I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 14,1.7-14
(1) Một ngày Sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: Họ cố dò xét Người. (7) Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: (8) “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, (9) và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. (10) Trái lại, khi anh được mời thì hãy ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. (11) Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. (12) Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. (13) Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. (14) Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: Vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
2. Ý CHÍNH:
Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã dạy các người Pha-ri-sêu và cũng dạy các môn đệ của Người hai bài học về cách đối nhân xử thế: Một là khi được mời dự tiệc phải biết hành xử khiêm tốn bằng cách tránh tranh giành chỗ ngồi hơn kém. Hai là các người chủ tiệc phải tránh phân biệt đối xử để mời cả những người nghèo khó, tàn tật… đến tham dự. Đây là điều kiện để được Chúa mời tham dự bàn tiệc Nước Trời đời sau.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1: + Đức Giê-su đến nhà một thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu: Tin mừng Lu-ca cho thấy người đứng đầu nhóm Pha-ri-sêu ở đây có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã mời Người đến nhà mình dùng bữa (x Lc 11,37), + Dùng bữa: Tin mừng ghi lại nhiều sinh hoạt của Đức Giê-su liên quan đến việc dùng bữa: Dự tiệc cưới tại Cana (x. Ga 2,2), dự tiệc do người Pha-ri-sêu khoản đãi (x. Lc 14,1), ăn bữa cơm gia đình ở làng Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,38-42), đồng bàn với những người thu thuế tội lỗi (x. Mt 9,10), hai lần nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng (x. Mt 14,19-21; 15,36-38), dùng bữa Tiệc Ly với các môn đệ trước cuộc khổ nạn (x. Lc 22,14-20). Ngoài ra, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su cũng dùng bữa tối với hai môn đệ tại làng Em-mau (x. Lc 24,30), Người ăn cá nướng trước mặt các môn đệ (x. Lc 24,41-43), và cùng ăn bữa sáng với các ông tại bờ hồ Ga-li-lê (x. Ga 21,9-13).). + Họ cố dò xét Người: Ở đây những người Pha-ri-sêu dò xét không phải để bắt lỗi, nhưng chỉ để tìm hiểu về Đức Giê-su.
– C 7-9: + Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi: Đây là thái độ biểu lộ thói kiêu ngạo của người Pha-ri-sêu khi luôn tìm kiếm hư danh trước mặt người khác. + Khi anh em được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất…: Đức Giê-su dạy bài học khôn ngoan và phép xã giao khi tham dự tiệc cho người Pha-ri-sêu và các môn đệ.
– C 10-11: + Thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh phải đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho”...: Điều kiện để được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa là phải trở nên như trẻ nhỏ (x. Mt 18,3-4). Cần ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, coi mình chỉ là đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), để không cậy vào sức riêng khi làm các công việc siêu nhiên, nhưng biết cậy trông vào ơn Chúa giúp (x. Ga 15,5). + Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống…: Tội nặng nhất chính là tội kiêu ngạo và ngược lại, nhân đức lớn nhất là đức khiêm nhường như lời ca ngợi Thiên Chúa của Đức Ma-ri-a: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Thánh Phao-lô cũng đề cao sự khiêm hạ của Đức Giê-su trong thư gửi tín hữu Philip (x Pl 2,6-11). Chính Người đã hạ mình rửa chân cho môn đồ trước khi dạy các ông bài học thể hiện tình yêu thương lẫn nhau (x Ga 13,14).
– C 12-14: + Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè… Lời dạy của Đức Giê-su trái với lối ứng xử của người đời. Những hạng người được Đức Giê-su đề cập tới ở đây đều là những người nghèo: Nghèo tiền bạc (so sánh với Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh đến sự nghèo khó trong tâm hồn), bé mọn (x. Lc 10,21), khiêm hạ (x. Lc 18,14). Chính Đức Giê-su cũng được sinh ra như một người nghèo. Qua câu này Người kêu gọi mọi người hãy đối xử tốt với những ai đang lâm cảnh khốn cùng, làm ơn cho những người không có khả năng báo đáp. Đó là điều kiện để được vào Nước Trời đời sau.
4. CÂU HỎI:
1) Hãy kể ra những lần Đức Giê-su dùng bữa được ghi trong Tin mừng ? 2) Khi dạy người dự tiệc chọn ngồi chỗ cuối để được chủ nhà mời lên cỗ trên. Phải chăng đó cũng là một hành động kiêu ngạo ? 3) Đức Giê-su đã dạy thế nào về giá trị của đức khiêm nhường ? 4) Thánh Phao-lô dạy về gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giê-su ra sao trong thư thứ hai gửi giáo đòan Philíp ? 5) Tội nặng nhất khiến Luxiphe và các thần dữ phải sa hỏa ngục và ông bà nguyen tổ Ađam Evà bị đuổi ra khỏi địa đàng là tội gì ? 6) Đức Giê-su đã dùng phương thế nào để ban ơn cứu độ, giải thóat lòai người khỏi chết và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11).
2. CÂU CHUYỆN:
1) KHIÊM TỐN LÀ PHƯƠNG CÁCH GÂY THIỆN CẢM HỮU HIỆU:
Sách Trang Tử có thuật lại câu chuyện như sau: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
2) CUỘC BIẾN DẠNG KỲ LẠ SAU BẢY NĂM PHÓNG ĐÃNG:
Họa sỹ kiêm điêu khắc gia thiên tài LEONARDO DA VINCI đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh Đức Giê-su và 12 Tông đồ đang dùng bữa ăn cuối cùng trước khi Người chịu tử nạn. Cuộc đi tìm khuôn mặt làm người mẫu rất khó khăn: Giữa hàng ngàn thanh niên, họa sĩ mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời để vẽ Đức Giê-su.
Sáu năm tiếp theo ông mới vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn người môn đồ phản Thầy Giu-đa là chưa vẽ. Họa sỹ đã bỏ ra nhiều công sức để tìm kiếm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác làm mẫu vẽ Giu-đa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang. Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn ta vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? Tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Đức Giê-su!”.
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống trác táng tội lỗi đã làm biến dạng một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giê-su trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giu-đa! Đó là sự biến đổi lạ kỳ trong quá trình hình thành bức tranh “Bữa Tiệc Ly” nổi tiếng.
Nhưng cũng trong bữa tiệc ly này còn có một sự đảo ngược kỳ lạ hơn nữa: Đức Giê-su, vốn là Thầy là Chúa nhưng đã tình nguyện làm việc của người tôi tớ phục vụ, khi quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đó chính là bài học khiêm hạ mà Đức Giê-su muốn dạy cho mọi tín hữu chúng ta hôm nay.
3) CÂU CHUYỆN XỬ SỰ CỦA HAI CON DÊ NÚI:
Một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên con đường nhỏ hẹp sát bên sườn núi, một bên là vách núi cao cheo leo, bên kia lại là vực sâu thăm thẳm, có hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con đi qua, nên hai con dê đứng đối đầu nhau không biết làm gì để tiếp tục đi. Nếu chen lấn, chúng chắc sẽ bị rơi xuống vực thẳm tan xương nát thịt. Sau cùng chúng đã nghĩ ra một cách hoàn hảo: một con dê đã chịu qùy mọp xuống đất để con kia bước qua thân mình. Thế là sau đó cả hai lại có thể tiếp tục đi theo con đường của mình.
4) NGƯỜI HUẤN LUYỆN CÁ HEO KHIÊM TỐN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờloriđơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pitơbớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về ĐÔNG SU-LƠ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Mai-ơ-mi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Maiơmi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Sulơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Sulơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Sulơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Sulơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Maiơmi cách xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà người ta vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Sulơ đã vui vẻ hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn biết tôi sắp đến đây xem phim để chào đón tôi như vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: “Trong vòng 15 phút nữa, nếu không có thêm 4 khán giả nào vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời, giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải khiêm tốn noi gương Người. Đông Sulơ đã thể hiện sự khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Sulơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Sulơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường lẽ ra ông đã phải giấu kín. Chỉ người thực sự khiêm tốn mới làm được như Sulơ là công khai nhận sự thật không tốt về mình !
5) KHIÊM NHƯỜNG NOI GƯƠNG MẸ THÁNH TÊ-RÊ-XA CAM-QUÝT-TA:
Trên thế giới hôm nay có một bà lão 87 tuổi, qua đời 05/09/1997, chẳng có chức vị gì trong xã hội, thế mà lại được nhiều giải thưởng cao quý nhất thế giới, như giải Nobel Hòa Bình. Bà còn được các Tổng thống, Chủ tịch lớn nhất thế giới mời bà đến viếng thăm đất nước, như Tổng bí thư Gopbachop Liên Xô, tổng thống Mỹ Regan, Trung Quốc, Ấn Độ … Đó là mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta: Một nữ tu đã hạ mình xuống hầu hạ những người cùng khổ, bệnh tật, nằm nửa sống nửa chết ở hè phố tại thành Can-quýt-ta nước Ấn Độ.
Còn gia đình chúng ta cũng chỉ được an vui, hòa thuận, khi ông bà, cha mẹ, con cái biết khiêm tốn nghe nhau, bảo nhau, nhịn nhau. Hàng xóm chỉ được yên vui, luôn tay bắt mặt mừng, khi mỗi người biết khiêm tốn, cư xủ tử tế và sẵn sàng giúp đỡ nhau.
3. SUY NIỆM:
Sau một trận bão, người ta thường thấy những cây cao bị đổ gãy, đang khi những cây nhỏ và thấp thì vẫn cứ đứng trơ trơ. Sau cuộc chính biến, những kẻ quyền cao chức trọng bị lật đổ, bị mất chức, bị tù tội còn những kẻ thấp cổ bé miệng thì trước sau đảo chính vẫn vậy. Thực trạng đó phần nào diễn tả về giá trị của sự khiêm hạ được Đức Giê-su dạy các người biệt phái như sau: Một là nếu họ là khách được mời thì cần khiêm tốn để ngồi vào chỗ xứng hợp với mình, tránh cảnh “trèo cao té đau”. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến dự tiệc nữa. Cũng vậy, bàn tiệc Nước Thiên Chúa cũng chỉ dành cho những ai có lòng khiêm hạ và có tinh thần nghèo khó (x. Lc 14,21). Vậy khiêm hạ là gì ? Phải chăng khiêm hạ là phủ nhận giá trị thực của mình ? Ta phải làm gì để học gương khiêm hạ của Đức Giê-su ?
1) Khiêm hạ là gì ? Đức Giê-su nêu gương và dạy sống khiêm hạ thế nào ? :
– Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giê-su thấy một số khách biệt phái tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia đành phải đến nói với anh: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ để xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
– Người tín hữu cần học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su về sự khiêm hạ này như sau: ”Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Thánh Phao-lô cũng dạy: “Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người còn vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,6-8). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm hạ rửa chân cho các ông trong bữa tiệc ly và sau đó dạy các ông bài học phải khiêm hạ rửa chân phục vụ nhau (x Ga 13,14-15).
2) Thiên Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo:
Đức Giê-su đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Đức Giê-su đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao giả hình: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28).
3) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo:
Tác giả sách Đường Hy Vọng đã viết: “Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” (ĐHV số 509).
– Khiêm nhường hay khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được người khác tôn lên.
Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức khả năng và ưu điểm của mình do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Ma-ri-a khi được bà Ê-li-sa-bét khen có phúc, đã dâng lời ca ngợi Chúa như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn !” (Lc 1,48-49).
– Người khiêm tốn thực sự không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu phải đạt được, mà chỉ là phương tiện để phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Họ luôn cư xử nhẹ nhàng, hòa nhã và tinh tế với mọi người, luôn đặt lợi ích và quyền lợi của người khác trên bản thân. Biết giới hạn của mình và chỉ thực hiện những gì trong tầm tay và khả năng. Họ không đứng chỉ tay năm ngón nhưng sẵn sàng sắn tay áo để cùng làm việc chung với mọi người.
– Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức về thân phận yếu đuối thiếu sót của mình nên sẽ bình tĩnh khi nghe người khác phê bình, và sẵn sàng nhận lỗi để khắc phục những sai sót. Họ không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng chu toàn bổn phận rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng. Luôn ý thức chức vụ và quyền hành là để phục vụ tha nhân, vì thế họ sẵn sàng rút lui khi sức khỏe và khả năng suy giảm không còn phục vụ tập thể cách hữu hiệu.
4) Ta phải làm gì để tập sống khiêm hạ noi gương Đức Giê-su ?
– Phải tránh thói kiêu ngạo:
Tránh thói tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay kể tội người thân của mình. Tránh nói to tiếng xúc phạm đến người khác.
Tránh “nổ” nghĩa là khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và chứng tỏ mình trổi vượt hơn người khác.
Tránh thói “sĩ diện hão” khi cố làm ra vẻ cao quý hơn những gì mình đang có, vì không muốn thua kém ai. Chẳng hạn: Dù không có năng lực cũng phải mua bằng cấp và chạy chọt để có giấy khen thành tích.
Tránh thói “thích chơi sang” tiêu xài vung vít gây lãng phí của chung…Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai mình không ưa hay trổi hơn mình, bằng cách nói hành nói xấu nhằm hạ uy tín của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Do cao ngạo nên kẻ kiêu ngạo không chấp nhận đối lập, không muốn nghe những góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ phụ trách khó thăng tiến và phát triển.
– Tập sống khiêm tốn như sau:
Cần nhìn nhận sự thật, nhận biết cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận ra sự bất toàn của mình để khiêm tốn cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp, như Đức Giê-su đã dạy môn đệ: ”Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được !” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi để động viên họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn tha nhân.
Tập đi bước trước đến với người khác hơn là chờ họ đến với mình.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập làm những việc bác ái mà không phô trương để tìm tiếng khen nơi tha nhân.
Tập thừa nhận thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của hành động tập thể. Khi thất bại thì nhận là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi cho hoàn cảnh hay cho thuộc cấp.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Thiên Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong tình yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi, để nên giống Đức Giê-su, Đấng “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 35-45).
4. THẢO LUẬN:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ qua cử chỉ lời nói nào khi tiếp xúc với tha nhân ? Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào ? 2) Khi nghe người khác phê bình trực tiếp hay qua người thứ ba, chúng ta nên phản ứng thế nào để biểu lộ sự khiêm tốn noi gương Đức Giê-su ?
5. LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con, và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa, và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
– Lạy Chúa. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền… cũng chính là thói xấu tự kiêu của mỗi người chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pha-ri-sêu bài học khiêm nhường và cũng là dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất… Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng và luôn sống khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con noi gương Chúa để rửa chân phục vụ anh em. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa đón nhận trong Nhà Chúa sau này.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM