their mind, repent from all sins they committed against God and put their faith and love in God. The author wrote: “For God has commanded that every lofty mountain be made low, and that the age-old depths and gorges be filled to level ground, that Israel may advance secure in the glory of God.” The lofty mountain can be undestood as the Israelites’ pride which needs to be made low; and the “age-old depths and gorges” can be understood as their all kinds of greed which need to be filled up so that they may advance secure in the glory of God.
When God leads His people to come back, Israel shall be prosperous and peaceful: “The forests and every fragrant kind of tree have overshadowed Israel at God’s command; for God is leading Israel in joy by the light of his glory, with his mercy and justice for company.”
2/ Reading II: God shall complete what He begins in human beings.
2.1/ God has begun all things in men: St. Paul wrote his Letter to the Philippians when he was in prison. This is one of his beloved community. There are two things Paul wanted to share with them: First, God is the One that begins the journey of faith in human beings when He helps them to understand what Paul preached about Christ so that they might believe in him. Not only that, He also nourishes and supports their faith so they can be loyal to him until the end. St. Paul confirmed this point in saying, “I am confident of this, that the one who began a good work in you will continue to complete it until the day of Christ Jesus.” In other words, from beginning until the end, human faith is come from God’s grace. Secondly, God let people involve in the preaching of the gospel. According to St. Paul’s experience, the preaching of the gospel isn’t a duty; but a favor which God gives to the faithful so they can co-operate with Him in expanding of His kingdom.
2.2/ Righteousness is the result of God’s grace and human co-operation: St. Paul asked God two things for the Philippians:
(1) God bestows love: Christ’s love is the force that motivates St. Paul and the faithful to do all things. He said, “For God is my witness, how I long for all of you with the affection of Christ Jesus.And this is my prayer that your love may increase ever more and more in knowledge and every kind of perception.”
Charity is the first and principle condition that motivates learning: when loving someone or something, people shall look for all opportunities to learn so thet they might know that people or thing more. If there is no motivation of love, people shall not bother to learn. The more people learn, the more knowledge shall people have. When the faithful eagerly love Christ, they shall make an effort to know him; and the more they know about Christ, the more they understand what relate to him. This true knowledge shall help the faithful to recognize world’s falsities.
(2) The faithful live a holy life: Faith is never purely knowledge, but shall motivate people to act. Once again, St. Paul showed salvation comes to human beings not only by faith, but also by deeds which are necessary to verify their faith. The faithful must do two things while waiting for Christ’s second coming which are to keep them free from sins and to make an effort to become more holy. Only by doing so, the faithful can be “filled with the fruit of righteousness that comes through Jesus Christ for the glory and praise of God.”
3/ Gospel: All must prepare a way for Christ to come.
3.1/ The political and religious backgrounds at the time of Christ’s incarnation: In the first part of today passage, St. Luke wanted to emphasize on the historicity of Christ’s incarnation in the situations of the world.
(1) The situation of the world: All the Ancient Near East nations were under the government of the Roman Empire, “In the fifteenth year of the reign of Tiberius Caesar.”
(2) The situation of Palestine: Before King Herode the Great passed away, he divided his kingdom into three regions for three of his children to govern: Herod Antipas was tetrarch of Galilee; Philip was tetrarch of the region of Ituraea and Trachonitis and Herode Archelaus was tetrarch of Judah. St. Luke also mentioned another, Lysanias was tetrarch of Abilene. Pontius Pilate, the Roman pontiff, was governor of Judea.
(2) The religious situation: Hannah was the retired high priest but still had powerful authority; his son-in-law, Caiaphas, was the present high priest but depended mostly on Hannah.
Living under the dominion of the Roman Empire, the nation was divided in three or four parts, together with the division between religious leaders, the Israelites looked for the coming of the Messiah to liberate them from these powers.
3.2/ The mission of John the Baptist: God still remembered His people during this difficult situation; He sent John the Baptist to bring the Good New for people as St. Luke reported: “The word of God came to John the son of Zechariah in the desert. He went throughout the whole region of the Jordan, proclaiming a baptism of repentance for the forgiveness of sins.”
John’s mission was to prepare people’s mind to receive the Messiah. His mission was foretold in the Book of Isaiah: “A voice of one crying out in the desert: ‘Prepare the way of the Lord, make straight his paths. Every valley shall be filled and every mountain and hill shall be made low. The winding roads shall be made straight, and the rough ways made smooth,and all flesh shall see the salvation of God.’”
Not all people have ability to receive the precious gift, the Only Son, whom the Father sent to them. In order to recognize and to receive him, people must prepare their mind together with God’s grace. What John Baptist advised people in this passage is not outside but inside preparation. People must eliminate from them pride, selfishness, all kinds of greed, etc. before they can receive God’s salvation.

III. APPLICATION IN LIFE:
– God has power to do everything for men. In order to have God’s glory to shine in our life, we need to revere God and completely trust in Him.
– In order to receive God, we need to properly prepare our mind by avoiding sins and by practicing virtues to become more pure and holy everyday.
– Salvation isn’t only for a nation or a group of people, but is extended to all nations and people. We are invited to co-operate with God in bringing of his salvation to all people.