CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI – NĂM B

Suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm B
Lời Chúa: Dnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20
MỤC LỤC
1. Thiên Chúa yêu thế gian 5
2. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. 8
3. Thiên Chúa Tình Yêu 11
4. Mầu nhiệm tình yêu 14
5. Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá 17
6. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần 21
7. Lễ Chúa Ba Ngôi 26
8. Lễ Chúa Ba Ngôi 30
9. Nhân danh ai? 35
10. Chúa Ba Ngôi 38
11. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần 40
12. Lễ Chúa Ba Ngôi 44
13. Ba Ngôi tình yêu và hiệp nhất 48
14. Lễ Chúa Ba Ngôi 52
15. Hiệp nhất trong yêu thương 55
16. Lễ Chúa Ba Ngôi 58
17. Đồng hồ mặt trời 61
18. Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi 65
19. Sứ mạng bất từ nan 68
20. Thiên Chúa là tình yêu 70
21. Lễ Chúa Ba Ngôi 84
22. Lễ Chúa Ba Ngôi 94
23. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi 97
24. Tình yêu hiệp nhất 100
25. Lễ Chúa Ba Ngôi 103
26. Lễ Chúa Ba Ngôi 108
27. Hiệp nhất trong yêu thương 112
28. Một Thiên Chúa 123
29. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi 128
30. Tình yêu Ba Ngôi 130
31. Chúa Ba Ngôi 132
32. Chúa Ba Ngôi 134
33. Lễ Chúa Ba Ngôi 137
34. Lễ Chúa Ba Ngôi 140
35. Sống niềm tin 143
36. Lễ Chúa Ba Ngôi 146
37. Lễ Chúa Ba Ngôi 150
38. Theo gương Ba Ngôi 153
39. Trí khôn và ý muốn 155
40. Lễ Chúa Ba Ngôi 158
41. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi? 162
42. Làm Dấu Thánh Giá 165
43. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi 168
44. Lễ Chúa Ba Ngôi 170
45. Huyền nhiệm của sự gắn bó 174
46. Lễ Chúa Ba Ngôi 176
47. Lễ Chúa Ba Ngôi 181
48. Mầu nhiệm tình yêu 186
49. Lễ Chúa Ba Ngôi 189
50. Lễ Chúa Ba Ngôi 192
51. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi 195
52. Lễ Chúa Ba Ngôi 198
53. Con búp bê và biển cả 202
54. Vinh danh Ba Ngôi. 206
55. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi 210
56. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần 213
57. Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa 217
58. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần 220
59. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần 224
60. Lễ Chúa Ba Ngôi 229
61. Ba Ngôi cực thánh 232
62. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần 234
63. Lễ Chúa Ba Ngôi 237
64. Bài Giảng Lễ Chúa Ba Ngôi 241
65. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. 247
66. Chúa Ba Ngôi 249
67. Tình yêu 252
68. Hiệp thông 254
69. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi 258
70. Chúa Nhật Ba Ngôi 261
71. Yêu thương và hiệp nhất 264
72. Mầu nhiệm tình yêu 267
73. Ở cùng anh em 270
74. Tin tưởng 272
75. Cửa sổ 274
76. Dấu Thánh Giá 276
77. Tình yêu. 279
78. Ba bộ mặt 281
79. Lễ Chúa Ba Ngôi 283
80. Huyền nhiệm Tình yêu 289
81. Tình yêu 295
82. Mặt trời ban sự sống 297
83. Thờ Thần nào, sẽ nên vậy 299
84. Lễ Chúa Ba Ngôi 302
85. Lễ Chúa Ba Ngôi 306
86. Lễ Chúa Ba Ngôi 310
87. Lễ Chúa Ba Ngôi 312
88. Lễ Chúa Ba Ngôi 315
89. Lễ Chúa Ba Ngôi 319
90. Khám phá Tình Yêu Ba Ngôi 322
91. Cánh đồng lúa chín 326
92. Lễ Chúa Ba Ngôi 331
93. Lễ Chúa Ba Ngôi 338
94. Người mang Thiên Chúa 341
95. Dòng sông 347
96. Sống hoà nhịp 349
97. Lễ Chúa Ba Ngôi 352
98. Đền thờ của Thiên Chúa 355
99. Suy niệm của Lm. Thu Băng 357
100. Kẻ nội thù 360
101. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi 364
102. Mầu nhiệm tình yêu 368
103. Lễ Chúa Ba Ngôi 371
104. Chú giải của Noel Quesson 388
105. Chú giải của Fiches Dominicales 394
106. Chú giải của Fiches Dominicales 403
107. Chú giải mục vụ của Claude Tassin 410
108. Chú giải của William Barclay 415
109. Suy niệm của Lm. Anfonso 416
110. Lễ Chúa Ba Ngôi 419
111. Làm Dấu 421
112. Lễ Chúa Ba Ngôi – Dấu Thánh Giá 429
113. Lễ Chúa Ba Ngôi 437
114. Nhân danh Chúa Ba Ngôi 443
115. Tam Vị Nhất Thể 447

1. Thiên Chúa yêu thế gian
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao nhận ra một tình yêu chân thực, làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh, không bị lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn, khi mời ta nhìn vào tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Người…” Không phải chỉ là trao một quà tặng, hay một cái gì ở ngoài mình, nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Điều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha là người Con Một của Ngài, Đức Giêsu Kitô. Khi trao cho chúng ta Đấng bị treo trên thập giá, Thiên Chúa đã trao cho ta chính bản thân Ngài. Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình. Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ, tình yêu mong hạnh phúc cho người mình yêu: “… để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời.”
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Được sống là được đưa vào thế giới thần linh, được chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân. Nếu có ai hư mất hay bị luận phạt thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác, nhưng chỉ vì Ngài tôn trọng tự do con người. Con người có thể tin hay từ chối, mở ra hay khép lại trước sự sống được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi: Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha. Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha va Con. Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ: Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; Ngài là Tình Yêu cứu độ khi Ngài muốn thứ tha cho ta qua Đức Giêsu; Ngài là Tình Yêu thánh hóa khi Ngài muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu. “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Ai không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16). Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu, để mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu. Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu bằng một đời sống hiến trao và chia sẻ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tình yêu là hai từ được sử dụng khắp nơi. Điều mà người ta thường gọi là tình yêu, thực ra chỉ là sự chiếm đoạt của bản năng ích kỷ. Theo bạn, thế nào là tình yêu thực sự đáng tin? Làm sao nhận ra tình yêu đó?
Có khi nào bạn cầu nguyện với từng Ngôi Cha, Con và Thánh Thần không? Bạn biết gì về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần?
Cầu Nguyện
– Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
– Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
– Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
– Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng. Xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con và trong lòng từng con người bé nhỏ.

2. Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm
“Nếu bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp những dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn đi thẳng vào cung lòng bạn, bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa.”
Nhiều người đã gặp thấy Ngài nhờ chiêm niệm suy tư. Nhưng con người không thể biết hết về Thiên Chúa, cũng không thể mô tả cho đủ về Ngài. Có những thiếu sót, vụng về và đôi khi sai lạc.
Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Phải là Đấng ở nơi cung lòng Thiên Chúa, Đấng ấy là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể.
Nhờ Đức Giêsu mà mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Ngài mà chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Ba Ngôi khác nhau nhưng là cùng một Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài duy nhất nhưng không đơn độc.
“Ta và Cha là một” (Ga 14,10).
“Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta” (Ga 16,15).
Tình yêu khăng khít giữa Cha và Con là Thánh Thần.
Trong niềm hạnh phúc sung mãn, Ba Ngôi đã dựng nên con người giống hình ảnh mình và muốn đưa con người đi vào hiệp thông với Thiên Chúa.
“Đến với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”: đó là hành trình thiêng liêng của mọi Kitô hữu.
Chúng ta cần ý thức về sự hiện diện của Ba Ngôi ở trong ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và cư ngụ nơi người ấy” (Ga 14,23). “Cha sẽ ban cho các anh một Đấng Phù Trợ khác để Ngài ở với các anh luôn mãi” (Ga 14,16).
Chúng ta cần có tương quan riêng với từng Ngôi!
Chúa Cha, Đấng hằng làm việc để duy trì vũ trụ, con người.
Chúa Con, Đấng cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh mạng sống.
Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hoá và dẫn dắt Giáo Hội.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong Tình Yêu vì “ai ở trong Tình Yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16).
Mỗi ngày chúng ta làm dấu nhiều lần trên thân xác: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời ta, trên thế giới chúng ta đang sống.
Chúng ta đã được chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nhưng làm Phép Rửa cho muôn dân vẫn còn là ước mơ Đức Giêsu chờ ta thực hiện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! Có khi nào trong đời, bạn thấy Thiên Chúa thật là người Cha nhân từ không? Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đến nỗi mất niềm tin rằng Cha yêu mình không?
Một thi sĩ Pháp – Jacques Prévert – đã viết hai câu thơ ngắn:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời,
xin Cha cứ ở yên trên ấy!”
Theo bạn, Thiên Chúa có phải là kẻ làm phiền con người không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng, xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới. Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

3. Thiên Chúa Tình Yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì chọn những nơi rừng núi tham u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát xuat từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương, đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phai cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ. Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người. Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chua là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoan hảo vì còn chen lẫn nhiều ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu. Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?

4. Mầu nhiệm tình yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu thương.
Từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha. Con la chính Cha, nên Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tất cả cho Con. Nên sau này Đức Giêsu đã nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Tình Cha yêu Con thật lớn lao, kỳ diệu. Tình Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Những gì Con nhận được do tình yêu của Cha thì Con dâng lại cho Cha tất cả. Đức Giêsu vì yêu mến Chúa Cha, nên đã vui lòng xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Trọn cuộc đời, Người luôn tìm thánh ý Chúa Cha để thi hành. Người luôn tâm niệm: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy” (Ga 4,34). Người từ bỏ hết ý riêng mình để chỉ làm theo ý Chúa Cha. Người nên một vơi Đức Chúa Cha trong tâm tình, trong tư tưởng, trong hành động. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10). Trong giờ hấp hối, dù sợ hãi cái chết đến độ mồ hôi máu tuôn ra, nhưng Đức Giêsu vẫn luôn vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén này. Xin đừng theo ý Con, nhưng theo ý Cha mà thôi” (Mt 26,39). Thánh Phaolô đã tóm tắt về cuộc đời Người: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Phil 2,6-8). Tất cả thái độ vâng phục nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi là lò lửa tình yêu lúc nào cũng ngùn ngụt cháy. Ba Ngôi là nguồn mạch tình yêu không bao giờ vơi cạn. Cuộc trao đổi cho đi và nhận lãnh làm cho tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa ngày càng sung mãn dồi dào. Tất cả mọi tình yêu đều bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi. Tất cả mọi tình yêu muốn trung thực và bền vững đều phải học theo khuôn mẫu tình yêu Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc là ta được tham dự vào bầu khí yêu đương của Chúa Ba Ngôi. Hạnh phúc sẽ đến khi mọi người biết yêu thương nhau trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Hôm nay, khi truyền cho ta đi rửa tội cho mọi người nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đức Giêsu muốn ta đem tình yêu rửa sạch những oán ghét hận thù đang tàn phá thế giới. Người mong ta đem ngọn lửa tình yêu thắp sáng những gọc tối t8am chiến tranh, chia rẽ. Người mong ta đem mưa tình yêu tưới gội những vùng đất khô cằn vì thiếu vắng tình thương tha thứ. Người muốn cho tình yêu lên ngôi ngự trị trong hết mọi tâm hồn.
Phần ta, nhưng môn đệ của Chúa, mỗi khi ta làm dấu Thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi, ta hãy xin Ba Ngôi Thiên Chúa in tình yêu thánh thiện của Người vào tâm hồn ta. Xin cho ta được tham dự vào tình yêu vô cùng sung mãn của Người. Xin cho ta trở nên một đốm lửa trong lò lửa yêu thương của Người. Được cháy trong lò lửa tình yêu Chúa Ba Ngôi, ta sẽ trở nên giống như Người, luôn biết cho đi, luôn biết dâng hiến, luôn mưu tìm hạnh phúc cho tha nhân.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa là người Cha yêu thương và gần gũi không?
2- Bạn có mong muốn được tham dự vào luồng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không?
3- Thiên Chúa dựng nên bạn giống hình ảnh Người. Bạn đã thực sự là hình ảnh tình yêu thương của Chúa đối với những người chung quanh chưa?
4- Sau khi đã hiểu rõ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bạn sẽ có thái độ nào đối với Chúa và đối với anh em?

5. Ân sủng rẻ tiền và ân sủng đắt giá
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
WGPSG — Một vị giám mục cao tuổi nhận được thiệp mời dự lễ Trao tác vụ linh mục. Ngài hỏi tôi: gọi là trao tác vụ linh mục có đúng không, hay phải gọi là truyền chức linh mục? Ngài có lý, vì cách nói trao tác vụ linh mục hay tác vụ phó tế có thể gây hiểu nhầm rằng linh mục hay phó tế chỉ là một nhiệm vụ, một công việc, dù là công việc thánh. Đang khi đó, chức linh mục, chức phó tế không chỉ là một nhiệm vụ mà là điều gì đó sâu xa hơn nhiều. Trước hết và trên hết, đó là một ân sủng, “hồng ân Thánh Thần, cho phép thực thi một quyền thánh chức, quyền này chỉ có thể phát xuất từ chính Đức Kitô, qua Hội Thánh của Người” (GLHTCG số 1537). Chỉ trên nền tảng đó mới có thể nói đến tác vụ linh mục hay phó tế. Hiện hữu đi trước hành động. Chức linh mục thừa tác đi trước và làm nền cho thừa tác vụ linh mục. Dù khi già yếu bệnh tật hoặc trong hoàn cảnh không thể thi hành nhiệm vụ, linh mục vẫn là linh mục. Và chức linh mục hay phó tế ấy trước hết là một ân sủng: “Không ai tự gán cho mình vinh dự là thượng tế nhưng phải được Thiên Chúa kêu gọi, như ông Aharon đã được gọi” (Dt 5,4).
Vì là ân sủng được trao ban cho nên người lãnh nhận không có lý do gì để tự kiêu tự đắc cả, mà đúng hơn, phải biết đón nhận với lòng biết ơn và khiêm tốn. Sự khiêm tốn ấy vừa phát sinh từ ý thức về sự cao cả của hồng ân mình lãnh nhận, vừa phát xuất từ ý thức về sự mỏng dòn yếu đuối của bản thân.
Cách cụ thể, trong nghi thức phong chức hôm nay, vị giám mục chủ phong trao sách Phúc Âm cho từng tân chức với lời căn dặn: “Con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng, và con phải biết là hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Vậy có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ sống cách hoàn hảo Lời mà tôi rao giảng? Bằng sức riêng của mình, tôi sẽ làm cho mọi người tin vào Chúa Kitô là Đường, Sự Thật và Sự Sống?
Cũng trong nghi thức hôm nay, các tân chức thề hứa vâng phục Đấng bản quyền và sống độc thân trọn đời. Có ai trong anh em dám tự hào rằng, bằng sức riêng của mình, tôi sẽ trung thành trọn đời và trọn vẹn lời thề hứa đó, nghĩa là từ trong tâm hồn chứ không chỉ là tránh những vi phạm bên ngoài?
Tự đặt cho mình những câu hỏi như thế để khám phá sự mỏng dòn và yếu đuối của mình, nhờ đó sống khiêm tốn hơn. Chính sự khiêm tốn ấy thúc đẩy chúng ta cậy trông vào Chúa, và cầu nguyện là sự diễn tả niềm cậy trông ấy. Tôi nhớ lại hình ảnh Đức Hồng y John Henry Newman. Là một linh mục Anh giáo và nhà tư tưởng nổi tiếng ở Oxford lúc ấy, nhưng khi nghiên cứu, ngài khám phá ra chỉ có Hội Thánh Công giáo mới là Hội Thánh đích thực của Chúa Kitô. Thế nhưng quả là sự giằng co xâu xé khi phải giã từ Anh giáo cùng với biết bao đau khổ gây ra cho những người thân yêu, tin tưởng nơi ngài. Với tâm trạng ấy, trên chuyến tàu giữa biển cả mênh mông và sương mù giăng kín, ngài đã viết nên lời cầu nguyện nổi tiếng Lead, kindly Light:
“Ánh sáng dịu êm, xin dẫn con.
Dẫn con đi tới giữa đêm mịt mùng…
Dẫn con vững bước trên đường
Con không cầu thấy chân trời xa xôi.
Dẫn con, dẫn con từng bước,
Từng bước một thôi”.
Hãy mang lấy những tâm tình cầu nguyện ấy, lời cầu nguyện của những tâm hồn khiêm tốn và đầy ắp niềm trông cậy. Đồng thời, khi nói đến ân sủng, đừng nghĩ rằng ân sủng miễn trừ mọi nỗ lực và cố gắng của con người. Bởi lẽ, nói theo ngôn ngữ của Dietrich Bonhoeffer, ân sủng mà chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá chứ không phải thứ ân sủng rẻ tiền. Là một mục sư Tin Lành Lutheran, Bonhoeffer bị Đức quốc xã bắt giam và bị treo cổ. Chính trong những ngày bị nhốt trong tù, ông đã viết ra những dòng này:
“Ân sủng rẻ tiền là lời rao giảng ơn tha thứ mà không đòi hỏi hoán cải, chịu Phép Rửa mà không cần sống theo giáo huấn của Giáo hội, rước lễ mà không cần xưng tội, nhận ơn xá giải mà không cần thống hối. Ân sủng rẻ tiền là thứ ân sủng không đòi hỏi phải sống đời sống người môn đệ, thứ ân sủng không có thập giá, thứ ân sủng không có Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng sống và nhập thể làm người. Còn ân sủng đắt giá là kho tàng chôn giấu trong ruộng sâu, và vì kho tàng đó mà một người vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mua cho bằng được. Đó là viên ngọc vô giá mà người lái buôn sẵn sàng bán đi tất cả của cải để mua lấy. Đó là lề luật vương giả của Chúa Kitô có thể khiến cho một người dám móc mắt mà quăng đi nếu nó gây trở ngại. Đó là lời mời gọi của Chúa Kitô khiến cho các môn đệ bỏ cả thuyền và lưới mà đi theo Người. Ân sủng đắt giá là Tin Mừng phải được tìm đi tìm lại, là ơn ban ta phải khấn xin, là cánh cửa ta phải gõ vào… Ân sủng đó đắt giá vì Thiên Chúa đã phải trả giá bằng chính sự sống của Con Một Ngài, và cái khiến Thiên Chúa phải trả giá đắt dứt khoát không thể nào là rẻ tiền đối với chúng ta”.
Vâng, ân sủng mà hôm nay chúng ta lãnh nhận là ân sủng đắt giá. Và vì đắt giá nên chúng ta phải trả bằng cả con người và cuộc đời mình, một cuộc đời dám sống cho Chúa và phần rỗi các linh hồn. Xin anh chị em cầu nguyện cho các tân chức và cho tất cả chúng tôi, các giám mục và linh mục có mặt ở đây, sống được như thế.
Ngày 26.05.2012
Lễ phong chức phó tế cho các đại chủng sinh Sàigòn.

6. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Với người công giáo, còn gì gần gũi thân quen cho bằng làm dấu thánh giá trên mình cùng với lời đọc “Nhân danh Cha và Con va Thánh Thần”. Ấy thế mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi dường như lại thật xa lạ và trừu tượng. Có chăng những từ ngữ “ngôi vị” và “bản tính”, vốn rất cần thiết để minh định tín điều, lại là bước cản cho sự gặp gỡ Đấng Thiên Chúa sống động? Có chăng những suy tư thần học về Ba Ngôi thật phong phú về tư duy nhưng lại thiếu tiếp cận mục vụ và linh đạo? Từ góc độ thực hành của đời sống đức tin, xin gợi ý về lời đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” như một cảm nghiệm gặp gỡ Đấng Thiên Chúa duy nhất và là Đấng ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử.
Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong
Cảm nghiệm đầu tiên của con người về Thiên Chúa: Ngài là Đấng “ở trên”, “Ông Trời”, “Ông Thiên”. Thánh Phaolô tuyên xưng chỉ mình Thiên Chúa là “Đấng trường sinh bất tử, ngự trị trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy” (1Tim 6,16). Vì Thiên Chúa vượt lên trên vũ trụ và nhân loại nên “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi” (Mt 16,23). Nếu ai nói rằng mình hiểu được Thiên Chúa thì chắc chắn vị Thiên Chúa ấy không còn là Thiên Chúa đích thực nữa.
Những khám phá khoa học ngày nay không những không làm tiêu hao niềm tin vào Thiên Chúa mà trái lại, càng làm cho chúng ta cảm nhận rõ hơn tính bất khả đạt thấu của Thiên Chúa. Ngân hà mà trái đất chúng ta là một thành phần đã là vĩ đại rồi, nhưng nó chìm nghỉm trong hằng tỉ giải ngân hà của vũ trụ. Chính sự vĩ đại ấy của vũ trụ lại càng làm nổi bật tính vô biên và bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa: “Chúng ta không thể khám phá Thiên Chúa đang điều khiển thế giới cách ngây ngô như trước. Chúng ta không thể làm thế, không phải vì Thiên Chúa đã chết, nhưng vì Ngài là Đấng vĩ đại hơn nhiều, Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự” (Karl Rahner, Science as a Confession, 389).
Cảm thức về tính bất khả đạt thấu nơi Thiên Chúa giúp các Kitô hữu tránh được nguy cơ rơi vào tình trạng mà một nhà tư tưởng phê phán: “Không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Ngài, nhưng chính con người đã làm nên Thiên Chúa theo hình ảnh của mình”. Một trong những điều răn đầu tiên Thiên Chúa ban bo là: “Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20,4). Dân Chúa trong thời Cựu Ước lại chẳng rơi vào tình trạng đó sao khi họ lấy vàng đúc thành con bê rồi sụp lạy tung hô: “Đây là vị thần đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập” (Xh 32,7)? Và cơn cám dỗ ấy vẫn không ngừng tái diễn trong lịch sử dưới nhiều hình thức khác nhau.
Thiên Chúa là Đấng “ở trên” nhưng đồng thời lại là Đấng “ở với” loài người. Đây là mạc khải trung tâm và độc đáo của Kitô giáo. Kinh Thánh tràn ngập cụm từ “ở với”. Hầu như khi sai bất cứ ai đi thi hành sứ mạng, Thiên Chúa cũng chỉ hưa điều quan trọng nhất là: “Ta ở với ngươi”. Từ Môsê đến Đức Maria đều thế cả (Xh 3,12; Lc 1,28). Cho đến thời của Hội Thánh, lời hứa của Chúa Kitô Phục sinh dành cho các môn đệ vẫn là: “Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Danh thánh Thiên Chúa mạc khải cho Môsê (Xh 3,14) được dịch nhiều cách: “Ta là Đấng hằng hữu”, “Ta là Đấng hiện hữu”, “Ta là Đấng Ta là”. Nhưng cũng có một cách dịch khác mang tính hiện sinh hơn: “Ta la Đấng hằng ở với anh em” (trong mọi hoàn cảnh, mọi bước đường, mọi biến cố). Lời hứa “ở với” ấy đã vươn đến cao điểm trong Đức Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel, Thiên Chúa-ở-với-chúng ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở vơi loài người không những bằng sự hiện diện mà còn chia sẻ phận người, kể cả những trạng huống bi thảm nhất, để trong mọi hoàn cảnh, kể cả sự chết, ta có thể cảm nhận được tiếng nói: Cha ở với con.
Ratzinger có trang sách đẹp về trải nghiệm sự chết khởi đi từ hình ảnh đứa bé bị lạc lối trong rừng sâu và màn đêm buông xuống. Cùng với bóng tối vây bủa chung quanh là nỗi hoang mang sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Trong giây phút ấy, điều ma cậu bé mong chờ nhất không phải là bài học địa lý về cánh rừng hoặc bài hướng dẫn khoa học tìm tọa độ. Điều mong chờ nhất chỉ là có một bàn tay chạm lấy và tiếng nói bên tai: “Cha đây, nào chúng ta đi”. Không có giây phút nào con người cảm nhận nỗi cô đơn tột cùng cho bằng khi đối diện với sự chết. Kể cả những người thương yêu ta nhất cũng không thể đồng hành. Mọi lý thuyết về thế giới mai sau dường như vô nghĩa. Điều mong đợi duy nhất là sự hiện diện và đồng hành của một ai đó trên con đường tăm tối. Và Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã kinh qua sự chết và đã sống lại, chính là Đấng duy nhất đáp trả nỗi ước mong sâu thẳm về một bàn tay nắm lấy và tiếng nói bên tai “Ta đây, nào chúng ta cùng đi”. Thiên Chúa ở với.
Thiên Chúa không chỉ ở với con người mà còn ở trong họ. Theo quan điểm công giáo, lương tâm là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói của Ngài vang dội trong lòng họ” (Hiến chế Vui Mừng và Hi Vọng, số 16).
Tin Mừng Gioan, Tin Mừng của đời sống chiêm niệm, tràn ngập cụm từ “ở trong”: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Ngài” (15,9-10); “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Ngài. Còn anh em biet Ngài vì Ngài luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (14,16-17).
Có chuyện kể về một guru đánh mất chìa khóa vào nhà và quanh quẩn đi tìm chìa khóa ở bãi cỏ trước nhà. Đám học trò thấy thế bèn hỏi, “Thưa thầy, thầy tìm gì vậy?” “Thầy mất chìa khóa vào nhà rồi”. “Để chúng con tìm giúp”. Thế là ai nấy hăng hái bới từng gốc cây, lật từng ngọn cỏ để tìm. Tìm mãi không thấy, một học trò sốt ruột hỏi: “Thầy có nhớ loáng thoáng là đánh rơi ơ đâu không?” “Có chứ, thầy nhớ rõ là mình để quên ở trong phòng rồi sập cửa lại”. Đám học trò la lên: “Trời ơi, sao bây giờ mới nói, mất chìa khóa trong nhà mà lại tìm ở ngoài này, làm sao thấy được!” Ông thầy có dịp cho học trò một bài học để đời: chúng ta đánh mất chìa khóa của ngôi nhà hạnh phúc. Chìa khóa ấy ở trong tâm hồn nhưng chúng ta lại mải tìm ở ngoài. Tìm đủ thứ, chiếm hữu đủ thứ, hưởng thụ đủ thứ… mà hạnh phúc vẫn biệt tăm. Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc, ở thâm sâu lòng người, nhưng chúng ta mải tìm ở thế giới bên ngoài.
Đúng là “Chúa ở trong con sâu hơn chính con” và “Con đi tìm Chúa bên ngoài mà quên mất rằng Chúa ở trong con”. Khong chỉ là cảm nghiệm của các nhà thần bí mà còn là trải nghiệm của mỗi người nếu chân thành nhìn lại chính mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Hội Thánh có sứ vụ giới thiệu và loan báo cho con người Đấng Thiên Chúa ở trên, ở với và ở trong con người cũng như lịch sử. Nghĩa là phải loan báo Thiên Chúa trong tính toàn thể. Xem ra không dễ dàng giữ được sự quân bình và tính toàn thể ấy. Có khi người Kitô hữu nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở trên (chiều kích siêu việt) và ở trong (chiều kích nội tại) mà không quan tâm đến Thiên Chúa ở với phận người, nên bị người ta chê trách là lãng quên những thực tại trần thế. Lại có khi nhấn mạnh đến Thiên Chúa ở với (chiều kích dấn thân xã hội) mà quên Thiên Chúa ở trên và ở trong, nên biến Hội Thánh thành cộng đoàn xã hội thuần túy với chân trời và đường lối hành động không khác gì những tập thể xã hội khác. Làm thế nào để giữ được sự quân bình và tính toàn thể của mầu nhiệm Thiên Chúa, để có thể “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17,14-16), để là “muối cho đời và ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13-16). Sẽ mãi là một thách đố, nhưng ít ra ý thức được điều ấy cũng đã là lời nhắc nhở cần thiết cho sứ vụ, lời nhắc nhớ mỗi ngày khi làm dấu thánh giá trên mình và đọc “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

7. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
“NHÂN DANH CHÚA CHA, CHÚA CON VÀ CHÚA THÁNH THẦN”
1. Hành trình phụng vụ và Lễ Chúa Ba Ngôi
Lễ Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta cử hành trọng thể hôm nay, là điểm tới của cả một hành trình phụng vụ thật dài. Hành trình này bắt đầu với Tuần Thánh, vốn là trung tâm của năm phụng vụ; và trong Tuần Thánh, chúng ta đã tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su-Ki-tô, Chúa chúng ta.
Sau Tuần Thánh, chúng ta được dẫn vào mùa Phục Sinh, là mùa vừa mới kết thúc cách đây một tuần. Vì thế, chúng ta còn nhớ rõ, có nhiều mầu nhiệm lớn được cử hành trong mùa Phục Sinh: mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Ki-tô, mầu nhiệm Lên Trời của Ngài, mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống, mà chúng ta mới cử hành vào Chúa Nhật tuần trước.
Và sau cùng, hôm nay chúng ta tôn vinh cách trọng thể Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy, tại sao chúng ta không tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi ngay từ đầu, nhưng phải đợi đến bây giờ, ở cuối một hành trình phụng vụ thật dài? Chúng ta có thể đoán ra lí do một cách dễ dàng. Bởi lẽ, điều này có một lí do rất đơn giản: chúng ta không thể hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa Ba Ngôi bằng lí thuyết hay bằng những kiến thức đến từ những định nghĩa, diễn giải hay suy tư trong sách vở, nhưng chỉ bằng kinh nghiệm mà thôi: kinh nghiệm nơi sáng tạo, nơi lịch sử và nhất là nơi cuộc đời mình, hành động yêu thương và yêu thương đến cùng của Thiên Chúa, là Cha, là Con và là Thánh Thần.
Khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta được mời gọi không chỉ ca mừng Chúa Ba Ngôi, nhưng còn khám phá những lí do để cho lời ca mừng trở nên đích thật, đó là đọc lại đời mình, dưới ánh sáng của hành trình phụng vụ, để nhận ra tất những gì Thiên Chúa, là Cha, là Con và là Thánh Thần “đã làm” cho chúng ta một cách thiết thân. Cũng giống như trong một gia đình, những người con chỉ hiểu và yêu mến cha mẹ, “ca mừng” cha mẹ, sau khi đã nhận ra ơn sự sống, ơn tha thứ và tất cả những gì cha mẹ đã làm cho mình.
Một cách cụ thể, Lời Chúa trong các bài đọc trong Thánh Lễ kính Chúa Ba Ngôi hôm nay sẽ giúp chúng ta nhận ra, đón nhận và sống “ơn sủng Đức Giê-su Ki-tô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”, vốn là lời ước nguyện mà Giáo Hội dành cho chúng ta mỗi ngày, khi cử hành Thánh Lễ.
2. Ba Ngôi Thiên Chúa
a. Ơn sủng của Đức Giê-su Ki-tô
Qua phép rửa, nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta được trở nên môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô. Được trở nên môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô là ơn sủng của mọi ân sủng, bởi vì Người chia sẻ tất cả những gì là của Người cho chúng ta: Lời của Ngài, Mình và Máu của Ngài, Cha của Người và tình yêu của Người. Chúng ta được mời gọi lắng nghe Người trong mọi sự và ở mọi lúc mọi nơi, với tư cách là môn đệ, để yêu mến và đi theo Ngài hơn, thay vì đi theo, nghĩa là làm nô lệ cho một ai khác hay một điều gì khác.
Và vì là môn đệ, chúng ta được tháp nhập vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Ki-tô, như Thánh Phao-lô nói: “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 17)
b. Tình yêu của Chúa Cha
Bài đọc 1, trích sách Đệ Nhị Luật, nói cho chúng ta về Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng: “Từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất…”. Chiêm ngắm công trình tạo dựng (x. St 1), chúng ta sẽ nhận ra rằng, Thiên Cha tạo dựng con người không vì điều gì và không cho điều gì khác hơn là Tình Yêu, bởi vì Người là Tình Yêu, dù con người có ra như thế nào.
Thực vậy, vì tình yêu nhưng không, Ngài đi vào tương quan thiết thân với một dân tộc, là Israel, để vừa tỏ bày cho loài người biết thế nào là tình yêu, vì tình yêu chỉ có thể được bày tỏ qua tương quan một-một, và thế nào là tình yêu trung tín bất chấp sự bất trung của con người.
Tình yêu của Chúa Cha được thể hiện cách trọn vẹn và đi đến cùng nơi Đức Giê-su Ki-tô, nhưng không phải dành cho một dân tộc, nhưng dành cho muôn dân và cho từng người chúng ta.
c. Ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần
Và thánh Phao-lô trong thư gởi tín hữu Roma, nói cho chúng ta về ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần: Ngài dẫn chúng ta vào tương quan thiết thân giữa Chúa Cha và Chúa Con, không phải trong sự sợ hãi của người nô lệ, nhưng với tư cách là nghĩa tử:
* Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Abba”, như Đức Giê-su Ki-tô.
* Và vì là con, nên chúng ta được đồng thừa kế với Đức Giê-su Ki-tô, Con Duy Nhất của Thiên Chúa Cha.
Như thế, nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần, chúng ta không chỉ trở nên môn đệ, nhưng còn trở nên con của Thiên Chúa và như thế trở nên anh em chị của Đức Giê-su Ki-tô, và anh chị em của nhau.
Chúa Thánh Thần vẫn luôn mở lòng chúng ta để đón nhận ơn huệ cao cả này, vẫn luôn giúp chúng ta sống, vẫn luôn thúc đẩy chúng ta làm chứng và chia sẻ ơn huệ làm môn đệ của Đức Giê-su Ki-tô và làm con Thiên Chúa, để muôn dân trở thành anh chị em của nhau; và như thế trở thành một như Thiên Chúa Ba Ngôi là một, nhờ, với và trong Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
3. “Xin ban cho con ân sủng và tình yêu”
Dưới ánh sáng Lời Chúa trong Thánh Lễ kính Chúa Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi nhớ lại mọi ơn lành đã lãnh nhận từ Ba Ngôi Thiên Chúa: ơn tạo dựng, ơn cứu chuộc và các ơn riêng; để qua đó, chúng ta có thể nhận ra Người hiện diện và hành động trong thế giới sáng tạo, trong lịch sử loài người và nơi từng người chúng ta, và nhất là nhận ra mọi sự tốt lành, chẳng hạn khả năng của con người, sự công chính, lòng nhân từ, lòng thương xót… đều đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa, như những tia sáng từ mặt trời chiếu xuống, như nước trong nguồn chảy ra.
Nhớ lại mọi ơn huệ và hiểu biết thâm sâu như thế về tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ có lòng ước ao yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi sự, với lòng biết ơn; và có thể thân thưa với Chúa mỗi ngày và suốt đời:
Lạy Chúa, Xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con. Lạy Chúa, con xin dâng lại Chúa hết thảy. Tất cả là của Chúa.
Xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa. Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng Chúa. Vì được như thế, là đủ cho con. Amen.
(Sách Linh Thao, số 234)

8. Lễ Chúa Ba Ngôi
SỐNG, YÊU VÀ HIỆP NHẤT NHƯ BA NGÔI
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Câu ca dao mộc mạc của người Việt Nam tự bao đời nay để lại bài học quý báu cho con người về sự hiệp nhất, sự cộng tác với nhau. Một vườn hoa mà chỉ có một cây hoa và một cây hoa mà chỉ có một bông hoa nhìn vào thấy lẻ loi, đơn độc. Một cây hoa có nhiều bông hoa, một vườn hoa có nhiều cây hoa nhìn vào nó khác hẳn.
Hình ảnh đơn giản nhất trong cuộc sống của chúng ta, người ta vẫn thường dùng một cụm từ đơn giản “vững như kiềng 3 chân” để nói lên một cái gì đó nếu đặt trên một cái kiềng mà có 3 chân thì sẽ vững chãi.
Hình ảnh vững chãi ấy làm ta có thể liên tưởng đến một Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật là mầu nhiệm khi nói một Thiên Chúa mà lại có Ba Ngôi và từng Ngôi một trong Ba Ngôi ấy lại bằng nhau, không hơn không kém. Với trí hiểu của con người thì quả thật đó là điều quá khó hiểu, điều mà con người không thể dùng lý trí của mình để lý giải nhưng chỉ có thể lý giải được với và trong lòng tin.
Câu chuyện Thánh Augustinô suy tư về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được kể lại bằng câu chuyện hết sức đơn sơ mà khi đi học giáo lý thường được các cha, các thầy, các anh chị giáo lý viên kể lại. Thánh Augustinô bận tâm với mầu nhiệm Ba Ngôi, Ngài đi dọc bãi biển và suy tư. Chuyện kể lại là khi ấy có một em bé đang ngồi ở bãi biển Ngài đang đi tới đi lui ấy đang múc nước đổ vào vỏ sò. Với cái suy nghĩ hết sức tự nhiên, với cái lý trí bình thường của con người, Thánh nhân đã nói với em bé rằng em bé làm cái chuyện mà không thể nào làm được vì làm sao mà cái vỏ sò ấy lại chứa được nước của đại dương mênh mông như công việc em đang làm! Ngược lại, em bé lại nhìn Thánh nhân và nói cho Thánh nhân điều mà Ngài đang suy nghĩ cũng chẳng thể nào mà giải thích được theo cái nghĩ của con người, theo sự hiểu biết của con người.
Ba Ngôi vẫn là mầu nhiệm để rồi mầu nhiệm ấy mời gọi lòng tin của con người.
Đơn giản, qua các trình thuật của Thánh Kinh cũng như Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, chúng ta biết được Ba Ngôi là gì, nhiệm vụ của từng Ngôi là gì? Chuyện quan trọng mà chúng ta cần suy nghĩ, cần chiêm ngắm đó chính là Tình yêu trong Ba Ngôi cũng như từng Ngôi một dành cho hai Ngôi còn lại. Cần chiêm ngắm nữa đó là sự hiệp nhất của từng Ngôi một với nhau để làm thành Ba Ngôi vững chãi.
Qua Thánh Kinh, chúng ta thấy được Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, người con duy nhất của Ngài xuống trần gian này để cứu đi cái nhân loại hư mất. Tình yêu giữa Cha và Con thắm thiết đến nỗi đã phát sinh Thánh Thần và Thánh Thần chính là nguồn Tình yêu của Ba Ngôi, của nhân loại.
Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu, làm bất cứ việc gì, Chúa Giêsu hướng về Cha và cầu nguyện cùng Cha. Và Cha cũng thế, lúc nào Cha cũng hướng về Con để ban quyền năng trên Con.
Ngay từ biến cố Nhập Thể, chúng ta thấy đó, Thiên Chúa yêu thế gian, yêu con người đã ban Chúa Giêsu nhập thể nơi cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu chịu Phép Rửa ở sông Giođan. Thiên Chúa Cha thì phán rằng: “Đây là Con Ta Yêu Dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Còn Thánh Thần thì sao? Thánh Thần thì ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu. Thế đấy! Cha, Con và Thánh Thần liên kết với nhau trong từng giây từng phút của cuộc đời Chúa Giêsu.
Trong các hoạt động loan báo Tin mừng cũng vậy, Chúa Giêsu luôn luôn kết hợp với Cha và với Thánh Thần.
Đặc biệt, trong vườn Giêtsêmani, Chúa Giêsu đã đau khổ đến chết được để thân thưa, để thỏ thẻ với Cha mình chén đắng mà mình phải chịu. Tin mừng lúc ấy tuy không nói, không nhắc đến Chúa Thánh Thần nhưng chúng ta thấy đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã thưa với Cha rằng: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con nhưng là theo ý của Cha mọi đàng”. Chúa Giêsu can đảm bước chân lên Bàn Thờ Thập Tự là nhờ ơn Chúa Thánh Thần để rồi trong giây phút cuối trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa Giêsu lại phó thác trong tay Cha nhờ Thần Khí.
Chỉ điểm lại một chút về cuộc đời, hoạt động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy tương quan giữa Ba Ngôi là như thế nào.
Hôm nay, mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, không phải chỉ là tưởng nhớ lại, hồi tưởng lại, hồi ức lại hay là kính nhớ một biểu tượng của Tình Yêu, của Hiệp Nhất nhưng chúng ta kiểm điểm lại cuộc đời chúng ta. Là con cái của Chúa, là môn đệ của Chúa, chúng ta có sống Tình Yêu, Hiệp Nhất mà Ba Ngôi đã sống, đã dành cho nhau không?
Gia đình Ba Ngôi luôn hướng về nhau, chung chia với nhau niềm vui, nỗi buồn, nỗi âu lo và hạnh phúc trong cuộc sống. Gia đình của chúng ta thì sao? Gia đình của chúng ta có yêu thương, có hiệp nhất như gia đình của Ba Ngôi hay không?
Là Cha, là mẹ, là con cái trong gia đình, chúng ta còn dành cho nhau được bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu thời gian? Chúng ta vẫn thường đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho cuộc đời rằng bận rộn quá sức. Cha bận rộn theo kiểu của cha, mẹ bận rộn theo kiểu của mẹ, con cái thì vùi đầu vào công việc học hành. Đành biết là cuộc sống này ai cũng phải lao động, học tập tùy theo khả năng, tùy hoàn cảnh của mình nhất là khi phải đương đầu với xã hội hiện đại này. Biết bao nhiêu khó khăn vất vả đến với gia đình mà mỗi thành viên trong gia đình phải đương đầu và gánh vác. Thế nhưng, không được lấy những khó khăn vất vả của cuộc sống để biện hộ cho tình yêu, cho sự hiệp nhất trong gia đình.
Chúng ta vẫn thừa biết một gia đình giàu có, một gia đình sung túc đi chăng nữa nhưng thiếu tình yêu, thiếu sự hiệp nhất thì gia đình ấy là một mái lạnh chứ không còn là mái ấm như người ta vẫn thường nói nữa. Và chúng ta thừa biết, nếu gia đình yêu thương và hiệp nhất sẽ sinh ra những hoa quả tốt đẹp trong cuộc đời.
Chúng ta vẫn đứng trước những thách đố của đời sống gia đình, chúng ta vẫn đứng trước sự lựa chọn của tình yêu và hiệp nhất. Mỗi thành viên trong gia đình là Hội Thánh thu nhỏ ấy phải trả lời trước lương tâm, trước mặt Thiên Chúa về lối sống, sự cộng tác của mỗi thành viên trong gia đình.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta hết sức ngắn gọn, trang Tin mừng ấy mời gọi mỗi người chúng ta lên đường loan báo Tin mừng tình thương nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Muốn thực hiện trọn vẹn lời mời gọi ấy của Chúa Giêsu, muốn thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu không có con đường nào khác là phải sống theo con đường yêu thương và hiệp nhất mà từng ngôi trong gia đình Ba Ngôi đã sống, đã yêu thương. Và gần gụi nhất chính là gia đình của mỗi người chúng ta đang sống, muốn loan báo Tin mừng Tình thương mà Chúa mời gọi chúng ta phải làm cho chính gia đình chúng ta đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng cười. Khi và chỉ khi ta sống và ta yêu như Ba Ngôi Thiên Chúa đã sống, đã yêu, đã hiệp nhất thì khi ấy chúng ta mới góp phần loan báo Tin mừng, thực thi lệnh truyền của Chúa thật.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch của Tình Yêu, nguồn mạch của sự Hiệp Nhất đến và ở lại với mỗi người chúng ta. Xin Ba Ngôi ban thêm tình yêu, hiệp nhất xuống trên từng người trong gia đình, trong cộng đoàn để gia đình, cộng đoàn chúng ta luôn đầy ắp niềm vui, luôn đầy ắp tiếng cười.
Đừng nói gì đến Thiên Đàng mai sau, ngay cái cái cõi tạm này, nếu chúng ta biết sống yêu thương và hiệp nhất, chúng ta sẽ nếm thử được hạnh phúc Nước Trời vì lẽ Nước Trời là nơi mà mỗi thành viên đều sống sung mãn tình yêu và sự hiệp nhất xung quanh Tình yêu, Hiệp Nhất của Ba Ngôi Tuyệt Diệu.

9. Nhân danh ai?
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
“Tôi rửa anh nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Một câu công thức ngắn gọn, nhưng quan trọng vô cùng. Quan trọng vì lấy danh nghĩa của Thiên Chúa Ba Ngôi mà làm công việc rửa cho người khác được sạch tội tổ tông truyền, kể cả tội cá nhân người ấy phạm.
Nhân danh, lấy danh nghĩa hay nói cách khác đúng hơn là thừa lệnh, là được phép làm do lệnh của ai đó, do uy quyền chính đáng của ai đó đã ban cho.
Cũng vậy, người Công Giáo làm dấu Thánh Giá với câu “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” khi làm tất cả các việc từ nhỏ đến lớn: trước sau bữa ăn, trước khi đi ngủ sau khi thức dậy, trước sau khi họp hội, làm việc, trước sau Thánh Lễ, trước sau giờ kinh nguyện… Tất cả các việc đều nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, hay nói đúng hơn làm gì cũng có, cũng vì danh dự, uy tín của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Vâng, sau khi được rửa tội, mỗi chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, để từ đó, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và được hưởng ơn cứu độ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Từ đây, chúng ta sống là sống cho Chúa, sống nhờ tương quan mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa, sống nhờ tác động của quyền lực Thiên Chúa tự bên trong ra bên ngoài, tự suy nghĩ ra đến công việc. Thánh Phaolô suy niệm còn sâu xa hơn nữa về Bí Tích Rửa Tội của chúng ta như sau: “Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy nếu là con cái, thì cũng là những người thừa tự, nghĩa là thừa tự của Thiên Chúa, và đồng thừa tự với Đức Kitô: vì chúng ta đồng chịu đau khổ với Người, để rồi chúng ta sẽ cùng hưởng vinh quang với Người” ( Rm 8, 16 – 17 ).
Mỗi tín hữu được đặt trong thế gian để thế gian thấm nhuần ơn cứu chuộc. Mỗi tín hữu được sai đi để rửa tội cho thế gian, cho mọi người để mọi người, để thế gian nhận lấy tình thương vô biên của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, mỗi tín hữu cũng luôn được đặt trước sự chọn lựa giữa Thiên Chúa và thế gian, nhất là khi thế gian đòi lên làm chủ, làm chúa tể. Nhân danh quyền lực tối thượng của thế gian, hay nhân danh quyền năng vô biên của Thiên Chúa? Nhân danh sức mạnh của đồng tiền, của sắc đẹp, của kỹ – mỹ – công nghệ khoa học hay nhân danh toàn Chân, toàn Thiện, toàn Mỹ của Thiên Chúa?
Sách Đệ Nhị Luật củng cố niềm xác tín của chúng ta vào Thiên Chúa như sau: “Vậy hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác. Hãy tuân giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc và tồn tại trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi” ( Đnl 4, 39 – 40 ).
Vâng, “không có Chúa nào khác”. Bởi vậy không thể có chuyện miệng đọc, tay làm dấu “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” mà lại đồng thời làm chuyện chống lại Thiên Chúa, chống lại Giáo Hội, chống lại Chân Lý của Chúa.
Tôi và bạn hẳn đã có đôi lần nếu không nói là nhiều lần hay tất cả, đã vừa nhân danh Thiên Chúa lại vừa khiếp sợ, không đủ can đảm làm chứng cho Công Lý của Chúa, nên đành buông xuôi cho Sự Dữ lan tràn, hoặc còn hơn thế nữa, tiếp tay cho Sự Dữ lan tràn. Quả là chuyện khôi hài có thật !
Hoặc khôi hài hơn nữa là vừa nhân danh Thiên Chúa vừa quy phục ma quỷ, quy phục thế lực chống lại Thiên Chúa.
Trở lại với lời khuyên của sách Đệ Nhị Luật, thiết nghĩ mỗi chúng ta nên đặt lại vấn đề nhân danh cách nghiêm túc để có thể nói: Tôi chẳng nhân danh ai cả, tôi chỉ nhân danh Chúa Ba Ngôi mà thôi. Bởi chẳng có cái nhân danh nào được cái danh dự chính đáng, có được cái quyền lực lớn lao, bền vững trong cuộc đời này cả.
Lễ Chúa Ba Ngôi, cơ hội cho mỗi chúng ta kiểm lại tương quan của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, để mỗi khi đọc và dấu Thánh Giá trên mình “nhân danh Cha và Con Và Thánh Thần” nhắc nhở rằng “chúng ta thuộc về Thiên Chúa”, chúng ta không thuộc về thế gian này. Và với ý thức ấy, chúng ta không thể nhân danh một chúa thế gian nào khác cho dẫu được lợi lộc quyền lực, được ân ban danh hiệu yêu nước, được tuyên dương có văn hóa, được chia chác cơ nghiệp hư nát thế gian…
“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần; giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 18 – 20 ).
Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà sống cho xứng đáng người con của Thiên Chúa trong cuộc đời này, hẳn là bước khởi đầu hợp lý cho việc thực hiện lệnh truyền “giảng dạy và rửa tội cho muôn dân” vậy.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã được vinh dự nhận lấy Bí Tích Thánh Tẩy, được vinh dự gọi Thiên Chúa là Cha, được thừa kế quyền nghĩa tử cùng với Chúa Con và được soi dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con hoàn toàn thuộc về Chúa, “nhân danh chỉ một Chúa” mà sống giữa thế gian để làm chứng cho Chúa, cho tình yêu Chúa, cho Nước Chúa. Amen.

10. Chúa Ba Ngôi
Đâu là hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong Phúc Âm? Đọc lại Tin Mừng, chúng ta được tiếp xúc với Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang rảo bước trên mọi nẻo đường xứ Palestine để rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, nhất là những kẻ nghèo khó. Ngài cũng đã chữa lành mọi bệnh tật, tha thứ mọi tội lỗi, nhưng Ngài cũng đã bị chống đối, bị ném đá và sau cùng bị đóng đinh vào thập gia như một tên tội phạm. Tin Mừng không giới thiệu với chúng ta về bản thể cũng như về ngôi vị của Ngài, nhưng các lời giảng, các việc làm và trót cả cuộc sống của Ngài như được ghi lại đã mở ra cho chúng ta thấy một Thiên Chúa mà Ngài gọi là Cha, Đấng đầy lòng yêu thương và tha thứ, Đấng đã ươm mơ công trình cứu chuộc loài người, Đấng đã không ngần ngại sai Con Một của mình đến trong trần gian, để thực hiện chương trình cứu chuộc.
Trước lúc chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu không ngừng giới thiệu với các ông Chúa Thánh Thần, cũng xuất phát từ Thiên Chúa mà Ngài sẽ sai phái đến với các ông. Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ nối tiếp công việc của Ngài, nơi các môn đệ cũng như nơi nhân loại trong một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ. Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi, là Đấng phù trợ, để những người theo Chúa hiểu được những lời Ngài nói và những việc Ngài làm. Chúa Thanh Thần sẽ ban cho họ sự khôn ngoan và sức mạnh, để can đảm làm chứng cho Đức Kitô đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Sự việc này đã được thực hiện cho các tông đồ vào ngày lễ Hiện Xuống. Với tác động của Chúa Thánh Thần, từ những kẻ u mê dốt nát, các ông đã thấu hiểu Lời Chúa. Từ những kẻ hèn nhát sợ sệt, các ông đã can đảm rao giảng Lời Chúa và sẵn sàng chết để làm chứng cho Tin Mừng.
Và như thế, dưới ánh sáng Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Ba Ngôi không phả là những ý niệm trừu tượng về bản thể và ngôi vị, nhưng là những Đấng sống động, luôn tha thứ và yêu thương chúng ta, luôn đem lại cho chúng ta những lợi ích trong cuộc sống thiêng liêng.
Chính vì thế, chúng ta phải sống thế nào để đáp trả phần nào tình thương Chúa Ba Ngôi đã dành cho chúng ta qua công cuộc sáng tạo, cứu độ và thánh hoá chúng ta.

11. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Trầm Phúc)
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm và là mầu nhiệm quan trọng nhất mà chúng ta vẫn tin.
Vì là mầu nhiệm, chúng ta không thể nào hiểu thấu vì nó thuộc về bản thể của Thiên Chúa. Các nhà thần học, căn cứ vào Kinh Thánh là kho tàng mạc khải, đã cố gắng giải thích cho chúng ta hiểu và đó là những cố gắng đáng khâm phục, nhưng các ngài giải thích được gì về Thiên Chúa Ba Ngôi? Một thi sĩ người Pháp, bà Marie Noel, có một nhận xét thật dễ thương và rất chính xác: “Nếu Chúa đọc những sách thần học, Ngài sẽ nghĩ thế nào? Nhưng Chúa không biết đọc”.
Thật vậy, dù chúng ta có tìm cách giải thích về Chúa hay ho như thế nào đi nữa, chúng ta có nghiên cứu sâu xa thế nào, những gì chúng ta có thể nói về Chúa chỉ là những gì thô sơ thôi.
Thế nhưng chúng ta tin, vì chính Chúa đã nói ra cho chúng ta biết về bản thân Ngài. Ngài đã nói bằng một lời duy nhất mà thánh Gioan gọi là Ngôi Lời, là Con Một của Ngài. Ngài sai Chúa Con đến trần gian nói cho chúng ta biết Ngài là ai: “Khi xưa bằng nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử…”
Thánh Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê đã nói: “Chúa Giêsu là hình ảnh của Chúa Cha vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo…” Chính Ngài đã đến mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha. Trong thư gửi giáo đoàn Do thái, tác giả viết: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”. Ngài là khuôn mặt hữu hình của Chúa Cha. Chính Ngài mạc khải cho chúng ta biết Chúa Cha và khi biết được Chúa Cha, chúng ta mới biết được Chúa Thánh Thần. Chỉ nhờ Chúa Con, Đấng là Đường là Sự Thật, chúng ta mới biết được Chúa Cha: “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy”, và cũng nhờ Chúa Con mà chúng ta biết được Chúa Thánh Thần, và biết được Thiên Chúa là Tình Yêu.
Vậy tình yêu là gì?
Tình yêu là nghèo nàn, là lệ thuộc và là khiêm tốn.
Cha Francois Varillon giải thích: Người yêu nói với người yêu: “Em là niềm vui của anh”. Đó là thú nhận sự nghèo nàn của mình vì nếu không có em, anh sẽ nghèo nàn về niềm vui. Hay nói: “Anh là tất cả của em”. Đó là thú nhận sự nhỏ bé của mình. Không có anh, em sẽ không có gì cả. Yêu chính là hiện hữu nhờ người yêu, và cho người yêu. Nhờ người yêu, tức là đón nhận. Cho người yêu, tức là hiến dâng. Không có hai yếu tố trên, tình yêu sẽ bị tổn thương.
Trong thế giới của chúng ta, tình yêu luôn ít nhiều bị tổn thương. Nơi Thiên Chúa, Ngài chỉ là Tình Yêu và không có gì cản trở hay hạn chế khả năng đón nhận và hiến dâng của Ngài. Những liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là như thế. Vì thế, Thiên Chúa tuyệt đối nghèo nàn. Chúa Cha cho đi tất cả cho Chúa Con, và Chúa Con cũng hiến dâng tất cả cho Chúa Cha, và Thánh Thần phát xuất từ mối tình tuyệt đối đó.
Đây cũng chỉ là một lối giải thích, và chúng ta có thể tìm thấy được những giải thích khác, khi Thánh Thần Chúa hoạt động trong mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu không nói rõ về Ba Ngôi, chỉ một lần là khi Ngài sắp lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần…”
Nhưng trong suốt những năm rao giảng, Ngài đã cho chúng ta biết Chúa Cha và mối tình tuyệt đối giữa Ngài với Chúa Cha. Trong những lần tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Ngài là Con của Chúa Cha đến nỗi người Do thái cho Ngài là phạm thượng và ném đá Ngài. Không biết bao nhiều lần Chúa Giêsu lặp đi lặp lại tiếng Cha tôi, Đấng đã sai tôi. Với các môn đệ Ngài nói rõ hơn: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha vì Cha với Thầy là một”. Như thế, chúng ta thấy mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con thâm sâu như thế nào.
Chúng ta cũng nghe Ngài nói về Chúa Thánh Thần, Ngài trao ban Thánh thần và có nơi Ngài nói là Thánh thần của Ngài, là hơi thở của Ngài. Làm như Ngài luôn hoạt động cùng với Thánh Thần và khi Ngài lên trời, Ngài tiếp tục hoạt động cùng với Thánh Thần nơi các tông đồ và hôm nay vẫn còn hoạt động trong mỗi người chúng ta vì chúng ta là thành phần của Thân thể Chúa Giêsu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được thể hiện nơi Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu tức là tin vào Ba Ngôi. Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng chỉ có một, mà vẫn là ba vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tin vào Chúa Ba Ngôi là chấp nhận tình yêu của Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng nói: “Chúa Cha yêu thương Thầy thế nào thì cũng yêu thương anh em như vậy. Và Chúa Cha đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”, tức là ban cho mỗi người chúng ta. Chúa Con đã yêu thương chúng ta đến nỗi chấp nhận hy sinh tất cả để cứu chúng ta, và Thánh thần đã yêu thương chúng ta đến nỗi đến cư ngụ trong những túp lều thối tha hôi hám là tâm hồn chúng ta, để tẩy sạch và thánh hóa chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó ta được kêu lên: “Abba, cha ơi”. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa”. Đó là hồng ân trên hết mọi hồng ân, và là nguồn suối của mọi hồng ân. Mấy người trong chúng ta hiểu được giá trị của hồng ân nầy. Chúng ta chỉ biết mà không hiểu.
Hãy nguyện xin Thánh Thần Chúa soi sáng để chúng ta thấy được hạnh phúc tuyệt vời của chúng ta, và dìm mình trong tình yêu tuyệt vời đó.
Hãy nguyện xin cho chúng ta dám giữ điều răn của Chúa để sống trong tình yêu Ngài, vì “ai yêu mến Ta người ấy giữ lời của Ta”. Hãy xin Chúa cho chúng ta trở nên nghèo nàn như Chúa để Chúa trở thành sự giàu sang duy nhất của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói: “Chúa là tất cả của con, vì ngoài Chúa, con chẳng có gì. Chúa là niềm vui của con vì ngoài Chúa niềm vui trần thế chẳng đem lại cho con được gì”. Nghèo nàn, lệ thuộc và khiêm tốn.
Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì cho Chúa, và chúng ta cũng chẳng làm được gì cho Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta hoàn toàn đón nhận và nếu có làm được gì thì cũng chỉ là hiến dâng sự nghèo nàn của chúng ta thôi. Nhưng Chúa vẫn muốn đón nhận sự nghèo nàn đó vì nhờ đó, Chúa mới cảm thấy Chúa là Tình Yêu. Lúc đó, Chúa mới trao ban được tất cả tình yêu của Ngài. Lúc đó, chúng ta mới có thể gọi Chúa là Abba, Cha ơi, với tất cả con tim nhỏ bé của chúng ta. Và đó là thiên đàng ở trần thế.
Để chúng ta thực sự là con của Chúa Cha, Chúa Giêsu đến bằng tấm bánh tình yêu. Ngài vào trong chúng ta bằng một phương tiện trong tầm tay chúng ta, để cùng với chúng ta yêu mến Cha, thực hiện lời nguyện hằng ngày của chúng ta: “Xin cho danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến”.

12. Lễ Chúa Ba Ngôi
BA NGÔI THIÊN CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 28: 16-20: Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành lánh dữ..
Người Đông Phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế. Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về Trời, bởi vì họ cho rằng ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu đáo, phương chi là những thực tại vô hình. Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la. Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, khác với những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều. Chúng ta không thể giải nghiã một cách rành mạch mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên, chúng ta có một số hình ảnh khai mở về mầu nhiệm cao cả này như Abraham Lincoln nói: “Tôi không hiểu làm sao người ta có thể là người vô thần được khi nhìn xuống mặt đất. Tôi cũng không thể hình dung được một người nào đó nhìn lên trời mà nói rằng không có Thiên Chúa” và Voltaire cũng đã từng nói: “Chỉ cần mở mắt ra là ta nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa”.
Quả thật nhìn vào ngay cây cối chung quanh ta, chúng cho chúng ta thấy một hình ảnh rất sống động về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta cảm nhiệm về Tình Yêu của Thiên Chúa qua cây cối thực vật chung quanh chúng ta. Đây là câu chuyện về tình yêu thương. Lá cây, thân cây, cành cây và rễ cây cùng yêu thương nhau. Tình yêu của chúng tiếp diễn không ngừng , lá non đâm chồi thay thế cho lá vàng, vỏ cây yêu rễ cây, rễ cây yêu cành cây. Thân cây ôm giữ chúng lại với nhau, và lá cây xõa bóng phủ hết cả thân cây.
Thân cây yêu mặt đất và yêu cả bầu trời. Ngay từ khoảnh khắc nó đâm chồi nhú lên khỏi mặt đất, nó luôn cắm sâu vào lòng đất và vươn thẳng lên trời cao.
Nó yêu lũ chim chóc xây tổ trên cành của mình, nó yêu bầy thú trú ẩn dưới gốc, nó yêu cả lũ côn trùng nương náu trong từng lớp vỏ cây. Tất cả là một gia đình.
Quả thật, cây cối cho chúng ta thấy một hình ảnh rất sống động về Chúa Ba ngôi:
– Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
– Chúa Con là thân cây và tất cả chúng ta là cành. Lá cây phải làm việc đêm ngày, ấy thế mà lá không bao giờ ganh tị với hoa khi được con người đến chiêm ngưỡng. Lá cũng không bao giờ ghen tương với những trái cây khi con người nâng niu những trái chín mọng. Thường thường con người chỉ quan tâm đến những nụ hoa và những trái cây trên cành mà hầu như chẳng bao giờ để ý đến lá cây gì cả, ấy thế mà lá vẫn cứ âm thầm làm việc. Quả thật đây là một hình ảnh rất ấn tượng để giới thiệu cho con người tình yêu thương bác ái mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta.
– Chúa Thánh Thần chính là nhựa cây lấy từ rễ cây để nuôi sống thân cây, cành cây và lá cây. Cây làm sao sống được nếu không có nhựa cây nuôi sống. Lá làm sao có thể xanh tươi được nếu không được bộ rễ chuyển nhựa cây lên. Cành cây làm sao có trái được nếu không được cung cấp đầy đủ nhựa sống. Như thế nhựa cây rất cần cho sự sống của cây, nhưng nhựa cây lại tùy thuộc vào bộ rễ là chính Chúa Cha.
– Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất. Nhờ Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất mà thân cây mới có thể đứng vững, nhờ đó mới chuyển nhựa lên để nuôi cây, nhờ đó cây mới có thể sinh hoa kết trái. Nhìn vào rừng cây chúng ta thấy rõ điều này. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn mầu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám chắc vào Chúa Cha như thân cây bám vào bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
Bởi đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí Tích Rửa Tội, vì nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hơn nữa, Bí Tích Rửa Tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là điều mà Dấu Thánh Giá nhắc nhở cho chúng ta. Thực vậy, khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta hãy nhủ thầm: Tôi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý Chúa Cha, thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành lánh dữ, trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh. Chúng ta hãy luôn nhớ đến Chúa Ba Ngôi và dâng lên Chúa Ba Ngôi tất cả những việc làm lớn nhỏ trong cuộc sống như Christophe Columbe:
Christophe Columbe, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu với những dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi Cực Thánh”.
Lần kia, khi Columbe trình bày về thuyết “Trái Đất Tròn” trước một nhóm học giả được gọi là Hội Đồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbe đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân Thế Giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi. Amen.

13. Ba Ngôi tình yêu và hiệp nhất
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, Giáo hội phải mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Hơn thế nữa, Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần (GLCG số 772). Vì vậy, Chúa Giêsu ngày xưa sai các Tông đồ và chúng ta ngày nay rằng tiên vàn anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng nhất và trung tâm của đạo Công giáo. Mầu nhiệm này thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không thể hiểu thấu, chỉ nhờ Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết mà thôi. Qủa vậy, từ đời đời, Chúa Cha yêu Chúa Con. Tình yêu ấy lớn lao đến nỗi Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con giống hệt như mình. Con là hình ảnh hoàn hảo, nguyên tuyền của Cha. Cho nên Đức Giêsu nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9) và “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15). Ngược lại Chúa Con đáp lại tình Cha cũng nồng nàn tha thiết không kém. Cụ thể là Ngài đã vui lòng dâng hiến toàn vẹn cho Chúa Cha qua việc vâng lời Cha xuống thế làm người, chịu chết và sống lại để cứu chuộc nhân loại. Vì vậy, Tình yêu đã nối kết Chúa Cha và Chúa Con sinh ra Chúa Thánh Thần. Vì vậy, Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là Mầu nhiệm hiệp thông sự sống, tình yêu và hiệp nhất. Chúng ta có thể hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi theo kiểu gia đình: Chồng yêu thương vợ nên trao ban tất cả, “mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai, tình yêu nối kết chúng ta, ta yêu nhau qua nên hai hóa ra thành một”. Từ tình yêu đó cũng gắn chặt với con cái, nên “ba là cây nến vàng mẹ là cây nến xanh con là cây nến hồng ba ngọn nến lung linh thắp sáng một gia đình”. Ba là một! Vâng, chỉ có hiệp thông sự sống, tình yêu và hiệp nhất mới làm cho gia đình, giáo xứ, cộng đoàn chúng ta trở thành anh chị em với nhau cùng gọi Chúa là Cha. Cho nên, chân phước, Mẹ têrêxa calcutta hiến dâng cả đời để chăm sóc, yêu thương, vỗ về và anh ủi biết bao anh chị em khốn khổ, khuyết tật, bênh hoạn, sắp chết bên lề đường phố dù họ là da màu, khác tôn giáo hay khác văn hóa…
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương hiệp nhất là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Vậy, là vợ chồng phải yêu thương nhau, hy sinh cho nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Là cha mẹ và con cái hãy hòa thuận, hiệp nhất và yêu thương nhau dù phải hy sinh mạng sống vì “gia đình kitô hữu được mời gọi sống mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi, đón nhận và thông truyền ơn cứu rỗi” (GL Hôn Nhân Và Gia Đình). Cuối cùng là tha nhân với nhau, chúng ta hãy yêu thương, chia sẻ và đón nhận nhau vì như Thánh Phaolô trong bài đọc 2 dạy rằng tất cả chúng ta con cái Thiên Chúa Ba Ngôi, là anh chị em với nhau, cùng gọi Chúa là Cha mà, sao lại không thương nhau! Cho nên, dù tha nhân có tội, có khuyết tật, có ốm đau hay có nghèo mấy đi nữa cũng phải yêu thương, giúp đỡ họ vì như Lời Chúa Giêsu quả quyết: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Cho nên, Thánh Gioan tông đồ khẳng định như đinh đóng cột rằng: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ” (1Ga 4,20). Vì với bài hát “màu đen màu trắng”, ông tha thiết kêu mời rằng: “Hôm nay tôi hát bài ca yêu thương. Để thêm nhiều người yêu thương lấy họ. Họ tàn như họ không phế. Họ mù nhưng trái tim sáng ngời. Tôi mơ hạnh phúc nhỏ nhoi, để sưởi ấm những mảnh đời khổ đau. Hãy yêu thương nhau như chính ta yêu thương mình. Màu đen họ đã gánh lấy, còn màu trắng thì dành phần ta. Hãy yêu thương đi những trái tim hững hờ. Và hãy yêu thương đi vì ngày mai ai cũng về với cát bụi”.
Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa là yêu thương, hiệp nhất và phục vụ nhau. Amen.

14. Lễ Chúa Ba Ngôi
TRAO BAN TẤT CẢ VÌ YÊU THƯƠNG
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham. I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và là tất cả của Cụ già trăm tuổi.
Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ cho Ngài.
Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền của Thiên Chúa.
Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn lao đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau lòng đó.
Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ thần phục và mến yêu. Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn. Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn đời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”. (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng con người. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu mình” (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng. Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng cho chúng ta, khi được Chúa Giê-su hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?
Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giê-su đã trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự, dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là “hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: “đem cuộc sống báo đền cuộc sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu”.

15. Hiệp nhất trong yêu thương
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Từ ngày cắp sách vào lớp một, mỗi học sinh đều được học bài toán: 1+1+1 = 3 và nếu làm đúng như vậy thì lúc nào cũng được điểm tối đa. Trái lại, nếu có em nào làm phép tính: 1+1+1 = 1 thì sẽ bị cô giáo cho điểm O và bị phê là ngu xuẩn.
Thế nhưng trong một gia đình đầm ấm yêu thương thì 1 + 1 + 1 không còn là 3, mà chỉ là 1.
Hiệp thông trong gia đình
Trước đây, anh Bắc ở Hà-nội, chị Nam ở Sai-gòn, hai người ở hai phương trời cách biệt. Anh và chị là hai “ngôi vị” hoàn toàn xa lạ.
Về sau, hai người cùng vào làm trong cùng một công ty nên có nhiều cơ hội gặp gỡ và đôi bên cảm thấy ý hợp tâm đầu. Tình yêu của anh chị lớn lên từng ngày và với thời gian, anh chị yêu thương nhau sâu đậm đến nỗi người nầy không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng người kia.
Do tình yêu thúc đẩy, anh chị tiến đến hôn nhân. Lúc nầy hơn bao giờ hết, anh chị cảm thấy mình hoàn toàn thuộc về nhau: cùng chung một tổ ấm, chung một tình yêu, chung niềm vui nỗi buồn, chung một ước mơ và một niềm hy vọng… Họ không còn là hai mà là một đúng như nhà thơ Tản Đà nhận định: “Mình với ta tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai.”
Chính Chúa Giêsu cũng nhìn nhận rằng họ chỉ còn là một mà thôi: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mt 19, 5-6)
Rồi tình yêu của anh chị đơm bông kết trái: một đứa con yêu quý chào đời!
Giờ đây tuy trong nhà có ba người hay ba “ngôi” (=ba vị), nhưng tình yêu thương thắm thiết đã nối kết cả ba nên một. Họ cảm thấy hoàn toàn thuộc về nhau. Họ cảm thấy mình không còn là ba nhưng chỉ là một: hạnh phúc của người nầy cũng là hạnh phúc của người kia; khổ đau của mỗi người cũng là nỗi đau chung của cả gia đình.
Mặt khác, tình yêu và mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với nhau: khi càng yêu thương nhau hơn thì mức độ hiệp thông càng bền chặt hơn và ngược lại, khi ghét bỏ nhau, người ta cảm thấy hoàn toàn xa cách dù sống chung dưới một mái nhà. Lúc ấy, vợ, chồng và con cái trong nhà không còn là một mà là ba.
Như thế tình yêu là phép mầu nối kết nhiều người nên một. Những người yêu thương nhau được liên kết nên một với nhau nhưng vẫn không đánh mất bản ngã của mình.
Hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa
Hình ảnh một gia đình đầm ấm yêu thương hiệp nhất thường được Giáo Hội sử dụng để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhac nhở các tín hữu rằng: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (số 6)
Khi nhìn vào một gia đình có “ngôi cha”, “ngôi mẹ” và “ngôi con” hiệp thông với nhau cách mật thiết, chúng ta hiểu được phần nào sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vì tình yêu giữa Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần mênh mông như đại dương, trong khi tình yêu của các ngôi vị trong gia đình chỉ bằng giọt nước; và vì mức độ hiệp thông tỉ lệ thuận với mức độ yêu thương, nên sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa là vô cùng mật thiết so với sự hiệp thông còn quá mong manh giữa các thành viên trong gia đình.
Chúa Giêsu mời gọi sống hiệp thông theo mô hình Ba Ngôi
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và hôm nay, Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Người cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu nầy được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con cảm nhận rằng bí quyết để đươc hạnh phúc tuyệt vời là cùng nhau sống yêu thương gắn bó nên một như Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi thành viên trong gia đình và cộng đoàn sẵn sàng xoá bỏ những bất hoà chia rẽ để tiến tới đời sống yêu thương hiệp nhất theo mô hình Ba Ngôi.
Xin cho tình yêu của Ba Ngôi liên kết chúng con nên một, để đời sống gia đình và cộng đoàn chúng con trở thành hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi.

16. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
PHÉP RỬA NHÂN DANH CHÚA BA NGÔI LÀ GÌ?
Theo lời hẹn của Đức Giêsu, mười một môn đệ đi lên núi miền Galilê.
Chúa muốn các môn đệ phải trèo núi. Đây là một cuộc trèo núi cam go, núi đất đá và núi lòng người, lòng người các ông, lòng người Do thái và lòng người muôn dân.
Như những người trèo núi đất đá, các ông phải vượt suối, vượt đồi, phải bám đá, chui hang, phải chân chồn, tay mỏi, phải mắt tinh, trí sáng, phải lòng gan dạ sắt, phải trèo lòng người, vì tâm can các ông đang bị vò xé, rối bời như tơ vò. Tinh thần các ông tụt hậu, xuống dốc. Xuống dốc vì các ông đang trải qua một cuộc khủng hoảng dữ dằn. Các ông theo Thầy, mong leo lên địa vị cai trị dân Israel, thống trị muôn dân bằng xương bằng thịt, bằng giàu sang danh vọng, bỗng chốc rơi xuống hố sâu vực thẳm. Thầy mới được toàn dân reo hò ủng hộ làm vua, làm con Đại vương Đa vít. Nhưng họ đã trở mặt như chong chóng, theo các tầng lớp lãnh đạo, theo quan quân đế quốc, đả đảo Thầy, bắt nộp Thầy, tra tấn Thầy, kết án đóng đinh Thầy treo trên thập giá, còn nhục nhã hơn tên nô lệ tội ác.
Thầy còn thế, huống chi trò. Trò bảo nhau về Galilê, đi lên núi, để chạy trốn hay theo lời Thầy hẹn gặp. Có đúng Thầy sống lại không? Bao nhiêu băn khoăn lo lắng đang đè nặng tâm tư các ông! Các ông lẳng lặng gượng bước từng bước, nín từng hơi thở. Chẳng ai nói với ai, mỗi người một tâm trạng hoang mang, nghi ngại. Mắt đăm đăm nhìn, có hy vọng leo lét nào không?
Đức Giêsu muốn các ông phải trèo núi, muốn các ông phải thanh tẩy lòng mình, cái lòng trần tục tham ô, tham nhũng đó. Cái lòng yếu đuối thấp hèn đó. Ngài muốn các ông phải trèo núi, phải thắng vượt những cam go thử thách, phải trèo lên cao thoát khỏi bụi trần, vươn lên trời xanh trong sáng, mở rong tầm nhìn ra khắp thế giới muôn dân: Một thế giới vô cùng tận, một muôn dân sống lại muôn thuở mà Thầy đã làm cho họ. Các ông đã trèo được lên đỉnh núi, đã thoát khỏi lòng trần tục. Các ông đã gặp được Đức Giêsu Phục sinh. Giờ đây, Ngài ban cho các ông một quyền lực mới, quyền lực trên trời dưới đất, thay thế quyền lực trần tục mà trước kia các ông khao khát, quyền lực được đại diện Thầy đến với muôn dân, được làm phép rửa, tẩy sạch mọi tâm hồn, làm sáng lên hình ảnh huy hoàng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Các ông được dùng lời Thầy đào tạo họ nên môn đệ Thầy như Thầy đã đào tạo các ông. Các ông ở với họ như Thầy đã ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế.
Theo lời Chúa hẹn, các môn đệ đã phải trải qua một phép rửa cam go như thế đó để được gặp Đức Giêsu Phục sinh. Đó là phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó cũng là một quy luật ngàn đời cho mọi người muốn gặp gỡ Đức Kitô sống lại. Dân Do thái xưa muốn gặp Thiên Chúa trên núi Sinai, cũng phải vượt biển Đỏ, vượt sa mạc, trèo non lặn suối, phải xông pha qua những chinh chiến kinh hồn, khiếp đơm. Muốn được hạnh phúc và được sống lâu trên đất của Chúa, thì “Phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Vậy, các giới ran và mệnh lệnh của Người, anh em phải tuân hành”. Môisen đã nói với dân Israel như vậy (Bài đọc 1).
Thánh Phaolô cũng bảo giáo đoàn Rôma: muốn “được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn để được là con cái Thiên Chúa, để khỏi bị làm nô lệ, khỏi bị khiếp sợ như xưa, để được kêu lên: Abba, Cha ơi! để được đồng thừa kế với Đức Kitô, được hưởng vinh quang với Người, thì phải chịu đau khổ với Người” (Bài đọc 2).
Đó là phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, ước chi mỗi khi chúng con làm dấu Thánh giá nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng con biết suy niệm đến phép rửa tội của chúng con đã được để luôn luôn trèo lên núi, nơi Đức Giêsu sống lại đã hẹn gặp chúng con và Người thấy chúng con giống hình ảnh Chúa Ba Ngôi, thì phúc cho chúng con dường nào! Amen.

17. Đồng hồ mặt trời
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Nhiều năm trước đây, một nhà truyền giáo làm việc trong vùng thôn dã ở Phi Châu trở về quê cũ là nước Anh để nghỉ hè.
Trong khi ở nhà, lúc đi dạo phố, ông bỗng nhận thấy có cái đồng hồ dùng mặt trời để chỉ thời gian. Ngay lập tức, ông nảy ra một ý kiến. Ông thầm nhủ, “Cái đồng hồ mặt trời đó có lẽ thật lý tưởng cho dân làng ở Phi Châu. Mình có thể dùng nó để dậy cho họ biết thời giờ trong ngày.”
Nhà truyền giáo mua chiếc đồng hồ này, đóng thùng, và đem nó về Phi Châu.
Khi ông trưởng làng trông thấy chiếc đồng hồ mặt trời, ông nhất định phải đặt nó ở giữa làng.
Dân làng cũng hồi hộp khi thấy chiếc đồng hồ mặt trời. Họ chưa bao giờ thấy một vật đẹp như thế trong đời. Họ càng khích động hơn nữa khi biết nó hoạt động như thế nào.
Nhà truyền giáo này thấy vui trước phản ứng của mọi người đối với đồng hồ mặt trời. Do đó, ông hoàn toàn không ngờ trước một sự kiện xảy ra một vài ngày sau đó.
Dân làng tụ họp lại và xây một cái mái che đồng hồ mặt trời để bảo vệ nó khỏi bị mưa nắng.
Có lẽ quý vị tự hỏi câu chuyện đó có liên hệ gì đến ngày lễ hôm nay – Lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tôi nghĩ đồng hồ mặt trời thì rất giống với Ba Ngôi Thiên Chúa. Và Kitô Hữu chúng ta rất giống với dân làng Phi Châu.
Sự mặc khải mỹ miều nhất về đức tin của chúng ta là sự giảng dậy về Ba Ngôi Thiên Chúa, có thể nói, Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.
Chúng ta rất đúng khi đưa sự giảng dậy này vào tâm điểm đức tin. Chúng ta kính sợ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhưng thay vì đưa sự giảng dậy này vào đời sống hàng ngày, chúng ta xây một cái mái ở trên đó, cũng như dân làng Phi Châu xây cái mái che đồng hồ mặt trời.
Với nhiều người chúng ta, sự giảng dậy về Ba Ngôi Thiên Chúa dường như không có giá trị thực tế khi áp dụng vào đời sống hàng ngày. Chúng ta coi đó như vật trang hoàng cho đức tin của chúng ta.
Do đó, vào ngày lễ Ba Ngôi Thiên Chúa, có lẽ rất tốt để nhìn kỹ hơn đến sự giảng dậy này.
Trước hết, hãy xem Kinh Thánh nói gì về Ba Ngôi. Kế đến, chúng ta hãy xem có thể nào làm cho Ba Ngôi trở nên một giá trị thực tiễn hơn trong đời sống chúng ta.
Trước hết, Kinh Thánh nói gì về Ba Ngôi Thiên Chúa?
Chúng ta tìm thấy Phúc Âm Thánh Gioan thường đề cập đến Ba Ngôi. Ở đây Đức Giêsu nói nhiều về Cha của Người. Đức Giêsu cũng ám chỉ nhiều đến Chúa Thánh Thần là người sẽ đến sau Đức Giêsu.
Tuy nhiên, việc đề cập đến Ba Ngôi nổi tiếng nhất được tìm thấy trong Phúc Âm Mátthêu. Đó là đoạn mà chúng ta đọc trong bài phúc âm hôm nay. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Vậy các con hãy đi ra khắp tứ phương thiên hạ và hãy làm cho họ trở nên môn đệ của Thầy: hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần.”
Tuy nhiên sự đề cập với hình ảnh sống động lại xảy ra trong Phúc Âm Máccô. Ngay sau khi Đức Giêsu được thanh tẩy, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và một tiếng nói từ trời phán, “Con là Con yêu dấu của Ta.” Máccô 1:11
Tiếng nói, chim bồ câu, và Đức Giêsu – ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Luca có đoạn thần học rất quyến rũ về Ba Ngôi. Thánh sử nhìn thấy lịch sử cứu độ trong viễn ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Với Luca, giai đoạn Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha. Giai đoạn phúc âm là kỷ nguyên của Chúa Con. Và giai đoạn hậu phúc âm, được bắt đầu với biến cố Pentecost, là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
Sau cùng, Thánh Phaolô ám chỉ đến Ba Ngôi trong các thư của người. Sự đề cập nổi tiếng nhất của thánh nhân là lời chúc lành khi kết thúc thư II gửi tín hữu Côrintô: “Nguyện xin ơn sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Thiên Chúa, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cor. 13;13)
Qua các thế kỷ, các thần học gia đã dùng nhiều hình ảnh cốt để đem cho chúng ta một cái nhìn về Ba Ngôi.
Thánh Patrick dùng ba lá của “clover” để chuyển tải ý tưởng về Ba Ngôi.
Thánh Y Nhã ở Loyola dùng thí dụ của ba nốt nhạc khi hợp thành âm nhạc.
Những người khác dùng thí dụ của nước, mà nó có thể hiện diện dưới ba hình thức khác nhau: thể hơi, đá, và chất lỏng. Chỉ là một nước, nhưng nó có thể dưới ba hình thức khác nhau. Tương tự như vậy, chúng ta có thể suy nghĩ về Thiên Chúa.
Bây giờ, chúng ta hãy cặn kẽ nhìn thấy điểm thứ hai: làm thế nào chúng ta có thể áp dụng ý nghĩa Ba Ngôi vào đời sống hàng ngày.
Một phương cách mà một số người thấy hữu ích, đó là tập cầu nguyện mà họ tuân theo hàng đêm trước khi đi ngủ. Họ dành ba phút để nhớ lại những gì xảy ra trong ngày.
Trong phút đầu, họ nghĩ đến cao điểm của ngày, điều tốt lành xảy ra – tỉ như một cuộc đàm thoại hữu ích với người bạn tốt. Họ nói với Chúa Cha về điều đó và cảm tạ Người.
Trong phút thứ hai, họ nghĩ đến điểm tệ nhất của ngày, điều gì xấu xa đã xảy ra – tỉ như cãi nhau với một người thân yêu. Họ nói với Chúa Giêsu về điều đó và xin Người tha thứ cho họ.
Trong phút thứ ba, họ nhìn đến ngày hôm sau, nghĩ đến điều quan trọng – tỉ như phải thi hành điều gì đó mà họ không thích. Họ nói với Chúa Thánh Thần về điều đó và xin Người giúp họ đối phó.
Như quý vị thấy, sự thực tập này bao gồm sự cầu nguyện và duyệt xét lương tâm. Nhưng quan trọng hơn là nó đã đưa Ba Ngôi Thiên Chúa vào những thực chất của đời sống hàng ngày.
Nếu quý vị đang tìm cách để đưa Ba Ngôi vào một vị thế quan trọng trong đời sống hàng ngày, quý vị có thể nghĩ đến việc thực tập này. Trong tuần lễ sắp tới, việc thực tập đó sẽ là một tiếp tục lý tưởng với ngày lễ mà chúng ta cử hành hôm nay.
Chúng ta hãy cùng nhau kết thúc một hành động Ba Ngôi mà nó đã trở thành dấu hiệu cầu chứng của đức tin Công Giáo chúng ta – Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.”

18. Lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi
Là mầu nhiệm lớn nhất của Kitô giáo, khôn dò khôn thấu, Chúa mặc khải để ta tin chứ không để hiểu, là chuyện bên trong của Thiên Chúa, đừng tìm hiểu cho mất công. Thánh Âu Tinh sánh việc tìm hiểu mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ba Ngôi như nhóc con ngồi bãi biền mà lấy miễn ngao múc nuớc biển đổ vào cái lỗ mà nó moi trên bãi cát. Lập luận nầy không thuyết phục. Có tin thì cứ.
Từ “ngôi” không tìm thấy trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Là cách giải thích theo triết tây. Hy Lạp có Jupiter, vợ là Zenon và con là Apollo. Ba vị rõ ràng. Là đa thần. Ấn Độ có Brahma (Đấng Tối cao), Shiva thần huỷ diệt hay thần sinh sản (Mẹ) và Atman (spirit). Là ba chứ không là một. Đa thần. Còn Kitô giáo thì độc thần nên phải ba mà một.
Sách giáo lý mới không có bài nào noi Đức Chúa Trời Ba Ngôi mà thay vào đó là bài: THIÊN CHÚA LÀ CHA VÁ CON VÀ THÁNH THẦN. Rất đúng và hiểu được.
Thiên Chúa duy nhất. Chắc chắn. Không có gì bàn cãi.
Thiên Chúa thiêng liêng chúng ta không thể biết được gì bên trong, trừ khi “thiêng liêng” ấy hoạt động ra bên ngoài (mặc khải). Cảm nghiệm được kết quả của hoạt động ấy thì biết về Đấng ấy và chỉ bấy nhiêu thôi cũng như Đấng Phục Sinh chỉ được tin chắc khi các tông đồ cảm nghiệm được nơi chính mình sự hiện diện biến đổi mà Người thực hiện nơi họ.
Thiên Chúa hoạt động tạo dựng: phán lời và quyền năng (thần khí) ĐI LIỀN THEO THỰC HIỆN LỜI vừa phán ra cho có y như lời.
Thiên Chúa duy nhất phán lời và lời được thực hiện bằng thần khí (spirit) của Người. Lời và thần khí phát xuất từ một Đấng duy nhất. Thiên Chúa phán lời và thần khí thực hiện lời phán ra. Là một và ba. Lời và thần khí phát xuất từ Thiên Chúa. Lời và thần khí là của một Thiên Chúa. Dù cho Lời và thần khí có là hai đi nữa thì cũng là của Thiên Chúa duy nhất, hiện hữu với Thiên Chúa trong Thiên Chúa dù có nói là đồng hiện hữu với Thiên Chúa.
Dựng nên con người: Thiên Chúa nói: Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh ta giống như ta rồi lấy bụi đất nắn hình con nguời và thở hơi vào lổ mủi….Nói và thở hơi (spirit) làm nên con người.
Nhưng dường như thần khí ‘yếu’ nên con người sa ngả và tạo vật sụp đổ theo. Thiên Chúa không còn đơn giản nói lời….mà sai Lời đến, hóa thân làm người, bằng lời nói cuả con người, dạy con người Lời được ghi lại trong Phúc Âm. Lời được phán ra nhưng phải có thần khí kích hoạt mới kết quả. Đức Giêsu về cùng Cha và từ nơi Cha gởi Thánh Thần đến để kích hoạt Lời trong Phúc Âm sinh kết quả.
Trước đó là thần khí vì còn là một thần lực vô danh. Còn bây giờ là Đấng được sai, có địa vị có tên là “Đấng Bảo Trợ”, chủ trì thời đại thứ III, thời cuối cùng. Là Đấng ban phát ơn cứu đô mà Đức Giêsu đã hoàn thành. Là Đấng Thánh Hóa để kết thúc thời gian theo chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa hoạch dịnh chương trình nhưng được thực hiện như đã thấy.(Từ thần khí nghe không đựoc sạch sẽ và gây phản cảm).
Thiên Chúa là ba: Thiên Chúa phán lời là sinh Con, là Cha (là cách giải thích và đặt tên của các nhà thần học). Đức Giêsu cũng gọi Thiên Chúa là Cha.Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ bằng lời nhưng tạo dựng thì có thần khí âm thầm kích họat lời mới sinh kết quả. Cứu độ thì Cha sai Thánh Thần đến thế gian (chính thức như một sư giả) vì Lời đã được ban trong thế gian và lời nằm chết trong Phúc Âm phải được Thánh Thần kích hoạt mới sinh kết quả (Đức Giêsu về cùng Cha rồi). Thánh Thần đến (một mình) như gió thổi đùng đùng như lữa cháy bừng bừng nên kết quả cũng tưng bừng như đã xảy ra. Thần khí vô danh xem ra yếu hơn Thánh Thần chính danh. Không là thần khì nũa mà là Thánh Thần.
Thiên Chúa phán lời là Cha và Con. Thiên Chúa sai Thánh Thần thì là Thánh Thần. Như vay chúng ta biết Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. Và Con (Filioque) và (et)Thánh Thần (Pater filioque et Spiritus Sanctus) là nói Con và Thánh Thần đồng phát xuất từ Cha là Thiên Chúa duy nhất. Con và Thánh Thần là của Cha như nhau.(Phải mất rất nhiều thời gian và nước bọt mới phát minh ra đuợc từ filioque).
Ấy vậy Thiên Chúa là một (unus) và ba (et trinus). Chúng ta chỉ biết Thiên Chúa “hoạt động” cũng là Thiên Chúa mạc khải. Thiên Chúa ad extra. (còn bên trong Thiên Chúa chúng ta tuyệt đối không biết gì).

19. Sứ mạng bất từ nan
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Tin Mừng hôm nay là những dòng chữ cuối cùng của Phúc Âm theo thánh Mátthêu. Đồng thời cũng là những lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu, trước khi Người về trời. Người đã gửi gấm tín hữu cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dìu dắt, cùng ban lệnh truyền rất vắn gọn, súc tích và minh bạch.
1. Xác nhận quyền bính của Thiên Chúa
Trước khi đi rao giảng, Chúa Giêsu vào hoang địa cầu nguyện, chịu cám dỗ. Bấy giờ Satan, vốn kiêu ngạo, dụ dỗ Người bái thờ để được vinh hoa lợi lộc của các nước (Mt 4, 8-10). Satan có ý khoe mình là chủ tể thế gian. Điều mà lâu nay nhiều người vẫn thường lầm tưởng. Tuy nhiên cũng có phần nào đúng, vì Satan đích thị là hoàng đế sự dữ và tội lỗi.
Nay Chúa Giêsu công khai khẳng định chân lý bất di bất dịch:”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”(Mt 28, 18). Điều này đã được ông Đanien thị kiến từ thế kỷ VI trước Công nguyên: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các tiếng nói phải phụng sự Người.”(Đn 7, 14) Quyền tối thượng vẫn thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải thuộc về thế lực đen tối của Satan, cho dù ảnh hưởng của sự dữ hiện đang lan tràn như vũ bão khắp nơi.
2. Sứ mạng trao phó
Với quyền bính bao trùm cả trời đất, Chúa Giêsu trao sứ mạng cho các Tông đồ, cũng như cho từng tín hữu, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mat 28, 19-20)
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn trực tiếp mạc khải tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa. Một sự kết hợp hài hòa, hầu con người noi theo gương hiệp nhất với nhau trong tình yêu.
3. Chúa đồng hành đến tận thế.
Tuy Chúa Giêsu về trời, nhưng Người vẫn cùng đồng hành thân mật với tín hữu qua Lời Chúa và Thánh Thể, cùng các phép Bí Tích nhiệm mầu. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mat 28, 20)
Hơn nữa, Người còn phó thác cho Đức Chúa Thánh Thần chăm sóc và dưỡng nuôi tín hữu từng ngày từng giờ, qua những đặc sủng và hồng ân. Như thế, Người xa mặt, mà chẳng hề cách lòng. Mãi mãi vẫn là Đấng Emmanuel = Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con luôn nhớ mình đã được thánh hiến qua Bí tích Rửa Tội, đã trở nên con cái Chúa, thì sống sao hiếu thảo và đẹp lòng với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Mân Côi, xin dạy con biết nhận ra và thực hành Ơn Gọi Sai Đi, bằng chính cuộc sống hằng ngày, để đem niềm tin đến cho mọi người. Amen.

20. Thiên Chúa là tình yêu
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mau nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Đnl 4, 32-34. 39-40)
Đây là phần kết diễn từ thứ nhất “của Môsê” nói với dân Do Thái trước khi họ vào Đất Hứa.
Trước tiên Môsê lưu ý dân về sự uy quyền và lòng yêu thương của Thiên Chúa mà họ đã chọn tôn thờ: “Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ giữa hỏa hào như các ngươi được nghe?… Có Thiên Chúa nào tìm lấy cho mình một nước giữa các nước khác bằng những dấu lạ, điềm thiêng… như mọi sự Yavê Thiên Chúa các ngươi đã làm cho các ngươi?…”
Rồi Môsê khuyên dân hãy trung thành tuân giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền vừa yêu thương ấy.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này được soạn sau thời lưu đày, ca tụng Thiên Chúa là Đấng chủ tể của vũ trụ và lịch sử loài người, hằng yêu thương những kẻ kính sợ Ngài.
3. Tin Mừng (Mt 28, 16-20)
Đoạn Tin Mừng này được chọn đọc trong thánh lễ hôm nay vì câu 19 “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Trong lần gặp gỡ cuối cùng với các môn đệ trước khi về trời, Đức Giêsu đã long trọng sai họ đi truyền giáo khắp nơi:
Kẻ sai họ đi là Đức Giêsu phục sinh, Đấng đã “được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Ngài còn hứa sẽ “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Mục tiêu truyền giáo là làm phép rửa cho muôn dân “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” và dạy người ta tuân giữ những lệnh truyền của Đức Giêsu.
4. Bài đọc II (Rm 8, 14-17)
Đoạn thư này cho thấy vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống kitô hữu:
Kitô hữu là người được Chúa Thánh Thần hướng dẫn
Nhờ đó họ có thể sống thân phận làm Con như Đức Giêsu
Họ có thể gọi Thiên Chúa là Cha “Abba”
IV. Gợi ý giảng
* 1. “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Đôi khi ta không thể làm gì hơn cho một người đang đau khổ ngoài việc ở bên cạnh họ. Nhưng việc này thật quý giá, vì người đau khổ ấy cảm thấy được an ủi rất nhiều bởi tình bằng hữu của ta. Nếu biết có ai đang ở với mình để an ủi mình thì cuộc đời sẽ khac đi rất nhiều do không còn cảm thấy cô đơn nữa.
Đức Giêsu bảo các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và Ngài hứa sẽ ở cùng họ luôn mãi. Ngài chỉ hứa có bấy nhiêu, không có sự bảo đảm nào khác. Nhưng đó chính là sự bảo đảm quan trọng nhất Ngài có thể ban cho họ. Mặc dù Ngài không bảo đảm cho họ có một cuộc sống khỏi mọi ưu phiền, thậm chí Ngài cũng không bảo đảm là họ sẽ thành công, tuy nhiên họ ý thức rằng bao lâu Ngai còn ở với họ thì họ sẽ có can đảm và sức mạnh để có thể đương đầu với bất cứ khó khăn nào trước mặt.
Ý thức có Chúa ở cùng chúng ta không thay đổi được thế giới của chúng ta nhưng có thể cho chúng ta can đảm để đối diện thế giới ấy. Chúng ta không xin Chúa thay đổi thế giới hầu làm cho thế giới dễ chịu hơn. Chúng ta chỉ xin Ngài bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn ở với chúng ta khi chúng ta phải đương đầu với những khó khăn. Việc Ngài luôn ở với chúng ta sẽ che chở chúng ta khỏi cảm giác cô đơn và thất vọng.
Chúa luôn ờ cùng chúng ta, nhưng chúng ta không luôn ở cùng Chúa. Những bận rộn trong cuộc sống đã cắt đứt liên hệ của chúng ta với Ngài, và khi liên hệ của chúng ta với Ngài bị cắt thì chúng ta phải mất mát thiệt thòi rất nhiều.
Vì thế, chúng ta cần bồi dưỡng ý thức có Chúa luôn ở cùng chúng ta, bồi dưỡng bằng cầu nguyện. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Tin tưởng vào Chúa
Lời cầu nguyện dưới đây ghi trên một mảnh giấy được tìm thấy trong thi thể một người lính trẻ tử trận trong thế chiến thứ I:
“Chúa ơi, trước đây con chưa bao giờ thưa chuyện với Ngài, nhưng bây giờ con xin chào Ngài. Họ từng nói với con rằng Ngài không hiện hữu, và như một thằng điên, con đã tin họ. Nhưng đêm hôm qua, con đã nhìn lên trời từ một lỗ nhỏ trong hầm trú. Con đã thấy vẻ đẹp của những vì sao và con nghĩ rằng vũ trụ bao la biết chừng nào. Khi đó con biết rằng họ đã nói dối. Con không biết Ngài sẽ bắt tay con không khi Ngài và con gặp nhau. Dù sao, con cảm nghĩ rằng Ngài sẽ hiểu cho tất cả những sa ngã của con. Thật lạ lùng sao con phải đến nơi khủng khiếp này mới có thể biết được Ngài. Trước đây còn đã làm gì? Con chẳng biết nói gì hơn, nhưng con đoan chắc rằng con rất hạnh phúc khi hôm nay được biết Ngài. Con cảm thấy giờ zero sắp đến. Sắp có một trận đánh khủng khiếp. Biết đâu ngay đêm nay con có thể đến nhà Ngài. Con đang khóc! Lạ quá con đang khóc, vì trước đây chưa bao giờ con khóc như thế. Bây giờ con phải đi. Nhưng vì con đi để gặp Ngài nên con không sợ chết nữa.”
Tiếc là người lính trẻ này biết Chúa quá muộn. Nhưng muộn còn hơn không. Khi chúng ta tự cho phép mình tách lìa khỏi Chúa thì chúng ta phải chịu nhiều mất mát to lớn. Mà việc chúng ta tách lìa khỏi Thiên Chúa không phải là do lỗi của Ngài. Bài đọc I hôm nay cho thấy Thiên Chúa đã chủ động đến với con người để được gần gũi với con người như thế nào. Còn bài đọc II thì cho thấy mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người thân thiết đến mức nào. Chúng ta không chỉ là thành viên của dân Chúa mà còn là con cái Ngài. Nếu chúng ta liên kết với Ngài thì chúng ta trở nên những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong Nước Trời. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. “Dạy họ tuan giữ mọi điều Thầy đã truyền”
Những số liệu về kết quả truyền giáo khiến chúng ta rất bi quan. Với tất cả mọi cố gắng và mọi phương tiện, mỗi năm có được khoảng nửa triệu người lớn gia nhập đạo Công giáo; nếu cộng thêm vào đó số trẻ em rửa tội nhờ cha mẹ là người công giáo khoảng 3 triệu rưỡi nữa, thì tổng cộng mỗi năm có thêm chừng 4 triệu người rửa tội. Trong khi đó chỉ ở nước Trung Hoa thôi mỗi năm có thêm 12 triệu dân, nghĩa là số dân Trung Hoa sinh ra trong một năm đã gấp 3 lần số người công giáo tăng thêm trên toàn thế giới. Năm 1960 số người công giáo toàn thế giới là 500 triệu, dân số Trung Hoa khoảng một tỉ rưởi, nghĩa là gấp 3 lần người công giáo trên toàn thế giới, năm 2000, số giáo dân hoàn cầu khoảng 600 triệu, còn dân Trung Hoa khoảng 2 tỉ rưỡi, nghĩa là giáo dân toàn cầu chỉ còn bằng 1/5 số dân của chỉ riêng một nước Trung Hoa. Đó là ta đem tổng số giáo dân của toàn thế giới so sánh với dân số của chỉ một nước Trung Hoa thôi, chứ nếu so với tổng số nhân loại thì còn thể thảm hơn nữa. Cứ cái đà này thì giáo dân hiện này đã là một thiểu số trong nhân loại, mà càng về sau thì cái thiểu số đó càng nhỏ đi, tỉ lệ càng nhỏ đi hơn nữa. Như thế, có thể nói việc truyền giáo là một thất bại!
Nhưng đó là chúng ta tính trên những con số người được rửa tội, những con số rất bi quan. Còn nếu chúng ta nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì lại lạc quan. Chẳng hạn như mỗi khi một nơi nào đó trên thế giới gặp thiên tai như động đất, lũ lụt v. v. thì rất nhiều nước trên thế giới không phân biệt lập trương chính trị hay ý thức hệ lập tức gởi tiền bạc, lương thực, thuốc men, quần áo và nhân viên đến cứu trợ. Tinh thần bác ái xã hội của nhân loại càng ngày càng lớn thêm. Nhân loại cũng càng ngày càng biết tôn trọng phẩm giá con người hơn, càng ngày càng tôn trọng nhân phẩm của người phụ nữ hơn, càng ngày càng tôn trọng trẻ con hơn, càng ngày tôn trọng nhân quyền hơn… Do đâu mà có những sự tiến bộ đó? Chắc hẳn là do ảnh hưởng cua tinh thần Tin mừng Kitô giáo. Nói như vậy không phải là dành công cho Kitô giáo một cách hồ đồ, mà có bằng chứng rõ ràng: trước khi Kitô giáo được truyền bá loài người đã sống như thế nào? Khi đó, đa thê là tình trang đương nhiên: Một người đàn ông có quyền có nhiều vợ và muốn bỏ vợ lúc nào tuỳ ý. Khi đó người cha cũng có toàn quyền sinh sát trên con cái: sinh con ra nếu nó không phải là con trai, hay nếu nó tàn tật thì người cha có quyền giết chết nó đi không ai coi là tội. Khi đó chế độ nô lệ cũng là tình trạng đương nhiên: Người giàu có quyền mua những người nghèo về làm nô lệ phục dịch mình, người nô lệ ấy nếu còn mạnh khoẻ thì còn được nuôi dưỡng, còn nếu đã già yếu hay bệnh tật thì chủ có quyền giết đi hay đem bán cho người khác, người nô lệ được xem cũng như con trân con bò… Thế rồi Kitô giáo xuất hiện, giáo hội mở trường dạy học cho giới bình dân, Giáo Hội rao giảng vợ chồng nhất phu nhất phụ, GH lên án tục giết trẻ con, Giáo Hội vận động huỷ bỏ chế độ nô lệ, GH dạy những người chủ phải yêu thương các tôi tớ, GH dạy người giàu phải kính trọng những người nghèo… Vì tất cả đều là người, tất cả đều là con của Chúa và là anh em bình đẳng với nhau. Và dần dần, chế độ đa thê, chế độ nô lệ, tục lệ giết trẻ em biến mất… Dần dần người ta đề cao hơn tình huynh đệ, tình liên đới xã hội v. v… Những giá trị tinh thần của Kitô giáo ấy, ngày nay người ta coi là đương nhiên, kể cả những người không phải là Kitô giáo cũng đương nhiên sống theo những giá trị tinh thần ấy. Người hữu thần và người vô than đều coi sống như thế là đúng, là phải, là đạo đức.
Những điều kể ra nảy giờ có ý nghĩa gì đối với ngay lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”? Những điều trình bày phía trên muốn cho thấy rằng: nếu quan niệm truyền giáo chỉ là rửa tội cho người ta gia nhập cơ cấu hữu hình của GH thì truyền giáo quả là một thất bại lớn. Nhưng nếu quan niệm truyền giáo chính là truyền bá và làm thấm nhuần những giá trị Tin mừng vào môi trường mình sống thì truyền giáo vẫn còn là một thành công. Cả hai cách truyền giáo đều cần và bổ sung cho nhau. Nghĩa là GH ngày nay vẫn còn phải tiếp tục đón nhận những ai đến xin lãnh nhận bí tích Rửa tội và gia nhập vào cơ cấu hữu hình của GH, nhưng GH không nên tự mãn với việc Rửa tội, mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần Tin mừng thấm nhiễm vào thế giới. Thiết nghĩ, ngày nay phải nhấn mạnh hơn vào cách thứ 2 này, bởi vì:
Việc dạy giáo lý, việc Rửa tội hầu như chỉ thích hợp hơn cho các linh mục tu sĩ. Vậy thì giáo dân khỏi phải truyền giáo ư? Không, giáo dân vẫn truyền giáo được bằng nếp sống tỏa chiếu tinh thần Tin mừng cho mọi người chung quanh mình.
Rồi có những hoàn cảnh không tiện nói về đạo, về Chúa, về Giáo Hội. Dù không tiện như thế nhưng ta vẫn có thể truyền giáo được bằng nếp sống của ta.
Và cũng có thể có những người không chịu Phép Rửa tôi được, không đi đến nhà thờ được, nhưng họ vẫn sống theo những giá trị tinh thần tốt đẹp của Tin mừng. Làm sao cho có được những người như thế cũng là một điều đáng mừng rồi. Thần học gia Karl Rahner đã gọi những người đó là những “Kitô hữu ẩn danh”, nghĩa là tuy họ không có danh hiệu là Kitô hữu, nhưng thực chất họ sống y như một người Kitô hữu.
Có lẽ ngay từ ngày xưa Đức Giêsu đã nghĩ tới cách truyền giáo đó và đề cao các đó khi Ngài giảng những dụ ngôn về Nước Trời: Nước Trời giống như men vùi trong thúng bột. Tuy men âm thầm không ai thấy nhưng nó dần dần làm cho cả thúng bột dậy men. Nước Trời giống như một cái hat gieo xuống lòng đất, cho dù chủ có biết hay không, cho dù chủ đất thức hay ngủ, hạt giống ấy cứ ngày đêm đâm chồi mọc lên và cuối cùng thành một cây to lớn.
Công đồng Vaticanô để kêu gọi “Truyền giáo là bổn phận của mọi Kitô hữu”. Với hoàn cảnh, khả năng và phương tiện của một người giáo dân, chúng ta có thể đáp lời kêu gọi của công đồng để truyền giáo bằng cách sống như một hạt men như một hạt giống giữa những người khác, nghĩa là bằng cuộc sống của mình, Chúng ta cho người ta thấy được sự tốt đẹp của tinh thần Tin mừng và người ta ham thích sống theo đó, dù ý thức hay vô ý thức cũng tốt. Cụ thể, chúng ta hãy sống như những lời kinh Hoà Bình mà thỉnh thoảng chúng ta vẫn đọc:
Đem yêu thương vào nơi oán thù.
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục.
Đem an hoà vào nơi tranh chấp.
Đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Đem niềm tin vào nơi nghi ngờ.
Đem cậy trông vào nơi tuyệt vọng.
Đem ánh sáng vào chốn tối tăm.
Đem niềm vui vào nơi sầu thảm.
* 4. Thiên Chúa là Tình yêu
Thánh Gioan đã định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thiên Chúa là Tình yêu nghĩa là Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi Tình yêu.
Thiên Chúa là Tình yêu có nghĩa là không có nơi nào Tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng Tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho Tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về Tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
1/ Đặc điểm thứ nhất là Tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
TC không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng TC có Ba Ngôi yêu thương nhau.
Điều đó cho thấy Yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không có đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
Nhưng tại sao yeu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2/ Đặc điểm thứ hai của Tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
Chỉ có một TC nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một TC.
Có câu thơ “Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Áp dụng vào Tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà một”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
Ý nghĩa đó là: TC có Ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng Thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà 3 Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là một TC.
Điều đó có ý nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hoà hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ Tình yêu của TC Ba Ngôi:
Yêu thương là cho đi.
Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hoà hợp với nhau.
* 5. Tình yêu hiệp nhất
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
– Ông có cần biên nhận không?
– Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
– Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
– Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
– Tôi thì không, thưa ngài.
– A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!
******
Người ta thường nói: “Tin đạo chứ đừng tin người có đạo”. Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Đã tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mot mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.
Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: the hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.
Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mc. 1, 11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuộc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: “Chúa Cha trong tiếng noi, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói”.
Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên cua Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì “Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga. 4, 16).
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.
*******
Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản tính của mình trong bản tính của Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu sáng tạo cứu độ và thánh hóa chúng ta; một tình yêu muốn hiệp thông với tất cả mọi người. Chúng ta hãy dâng lên Ba Ngôi lời cầu xin của chúng ta:
1. Hiệp thông được phát xuất từ Thiên Chúa Ba Ngôi, và Hội thánh phải qui hướng về Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hội thánh luôn là dấu chỉ và dụng cụ của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Thế giới và vũ trụ cũng phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà cầm quyền cũng như mọi dân tộc / biết nhìn nhận Thiên Chúa là nguồn gốc và là cùng đích của mọi người mọi vật.
3. Trong xã hội còn đầy dẫy những chia rẽ, bè phái, kỳ thị, hận thù, giết hại nhau / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người sớm nhận biết rằng / người trong bốn bể đều là anh em con Một Chúa trên trời.
4. Hội thánh có sứ vụ đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi / Chúng ta hãy cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn sống hiệp thông với Chúa và với nhau / để có thể đem mọi người chung quanh về hiệp thông trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chủ tế: Lạy Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Ba Ngôi chí thánh luôn hiệp thông với nhau; xin cho mỗi người chúng con biết dẹp bỏ mọi chia sẻ, kỳ thị, hận thù; để chúng con luôn sống hiệp thông với nhau, như anh em trong một gia đình Thiên Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Chủ tế chú ý nhấn manh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Đức Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. “Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thanh Thần”.

21. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
CHÚA BA NGÔI
“Mặc Khải Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc phạm vi của Cựu Ước. Cựu Ước bận lòng gìn giữ sự tinh tuyền độc thần giáo không ngừng bị đe dọa bởi môi trường đa thần giáo chung quanh.
Tuy nhiên, các bản văn Cựu Ước để lộ ra vài tiên cảm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: tầm quan trọng được ban cho Thần Khí Thiên Chúa, cũng như ngôi vị hóa dần dần của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan, nhất là trong những tác phẩm muộn thời.
Ngôi Lời Nhập Thể mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, cũng như hiệp nhất chính Ngài với hai Ngôi Vị nầy trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn trào liên tục, một sự đổi trao thường hằng. Vì thế, bản tính của Thiên Chúa là sự trao ban không ngừng nghỉ. Chính nhờ tình yêu tự hiến của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần mà nhân loại được dự phần vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như vậy, mặc khải Một Thiên Chúa Ba Ngôi Vị là một sự kiện đặc biệt của Ki-tô giáo, phân biệt với hai tôn giáo độc thần khác: Do thái giáo và Hồi giáo. Vào ngày lễ Chúa Ba Ngôi nầy, ba bài đọc lần lượt nêu bật Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đnl 4: 32-34, 39-40
Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, ca ngợi sự cao vời khôn ví của Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất, siêu việt và hoàn vũ. Đây là dung mạo của Chúa Cha.
Rm 8: 14-17
Bài Đọc II trích từ thư gởi tín hữu Rô-ma, trong đó thánh Phao-lô cho thấy tác nhân biến đổi của Chúa Thánh Thần trên cuộc sống của người Ki-tô hữu.
Mt 28: 16-20
Bài Đọc III là phần kết thúc Tin Mừng Mát-thêu, trong đó Chúa Con Phục Sinh công bố Ngài là Chúa Tể hoàn vũ, căn nguyên ơn cứu độ cho muôn dân nước và thường hằng phù trợ Giáo Hội của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 32-40)
Bài Đọc I được trích từ sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư, được gọi là sách Đệ Nhị Luật, hay đơn giản là sách “Luật Thứ Hai” hay “Thứ Luật” (bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn). Tuy nhiên, sách không lập lại Luật được diễn tả trong các sách trước đó (sách Xuất Hành, sách Dân Số, sách Lê-vi); sách Đệ Nhị Luật đánh dấu những phát triển mới để thích ứng luật vào hoàn cảnh của một dân đang định cư và thậm chí đã an cư lập nghiệp có nguy cơ quên ơn gọi của mình.
“Luật Thứ Hai” này, được hư cấu trên môi miệng của ông Mô-sê, muốn nói lên rằng nó chỉ là khai triển luật của ông Mô-sê. Ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa, nhưng thật ra đây là những thế hệ sau nầy được mời gọi trung thành với Đức Chúa của mình.
Sách Đệ Nhị Luật có chủ ý nhấn mạnh trên những nền tảng lịch sử và thần học của Luật. Đoạn trích mà chúng ta đọc hôm nay thật có ý nghĩa về phương diện nầy.
1. Nền tảng lịch sử của Luật (4: 32-34):
Bản văn này rất nổi tiếng, được soạn thảo theo văn phong đầy cảm xúc, ca ngợi việc Đức Chúa chọn dân Ít-ra-en với cung giọng nồng nàn. Việc tuyển chọn nầy đem lại ý nghĩa cho những đòi hỏi của Luật.
Sự kiện vài ngàn người thoát khỏi kiếp nô lệ bên đất Ai-cập xem ra chẳng có nghĩa lý gì trong lịch sử chung của thế giới, nhưng thật ra đây là một biến cố độc nhất vô nhị: đây là lần đầu tiên Thiên Chúa minh nhiên can thiệp vào lịch sử thánh kể từ ngày khai thiên lập địa cho đến nay, vì Thiên Chúa đã chọn cho mình một dân giữa muôn dân: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời nầy đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?” (Đnl 4: 32). Lúc đó, bằng những ám chỉ, tác giả gợi lên những diễn biến của lịch sử đầy kinh ngạc nầy. Trước hết, tác giả nhắc nhớ biến cố chủ chốt: Thiên Chúa đã tỏ mình ra trên núi Xi-nai; mọi người đều được nghe tiếng Ngài mà không phải chết: “Có dân nào được nghe tiếng tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không?” (Đnl 4: 33).
Chúng ta lưu ý trong diễn từ nầy, ông Mô-sê không nói lên kinh nghiệm của riêng mình, nhưng kinh nghiệm của dân chúng về Thiên Chúa. Quả thật, đó là một viễn cảnh rất hiển nhiên trong sách Đệ Nhị Luật: dân Ít-ra-en được xem như một cá thể, một chủ thể duy nhất, đồng nhất với chính mình qua muôn thế hệ.
Tiếp đó, người kể chuyện còn đi ngược dòng thời gian lên đến cuộc ra đi khỏi đất Ai-cập: “Hoặc có vị thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dùng cách tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đỡm, như Đức Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4: 34). Chúng ta có thể nói Thiên Chúa đã “bứng” dân Do thái khỏi đất Ai-cập để làm thành dân riêng của Ngài.
– “đã dùng bao thử thách” ám chỉ đến những gian truân vất vả trong sa mạc: đói khát, mệt mõi, lang bạc rày đây mai đó, vân vân
– “dấu lạ, điềm thiêng”: nào là nước phun vọt ra từ tảng đá, bánh man-na rơi xuống từ trời, chim cút rơi trên mặt đất, vân vân.
– “chinh chiến”: tác giả dành một chỗ lớn cho những cuộc chiến; ông vừa mới kể dong dài cuộc chinh phục đầy gian khổ ở bên kia sông Gio-đan; ông bày tỏ lý tưởng quốc gia chinh chiến, mà ông biết làm cho nó đồng hiện diện với lời dạy về một tôn giáo nội tâm.
– “đã dùng cánh tay mạnh mẽ uy quyền”: đây là kiểu nói “như nhân”, kiểu nói nầy diễn tả vừa tính chất siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng hoàn toàn khác, vừa tính cách rất mực gần gũi của Ngài: Đấng làm cho mình trở nên gần gũi với nhân loại hơn, trở nên sống động với dân Ngài hơn. Đây cũng là cách thức nhấn mạnh sự bất lực và tính bất tất của các thần linh ngoại giáo.
Sau cùng, tác giả ngược dòng thời gian xa hơn nữa khi ám chỉ đến những chiến công gây kinh hoàng mà Thiên Chúa đã làm tại Ai-cập, nghĩa là những tai ương giáng xuống trên dân Ai-cập để buộc Pha-ra-ô phải để cho dân Do thái ra đi.
Sau khi Thiên Chúa đã bày tỏ biết bao ân cần của Ngài đối với dân, làm thế nào dân Chúa chọn có thể lại bất trung với Ngài được chứ?
2. Nền tảng thần học của Lề Luật (4: 39-40).
“Vậy, hôm nay đây, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều nầy” (4: 39a). Những lời nầy hình thành nên lời khuyên đạo lý đầu tiên tiêu biểu trong toàn bộ sách này. Tôn giáo mà sách Đệ Nhị Luật dạy không quy chiếu đến việc tuân giữ Lề Luật chi li, nhưng kêu gọi đến những tư thế sẵn sàng nội tâm và tình yêu đối với Thiên Chúa.
Vị Thiên Chúa nầy, hiện diện trong lịch sử, chính là Đấng Sáng Tạo, Ngài ngự trị “trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có Thiên Chúa nào khác” (4: 39b).
Lời nhắc nhở “Độc Thần giáo tuyệt đối” chắc chắn là cần thiết vào lúc nầy. Một phần sách Đệ Nhị Luật xem ra đã được các thầy Lê-vi thuộc vương quốc miền Bắc soạn thảo kể từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, vào thời kỳ bội giáo của vương quốc nầy; nhưng rồi vào thế kỷ tiếp sau đó, vương quốc miền Nam, đến phiên mình, phạm tội thờ ngẫu tượng. Lời khẳng định về Thiên Chúa chân thật, duy nhất và siêu việt, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en đòi hỏi phải vâng phục và yêu mến Ngài, chính là lời nhắc nhở thần học căn bản, đối mặt với những việc cúng tế đa thần giáo của dân Ca-na-an.
“Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em” (4: 40). Từ “hôm nay” của sách Đệ Nhị Luật nhấn mạnh giá trị thường hằng của những huấn lệnh Thiên Chúa. Tuân giữ chúng là nguồn phúc lộc ở dưới thế nầy: “hạnh phúc và được sống lâu”. Vào thời nầy, trong Kinh Thánh chưa có những viễn cảnh về những ân thưởng bên kia nấm mồ.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 14-17)
Thánh Phao-lô viết thư nầy từ Cô-rin-tô, vào mùa xuân 57-58, để chuẩn bị cho cuộc hành trình đến Rô-ma. Tuy nhiên, dự định đã không thành vì thánh nhân bị bắt vào mùa xuân năm sau ở Giê-ru-sa-lem. Chính trong cảnh giam cầm mà thánh nhân bị giải đến thủ đô của Đế Quốc vào đầu năm 61.
Trong những thư của thánh Phao-lô, thư gởi tín hữu Rô-ma là thư dài nhất và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Sau bức tranh ảm đạm về việc nhân loại bị giam hãm trong tội lỗi, thánh nhân phác họa một bức tranh đầy an ủi về nhân loại được tái sinh và sống theo Thần Khí. Đây là chủ đề của chương 8 nầy.
1. Ơn nghĩa tử:
Thánh nhân ngỏ lời với những người chịu phép Rửa, nhờ phép Rửa, họ trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh nhân khích lệ họ sống cho xứng đáng với phẩm chất nầy và mời gọi họ sống cuộc sống nội tâm, một cuộc sống cho phép họ lắng nghe Thần Khí, vì Thần Khí sở hữu quyền năng biến đổi.
Như vậy, Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử chứ không trở thành nô lệ. Vào thời đại nầy, sự sánh ví nầy rất hùng hồn. Người nô lệ là người không có quyền lợi gì, không sở hữu bất cứ điều gì, sống trong sợ hãi vào ông chủ của mình. Chỉ có người con mới có thể ngỏ lời với cha mình “Cha ơi!” trọn một tấm lòng yêu thương và tin tưởng.
2. Đồng thừa tự với Đức Ki tô.
Người con chẳng những chắc chắn hưởng được lòng yêu thương trìu mến của cha mình, mà còn có quyền thừa kế nữa. Người Ki-tô hữu là con cái của Chúa Cha nhờ Đức Ki-tô, Con Một của Thiên Chúa; và với Đức Ki-tô, họ trở nên đồng thừa tự những thiện hảo của Nước Trời. Một viễn cảnh như thế trái với pháp lý Do thái, nhưng hợp với luật Hy-lạp và Rô-ma, người con nuôi được hưởng quyền thừa kế như người con ruột. Như vậy, thánh nhân nhấn mạnh ơn ban nghĩa tử trong Chúa Thánh Thần.
Nhưng nếu ơn nghĩa tử nầy làm cho người Ki tô hữu nên anh chị em của Đức Ki-tô, thì nó lôi kéo họ vào trong những gian truân và cái chết của Ngài, trước khi cho họ được dự phần vào vinh quang của Ngài. Thánh nhân không làm dịu đi sứ điệp của mình.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Chính trên hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ nầy mà sách Tin Mừng Mát-thêu kết thúc: trên một ngọn núi thuộc miền Ga-li-lê, Đức Ki-tô Phục Sinh hiện ra cho nhóm Mười Một, họ phủ phục dưới chân Ngài. Ngài mặc khải quyền chủ tể hoàn vũ của Ngài và truyền lệnh cho họ loan báo Tin Mừng cho khắp thiên hạ, bằng cách đảm bảo với họ ơn phù trợ của Ngài.
Thánh Mát-thêu không tường thuật bất cứ lần hiện ra nào của Đức Giê-su với nhóm Mười Một sau khi Ngài sống lại ngoại trừ lần hiện ra nầy, bởi vì thánh ký tập trung chứng từ về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những lời căn dặn sau cùng của Ngài vào cuộc gặp gỡ duy nhất nầy. Như vậy, biến cố nầy mang lấy một chiều kích đặc biệt.
1. Miền Ga-li-lê.
Sự kiện xảy ra ở miền Ga-li-lê. Chính ở đó mà Đức Giê-su đã ba lần hẹn gặp các Tông Đồ của Ngài. Lần thứ nhất, Ngài đã báo trước việc thánh Phê-rô sẽ chối Ngài và các ông sẽ vấp ngã vì Ngài: “Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (26: 32). Lần thứ hai vào buổi sáng Phục Sinh, sứ thần đã nói với các người phụ nữ: “Các bà…mau về nói với môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông” (28: 7). Lần thứ ba, Đức Giê-su đã lập lại cùng một sứ điệp: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (28: 10). Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê nầy, trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các Tông Đồ của Ngài ở Giê-ru-sa-lem. Thánh Mát-thêu không thích thành đô Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, vì thế thánh ký dành cho miền Ga-li-lê sứ điệp tối thượng của Đức Giê-su.
Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, ngọn núi nào xem ra chẳng quan trọng gì: ngọn núi chỉ là biểu tượng. Không phải trên một ngọn núi (5: 1) Chúa Giê-su khai mạc Nước Trời bắt đầu với các Mối Phúc sao? Không phải cũng trên một ngọn núi (17: 1) Chúa Giê-su hiển dung cho các môn đệ thấy vinh quang của Ngài sao?
2. Họ bái lạy.
“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (28: 17). Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song đối với những hoạt cảnh mà ở đó thánh Mác-cô và thánh Lu-ca mô tả những hoài nghi như thế: “Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em ngờ vực…” (Lc 24: 36). Điều này cho thấy các ông không phải là những người nhẹ dạ cả tin.
Đức Giê-su tiến lại gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi đã trấn an họ, Ngài cho họ dự phần vào vinh quang của Ngài và trao phó cho họ sứ mạng tối hậu của Ngài.
3. “Thầy đã được trao quyền trên trời dưới đất”.
Chúa Giê-su công bố quyền thống trị hoàn vũ của Ngài. Quyền thống trị hoàn vũ nầy đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo về một nhân vật mầu nhiệm với tược vị “Con Người” rồi: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
4. “Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”:
Tiếp đó, Đức Giê-su trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ , làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (28: 19). Đây là một trong những ghi nhận về Thiên Chúa Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu. Quả thật, phép rửa mà Đức Giê-su đã lãnh nhận trong dòng sông Gio-đan trước kia đã bày tỏ Ba Ngôi Thiên Chúa rồi: “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3: 16-17).
Chính ở dưới dấu hiệu Ba Ngôi Thiên Chúa nầy mà phép Rửa Ki-tô giáo được ban cho. Công thức mà thánh Mát-thêu trích dẫn là công thức thức Phép Rửa được Giáo Hội dùng rất sớm. Trong chứng liệu rất cổ xưa thuộc cuối thế kỷ thứ nhất, sách “Didakhé” (hay “Đạo lý của Mười Hai Tông Đồ”) sưu tập giáo lý và phụng vụ, trong đó chúng ta gặp thấy những hàng nầy: “Khi phép rửa bởi việc dìm mình vào trong nước không thể, phải rửa trong nước thông thường bằng cách đổ nước ba lần trên đầu nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Didakhé 7, 3). Công thức Ba Ngôi của thánh Mát-thêu càng quý hơn nữa nếu chúng ta so sánh với công thức của thánh Phao-lô: “Anh em đã chịu phép rửa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Rm 6: 3; Gl 3: 27), hoặc “Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí” (1Cr 12: 13), và với công thức của sách Công Vụ: “Họ đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su” (Cv 8: 16; 19: 5).
5. “Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em”
Chúng ta nên lưu ý rằng trong diễn từ nầy Đức Giê-su nói theo cùng uy quyền và hầu như với cùng những ngôn từ như Đức Chúa của sách Đệ Nhị Luật mà ông Mô-sê nhắc lại sự cao vời khôn ví của Ngài và truyền đạt sứ điệp của Ngài: “Trên cõi trời cũng như dưới mặt đất, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Thiên Chúa nào khác. Vậy, các giới răn và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền đạt cho anh em, anh em phải tuân hành…”.
6. “Còn Thầy, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ở đây, Chúa Giê-su không nói như một lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em”, nhưng như một lời khẳng định: “Thầy ở cùng anh em”. Đây là một lời khẳng định tuyệt vời nhất về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính nhờ sự hiện diện của Thiên Chúa trong suốt chiều dài lịch sử mà dân Ít-ra-en đã được hình thành và được phù trợ. Đó cũng lời khẳng định hình thành nên dân Thiên Chúa mới, tức Giáo Hội, được đảm bảo bởi sự phù trợ của Chúa Ki-tô mọi ngày cho đến tận thế.
Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng, thánh ký, rất nhạy bén trước chiều kích phổ quát của ơn cứu độ, hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh rộng lớn về cuộc hoán cải của muôn dân.

22. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng đầy long kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với moi người, từ người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình, đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này, mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó.
Anh chị em thân mến,
“Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con tôi nơi nó”. Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hieu cho thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trai tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48).
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi” (Jn 3,16-18).
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày được trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.

23. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
Anh chị em thân mến.
Có một vị ẩn sĩ, vào sa mạc tìm đời sống kết hợp với Chúa đã lâu. Nhưng đến một thời gian, ông thấy dường như Thiên Chúa không còn yêu thương mình nữa, vì ông thấy mình buồn chán thất vọng.
Qua bao nhiêu cố gắng nhưng không thể nào tìm được sự an bình thư thái. Ông ngỡ rằng Thiên Chúa đã rời xa mình nên ông mới gặp tình trạng như thế. Ông lang thang buồn chán. Bổng có tiếng gọi, ông biết đó là tiếng của Chúa, ông mới trả lời:”Chúa đã bỏ con, tại sao còn gọi làm gì?” Chua trả lời:”Ta đâu có bỏ con, con hãy nhìn lại đoạn đường con đã đi, con thấy được điều gì?”. Ông vội nhìn lại phía sau và nhìn thấy, không phải chỉ có hai dấu chân của ông in trên cát, nhưng bên cạnh còn có những dấu chân của một người khác, đi theo từng bước chân của ông. Chúa bảo:”Đấy là những dấu chân của Ta luôn theo sát bên con. ” Ông vui mừng bước đi với tâm hồn phấn khởi.
Đến trưa, mặt trời chiếu những tia nắng nóng như thiêu đốt, ông mệt lã người, ông vội nhìn ra sau, thì hỡi ôi! chỉ còn có những bước chân mệt mỏi của ông kéo lê lết trên đường. Ông vội la lên: “Đó Ngài lại bỏ con nữa rồi, nên con mới mệt lã như thế nầy”. Thiên Chúa trả lời ông:”Ta đâu có bỏ con, con hãy nhìn kỷ xem, những dấu chân đó là những dấu chân của Ta chứ đâu phải của con, vì Ta đã bế con trên đôi tay của Ta”. Vị ẩn sĩ nhìn lại, và quỳ gối xuống tạ ơn Thiên Chúa. Ông tiếp tục cuộc hành trình của mình, và từ đó không còn kêu trách Thiên Chúa nữa. Ông đã nhận ra rằng: Thiên Chúa luôn ở bên cạnh ông từng giây từng phút và luôn nâng đở từng bước chân của ông. “Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế.”
Lời hứa của Người Thầy kính yêu đối với các môn sinh của mình. Lời hứa khi trao sứ mệnh cho các Ngài. Các Tông Đồ đã sống trọn Lời Hứa, các Ngài đã cảm nhận được những gì mà Thầy đã hứa. Trong đời sống, trong lúc thi hành sứ mạng được trao phó, khi thuận lợi, lúc khó khăn, các Ngài luôn thấy Người Thầy kính yêu của mình vẫn hiện diện và không bao giờ rời xa.
Lời hứa đó, lời nói của năm xưa không đi vào dĩ vãng, nhưng luôn là hiện thực qua từng thời đại, cho đến ngày hôm nay vẫn là hiện thực. Lời hứa đó, Thiên Chúa cũng nói với từng người trong chúng ta. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người hèn kém của chúng ta, Ngài còn thương yêu, cứu chuộc, đem chúng ta về sống trong tình yêu thương của Ngài. Như thế chưa đủ, Ngài còn hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Lời hứa của Ngài hứa với ai? Thưa hứa với những con người hèn kém, những con người phản bội, những con người nông cạn không hiểu được tình yêu thương của Ngài. Trong đó có chúng ta, những người của thời đại hôm nay, những người đang hiện diện nơi đây.
Thế mà Ngài vẫn giữ lời hứa hết sức trung thành. Nhưng rồi Ngài cũng vẫn phải nghe những lòi trách phiền vô cớ. Ngài còn phải đón nhận sự thờ ơ. Thế mà Ngài vẫn bồng bế trên tay những con người như thế, mỗi khi Ngài thấy cần thiết, cho dù người được Ngài nâng niu có biet hay không, điều đó không quan trọng đối với Ngài. Ngài chỉ biết một điều là làm sao cho người mà Ngài yêu thương được hạnh phúc, được tốt đẹp.
Trong đời sống chúng ta, nhiều lúc chúng ta cũng phiền trách rằng: Thiên Chúa đã quên, đã bỏ rơi, để rồi nhiều khi chúng ta có thái độ không được tốt đối với Đấng đã từng yêu thương che chở cho mình. Trong những lúc buồn chán, thất vọng, chúng đã làm gì? Những lúc đó nếu chúng ta bình tĩnh một chút, thì sẽ nhận ra được tình yêu thương bao la của Thiên Chúa luôn ấp ủ. Ngài đang bồng bế chúng ta trên đôi tay, ôm vào lòng để chuyền hơi ấm và sức sống của Ngài cho chúng ta.
Nếu chúng ta chỉ nhìn thấy chính mình, nhìn thấy những công lao của mình, thì chúng ta cũng chỉ biết than thở, đòi hỏi như vị ẩn sĩ. Nhưng chúng ta có nhìn kỷ như vị ẩn sĩ để nhận ra Chúa bên cạnh, như ông đã nhận ra hay không? được bao nhiêu lần trong đời sống, chúng ta biết làm dấu thánh giá cẩn thận để tạ ơn Thiên Chúa. Nhận ra được tình yêu bao la của Thiên Chúa trong đời sống, khi đó chúng ta mới yên tâm bình thản chu toàn thách nhiệm hằng ngày một cách tốt đẹp.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi soi sáng tâm hồn mỗi người chúng ta, để nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống.

24. Tình yêu hiệp nhất
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Trong cuộc đời của nghị viên Rémaud có một giai thoại lý thú sau đây: Lần đầu tiên từ Pyrénées đến Paris với tư cách là nghị viên, ông Rémaud thuê phòng trong một khách sạn và trả tiền trước một tháng: 150 quan Pháp. Chủ khách sạn hỏi:
– Ông có cần biên nhận không?
– Không, không cần thiết. Thiên Chúa nhìn thấy hết chúng ta.
– Ngài tin vào Thiên Chúa ư?
– Lẽ dĩ nhiên! Ông cũng thế chứ?
– Tôi thì không, thưa ngài.
– A! Vậy xin ông cho tôi ngay một tờ biên nhận!
***
Người ta thường nói: “Tin đạo chư đừng tin người có đạo”. Quả thật, khi gặp người có đạo chúng ta thấy tin tưởng hơn, yên tâm hơn. Nhưng thực tế, không hẳn là như vậy! Ở đây, chúng ta muốn nói đến niềm tin vào Thiên Chúa, tin các mầu nhiệm trong đạo. Đa tin là có liều lĩnh, mạo hiểm. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn con người khó mà hiểu thấu.
Chúng ta thường dùng một vài hình ảnh loại suy để hiểu một phần nào mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đó là hình ảnh của nước. Nước có thể hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi, thể rắn, và thể lỏng. Hoặc ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất. Tuy nhiên tất cả những so sánh ấy không tránh khỏi thiếu sót, vụng về khi nói về Thiên Chúa. Chỉ có Đấng ở trong cung lòng Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô đã vén mở cho chúng ta biết có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi khác nhau nhưng cùng một Thiên Chúa.
Câu Kinh Thánh nổi tiếng về Ba Ngôi chính là “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt. 28, 19). Và hình ảnh đặc trưng nhất về Ba Ngôi được mạc khải khi Đức Giêsu chịu phép rửa: Một hình chim bồ câu bay lượn trên mình Người, và một tiếng từ trời phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mc. 1,11). Đó là hình ảnh sống động về chân dung của Chúa Ba Ngôi. Theo thánh Tôma Aquinô thì trong cuoc Hiển Dung, tất cả Ba Ngôi đã xuất hiện: “Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong Con người, Chúa Thánh Thần trong ánh mây sáng chói”.
Thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu Ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng mà Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần. Kinh Tin Kính duy trì mẫu tuyên xưng này: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần ban nguồn sống.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta dựa vào thế giá của Đức Giêsu, Người là sự thật (x. Ga. 8, 32) nên Người chẳng lừa dối ai.
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta sống hiệp thông, chia sẻ và yêu thương. Vì “Ai ở trong Tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga. 4, 16).
Tin vào mầu nhiệm Ba Ngôi là chúng ta làm dấu thánh giá trên thân xác, là in dau Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời mình, là họa lại hình ảnh Ba Ngôi trong tâm hồn tha nhân.
***
Lạy Ba Ngôi chí thánh, Thiên Chúa là một cộng đồng Tình yêu Hiệp nhất. Xin cho Giáo hội tìm thấy bản tính của mình trong bản tính cua Chúa Ba Ngôi. Xin cho chúng con hiệp nhất trong tình yêu, để minh chứng cho Tình yêu Hiệp nhất của Chúa. Amen.

25. Lễ Chúa Ba Ngôi
YÊU THƯƠNG VÀ HIỆP NHẤT NHƯ BA NGÔI THIÊN CHÚA
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm đứng đầu trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công Giáo. Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta biết có một Thiên Chúa mà Người có Ba ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất và yêu thương nhau. Nhân loại được hiện hữu nhờ tình yêu của Ba Ngôi. Đồng thơi khi cử hành mầu nhiệm này, chúng ta được thúc đẩy hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa và yêu thương nhau như chính Ngài.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm tham sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc trí khôn con người cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này. Ngài cho biết Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Và Chúa Thánh Thần la Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau.
Trong kinh tin kính, chúng ta đều tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sinh ra trước muôn thưở muôn đời. Tôi tin kính Chúa Thánh thần, người là Chúa và là Đấng ban sự sống, Người phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”. Đó là một công thức thần học súc tích, mang nặng tính chất lý luận dài dòng và khó hiểu. Thế nhưng đây là một mầu nhiệm tuyệt đối nhất trong các mầu nhiệm. Mầu nhiệm của sự hiệp thông sự sống và tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là chính Chúa Thánh Thần. Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả ra ngoài trên khắp vũ trụ và đến nhân loại: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con chí ái của Ngài” (Ga 3, 16), nghĩa là chính “sự sống của Thiên Chúa”.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Chúa Con đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Người Con ấy cũng lại trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Chúa Con, công việc yêu thương. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu, thế nào la sống như con người được tạo dựng giống hìng ảnh Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 8) còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, “vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất. Có thể nói Thiên Chúa là một gia đình: Cha, Con và Thánh Thần. Yêu thương chính là bản tính thần linh chung của Ba Ngôi, là lời lý giải cho mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tuyên xưng.
Mầu nhiệm đức tin không bao giờ là một trò chơi và thách đố trí tuệ, nhưng luôn hàm chứa lời mời gọi sự sống, Thiên Chúa Ba Ngôi là thực tại sống động trong đời sống người Kitô hữu được khai sinh nhờ bí tích Rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lời cầu nguyện luôn luôn là lời nguyện ” với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Thánh Lễ, trọng tâm của đời sống Kitô hữu, cũng được khai mở và kết thúc trong danh Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi đang sống trong lòng mỗi người, đời sống Ba Ngôi đang diễn ra trong mỗi tâm hồn.Từng giây từng phút, người Kitô hữu được liên kết chặt chẽ với Chúa Con, đến độ khi được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, người Kiô hữu trở thành con của Cha trên trời. Vì vậy, phúc lành vĩ đại nhất cho kẻ tin là ” được tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần”. Vì thế, sự nhận biết Thiên Chúa là tình yêu và là tình yêu cứu độ phải là sự thuc đẩy chúng ta yêu thương mọi người như Thiên Chúa yêu thương.
Như nơi Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban và chia sẻ. Thái độ mở ra, thông ban, chia sẻ này đòi hỏi phải ra khỏi bản thân và đi đến vời người khác. Thái độ này đòi hỏi chúng ta quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của người khác, biết nhìn nhận người khác ngay trong cái khác biệt của họ.
Bản chất của tình yêu là lan tràn. Tình yêu không khép kín trong trong gia đình Ba Ngôi, nhưng trào vọt và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ trong lòng mọi người. Vì thế, việc tạo dựng vũ trụ được xem như kết quả của tình yêu tràn trề của Thiên Chúa. Tất cả mọi thụ tạo và đặc biệt là con người được coi như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Trong tất cả mọi loài thụ tạo, con người gần gũi với Thiên Chúa hơn cả trong cách sống và tình yêu. Cũng vậy, niềm tin thúc bách tình yêu đi tới, phá đổ mọi bức tương ngăn cách, để đến với muôn người và từng người, vượt qua mọi rào cản của màu da, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ để tình yêu loan toả khắp nơi.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó. Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa. Đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin Chúa cho chúng con luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương và hiệp nhất nhau trong tình yêu Chúa. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy. Amen.

26. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
“Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bang dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Jorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu mà Thiên Chua dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế, khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ tư hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông: “Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.

27. Hiệp nhất trong yêu thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Trong suốt năm Phụng vụ, chúng ta đã lần lượt mừng các mầu nhiệm ơn cứu độ, hôm nay chúng ta đi vào mầu nhiệm cao cả nhất và cũng căn bản nhất trong đạo: đó là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Mừng lễà Ba Ngôi không có nghĩa là chỉ lặp lại một cách khô khan câu giáo lý mà ta đã học: mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi vị riêng biệt, cùng một bản tính Thiên Chúa, cùng một uy quyền như nhau, không hơn không kém là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhưng chúng ta có thể hiểu được mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm yêu thương và hiệp nhất. Mầu nhiệm này phải là mẫu mực cho chúng ta trong đời sống hằng ngày ở gia đình cũng như ngoài xã hội.
Nhờ phép Rửa tội và nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được nhận làm con Chúa để có thể thưa với Chúa “Abba, Cha ơi” (bài đọc 2). Chúng ta còn được hạnh phúc lớn lao nữa là được Chúa Ba Ngôi sống trong ta để chúng ta được thông phần vào sự sống của Chúa Ba Ngôi và được thừa hưởng Nước Trời với tư cách là con Chúa. Do đó, chúng ta phải biết ơn, yêu mến và tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày bằng những việc làm cụ thể.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đnl 4, 32-34. 39-40.
Sách Đệ nhị luật mà Phụng vụ hôm nay trích ra đoạn văn trên, đã được trước tác trong thời lưu đầy bên Babylon và là phần kết diễn từ thứ nhất của Maisen nói với dân Do thái trước khi họ vào đất hứa.
Theo đó, Maisen nhắc nhở dân Do thái hãy nhớ đến những ưu tuyển và những kỳ công mà Thiên Chúa đã dành cho cha ông họ:”Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ trong đám lửa như anh em đã nghe?…Có Thiên Chúa nào đã chọn cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác bằng những dấu lạ, điềm thiêng… như Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Ai cập trước mắt anh em không”?
Đây là những đoạn quan trọng nhất của Cựu ước diễn tả đức tin độc thần của dân tộc Do thái. Vì thế, Maisen khuyên dân hãy trung thành giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền, vừa yêu thương mà chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
+ Bài đọc 2: Rm 8,14-17.
Các Kitô hữu không cần phải chạy đến những nghi lễ làm an lòng như dân ngoại đứng trước một vị Thiên Chúa đáng sợ; họ cũng không cần phải tính toán những nỗ lực của mình như người Do thái trước một Thiên Chúa quan toà. Ngày nay các Kitô hữu đã được Thánh Thần cư ngụ trong tâm hồn qua bí tích Rửa tội và làm cho họ trở nên người con đích thực của Thiên Chúa khiến họ gọi Thiên Chúa là Cha:”Abba, Cha ơi”.
Kitô hữu được trở nên người con đích thực chứ không phải con nuôi, họ được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa, được Thiên Chúa cho thừa kế và đồng thừa kế với Đức Kitô. Do đó, họ sống với Chúa trong tâm tình con thảo không còn sợ sệt lo lắng gì nữa.
+ Bài Tin mừng: Mt 28, 16-20.
Sách Tin mừng thứ nhất không có bài trình thuật về cuộc Thăng thiên nhưng lại gợi lên mầu nhiệm và nội dung đó khi thuật lại Đấng Phục sinh hiện ra với nhóm Mười Một trên ngọn núi vùng Galilê. Trong lần gặp gỡ cuối cùng này, Đức Giêsu khẳng định quyền bính tối cao của Ngài:”Thầy đã được trao trọn quyền trên trời dưới đất”(Mt 28,18) Vì thế, trước khi về trời, Ngài sai các môn đệ đi khắp nơi chiêu tập mọi người làm môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và dạy người ta tuân giữ những lệnh truyền của Ngài.
Khi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Đức Giêsu, các Tông đồ chỉ làm cho chủ quyền của Ngài được biểu lộ trên mọi loài thọ tạo. Tuy nhiên, trong sứ mạng lớn lao ấy, Đức Giêsu vẫn giữ vai trò chính yếu. Ngài chỉ rời thế gian này để hiện diện thâm sâu hơn:”Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chúa Ba Ngôi trong đời ta.
I. MẠC KHẢI VỀ CHÚA BA NGÔI
Hôm nay chúng ta đi vào mầu nhiệm cao cả nhất trong đạo, là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người không thể nào có thể hiểu hay hình dung được. Trong Cựu ước, dân Do thái chỉ được mạc khải cho biết là chỉ có một Thiên Chúa Giavê độc nhất và chỉ được tôn thờ một mình Ngài:”Hôm nay, các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa chớ không có Chúa nào khác”(Đnl 4,39).
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta. Theo bài Tin mừng hôm nay, trước khi về trời, Đức Giêsu đã tập họp các môn đệ lại ở trên núi để dặn dò một điều sau cùng:”Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,18-20).
Đức Giêsu chỉ mạc khải cho chúng ta biết có một Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần, còn tìm hiểu về Chúa Ba Ngôi thế nào thì Ngài dành cho Chúa Thánh Thần, Đấng là hồn sống của Hội thánh sẽ soi sáng và giữ gìn kho tàng đức tin. Bởi vì thánh Luca nhìn lịch sử cứu độ như một viễn cảnh mang chiều kích Ba Ngôi: Thời Cựu ước là kỷ nguyên của Chúa Cha, thời loan báo Tin mừng là kỷ nguyên của Chúa Con, và thời hậu Tin mừng Công vụ Tông đồ ghi lại là kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.
II. MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI.
Cựu ước chưa có mạc khải về Chúa Ba Ngôi. Cựu ước chỉ nhấn mạnh về một đức tin độc thần: Chỉ duy Đức Chúa mới là Thiên Chúa độc nhất hiện hữu và ban ơn cứu độ. Mười điều răn được ban cho dân Israel thì điều răn quan trọng nhất là “Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự”(x. Xh 20,3).
Trong Thánh lễ hôm nay, Tin mừng Matthêu ghi lại lệnh truyền của Chúa Phục sinh, mạc khải rõ ràng về mầu nhiệm này:”Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).
Sách Công vụ Tông đồ của Luca ghi lại bài giảng của Tông đồ Phêrô có câu:”Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe”(Cv 2,33).
Tin mừng Gioan đã nhiều lần đề cập đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi:”Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”(Ga 14,16).
Còn thánh Phaolô diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ở phần chào thăm:”Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em”(2Cr 13,13).
Chúng ta chỉ có thể biết được mạc khải về Chúa Ba Ngôi trong những đoạn Kinh thánh nêu trên. Theo đó, Đức Giêsu cho chúng ta biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa, và Ngài với Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi vị riêng biệt chứ không phải là Ba Thiên Chúa. Vì Ba Ngôi cùng chung một bản tính và cùng một quyền năng nên Ba Ngôi bằng nhau, không Ngôi nào lớn hơn. Trong các kinh cầu đều có câu:”Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
Về công việc của mỗi Ngôi vị, chúng ta được biết khi sáng tạo vũ trụ vạn vật và loài người, Thiên Chúa xuất hiện như một người Cha. Ngài dùng Lời quyền năng làm cho vạn vật từ không xuất hiện (x. St 1,3). Ngài còn tiếp tục quan phòng để các tạo vật tồn tại và ngày một tiến hoá. Khi nguyên tổ loài người phạm tội, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm Đấng Thiên Sai là Đức Giêsu, để thiết lập Nước Trời. Cuối cùng Ngài đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người. Khi Chúa Giêsu về trời, Chúa Cha lại sai Thánh Thần đến tiếp tục chương trình cứu độ, bằng việc ban ơn thánh hoá để giúp loài người nên con Thiên Chúa và nhận được ơn cứu độ của Đức Giêsu (Lm Đan Vinh).
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Thánh Augustinô là một bậc tài trí cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Cầm một vỏ hến mà tát cạn đại dương còn dễ hơn là thấu hiểu được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Cứ tin, cứ yêu đi rồi sẽ hiểu. Dĩ nhiên chĩ hiểu được một phần rất nhỏ theo kiểu loại suy thôi.
Truyện: Cứ nếm thử mà xem.
Sau khi chấm dứt buổi diễn thuyết chống lại Chúa và các công trình của Ngài, diễn giả mời cử toạ lên diễn đàn, để đặt câu hỏi.
Một người bước lên. Anh này là một người nghiện rượu, vừa mới được cải hóa. Đứng trước thính giả, anh ta lấy từ trong túi ra một trái cam và chậm rải lột vỏ. Chờ mãi, ông diễn giả bực mình bảo anh ta hãy đặt câu hỏi đi. Nhưng, anh ta cứ từ từ làm tiếp cái công việc lột vỏ cam, và không trả lời. Lột vỏ xong, anh ta từ từ ăn cam. Ăn xong, anh ta mới quay về phía diễn giả va øhỏi:
– Ông thấy trái cam có ngọt không?
Diễn giả gầm lên:
– Đồ khùng! Làm sao tôi biết được là ngọt hay chua, vì tôi có nếm đâu?
Lúc ấy, anh chàng thính giả mới nói:
– Thế thì làm sao ông có niềm tin vào Chúa, nếu ông không bao giờ nếm thử Ngài.
(Gm Arthur J. Tonne, Stories for Sermons, tập 13)
III. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ CHÚA BA NGÔI.
Nhằm giúp các tín hữu hiểu biết một phần nào về Chúa Ba Ngôi, các nhà thần học đã dùng những hình ảnh để diễn tả, dĩ nhiên những hình ảnh này chỉ diễn tả được một phần nào về Chúa Ba Ngôi, còn mầu nhiệm thì vẫn còn là mầu nhiệm, không thể hiểu được.
Thánh Patrick dùng hình ảnh lá cây “Tam diệp thảo”, tuy chỉ có một lá nhưng do ba lá nhỏ dính vào nhau.
Thánh Ignace de Loyola thường dùng hình ảnh ba nốt nhạc trong một hợp âm. Tuy ba nốt nhạc khác nhau nhưng cùng làm nên một hợp âm nghe du dương.
Hoặc chúng ta có thể dùng hình ảnh nước để diễn tả: nước có thể ở thể hơi, thể lỏng và thể đặc. Tuy chỉ là nước mà có thể ở được những dạng khác nhau.
Hình tam giác đều tuy chỉ là một hình, nhưng có ba góc, ba cạnh đều nhau.
Thời gian có thể lá quá khứ, hiện tại và tương lai.
Và còn rất nhiều hình ảnh khác mà chúng ta không cần kể ra hết.
IV. CHÚA BA NGÔI TRONG ĐỜI TA.
1. Một dịp nhắc nhở.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay là một dịp để chúng ta nhắc lại bí tích Rửa tội. Nhờ phép Rửa, chúng ta được tẩy sạch tội nguyên tổ và tội riêng đã phạm, được ơn thánh hoá, được nhận làm con Chúa, được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa và được thừa hưởng Nước Trời nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Ngày lễ nhắc nhở chúng ta hãy trung thành với Chúa, thi hành những điều đã hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng; đồng thời nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn để ta luôn sống trong tình con thảo đối với Chúa để lúc nào cũng có thể thưa với Ngài:”Abba, Cha ơi”.
Năm 500, vua Clovis và rất nhiều binh sĩ xin được rửa tội qua bàn tay của thánh Rémi tại thành Reims. Trước khi ban phép Rửa tội, thánh nhân tuyên bố với nhà vua của bộ lạc Franc:”Từ đây ông sẽ thờ Đấng mà ông đốt và đốt những cái mà ông thờ”. Và nước phép rửa tội đã chảy trên trán của Clovis và ba ngàn binh sĩ, nhờ công ơn và lời cầu nguyện của bà thành Clotilde, hoàng hậu.
2. Hạnh phúc được làm con Chúa Ba Ngôi.
Nhờ phép Rửa và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần chúng ta được nhận làm con Chúa. Đã là con thì chúng ta được thừa hưởng mọi quyền lợi của kẻ làm con Chúa, nhất là chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh của Chúa. Đấy là một vinh dự lớn lao mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta vì Đức Chúa Cha bởi yêu thương đã dựng nên loài người và tôn lên làm con Ngài để có quyền thừa kế Nước Trời.
Các loài ta thấy trên đời, nếu chúng biết nói, chắc chúng sẽ nói lên sự phen bì với ta, vì Chúa đã biệt đãi loài người phạm tội; chúng thì không phạm tội, lại luôn theo ý Chúa mà không được Chúa thương bằng con người.
Ông vua kia nuôi một con chim hót rất hay, ông vua yêu nó lắm, mua những thức ăn nó thích nhất, sắm cái lồng vàng. Một ngày kia nghe nó hót líu lô, ông vua say mê, và vì yêu nó quá, nên nghĩ rằng: thôi, ta nhận nó làm con, để ăn gia tài của ta. Ông vua nghĩ thế, người ta cho là yêu đến phát điên. Thực ra, Chúa đã yêu ta đến thế: Thiên Chúa mà nhận con người làm con! Thật là hạnh phúc quá (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật B, t.2, tr 124).
3. Chúa Ba Ngôi hành động trong ta.
Khi đã trở thành người con Chúa chúng ta được tham dự vào đời sống của Chúa Ba Ngôi. Chúng ta có Chúa ngự trong mình vì Chúa đã nói:”Ai yêu mến Thầy và tuân giữ các lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến nó, chúng ta sẽ đến ở trong nó và chúng ta sẽ lập cư trong nhà nó” (Ga 14,23).
Thánh Phaolô cũng xác quyết:”Anh em lại không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong anh em sao”? (1Cr 3,16-17; 6,19).
Các thánh đã sống mầu nhiệm này một cách hết sức ân cần và thân mật. Việc Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn đã ghi sâu vào tâm trí các ngài và làm cho các ngài không bao giờ cảm thấy cô đơn lẻ loi. Thánh Têrêsa Hài đồng đã nói:”Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Chúa trở nên tù nhân bị giam hãm trong hồn con”.
Truyện: Ba Ngôi hành động nơi ta.
Một cuộc thảo luận của nhóm thanh niên diễn ra rất sôi nổi về đề tài Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Họ đã xem lại giáo huấn căn bản: Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, có Ba Ngôi vị, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Rồi họ bàn bạc thêm về vấn nạn Ba Ngôi cùng hành động thế nào, nhưng vấn đề sâu xa, vượt quá hiểu biết của họ, và mấy người hướng về Cha sở đang ngồi ở phía ngoài:
– Thưa cha, cha có thể soi sáng cho chúng con về vấn đề này?
Cha sở đáp:
– Có lẽ tôi có thể đưa ra chút ánh sáng cho vấn đề. Rồi ngài quay sang một tham dự viên và hỏi:
– Bill, bạn có biết chơi Guitar không?
Bill nhìn nhận:
– Con chơi được lắm.
Và cha sở tiếp:
– Cây đàn guitar gây ra tiếng nhạc thế nào? Có ba sự việc liên đới với nhau. Nghệ thuật âm nhạc hay là tâm trí bảo ta điều phải làm, bàn tay thì gảy – dây tạo ra tiếng đàn. Tâm trí không tạo ra tiếng đàn, bàn tay không tạo ra tiếng đàn, nhưng cả hai việc cùng với dây tạo ra tiếng đàn. Cả ba việc cùng làm, dầu rằng việc riêng biệt của dây là tạo ra tiếng đàn. Thiên Chúa Ba Ngôi hành động giống như thế!
Cả nhóm đồng ý rằng: hình ảnh mà cha sở trình bầy đã giúp họ hiểu hơn.
(Gm Arthur Tonne, Bài Giảng TM CN, năm A, tr 75)
4. Thái độ của ta đối với Chúa Ba Ngôi.
Thánh Gioan nói:”Thiên Chúa là Tình yêu”. Ngài là nguồn gốc mọi tình yêu. Ngài san sẻ cho chúng ta tình yêu của Ngài để chúng ta yêu Ngài và yêu thương nhau. Điều răn mến Chúa yêu người phải được thực hiện song song, mà muốn yêu Chúa thì phải yêu người.
a) Yêu thương nhau:
Khi nói đến yêu thì phải nói yêu ai chứ không chỉ nói yêu suông. Mà nếu không yêu ai thì chỉ là yêu mình, một tình yêu vị kỷ bệnh hoạn, giống như tình yêu của anh chàng Narcisse trong thần thoại Hy lạp. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên cho chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
Yêu thương là phải biết hy sinh, phục vụ người khác. Yêu thương là phải biết cho đi, phải biết trao cái mình có nhất là chính bản thân mình vì cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận.
b) Tôn trọng sự hiệp nhất:
Thiên Chúa Ba Ngôi là hình ảnh tuyệt vời của sự hiệp nhất. Chúa Cha yêu thương đã sinh ra Chúa Con và tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con đã làm phát sinh ra Chúa Thánh Thần. Tuy Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, trong sự yêu thương và hiệp nhất. Cuộc sống của cộng đoàn cũng cần phải có sự hiệp nhất theo gương Chúa Ba Ngôi để lúc nào cũng vang lên câu Thánh vịnh:
Anh em xum họp một nhà
Bao là tốt đẹp bao là thú vui.
c) Tôn thờ Chúa Ba Ngôi:
Để tỏ lòng yêu mến tôn sùng Chúa Ba Ngôi, ta phải có thái độ trân trọng khi xưng danh Chúa Ba Ngôi như khi đọc kinh Sáng danh hay lúc làm dấu Thánh giá. Chính trong đó ta đang tuyên xưng danh Chúa Ba Ngôi rất thánh. Ngoài ra chúng nên nghĩ ra những cách thích hợp để nhắc ta năng nhớ đên Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống.
Truyện: Phòng ngủ ba cửa sổ.
Thánh Barbara sống vào thế kỷ thứ 3, thời kỳ mà theo đạo tức là ngầm hiểu là bằng lòng tử đạo. Mặc dù thế, bà thánh này đã giữ vững đức tin, để nhiều giờ ăn chay cầu nguyện. Cha của bà tên là Dioscorus, là một người ngoại đạo. Trước khi đi chu du, ông phác họa một đồ án để xây căn nhà mới. Trong phòng Barbara, theo đồ án thì có hai cửa sổ, nhưng vì Barbara có lòng tôn sùng Chúa Ba Ngôi cả trong việc xây nhà, bà nghĩ vì Chúa Ba Ngôi nên tốt hơn phòng bà có ba cửa sổ.
Khi chu du trở về, cha bà thấy có sự thay đổi trong việc xây cất không đúng như đồ án của ông, ông đoán có lý do gì đây. Thánh Barbara thú nhận rằng bà đã theo đạo từ lâu. Cha bà bực tức. Ông không muốn cho vua ngoại đạo làm lôi thôi, nên ông đã đem con đi xử. Bà bị kết án chém đầu. Để tự cứu mạng mình và để chứng tỏ cho vua thấy mình trung thành với nhà vua thế nào, chính ông Dioscorus mang bản án đi. Thiên Chúa thịnh nộ vì hành động bất nhân ấy đã cho sét đánh chết Dioscorus tức thì.
Ngày nay, trên những bức ảnh thánh Barbara, chúng ta còn thấy bà cầm cành lá thắng trận tử đạo và ba cửa sổ ở phía sau bà, có ánh sáng mặt trời chiếu qua chói lọi.
(W. Diamond, Đồng cỏ non, tr 96-97).

28. Một Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Mừng trọng thể Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta tôn thờ Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: Chúa Cha sáng tạo, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá. Qua lịch sử ơn cứu độ, Thiên Chúa đã mạc khải cho loài người nhận biết về sự sáng tạo vũ trụ và muôn loài. Con người là loài cao quý nhất được chính Con Một Thiên Chúa ban ơn thanh tẩy và cứu độ. Trước khi rời khỏi các Tông đồ, Chúa Giêsu đã trao quyền tái tạo con người qua Bí tích Rửa Tội. Chúa Giêsu phán: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta tuyên xưng Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Thiên Chúa an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên. Tất cả mọi loài được Thiên Chua quan phòng tạo dựng để tiếp nối sự hiện hữu qua việc truyền sinh các giống nòi. Tác giả sách Đệ Nhị Luật đã viết: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng?” (Đnl 4,32). Từ những loài thực vật, động vật đến loài người đều được cộng tác vao chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Một sự di chuyển sống động không ngừng trong vũ trụ giúp chúng ta nhân biết một quyền năng phi thường.
Từ xa xưa, khát vọng tâm tư của loài người đã kiếm tìm nguồn cội có uy quyền. Sống giữa vũ trụ bao la, cha ông tổ tiên đã nhiều lần tìm dựa dẫm và nương nhờ chở che vào những đối tượng giả. Họ đã tôn thờ mọi thứ thần lạ do trí tưởng tượng của con người tạo nên. Họ đã phong thần cho tất cả các nguồn sức mạnh tự nhiên như: thần sông, thần núi, thần sấm sét, thần mưa, thần gió, thần mặt trời, mặt trăng, các con vật, và con người cũng được phong thần và đi đến thờ đa thần. Con người tôn thờ những Thần mà họ khong hề biết, người Dothái cũng bị ảnh hưởng bởi các thần dân ngoại, đã có thời họ đúc bò vàng để thờ lạy. Thiên Chúa đã chọn riêng dân Dothái để mạc khải về Thiên Chúa độc thần và chương trình cứu độ.
Từng bước Thiên Chúa đã mạc khải cho Dân mà Chúa đã chọn tìm về nguồn chính thật để tôn thờ Một Thiên Chúa. Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: “Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa” (Đnl 4,39). Trải qua biết bao thăng trầm và thanh luyện, lòng người không dễ buông bỏ những sự thờ phượng bụt thần bằng gỗ đá vô hồn. Thiên Chúa đã dùng các tiên tri để nhắc nhở, dạy dỗ và hướng dẫn dân quay trở về với một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm quan trọng trong đạo. Mầu nhiệm cao trọng nhất nhưng cũng gần gũi với đời sống của các tín hữu. Chúng ta có thể tuyên xưng mầu nhiệm qua việc làm Dấu Thánh Giá nhiều lần trong ngày. Đã có rất nhiều suy tư thần học về Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng con người vẫn đắm chìm trong thao thức. Có rất nhiều nhà thần học đa dùng những hình ảnh, tỉ dụ và ẩn dụ để giải thích một chút về Chúa Ba Ngôi; giúp chúng ta dễ hiểu qua các biểu tượng như hình tam giác ba cạnh, ngọn lửa và tia nắng, lá Shamrock, ba thể khí, lỏng và đặc và nhìn xem cây, cành và lá liên kết… Tất cả những giải thích cũng chỉ như giọt nước trong đại dương bao la. Trí khôn con người chỉ còn biết chìm đắm trong nhiệm mầu và quy phục bái lậy tôn thờ.
Khi chúng ta mở mắt chào đời thì mọi sự đã hiện hữu trong vũ trụ. Chúng ta được hít thở bầu khí quyển, được nuôi sống bằng của ăn thức uống và được ngắm nhìn vũ trụ vạn vần đổi thay. Đại đa số con người được sinh ra có đầy đủ giác quan để chiêm ngắm và thưởng thưc tất cả những vẻ tươi đẹp của cuộc đời. Khi chúng ta càng ý thức và suy tư sâu thẳm, chúng ta sẽ nhận diện có một sự trật tự lạ lùng trong vũ trụ muôn loài. Từ sự di chuyển của đại vũ trụ tới những chuyển động cua tiểu vũ trụ trong từng tế bào li ti, chúng ta nhận ra có một nguyên nhân đệ nhất.
Có rất nhiều vấn đề xảy ra trước mắt trong cuộc sống hằng ngày, thế mà các nhà chuyên môn cũng chưa thể giải đáp thích đáng mọi sự. Đôi khi có người dùng những sự suy luận hiểu biết thiển cận và mơ hồ để đưa ra những giả thuyết nhằm thách thức não trạng con người. Bởi thế, những điều gì chưa biết, chưa học và chưa hiểu, chúng ta không nên chối bỏ, phu nhận và loại trừ. Chúng ta gắng công suy tư và học hỏi tìm tòi những bài học hữu dụng trong thiên nhiên. Các môn khoa học mới chỉ đi những bước đầu khám phá, tìm ra một số những nguyên lý và định luật chung về sự kết cấu của vũ trụ vật chất bao la. Mầu nhiệm sự sống vẫn còn nhiều vấn đề sâu thẳm, con người từng bước phát hiện những cái mới và cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Dựa vào nguyên lý nhân qủa, trông qủa thì biết cây. Chúng ta có thể quan sát và dùng lý trí để tìm ngược về dấu vết của các loài thụ tạo. Chúng ta không thể đi ngược tới vô tận, phải có một nguyên nhân đệ nhất. Chúng ta có thể gọi nguyên nhân đó là Thiên, Trời, Thượng Đế, Đấng Tạo Thành, Chủ Tể Vạn Vật, Chúa Trời và Thiên Chúa. Niềm tin của người tín hữu, Thiên Chúa là Đấng tự hữu, thiêng liêng, hằng có đời đời, quyền phép, thánh thiện, tốt lành, nhân từ, công bằng và chân thật vô cùng. Trong sách Giáo Lý Công Giáo cũ có câu hỏi: Ta làm thế nào mà biết có Đức Chúa Trời? Thưa: Ta nhìn xem trời đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền biết có Đức Chúa Trời là Đấng tạo thành và an bài mọi sự.
Có rất nhiều người chưa tìm hiểu vấn đề đã vội chối từ và phủ nhận nguyên cội. Họ giống như những chiếc bình gốm tuyệt đẹp nói với chủ nhân rằng tôi không biết ông là ai. Với một trí khôn hạn hẹp, nông cạn và vô thường, nhiều người tưởng rằng họ đã nắm bắt được chân lý. Đã có biết bao nhiêu các nhà triết học, thần học, thần bí và các nhà khoa học đã đang gắng công tìm về nguồn vũ trụ. Trong đó co những Đạo giáo chỉ tập trung vào đời sống con người mà quên đi nguyên lý của vũ trụ bao la hiện hữu. Một số người cố gắng chọn con đường tịnh tâm, tu tâm và luyện tâm để tinh tấn giác ngộ. Những vị này giác ngộ tâm trí nhưng còn rất nhiều thiếu xót trong chức vị và ơn gọi làm người. Họ đã đặt mình là trung tâm của vũ trụ và phủ nhận quyền lực sáng tạo.
Qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã nhận được tinh thần nghĩa tử. Chúng ta không còn tinh thần nô lệ sợ hãi mà là con cái: “Vì chính Thánh Thần đã làm chứng cho tâm trí chúng ta rằng: Chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết trong tình yêu. Mỗi khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá trên mình, là chúng ta đang được kết hợp mật thiết với tình yêu Chúa Ba Ngôi. Tình yêu hiến thân hy sinh. Tình yêu của sự tha thứ bao dung.
Chúng ta cùng nguyện rằng: sáng danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, sáng danh Thiên Chúa, Đấng đang có, đã có và sẽ đến. Amen.

29. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy các con hãy đi đến với muôn dân, làm phép rữa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” (Mt 28, 19)
Sau lễ Phục sinh, Thăng Thiên, Hiện Xuống, Hội thánh tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Việc sắp xếp này rất hợp lý. Đối với người giáo dân, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vẫn còn quá cao sâu. Vô tri bat mộ, chúng ta vì không hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi, nên nhiều khi cũng thiếu lòng yêu mến. Dù vậy, có phải phụng vụ quá tôn vinh Chúa Kitô hơn Chúa Cha và Chúa Thánh Thần không? Chính nhờ Chúa Con xuống thế làm người mà chúng ta biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhất là khi ta hiểu được và đón nhận hồng ân: được làm con Chúa, thuộc về Chúa.
Ba Ngôi hiệp nhất trong một bản tính, một quyền năng và tình yêu: Đ iều gì Chúa Cha có, thì nơi Chúa Con và Chúa Thánh Thần cũng có. Điều gì Chúa Con muốn, thì Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cũng muốn y như thế. Vì Ba ngôi vì yêu nhau, mà kết hợp quá chặt chẽ với nhau, mà ta gọi là Ba Ngôi vị, nhưng chỉ có một Chúa duy nhất.
Điều này không phải ai cũng hiểu được. Vì Ba Ngôi kết hợp quá chặt chẻ và yêu thương nhau vô cùng, nên nảy sinh chương trình tạo dựng vũ trụ. Hội thánh tin nhận đây là công trình sáng tạo vì tình yêu. Tình yêu càng được biểu lộ hơn nữa khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, nhất là cho con người quyền tự do đón nhận Chúa hay không.
Thiên Chúa thấy trước, con người sẽ từ chối làm con TC vì con người kiêu căng, nhưng TC vẫn thực hiện. Đến khi con người sa ngã, Thiên Chúa lại càng tỏ ra tình yêu vô bờ bến khi đưa ra sáng kiến cứu chuộc con người sa ngã. Điều này làm chúng ta ngạc nhiên vô cùng, vì không hiểu nổi Tình yêu nơi Thien Chúa.Tất cả những điều đó, chỉ là một phần nhỏ so với sự thật về Tình yêu Thiên Chúa mà ta sẽ biết trên nước Trời.
Chuyện kể rằng: Thánh Augustinô đi lại trên bờ biển, đang tìm hiểu xem về mầu nhiệm Chúa Ba Ngoi. Thien Thần hiện ra dưới hình đứa bé, nhắc nhở Ngài bằng việc lấy tay đào một lổ nhỏ trên cát, rồi lấy võ nghêu múc nước biển đổ vào lổ này. Thánh nhân tò mò, cho là vô lý. Em bé (thiên thần) trả lời: điều con làm là vô lý khi muốn đổ hết nước biển vào lỗ này, nhưng chưa vô lý bằng tâm trí Ngài muốn tìm hiểu rõ ràng về Chúa Ba Ngôi.
Ba Ngôi luôn kết hợp mật thiết với nhau trong bản tính, quyền năng và tình yêu. Khi ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội, chính là lãnh nhận ơn để trở nên con Thiên Chúa, nên môn đệ và là em của Chúa Giêsu, được múc lấy sự sống của Ngài. Hiểu như vậy, ta có sẵn sàng sống ngay chính, quảng đại, yêu thương, để được tham dự vào sự sống thần linh đó không? Thiên Chúa Ba Ngôi đã hết tình cho nhân loại, vì tình yêu. Ta có sẵn sàng sống tình yêu như Chúa Ba Ngôi không?

30. Tình yêu Ba Ngôi
Truyện kể rằng, một hôm ông thánh Augustinô đang đi dạo trên bãi biển thì gặp một em bé nhỏ lấy vỏ của một con sò múc nước biển đổ vào một cái hố nhỏ trên bải biển. Thánh Augustinô đến hỏi em bé: Em định múc nước làm gì vậy? – Em bé trả lời: Con muốn múc cạn hết nước biển này. Ông thánh Augustinô chỉ cười và nói: Chuyện em làm không thể nào thực hiện đâu, vì nước biển so với cái vỏ sò thì quả là lớn lao không thể nào so sánh được. Đó chỉ là mơ tưởng mà thôi. Em bé mới trả lời nếu vậy sao ngài lại muốn dùng trí hiểu của con người để hiểu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Lúc đó thánh Augustinô mới vỡ lẽ ra em bé đó chính là Thiên Thần, đến nhắc cho mình biết về giới hạn của con người so với Thiên Chúa.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là một huyền nhiệm lớn lao đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người cố gắng làm một việc vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là một cố gắng còn rất nhiều khiếm khuyết và còn rất nhiều thiếu xót mà thôi.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giê-su Ki-tô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Ki-tô đến, loài người không có một ý niệm nào, dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này.Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng được nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
Điều hay nhất chúng ta cần làm, có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa, cho bằng quay về với chính mình, để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Trước tiên là trong gia đình, nhất là năm nay là năm giáo dục Kitô giáo trong gia đình lại càng thúc đẩy tình yêu này cao hơn nữa, vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, một cộng đồng phản chiếu tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.Vậy nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu thương nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu. Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Gia đình cũng gồm những thành viên khác biệt nhau như Ngôi Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng thánh hóa loài người. Tuy khác biệt nhau nhưng Ba Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau. Do đó, Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau, không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hòa hợp với nhau, có như thế mới phản ảnh được tình yêu của Thiên Chúa nơi gia đình chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong cuộc sông, bằng cách thể hiện tình yêu trong mọi môi trường cụ thể. Amen.

31. Chúa Ba Ngôi
Người Đông phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế.
Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về trời, bởi vì họ cho rằng ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu đáo, phương chi là những thực tại vô hình.
Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la.
Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, có lẽ ít khiêm tốn hơn những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều.
Thế nhưng, phải thành thật mà nói: Kể từ thời thánh Augustino cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã hiểu thêm được những gì về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Hay chung ta cũng giống như những người lạc vào rừng, càng đi xa, càng vào sâu, thì lại càng cảm thấy mịt mù và tăm tối. Hoặc giống như người trong sa mạc, càng đi thì lại càng cảm thấy chỉ có cát và cát mà thôi.
Bởi thế hôm nay, khi mừng kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thái độ thích hợp nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là im lặng, khiêm tốn và thờ lạy.
Từ thái độ khiêm tốn và thờ lạy này, chúng ta đưa ra một cách thế để cảm nghiện được mầu nhiệm này, đó là tình yêu. Thực vậy, chúng ta không thể biết rừng, nếu đã chẳng biết cây. Cũng vậy, chúng ta không thể nào biết Thiên Chúa, Đấng chúng ta hằng kính mến, nếu chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.
Và thật may mắn cho chúng ta vì không cần biết hết mọi thứ cây, thì mới hiểu được rừng. Cũng vậy, không cần phải nếm hết tất cả nước biển mới biết nước biển mặn, nhưng chỉ cần nếm một vài giọt mà thôi cũng đã đủ.
Cũng vậy, chúng ta không cần phải yêu thương tất cả mọi người trên thế gian, mới hiểu được tình yêu là gì? Và hiểu được chân lý Đức Kitô đã mạc khải cho chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu. Đã hẳn Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương tất cả mọi người, nhưng tất cả ở đây không có nghĩa về số lượng, bởi vì điều đó không thể nào thự c hiện được đối với chúng ta, nhưng Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta yêu thương những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của mình, không ghét bỏ một ai, cũng chẳng loại trừ một ai.
Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Có lẽ nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là điều quá cao vời, quá rắc rối. Chuyen hiểu biết mầu nhiệm này nằm ở trong lãnh vực chuyên môn của các nhà thần học, của các giám mục, linh mục và tu sĩ…Còn mình làm sao có thời giờ để mà học hỏi, có trình độ đâu mà dám múa rìu qua mắt thợ.
Nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng: Trong lãnh vực này, có khi nhà thần học, cũng như giám mục, linh mục hay tu sĩ vẫn còn thua xa một bà già nhà quê, nếu như bà ấy biết yêu thương hết thảy mọi người.
Bởi vì, chuyện yêu thương không nhất thiết đòi hỏi một trí rộng tài cao, mà chỉ đòi hỏi một sự nhiệt tâm và chân thành mà thôi.

32. Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm đức tin mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay, đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Ngài co Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa. Nhưng vì cùng chung một bản tính, nên chỉ làm nên một Thiên Chúa. Không một trí khôn nào có thể hiểu thấu. Vì vậy chúng ta hãy khiêm nhường mà thưa lên: Lạy Chúa, chúng con tin và xin giúp đỡ đức tin nhỏ bé của chúng con.
Thế nhưng, tại sao chúng ta lại mừng kính vào ngày Chúa nhật hôm nay. Ngày lễ này chính là ngày lễ kết thúc cho những mầu nhiệm mà chúng ta đã mừng kính, từ đầu niên lịch phụng vụ cho đến bây giờ. Ba Ngôi cộng tác với nhau trong công trình cứu độ. Chúa Cha đã sai Con Một Ngài xuống thế như lời thánh Gioan đã viết: Chúa Cha yêu thương chúng ta đen nỗi đã trao ban chính Con Một của Ngài. Ngài đã kêu mời chúng ta bước vào đời sống đức tin. Chúa Con, Đấng cứu độ đã làm người, đã chịu chết vì chúng ta, để nhờ đó chúng ta được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chua.
Còn Chúa Thánh Thần, sau khi Chúa Giêsu về trời, Ngài chính là Đấng thủ lãnh, Đấng hướng dẫn, Đấng an ủi của chúng ta. Vì những lợi ích cao cả ấy, chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa. Thực vậy, lễ Chúa Ba Ngôi phải là mot lời kinh tạ ơn vang lên trong Giáo Hội. Nó bao gồm biến cố Giáng Sinh, Hiển Linh, Phục Sinh, Lên Trời và Hiện Xuống. Sở dĩ Giáo Hội đặt ngày lễ hôm nay vào Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống là vì Giáo Hội muốn nhắc cho chúng ta nhớ rằng mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày thánh hiến cho Chúa Ba Ngôi. Mỗi ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để chúng ta cảm tạ Chua Ba Ngôi. Chúa Cha đã tạo dựng và kêu mời chúng ta. Chúa Con đã Phục sinh và cứu chuộc chúng ta. Chúa Thánh Thần đã thánh hóa và biến chúng ta trở nên đền thờ cho Ngài. Hơn nữa, chính Ngài hiện diện vào ngày thứ nhất mà khai sinh ra Giáo Hội. Vì thế ngày Chúa nhật phải là một ngày dành riêng để tôn kính Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy cuộc đời của chúng ta đã thấm nhuần biết bao ơn trọng đại của Chua Ba Ngôi. Các bí tích mà chúng ta đã lãnh nhận đều được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Với Bí tích Rửa Tội, chúng ta nghe thấy lời đọc: Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Với Bí tích Giải tội, chúng ta nghe thấy lời đọc: Vậy Cha tha tội cho con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Đời sống người Kitô hữu được bắt đầu và hoàn tất trong Chúa Ba Ngôi. Mỗi khi khởi sự hay kết thúc một công việc nào đó, chúng ta thường làm dấu và đọc: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Phần nhiều các kinh Giáo Hội đọc, đều được dâng lên cho Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn kinh Sáng danh. Đây cũng là một lời kinh thường đọc Giáo Hội sử dụng nhiều hơn cả. Mỗi một giờ kinh đều được bắt đầu bằng kinh Sáng danh, mỗi một thánh vịnh đều được kết thúc bằng kinh Sáng Danh. Kinh Sáng Danh chính là tiếng chuông vang lên đều đều nơi nhà Chúa.
Rồi kinh: Vinh danh Thiên Chúa trên trời, kinh Tạ ơn, đều là những lời kinh dâng tiến Chúa Ba Ngôi. Và còn nhiều lời kinh khác nữa, chẳng hạn kinh Tin kính và những lời đọc trong thánh lễ….
Xem đó, chúng ta thấy từ sinh hoạt cá nhân đến sinh hoạt Giáo Hội, tất cả đều tuôn chảy tới Chúa Ba ngôi, ước gì cuộc đời chúng ta cũng sẽ được diễn ra trong tình thương yêu của Chúa Ba Ngôi, để tất cả chúng ta xứng đáng là con của Chúa Cha, là em của Chúa Giêsu và là chiến sĩ của Chúa Thánh Thần.

33. Lễ Chúa Ba Ngôi
THIÊN CHÚA BA NGÔI: TÌNH YÊU TUYỆT HẢO
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu, mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta cũng yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng cho bằng định nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm. Tại sao chỉ có con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu hỏi này bằng chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chua đã tỏ mình qua người Con Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người: Ngài đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên Chúa, mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho con người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới cho đến lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập Giá Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá, không những Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiem của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra cho chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu thương. Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương.

34. Lễ Chúa Ba Ngôi
HÃY YÊU ĐI RỒI SẼ BIẾT SỰ THẬT
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Nhờ lời mạc khải của Chúa Kitô, chúng ta biết rằng Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi riêng biệt là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chỉ một Thiên Chúa duy nhất mà là Ba Ngôi. Tuy Ba Ngôi riêng biệt nhưng chỉ là một Thiên Chúa. Một mầu nhiệm vượt quá trí suy của nhân loại.
Vì sao Ba Ngôi mà chỉ là một Thiên Chúa hay vì sao chỉ một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi? Xin được trả lời cách thành thật rằng bản thân không biết. Vì tin vào Đức Kitô, Đấng có lời quyền năng và yêu thương tôi cho đến cùng, cho đến chết trên thập giá, nên tôi tin vào lời của Người. Chính Chúa Kitô đã phải trả giá rất đắt, là cái chết thập giá, cho sự mạc khải này trong bối cảnh Do Thái giáo chỉ tin có một Thiên Chúa duy nhất và độc nhất. Chúng ta đừng quen một trong những lý do khiến những người lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ đã từng lấy đã ném Chúa Giêsu và lên án tử hình cho Người, vì Người tự cho mình là Con Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa (x. Ga 10,31-33; Mt 26,62-66).
Thánh Kinh, đặc biệt Chúa Kitô không cho biết vì sao một Thiên Chúa mà là Ba Ngôi, nhưng đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như thế nào. Đó là mầu nhiệm tình yêu liên đới, hiệp thông trọn hao, đầy năng động và sáng tạo. Và chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình, ngay trong kiếp lữ thứ này, có thể cảm nghiệm phần nào đó mầu nhiệm ấy, khi sống trong Thánh Thần, Đấng là tình yêu giữa Chua Cha và Chúa Con, giữa Chúa Con và Chúa Cha.
“Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Cha sai đến” (Ga 17,3). Làm sao để nhận biết sự thật này nếu không được Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa tác động. Chúng ta đã được nhận làm con trong Đức Giêsu. “ Vì là con, nên Thiên Chúa sai Thánh Thần của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6). “ Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy (x.1Cor 12,3). Thánh Thần chính là nguồn tình yêu. Vì thế chỉ những ai ở trong tình yêu mới có thể hiểu biết sự thật. Và khi hiểu biết sự thật thì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Làm sao ta có thể biết nghĩa phu thê là gì khi ta chưa sống hết tình với người phối ngẫu? Làm sao ta có thể biết được thế nào là quê hương khi ta chưa hết lòng hết tâm với vận mệnh quốc gia dân tộc? Làm sao ta có thể biết được giá trị của con người trong cõi nhân sinh này khi ta chưa trải rộng com tim với người đồng loại, với người anh chị em cận kề, nhất là với những người cô thế cô thân? …
Hãy yêu đi rồi bạn sẽ biết nhiều lẽ huyền nhiệm của sự trao ban và đón nhận. Hãy hiệp thông cách thực sự thì bạn sẽ biết thế nào là tình liên đới. Đây là một cái lẽ biết theo nghĩa Thánh Kinh, tức là không chỉ nhìn thấy thực tại, thấy vấn đề bằng trí khôn, mà còn gắn bó thiết thân, chung lưng đấu cật, khi buồn lẫn khi hoan lạc, lúc thuận lơi cũng như lúc gặp phải nghịch cảnh, gian truân.
Ngay trong cuộc sống này, có nhiều điều mà lý trí phải chào thua. Sự khôn ngoan đích thực không hệ tại ở trí óc, nhưng là ở trái tim. Có thể có trường hợp người ta đâm ra mù quáng vì yêu. Nhưng đó chỉ là thứ tình yêu vị kỷ, nghiêng chiều đam mê vụ lợi hoặc bất chính. Khi đã biết yêu với tình yêu trong sáng, quảng đại quên mình, với một tình yêu bắt nguồn từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa thì không một ai là không ở trong ánh sáng. Và chính ánh sáng sẽ soi dẫn chúng ta đến cùng chân lý.
Là kitô hữu, không gì hơn là biết quy chiếu về Tình Yêu Thiên Chúa Ba Ngôi để rồi biết yêu thương nhau bằng:
1. Một tình yêu thúc đẩy ta không chỉ muốn mà còn biết chủ động, tích cực làm cho người mình yêu phát triển và nên hoàn thiện.
2. Một tình yêu thúc đẩy ta tìm mọi cách để cho người mình yêu nên đáng yêu và được nhiều người yêu mến.
3. Một tình yêu thúc đẩy ta nổ lực hết mình làm cho người mình yêu có đủ khả năng và sự nhiệt tình để yêu mến kẻ khác.
Khi ta sống được chút tâm tình yêu mến này, thiết tưởng rằng chúng ta sẽ chẳng còn băn khoăn với câu hỏi tại sao Ba Ngôi mà chỉ một Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ cảm thấy hạnh phúc vì biết cội nguồn của mình chính là Thiên Chúa Ba Ngôi.

35. Sống niềm tin
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt, 28,19).
Một thanh niên làm việc trong nhà máy thuộc da. Các đồng nghiệp của anh đều ngoài Công giáo. Cứ đến ngày thứ sáu, anh lại đem trứng, cá và bánh sandwich kẹp phomat để ăn trưa, họ gọi anh anh lá “thằng ăn cá”, lại còn đặt miếng sandwich kẹp thịt của họ trước mặt anh. Tất nhiên đó chỉ là trò đùa trẻ con.
Nhiều năm sau anh bạn thuộc da gặp lại bạn đồng nghiệp cũ vừa ra khỏi một nhà thờ Công giáo; nghe người ta nói người bạn ấy là linh mục. Hai người nhận ra nhau và cùng ôn lại ký ức xưa. Cuối cùng vị linh mục nói: “Chính nhờ gương của anh đã làm tôi có thiện cảm với đạo Công giáo. Tôi nghĩ giữa những chế nhạo của đám đông mà người ta vẫn còn tự hào về niềm tin của mình, thì hẳn phải cò điều gì đó lạ lùng lắm trong niềm tin này. Chuyện ấy đã dẫn tôi tới tìm hiểu đạo công giáo. Hôm nay, tôi vừa dâng lễ mở tay”. (Trích “Dụ ngôn đời thường” -Drinkwater kể).
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi – một mầu nhiệm thật sự vượt quá trí hiểu của loài người. Người ta dùng nhiều hình ảnh trong tự nhiên để giải thích về mầu nhiệm này như lá tam điệp, ba trạng thái của nước, ba đốt trong một ngón tay, hay ba nốt nhạc. Tất cả là những cố gắng của con người để có thể “với được Đấng Vô hình”. Chuyện con người theo khả năng của mình cố gắng tìm hiểu biết về Thiên Chúa là chuyện đáng hoan nghênh. Tuy vậy, nếu tìm hiểu chỉ để hiểu thì thật “phí của trời”. Điều này không khác chuyện nhiều sinh viên ròng rã bỏ thời giờ, công sức, tiền bạc… nghiên cứu tìm hiểu hàng mấy năm trời trên Đại học. Cuối cùng chỉ để lấy tấm bằng tốt nghiệp về treo giàn khói mà không áp dụng được một điều gì vào thực tế cuộc sống. Ngược lại nếu chúng ta hiểu ít thôi nhưng biết vận dụng điều mình hiểu đó thì có vẫn lợi hơn.
Thiên Chúa không ngần ngại cho Con Của Mình xuống thế trần để “bật mí” những “bí mật” về chính mình cho con người. Nếu chịu khó lần mở lại Thánh Kinh thì không phải là không có nói về Chúa Ba Ngôi nếu không nói là hơn một lần. Nhưng bởi con người không tin, không chấp nhận nên mới dài hơi, mỏi cổ biện luận, giải thích, chứng minh… nhằm làm sáng tỏ về Ngài. Ở đây loại trừ trí khôn con người hạn chế, nhưng nếu biết vậy thì còn “bới” lên thêm làm gì cho rối rắm? Trong khi chính bản thân của mình đôi khi còn không hiểu hết được. Tất nhiên, tìm hiểu để niềm tin vững vàng hơn là cần nhưng cũng phải biết giới hạn của mình để đừng đau khổ vì không hiểu được hay quá tự cao vì sao tôi không hiểu. Trong khi đó, điểm quan trọng là sống niềm tin vào Chúa Ba Ngôi thế nào thì lại lảng quên.
Hằng ngày, người Công giáo chúng ta phải đối mặt với biết bao những khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Có bao giờ bạn dám tuyên xưng niềm niềm tin của mình bằng một việc cụ thể? Bạn có dám làm Dấu Thánh Giá trong một tiệm ăn không? Bạn có dám ghi vào lý lịch của mình là người Công Giáo không? Bạn có nghĩ rằng người mà bạn đang dự định kết hôn không đồng ý theo đạo là do bởi đời sống đức tin của bạn không hấp dẫn được người ấy? bạn đau buồn hồi hôn. điều này dũng cảm thật. Nhưng thử hỏi có bao giờ bạn giới thiệu Chúa cho người ta biết chưa?
Nếu bạn có làm những điều trên thì bạn đã hiểu về Chúa Ba Ngôi nhiều lắm rồi.
Chúng ta không cần phải mò mẫm để giải thích điều kính nhiệm về Thiên Chúa nữa bởi đã có quá nhiều những công bố như vậy. Nhưng điều cần làm là sống với chính niềm tin của mình. Điều Thiên Chúa muốn là hãy làm sáng tỏ những chân lý về Ngài bằng đời sống của chúng ta. “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.

36. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Gõ vào Google chữ Holy Trinity tôi tìm thấy cả một rừng giải thích về Chúa Ba Ngôi nhưng hầu hết chỉ là lịch sử hình thành tín điều, vài công thức và suy tư thần học. Lời Chúa trong Ga 3,16-18 trình bày Chúa Ba Ngôi cách sinh động hơn nhiều, có cả một nội dung của cai mà người ta quen gọi là tính hiện sinh (existentiality), vì nó chạm tới hiện hữu sống động của từng con người nhân loại: thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
Trong những ngày này, tôi đang đọc và dịch cuốn Heart Speaks to Heart của tác già Windy M. Wright về linh đạo Sa-lê. Tôi rất tâm đắc với trình bày của thánh Phan-xi-cô Sa-lê về viễn ảnh một thế giới của các con tim, đặc biệt lối diễn tả của ngài về nguồn gốc của cái thế giới đó, tuy đậm nét thần học về Chúa Ba Ngôi nhưng lại rất sinh động và đầy tính thuyết phục.
Cho dầu trong bản chất Thiên Chúa vượt xa những gì con người có thể hình dung, ta vẫn có thể nói một cách biểu tượng rằng Ngài có một Con Tim là nguồn mạch mọi thứ tình yêu. Con Tim Thiên Chúa trao ban sự sống. Đó là cõi lòng. là mạch nước, là sinh lực sôi sục, nóng bỏng. Con Tim đó thở, đập nhịp và co thắt. Con Tim Thiên Chúa là Ba Ngôi vì được cấu thành bởi tình yêu hỗ tương trao ban cho nhau giữa Chúa Cha và Chúa Con được thực hiện trong cùng một khát vọng duy nhất là trao hiến tình yêu cho nhau khát vọng duy nhất đó không gì hơn là chính Thần Khí cùng được phóng ra do hai hơi thở đồng xuất ra một lúc. Đặc tính Thiên Chúa tự bản chất được mường tượng như một mối tương quan rất năng động. Trong sự sung mãn vô biên, Ba Ngôi tự bùng nổ và tuôn trào. Thực tế thì tạo vật chẳng qua chỉ là kết quả của năng lượng nội tại của Tình Yêu tuôn trào và trao ban chính mình cách dư dật. Hơn thế nữa, Con Tim thần linh đó tiềm tàng trong tạo vật còn hành động theo cách tương quan sinh động. Trong hiến dâng, Tình Yêu cung muốn lãnh nhận và lôi cuốn về mình tất cả mọi điều Ngài đã dựng nên. Do đó, ta có thể nói Con Tim Thiên Chúa say mê, yêu mến con tim nhân loại, và hằng mong được kết hiệp với nó.
Thật là một lối diễn tả tuyệt vời! Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu sinh động sung mãn. Và ta có thể hình dung điều gì sinh động hơn là một quả tim rung động vì yêu thương, từ đó vọt ra một sức yêu mãnh liệt, chan hòa và bất tận, để rồi lại muốn thu hút, thâu tóm về mình tất cả những gì mang nét yêu thương cho dầu nhỏ mọn nhất? Tạ ơn Chúa đã dựng nên con người trên cõi đời này, cho dầu thể lý hay tinh thần họ có là thế nào đi nữa, vì tất cả họ đều được xuất phát từ Con Tim yêu thương! Và còn đáng tạ ơn hơn nữa khi Ngài cho phép chúng ta xoay quanh quĩ đạo của hành tinh Mặt Trời Tình Yêu chói lọi bằng chính sự yếu hèn của mình, vì nhờ đó chúng ta có khả năng đón nhận lực hấp dẫn của long nhân ái xót thương mạnh mẽ hơn. Mạc khải vĩ đại nhất, chân lý toàn vẹn nhất chính là nhận biết điều kỳ diệu này, không phải bằng trí óc hiểu biết hay suy luận như hình ảnh múc cạn nước đại dương đổ vào lỗ cát trong câu chuyện truyền thuyết về thánh Âu Tinh, nhưng bằng con tim và cõi lòng mà mọi người chúng ta, bất kỳ ai, cũng đều có. Quả thực Chúa Ba Ngôi là chân lý sống động mà bất cứ con người nào cũng đều có thể nắm bắt ít nhiều bằng chính con tim nhân loại của mình; tuy nhiên để thật sự khai thác thành sức sống sung mãn thì cách duy nhất là đi vào trong tác động của Thần Chân Lý và Tình Yêu; Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13). Phải chăng đây mới chính là sự thật toàn vẹn mà Đức Giêsu đang đề cập tới: Ba Ngôi Tình Yêu là sự thật toàn vẹn vì chân lý này mang lại cho mọi người chúng ta sức sống mãnh liệt và sung mãn nhất? Chính qua và nhờ các mảnh vụn tình yêu bé nhỏ mà Thánh Thần còn tìm thấy trong tôi giữa cả một rừng những yếu đuối và tội lỗi, mà tôi được đưa vào mầu nhiệm cao quí này cách sung mãn và dồi dào nhất, được thăng hoa tới Con Tim Lò Lửa tình yêu vĩ đại nhất là Chúa Ba Ngôi.
Như thế Ki-tô hữu chúng ta rất đáng tự hào về mầu nhiệm cao cả Thiên Chúa Ba Ngôi (cho dầu bản thân tôi khi sử dụng từ mầu nhiệm – mystery vẫn thấy không ổn chút nào, vì có cảm giác mung lung theo ý nghĩa thường được giải thích: mầu nhiệm là điều không thể hiểu được!). Ki-tô hữu chúng ta quá hãnh diện về mạc khải lớn lao và quan trọng bậc nhất này, vì chúng ta khởi sự và sống niềm tin của mình luôn trong “nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Và còn hơn thế nữa, ta có quyền vui mừng khôn xiết vì mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thực sự trọn vẹn bao phủ sự hiện hữu, tiếp hơi ấm cho đời, ban cho ta niềm vui và cậy trông không hề tàn lụi giữa kiếp sống thường khi phủ kín mây đen, và tiếp cho ta sức mạnh vô địch khi thân xác và tinh thần tàn rữa và yếu đuối. Chỉ khi nào Ba Ngôi Thiên Chúa trở thành tất cả cho mình và cho đời mình, tôi mới có thể quả quyết được rằng tôi đang tuyên xưng mầu nhiệm cao cả này như một Ki-tô hữu đích thực: Tôi tin kính một Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha toàn năng.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay phải là ngày chúng ta cảm nhận được điều này cách sinh động hơn bao giờ hết!
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, con tôn thờ tình yêu vĩ đại; con ca ngợi và cảm tạ Chúa vì ơn gọi Ki-tô hữu đã cho con khả năng nhận biết Con Tim Thiên Chúa đầy yêu thương. Con ước muốn làm sao cho mọi người được cùng con cất lời cảm tạ và tôn thờ sức sống tuyệt diệu và sung mãn này. Xin cho con luôn đáp lại mệnh lệnh khẩn thiết: “Hãy đi và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; nhưng trước hết xin cho con được trọn vẹn hòa tan trong Con Tim rực lửa yêu của Ba Ngôi nhiệm mầu trong chính sự hèn yếu của con. Amen.

37. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Trong tuần qua, khi gặp các em ở lớp chuẩn bị xưng tội-rước lễ lần đầu tôi có hỏi: Chúng con hiểu thế nào về Chúa Ba Ngôi? Đa phần các em cười và nói con không biết, nhưng có 1 em giơ tay xin trả lời: “Thưa Cha! Chúa Ba Ngôi là Ba Ngôi Thiên Chúa”. Khi nghe bạn trả như vậy, các em khác ai cũng cười và nói: “Vậy mà cũng giơ tay trả lời”. Một em khác giơ tay xin trả lời: “Thưa Cha! Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Lần này nghe vậy, các em khác cười và vỗ tay. Với bản thân tôi là một linh mục, người đã học biết, đã rao giảng và dạy dỗ về Chúa Ba Ngôi, nhưng khi nghe các em nhỏ trả lời rất đơn sơ, ngắn gọn, súc tích và cốt lõi như vậy, đã làm tôi giật mình và tự suy nghĩ. Thật vậy, vì một khi đã gọi là mầu nhiệm, thì làm sao chúng ta có thể hiểu và giải thích cho tường tận với trí khôn, sự suy luận và hiểu biết của con người được. Ngay cả như với Thánh Augustinô, cũng được cho là “điên dại” khi Ngài muốn hiểu biết tường tận về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Còn với mỗi người chúng ta, anh chị em hiểu biết thế nào về Chúa Ba Ngôi, hay nói khác hơn chúng ta đã cảm nhận như thế nào về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống của mình?
Anh chị em rất thân mến, các bài đọc Lời Chúa hôm nay đang soi sáng, hướng dẫn hầu giúp chúng ta phần nào hiểu biết về Thiên Chúa, để chúng ta có thể tin, để tuyên xưng và sống trọn vẹn cho niềm tin của chúng ta vào mầu nhiệm chính quan trọng trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa Ba Ngôi. Bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật mời gọi chúng ta hãy tin, hãy sống và cảm nhận mọi sự trong trời đất muôn vật này và ngay cả chính sự sống của mỗi người chúng ta là do ơn Chúa thương ban. Thiên Chúa chính là người Cha yêu thương, đã vì yêu thương chúng ta mà Ngài đã tạo dựng nên mọi sự. Do đó, cách sống tốt nhất để đáp đền là tuân giữ những giới răn, lề luật mà Thiên Chúa đã ban để chúng ta được hưởng hạnh phúc, bình an cùng những phẩm giá tốt lành mà Thiên Chúa ban tặng. Ai tin và chấp nhận Thiên Chúa là Chúa của mình thì được Ngài ban ơn chúc phúc.
Bài đọc II trong thư gửi tín hữu Roma, Thánh Phaolo đã mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn trước những ơn ban của Thánh Thần. Thái độ của con người khiêm tốn là thái độ của người con ngoan ngoãn và sống thân mật với Người Cha của mình. Nhờ vậy mà chúng ta được thừa hưởng mọi kho tàng, ân ban của Thiên Chúa và nhờ Thiên Chúa mà chúng ta mới có đủ sức để thi hành trọn vẹn với những sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Tin mừng của Thánh Matthêu đã thuật lại cho chúng ta biết sứ vụ mà chúng ta được Chúa thương trao ban không gì cao quý hơn đó chính là được thông phần vào công cuộc rao giảng, sống chứng tá về tình thương và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã để lại. “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi khi chúng ta xác tín để sống và thực thi sứ vụ mà Thiên Chúa trao ban thì chính lúc đó chúng ta cổ võ và rao giảng về sự hiện diện-đồng hành, ơn ban của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thật ra, không phải chúng ta rao giảng và làm chứng về Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô là tác nhân của sứ vụ cao trọng này. Thật vậy, với lời hứa ban “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, đây chính là ơn thánh mà Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, nhưng ơn thánh này chỉ thực sự hữu ích dành cho những ai sống tín thác, yêu mến và thực hành qua cung cách-thái độ sống của mình. Thật vậy, đời sống của chúng ta được mời gọi phải được thể hiện bằng chính đời sống cầu nguyện, hiệp thông, hy sinh, bác ái; đây cũng là cách thế mà chúng ta có thể làm chứng và tuyên xưng cách hào hùng nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Tôi nhớ lại có một lần tôi đã hỏi một bà cụ: bà hiểu thế nào về Chúa Ba Ngôi, thì đã bà trả lời: “Con không biết nhiều về Chúa Ba Ngôi, con chỉ biết rằng con được sinh ra, được sống và được giữ đạo Chúa cho đến giờ này là do tình yêu Chúa đã dành cho con; nên con phải cố gắng để sống cho xứng đáng hầu đáp đền ơn Chúa dành cho con qua việc con đi dự lễ và đọc kinh hằng ngày.”
Anh chị em thân mến, cách sống đẹp lòng Chúa và được Chúa yêu thương đó chính là thái độ-cung cách sống khiêm tốn, đơn sơ và dành mọi điều tốt đẹp cho tha nhân với ý thức rằng: tất cả những gì mình có được là bởi do ơn thánh Chúa; nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta hãy làm lan tỏa đến tất cả những anh chị em của mình. Trong những ngày cuối của tháng hoa kính Mẹ, Đức Maria chính là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta, vì Mẹ đã sống chứng tá và làm lan tỏa tình yêu, ơn thánh từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho tất cả chúng ta. Xin Mẹ chuyển cầu, phù giúp cho mỗi người chúng con được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa, cùng với những đóa hoa lòng dâng lên hầu trong mọi sự chúng con luôn cùng với Mẹ tôn vinh Chúa Ba Ngôi, đem lại ơn ích cho tha nhân. Amen.

38. Theo gương Ba Ngôi
“Đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn”
Hay “Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Đây là hai trong những câu thành ngữ nói lên sự yêu thương nhau trong một gia đình. Vợ chồng yêu thương nhau thì nên một với nhau từ trong thân xác đến trong tâm hồn. Dù vậy người vợ hay chồng vẫn không mất đi nét độc đáo riêng của mình.
Hình ảnh phần nào minh hoạ cho chúng ta về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà cùng với toàn thể Giáo hội long trọng mừng hôm nay.
Một Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công Giáo của chúng ta. Một Thiên Chúa duy nhất mà Người có Ba Ngôi. Nếu muốn hiểu bằng trí khôn giới hạn của mình chắc chắn chúng ta sẽ rất dễ thất vọng. Thế nhưng dựa vào mạc khải của Chúa Giêsu cũng như dựa vào kinh nghiệm tình yêu nhất là kinh nghiệm tình yêu gia đình, chúng ta sẽ phần nào cảm nhận được sự thiêng liêng và ngọt ngào của mầu nhiệm cao quý này.
Thánh Gioan đã nói trong bức thư của Người rằng Thiên Chúa là tình yêu. Đã là tình yêu thì không thể nào là đơn độc lẻ loi. Do đó, Thiên Chúa là duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Ba Ngôi yêu thương nhau và cùng nhau hướng về một mục đích chung là đem đến cho con người ơn cứu rỗi. Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng mời gọi các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Chúa Giêsu mong muốn cho mọi người được sống trong tình yêu của Ba Ngôi.
Đồng thời, Người cũng muốn mọi người cũng hãy noi gương Ba Ngôi mà sống yêu thương nhau. Một gia đình thật sự hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình cùng hướng về mục đích chung. Mục đích ấy là làm sao cho gia đình luôn giữ được sự đầm ấm và hạnh phúc. Muốn thế, mọi thành viên trong gia đình được kêu gọi từ bỏ ý riêng mà hướng về mục đích chung đó.
Cách riêng, cha mẹ cũng hãy cùng nhau dạy dỗ cho con cái trở nên những con người có ích lợi cho Giáo hội cũng như xã hội. Không thể nào có cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Nghĩa là cha mẹ cùng thống nhất nhau trong cách giáo dục con cái của mình.
Nguyện xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ngự trị trong từng người chúng ta. Đó chính là nguồn lực giúp chúng ta sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong cuộc sống đời thường.

39. Trí khôn và ý muốn
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
– Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau, khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội, cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
– Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
– Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực cua chúng ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính hôm nay. Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên rằng: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm thành một Thiên Chúa duy nhất.
Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ, đó là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.
Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là một mầu nhiem không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.
Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi, ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
– Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
– Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
– Làm sao cho được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
– Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để hiểu về mầu nhiệm này.
Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng ta yêu mến.
Trước hết, con tim chúng ta đu to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức, chúng ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải tội, chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu mến Chúa Ba Ngôi.
Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi ngự trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại, Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm Ngài nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.

40. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
BA NGÔI THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Có lẽ ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng câu giáo lý về Một Chúa Ba Ngôi trong sách bổn đồng ấu ngày xưa. Hỏi Đức Chúa Trời có mấy ngôi? Thưa Đức Chúa Trời có Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần.
Một câu giáo lý quen thuộc mà hết thế hệ này đến thế hệ khác đều học thuộc lòng một cách đầy đủ và chính xác từng lời và từng dấu chấm, dấu phẩy. Điểm đặc biệt là không ai thắc mắc tại sao Một Chúa mà lại Ba Ngôi? Có lẽ chúng ta không thắc mắc, không phải vì chúng ta đã hiểu mà vì cha mẹ chúng ta tin, và vì Hội thánh dạy chúng ta như thế. Thực vay đức tin của chúng ta được trao ban từ Hội thánh và qua cha mẹ cùng người đỡ đầu tiếp tục bảo vệ, vun trồng đức tin của chúng ta.
Rồi dần dà theo thời gian, đức tin của chúng ta thêm kiên vững và được củng cố nhờ những ngày tháng học giáo lý và học hỏi lời Chúa. Chúng ta tin Một Chúa Ba Ngôi không do trí óc tưởng tượng của con người mà dựa trên thế giá lời chứng của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết. Chính Chúa Giêsu là lời mạc khải tròn đầy về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Ngài cho chúng ta biết, Ngài từ Chúa Cha mà đến. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha, và khi hoàn tất công trình Chúa Cha trao phó, Ngài đã về trời và ban Thánh Thần đến thánh hóa thế gian trong ân sủng và tình yêu của Chúa.
Có một bà cụ đi xe lửa lần đầu tiên nên rất bỡ ngỡ sợ lầm tàu và lạc đường. Bà quay sang hỏi một hành khách ngồi bên cạnh:
– Thưa ông, tàu này có phải là tàu đi Roma không?
Ông ấy trả lời ngay:
– Vâng, đây là tàu đi Roma. Bà đừng lo, vì Roma là nhà của tôi, tôi phải về đó.
Nhưng bà ấy vẫn chưa thỏa lòng, cứ miên man nghĩ ngợi: Nhỡ ông kia cũng lầm tàu thì sao? Làm sao mà mình biết được? Vừa lúc ấy người tài công bước vào, bà hỏi:
– Bác tài công ơi, tàu này là tàu đi Roma phải không?
Người tài công trả lời:
– Vâng, đây chính là tàu đi Roma. Tàu sẽ chạy trong vài phút nữa. Bà cứ việc ngồi thoải mái đừng lo lắng gì cả, sẽ tới Roma an toàn.
Tới lúc ấy bà mới yên tâm, vì bà đã hỏi người có thẩm quyền trên tàu. Bà ấy đã nhận được câu trả lời từ một người có thẩm quyền nên không còn lo sợ nữa.
Mỗi người chúng ta cũng đang đi trên hành trình đời sống, một hành trình vào cõi vĩnh hằng. Có rất nhiều tôn giáo. Có rất nhiều con đường của người này kẻ kia chỉ chúng ta con đường về trời. Nhưng chỉ có một người đáng chúng ta tin cậy, vì Ngài là Thiên Chúa. Ngài có đủ thẩm quyền để chúng ta tin lời Ngài là chân lý, là sự thật. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, chúng ta tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và các mầu nhiệm khác trong đạo đều dựa vào lời chứng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên lời chứng của Ngài đáng để chúng ta tin. Chính Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa và phép lạ lớn nhất đó là tự mình sống lại sau ba ngày chôn cất nơi huyệt mộ. Chính Ngài không chỉ nói về Chúa Cha mà cả cuộc sống của Ngài là để tôn vinh Chúa Cha và Ngài hằng sống đẹp lòng Chúa Cha.
Bên cạnh đó, với phương pháp loại suy chúng ta cũng có thể hiểu phần nào về mầu nhiệm Một Chúa ba Ngôi. Tựa như bóng đèn điện: có dòng điện, có ánh sáng và có hơi nóng. Hoặc như cùng một dòng nước chảy nhưng có thể hiện hữu dưới ba hình thái: thể hơi, thế rắn và thể lỏng, nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng mưa.
Nhìn vào Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Thiên Chúa đã tỏ bày tình yêu của mình qua ba cách khác nhau: Chúa Cha đã tỏ mình ra qua việc tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cho dù con người có bất trung phản loạn Chúa vẫn yêu thương, yêu thương đến nỗi ban chính Con Một của mình là Đức Giêsu Kytô làm Đấng cứu chuộc trần gian. Cứu là giải thoát. Chuộc là cái gì của mình đã mất nay phải chuộc lại. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết, và chuộc lại chúng ta trở về làm cho cái Thiên Chúa bằng giá máu trên đồi Golgotha. Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thien Chúa đã thánh hóa chúng ta thành con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chua cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng đời sống sám hối và canh tân cho xứng đáng là con cái Chúa và xứng đáng là Đền Thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Amen.

41. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có những câu hỏi tựa như: Đức Chúa Trời có mấy Ngôi? Tại sao Một Chúa mà lại là Ba Ngôi? Đây là những câu hỏi vượt trí hiểu con người khiến đôi khi câu trả lời của chúng ta bị khập khiễng ngây ngô.
Chuyện kể rằng nhà Tí có 3 người là bà ngoại, ba, và mẹ Tí sinh sống ở ba miền khác nhau. Bà ngoài gọi Chúa là Đức Chúa Giời, mẹ Tí gọi Chúa là Đức Chúa Lời và ba Tí gọi Chúa là Đức Chúa Trời. Tí đang học lớp giáo lý xưng tội lần đầu. Một hôm, Đức Giám Mục ghé thăm giáo xứ và cha xứ dẫn xuống lớp tham quan. Đức Giám Mục bỗng hứng chỉ tay hỏi thử Tí:
– Em cho biết Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
Tí mỉm cười trả lời dễ dàng:
– Thưa có Ba Ngôi.
Đức Giám Mục gật đầu hỏi tiếp:
– Em kể ra Ba Ngôi xem:
Tí gãi đầu ấp úng:
Thưa, ngôi thứ nhất là Đức Chúa Trời, ngôi thứ hai là Đức Chúa Giời, ngôi thứ ba là Đức Chúa Lời.
Cả lớp cười to còn cô giáo đứng cuối lớp đỏ mặt:!!!???
Thánh Augustino đã từng thất bại khi cố hiểu về màu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Thánh nhân liền đến hỏi:
– Bé ơi! bé đang làm gì đó?
– Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
– Cháu không thể làm như vậy được đâu!
– Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hôm nay chúng ta mừng kính màu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Niềm tin này không do trí tưởng tượng của chúng ta mà là do mạc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa.
Thực vậy, chúng ta tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và các mầu nhiệm khác trong đạo đều dựa vào lời chứng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên lời chứng của Ngài đáng để chúng ta tin. Chính Ngài đã làm nhiều phép lạ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa và phép lạ lớn nhất đó là tự mình sống lại sau ba ngày chôn cất nơi huyệt mộ. Chính Ngài không chỉ nói về Chúa Cha mà cả cuộc sống của Ngài là để tôn vinh Chúa Cha và Ngài hằng sống đẹp lòng Chúa Cha.
Qua lời chứng của Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đã tỏ bày tình yêu của mình qua ba cách khác nhau: Chúa Cha đã tỏ mình ra qua việc tạo dựng vũ trụ vạn vật và con người. Cho dù con người có bất trung phản loạn Chúa vẫn yêu thương, yêu thương đến nỗi ban chính Con Một của mình là Đức Giêsu Kytô làm Đấng cứu chuộc trần gian. Cứu là giải thoát. Chuộc là cái gì của mình đã mất nay phải chuộc lại. Ngôi Hai Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết, và chuộc lại chúng ta trở về làm con cái Thiên Chúa bằng giá máu trên đồi Golgotha. Chúa Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa đã thánh hóa chúng ta thành con cái Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa bằng đời sống sám hối và canh tân cho xứng đáng là con cái Chúa và xứng đáng là Đền Thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị. Amen.

42. Làm Dấu Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có bao giờ bạn nghì rằng: tại sao mình lại làm dấu? Làm dấu trước mọi công việc. Làm dấu trước và sau khi ăn. Làm dấu khi sợ hãi, khi gặp gian nan. Nghĩa là làm dấu không đơn thuần là biểu lộ niềm tin Công Giáo mà còn là xin thêm sức mạnh từ Thiên Chúa. Làm dấu còn biểu lộ niềm tín thác vào quyền năng của Thiên Chúa có thể che chở hồn xác chúng ta.
Đó là điều mà nhạc sĩ Lê Đức Hùng đã diễn tã qua lời bài hát “Làm Dấu” mà ca sĩ Phan Đình Tùng từng hát.
Bài hát được khởi đầu bằng lời xác quyết: “Con đặt lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con từng yêu. Đưa tay sang trái- phải vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn Thánh thiêng hồng phúc đời con….”
Và rồi bài hát mời gọi chúng ta hãy làm dấu để xin ơn Chúa. Vì phải có ơn Chúa chúng ta mới làm mọi việc êm trôi. “Giữa hiểm nguy khốn khó, con làm dấu xin ơn bình an. Trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường. Chúa ơi ở bên con nhé!”
Như vậy làm dấu là để thêm ơn Chúa. Làm dấu để xin ơn trợ lực, giúp sức từ Thiên Chúa. Làm dấu như dây sạc nối đời ta với Thiên Chúa. Điện thoại ta dùng hằng ngày cần phải kết nối với nguồn điện để duy trì hoạt động. Cuộc đời con người cũng cần kết nối với nguồn năng lượng ân sủng của Chúa để được sống hạnh phúc và sung mãn hơn.
Chúa Giêsu khi chỉ thị cho các môn đệ ra đi làm phép rửa nhân danh Chúa thì Ngài cũng hứa sẽ ở cùng các ông để tăng thêm sức mạnh cho các ông. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần… Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:19-20)
Khi các môn đệ nhân danh Chúa Ba Ngôi thì các ông còn làm được những chuyện phi thường hơn nữa: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỉ, nói được các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16: 17-18).
Như vậy khi làm dấu thánh giá nhân danh Chúa Ba Ngôi thì con người nhận lãnh nguồn sung mãn của Người. Con người như được tiếp sức từ sức mạnh của Thiên Chúa để có thể làm được nhiều điều phi thường. Thực vậy, có những điều tưởng chừng như bế tắc cùng đường, nhưng khi làm dấu thánh giá kêu cầu Chúa Ba Ngôi thì bế tắc đó lại được khai thông. Có những khi tôi sợ hãi, tôi làm dấu và thưa với Chúa: Chúa ơi, con sợ qúa, xin giúp con. Và quả thực tôi lại tìm được bình an. Có những khi gặp khó khăn trong công việc, tôi làm dấu và thưa với Chúa: Chúa ơi, con bất lực, xin giúp con, và dường như mỗi lần như thế tôi lại tìm được sức mạnh của Chúa để vượt qua.
Cuộc sống luôn đong đầy những khó khăn của cơm áo gạo tiền, của tuổi già bệnh tật, của tai ương hoạn nạn bất ngờ đưa đến. Cuộc sống vốn dĩ đầy những nổi trôi như muốn dìm chúng ta trong bể khổ trần gian. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy bất lực vì những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Có đôi lúc chúng ta cảm thấy chán nản vì những chuyện ngoài ý muốn vẫn đến với chúng ta. Đó là lúc mà Chúa bảo với chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa, vì “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”
Ước gì chúng ta có đủ niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa để có thể phó thác cho Chúa. Ước gì khi làm dấu nhân danh Chúa Ba Ngôi chúng ta cũng nhận lãnh được sức mạnh, ân sủng và tình thương của Chúa để vượt qua những khó nguy trong cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhớ đến Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc đời để tạ ơn và cầu xin sức mạnh của Chúa bảo vệ cuộc đời chúng ta. Amen.

43. Chúa Nhật Chúa Ba Ngôi
Đài truyền hình VTV3 có chương trình gọi là “Truyện cổ tích ngày nay”. Chương trình này thường họ đưa một đoạn phim ngắn. Sau đó người dẫn chương trình mới nói lên ý nghĩa của đoạn phim này. Có một đoạn phim như sau: một cậu bé cầm trên tay 7000đ đến tiệm kem để mua 1 cây kem giá đúng 7000d.
Ở tiệm bán kem cậu nhìn thấy có một cô bé dẫn theo đứa em của nó, và tìm mua cây kem giá 1000đ, bởi trên tay nó vỏn vẹn chỉ có 1000đ. “ở đây khong có cây kem 1000đ, giá chót cũng phải 2000đ”, tiếng bà chủ quát. Hai chị em cô bé lặng lẽ ra về. Đứa em như thèm được ăn kem, nó quay lại nhìn về phía tiệm kem. Bấy giờ cậu bé có 7000đ đã không mua cây kem 7000đ nữa, nhưng là mua 3 cây kem giá mỗi cây 2000đ. Ba đứa bé tìm đến một bóng cây ở ven đường, chúng nó ngồi xuống cùng ăn kem và nói cười vui vẻ.
Cuộc sống quanh ta có biết bao nhiêu là nét đẹp, chỉ cần chịu khó để ý một chút, chúng ta sẽ nhận ra ngay. Một cậu bé còn quá nhỏ, chưa thể giải thích nỗi về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, cũng không thể nói về tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho rỏ ràng được. Vậy mà, qua việc làm của cậu, cậu như đang hoạ lai chính diện mạo về một tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Thiên Chúa không yêu thương chính mình. Người không đơn độc, nhưng là có Ngôi Vị. Ngôi Vị chính là trao ban. Cha hướng về Con, Con hướng về Cha, Cha và Con cùng nhìn về Thánh Thần.
Hình ảnh một cậu bé ăn cây kem sửa, rất bổ dưỡng, rất có lợi cho sức khoẻ tuổi thơ của cậu ta. Nhưng khi đó, cậu bé đang yêu lấy chính mình. Cậu sẽ trở nên đơn độc một mình. Ngược lại, cậu quên đi chính bản thân, sẳn sàng trao ban, nhiệt tình chia sẻ cái cậu đang có trong tay đó là một cây kem 7000đ. Cậu biết rất rõ, cây kem 7000đ là kem sữa, nhiều chất bổ cho cậu. Và cây kem 2000đ là cây kem đá ít chất cho cậu.
Nhưng rồi cậu chọn ăn cây kem đá. Bởi khi ăn cây kem đá, cậu không ăn một mình, mà cậu sẽ ăn với các bạn của cậu. Cậu ăn cây kem sửa, mà kế bên cậu có người đang khóc vì không có kem ăn, cậu cảm thấy cũng không ngon cho mấy. Nhưng neu phải ăn kem đá, mà cậu làm cho người khác vui, thì cậu thấy cây kem đá vẫn ngon như thường.
Đây là một cái “ngon” không phải giống như ngon miệng mà vị giác mang lại cho chúng ta. Nhưng là một thứ “ngon” sâu lắng nhất, một kiểu ngon do tình yêu mang đến. Nó làm cho chúng ta sẵn sàng dâng hiến, sẵn sàng trao ban. Điều này khác với sự ban bố. Ở đây, người ta không lấy cái dư thừa để cho nhưng là họ đang chia chính sự sống, đang chia chính niềm vui mà họ đang có. Và đây chính là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Lạy Chúa Ba Ngôi cực Thánh, xin cho con mỗi ngày biết nhạy bén để nhận ra những nhu cầu của anh chị em đang sống xung quanh chúng con. Xin Người dạy con biết phải làm gì và bằng cách nào để mỗi ngày con thiệt sự trở nên sứ giả tin mừng của Chúa, biết vẽ lại chân dung một thiên Chúa Ba Ngôi bằng chính đời sống của con. Amen.

44. Lễ Chúa Ba Ngôi
TÌNH YÊU KHƠI DẬY CẢM THỨC VỀ THIÊN CHÚA
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đức Chúa là Thiên Chúa, ngoài Người ra không có thần nào khác nữa” (Đnl 4,35)
Thi sĩ Eliot đã viết: “Có những điều chúng ta không thể diễn tả noi, nhưng không được phép câm lặng”. Tư tưởng này khá thích hợp để chúng ta khởi dẫn những suy tư về Thiên Chúa, trong cái nhìn Kitô giáo. Chúng ta có thể có những ý niệm khi nói về những vật thể trong vũ trụ này, nhưng Thiên Chúa không thuộc về thế giới vật lý đó. Chúng ta không thể nghiên cứu về Thiên Chúa với những lập luận thuần lý, vì Ngài là một mầu nhiệm tuyệt đối. Vì vậy, khi chúng ta suy tư về Thiên Chúa, hoặc tìm hiểu những mạc khải liên quan đến Ngài, điều trước hết là chúng ta phải nhận thức được những giới hạn mong manh nơi những suy tưởng của đầu óc con người.
Tuy nhiên, chúng ta không thể hoàn toàn câm lặng. Thiên Chúa vẫn luôn là một mầu nhiệm. Chúng ta không thể thấu triệt Ngài bằng những suy nghĩ theo luận lý và khoa học, nhưng vẫn có thể trải nghiệm sự hiện diện linh thánh của Ngài bằng đức tin. Trong bài đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, chúng ta nghe Môise tóm kết một huấn từ dài trong sách Đệ nhị luật. Môise nói với dân về Đức Chúa Giavê. Ngài không phải là một vị thần giống như các thần minh khác. Điều này dân Israel chưa hiểu. Sau này, khi trở về từ Babylon thoát kiếp lưu đầy, dân Do Thái mới dần dần hiểu ra chân lý. Chân lý đó là: Chỉ có một Thiên Chúa độc nhất. “Hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa. Ngoài Người ra không có thần nào khác nữa.”
Lẽ tất nhiên, Kitô giáo vẫn luôn khẳng định niềm tin độc thần này. Chỉ có một Thiên Chúa, Chúa của tổ phụ Abraham. Nhưng làm sao chân lý này lại được thấu triệt song hành với những mạc khải như “Ngôi Lời ở với Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa (Jn 1,1); hoặc “Chúa là Thần Khí” (2C 3,17). Trong Tin mừng, Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi rao giảng cho muôn dân và làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28,19). Công thức ban bí tích rửa tội mang chở mạc khải về mầu nhiệm một Thiên Chúa – ba Ngôi vị.
Làm cách nào chúng ta có thể dẫn giải về mầu nhiệm một Thiên Chúa với ba ngôi vị phân biệt như thế? Có phải ba ngôi là ba thực tại tách biệt và khác nhau nhưng đều có chung một bản tính? Trong Kinh thánh, chúng ta vẫn đọc thấy rằng “Chúa Cha sai Chúa Con, Chúa Con trao ban Thần Khí, Chúa Con tôn vinh Chúa Cha và Chúa Cha cũng tôn vinh Chúa Con. Sử dụng hạn từ “ngôi vị” để nói về ba ngôi dễ khơi dậy một sự chia tách. Tuy nhiên sự phân biệt ngôi vị, trong ý nghĩa tuyệt đối, vẫn luôn hàm ngậm tư tưởng độc thần: “Đức Chúa là Thiên Chúa độc nhất, ngoài người ra không có thần nào khác nữa”.
Có lẽ nhiều người suy nghĩ và cho rằng Thiên Chúa là hữu thể thần linh đơn nhất, là một Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể trải nghiệm sự hiện diện của Ngài qua ba dạng thức khác nhau. Suy nghĩ này giúp củng cố cho niềm tin độc thần, nhưng lại rất khó để quảng diễn về mầu nhiệm ba ngôi. Hơn nữa, tư tưởng này dễ bị đồng hóa với lạc thuyết Sabellian mà ngày nay nhiều người vẫn còn bị ảnh hưởng. Chúa Nhật lễ Ba Ngôi năm ngoái tôi được nghe một vị linh mục giảng trong thánh lễ. Ngài sánh ví mầu nhiệm Ba Ngôi như là chất thể nước với 3 dạng thức: dạng đá, dạng lỏng và dạng hơi. Cả ba dạng thức này khác nhau nhưng cũng chỉ là một chất thể duy nhất. Sau thánh lễ, tôi gặp vị linh mục và muốn nói với Ngài: “Thưa Cha, hình như cha là người theo lạc giáo, có phải không?” Nhưng nghĩ lại, tôi nói với Ngài: “Thưa Cha, bài giảng của Cha hôm nay tuyệt vời”. Giáo hội trong những kỷ nguyên đầu tiên đã tranh cãi khá nhiều suốt hằng bao thế kỷ về tín điều một Chúa Ba Ngôi, và cuối cùng đã xác tín một chân lý mà lý trí con người khó chap nhận, hầu như không thể chấp nhận. Nhưng Giáo hội đã cố gắng bảo vệ những chân lý mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa với hai khẳng định rõ rệt: Chỉ có một Thiên Chúa, và là Ba ngôi vị phân biệt.
Tín điều về Chúa Ba Ngôi là trung điểm linh đạo Kitô Giáo. Truyền thống chúng ta xem Chúa Thánh Thần như là một chân trời thiêng liêng để qua đó chúng ta đến với Đức Kitô phục sinh. Sống trong Thần khí sẽ đưa dẫn chúng ta đi vào sự gắn kết than tình với Đức Giêsu. Chúng ta tin rằng Chúa Cha là nguồn mạch vô tận khởi sinh Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế chúng ta vẫn đặt Chúa Cha vào chỗ tối thượng khi cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện cùng Chúa Cha qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
Tín lý Ba ngôi nêu bật bản chất sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa, đó chính là tình yêu. Khi có người đang yêu, đương nhiên cũng phải có người đang được yêu thương. Tình yêu kết dính cả hai bằng một năng lực sáng tạo. Tình yêu trao ban và làm phát sinh tình yêu (Chúa Cha yêu Chúa Con). Tình yêu làm tỏa lan và sẻ chia tình yêu (Chúa Cha và Chúa Con). Đồng thời, tình yêu làm khởi sinh một dòng suối sự sống (Chúa Thánh Thần). Tình yêu đối với Chúa Cha hiện lộ trong ta, và lôi kéo chúng ta đi vào sự thông dự mầu nhiệm cứu chuộc. Chúng ta biết về mầu nhiệm Ba Ngôi không phải bằng những diễn dịch trừu tượng của lý trí, nhưng bằng những trải nghiệm cụ thể về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho chúng ta, được Chúa Thánh Thần khơi dậy trong sự kết hợp thần linh với Đức Giêsu. Mầu nhiệm Ba Ngôi là một chân lý chắc chắn, nhưng chúng ta đừng lẫn lộn với những suy diễn trừu tượng và mơ hồ. Nền tảng căn bản để chúng ta có thể cảm nhận mầu nhiệm này, chính là tình yêu và sự sống. Tình yêu và sự sống phát nguồn từ nơi Thiên Chúa.

45. Huyền nhiệm của sự gắn bó
(Suy niệm của An Phong, OP)
Hôm nay, Hội thánh long trọng tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, là Con và là Thánh Thần, một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi. Hơn nữa, nhân danh Thiên Chúa ba Ngôi, Hội thánh có sứ mạng đến với muôn dân, làm cho họ trở nên môn đệ Đức Giêsu và lãnh nhận bí tích Thanh tẩy.
Chúa Ba Ngôi được biểu thị bằng một vòng tròn, trong đó có một tam giác đều. Biểu tượng này diễn tả sự bằng nhau, sự duy nhất: Ba nhưng là Một, Một mà lại là Ba. Bất cứ điểm nào nơi vòng tròn cũng đều là khởi điểm và là tận điểm của đường tron. Hình tam giác, được nhìn dưới mọi góc cạnh, vẫn đều y nguyên, không có gì thay đổi hay khác nhau. Cha, Con và Thánh Thần đều bằng nhau, đều duy nhất, gắn bó mật thiết với nhau.
Quả là khả năng của con người rất giới hạn khi muốn hiểu và diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi. Dường như trong ngôn ngữ chúng ta, Cha thì hơn Con; dường như chúng ta không thể tưởng tượng ra thế nào là “một” mà lại “ba”… Nhưng dù thế nào đi nữa, điều chính yếu của mầu nhiem Thiên Chúa ba Ngôi vẫn chỉ là mầu nhiệm Tình yêu.
Trong một Thiên Chúa, Cha – Con – Thánh Thần gắn bó yêu thương (hướng nội). Và Thiên Chúa yêu thương nhân loại, nên đã tạo dựng vũ trụ và con người (hướng ngoại). Đó là hai chiều kích của tình yêu mà chỉ nơi Thiên Chúa mới có.
Con người chỉ có hành vi hướng ngoại, là yêu thương ai khác mình; còn nếu hướng nội thì lại là ích kỷ (yêu mình). Như thế, Kitô giáo luôn kêu gọi sống và đáp trả tình yêu Thiên Chúa bằng cách yêu thương đồng loại.
Hơn thế nữa, lời mời gọi đến với muôn dân, làm cho họ trở nên môn đệ của Đức Giêsu, đó là lời mời gọi thực thi tình yêu Kitô giáo nhân danh Chúa Ba Ngôi. Con người la hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi, nên luôn khát vọng được sống trong tình yêu. Mọi người cần được chìm ngập trong mầu nhệm Tình Yêu, lãnh nhận phép Rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phép Rửa Tình yêu.
Ngày lễ Chúa ba Ngôi là dịp để chúng ta suy nghĩ lại về phép Rửa Tình yêu đã được lãnh nhận. Phép rửa đó chẳng phải là sức mạnh biến đổi đời sống người kitô hữu trong tình mến Chúa yêu người đó sao?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã làm người như chúng con,
để chúng con được làm con Thiên Chúa.
Nhờ Mình Thánh Chúa nuôi dưỡng,
xin cho chúng con biết góp phần xây dựng đời sống
theo hình ảnh cộng đồng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.

46. Lễ Chúa Ba Ngôi
LINH ĐẠO CỦA THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Tin Mừng Mt 28: 16-20: Ngay trước lúc Chúa Giêsu lên trời, Ngài đã khẳng định và truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”(Mt 28,18-19)…
Ngay trước lúc Chúa Giêsu lên trời, Ngài đã khẳng định và truyền cho các môn đệ: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”(Mt 28,18-19).
Hôm nay, Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Chúa Ba Ngôi. Qua lễ này, Giáo Hội muốn cho con cái mình có dịp thuận tiện để xác tín mạng mẽ sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi đầy yêu thương trên cuộc đời của mình và trên nhân loại. Đồng thời, luôn sẵn sàng ra đi loan báo về mầu nhiệm tình yêu ấy cho nhân loại để mọi người nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa, vì: “… trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa” (Đnl 4,39).
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe đã khơi lên trong lòng dân Israel về một Vị Thiên Chúa luôn yêu thương con người cách trọn vẹn. Với Thiên Chúa, Người luôn coi dân Israel là một dân riêng, được hiến thánh, là thành phần ưu tuyển, để qua đó, Người thể hiện quyền năng và lòng yêu thương được thể hiện qua những kỳ công Người đã làm trên dân.
Vì thế, Môsê đã nhắc cho dân biết vị thế của họ trong trái tim Thiên Chúa rất đặc biệt, ông nói: “Có dân nào đã nghe tiếng Thiên Chúa phán bảo từ trong đám lửa như anh em đã nghe?… Có Thiên Chúa nào đã chọn cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác bằng những dấu lạ, điềm thiêng… như Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Ai Cập trước mắt anh em không?” (x. Đnl 4, 35 -40). Từ những diễn tả trên, Môsê mời gọi dân hãy trung thành giữ những lệnh truyền của Thiên Chúa vừa uy quyền, vừa yêu thương, nên chỉ tôn thờ một mình Người mà thôi.
Sang Bài Đọc II, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma hãy sống xứng đáng với vai trò của mình trong tâm thế của một người con trước Thiên Chúa là Cha Nhân Hậu chứ không phải trước một vị thiên chúa đáng sợ như dân ngoại. Hãy vui mừng vì được trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần và được diễm phước gọi Thiên Chúa là Cha: “Abba, Cha ơi”. Khi gọi Thiên Chúa là Cha, Dân Chúa thực sự trở thành những người con đích thực, nên được đồng thừa tự với Đức Giêsu. Chính vì điều này, mà Thiên Chúa và con người trở nên gần gũi hơn bao giờ hết!
Với bài Tin Mừng, thánh sử Mátthêu thuật lại cuộc hiện ra cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ, qua đó, Đấng Phục Sinh khẳng định quyền bính của Ngài khi nói: “Thầy đã được trao trọn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Đồng thời, Đức Giêsu truyền lệnh cho các môn đệ hãy đi loan báo Tin Mừng, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chiêu tập mọi người làm môn đệ để cho họ cũng được cảm nghiệm và sống trong tình thương của Thiên Chúa (x. Mt 28, 19-20).
2. Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi tràn ngập trong ta
Dưới ánh sáng Lời Chúa, tình yêu của Thiên Chúa trải dài qua muôn ngàn thế hệ, khiến chúng ta chỉ có thể thốt lên tâm tình tạ ơn.
Tạ ơn Chúa vì do tình thương mà ta được dựng nên theo hình ảnh của Người.
Tạ ơn Chúa vì ta được lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, trở nên con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, trở thành dân của Thiên Chúa, là đền thờ Chúa Thánh Thần, được đồng thừa tự với Đức Giêsu.
Như vậy, Thiên Chúa luôn yêu ta bằng tình yêu tuyệt đối. Còn với chúng ta, chắc chắn không gì quý giá hơn khi một loài xác đất vật hèn, mỏng dòn yếu đuối, mà lại được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa, Đấng là Chủ Tể mọi loài mọi vật trên trời dưới đất.
Tuy nhiên, “Đấng không thể gọi tên, Đấng bất khả đạt thấu, Đấng là nền tảng mọi sự” ấy (x. Karl Rahner, Science as a Confession, 389) lại sẵn sàng cho chúng ta được tựa nương vào Người như con cái trong vòng tay yêu thương của người cha, như gà con được ở dưới bong cánh mẹ hiền.
Như vậy, tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu luôn luôn đi bước trước và mang tính trọn vẹn đến tuyệt đối như thánh Têrêsa Hài đồng đã cầu nguyện: “Lạy Chúa Ba Ngôi chí thánh, Chúa trở nên tù nhân bị giam hãm trong hồn con”.
Tất cả tình yêu ấy được chính Đức Giêsu mặc khải khi khẳng định như sau: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Còn với thánh Phaolô, ngài căn dặn: “Anh em lại không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong anh em sao”? (1Cr 3,16-17 ; x. 6,19).
Thật hạnh phúc vô biên cho chúng ta khi có một Thiên Chúa đầy nhân hậu, từ bi, luôn sẵn sàng lắng nghe, hiểu thấu và hiện diện với ta, cùng ta và trong ta như vậy!
3. Sống và diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình yêu”. Ai ở trong Thiên Chúa thì ở trong tình yêu. Nói cách khác: ai không biết yêu thì không phải là người thuộc về Thiên Chúa.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là: yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết mình, hết trí khôn và sức lực.
Những hành động cụ thể diễn tả tình yêu của ta đối với Thiên Chúa, đó là:
Tin tưởng và phó thác mọi sự cho Thiên Chúa quan phòng. Luôn yêu mến và thực hành Lời Chúa dạy. Luôn tôn thờ Người là Chúa Tể mọi loài mọi vật, ngoài Người ra, không có chúa nào khác để chúng ta tôn thờ.
Cần tránh những thứ làm cho chúng ta xa Chúa như: tôn thờ tiền bạc. Chạy đua danh vọng. Ham mê lạc thú. Mê tín dị đoan….
Ngoài ra, yêu mến Thiên Chúa và tôn thờ Thiên Chúa còn là sống linh đạo của Người trong cuộc sống của chúng ta.
Linh đạo đó là linh đạo tình yêu và hiệp nhất.
Nếu Ba Ngôi Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta bằng tình yêu tuyệt đối, trọn vẹn, không phân biệt, không tính toán, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải yêu mọi người như vậy, dù người đó là ai, sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh, văn hóa, truyền thống nào đi nữa, chúng ta vẫn luôn được mời gọi yêu và yêu hết mình như Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi luôn kết hợp chặt chẽ với nhau trong công trình cứu chuộc con người, như lời cầu nguyện của Đức Giêsu đã mạc khải trong lời cầu nguyện của Ngài: xin Cha cho “mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta …” (Ga 17, 21), thì đến lượt chúng ta, mầu nhiệm này phải được coi là nền tảng, là căn cốt, là bản lề cho đời sống đức tin và là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu nói chung, cho đời sống từng gia đình giữa vợ – chồng, con cái, hay cho mọi người trong cộng đoàn nói riêng.
Có thế, mầu nhiệm siêu phàm của Chúa Ba Ngôi mới thực sự trở nên sống động ngang qua hành động, lời nói, lựa chọn và cung cách sống của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con được thuộc trọn về Chúa. Luôn được sống trong tình yêu của Chúa và sẵn sàng làm sáng danh Chúa bằng đời sống hy sinh, yêu thương và hiệp nhất. Amen.

47. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRẦN GIAN
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1. Lòng thương xót của Chúa Cha trong lịch sử cứu độ
Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Thiên Chúa còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương nhân loại cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không phải trong khái niệm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, ban bình an tâm hồn, đồng thời, dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa mãn, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
2. Lòng thương xót của Đức Giêsu nơi công trình cứu chuộc
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để hạ sinh Ngài. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời, nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây ra.
Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột…, nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác. Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội….
Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương….
Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.
3. Lòng thương xót của Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa
Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc…, trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu….
Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Nên dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng…, để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
4. Tin Thiên Chúa là làm cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở hành vi khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy…, nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy lối sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công…; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay….
Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời, bên Đấng là cội nguồn của lòng xót thương.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.

48. Mầu nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Kitô, nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể biết được. Cho đến trước khi Chúa Kitô đến, loài người không co một ý niệm nào, dân Do Thái cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Kitô trong đời sống công khai đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đa dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này, khi loan báo rằng: Thiên Chúa cao cả của chúng ta vừa là duy nhất vừa là Ba Ngôi, nghĩa là chỉ có một Chúa duy nhất nhưng trong Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Tại sao Chúa Kitô đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này? Vì Ngài muốn cho chúng ta hiểu biết đích thực về bản tính Thiên Chúa, hiểu biết đích thực đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là TÌNH YÊU. Thiên Chúa là tình yêu. Thật vậy, mau nhiệm Chúa Ba Ngôi chúng ta long trọng mừng kính hôm nay nói lên điều đó: Chúa Cha yêu thương Con, từ tình yêu đó đã nhiệm xuất Chúa Thánh Thần, và tất cả là vì yêu thương loài người chúng ta.
Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, và trong suốt lịch sử của nhân loại, Thiên Chúa đã không ngừng bày tỏ cho con người thấu hiểu tình yêu mà Thiên Chúa đã dành tặng cho con người. Dầu con người phạm tội phản nghịch, Thiên Chúa vẫn không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc.
Và Đức Kitô, cũng vì yêu con người, nên đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian, để hiến thân phục vụ và chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá làm giá cứu chuộc cho con người. Và cả cuộc đời làm người của Đức Kitô đã không ngớt bày tỏ cho con người biết tình yêu của Chúa Cha, được diễn tả qua cuộc đời yêu thương, đến nỗi hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Và Chúa Thánh Thần, được gọi là tình yêu của Thiên Chúa, Ngài được sai đến để tiếp tục công việc của Đức Kitô, công việc yêu thương. Chính nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ và những kẻ tin vào Đức Kitô, tiếp tục công việc cứu chuộc của Đức Kitô qua đời sống hiến thân phục vụ anh em mình. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được tỏ bày từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Cho nên, khi cử hành mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Bởi đó, đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mời gọi chúng ta hãy sống với, sống vì và sống cho người khác.
Nói khác đi, Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, tức là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho anh em chúng ta, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi chân, và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa của mình, đồng thời cũng là diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.

49. Lễ Chúa Ba Ngôi
CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – của Achille Degeest)
Đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi đi qua đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Mọi giáo huấn về Thiên Chúa chất chứa nơi con người của Chúa. Do đó sự liên kết đức tin vào Chúa Con đã chứa đựng hành vi tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Bởi thế Phúc Âm có thể nói: “Mọi người tin vào Ngài không phải chết, nhưng có được sự sống đời đời”. Việc Giáo Hội chọn một đoạn có chủ ý nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô trong ngày le Chúa Ba Ngôi, chứng tỏ rằng khởi điểm, tiến trình và đích điểm của tác động tin toàn diện chứa đựng trong việc liên kết toàn diện với Đức Kitô. Ai đến cùng Đức Kitô là đến cùng Chúa Cha, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng đây là một câu hỏi khác mà Phúc Âm mang lại câu trả lời: Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng cách nào? Bằng cách sai Con Người đến. Thế ngày nay Đức Kitô đến trong thế gian bằng đường lối ưu tiên nào? Qua Giáo Hội. Do đó Giáo Hội có sứ mạng làm cho Đức Kitô hiện diện với thế gian. Giáo Hội phải thông truyền một sự hiện diện chứ không phải chỉ giảng dạy những lời nói, một giáo thuyết, một huấn giới. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tư hạ xuống ngang tầm con người nơi ngôi vị Đức Giêsu Kitô, được tỏ lộ bởi và trong Giáo Hội. Người đặt lòng tin tưởng nơi Đức Giêsu cho đến mức chia xẻ định mệnh chết và sống lại với Ngài, được tham dự vào mầu nhiệm linh động của Thiên Chúa. Điều này giải thích tại sao lời giảng của các tông đồ lúc khai nguyên Giáo Hội không phải là một sách giáo lý về Ba Ngôi chí thánh nhưng là lời loan báo Đức Giêsu Kitô. Qua giòng lịch sử của mình, nhất là qua các Công Đồng, Giáo Hội cố gắng diễn tả gẫy gọn một sự suy tư về mầu nhiệm Tam Vị. Nhưng công trình chính yếu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội (và trong mỗi người chúng ta) là làm sao cho Giáo Hội tin và tiep tục tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hai câu hỏi:
1) Đâu là trung tâm đức tin của chúng ta?
Chúng ta có thể tự đặt câu hỏi ấy đối diện với một số người đương thời đang dấn thân vào những hy vọng nhân loại dựa trên những ý thức hệ. Phúc Âm có phải là một ý thức hệ như bao nhiêu cái khác và các Kitô hữu có phải là những người ủng hộ một phong trào nhằm tạo một nhân loại hạnh phúc hơn về mặt trần thế? Không có gì xa lạ với đức tin chan thật hơn điều đó. Trung tâm đức tin là con người Đức Giêsu Kitô. Ước vọng một thế giới tốt đẹp hơn nơi người Kitô hữu được gọi là lòng khao khát ơn cứu độ, khao khát được giải thoát khỏi sự dữ và sự chết, về mặt vat chất và tinh thần. Việc này chỉ có thể thực hiện được bằng sự liên kết hồn xác với Chúa Con, nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Đức tin của chúng ta chỉ hữu hiệu cho việc cứu độ thế gian trong mức chúng ta thông hiệp vơi Chúa Giêsu, trung tâm đức tin của chúng ta.
2) Sứ điệp của chúng ta là gì?
Người ta chỉ truyền bá có giá trị những gì người ta sống. Để Chúa Giêsu trở thành nguyên cực ơn cứu độ, nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa trong tự do, chân lý, cuộc sống hằng cửu. Giáo Hội cần phải tỏ bày Ngài ra cho mọi người. Giáo Hội là chính mỗi người chúng ta. Mọi tín hữu đều mang trách nhiệm phần mình làm cho Đức Kitô hiện diện với người ta, bằng lời cầu nguyện hay bằng hành động, bằng việc dâng hiến một đau khổ hay bằng ảnh hưởng của hoạt động, bằng sự hy sinh thầm kín hay bằng việc loan báo lời Chúa. Mỗi tín hữu có sứ mạng làm sao cho Giáo Hội thông đạt tới thế giới sứ điệp ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô.

50. Lễ Chúa Ba Ngôi
MỘT ĐỊNH MỆNH LÀM CHOÁNG VÁNG MẶT MÀY.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đức Giêsu tự giới thiệu cho người ta như là Ngôi Con, trên Ngài Chúa Thánh Thần đậu xuống. Với tư cách là Ngôi Con, Ngài không ngừng quy về Chúa Cha hành động của Ngài. Ngài là Ngôi Con mạc khải Ngôi Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Tin vào Đức Giêsu Kitô là dấn thân chấp nhận mầu nhiệm căn bản nay. Không phải chỉ là một sự chấp nhận về tinh thần thôi. Nhưng là một sự tự hiến toàn thể con người ta vào trong hiệp thông sống động với Thiên Chúa hằng sống, Đấng, với tư cách là Cha, sẽ làm cho ta trở nên con cái Người, với tư cách là Thánh Thần sẽ thông báo cho ta sự sống Thiên Chúa.
Niềm tin này sẽ được thành toàn nhờ phép Rửa tội. Chính phép Rửa tội làm cho con người đạt tới tình trạng làm con Thiên Chúa –làm anh em với Đức Kitô, là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Nhờ niềm tin, con người đáp lại lời mời gọi của Chúa, lời mời gọi này được truyền đạt nhờ lời rao giảng của Giáo Hội. Nhờ phép Rửa tội, Thiên Chúa tiếp nhận bước tiến của con ngươi và làm cho con người đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như thế, có hai yếu tố chứa đựng trong Lời Đức Giêsu nói: “Hãy đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ta có the hiểu chữ “môn đệ” bằng hai cách:
a/ việc chấp nhận lời rao giảng của Đức Giêsu, và
b/ việc đi vào hiệp thông với Thiên Chúa nhờ bí tích Rửa tội.
Như thế, xuyên qua lời rao giảng của Đức Giêsu và nhờ phép Rửa tội, rõ ràng là con người tiến đến một định mệnh làm choáng váng mặt mày: con người được tham dự vào chính đời sống của Thiên Chúa được mạc khải như là Cha, Con, Thánh Thần.
Đâu là những hiệu quả thực tế của phép rửa chúng ta? Ở đây, chúng ta nêu lên 2 điểm:
1) Hậu quả thứ nhất được chỉ rõ qua công thức: “Phép rửa nhân danh Đức Giêsu”. Thật vậy, nhiều đoạn Tân Ước nói về phép rửa nhân danh Đức Giêsu. Có gì khác với phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi không? Trong bài diễn từ thứ nhất, thánh Phêrô nói: “Mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần” (Tđcv 2,38). Không thấy nói đen một phép rửa được trao ban mà không móc nối với Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Như thánh Phaolô thường dạy: Phép rửa nhân danh Đức Giêsu chỉ rõ hậu quả này: kẻ chịu phép rửa thuộc về Đức Kitô, được liên kết với Đức Kitô nhờ được tham dự cùng một đời sống và được liên kết với các người chịu phép rửa khác nhờ được cùng liên kết với Đức Kitô. Thánh Phaolô cũng nói: “Kẻ chịu Phép Rửa trở nên anh em với Đức Kitô” (Rm 8,29), “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19), “nghĩa tử của Chúa Cha” (Gal 4,6).
2) Tiếp đến là nhờ Phép Rửa tội, người tín hữu đi vào trong một quá trình đồng hoá với Đức Kitô. Đức Giêsu đã chủ tâm muốn hoàn toàn trở nên Người Con ở giữa chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta chỉ mơ ước một điều duy nhất: đến lượt chúng ta cũng hãy cố gắng trở nên con cái Thiên Chúa. “Được rửa tội trong Đức Kitô” (Gal 3,27). Đối với thánh Phaolô, mặc lấy Đức Kitô là để cho mình biến hoá thành Đức Kitô. Và đó là công việc của Chúa Thánh Thần. Có được thế mới là thành công trong vấn đề ơn kêu gọi làm Con Thiên Chúa. Nhưng điều này không thể thực hiện được mà không có sự cộng tác của chúng ta. Một cách đơn sơ. Vấn đề đối với chúng ta chẳng phải là: cố gắng bước chân theo gót Đức Kitô sao?

51. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Noel Quesson)
Trên chuyến xe lửa Lyon-Paris, một thanh niên sang trọng ngồi bên mot ông già ăn mặc thô sơ, có vẻ quê mùa. Thấy cụ già cầm xâu chuỗi, miệng lẩm bẩm đọc kinh, chàng thanh niên gợi chuyện:
– Tôi thấy ông vẫn còn tin tưởng ở tập quán thời trung cổ. Chắc ông cũng tin Đức Mẹ Đồng Trinh và những chuyện ghi trong sách Thánh, được nhai đi nhai lại trong các nhà thờ chứ gì?
Ông già trả lời:
– Đúng vậy đó cậu ạ. Còn cậu thì sao?
Chàng thanh niên cười rộ:
– Tôi mà lại tin theo những chuyện vớ vẩn ấy à? Tôi đã tìm được sự thật đầy đủ ơ trường Đại học. Ông cũng nên từ bỏ xâu chuỗi, để có giờ mà đọc các sách khoa học tân tiến.
– Tôi cũng muốn thế, nhưng sợ không hiểu nổi khoa học.
– Được rồi, tôi sẽ gửi biếu ông một số sách. Ông có biết đọc không?
– Cám ơn cậu, tôi có biết đọc.
– Thế thì tốt rồi, nhưng xin ông cho địa chỉ để tôi gửi sách.
Ông già rút trong túi ra một tấm danh thiếp, và cậu thanh niên tròn đôi mắt đọc thấy trên đó ghi: Louis Pasteur –Viện nghiên cứu khoa học–Paris. Đó là người đã viết nhiều sách khoa học mà người thanh niên say mê nghiền gẫm.
Trong đạo Công giáo có nhiều mầu nhiệm, cao sâu trên hết là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đã la mầu nhiệm thì trí khôn con người khó mà thấu hiểu được. Nhưng nếu khiêm tốn cầu nguyện và tìm hiểu, ta vẫn có thể tiếp thu những mầu nhiệm đó mà không thấy nghịch lý chút nào. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được chính Chúa Giêsu, một trong Ba Ngôi diễn tả và dạy dỗ chúng ta bằng những lời lẽ minh bạch. Vì thế mầu nhiệm này đã được mọi người, kể cả những nhà bác học, những người coi trong lý trí phải suy nghĩ, và tin nhận.
Trong lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội cho ta đọc lại năm câu cuối cùng của Tin Mừng theo Thánh Matthêu, đây là những lời kết thúc và tóm gọn toàn bộ giáo lý của Thánh Matthêu. Thấy Chúa tới, các môn đệ đã sụp lạy suy tôn Người. Đó là thái độ trước nhan Thiên Chúa, thái độ của những người nhận ra Thiên tính của Đức Giêsu (Mt 14,33; 2,11; 15,25). Tuy vậy vẫn có một số còn hoài nghi. Giáo Hội Chúa luôn là tập đoàn tội nhân. Niềm tin các tông đồ cung như niềm tin của mọi người chúng ta luôn pha trộn nghi ngờ, hoang mang, một niềm tin trên đường đi tới. Giáo Hội tiếp đón Chúa, luôn là Giáo Hội “những người chỉ mới có chút ít đức tin” (Mt 14,31).
Tuy nhiên Chúa Giêsu van không ngần ngại tiến lại gần họ, như Chúa đã lại đến bên họ sau cuộc biến hình trên núi (Mt 17,7). Cũng như Chúa vẫn tiến lại gần những người chưa có thể hoặc chưa muốn tuyên xưng một đức tin toàn vẹn, rõ ràng.
Khi đa lại gần bên ta, Chúa trao cho ta nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng của Người. Nhiệm vụ đó là biến đổi toàn nhân loại thành môn đệ Chúa để mọi người đều tuyên xưng cùng một niềm tin. Tin vào Chúa là Cha vì đã tự bỏ mình và trao tặng tất cả cho Chúa Con. Tin Chúa Con đã tự hủy bỏ và hiến dâng tất cả cho Chúa Cha; Tin Thánh Thần là tình yêu chuyển thông giữa Chúa Cha và Chúa Con.
Điều Chúa muốn là “tập hợp mọi người trong một tình yêu”. Thiên Chúa là một cộng đồng tình yêu hiệp nhất. Phải tìm bản tính của Giáo Hội nơi bản tính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kính lạy Chúa Ba Ngôi cực Thánh, xin kết hiệp chúng con trong tình yêu của Chúa để chúng con lấy hành động đức tin và cuộc sống bác ái yêu thương, minh chứng mầu nhiệm Tình Yêu hiệp nhất của Ngài.

52. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
MẦU NHIỆM CHÚA BA NGÔI: MẦU NHIỆM CẦU NGUYỆN, SỐNG, VÀ SẺ CHIA
Kính thưa quý cộng đoàn Phụng vụ, chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Ba Ngôi, Mầu nhiệm nguồn cội và chính yếu của đời sống đức tin Công giáo. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vượt trên trí hiểu, tâm trí của con người chúng ta, nhưng đó chẳng phải là lí do mà chúng ta không sống được Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không hiểu thấu được mầu nhiệm cao quý khôn cùng này, nhưng chúng ta sống, cầu nguyện, cảm nghiệm mầu nhiệm này trong từng giây phút đời sống, trong từng hơi thở, trong từng trạng huống cuộc đời, trong mọi khoảnh khắc thường nhật của chúng ta.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không phải để tranh luận, nghiên cứu về mặt tri thức hay khoa học hàn lâm, nhưng là mầu nhiệm để sống, chia sẻ và cầu nguyện. Nó gắn liền mật thiết với con người và đời sống đức tin của chúng ta như nỗi lòng của Thánh Âu-gus-ti-nô được trải bày rõ nét, sống động trong cuốn ‘Tự Thuật’ (Confessio, Confessions): “Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài xa kia. Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng, chạy đi tìm an bình nơi Chúa..” (Confessio X, 27, “Sero te amavi, pulchritudo tam antiqua et tam nova, sero te amavi! et ecce intus eras et ego foris, et ibi te quaerebam…,”). Hơn nữa, chúng ta được gặp gỡ Chúa Ba Ngôi ngay chính trong thế giới nội tâm, chứ chẳng phải ở ngoài xung quanh ta, và một lúc nào đó chúng ta nhận ra, cảm nghiệm sâu sắc Chúa Ba Ngôi hiện diện thật ưu ái, gần gũi hơn chúng ta vẫn nghĩ. Người đi vào đời, vào tâm tư, cuộc sống mỗi người chúng ta như chính cảm nghiệm của thánh Phao-lô: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (x. Cv 17, 28).
Nhưng làm sao có một cái nhìn chung nhất về Thiên Chúa Ba Ngôi? Ở điểm này chỉ có một người giúp chúng ta khai thông, đó là Chúa Giê-su Ki-tô. Vì không ai thấy Thiên Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần, chỉ duy một mình Thầy Giê-su Chí Thánh hằng kết hiệp nên một với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh, “không ai nhìn thấy Thiên Chúa bao giờ, ngoại trừ Chúa Con, Đấng ở trong cung lòng của Thiên Chúa Cha. Người đã tỏ cho chúng ta biết” (x. Ga 1, 18) và “ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy…” (x.Ga 14, 9-12). Trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Chúa Giê-su dạy dỗ các Thánh Tông Đồ về sứ vụ của Chúa Thánh Thần “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì. Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16, 13-15). Tắt một lời, chúng ta muốn cảm nghiệm, nhận biết Chúa Cha là Đấng như thế nào, Chúa Thánh Thần là Đấng ra sao, thì chúng ta hãy đến gần, chiêm ngắm và học nơi con người Chúa Con, Đấng Cứu Độ chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô. Vì khi chúng ta yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng giàu lòng thương xót, là Chúa Chiên Lành hy sinh cả mạng sống mình cho đàn chiên, là người cảm thông sâu xa với nỗi mất mát của tha nhân, hằng bao dung, không một lời lên án nhưng vẫn chờ đợi, mời gọi những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng rẫy, những người bày mưu tính kế bắt nộp Ngài; và Ngài cũng không ruồng bỏ bất cứ một ai, nhưng hằng giang tay đón mời với ánh mắt nhân hậu thay đổi đời sống của Gia-kêu, của Mát-thêu, v.v…thì chúng ta cũng cảm nghiệm sâu sắc Đấng hằng yêu thương, tạo dựng, chăm sóc, ban cho ta ơn được thông phần vào ơn cứu độ. Vì vậy, Chúa Ki-tô chính là hiện thân của Chúa Cha vô hình, của một Thiên Chúa toàn năng nhưng khiêm hạ, hằng tha thứ, thương xót và mong chờ, mời gọi chúng ta trở về với Ngài. Và qua Chúa Giê-su, chúng ta nghiệm thấy sự kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thần. Ngài hằng làm việc với Chúa Thánh Linh trong sứ mạng của Ngài (x. Mt 12, 28; Rm 1, 4; 8, 11, v.v…).
Do đó, chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thế nào? Như lời chia sẻ một phần nhỏ ở trên, tuy chưa toàn diện, nhưng thiết nghĩ cũng ích lợi cho chúng ta ít nhiều, hầu rút ra một số điểm để cầu nguyện, để sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi một cách thâm sâu, đó là: năng chạy đến, ngắm nhìn, học hỏi, bắt chước con người Giê-su – hiện thân của Chúa Cha và kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Linh trong mọi công việc, sứ vụ. Thứ đến, việc năng đến với Giê-su ấy sẽ giúp chúng ta càng cảm nghiệm sâu xa, gần gũi mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi bao nhiêu, thì chúng ta càng trở nên thân thiện, bao dung, nhẫn nại, tha thứ, ra đi đến với anh chị em của mình bấy nhiêu, đặc biệt những thành viên trong gia đình, hội đoàn, cộng đoàn giáo xứ, mọi người xung quanh lối xóm, nơi công sở, trường học và tất cả ở những lãnh vực khác. Và sau cùng, mỗi người trong chúng ta nên sống, làm việc, hay bất cứ sinh hoạt nào đều dựa trên nền tảng đời sống tu đức, cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi mỗi ngày dù tất bật, bận rộn với cuộc sống, phải chạy đua với thời gian; để rồi kể cả trong sự im lặng của Thiên Chúa, chúng ta cũng không nao núng, nhưng vẫn tín thác trọn niềm nơi Người. Vì chưng, đối với nhiều người, sự thinh lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Tuy nhiên, theo John Updike trải nghiệm thì “một Thiên Chúa ồn ã và mặc nhiên sẽ là một bạo chúa không an toàn, thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật”
Để kết thúc bài chia sẻ này, con xin mượn lời bài hát “Dấu Thánh” của nhạc sĩ Lê Đức Hùng để cùng với quý ông bà, anh chị em tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, và sống kết hiệp với Chúa Ba Ngôi hằng ngày như lời bài hát biểu lộ sự ước vọng, nỗ lực cố gắng cũng như những yếu đuối chưa sống đức tin vào Chúa Ba Ngôi…Qua đó, xin Chúa Ba Ngôi sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh hay giá băng của chúng ta, để chúng ta can đảm sống đức tin vào Chúa Ba Ngôi giữa đời.
Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu
Đưa tay sang trái, phải vinh danh Chúa Thánh Thần
Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm Dấu Thánh xin ngự đến trong tâm hồn con
Mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con
Xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm
Ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương, của ngài giữa đời…

53. Con búp bê và biển cả
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình, con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
– “Biển cả ơi, bản chat của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả đã trả lời:
– “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả”.
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước biển. Con búp bê kinh hãi lui lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu dàng mời gọi:
– “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi sẽ đươc hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất”.
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là biển cả.
Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu biển cả là thế nào.
Như con búp bê được biển cả mời gọi dìm mình vào trong lòng biển cho mình hòa tan trong biển để hiểu được biển cả, thì mỗi người chúng ta cũng được mời gọi dìm mình vào trong Thiên Chúa. Cần để cho cái tôi của mình được hòa tan đi, biến mất đi trong Thiên Chúa để có thể hiểu biết Thiên Chúa, sống kết hợp với Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi la một mầu nhiệm. Lý trí loài người khó mà hiểu biết cho tường tận được. Chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa bằng lý trí cho bằng tình yêu. Thật vậy, chỉ khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta mới hiểu và biết Chúa. Chỉ có sự hiểu biết như vậy mới làm cho ta thỏa lòng thỏa trí. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thưa anh chị em, với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Cái độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt ve hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v… và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chua Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong Thánh lễ hôm nay, cũng như trong các Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ cuộc đời chúng ta, nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời.

54. Vinh danh Ba Ngôi.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Biến cố lớn đã được khơi động trong Giáo Hội là mừng năm sinh thứ 2000 của Chúa Giêsu. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định trong Tông Thư “Tiến đến Thiên niên kỷ thứ ba”. Chủ đề học hỏi của ba năm chuẩn bị là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Năm 1997 dành cho suy tư về Đức Kitô, Ngôi Lời của Chúa Cha, làm người do hoạt động của Chúa Thánh Thần (số 40). Năm 1998 dành cho Chúa Thanh Thần… Đấng đồng bản tính với Chúa Cha và Chúa Con, trong mầu nhiệm tuyệt đối của Thiên Chúa vừa là một vừa là ba, là Ngôi vị tình yêu, tặng phẩm vĩnh hằng, nguồn mạch vĩnh cửu của mọi ân huệ Chúa ban… (số 44). Năm 1999, năm thứ ba và là năm cuối cùng, hướng đến Cha trên trời, Đấng đã sai Đức Kitô và là Đấng mà Ngài đã trở về (x. Ga 16,28. Số 49).
Trong các Thánh Lễ Chúa Nhật, chúng ta đều tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất. Tôi tin kính một Chúa duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, được Chúa Cha sinh ra trước muôn thuở muôn đời. Tôi tin kính Chúa Thánh Thần, Người là Chúa và la Đấng ban sự sống, Người phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”. Đó là lời tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính, một công thức thần học súc tích, mang nặng tính chất lý luận dài dòng và khó hiểu.
Thế nhưng, đây là một mầu nhiệm tuyệt đối nhất trong các mầu nhiệm: Mầu nhiệm hiệp thông sự sống và tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích ky vô cùng. Nhưng Ngài là ba: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương nhau, hiến tặng sự sống cho nhau, hoàn toàn tương quan, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và moi tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là chính Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi, nhưng lan toả ra ngoài trên khắp vũ trụ và đến nhân loại: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban cho thế gian quà tặng quí giá nhất là Người Con chí ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Thiên Chúa”. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng lại trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chua: “Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8), còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, “vì Thiên Chúa là Tình yêu”.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là mầu nhiệm của sự hiệp nhất. Ước vọng hiệp nhất và nên một của những người yêu nhau sẽ được thực hiện nơi người con họ cho nhau. Nó là của chàng và cũng là của nàng. Nó là chúng ta, là tình yêu chung mà họ có thể thấy được. Tình yêu giữa hai người đã triển nở thành tình yêu chung trong một ngôi vi thứ ba: Họ trở thành tình yêu chung trong môt ngôi vị thứ ba: Họ trở thành một gia đình. Hình ảnh gia đình ấy có thể giúp chúng ta tiếp cận phần nào với mau nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi-gọi là phần nào, bởi vì mọi hình ảnh đều bất toàn không thể diễn đạt tương xứng được sự khác biệt nhưng lại duy nhất vô biên nơi Thiên Chúa. Có thể nói Thiên Chúa là một gia đình: Cha, Con và Thánh Thần. Yêu thương chính là bản tính thần linh chung của Ba Ngôi, là lời lý giải cho mầu nhiệm cao cả mà chúng ta tuyên xưng.
Mầu nhiệm đức tin không bao giờ là một trò chơi và thách đố trí tuệ, nhưng luôn hàm chứa lời mời gọi sự sống Thiên Chúa Ba Ngôi là một thực tại sống động trong đời sống người kitô hữu. Thật vậy, đời sống kitô hữu được khai sinh nhờ bí tích Thánh Tẩy “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lời cầu nguyện luôn luon là lời nguyện “với Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần”. Thánh Lễ, trọng tâm của đời sống kitô hữu, cũng được khai mở và kết thúc trong Danh Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi đang sống trong lòng mỗi người, đời sống Ba Ngôi đang diễn ra trong mỗi tâm hồn. Từng giây từng phút, người Kitô hữu được liên kết chặt chẽ với Chúa Con, đến độ khi được tràn đầy Thánh Thần của Ngài, người kitô hữu trở thành con của Cha trên trời. Vì vậy, phúc lành vĩ đại nhất cho kẻ tin là “được tràn đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần” (1Cv 13,13). Do đó, sự nhận biết Thiên Chúa là tình yêu và là tình yêu cứu đo phải là sức đẩy cho chúng ta yêu thương mọi người anh em như Thiên Chúa yêu thương.
Như nơi Thiên Chúa, khởi điểm của tình yêu là mở ra, thông ban, chia sẻ. Thái độ mở ra, thông ban, chia sẻ nầy đòi hỏi phải ra khỏi bản than và đi đến với người khác. Thái độ nầy đòi hỏi rũ bỏ não trạng ích kỷ vốn tiềm tàng ngay trong suy nghĩ, ước mơ, và tính toán để thực sự biết quan tâm đến ích lợi và hạnh phúc của người khác, biết nhìn nhận người khac ngay trong cái khác biệt của họ.
Liệu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có là nền tảng cho sự hiệp thông trong cộng đoàn chúng ta không? Mỗi người trong cộng đoàn- từ cộng đoàn họ đạo đến khu phố, gia đình – có cảm thấy mình “yêu và được yêu” không? Có biết cho và nhận cách khiếm tốn không? Dấu Thánh Giá được ghi trên người “nhân Danh Chúa Ba Ngôi” có tác động gì trong đời sống chúng ta không? Có là tấm gương cho chúng ta soi bóng tình yêu hiến dâng của mình trong quan hệ với tha nhân không?
Tuy nhiên, không chỉ là tôi mở ra hướng về anh và anh hướng về tôi, để rồi lại tạo nên một thứ “tôi và chúng ta” khép kín. Tinh thần bè phái và phe nhóm lại chẳng có mặt trong cuộc sống của chúng ta đó sao? Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi thì không như thế. Tinh yêu đã chẳng tự khép kín trong gia đình Ba Ngôi, nhưng trào vọt và chan hoà trong vũ trụ bao la, tuôn đổ trong lòng mọi người. Cũng vậy, niềm tin thúc bách tình yêu đi tới, phá đổ mọi bức tường ngăn cản của màu da, chủng tộc, tôn giáo, ý thức hệ, để tình yêu lan toả khắp nơi. Và tình yêu làm nên hơi thở của sự sống. Cứu độ là ở đó. Nước Trời cũng là ở đó.
Chúng ta hãy cầu xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi cho chúng ta từ bỏ thái độ cô độc khép kín, cùng nhau xây dựng một thế giới anh em bốn bể một nhà, cho nhân loại nhận biết Chúa Cha là Thiên Chúa chúng ta như Ngài đã tỏ hiện cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Ngài hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời.

55. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi
“Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã to lòng từ bi đối với chúng ta”. Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khai trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giưa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: “Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả. Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật.”
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cay và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.

56. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần.
1) Dấu Thánh Giá và Ba Ngôi
Để giúp chúng ta sống và cử hành lễ tình yêu này cho nên, trước khi suy niệm đoạn Tin Mừng(Mt 28,16-20), chúng ta cần nhắc lại rằng việc tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Chúa Thánh Thần, gắn liền với Dấu Thánh Giá. Đức Giáo hoàng Benedict XVI nói: “Việc thực hành đạo đức này “là dấu chỉ cơ bản của kinh nguyện Kitô Giáo: Dấu Thánh Giá trên hết là một sự kiện của Thiên Chúa: Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Chúa Kitô mở đường cho chúng ta đến với Chúa Cha. Như thế, Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa xa lạ nữa; Ngài có một tên, chúng ta có thể gọi Ngài, và Ngài gọi chúng ta”.
Với dấu Thánh Giá, chúng ta được chìm đắm trong Thiên Chúa Ba Ngôi, nên bằng cách sai phái các môn đề của mình đi truyền giáo khắp thế gian, Chúa Kitô yêu cầu họ làm Phép Rửa “Nhân danh Cha và Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
Vì vậy, khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta được Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm trong danh của Ngài, được thâm nhập vào sự hiện hữu của và được ở trong cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đã chịu khổ hình và mai táng, sống lại, lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Và chúng ta tuyên tín Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Cha và Con mà ra.
Bắt đầu một ngày mới bằng dấu Thánh Giá, dấu của tình yêu Ba Ngôi, chúng ta gia nhập vào đời sống tương giao của tình yêu Thiên Chúa Cha, Con và Chúa Thánh Thần.
2) Ba Ngôi theo Tin Mừng hôm nay
Bây giờ chúng ta hãy bình luận về văn bản Tin Mừng rất ngắn (Mt 28, 16-20) của Thánh Lễ Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi, Cha, Chúa Con và Thánh Thần có mối quan hệ chặt chẽ trong tình yêu, nhận biết và hiệp thông giữa với nhau. Những lời của Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ làm chứng tỏ mầu nhiệm sâu thẳm của Ba Ngôi. Chúng ta biết, Chúa là Cha, nguồn suối mọi ơn phúc, Chúa Con là Con của Chúa Cha trong tình yêu nhập thể cứu chuộc ta, và Chúa Thánh Thần là tình yêu Người của Cha và Con yêu con người bằng tình yêu thực sự.
Ba Ngôi thường bị coi là vô nghĩa đối với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng trong thực tế, Ba Ngôi Cực Thánh này bao trùm toàn bộ đời sống chúng ta. Ba Ngôi ở trong chúng ta, chúng ta là “đền thờ” của Ba Ngôi, và Ba Ngôi sống trong chúng ta.
Khi sai các môn đệ của mình đi, Chúa Giêsu truyền họ làm phép rửa cho muôn dân “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19), chứng tỏ, chúng ta, những người kitô hữu đã chịu Phép Rửa nhân danh Ba Ngôi. Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta tham dự vào sự sống thần linh, và trở thành con cái Thiên Chúa là Cha, anh em với nhau trong Chúa Kitô và đền thờ của Chúa Thánh Thần. Với Bí tích này, đời sống Kitô hữu của chúng ta bắt đầu được một lời kêu gọi nên thánh. Phép Rửa làm cho chúng ta thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh, Đấng “ba lần Thánh” (x. Is 6,3); “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em sống thánh thiện” (1Th 4,3)..
Hồng ân thánh mà chúng ta nhận được ngày chịu Phép Rửa tội đòi hỏi chúng ta phải trung thành với sứ vụ loan báo Tin Mừng, sứ vụ này ảnh hưởng đến tất cả những người đã chịu Phép Rửa tội. “Vì thế, mọi người đều thấy rõ ràng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Ðức Ái” (Công Đồng Vaticanô II, LG, số 40).
Nếu Phép Rửa tội đưa chúng ta vào trong sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì làm sao chúng ta có thể hài lòng với đời sống của một người kitô hữu bình thường và hời hợt được? Chúng ta được kêu gọi để nên thánh trong tình yêu, vì Phép Rửa dẫn chúng ta vào trong đời sống thân mật của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Với lòng biết ơn sâu sắc vì sự quan phòng của Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi chúng ta chia sẻ đời sống tình yêu của Ngài, chúng ta thờ phượng và ngợi khen Chúa, bây giờ và mãi mãi. “Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng con” (Ca nhập lễ).
3) Ba Ngôi trong đời sống người Kitô hữu
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được hỏi:
– Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?
– Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha…?
– Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần…? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có”.
Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.
Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…

57. Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến từ nơi Chúa Cha, mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).
Theo thánh Grégoire de Nazianze (329–390): Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị: Ngôi Cha “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa…
Theo Grégoire de Nysse (331?–394): Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần nhiệm xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.
Theo thánh Augustinô (354–430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).
Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Đây là lệnh Chúa Giê su truyền cho các môn đệ như trong Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy đi giảng dạy môn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28, 19).
Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần: chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những “công dân” Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.

58. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tiếp liền sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Dấu tôn vinh, chúc tụng và nguyện cầu
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm …
Khi đặt tay lên trán chúng ta tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Đưa tay xuống ngực chúng ta chúc tụng Chúa Con tình yêu. Đưa tay sang trái, phải vinh danh Chúa Thánh Thần, Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc của đời chúng ta. Mỗi lần làm Dấu Thánh chúng ta xin Chúa Ba Ngội ngự đến biến đổi tâm hồn chúng ta nên giống Ngài trong lời nói cũng như việc làm.
Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói trọn lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu kẻ có Đạo.
Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta, những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
– Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
– Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1– Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2– Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3– Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Người đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết: “là mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Xin dâng lời chúc tụng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.

59. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Thiên Chúa Ba Ngôi Rất Thánh, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên: Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này: một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi.
Lớn lên tôi mới hiểu đây là một trong ba mầu nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là:
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời co mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con: Ngôi Ba là Thánh Thần.
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T.Phải.
H.Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong ba ngôi vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Thiên Chúa hiện hữu trong Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này. Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”. Phải, tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Người mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Giáo lý về Chúa Ba Ngôi chứng tỏ cho chúng ta thấy cả Ba Ngôi Vị đều tỏ hiện vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Chịu thanh tẩy xong, Đức Yêsu liền lên khỏi nước; và này: trời mở ra, và Ngài thấy Thần khí Thiên Chúa đáp xuống như chim câu mà đến trên Ngài. Và này có tiếng tự trời phán: “Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ” (Mt 3,16-17).
Thiên Chúa hiện hữu trong ba thân vị, luôn luôn yêu thương, và có mối giao hoà trọn vẹn giữa ba ngôi vị. Theo như cách diễn giải của thánh Augustinô trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần chính là Người yêu, Người được yêu và Tình Yêu. Thêm vào đó, theo Tiến sĩ Thomas Hopko, nếu Thiên Chúa không phải là Ba Ngôi, Chúa không thể trải nghiệm tình yêu thương trước khi Chúa tạo dựng các thực thể khác (con người) và yêu họ. Sáng thế ký 1 câu 26 chép rằng “Chúng ta hãy tạo nên con người theo hình ảnh chúng ta”.
Ba Ngôi trong đời sống Kitô giáo
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, không thể nào diễn tả được; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì the, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu định Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hành động của Đức Cậy
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Ngài đã mở cửa Trời cho chung ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết là: “mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chua và yêu thương tha nhân. Amen.

60. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Trong lịch Phụng vụ chúng ta thấy: sau khi đã kính hết các mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Giêsu từ khi Chúa Giáng sinh tới khi Chúa chịu chết sống lại và lên trời rồi Chúa Thánh thần hiện xuống, thì cuối cùng mới tới lễ Chúa Ba Ngôi: Như vậy phải chăng Phụng vụ muốn nói lên rằng Chúa Ba Ngôi là cao điểm của mặc khải Kitô giáo và chúng ta chỉ hiểu được phần nào về Chúa Ba Ngôi sau khi đã tìm hiểu tất cả các mầu nhiệm trước trong cuộc đời Chúa Giêsu
Tôi có nghe một cha giáo dạy thần học ở Đại chủng viện nói tất cả những lời giải thích và những hình ảnh so sánh về Chúa Ba ngôi đều bất toàn, vì thế thiết tưởng lúc này thay vì phải giải thích, thì chúng ta nên xem Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Ba ngôi như thế nào và Chúa muốn dạy chúng ta điều gì khi Chúa tỏ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho chúng ta
Trước hết có một câu nói của Chúa Giêsu rất vắn gọn bao hàm vừa là mệnh lệnh đi rao giảng Tin Mừng vừa là mặc khải cả ba ngôi Thiên Chúa trong cuối Tin Mừng Matthêô đó là: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28, 19) và nhất là đoạn Tin Mừng về việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa trong Mc 1, 10-11 : ” Vừa lên khỏi Nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Chúa Thánh Thần tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ” Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Tiếng nói từ trời là Chúa Cha, Chim Bồ câu ngự xuống trên Chúa Giêsu là Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu là Ngôi Con mới chịu phép Rửa được Chúa Cha Đấng từ Trời xuống trong cuộc Thần hiện nói lên tiếng nói từ trong đám mây giới thiệu Chúa Giêsu là Người Con Chí Ái đẹp lòng Chúa Cha.
Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hành động chung để mưu ích cho nhân loại chúng ta nhưng việc sáng tạo thường được qui về Chúa Cha, việc Cứu chuộc là của Chúa Giêsu và việc Thánh hóa là của Chúa Thánh Thần
Thánh Gioan đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Vậy nếu Thiên Chúa là tình yêu thì mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi càng cho chúng ta thấy rõ tình yêu ở nơi Ba ngôi Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng ta như lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin ở Con của Người thì không bị hư mất nhưng được sống dời đời”(Ga 3, 16)
Đời sống người Kitô hữu chúng ta được chan hòa mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: Chúng ta xưng ra Chúa Ba Ngôi mỗi khi chúng ta làm dấu Thánh Giá, một người Công giáo bình thường một ngày có ít nhất 3-4 lần làm dấu Thánh giá. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta dược cha mẹ đem tời nhà thờ chịu phép Rửa tội và khi Rửa tội, Linh mục đọc : “Cha Rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Mỗi lần đi xưng tội, chúng ta được linh mục đọc lời xá giải : “Cha tha tội cho con nhân Danh Cha và con và Thánh Thần”. Mỗi lần đọc kinh Sáng Danh chúng ta cảm tạ và cầu chúc vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi và khi kết thúc cuộc sống trần gian chúng ta ước mong được phó thác linh hồn trong tay Chúa để được hưởng hạnh phúc cuộc sống đời đời trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi trên thiên quốc
Gần đây trên trang Web của tổng Giáo phận Saigon có kể một cậu chuyện về một cậu bé 14 tuổi được theo đạo nhờ xem video Công giáo. Em tên là Lê Trúc Lâm sinh năm 2017, 14t, học lớp 8, ở Rạch giá, gia đình theo đạo Phật và em cũng thường đi chùa với gia đình. Em nói: “Con vô tình thấy Video Thánh Lễ do Đức Tổng Giám mục Bùi văn Đọc giảng lễ, con nhấp xem và sau con lên Youtube xem thêm nhiều lễ nữa do Đức Cha Đọc dâng sau con cũng xem lễ do Đức Giám mục phụ tá Luy Nguyễn Anh Tuấn”. Em tìm hiểu về 2 Đức Giám mục. Em hỏi sao Đức cha Đọc lại lấy câu châm ngôn: “Thiên Chúa là nguồn vui của con.” Đức Cha giảng vui, và hay nở nụ cười. Em nói chắc có Chúa nên Đức Cha mới vui vẻ và dễ thương như vậy. Còn Đức Cha Tuấn thì em nói Đức Cha giảng hay, dễ hiểu và có ích cho em. Thấy con hay nghe giảng và đi lễ công giáo, gia đình bà con phản đối, nhưng cha mẹ em thì để em được tự do. Sau gần hai năm tìm hiểu và học giáo lí, em được chịu phép Rửa tội vào ngày a24/10/2020 tại Cần thơ lấy tên thánh Luy của Đức Cha Tuấn. Điều đặc biệt là việc theo đạo Chúa giúp em được biến đổi: Trước đây em tiêu xài ngày tới 500.000đ vị chi một tháng là 15 triệu đồng: số tiền do cha mẹ cho vì gia đình em khá giầu có, nhưng nay em biết tiết kiệm một tháng chỉ tiêu 5 triệu đồng, số tiền còn lại em giúp nhà thờ và làm việc bác ái. Bạn bè cũng nhận xét giờ em bớt nóng tính, biết xin lỗi và không hay chửi thề như trước và khi ăn cơm em làm dấu thánh giá tử tế. Hiện nay em đã học hết trung học và học thêm Anh văn để chuẩn bị qua Mỹ đoàn tụ với cha mẹ. Cảm tạ Chúa vì em còn có ý muốn đi tu nữa!
Mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ mến yêu và thưa lên Chúa với tâm tình hiếu thảo “Abba”(Rm 8,15) như Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha, chúng ta cũng nên có một quyết tâm bé nhỏ nhưng cần thiết là hãy can đảm tuyên xưng Chúa Ba Ngôi qua dấu Thánh giá và làm dấu Thánh Giá tử tế để chứng tỏ chúng ta là con Chúa trong gia đình Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.

61. Ba Ngôi cực thánh
(Suy niệm của Arthur Tone)
Hơn năm mươi năm trước đây, ở Chicago, một phụ nữ Tin Lành da đen tên là Maria Weaver. Chị là một tín đồ Baptist, Methodist – Kitô hữu khoa học và Holly Roller. Chị chỉ tin: “Duy nhất một Đức Kitô”. Một ngày nọ, chị nghe lén bài giáo lý Công giáo ở nhà một người bạn. Đây là dịp để chị biết người Công giáo tin điều chi, làm điều gì. Rồi chị thấy tức cười. Chị bắt đầu đọc, đọc lan lần từ ghét đến tò mò, đến ngỡ ngàng, rồi đến ước muốn học hỏi. Chị thổ lộ: “Nếu đây là những điều Giáo Hội Công giáo dạy thì tôi muốn làm một người Công giáo”. Maria Weaver đã được rửa tội tại nhà thờ thánh Elisabeth ngày 11 tháng 12 năm 1938.
Bây giờ, chị hoạt động mạnh mẽ giúp Giáo Hội Công giáo như trước kia chị đã hoạt động để chống lại.
Một người bạn của chị thuộc phái Holly Roller đã bày tỏ xúc động trước sự trở lại của chị như sau: “Ôi, Maria chị làm gì với: Duy một mình Đức Kitô?”. Maria Weaver trả lời: “Tôi vẫn còn Ngài. Bây giờ tôi tin nhận Chúa Cha và Chúa Thánh Thần nữa”.
Khi Maria Weaver tin nhận Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, có nghĩa là chị đã tin Chúa Ba Ngôi. Cũng thế, bạn và tôi trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi: Tin nhận Ba Ngôi bằng việc tin, ca tụng, cảm tạ và yêu mến Thiên Chúa.
Chúng ta, những người trong Giáo Hội Đức Kitô sáng lập, được gia nhập Giáo Hội bằng nghi lễ gọi là Bí tích Rửa tội, trong đó sử dụng những lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ta rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúng ta biết Chúa Ba Ngôi, vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta nhiều lần. Làm sao lại có thể Ba Ngôi trong một Chúa? Chúng ta không hiểu. Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất trong đạo chúng ta. Chúng ta hy vọng một ngày kia chúng ta sẽ hiểu rõ hơn chân lý sâu thẳm này.
Hôm nay, chúng ta tập trung vào lời cảm tạ Chúa Ba Ngôi, vì những gì Chúa Ba Ngôi đã làm cho chúng ta. Chúng ta cảm tạ Chúa Cha vì yêu thương, đã tạo dựng nên chúng ta một con người có lý trí và làm cho chúng ta trở nên con cái của Người. Chúng ta cảm tạ Chúa Con, Đấng đã làm người, sống, lao động, dạy dỗ, chết và sống lại để chúng ta được phục hồi trong tình thân mật với Chúa Cha. Đấng đã thành lập Giáo Hội để đem phúc lành thời đại của Người đến với thời đại chúng ta.
Chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần; Đấng hằng hiện diện trong Giáo Hội và trong tâm hồn mỗi người chúng ta để giúp chúng ta yêu mến Chúa Ba Ngôi, dẫn chúng ta đến hạnh phúc bất diệt.
Chúng ta tôn kính Ba Ngôi Thiên Chúa trong mỗi Thánh Lễ bằng khởi đầu và kết thúc với dấu thánh giá. Chúng ta dâng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong, với và qua Chúa Ba Ngôi. Chúng ta cầu nguyện với Chúa Ba Ngôi luôn mãi. Lat nữa đây chúng ta sẽ tuyên xưng đức tin – cùng với nhau, lớn tiếng và mạnh mẽ – trong tất cả Ba Ngôi.
Vâng, Thiên Chúa Ba Ngôi đã tiếp nhận chúng ta, đã làm cho chúng ta nên một trong Người. Cũng như Maria Weaver, tới lượt chúng ta, chúng ta tin nhận Chúa Ba Ngôi trong Đức tin, trong đời sống.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.

62. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. HK)
Tại Melbourne, nước Úc, Mẹ Têrêxa đi thăm một người già chẳng ai quan tâm để ý đến. Nhìn thấy căn phòng của ông tồi tệ và dơ bẩn, Mẹ muốn lau chùi và quét dọn cho ông, nhưng ông cản lại:
– Tôi còn khoẻ mạnh.
Trong căn phòng của ông có một cây đèn tuyệt đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm. Mẹ Têrêxa hỏi ông:
– Tại sao ông không thắp đèn cho sáng?
– Tôi thắp đèn cho ai đây? Chẳng có ai đến thăm tôi cả, còn tôi, tôi chẳng cần phải thắp đèn.
– Ông có thắp đèn không nếu như có các sơ đến thăm ông?
– Có chứ, nếu tôi nghe thấy một tiếng người, tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó một thời gian, Mẹ Têrêxa nhận được một lá thư ngắn gọn của ông với dòng chữ sau: “Xin hãy nói với các bạn hữu của tôi rằng ngọn đèn bà thắp sáng trong đời tôi sẽ còn cháy sáng luôn mãi”
Mẹ Têrêxa rồi cũng trở về Ấn độ, nhưng ngày nào ngọn đèn của ông lão còn cháy sáng ngày ấy Mẹ như vẫn còn đó trong nhà ông.
Trước khi gặp Mẹ Têrêxa, ông lão chỉ sống trơ ra đó như là không hề hiện hữu trên đời, như người ta nói đùa là ông phải sống vì chưa tìm ra lý do để chết. Nay ông có lại được “sự sống”, ngọn đèn đã được thắp lên.
Descartes, một triết gia Pháp nổi tiếng, đã có một luận đề triết được nhiều người thán phục: “Tôi suy tư nên tôi hiện hữu” (Cogito sum), người ta biết mình hiện hữu khi biết mình đang suy tư; còn câu truyện trên như mang lại cho ta một luận đề khác: “Tôi yêu nên tôi hiện hưu”, người ta cảm nhận sự hiện hữu của mình khi yêu thương.
Hai cách hiện hữu trên được diễn tả trong văn hoá Á Đông với hai chữ trí và tâm. Con người có trí, có tâm. Trong cuộc sống, tâm và trí có sự sống riêng, hiện diện độc lập bên nhau, không thể thiếu vắng trong sự sống của con người toàn thể, đã phản ánh được phần nào sự sống và hiện hữu của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thánh Augustinô cũng cho thấy sự giống nhau giữa hai tiến trình hoạt động trong bản tính Thiên Chúa so với hoạt động của tư tưởng và ý chí nơi linh hồn con người (De Trin., IX, iii, 3; X, xi, 17) mà Ngôi Lời là tư tưởng – sự khôn ngoan của Thiên Chúa, và Thần Khí là ý chí – tình yêu của Thiên Chúa.
Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nên sự sống của con người không chỉ phản ánh phần nào mà còn có thể được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Sự sống Thiên Chúa được thông ban cho con người qua Đức Kitô, Sư Khôn Ngoan của Thiên Chúa: “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1, 24), và qua Thần Khí, Tình yêu của Thiên Chúa: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Bởi đó, có thể nói được là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngoi mạc khải về sự cao trọng của ơn gọi làm người: Đích nhắm sau cùng của ơn gọi làm người là chính sự sống của Thiên Chúa: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); và cuộc song tại thế hôm nay là để chuẩn bị cho sự sống vinh hiển được xếp đặt từ đời đời cho nhân loại: “chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển” (1Cr 2,7)
Valencia mồ côi cha lúc mới lên 5, phải ở với mẹ tại một khu lao động nghèo khổ. Sau Thánh lễ hằng ngày, cậu vào các tiệm ăn đánh giầy cho khách. Mỗi khi nhận tiền công, cậu đều làm dấu thánh giá tạ ơn Chúa.
Tụi bạn trông thấy to nhỏ với nhau: “Gạo không lo mà lo giữ đạo!” Valencia vẫn cứ hiên ngang giữ hình thức cầu nguyện đơn sơ ấy.
Năm 17 tuổi, cậu được ban văn nghệ mượn đóng vai thằng quỉ. Màn đầu vừa dứt, khán giả vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt. Sang màn thứ hai, trời đột nhiên đổ mưa, sấm sét nổi lên ầm ầm. Nghe sét đánh, “thằng quỉ” quên mất mình đang đóng kịch, vội quì gối làm dấu thánh gia. Khán giả cười rộ lên, tưởng thằng quỉ làm hề, không ngờ Valencia cầu nguyện thật!
Sau đêm ấy, mọi người trong khu xóm hiểu được hoàn cảnh của cậu, họ chung nhau quyên tiền để giúp Valencia ăn học. Đến sau, Valencia đỗ tiến sĩ lúc vừa mới 30 tuổi … nhờ dấu thánh giá!
Mỗi ngày và cả đời tôi được bắt đầu với dấu thánh giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” để nhắc tôi nhớ rằng Chúa là con đường và thành đạt thực của đời tôi.“That vậy, tất cả các dân đều bước đi nhân danh thần của mình; còn chúng ta, chúng ta tiến bước nhân danh Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đến muôn thuở muôn đời” (Mk 4,5).

63. Lễ Chúa Ba Ngôi
Trong một buổi thuyết trình về những chân lý trong đời đời sống niềm tin tôn giáo, vị thuyết giảng hỏi các thính giả của mình rằng: “Giả sử hôm nay Giáo hội nói với các bạn rằng: Thiên Chúa không hề có Ba Ngôi, Người chỉ có một ngôi vị duy nhất mà thôi, thì điều này có ảnh hưởng gì đến đời sống của các bạn không?”
Thưa anh chị em! Câu hỏi này tự nó đã hàm chứa một lời khẳng địng rằng: các chân lý tôn giáo không phải là những tín điều chỉ đòi buột ta tuyên xưng ngoài môi ngoài miệng, mà là buột chúng ta tuyên xưng bằng chính cuộc đời của mình. Nghĩa là khi ta tuyên xưng một tín điều nào đó, muốn cho lời tuyên xưng ấy xác thực, chúng ta phải để cho tín điều ấy hướng dẫn và biến đoi đời sống của chính mình. Hôm nay đây, cùng với Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Ba Ngôi.
Đây là một mầu nhiệm căn bản trong đời sống đạo của mình, một tín điều mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày khi làm dấu thánh giá, hay đọc kinh Sáng Danh. Thế nhưng bây giờ chúng ta thử nhìn lại xem: chúng ta đã tuyên xưng tín điều này trong đời sống của mình như thế nào? Nói khác đi là chúng ta có để cho tín điều ấy hướng dẫn và làm cho cuộc song của mình trở nên tốt hơn không? Người ta thường nói: “Vô tri bất mộ”: không hiểu biết thì không thể yêu mến; mà không yêu mến thì không thể hiện được nó trong đời sống của mình được.
Nhưng mà rồi làm sao tôi có thể cắt nghĩa được một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi khác nhau: Cha, Con và Thánh Thần? Làm sao tôi có thể giải thích ba ngôi riêng biệt ấy không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Chúa duy nhất? Người ta đã gắng công tìm những hình ảnh này và hình ảnh khác để diển tả, nhưng cuối cùng thì đó cũng chỉ là những hình ảnh đơn điệu phần nào đáp ứng lại sự tìm hiểu của lý trí mà thôi. Đối với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, Chúng ta không thể tìm được một hình ảnh hay một ngôn từ nào để diển tả cách chính xác, rỏ ràng và đầy đủ được.
Đã là mầu nhiệm thì muôn đời sẽ vẫn là mầu nhiệm. Và đồng thời, mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng đặc biệt để soi dẫn chúng ta trên con đường sống niềm tin của mình. Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay tuy không nói rỏ cho chúng ta về mầu nhiệm này, nhưng chúng ta tìm thấy ở đó một nét đặc biệt nơi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, đó là Tình Yêu. Thánh Gioan đã nghiền ngẫm mầu nhiệm này này hằng bao nhiêu năm trời, rồi cuối cùng ông chỉ thốt lên được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Quả thật, khi nhìn lại lịch sử cứu độ nhân loại và lịch sử của bản thân mình, chúng ta sẽ nhận thấy đó là một chuỗi dài của tình thương. Đành rằng trong cuộc sống, có những lúc mình phải đối diện với những đớn đau nghiệt ngã, đối diện với những tủi buồn trăn trở, nhưng khi nhìn kỹ lại, chúng ta sẽ thấy rằng đó chính là những lúc Chúa sửa dạy bảo ban, chính là những lúc Chúa gọt dũa, để đời sống của chúng ta được tốt hơn. Nhà thơ Lệ Khánh chẳng biết có cảm nhận được tình yêu nhiệm mầu này hay không, mà trong ngôn ngữ của con người, ông đã diển tả nó cách sâu sắc và thi vị:
“Yêu lặng lẽ là yêu không dám nói
Là âm thầm chuốc lấy những thương đau
Nhìn người ta rồi khe khẽ cúi đầu
Để đêm về khóc thầm bên gối trắng.”
Khuon mặt của Thiên Chúa Ba Ngôi là khuôn mặt của một Thiên Chúa tình thương, mà chỉ có con người mới có được vinh dự vẽ lại khuôn mặt đó trong đời sống của mình. Thế nhưng con người hôm nay xem chừng như muốn từ khước cái vinh dự đó, thay vì làm cho sáng sủa dễ coi, thì người ta lại làm cho nó trở nên méo mó khó nhìn khi đối xữ với nhau bằng một đời sống thiếu công bằng, thiếu tình thương chia sẽ. Bằng chứng là chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, chết chóc dường như chưa bao giờ chấm dứt. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có thể hiện được khuôn mặt của Thiên Chúa tình thương trong chính cung cách ứng xữ thường ngày của mình đối với những người cận kề với chúng ta không?
Tình yêu muốn tồn tại thì cần phải có sự đáp trả. Chúng ta hãy đáp trả lại tình thương của Thiên Chúa bằng cách tin vào Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Mà tin vào Đức Kitô là bước theo và tuân giư các giới răn của Người. Tin vào Đức Kitô là thể hiện trong cuộc đời của chúng ta cung cách sống của Người. Nghĩa là chúng ta phải suy nghĩ, phải nói năng và phải hành động giống như những gì chúng ta đã học biết nơi Phuc Âm của Người.
Đây không phải là một chuyện dễ dàng, cũng chẳng phải là một chuyện mà chúng ta chỉ làm trong một sớm một chiều. Bởi vì tin vào Đức Kitô và cư xử giống như Người là chúng ta phải đi ngược lại với nhhững quan niệm đương thời, mà lội ngược dòng nước chảy bao giờ cũng là một điều khó khăn, cũng là một điều vất vả. Chắc chắn rằng sẽ có những lúc chúng ta cảm nhận rằng: khi tôi càng tuân giữ các lề luật của Chúa, la lúc tôi càng cảm thấy mất tự do; Khi tôi càng sống theo các giới răn của Chúa, là lúc tôi càng bị thiệt thòi.
Thưa anh chị em! Không bao giờ xảy ra một điều vô lý như vậy, vì Chúa đã hứa rằng: “Điều Ta răn dạy, con ơi giữ cho thật đúng, Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời.”
Mà ngược lại, tôi càng bám vào lề luật của Chúa, là tôi càng được tự do theo đúng nghĩa của nó; tôi càng sống theo các giới răn của Chúa, là cuộc sống tôi càng được hạnh phúc. Một cánh diều muốn được tung bay lên bầu trời tự do, nó bắt buột phải được giới hạn bằng một sợi dây nhất định. Ngày nào nó tự bứt mình ra khỏi sợi dây ràng buột đó để được tự do hơn, được bay cao hơn, thì đó là ngày nó rơi xuống vực thẳm.
Hôm nay chúng ta không mừng lễ Chúa Ba Ngôi với một quyết tâm tìm hiểu cho thấu đáo mầu nhiệm ấy, nhưng chúng ta hãy mừng lễ này với một con tim chân thành, vì đã cảm nhận được tình thương của Chúa nơi cuộc đời của mình. Tình thương này sẽ luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, nhưng tình thương ấy cũng sẽ luôn luôn đặt chúng ta trước một sự chọn lựa đầy ray rứt: Tôi có sẵn sàng nói lên tieng “không” với tất cả những gì đi ngược lại với lề luật của Chúa hay không?

64. Bài Giảng Lễ Chúa Ba Ngôi
(Msgr. Edward Peter Browne)
Tôi tin là hầu hết qúi vị đã tham dự Thánh Lễ Phục Sinh. Thường thì rất đông người tham dự trong ngày Lễ Phục Sinh. Lễ Giáng Sinh cũng đông như vậy. Tất cả những người Công Giáo bề ngoài hay nghĩ mình là người Công Giáo thì đi dự lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Quí vị đã có mặt ở đây trong ngày Chúa Nhật Phục Sinh và nếu qúi vị nhớ lại, trong Thánh Lễ ngay sau bài giảng, quí vị đã được yêu cầu canh tân lại những lời hứa của Bí Tích Thanh Tẩy. Tôi hỏi, “Anh chị em có từ bỏ Satan không?” “Thưa có.” “Và từ bỏ tất cả những công việc và các lời hứa của qủi Satan không?” “Thưa có.”
Tuyên Xưng Đức Tin
Có một lời tuyên xưng đức tin nữa và tôi sẽ hỏi anh chị em một trong những câu hỏi trong lời tuyên xưng đức tin này. Tôi sẽ hỏi để anh chị em trả lời. Câu hỏi sẽ là: “Anh chị em có tin Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?” và câu trả lời của anh chị em sẽ là, “Thưa có.” Bây giờ chúng ta sẽ thử bắt đầu, “Anh chị em có tin Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng trời đất không?” “Thưa có.” Tôi nghi là nếu tôi hắt xì hơi khi anh chị em đang trả lời, không ai sẽ nghe thấy câu trả lời của anh chị em bởi vì người ta trả lời theo kiểu máy móc. “Có, tôi tin.” Anh chị em đang tuyên xưng sự thật là, “Thưa có, tôi tin vào Thiên Chúa!” Hôm nay là ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi và chúng ta công bố sự thật là: TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG, TÔI TIN VÀO CON MỘT THIÊN CHÚA, TÔI TIN VÀO CHÚA THÁNH THẦN. Tôi vững vàng tin tưởng. Anh chị em phải trả lời, “TÔI TIN, TÔI VỮNG VÀNG TIN! TÔI THỰC SỰ TIN! Nhưng đa số người ta nói cách nhỏ nhẹ, “Tôi tin, tôi vững vàng tin, tôi thực sự tin.”
Chúng ta sẽ không giải thích về Chúa Ba Ngôi bởi vì tôi không thể giải thích được. Đó là một mầu nhiệm. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời đất, chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ. Chúng ta biết Đức Giesu Kitô là Thiên Chúa. Chúng ta biết Chúa Thánh Thần ngự trên chúng ta mỗi khi chúng ta lãnh nhận các Bí Tích và Thánh Thần ngự trong chúng ta. Chúng ta tin như thế, hay ít nhất chúng ta nói là chúng ta tin như thế.
Trong bài đọc thứ nhất của Thánh Lễ hôm nay, Mai-sen nói rằng Đây là lý do tại sao các ngươì phải biết lúc này và ghi khắc vào lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dưới đất và không có Chúa nào khác. Các người phải tuan giữ các lề luật và các giới răn ta nói với các người hôm nay, các người và con cháu các người sẽ thịnh vượng, các người sẽ sống trường thọ trong miền đất mà Chúa là Thiên Chúa của các người, ban cho các người mãi mãi. Anh chị em phải ghi tạc vào lòng của anh chị em: “Tôi phải tin và tuân giữ các lề luật và giới răn.” Anh chị em nói là anh chị em yêu mến Thiên Chúa, anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa. Cách mà anh chị em tuyen xưng đức tin của anh chị em nơi Thiên Chúa là anh chị em ghi tạc trong lòng của anh chị em rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời, trên đất và dưới lòng đất. Rồi anh chị em tuân giữ lề luật và các giới răn. Đây chính là cách anh chị em tuyên xưng đức tin nơi Thiên Chúa.
Tin Giữ Giới Răn
Nếu chúng ta đọc lại qua các giới răn, nhiều người sẽ nghĩ rằng các giới răn thật là tiêu cực. Nhưng thực sự các giới răn là những lời công bố tích cực.Thí dụ, giới răn Thứ Nhất nói anh chị em phải thờ lạy một Thiên Chúa duy nhất. Ta là Chúa, các ngươi không được tôn thờ bất cứ chúa nào khác. Đó không phải là lời tiêu cực. Ngài nói với anh chị em là hãy có đức tin, “tin tưởng vào ta.”
Các ngươi không được xúc phạm đến danh thánh của Thiên Chúa, các ngươi phải tôn kính danh ta. Các ngươi phải sống nhân danh ta. Các ngươi phải tuyên xưng danh ta suốt đời. Đó là niềm tin nơi Thiên Chúa. Đó không phải là điều tiêu cực nhưng là tích cực.
Khi giới luật Thứ Ba nói là các anh chị em phải nhớ giữ ngày Chúa Nhật, đó là vì anh chị em tin vào Đức Giêsu Kitô Đấng là Con Thiên Chúa. Anh chị em tin là Chúa Giêsu Kitô hiện diện nơi bàn thánh. Anh chị em tin, hay ít nhất anh chị em nói là anh chị em tin rằng đây là Bí Tích Thánh Thể thật tuyệt diệu. Tuy thế, có người lại đến ăn mặc cách bê bối, vào trễ ra sớm. Anh chị em có thật tin không? Anh chị em nói là có, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại qúa bận rộn để đến tham dự, qúa bận rộn để đến chia sẻ bí bích bởi vì anh chị em có việc khác phải làm. Anh chị em có tin không? Có chứ, anh chị em tin, nhưng anh chị em lại khong thực hành niềm tin. Đức tin không thực hành thì có ích lợi gì?
Giới Luật Thứ Tư nói là anh chị em phải thảo kính cha mẹ nhờ đó anh chị em có thể sống trường thọ ở đời này. Anh chị em có thảo kính cha mẹ vì anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa không? Hay bởi vì đó chỉ là điều tiện lợi? Hay bởi vì chúng ta luôn làm như thế, đó là điều đáng làm. Nó phải được thi hành vì tôn kính đối với Thiên Chúa. Chúng ta phải tôn kính Thiên Chúa Cha của chung ta và cha mẹ chúng ta là bậc đại diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải tôi kính các ngài giống như tôn kính Thiên Chúa Cha.
Chúng ta có Giới Luật thứ Năm dạy rằng, “Các ngươi không được giết người.” Tại sao? Bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống. Thiên Chúa đã ban cho chúng tất cả các tạo vật. Ngài đã đặt hàng triệu các vì sao trên giải ngân hà. Ngài ban cho chúng ta sự sống. Ngài truyền hãy tôn trọng sự sống đó bởi vì đó là sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta. Tuy thế, nhiều người mẹ lại giết con mình. Có những trẻ em giết các trẻ em khác. Và anh chị em lại nói, có tôi tin nơi Thiên Chúa. Điều đó không nói len là anh chị em tin.
Chúng ta có Giới Răn Thứ Sáu: “Các ngươi không được phạm tội tà dâm ngoại tình, không được xúc phạm đến sự sống ta đã ban cho các ngươi.” Đó không phải là điều tiêu cực mà là vấn đề dâng lại cho Thiên Chúa sự tôn trọng đời sống của anh chị em. Ngài đòi anh chị em phải thi hành sự trong sạch thanh khiết, bởi vì đây là những món qùa vô giá được Thiên Chúa ban cho chúng ta và chúng ta không muốn phá hủy đi, chúng ta khong muốn phung phí, chúng ta không muốn gây trở ngại, chúng ta muốn bảo vệ niềm tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Tuy vậy, hãy nhìn vào xã hội ngày nay. Chẳng ai thực sự tin những điều này là qùa tặng của Thiên Chúa. Chúng chỉ là những thứ đồ chơi. Người ta nói có đấy, họ tin vào Thiên Chúa.
Các giới răn truyền rằng “Các ngươi không được lấy của người khác.” Điều đó có nghĩa là thi hành tinh thần công bình. Đó không phải là điều tiêu cực mà là điều tích cực. Tôi sẽ sống công bình. Tôi sẽ trao cho người khác cái thuộc về họ. Tuy thế người ta lại lấy của Thiên Chúa, không phải chỉ lấy của tha nhân, họ lấy trộm của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói, “Hãy dâng lại cho ta một số những cái Ta đã ban cho các ngươi.” Có bao nhiêu người dâng lại cho Thiên Chúa? Bao nhiêu người đóng góp? Có bao nhiêu người dâng hơn một phần trăm lợi tức của họ cho Thiên Chúa? Anh chị em nói có, anh chị em tin tưởng vào Thiên Chúa, anh chị em tin sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống. Anh chị em tin. Anh chi em nói anh chị em tin, nhưng anh chị em làm điều gì? Anh chị em có tuân giữ các lề luật và các giới răn mà “Ta đã trao cho các ngươi hôm nay”?
Người ta nói dối, làm chứng dối, phá hại người láng giềng, đổ lỗi không đúng sự thật cho người khác, và họ nói họ tin nơi Thiên Chúa nhưng họ lại phá hại người hàng xóm của họ. Họ không tôn trọng đời sống của người khác. Tất cả những điều này là sự bày tỏ niềm tin của chúng ta. Chúng ta bày tỏ niềm tin của chúng ta bằng cách chúng ta hành động. Nếu anh chị em nói là anh chị em tin vào Thiên Chúa, thì hãy hanh động như anh chị tin nơi Thiên Chúa. Hãy tuân giữ các giới răn và các lề luật. Hãy trung tín với Thiên Chúa, tin tưởng nơi Thiên Chúa, tôn kính Ngài. Hãy đến với các Bí Tich cách tôn kính và mong mỏi Chúa Giêsu Kitô đen với mình trong Bí Tích Thánh Thể. Tôi phải cung kính trong cách đón nhận Ngài vào trong đời sống của tôi. Tôi có tin như thế không? Nếu tôi tin, thì tôi sẽ thực hành.
Thực Hành Điều Mình Tin
Chỉ đơn giản nói, “Lạy Chúa, lạy Chúa,” sẽ không đưa anh chị em vào nước trời. Chỉ có một điều là nếu tôi tin thì tôi thực hành. Nếu anh chị em tin rằng anh chị em đã có sự thành công trên đời, có thể nuôi nấng gia đình, lo cho sức khỏe của mình, đó chính là vì anh chị em đã phải làm một số điều. Nếu anh chị em tin nơi Thiên Chúa thì anh chị em cũng phải làm một số điều. Đây chính là lý do tại sao anh chị em biết và ghi tạc trong lòng rằng Chúa là Thiên Chúa trên trời và dươi đất, và không có chúa nào khác. Các ngươi phải tuân giữ các huấn lệnh và giới răn mà Ta ban cho các ngươi hôm nay để nhờ đó các ngươi được trường thọ trong đất mà Chúa là Thiên Chúa của các ngươi đã ban cho các ngươi. Đất mà Thiên Chúa ban cho anh chị em vĩnh viễn là ơn cứu độ muôn đời. Anh chị em có tin như thế không? Anh chị em có thực lòng tin rằng chỉ có một Thiên Chúa Ba Ngôi không? Có tin Thiên Chúa đó đến để cứu chuộc anh chị em không? Nếu anh chị em tin như thế thì anh chị em sẽ tuân giữ các huấn lệnh và các giới răn của Ngài.
Ngay khi tôi giảng giải xong, chúng ta sẽ đứng lên để cùng đọc kinh Tin Kính. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa duy nhất, chúng ta tin vào Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta tin điều này, tin điều kia, chúng ta tin vào nhiều điều khác, nhưng anh chị em có sống niềm tin đó không? Hay đó chỉ là cách chúng ta trả lời, “Có” khi được hỏi “Anh chị em có tin vào Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Thành trời đất không?” Đó có phải là cách mà anh chị em bày tỏ lòng tin của mình không?
Đây chính là điều chúng ta được mời gọi để thực hiện. TÔI TIN VÀO THIÊN CHÚA Và bởi vì tôi tin vào Thiên Chúa, tôi tin như là người con nhỏ của Thiên Chúa nhờ đó sự sống viên mãn của thiên Chúa có thể trở thành của tôi và dành cho tôi mãi mãi! Xin Thiên Chúa chúc lành cho các bạn.

65. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khơi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”.
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết “Trái đất tròn” trước một nhóm học giả được gọi là Hội Đồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: “Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi”.
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”.

66. Chúa Ba Ngôi
Khi dựng nên Adong, Thiên Chúa đã phán: Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta. Tại sao Thiên Chúa lại bảo: Chúng ta hãy dựng nên. Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa có Ba Ngôi cùng nói và làm. Qua đó Ngài đã trao phó cho con người một công việc cao trọng, đó là chúc tụng Ba Ngôi trong cuộc sống của mình.
Nhưng con người đã chống lại ý định muôn thuở của Thiên Chúa. Vì sự bất tuân lệnh truyền mà con người đã phá hủy mất cái hình ảnh Thiên Chúa trong tam hồn mình.
Nhưng may thay, Chúa Giêsu đã đến, nhờ việc nhập thể, Ngài đã sửa lại điều sai lỗi của ông bà nguyên tổ, Vì thế, trong đêm Giáng sinh, các thiên thần đã hát vang ngoài đồng vắng Bêlem: Vinh danh Thiên Chúa tren trời, bình dan dưới thế cho người thiện tâm.
Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn tô lại hình ảnh của Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta dâng lên Chúa Ba Ngôi lời chúc tụng tôn vinh. Cuộc canh tân nội tâm, cuộc đổi mới tự bên trong này được thực hiện cho chúng ta, nhờ công nghiệp Chúa Giêsu, vào lúc chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội, dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
Chính vì thế, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta sẽ nói, không phải chỉ ở trên môi miệng mà còn ở thẳm sâu cõi lòng: Sáng danh Đức Chúa Cha Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần.
Bởi đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí tích Rửa tội, vì nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hơn nữa, Bí tích Rửa tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là đieu mà dấu thánh giá nhắc nhở cho chúng ta.
Thực vậy, khi làm dấu thánh giá, chúng ta hãy nhủ thầm: Tôi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý Chúa Cha, thực hien những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi ngày hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành tránh dữ, trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh.
Tại sao trong ngày hôm nay chúng ta không cầu xin cho được trung thành với những lời chúng ta đã đoan hứa trong ngày chịu phép rửa tội. Nếu chúng ta đã tuân giữ, thì thật là may mắn vì hạnh phúc nước trời đang chờ đón chúng ta, bằng không, thì thật là bất hạnh vì án phạt đời đời sẽ đè nặng trên chúng ta. Hãy nhớ lại lời đoan hứa mà cha mẹ đỡ đầu, thay mặt cho chúng ta đã nói lên trong ngày chúng ta chịu phép rửa tội. Toi muốn là người con ngoan của Chúa Cha, người môn đệ trung thành của Chúa Giêsu, và người học trò nhỏ của Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay, chúng ta không có cơ hội lấy máu đào, lấy mạng sống để làm chứng cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Nhưng trong cuộc sống, chúng ta có quá nhiều vấn vương, qúa nhiều níu kéo, quá nhiều cám dỗ, đòi buộc chúng ta phải thắng vượt, nếu chúng ta muốn trung thành với Chúa.
Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen làm dấu thánh giá một cách trang nghiêm và sốt sắng, để tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế và cứu độ chúng ta. Đồng thời hãy nhớ lại và tuân giữ nghiêm chỉnh những gì chúng ta đã đoan hứa trong ngày chúng ta chịu phép rửa tội.
Xin Chúa Cha toàn năng gìn giữ chúng ta. Xin Chúa Con đổ đầy tình yêu của Ngài trong lòng chúng ta và xin Chúa Thánh Thần luôn luôn soi sáng và hướng dẫn chúng ta trên đường nẻo dẫn tới quê trời.

67. Tình yêu
Giáo lý về Chúa Ba Ngôi là một phần giáo lý rất cao siêu. Nhưng Kinh Thánh không dạy một giáo thuyết khi nói về Thiên Chúa. Qua các câu chuyện Kinh Thánh nói cho chúng ta biết về một Thiên Chúa là Cha nhân từ, nhưng cũng là một Đấng Tạo Hóa Toàn Năng đã dựng nên trời đất muôn vật. Một vài đoạn Kinh Thánh khác cũng cho thấy Thiên Chúa như một người mẹ hiền. Thiên Chúa đã trở nên một con người trong Đức Giêsu Kitô, Đấng là Con Thiên Chúa, và Ngài cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha. “Người Con” này nói cho chúng ta biết về Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được Chúa Cha và Chúa Con cử đến.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta tìm thấy công thức mà chúng ta vẫn sử dụng hàng ngày để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như vậy, Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa như một cộng đồng của tình yêu.
Vì Thiên Chúa là tình yêu nên Thiên Chúa không hiện hữu trong sự cô độc. Chúa Cha trao ban tất cả cho Chúa Con và Chúa Con Dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Chúa Thánh Thần là tình yêu nối kết giữa Cha và Con để hình thành một cộng đồng Ba Ngoi. Trong cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, tình yêu của Chúa Cha được Chúa Con đón nhận và dâng hiến trở lại. Tình yêu hỗ tương giữa Cha và Con được trải rộng nhờ Chúa Thánh Thần để tạo nên một cộng đồng của tình yêu.
Bản chất của tình yêu là lan tràn. Vì thế, việc tạo dựng vũ trụ được xem như kết quả của tình yêu tràn trề của Thiên Chúa. Tất cả mọi thụ tạo và đặc biệt là con người được coi như đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Trong tất cả mọi loài thụ tạo, con người gần gũi với Thiên Chúa hơn cả trong cách sống và tình yêu.
Nhưng con người vì một phần được tạo nên bởi vật chất, nên không có khả năng mở ra trọn vẹn cho người khác trong một tình yêu vị tha hoàn hảo được. Vì thế, Thiên Chúa đã trở nên con người trong Đức Giêsu Kitô để nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà cho con người vượt lên, đi vào một tương quan tình yêu tự do và vị tha với Thiên Chúa và với người khác. Được tái sinh trong phép rửa nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta được trao phó nhiệm vụ là trở nên tấm gương phản chiếu cộng đồng tình yêu của Chúa Ba Ngôi trong đời sống cá nhân cũng như cộng đoàn của chúng ta, một trách nhiệm lớn lao.
Lạy Chúa Ba Ngôi, con cảm tạ Chúa đã lôi kéo con vào trong tình yêu của Chúa. Xin cho con cũng biết yêu thương như Chúa đã yêu thương.

68. Hiệp thông
Sau khi mùa Phục Sinh chấm dứt với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội dành riêng để mời gọi người Kitô hữu suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết, chúng ta có thể qua quyết: Chúng ta không thể biết gì về Chúa Ba Ngôi nếu chính Chúa Giêsu không dạy bảo cho chúng ta. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không giảng bài nào, cũng không dùng hình ảnh nào để giải nghĩa cho chúng ta về đời sống hiệp thông giữa Ba Ngôi, nhưng có những sự việc và hoạt động cụ thể bày tỏ cho chúng ta biết có ba ngôi, hoạt động của từng ngôi và đời sống hiệp thông giữa ba ngôi, dựa theo diễn tiến cuộc đời Chúa Giêsu.
Công việc đầu tiên trong Tin Mừng cho biết về Chúa Ba Ngôi là khi sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thien Chúa”. Những lời đó cho chúng ta biết: Đấng tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giocđan thì trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu đậu xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Chim bồ câu chính Kinh Thánh đã cho biết là Chúa Thánh Thần, còn tiếng từ trời cao là tiếng Chúa Cha xác nhận và giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Trong hội đường ở Nagiarét, Chúa Giêsu đọc Kinh Thánh: “Thần Khí của Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi…” Thần Khí là Chúa Thánh Thần, còn tiếng “của Chúa” là Chúa Cha, cả hai sai Đức Giêsu đi loan báo Tin Mừng.
Khi 72 môn đệ đi truyền giáo về vui mừng báo cáo kết quả, thì Chúa Giêsu được Thánh Thần tác động, nên phấn khởi thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, là Chúa tể trời đất…” có đầy đủ ba ngôi.
Trong bữa tiệc ly, Chua Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bào Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bào Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Rửa tội cho muôn dân nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, nghĩa là làm phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, để được hiệp thông với sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngoài ra, sách Tin Mừng còn nói đến sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha trong việc cầu nguyện và thi hành ý Chúa Cha, và sự hiệp thông giữa Chúa Giêsu với Chúa Thánh Thần như: “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần… và Thánh Thần dẫn vào hoang địa, hoặc Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Qua những sự việc và hoạt động diễn tả mối hiệp thông giữa ba ngôi như trưng dẫn trên, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: có ba ngôi, ba ngôi cùng một bản tính, mỗi ngôi có tương giao khác nhau với hai ngôi kia và có sứ mệnh riêng biệt, nhưng ba ngôi không tách rời nhau trong bản tính cũng như trong hoạt động, nên ba ngôi chỉ la một Thiên Chúa duy nhất chứ không phải là ba Chúa. Như vậy, chúng ta tin chỉ có một Thiên Chúa trong ba ngôi, và ba ngôi chỉ là một Thiên Chúa, và có cùng một bản tính, nhưng ba ngôi khác biệt nhau thực sự chứ không phai chỉ là ba danh hiệu. Mỗi ngôi có tương giao với hai ngôi kia cùng thực hiện những công trình sáng tạo và cứu độ, nhưng Ngôi Con là Đức Giêsu thì nhập thể cứu chuộc, và ngôi Thánh Thần thì nối tiếp công trình cứu chuộc cua Chúa Giêsu, để đem mọi người về hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những điều trên đây là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm về bản tính của Thiên Chúa và cũng là tâm điểm của đức tin và đời sống người Kitô hữu. Quả thực, chúng ta đã được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi; tội lỗi chúng ta được tha thứ nhân danh Chúa Ba Ngôi; vợ chồng kết hôn do sự chúc phúc của Chúa Ba Ngôi; Chúa Ba Ngôi hiện diện trong hình bánh khi chúng ta rước lễ, vì ở đâu có Chúa Con thì ở đấy cũng có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần; chúng ta đón nhận sức mạnh của Chúa Ba Ngôi khi chịu phép Thêm sức; linh mục ban phép lành cho chúng ta cũng nhân danh Chúa Ba Ngôi; trên giường chờ đợi sự chết đến, linh mục phó linh hồn chúng ta cho Chúa Giêsu. Ngoài ra, Giáo hội còn dạy chúng ta trước khi làm hay sau khi làm một công việc gì chúng ta hãy làm nhân danh Chúa Ba Ngôi, để cầu xin, chúc tụng hay cam tạ Chúa. Vì thế, Giáo hội tập họp chúng ta nhân danh Chúa Ba Ngôi, Giáo hội khởi đầu và kết thúc mọi kinh nguyện nhân danh Chúa Ba Ngôi, hoặc như ông Te-tu-liên nói: “Dầu khi thức dậy hay đi ngủ, dầu khi ăn hay làm một việc gì, anh em hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Dấu thánh giá là biểu hiệu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bất cứ điều gì đã gọi là mầu nhiệm, tức là đã khó hiểu rồi, về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi lại càng khó hiểu hơn. Nhưng khó hiểu mà chúng ta vẫn tin, và cũng vì thế mà mọi việc làm của chúng ta và cả cuộc sống chúng ta có ý nghĩa và có giá trị. Xin Chúa cho chúng ta luôn tin vững chắc mọi điều Chúa và Giáo hội dạy.

69. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Nếu hiểu rằng mầu nhiệm là những gì chúng ta chưa thể hiểu thấu, thì quả thực đời sống của chúng ta bị chìm đắn, bị bao phủ bởi biết bao nhiêu mầu nhiệm.
Thực vậy, chúng ta băn khoăn thắc mắc về tương lai hau vận, để rồi có người đã đi hỏi ông thày bói, thế nhưng như tục ngữ đã diễn tả:
– Bói ra ma, quét nhà ra rác.
– Tay cầm tiền quí bo bo,
Đưa cho thày bói, thêm lo vào mình.
Rốt cuộc cũng chẳng giải quyết được gì. Hậu vận thì vẫn mịt mù, còn tương lai thì vẫn là một mầu nhiệm.
Chúng ta suy nghĩ về tình yêu, mà rồi cũng chẳng biết được cái tình là cái chi chi. Bao nhiêu người tôi gặp, bao nhiêu người tôi quen, mà sao trái tim tôi vẫn lạnh lùng băng giá. Thế rồi tới một lúc nào đó, trái tim tôi lại “lúc lắc” và chỉ lúc lắc với một người nào đó. Và tình yêu mãi mãi vẫn còn là một mầu nhiệm.
Ngoài ra, còn biết bao mầu nhiệm khác nữa. Nào là mầu nhiệm ve sự sống, mầu nhiệm về sự chết, mầu nhiệm về thiên nhiên, mầu nhiệm về con người…Chúng ta cố gắng tìm tòi để thỏa mãn phần nào nhu cầu hiểu biết, cũng như để hạnh phúc cuộc đời được bảo đảm hơn.
Thế nhưng, có một mau nhiệm rất quan trọng, khả dĩ có thể đem lại cho chúng ta lời giải đáp về số mệnh, về cuộc sống, mà chúng ta lại quên lãng, đó chính là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Đây quả thực là một mầu nhiệm tuyệt vời, đến nỗi thánh Phaolô đã phải kêu lên:
– Ôi thẳm sâu thay sự khôn ngoan và phong phú của Thiên Chúa. Đường lối của Ngài cao cả lắm thay.
Ngày nay, mặc dù nhiều người không chối bỏ Thiên Chúa, nhưng lại coi Thiên Chúa như là đã chết, không còn tác động và ảnh hưởng tới sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Đó chỉ là một vị Thiên Chúa vừa trừu tượng lại vừa xa lạ, bị đóng băng vào trong những ý niệm mang tính cách triết học.
Nhưng với chúng ta thì khác. Thiên Chúa vẫn còn mãi và Ngài luôn hiện diện. Ngài đã vén bức màn che phủ để hé mở cho chúng ta được hiểu biết về Ngài. Việc mạc khải, việc hé mở này được thự hiện nhờ Đức Kitô.
Thực vậy, nhờ Đức Kitô, chúng ta biết được rằng có một Thiên Chúa và Ngài có ba ngôi. Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, Đng đã dựng nên chúng ta. Ngôi thứ hai là Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc chúng ta và Ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa chúng ta.
Hơn thế nữa, cũng nhờ Đức Kitô chúng ta còn biết được rằng Thiên Chúa chính là một người cha hằng yêu thương, chăm sóc chúng ta cũng như lo lắng đến tương lại của chúng ta.
Phải chăng tâm trạng của chúng ta cũng giống như tâm trạng của các tông đồ khi lên tiếng hỏi Chúa Giêsu:
– Xin Thày chỉ cho chúng con biết Chúa Cha.
Và Chúa Giêsu đã trả lời:
– Ai thấy Thày là thấy Cha.
Như vậy, Thiên Chúa Cha đã tỏ mình ra nơi Đức Kitô. Và cùng với Đức Kitô, chúng ta có thể mừng vui kêu lên rằng: Abba, cha ơi.
Trong một trận cuồng phong, con thuyền chao qua đảo lại, khiến mọi hành khách đều khiếp sợ, tuy nhiên có một em nhỏ vẫn bình tĩnh ngồi chơi trong một xó góc. Người ta hỏi em:
– Tại sao em không sợ hãi.
Em trả lời:
– Làm sao cháu có thể sợ hãi khi chính ba cháu là người đang điều khiển con tàu.
Cũng thế, tại một thành phố nọ đã xảy ra động đất dữ dội, mọi người đều run sợ kinh hoàng. Thế nhưng, có một bà cụ rất bình tĩnh đi lại chăm sóc cho các nạn nhân, mặc dù nhà của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao, bà trả lời:
– Không khi nào tôi run sợ, trái lại tôi luôn bình an, bởi vì Thien Chúa là Cha của tôi, Ngài có thể lay chuyển cả nền móng trái đất.
Hãy xác tín rằng: Thiên Chúa là Cha nân từ. Ngài nắm giữ toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta trong bàn tay đầy quyền năng và yêu thương của Ngài.

70. Chúa Nhật Ba Ngôi
1. Chúng ta thường nghe câu ca dao quen thuộc nói về đời sống hôn nhân và gia đình: “Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”, vợ chồng cần phải có những điểm chung, nhưng cũng phải có những điểm riêng biệt, hoà hợp trong dị biệt là điều cần thiết trong đời sống hôn nhân nói riêng và đời sống con người nói chung. Sự hiệp nhất này muốn được bền vững phải được khởi nguồn và theo gương của Thiên Chua Ba Ngôi.
2. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu, là một điều vượt quá sự hiểu biết của loài người, nhưng chúng ta vững tin vào chân lý này, bởi đây là điều chính Đức Giêsu đã dạy chúng ta. Đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe kể lại việc Đức Giêsu Phục Sinh hẹn các môn đệ đến một ngọn núi miền Galilê. Ở đó Người tuyên bố rằng: Người đã được Chúa Cha trao cho toàn quyen trên trời dưới đất và Người sai các ông đi khắp nơi thâu nạp môn đệ, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần “,
Trong khi rao giảng bằng nhiều lần và nhiều cách Đức Giêsu đã mạc khải mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy rất rõ về mầu nhiệm này: chỉ có một Thiên Chúa là Tình Yêu (1 Ga 4,7.16), nhưng Người có Ba Ngôi riêng biệt: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Vì Ba Ngôi cùng chung một bản tính Thiên Chúa và cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi không có vấn đề Ngôi nào lớn hơn.
Chúng ta thường nghĩ tín điều Ba Ngôi quá khô khan, như một công thức toán học: Ba Ngôi một Chúa, một Chúa Ba Ngôi. Nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta dễ thấy đây không phải là một công thức khô khan, mà là suối nguồn yêu thương, hiệp nhất trong đó mỗi Ngôi vẫn giữ đặc nét của mình. Tình yêu và sức sống của Ba Ngôi được lan toả cho cả vũ trụ vạn vật, nhất là cho con người của chúng ta.
3. Xã hội, gia đình ngày hôm nay dễ bị xáo trộn, bất đồng… tại sao, hẳn do nhiều nguyên nhân, trong đó chính yếu là do thiếu sự thông cảm, hiểu biết nhau. Quốc gia, đoàn thể, cá nhân thường chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình là trên hết, bất chấp đến nước khác, nhóm khác, người khác.
Vậy hãy nhìn vào Thiên Chúa Ba Ngôi là mẫu gương ve hiệp nhất: Ba Ngôi một Chúa, một sự hiệp nhất trong tình yêu, vì mỗi Ngôi quá sức yêu thương hai Ngôi kia nên đã trở nên một. Cũng vậy, nếu loài người biết lấy tình thương đối với nhau, biết đặt quyền lợi của kẻ khác không dưới quyền lợi của mình, hẳn chắc là không có hận thù, chiến tranh, giết chóc… Nếu trong cộng đoàn hay trong gia đình người này biết lo cho người kia, nghĩ đến ý muốn, hạnh phúc của người kia – như Ba Ngôi hướng về nhau, luôn làm đẹp lòng nhau – thì chắc sẽ tạo dựng được một cộng đoàn, một gia đình hạnh phúc dù cho có nhiều thành viên trong đó. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi nên một, cũng vậy theo gương Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đời song hôn nhân gia đình hay cộng đoàn, nếu các thành viên thực sự có bác ái, yêu thương thì mọi sinh hoạt hằng ngày hẳn sẽ được tốt đẹp, như chúng ta thường nghe nói: “Thống nhất trong việc lớn, tương nhượng trong việc nhỏ, bac ái trong mọi việc”.
Cách chung, ai cũng muốn mình có một vị thế nơi xã hội, cộng đoàn, gia đình. Vậy sự hiệp nhất có làm mất đi sự đặc thù, riêng biệt của cá nhân hay không? Hãy nhìn vào Thiên Chúa Ba Ngôi: vì không tach rời trong hữu thể, nên các Ngôi không tách rời trong hành động, tuy nhiên mỗi Ngôi biểu lộ đặc tính riêng của mình, như vậy vừa có sự hiệp nhất; nhưng vẫn có sự riêng biệt, Hội thánh vẫn tuyên xưng “Một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành mọi sự, một Đức Giêsu Kitô, cùng đích của mọi sự, và một Chúa Thánh Thần, trong Người muôn vật được hiện hữu”, (x. Cđ Constantinople II: DS 421).
Hay trong các lớp giáo lý, chúng ta vẫn nghe nói: Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta. Sự riêng biệt này nhắc nhở từng người trong chúng ta phải cố gắng lo chu toàn bổn phận của mình, sống đúng vai trò của mình. Là vợ, là chồng phải yêu thương, trung thành, chung thủy với nhau. Là cha, mẹ phải sống đúng tư cách và cố gắng làm bổn phận của người cha, mẹ. Là con cái cũng phải sống đúng vai trò và phận vụ của người con như vâng lời, hiếu thảo… nếu song như thế mới thật là “chính danh” và “chính phận”.
4. Nhờ bí tích Rửa tội, nhân danh “Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, mỗi chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống của Ba Ngôi diễm phúc, kể từ đó ta có “chính danh” là Kitô hữu; nhưng ta có thực hiện “chính phận” không, nghĩa là có cố gắng sống xứng đáng là người con Chúa hay không (x. Ga 14,29)?Có sống yêu thương, hiệp nhất ngay cả với người thân, gần gủi với mình hay không? Không những chúng ta được mời gọi dự phần vào sự sống của Ba Ngôi, mà theo lệnh truyền của Đức Giêsu, như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, mỗi người chúng ta còn có nhiệm vụ đem sự sống viên mãn của Chúa Ba Ngôi đến cho tha nhân nữa. Chúng ta đã làm gì để cộng tác với Thiên Chúa Ba Ngôi trong chương trình cứu độ này?

71. Yêu thương và hiệp nhất
Gần đây, sau khi bản Nghi Thức Thánh Lễ mới được HĐGMVN công bố cho thi hành trên toàn quốc, nhiều ý kiến khác nhau đã được bày tỏ liên quan đến nội dung dịch thuật và một số từ ngữ thần học và phụng vụ được sử dụng trong Bản Nghi Thức mới này. Trước hết là phần mở đầu Thánh Lễ, chủ tế làm dấu Thánh Giá với công thức “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Công thức này đã được dùng lại từ bản nghi thức cũ xuất bản năm 1969, nhưng khác với công thức của Bản thứ hai năm 1992 như sau: “Nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Lý do thay đổi được đưa ra là để tránh sự lầm lẫn về “Ba Chúa” có thể gây ra trong công thức của bản 1992, tức là muốn nhấn mạnh đến sự kiện chỉ có Một Thiên Chúa với Ba Ngôi Vị “đồng một bản thể và uy quyền” như Giáo Hội tuyên xưng trong kinh Tin Kính của Công đồng Nicene. Chi tiết quan trọng này rất thích hợp để chúng ta suy niệm về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi trong Chúa Nhật hôm nay.
Có thể nói: Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn nhất của đạo Công Giáo được Chúa Giêsu thiết lập cách nay trên 2000 năm. Xưa kia, các Thánh Giáo Phụ, đặc biệt là Thánh Augustinô đã suy niệm nhiều về mầu nhiệm này nhưng đã không thể nào tìm ra được lời giải đáp nào ngoài xác tín đó là mầu nhiệm phải tin mà thôi.
Trước hết, mầu nhiệm này đã không được mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước, có lẽ để tránh bối rối cho dân Do Thái vốn quen với não trạng “độc thần”, cho phép họ chỉ tôn thờ một Thiên Chúa Giavê là Cha của các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp, và cũng là Thiên Chúa đã giải phóng họ qua bàn tay ông Môisen khỏi ách thống khổ bên Ai Cập để trở về quê hương an toàn.
Trong bài đọc 1 hôm nay, Môisen đã nhắc lại cho dân Do Thái ghi nhớ và suy niệm rằng: “Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy, anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em” (Đnl 4, 39-40).
Ngược lại trong Kinh Thánh Tân Ước, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được mặc khải rõ ràng cho nhân loại lần đầu tiên qua trình thuật Chúa Giêsu nhận phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan, nơi đây “Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu” và tiếng nói của Chúa Cha lần đầu được nghe từ trời cao phán ra: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (x. Mt 3, 13-17; Mc 1, 9-11; Lc 3, 21-22).
Tiếng Chúa Cha lại được nghe thêm một lần nữa khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mắt ba Tông Đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê: “Đây là Con Ta yêu dấu hằng đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5). Đặc biệt trong bài Tin Mừng Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu đã minh nhiên nói đến Ba Ngôi Thiên Chúa khi Người truyền cho các Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ và rửa tội cho muôn dân “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Những lời này của Chúa Giêsu đã vén mở cho chúng ta biết về Ba Ngôi đồng bản thể trong một Thiên Chúa duy nhất mà Giáo Hội long trọng mừng lễ hôm nay.
Ba Ngôi Vị nhưng cùng một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện, uy quyền và đầy yêu thương. Mặt khác, mầu nhiệm Ba trong Một cũng diễn tả cách siêu hình cho chúng ta biết về bản chất của Giáo Hội là tuy có nhiều thành phần khác nhau: về dân tộc, địa vị, tuổi tác, phái tính… nhưng chỉ quy kết về một đích điểm, đó là cùng một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên và cứu chuộc con người chỉ vì yêu thương và tha thứ. Do đó, khi chúng ta tuyên xưng và sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì đòi hỏi chúng ta cũng phải mạnh mẽ san bằng mọi dị biệt, mọi bất đồng, mọi chia rẽ và mọi trở ngại để trở nên một trong yêu thương và an hòa với nhau như Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa tình thương và hiệp nhất.
Thành thử ra, khi cử hành mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Do đó, đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống với, sống vì và sống cho người khác. Nói cách khác, Giáo Hội kêu gọi chúng ta hãy sống hiến thân cho tha nhân, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, cũng đừng có những thái độ chia rẽ nhau, nhưng hãy yêu thương và tôn trọng những khác biệt của nhau. Có như vậy, chúng ta mới diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa, đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Chính vì thế, trong Thánh Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống yêu thương và hiệp nhất với nhau trong cộng đoàn họ đạo, trong gia đình của mỗi chúng ta. Và sống yêu thương nhau cũng là cách thế tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi trong đời sống của mình. Amen.

72. Mầu nhiệm tình yêu
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào, dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm này. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần, tức là Ngài đã dần dần vén lên bức màn của mầu nhiệm này.
Ngài cho biết; Chúa Cha là Thiên Chúa, còn ngài là Con Một cua Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, nghĩa là Ngài cùng bản tính với Chúa Cha, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng Ngài và Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm và mãi mãi vẫn là mầu nhiệm. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại mạc khai cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tượng chặn đứng suy luận và óc tưởng tưởng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, nghĩa là ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa khong từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban con yêu dấu của Ngài để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời, Ngài đã sai Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Cho nên, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội Không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không khép kín lại trong Ba Ngôi, nhưng đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuoc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
Ngày kia, có một đan viện phụ tìm đến một thiền sư. Vị đan viện phụ buồn rầu cho biết tình trạng bi đát của tu viện mình và xin ý kiến. Trước đây, tu viện là một trung tâm hành hương lớn, thu hút không biết bao nhiêu tâm hồn mộ đạo. Nhưng bây giờ tu viện gần như đã trở thành ngôi chùa trống vắng. Nghe xong vị thiền sư nói: “Tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn là tội vô tình. Thiên Chúa đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”. Khi biết điều đó, trong tu viện, mọi người đều thắc mắc không biết ai trong số những thành viên của tu viện là Thiên Chúa đã cải trang. Và từ đó ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện.
Mạc khải lớn nhất mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, đó là Thiên Chúa Cha yêu thương chúng ta vô cùng. Tình yêu của Ngài là một lời mời gọi. Ngài muốn chúng ta lên đường, nói theo Con Một của Ngài: sống yêu thương nhau, vì tất cả đều là anh chị em, con cùng một Cha. Thiên Chúa hằng mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc sống của Ngài, cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, một cuộc sống của tình yêu thương, có nghĩa là Ngài kêu gọi chúng ta hãy sống hien thân cho anh em, đừng sống ích kỷ cho riêng mình, nhưng hãy mở rộng đôi tay, mở rộng tầm nhìn, nới dài đôi chân và mở rộng tấm lòng đến với mọi người chung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngoi, bằng cách sống yêu thương nhau. Và sống yêu thương nhau là cách thế tuyên xưng mầu nhiêm Chúa Ba Ngôi vậy.

73. Ở cùng anh em
Đôi khi, một người chăm sóc có thể làm cho một người nào đó, chỉ là sự hiện diện bên người này mà thôi. Nhưng đây là một điều quan trọng, bởi vì giúp cho người đang đau khổ có được một quan hệ đồng hành vững vàng. Để nhận biết được điều này, chúng ta phải nhận biết có một Đấng luôn săn sóc con người, làm cho thế giới khác biệt hẳn, giải thoát người đau khổ khỏi cảm giác bị bỏ rơi.
Đức Giêsu ủy thác cho các tông đồ của Người sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc, Người còn nói với họ là sẽ luôn luôn ở cùng họ. Đo là tất cả những gì mà Người có thể hứa hẹn với họ. Người nói một cách đơn giản “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em… cho đến tận thế”. Không còn lời đảm bảo nào khác nữa, mà chỉ là “Anh em hãy tin tưởng vào Thầy. Thầy sẽ luôn ở cùng anh em”.
Nhưng đây là lời đảm bảo quan trọng nhất, mà Người có thể ban cho họ. Mặc dù lời nói này không đảm bảo tránh cho họ một cuộc sống khỏi bị rắc rối, và cũng không mang lại cho họ một cuộc sống thành công; họ biết rằng miễn là Đức Giêsu ở với họ, thì họ sẽ có lòng can đảm và sức mạnh, để đương đầu với bất cứ khó khăn nào ở phía trước.
Đối với chúng ta, cảm giác về sự hiện diện của Đức Giêsu ở với chúng ta không làm thay đổi được thế giới, nhưng sự hiện diện của Người có thể ban cho chúng ta lòng can đảm để đương đầu với thế giới. Chúng ta không cầu xin Thiên Chúa thay đổi thế giới, để làm cho cuộc sống dễ dàng hơn đối với chúng ta, trong khi chúng ta đang đối phó với một số hoàn cảnh khó khăn mà thôi. Sự gần gũi của Thiên Chúa che chở chúng ta khỏi cảm giác bị bỏ rơi thất vọng.
Theo truyền thống Kinh Thánh, Credo (Kinh Tin Kính) của những người đạo đức là niềm tin vững vàng của họ vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi họ. Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ những người ngay chính, nhưng Người ban cho họ phần thưởng ở cuộc sống mai sau.
Theo thời gian, không phải lúc nào những người đi theo Đức Giêsu cũng luôn luôn cư xử với nhau theo cách thế mà các Kitô hữu nên làm. Đã có những cuộc cãi vã nhau giữa họ, đưa đến hậu quả là ngày nay, chúng ta không chỉ có một Giáo hội Công giáo, mà còn có đến mấy Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, bất chấp những sa ngã của những kẻ đi theo Người, và nhiều cuộc bắt bớ khủng khiếp. Tin Mừng vẫn đến với chúng ta qua 2000 năm. câu giải nghĩa cho điều này chắc chắn nam ở lời hứa của Đức Giêsu “Thầy sẽ luôn ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng ở với Thiên Chúa. Cuộc sống bận rộn của chúng ta làm cho chúng ta mất quan hệ với Thiên Chúa. Khi mất quan hệ với Người, thì nơi chúng ta, xảy ra một sự mất mát rất lớn. Chúng ta nên chú tâm vun xới ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, và nuôi dưỡng ý thức này bằng lời cau nguyện.

74. Tin tưởng
Người ta tìm thấy lời cầu nguyện sau đây trên xác của một người lính trẻ, đã bị tử nạn trong thế chiến I:
“Lạy Thiên Chúa, trước đây con chưa bao giờ nói chuyện với Chúa, nhưng nay con muốn được kính chào Người. Người ta nói với con rằng Chúa không hề hiện hữu, và giống như một kẻ điên rồ, con đã tin vào điều đó. Nhưng đêm hôm qua, con nhìn lên bầu trời qua một cái lỗ của quả đạn pháo. Khi nhìn thấy vẻ đẹp của các ngôi sao, con nghĩ rằng vũ trụ thật bao la. Con biết rằng người ta đã nói dối con.
“Con thắc mắc không biết Chúa có bắt tay với con, khi chúng ta gặp nhau không? Không biết bằng cách nào, mà con cảm thấy rằng Chúa thấu hieu tất cả những sa ngã của con. Thật kỳ lạ, khi con người phải đến cái nơi khủng khiếp này, thì mới nhận ra được Người. Con sẽ làm gì trước cảm giác này đây?
“Không có gì để nói nhiều hơn nữa, nhưng con biết chắc chắn rằng con vui mừng vì hôm nay, con được nhận biết Chúa. Con cảm thấy rằng chẳng bao lâu, giờ quyết định sẽ xuất phát từ nơi đây. Đây là một cuộc chiến đấu khủng khiếp. Ai biết rằng chỉ có con sẽ đến nhà của Người trong đêm nay.
Con đang kêu gào! Ôi con đang kêu gào! Con không bao giờ nghĩ rằng điều này có thể xảy đến với con. Bây giờ con phải ra đi. Thật kỳ lạ, kể từ khi con được gặp Chúa, con không còn sợ chết nữa”.
Thật đáng buồn vì người lính trẻ đó nhận biết Thiên Chúa quá trễ. Nhưng người ta nói rằng thà trễ còn hơn là không bao giờ. Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát quá lớn. Tác giả Salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Khi con người mất quan hệ với Thiên Chúa, thì phần lỗi không thuộc ve Thiên Chúa. Bài đọc 1 chứng tỏ rằng Thiên Chúa đã đi vào một mối quan hệ thân mật và đầy yêu thương đối với dân của Người. Trong bài đọc 2, mối quan hệ này thậm chí lại càng trở nên thân mật hơn. Chúng ta không chỉ là những thành viên của dân Thiên Chúa, mà còn là con cái, là những thành viên trong gia đình của Người. Mặc dù mối quan hệ gia đình có sự ràng buộc, nhưng các ân sủng tuôn chảy từ mối quan hệ này thật lớn lao. Chúng ta là những kẻ đồng thừa tự với Chúa Con trong nước trời.
Chúng ta thật cô đơn, nếu không biết Thiên Chúa. Con người tìm kiếm sự an toàn nơi sự giàu có, những của cải sở hữu, các mối tương quan v.v…Nhưng Thiên Chúa chính là nơi nương ẩn cuối cùng. Những ai để cho Thiên Chúa chi phối, thì bắt đầu được cảm nếm sự an bình không thể hiểu hết được. Con người không thể sống hạnh phúc, trừ phi có lòng đạo đức, và người ta không thể sống đạo đức được, nếu không có Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã vén mở bức màn về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta không còn ở xa nữa, mà đã được đưa vào gia đình của Thiên Chúa. Chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng an ủi luôn hướng dẫn chúng ta suốt hành trình đến cuộc sống đời đời.

75. Cửa sổ
Một người đàn ông bị bắt giam vào nhà tù. Ông ta chỉ được nhìn ra thế giới bên ngoài, thông qua một cửa sổ nhỏ cao trên tường. Lúc đầu, ông ta ghét cảnh bị giam hãm, và coi thường tầm nhìn khốn khổ mà ông ta có về thế giới bên ngoài, đó là thế giới duy nhất mà ông ta tin tưởng.
Nhưng thời gian qua đi, và cái cửa sổ nhỏ đó đã trở thành một người bạn của ông. Thật vậy, mặc dù nó chỉ cho ông một mẩu cuộc sống nhỏ xíu – một làn mây, một máy bay vụt bay qua, một chiếc lá rơi, một giọt nước mưa, một bông tuyết…, nhưng ông nhận ra rằng nó không phải là một đồ vật xấu xa gì. Ô cửa sổ đó bắt buộc ông phải tập trung vào những điểm đặc biệt, và biến cái nhỏ nhoi trở thành cái lớn lao. Ông kinh ngạc khám phá ra rằng thông qua một mẩu vật nhỏ bé như thế, làm thế nào mà cuộc sống lại có thể thật phong phú đến thế. “Nhìn qua một khe hở, không lạ gì khi có cả một bầu trời quá rộng lớn ở đó” (Patrick Kavanagh).
Đôi khi, khung cảnh từ cửa sổ lại nông cạn và mờ đục. Dường như thế giới kết thúc ngay tại khung cửa sổ. Nhưng những lúc khác, cửa sổ lại mở ra một bầu trời trong xanh và trống trải. Thế rồi cửa sổ còn mở vào cõi vô biên, và ông cảm thấy ben trong con người ông bừng tỉnh những ước muốn siêu việt, mà ông không bao giờ biết rằng những ước muốn này muốn có ở đó. Vì thế, cái cửa sổ đó đã giúp ông đánh giá được những sự vật ở trên cõi trời, cũng như ở dưới mặt đất.
Cuối cùng, ông được phóng thích. Tất nhiên là khi được phóng thích, ông sẽ có được nhiều thứ. Bây giờ, tất cả mọi sự đều sẵn có đối với ông. Nhưng ông lại có khuynh hướng nhìn vào tất cả mọi sự một cách chung chung, và không có gì là đặc biệt cả. Và ông cũng cảm thấy là mình bị mất mát. Ở trong tù, ông có được một chiều kích siêu việt về cuộc sống của mình. Thế giới, “bên ngoài” rất quan trọng đối với ông. Ông gia tang tình yêu đối với cảm giác rằng có một thế giới khác vĩ đại hơn nhiều, so với thế giới hiện tại của ông. Hiện nay, ông e sợ rằng một khi đã bị nhận chìm do sự tầm thường, thì cảm giác này, ước muốn này sẽ quay trở lại với giấc ngủ im lìm, hoặc sẽ chết đi vì sự thờ ơ.
Đức tin cung cấp cho chúng ta một khung cửa sổ để nhìn ra bên ngoài. Đức tin mở ra cho chúng ta một lối đi đến một thế giới khác – thế giới của cõi đời đời, thế giới của Thiên Chúa. Nhưng sự bận bịu của chúng ta đối với cuộc sống tại – đây – và – trong – lúc này có thể tước đoạt của chúng ta “bên ngoài”, có thể kéo một bức màn che mất khung cửa sổ. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có the chôn vùi những ước muốn siêu việt của mình, nhưng chúng ta không thể dập tắt chúng được.
Khi chúng ta tự cho phép mình đánh mất quan hệ với Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra một sự mất mát rất lớn. Tác giả salman Rushdie nói “Khi tôi còn trẻ, tôi sống đạo đức một cách không có ý thức. Nhưng hiện nay thì không, tôi đã có ý thức về khoảng không gian nơi Thiên Chúa ngự”.
Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có ước muốn chiếm hữu được một cái gì đó ở bên ngoài thế giới mà chúng ta đã biết, bên ngoài bản thân chúng ta, thậm chí vượt ra khỏi sức tưởng tượng của chúng ta. Đây là nơi mà đức tin của chúng ta vươn tới.
Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Thiên Chúa là Cha, chúng ta có một Người Cha luôn quan tâm săn sóc chúng ta, chúng ta có một Người Anh Cả đã chịu chết vì chúng ta, và có một Đấng An ủi luôn hướng dẫn chúng ta đến với vương quốc vĩnh cửu.

76. Dấu Thánh Giá
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Tertulianô đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phaolô cũng thường mở đầu và kết thuc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoai để tuyên xưng đức tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu thánh giá bên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc biệt hôm nay chúng ta đề cap đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có Ba ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm về đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chua là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình ảnh, ý nghĩa, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm hop nhiều công đồng để xác định rõ đức tin của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439.
Mầu nhiệm Ba Ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lap lại nhiều lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.

77. Tình yêu.
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Hay nói cách khác Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi tình yêu, Thiên Chúa la mẫu mực cho mọi tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu có nghĩa là không có nơi nào tình yêu được trọn vẹn hoàn hảo cho bằng tình yêu nơi Thiên Chúa. Vì thế suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa có thể giúp ta rút ra được những gương mẫu cho tình yêu loài người.
Vậy hôm nay, dịp lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy suy gẫm về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc điểm gì?
1. Đặc điểm thứ nhất là tình yêu của Thiên Chúa không cô độc.
– Thiên Chúa không phải chỉ có một Ngôi tự yêu thương mình, nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi yêu thương nhau.
– Điều đó cho thấy yêu thương phải có đối tượng. Yêu thương thì là phải yêu thương ai khác mình, ngoài mình. Yêu thương không co đối tượng là yêu thương chính mình, đó là ích kỷ, nếu không muốn nói là bệnh hoạn. Ngày xưa có một anh chàng tên là Narcisse không yêu thương ai hết ngoài chính bản thân anh ta, anh yêu mình đến nỗi một hôm nhìn thấy bóng dáng mình phản chiếu trên mặt nước một cái giếng, anh xúc động quá nhảy tùm xuống giếng để ôm lấy hình ảnh của mình và phải chết đuối. Về sau người ta đặt tên chứng bệnh tự yêu thương mình là chứng bệnh Narcisse.
– Nhưng tại sao yêu thương cần phải có đối tượng? Thưa cần có đối tượng để mà chăm sóc, phục vụ, âu yếm, ban phát… nói tóm lại để mà cho đi. Yêu thương là cho đi. Khi ta yêu thương ai, ta thích cho người đó hoặc cái này hoặc cái nọ: khi thì cho một món quà, khi thì cho một sự chăm sóc, khi thì cho một cử chỉ âu yếm, yêu thương cao độ nhất là cho người ấy chính bản thân mình. Cho đi thì hạnh phúc hơn là lãnh nhận. Vì thế ai yêu thương thật thì thích cho đi, trái lại kẻ nào thích lãnh nhận hơn thì là dấu kẻ đó còn ích kỷ chưa yêu thương thật.
2. Đặc điểm thứ hai của tình yêu Thiên Chúa là vừa có sự khác biệt vừa có sự hợp nhất.
– Chỉ có một Thiên Chúa nhưng lại có Ba Ngôi. Tuy có 3 Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa.
– Có câu thơ “Mình với ta tuy 2 mà 1, ta với mình tuy 1 mà 2”.
Ap dụng vào tình yêu Thiên Chúa thì câu này có thể đổi lại là: Mình với ta tuy 3 mà 1”, hơi gượng ép một chút nhưng cũng đồng một ý nghĩa.
– Ý nghĩa đó là: Thiên Chúa có ba Ngôi hoàn toàn riêng biệt nhau: Ngôi Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngôi Con là Đấng cứu chuộc loài người và Ngôi Thánh Thần là Đấng thánh hóa loài người. Nhưng dù khác biệt nhau mà Ba Ngôi không đối nghịch nhau, trái lại hoàn toàn hợp nhất với nhau đến nỗi cả 3 chỉ là 1 Thiên Chúa.
– Điều đó có nghĩa là: Yêu thương thì phải chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau. Tuy nhiên những kẻ yêu thương nhau thì cho dù khác biệt nhưng không được đối nghịch xung khắc với nhau, mà phải hòa hợp với nhau.
Xin tóm lại những gì đã phân tích được từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi:
. Yêu thương là cho đi.
. Yêu thương là chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau.
. Yêu thương là dù có khác biệt nhưng vẫn hòa hợp với nhau.

78. Ba bộ mặt
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đo đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thien Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao – dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: “Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?”
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.

79. Lễ Chúa Ba Ngôi
THIÊN CHÚA BA NGÔI – MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Một thanh niên đến gặp cha sở và nêu thắc mắc xin giải đáp:
– Cha có tấm hình nào của Chúa Thánh Thần không. Mấy bức tranh vẽ Chúa Thánh Thần như chim bồ câu hoặc lưỡi lửa chẳng có ý nghĩa gì với con cả. Con muốn có một tấm hình của Chúa Thánh Thần để treo trong phòng và cầu nguyện với Ngài.
Cha sở ngẫm nghĩ một lát và nói với anh ta:
– Con có tấm hình nào của Chúa Giêsu không?
Anh mau mắn:
– Có chứ cha! Nhiều lắm, nào là Thánh Tâm Chúa, Chúa Chăn Chiên, Chúa Thương Xót, Chúa Chịu Nạn, con đều có đủ cả.
Cha sở gật gù:
– Con cứ về chiêm ngắm mấy hình đó cũng được. Chẳng phải Chúa Giêsu đã nói ‘ai thấy Thầy thì thấy Cha Thầy sao?’ Nếu ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha, thì ai chiêm ngắm Chúa Giesu cũng là thấy Chúa Thánh Thần. Không phải là Ba Ngôi chỉ có một bản tính thôi sao?
Người thanh niên vẫn còn ấm ức, có vẻ chưa được thuyết phục lắm. Thấy thế, cha sở hẹn anh tuần sau gặp lại. Đúng hẹn, anh ta đến và cha sở trao cho anh một khung hình bọc kín, ở ngoài có ghi hàng chữ: “Mỗi lần nhìn vào đây con phải nở nụ cười.” Mở ra, anh ta thấy có một tấm gương, trên khung có ghi: “Gặp gỡ Chúa Thánh Thần là gặp gỡ Chúa Kitô nội tại. Con chính là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Hãy nhìn vào khuôn mặt tươi vui của mình và ý thức rằng Ngài đang hiện diện trong con. Rồi con cố gắng sống thế nào để tỏ cho mọi người thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở trong con.”.
Trong Ba Ngôi Thiên Chúa nhiệm mầu, Chúa Thánh Thần là Đấng trừu tượng nhất, khó hình dung nhất, tuy gần nhưng thật xa. Tuy cụ thể như gió, như lửa, như hơi thở…. như những biểu tượng thật gần gũi trong đời sống con người nhưng lại khó mà nắm bắt trong thế giới hiện thực này.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trươc thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi, sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông noi già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy, sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tai của Thiên Chúa, vượt qúa mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6,4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1,32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1,11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu,ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống đong về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…” Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sư thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
Trong phúc âm, Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi.Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẽ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên,đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người la anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ,ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha. Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô. Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẽ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác “Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

80. Huyền nhiệm Tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Một sinh viên vô thần nói với một vị linh mục: thưa cha, tôi thấy trong Kitô giáo có một chân lý khó tin, lạ lùng gọi là “mầu nhiệm Ba Ngôi”. Phải hiểu thế nào kiểu nói “Thiên Chúa có một bản tính nhưng ba ngôi vị”? Một mà ba, ba mà một! Thật khó hiểu, nếu không nói là phi lý!.
Vị linh mục hỏi: Anh còn trẻ, chắc đang sống kinh nghiệm tình yêu?
Ủa! Sao cha hỏi lại thế? Đúng là tôi đang yêu thật!
Theo anh, tình yêu trước hết đòi hỏi phải có những gì?
Đòi hỏi phải có từ hai người trở lên! Tự ái chỉ là ích kỷ, không thể gọi là tình yêu được!
Đúng lắm! Nhưng tình yêu hướng đến cái gì?
Hướng đến sự hiệp nhất! Tất cả phải nên một! Tình yêu nam nữ hướng đến hiệp nhất tâm hồn, thể xác và cuộc sống. Tình đồng chí, tình bằng hữu… hướng đến hiệp nhất cuộc sống và tâm hồn!
Nhưng theo anh, sự hiệp nhất này có bao giờ đạt được chăng?
Phải nói ngay đó chỉ là ước vọng. Ví dụ, những năm đầu cuộc sống hôn nhân thì “anh nói em nghe, em nói anh nghe”, nhưng năm sau thì “cả hai cùng nói, hàng xóm nghe!”. Trong một tập thể nhiều người, đồng tâm nhất trí lại càng khó thực hiện.
Cái chỉ là ước vọng nơi con người, thì đã thành hiện thực nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa độc nhất, nhưng vì Ngài là Tình Yêu nên có Ba Ngôi. Ngài là Ba Ngôi, nhưng vì là Tình Yêu, nên đã hợp nhất thành một Thiên Chúa.
Cho tôi hỏi câu cuối cùng: Tại sao là ba mà không phải là hai, như trong tình yêu nam nữ?
Sau này có gia đình, anh và vợ chỉ yêu nhau mà không muốn có con, sợ thêm hy sinh, thêm trách nhiệm, tình yêu anh chị có chân thật và bền vững không?
Thưa không! Tình yêu chúng tôi phải chảy tràn qua và thể hiện thành một đứa con, ít nhất một đứa; nếu không thì chỉ là tình yêu mình trong người bạn đời của mình. Ngoài ra, tình yêu ấy còn phải trải rộng cho mọi người chung quanh nữa!
Anh bạn thân mến, anh sắp hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rồi. Nhưng đừng áp dụng quá sít sao đấy nhé!
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta”.
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu,trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiểu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt qúa mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
– Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi.Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6,4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
– Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1,32-34); tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1,11).Tiếng nói, chim câu,Chúa Giêsu,ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật…”. Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, Ngài là Chúa Thánh Thần. Trong Phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô,tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất.Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính.Đức Kitô thực hiện phần đầu; Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai, dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bỗng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau.Ba Ngôi là một gia đình.Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa.Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau.Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo.Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin.Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô, khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống, đó là tình yêu thần linh.Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ.Với chúng ta, sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua Thánh Thể “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,34). Khi chia sẻ chén hiệp thông của Ba Ngôi,chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một (Ga 17,21).
Người tín hữu đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Đức Hồng y Henry de Lubac diễn tả: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương.Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng.Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến.Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa,tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu,không gặp mâu thuẫn và đau khổ.Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Qua phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha (x.Rm 8,15), em của Chúa Con (x.Rm 8,29) và đền thờ của Thánh Thần (x.1Cr 6,19), hợp thành Giáo Hội là “dân thánh được hiệp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi” (Hiến chế GH 4). Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong gia đình, cha mẹ, con cái yêu thương nhau thì càng hiệp nhất nên một. Tình yêu là dây liên kết mọi người nên một gia đình hạnh phúc ấm êm. Gia đình là nơi sống và diễn tả huyền nhiệm Ba Ngôi rõ nét nhất.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác ”Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.

81. Tình yêu
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé xén sạch đám cỏ trước nhà. Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại. Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn! Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng nên con người cao trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đa thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của Tình Yêu.
– Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
– Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên Chúa.
– Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực trong Thiên Chúa Tình Yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy phải chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích ky để giữ lại cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, nên ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.

82. Mặt trời ban sự sống
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông nói:
– Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu, chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục hỏi:
– Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
– Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
– Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay chúng ta tụ hợp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một nguồn năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương. Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng ta cùng nhau hát kinh Tin Kính…
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với các Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

83. Thờ Thần nào, sẽ nên vậy
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Có lẽ chúng ta đã quen thuộc với mẩu chuyện kể về thánh Âu tinh thành Hippo, một nhà thần học nổi tiếng và cậu bé trên bãi biển. Thánh Âu Tinh muốn suy biết và hiểu rõ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào: Một Thiên Chúa duy nhất, nhưng lại có Ba Ngôi vị. Một mà lại là 3, rồi 3 lại là 1. Thật khó hiểu và quá phức tạp với sự suy lý của trí hiểu con người. Thế rồi Thánh Âu tinh đã nhận được bài học từ cậu bé: việc cố tìm hiểu như thế thật vô ích, vì trí khôn giới hạn cua con người không thể dung nạp được mầu nhiệm lớn lao vô hạn như thế, tựa như việc cố lấy hết nước của đại dương để đổ vào một lỗ cát nhỏ được đào trên bãi biển.
Một điều không thể hiểu được với trí khôn của loài người, vậy thì tại sao phụng vụ Chúa nhật hôm nay lại mừng một cách long trọng mầu nhiệm Ba Ngôi như thế? Chắc chắc Phụng vụ Giáo hội không muốn đưa mầu nhiệm này ra để hù dọa chúng ta, hoặc là làm linh thiêng hóa hệ thống giáo lý hay thần học của Ki-tô giáo. Tuy trí khôn của con người không thể hiểu được mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi như thế nào hay mầu nhiệm đó ra sao, nhưng trí khôn con người vẫn có thể hiểu ra được tại sao Thiên Chúa lại tỏ lộ mầu nhiệm này cho con người. Quả thế, khi Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm Tình Yêu vĩ đại là bản chất của Thiên Chúa, thì không phải để trí khôn con người có dịp phân tích, tìm hiểu, hay lý giai mầu nhiệm này, nhưng là để con người nhận biết được Tình yêu của Thiên Chúa và đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cái lý do tại sao mà Thiên Chúa muốn tỏ lộ mầu nhiệm này cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta đâu thấy các bài đọc Kinh thánh trong ngày lễ hôm nay cung cấp cho chúng ta một ý niệm hay một sự lý giải minh tỏ về Tín lý Một Chúa Ba Ngôi. Ngay cả hạn từ “Ba Ngôi” cũng chẳng thấy có trong Kinh thanh. Các tín hữu thời Giáo hội sơ khai đã biết đến giáo lý này và đón nhận giáo lý này như một điều phải tin không phải khi họ hiểu về mầu nhiệm này, nhưng là khi họ nhận biết về lý do tại sao Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm này.
Trong lịch sử cứu độ, Thánh Kinh chúng ta thấy Chúa Cha là Đấng Tạo dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Độ, và Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh hóa. Tuy thế, không có ngôi nào lại hiện hữu và hoạt động riêng rẽ một mình. Rồi chính Đức Giêsu đã nói rõ hơn cho chúng ta về Chúa Cha là Đấng đã sai Ngài và về Chúa Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã trao ban cho các môn đệ và mọi tín hữu. Đức Giêsu nói rằng Chúa Cha đã trao ban Chúa Con là tất ca những gì Người có, rồi đến lượt Chúa Con lại trao ban Thánh Thần là tất cả những gì Ngài nhận được từ Chúa Cha. Như thế, mầu nhiệm Ba Ngôi là một mầu nhiệm của Tình yêu trao ban, một mầu nhiệm để cảm nhận, để sống hơn là để phân tích tìm hiểu bằng lý lẽ của con người.
Thêm vào đó, điều quan trọng của tín điều này hệ ở chỗ: chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, vì thế, càng cảm nhận về Thiên Chúa, thì chúng ta càng biết ve bản thân mình hơn.
Những nhà chuyên môn về tôn giáo nói với chúng ta rằng con người chúng ta sẽ giống như Vị thần mà chúng ta tôn thờ. Kẻ tôn thờ thần chiến tranh thì có xu hướng gây chiến. Kẻ thờ thần khoái lạc, có xu hướng tìm kiếm khoái lạc, kẻ thở một Thiên Chúa hay nổi giận, có xu hướng trả thù, còn kẻ thờ phượng Thiên Chúa Tình yêu, thì có xu hướng sống cho Tình yêu. Thờ Chúa nào, thì cũng nên giống như vậy.
Mầu nhiệm Thiên Chua Ba Ngôi nói với chúng ta về loại Thiên Chúa của Tình yêu mà chúng ta tôn thờ, và chúng ta phải trở nên loại người nào. Có hai điều để suy tư:
Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng trong một cộng đoàn tình yêu và chia sẻ. Thiên Chúa không phải là một vị thần cô đơn, nên kẻ thờ phượng Người phải tránh lối sống cô độc, biệt lập. Lối sống của Ki-tô giáo không mang màu sắc bi quan của sự xa tránh xã hội, hay những mối tương giao.
Một tình yêu chân thực luôn mang 3 thành phần. Cộng đoàn Chúa Ba Ngôi thật trọn vẹn. (Hình ảnh gia đình: cha – mẹ – con cái)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một thách đố, và cũng là lời mời gọi chúng ta biết đi vào mối tương giao giữa bản thân chúng ta – Thiên Chúa – tha nhân. Xin Thiên Chúa Ba Ngôi chúc phúc cho chúng ta.

84. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúa Nhật ngay sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa và con người. Chính nhờ Đức Giêsu, mà con người biết Thiên Chúa Ba Ngôi Vị.
I. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Thiên Chúa Duy Nhất
Trong sách Đệ Nhị Luật, người Do Thái đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng duy nhất: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đấng duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi” (Dnl. 6, 4-5). Chính Thiên Chúa là Đấng đã dẫn dân Do Thái ra khỏi Aicập qua Môsê. Thiên Chúa đã đồng hành với dân Do Thái qua cột mây lửa trong sa mạc. Trên núi Sinai, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân và đã ban thập giới như điều kiện giao ước. Thiên Chúa tỏ lộ Ngài cao cả siêu việt và là Đấng yêu thương dân Do Thái vô cùng.
Trong Tân Ước, khi người ký lục hỏi Đức Giêsu về giới răn trọng nhất, Đức Giêsu đã trích dẫn Ngũ Kinh để trả lời cho ông và các bạn của ông ta. “Giới răn trọng nhất là: Hỡi Israel hãy nghe đây. Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đấng duy nhất, hãy yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai là: hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12, 29-31). Đức Giêsu đã dạy cùng một điều mà người Do Thái đã được dạy dỗ và đã biết.
Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Đấng trổi vượt trên tất cả. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên tất cả, là Cha của tất cả. Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi dân tộc, không gì có mà lại không do Thiên Chúa mà có. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng, Ngài tạo dựng và làm cho tất cả tiếp tục tồn hữu. Thiên Chúa lam mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người.
II. Đức Giêsu Mạc Khải về Thiên Chúa
Khi hài nhi Giêsu được sinh ra tại Bêlem, không ai biết Ngài là Thiên Chúa, không ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Ngay khi Đức Giêsu đi rao giảng, cả các tông đồ là những môn đệ thân tín của Ngài, cũng chưa nhận biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Họ có cùng ý nghĩ với dân chúng, Đức Giêsu là một tiên tri, và một cách đặc biệt hơn, Ngài là Đấng Kitô (Mt.16, 16). Khi Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục trên thập giá, các tông đồ chán nản sợ sệt, thậm chí có môn đồ đã bỏ về quê (hai môn đệ trên đường Emmau). Những ngươi giết Đức Giêsu cũng không biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, vì nếu họ biết đâu họ có giết Ngài. Chính Đức Giêsu trên thập giá cũng nghĩ rằng người ta không biết về Ngài một cách thực sự nên đã xin với Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23,). Mầu nhiệm nhập thể là mầu nhiệm quá cao vời mà lý trí con người không thể suy biết được trước khi Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết, các tông đồ nhận ra Ngài là Đấng rất đặc biệt. Ngài đến từ Thiên Chúa, Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Sai, và có lẽ còn là Đấng có gì đặc biệt hơn nữa. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, đã dạy dỗ khi còn ở với các ông trên trần thế, về quyền tha tội (Mc.2, 7), về trước khi có Abraham đã có Ngài (Ga.8, 58), về việc Ngài và Cha là một (Ga.10, 30), về việc Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62). Các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa, là Đấng thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, đến độ có thể nói, Ngài là Đấng ngang hàng với Thiên Chúa.
Con người đứng trước mầu nhiệm Đức Giesu, đã cố gắng tìm những từ ngữ để diễn tả thực tại này, chẳng hạn như nói: Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa. Công đồng chung Nicea (325) dạy: Đức Giêsu là Đấng “đồng bản tính” vơi Thiên Chúa. Nói bằng một ngôn từ khác, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Những thánh công đồng chung tiếp theo sau đã tiếp tục dạy về thực tại Đưc Giêsu. Đức Giêsu là Đấng đồng nhất với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa. Không phải Đức Giêsu là Thiên Chúa “khác” độc lập với Thiên Chúa, nhưng Ngài kết hiệp với Thiên Chúa đến độ chỉ là một Thiên Chúa. Từ ngư ngôi vị (persona) của ngày hôm nay làm cho người ta tưởng rằng Đức Giêsu là một thực tại hiện hữu độc lập bên cạnh Thiên Chúa, như thể nhiều người khác biệt nhau nhưng đều có cùng bản tính người. Người ta không được hieu như vậy về Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một Thiên Chúa nhưng không là ba thực tại hiện hữu độc lập khác nhau. Khi nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là Ba Ngôi Vị Thiên Chúa, là chúng ta đang diễn tả nét khác nhau giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Thiên Chúa Cha và Thánh Thần, và giữa Đức Giêsu và Thánh Thần.
III. Thánh Thần là Thiên Chúa
Chỉ nhờ Đức Giêsu mà người ta nhận ra Thánh Thần là một ngoi vị Thiên Chúa. Đức Giêsu nói về Thánh Thần như một ngôi vị. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Đấng Bầu Chữa, Đấng đến từ Thiên Chúa Cha, Đấng được Cha và chính Đức Giêsu sai gởi tới (Ga.14, 16.26; 15, 26; 16, 13-16).
Ngay khi con tại thế, Đức Giêsu đã giảng dạy về Thánh Thần như vậy, nhưng các tông đồ chưa hiểu được, phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh và với tác động của Thánh Thần, các tông đồ mới nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; và một khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các tông đồ mới nhận ra Thánh Thần là Ngôi Vị Thiên Chúa. Chính nhờ Đức Giêsu và nhờ Thánh Thần, mà con người mới hiểu biết hơn về Thiên Chúa, mới biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị.
Thiên Chúa sáng tạo mọi loài, tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mỗi người. Thiên Chúa nhập thể làm người để mặc khải cho con người biết hơn về Thiên Chúa, để chỉ cho con người biết sống như thế nào để hạnh phúc thật, để trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa. Thánh Thần được sai đến để ở với con người, để thánh hóa con người, để làm con người thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa, Đức Giêsu và Thánh Thần là Ba Ngôi Vị khac biệt nhau, nhưng vẫn luôn là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong ba ngôi vị.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có cảm thấy Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
2. Bạn có cảm nhận gì về mau nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
3. Bạn thường cầu nguyện với ngôi vị nào hơn cả? Bạn có biết tại sao?

85. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quốc Thăng)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mysterium absolutum trong Kitô giáo chúng ta. Cho dù chúng ta tin Đức Giêsu là Con một Thiên Chúa đến trong thế gian, mặc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhưng đây là mầu nhiệm tuyệt đối không một người trần thế nào có thể hiểu thấu được.
Về mặt tín ly, Công đồng Nicêa (325) xác nhận thiên tính của Đức Giêsu, đồng bản thể (Homoousios) với Thiên Chúa Cha và Công đồng Constantinople I (381) xác nhận thiên tính của Chúa Thánh Thần: một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Dù giải thích như thế nào về Nhiệm sinh và Nhiệm xuất của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta khó mà hiểu rõ Thiên Chúa nội tại (in se). thế nhưng qua hành động ra bên ngoài, vì loài người chúng ta (pro mobis) và nhờ mặc khải của Đức Giêsu, chúng ta cảm nhận tình yêu vô biên của Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hoạt động vì muốn chia sẻ đời sống Thần linh cho nhân loại, cho từng người chúng ta.
Về phụng vụ, chính Đức Giáo Hoàng Gio-an XXII đã đưa thánh lễ kính Chua Ba Ngôi vào lịch phụng vụ Rôma vào năm 1334 và đặt thánh lễ này vào Chúa nhật sau Chúa nhật lễ Hiện xuống. Năm 1911 lễ này được nâng lên hàng lễ trọng. Kinh nhật tụng thánh lễ này đã có từ thời Đức Piô V.
II. Gợi Ý Bài Giảng
1. Ba Ngôi Thiên Chúa Nguồn Mạch Sự Hiệp Thông Của Con Người Và Thế Giới Hôm Nay: Nhân loại hôm nay đang đối diện rất gần, đang sống với chia rẽ, hận thù và chiến tranh. Từng người đang sợ hãi nỗi cô đơn. Chính vì thế, hơn bao giờ hết thế giới hôm nay đang khao khát sự hiệp thông liên đới với nhau. Nhiều người, nhiều tổ chức, nhiều quốc gia đã và đang nỗ lực tìm kiếm xây dựng sự liên kết với nhau trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị đến tinh thần văn hóa. Trong nhãn giới đức tin thì mọi sự, mọi vật đều phát xuất từ Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và rồi sẽ trở về với Ba Ngôi Thiên Chúa trong công trình cứu độ. Sáng tạo va cứu độ là một hành trình bày tỏ ý định yêu thương của Ba Ngôi dành cho muôn thụ tạo. Vì thế, có thể nói được rằng: mọi sáng kiến hiệp thông liên đới để xây dựng thế giới tốt đẹp hơn đều phát xuất từ Ba Ngôi và để đi tới mục đích tối hậu là hiệp thông trọn vẹn với nhau trong Ba Ngôi. Trong hành trình tiến tới sự hiệp thông viên mãn ấy, Giáo Hội và mọi thành viên của Giáo Hội là nhưng nhân tố tích cực cổ võ, kiến tạo những sáng kiến hiệp thông cho con người và thế giới hôm nay.
2. Giáo Hội Là Hình Ảnh Của Sự Hiệp Thông Nơi Ba Ngôi Thiên Chúa: Thế giới ngày nay đang bị chia rẽ, bị xâu xé bởi chiến tranh, hận thù, lòng đố kỵ và ích kỷ… Với những chủ trương Duy đa diện, đa cực, duy thực dụng làm cho các hố phân cách giàu nghèo, chủng tộc, văn hóa ngày càng lớn. Trước một thực trạng như thế, Giáo Hội cần phải trình bày cho thế giới biết về sự hiệp thông nên một của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo Hội là màu nhiệm Hiệp thông: Hiệp thông trong cơ cấu Phẩn trật; hiệp thông trong đời sống phụng vụ; hiệp thông trong đời sống yêu thương. Điều trước tiên để diễn tả sự hiệp thông của Giáo Hoi đó là sám hối về sự hiệp thông của chính mình. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô mời gọi con cái mình sám hối về những sai lầm gây tổn thương cho sự hiệp thông và tình liên đới trong nhân loại: “Trong số những tội lỗi cần phai dứt khoát sám hối và cải thiện, chắc chắn phải kể đến những tội lỗi đã làm hại đến niềm hiệp nhất theo ý Chúa muốn nơi dân của Người … Trong lịch sử Giáo hội, việc hiệp thông đã bị tổn thương một cách đau xót.” (ĐTC J.P II – Tông thư Ngàn năm thứ ba đang đến – No 34). Sám hối không phải để bi quan, bôi nhọ, nhưng để lột xác đổi mới. Mỗi thành phần và từng thành viên trong Giáo Hội phải nỗ lực hết sức để xây dựng tình hiệp thông liên đới trong cuộc sống hằng ngày của mình. Mỗi Kitô hữu phải cùng trăn trở, thao thức với Giáo Hội. Chung một nhịp thở với toàn thể Giáo Hội, chia sẻ ưu tư gánh nặng và trách nhiệm với các vị chủ chăn của mình. Ngay từ mỗi gia đình Kitô hữu, từ mỗi Giáo xứ, những hạt nhân cơ bản của Giáo Hội luôn phải cùng nhau hiệp nhất yêu thương thì mới có một Giáo Hội Phổ quát hiệp thông.
3. Trong Chúa Ba Ngôi Người Kitô Hữu Sống Tình Hiệp Thông Liên Đới: Mối hiệp thông giữa người với người sẽ tìm thấy một mẫu mực nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi luôn hướng về nhau, quay mặt vào nhau. Noi gương Ba Ngôi, muốn yêu thương hiệp thông với nhau thì phải biết hướng Thiên Chúa và hướng về nhau. Hướng về Thiên Chúa cụ thể là thái độ tham dự, sự mở lòng đón nhận nguồn sống hiệp thông từ Thánh lễ. Thánh lễ là nơi, là lúc biểu lộ cao nhất mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người. Trong Thánh lễ, con người được gặp gỡ, được tiếp chuyện với Thiên Chúa (nơi bàn tiệc Lời Chúa) và kín múc sự sống thần linh của Người (nơi bàn tiệc Thánh Thể). Nhờ đó, con người chúng ta thực sự được hợp nhất với Thiên Chua. Đức Kitô trong tôi, tôi trong Đức Kitô. Một sự hiệp nhất đến độ ‘tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi’ (Gl 2,20).
Trong cuộc sống mọi người biết hướng về nhau trong tâm tình, trong tư tưởng, trong lời nói và trong việc làm. Hướng về nhau trong tâm tình là xây dựng mối thiện cảm, nhìn nhau bằng ánh mắt của tình thương và cảm thông chứ không phải bằng ác cảm hay thành kiến. Hướng về nhau trong tư tưởng là biet nghĩ đến người khác, biết cầu nguyện cho nhau. Thờ ơ với người khác hình như đang trở nên căn bệnh của thời đại. Làm sao cho tâm hồn mình cũng có nhiều chỗ ở cho mọi người như ‘trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở’(Ga 14,2). Hướng về nhau trong lời nói: “Lời nói không mất tiền mua,Lựa lời mà nó cho vừa lòng nhau.”Lời nói dành cho người khác có truyền tải được một thông điệp cảm thông, thông điệp yêu thương hay ngược lại, mở miệng ra chỉ biết oán trách, chê bai, khích bác nhau, nói xấu nhau … Hướng về nhau trong việc làm: hành động cụ thể là minh chứng rõ ràng nhất cho sự hiệp nhất với nhau, hướng về nhau. Yêu thương hiệp nhất không phải bằng đầu môi chót lưỡi nhưng phải bằng hành động cụ thể ‘nói hay vạn lần về tình yêu không bằng một lần biết yêu’.

86. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng)
GIA ĐÌNH LÀ CỘNG ĐỒNG TÌNH YÊU PHẢN CHIẾU TÌNH YÊU BA NGÔI
Trong lịch sử, người ta thường dùng những hình ảnh khác nhau để trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn hình ảnh của một ngọn lửa. Trong lửa luon luôn có ba yếu tố: lửa – ánh sáng – sức nóng. Ba yếu tố đó không lẫn lộn vào nhau: ánh sáng là ánh sáng, lửa là lửa, sức nóng là sức nóng. Ba yếu tố phân biệt rõ ràng, nhưng cũng không bao giờ tách biệt khỏi nhau, ngược lại gắn chặt vào nhau. Có lửa là có ánh sáng, có sức nóng.
Từ hình ảnh ngọn lửa, người ta áp dụng để giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa ba Ngôi. Ba Ngôi chỉ là một Chúa duy nhất, nhưng phân biệt rõ ràng: Chúa Cha – Chúa Con – Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi nhưng cũng chỉ là một. Và một Thiên Chúa nhưng vẫn cứ là Ba Ngôi. Cũng như không thể lấy đi ánh sáng khỏi lửa và bảo rằng lửa cứ cháy mà không cần ánh sáng được. Cũng vậy, vì ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa, nên mọi hoạt động nơi Thiên Chúa đều quy về Ba Ngôi…
Dẫu sao mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vẫn chỉ là một huyền nhiệm lớn lao đối với con người. Đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm ấy, con người làm một sự cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Bởi thế, những hình ảnh mà con người cố gắng suy nghĩ để giải thích, dù có hay đến mấy, vẫn chỉ là một cố gắng còn khiếm diện và bất toàn mà thôi.
Điều hay nhất chúng ta cần làm có lẽ không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Thiên Chúa cho bằng quay về với chính mình để sống làm sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Bởi vậy, tôi muốn mời bạn cùng tôi suy nghĩ về gia đình vì gia đình là một cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Từ xưa, trong Hội Thánh đã có thói quen áp dụng hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi là kiểu mẫu của tình yêu cha – mẹ – con cái. Ngay từ trong cung lòng mình, tình yêu Thiên Chúa đã là một tình yêu trao ban, tình yêu mở ra, vì thế một mà lại là ba: Trao ban giữa Cha, Con, Thánh Thần.
Nếu Ba Ngôi là kiểu mẫu của gia đình thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu nhau bằng tình yêu trao ban, tình yêu hiến thân, tình yêu mở ra đối với người mà mình yêu. Tình yêu gia đình đòi hỏi có nhau, cho nhau và vì nhau. Nếu một thành viên nào trong gia đình chỉ biết có bản thân mình, yêu nhưng chỉ yêu chính mình, tình yêu đó đang phản lại kiểu mẫu của tình yêu Ba Ngôi. Không thể chấp nhận được một người chồng, một người cha quyên trách nhiệm của mình, chỉ biết có say sỉn, còn vợ con có khổ, có đói không đoai hoài tới.
Cũng không ai có thể chấp nhận được một người vợ, một người mẹ tệ cho đến mức quyên hết vai trò của mình, chỉ biết bài bạc, có khi thức thâu đêm suốt sáng chỉ để thỏa đam mê thấp kém này.
Chúng ta cũng khong thể chấp nhận hình ảnh một đứa con trả treo với cha mẹ. Có khi bất chấp cha mẹ có khả năng hay không, nó đòi cho bằng được điều mà nó muốn có.
Tất cả những hình ảnh trên đều đi ngược lại tình yêu Ba Ngôi. Vì đó chỉ là một thứ ích kỷ, vụ lợi cho bản thân. Trên hết mọi sự, hãy bắt chước tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa: Yêu là cho đi, là rộng ban, là mở ra. Hãy sống làm sao để gia đình trở thành cộng đồng tình yêu, phản chiếu tình yeu Ba Ngôi.

87. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
TÔN THỜ CHÚA BA NGÔI TRONG ĐỜI SỐNG
Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi không được mạc khải trong Thánh kinh Cựu ước, bởi vì dân riêng của Chúa trong Cựu ước chưa sẵn sàng đón nhận Màu nhiệm này. Đối với người Do Thái, cái thiết yếu trong nền tôn giáo của họ là độc thần, nghĩa là họ chỉ tôn thờ một Chúa. Như ta thấy trong bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay, Thiên Chúa bày tỏ mình cho Mô-sê như la Chúa tể duy nhất, Đấng sáng tạo và chủ thể vũ trụ. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, cho nên bất cứ một ý thức nào về Ba ngôi Thiên chúa có thể làm suy giảm lòng tin của họ vào một Chúa. Như vậy thì cái ý tưởng của họ về Ba ngôi Thiên Chúa vừa nhắc đến có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa, ba thần, mà ba chúa – ba thần đối với họ là điều nghịch với bản tính Thiên Chúa đã được mạc khải cho họ. Thế nên Thánh kinh Cựu ươc không nói gì về màu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ – ám chỉ chứ không nói rõ – về Ba ngôi Thiên Chúa mà thôi. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị trong Thiên chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ người là con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh cho loài người, thì tín điều Ba ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi Gio-an tiền hô làm phép rửa cho Đấng cứu thế ở sông Gio-đan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: ‘Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người’ (Mt 3:16-17). Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu còn bày tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thày ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thày không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bày tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, và Chúa Thánh thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Màu nhiệm. Ta có thể dùng cái hình tam giác cân để diễn tả Màu nhiệm đó. Trong hình tam giác can, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau. Khi học kinh bổn hồi nhỏ, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước năm 1960 hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa trời có Ba ngôi: ngôi Nhất là Cha, ngôi Hai là Con, ngôi Ba là Thánh thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba ngôi, có ngôi nào trước, ngôi nào sau, ngôi là hơn, ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo Sách Bổn: Thưa Ba ngôi cũng bằng nhau. Sở sĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng như vậy còn có điểm lợi là ghi vào ký ức của họ một niềm tin sắt đá.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai màu nhiệm quan trọng trong đức tin công giáo là màu nhiệm một Chúa Ba ngôi và màu nhiệm Cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy: Các con hãy làm phép rưa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba ngôi. Linh mục kêu cầu Chúa Ba ngôi khi cử hành Bí tích Giải tội. Linh mục xức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba ngoi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu Chúa Ba ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba ngôi ta cần giải đáp một vài thắc mắc:
Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa?
Dấu thánh giá có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không?
Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả vô ý thức?

88. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
XÃ HỘI TÍNH NƠI CUNG LÒNG BA NGÔI
Ai cũng đồng ý rằng, chân lý đức tin về Ba Ngôi là một chân lý lớn lao diệu vợi. Dù vậy, những tâm hồn có lòng yêu mến, có thiện chí, có sự kết hợp không ngừng với Thiên Chúa trong nỗ lực cầu nguyện, học hỏi và suy tư, vẫn cảm nghiệm một chân lý bền vững ngàn đời, đó là cảm nghiệm sâu lắng và nội tâm về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, một tình yêu mang bóng dáng “xã hội tính”, bởi đã không bao giờ khép kín nhưng trao ban, hiến dâng và cho đi.
Hôm nay mừng mầu Nhiệm Ba Ngôi, chúng ta suy niệm đặc tính “xã hội” này nơi Thiên Chúa và nơi chúng ta. Từ đó, ta cảm nhận mạnh mẽ tình yêu của Chúa, rồi học lấy tấm gương của ông Môisen để sống suốt đời trung thành với tình yêu của Chúa.
I. Giống Thiên Chúa, loài người là loài xã hội tính.
Chính tình yêu nơi cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi đã làm cho Thiên Chúa, dù duy nhất, vẫn thể hiện “xã hội tính” nơi chính mình. Bởi tình yêu luôn cần có đối tượng, tình yêu phải được dàn trải ra, đó mới là tình yêu. Nếu không, chỉ là một thứ ích kỷ, chỉ quy về chính bản thân mình, yêu chính mình mà thôi.
Nơi cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi, tình yêu không ngừng trao ban cho nhau cách sung mãn: Cha hiệp nhất với Con, Thánh Thần là mạch sống bền chặt giữa Cha và Con. Ngay chính bản thân Thiên Chúa, dù là một, là duy nhất hoàn hảo tuyệt đối, vẫn là một bản thể biết san sẻ tình yêu, mang nơi mình tới Ba Ngôi vị. Cha trong Con, Con trong Cha. Tình yêu nơi Cha và Con làm phát sinh một Ngôi Vị tròn đầy, mang cùng bản tính như Cha và Con: Ngôi Thánh Thần. Chính vì thế, lời Tiền tụng lễ Chúa Ba Ngôi tuyên xưng: “Chúa là Thiên Chúa và chủ tể duy nhất, duy nhất không phải trong một Ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể”.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc. Điều đó chứng tỏ nơi cung lòng Thiên Chúa có một đặc tính xã hội cách nào đó. Rồi khi sáng tạo loài người và thế giới, Thiên Chúa đã chia sẻ tình yêu nơi cung lòng Ba Ngôi ấy cho các thụ tạo mà Người dựng nên. Đặc biệt nơi loài người, chóp đỉnh của thụ tạo, Thiên Chúa Ba Ngôi đã đặt hình ảnh của mình trên và trong họ. Vì thế, khi nhân loại mang lấy chính hình ảnh Thiên Chúa, nhân loại cũng mang lấy đặc tính xã hội của Người.
Nhưng không phải chỉ khi tạo dựng, Thiên Chúa mới trao ban chính mình. Người vẫn không ngừng trao ban chính mình. Người đặt để nơi nhân loại chính dấu ấn của Người cách hoàn hảo. Vì thế, qua hết thời gian này đến thời gian khác, tình yêu của Ba Ngôi trở thành nguồn gốc “xã hội tính” nơi nhân loại.
Giống như việc người ta đọc thấy cuộc đời, cá tính, sự suy tư, vui buồn… của một nhà văn trong tác phẩm mà ông viết từ chính đôi tay và khối óc của ông. Cũng vậy, nhân loại và vũ trụ là tác phẩm của Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, ta có thể hiểu hình ảnh Thiên Chúa nơi loài người là bản sao chép từ chính tình yêu của Thiên Chúa. Có rất nhiều những dấu ấn của Thiên Chúa trên nhân loại. Một trong những dấu ấn ấy là xã hội tính nơi mỗi người chúng ta.
Chúng ta đã kinh nghiệm nhiều về xã hội tính nơi chính mình, khi nhận ra mình không thể sống một mình, không thể có sự phát triển đúng nghĩa, không thể có khả năng nhận thức, khả năng tạo nhân cách, hoặc hiểu biết đầy đủ…, nếu chỉ sống một mình. Nói ngắn gọn, loài người sẽ không là người nếu không có tương quan.
Khám phá về xã hội tính nơi chính mình và nguồn gốc xã hội tính ấy phát xuất từ Thiên Chúa, ta đi tới một khám phá quan trọng hơn: Loài người không thể sống như chính họ là người, nếu Thiên Chúa không trao ban chính mình cho họ, nếu Người không đặt để hình ảnh của Người nơi tâm hồn của họ. Chính vì được hưởng nhờ chính Thiên Chúa, chúng ta đã và vẫn sống như chúng ta là người.
II. Mẫu gương trung thành của Ông Môisen
Tấm gương của ông Môsê hoàn toàn để Chúa thu phục khi hiểu ra mình đang đối diện với Đấng Chí Thánh, Thần trên các thần, là bài học lớn để ta cũng biết noi gương ông, suốt đời đáp trả tình yêu diệu vợi của Thiên Chúa.
Thánh Kinh kể, một ngày, khi ông Môisen đang chăn đàn vật tại núi Khorep, bỗng ông nhận thấy một quang cảnh hết sức lạ thường: bụi gai rực lửa, nhưng không bị thiêu rụi. Tò mò, ông chạy đến xem cho tường. Từ giữa bụi gai, có tiếng gọi đúng tên ông: “Môisen! Môisen!” Tiếng gọi ấy ra lệnh cho ông phải bỏ dép ra và không được đến gần, vì nơi ông đang đứng là nơi thánh. Tiếng nói ấy tự xưng là Thiên Chúa của tổ tiên ông. Ông sợ hãi che mặt, không dám diện kiến cùng sự uy nghi của Đức Chúa chí thánh của ông.
Ông càng sợ hãi hơn khi Đức Chúa ngỏ lời sai ông đi giải thoát dân của Người ra khỏi cảnh lầm than nô lệ cho người Ai-cập. Dù biết mình yếu đuối, nhỏ nhoi, nhưng tin tưởng vào lời Chúa: “Ta sẽ ở với ngươi” (Xh 3, 12), ông đã đáp trả bằng cả một đời trung thành, yêu mến, tùng phục, tôn thờ Đức Chúa của ông. Có thể nói, ông đã sống chết cho sứ mạng đã lãnh nhận vì lòng yêu mến Thiên Chúa và vì tình yêu của Người dành cho ông.
Tuy nhiên, sứ mạng ấy không dễ chút nào. Biết bao lần Môisen như chẳng còn sức đâu mà chịu đựng lòng dân. Sự bội phản, thái độ thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa, những lời kêu trách xúc phạm đến Chúa… của dân, làm cho ông mệt mỏi, đuối sức.
Đó là chưa kể 40 năm ròng rã sống trong sa mạc, không chịu nỗi sự khắc nghiệt của đời sống sa mạc, dân chúng trút lên ông những lời, những thái độ, hành động, suy nghĩ… thù hằn của họ.
Chính vì thế, dù là một nhà giải phóng dân tộc lừng danh, Môisen cũng đã từng quặn thắt tâm hồn, kêu than cùng Chúa và muốn chết đi: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt).
Học lấy mẫu gương của ông Môisen, nhận ra sự uy nghi cao cả của Chúa, ta hãy để Chúa làm chủ cuộc đời mình, và quyết tâm sống một đời trung thành với ơn Chúa ban. Ta hãy khiêm nhường đón nhận tất cả những nghịch cảnh xảy ra cho mình mà phó thác trong bàn tay quan phòng dìu dắt của Chúa.
Chắc chắn cuộc đời sẽ không thiếu những nhức nhối, những thương đau, những oan khuất. Dù ta từ chối hay chấp nhận, cuộc đời vẫn cứ thế. Nhưng nếu trong đức tin và niềm phó thác, trước những nghịch cảnh, ta sẽ bình an hơn, bớt khổ sở hơn. Chúng ta hãy nhớ rằng, loài người đã được Chúa yêu thương. Nhưng những ai tin tưởng, khiêm tốn, vâng phục, sẽ là người thực sự hấp thụ tình yêu ấy.
Bởi vậy, chúng ta hãy tập sống như thánh Phaolô dạy: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1Tx 5, 18).

89. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
SỐNG NIỀM TIN VÀO THIÊN CHÚA BA NGÔI
Mầu nhiệm Ba Ngôi là “mầu nhiệm nguồn” của mọi mầu nhiệm. Con người biết được mầu nhiệm Ba Ngôi là nhờ Chúa Giêsu mạc khải, chứ không phải do nổ lực suy lý của mình. (Xin được mở ngoặc một chút ở đây là Chúa Giêsu không bao giờ trình bày mầu nhiệm lớn lao này bằng khái niệm “kỷ thuật số”: 3 ngôi. Ngài chỉ nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần). Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhưng cũng là mầu nhiệm mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày, qua Dấu Thánh Giá, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính…. Tuy nhiên, đó không phải là mầu nhiệm để tuyên xưng hay để hiểu mà thôi, nhưng còn là để sống. Nói cách khác, tuyên xưng niềm tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi thì phải sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Cụ thể sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi là sống thế nào?
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là sống tâm tình cảm mến tri ân:
Cảm mến tri ân vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm quá đổi lớn lao này. Cảm mến tri ân vì Ba Ngôi mà lại chỉ một Chúa. Đây là nguyên lý của sự hiệp nhất và bền vững của thế giới tạo thành. Có người thắc mắc tại sao không hiểu Ba Ngôi là ba Chúa cho đơn giản mà lại dạy Ba Ngôi một Chúa cho phức tạp, khó hiểu, mệt cái đầu? Thiết nghĩ nếu Ba Ngôi mà ba Chúa có lẽ số phận của con người và vũ trụ này sẽ bất hạnh biết chừng nào, bởi vì cứ tưởng tượng một nhà ba chủ, một nước ba vua, một giáo hội ba giáo hoàng,.. thì sẽ ra sao chúng ta biết rồi.
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa còn là sống hiệp nhất yêu thương:
Tự bản tính, Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu hiệp nhất Cha Con và Thánh thần. Chỉ trong tương quan tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu phần nào Ba Ngôi mà lại một Chúa: “Ta và Cha Ta là một, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta”.
Mọi hình thức chia rẽ, hận thù, ly giáo, đoạn tuyệt… đều đi ngược với thánh ý Thiên Chúa, đi ngược với niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi.
– Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa sau nữa còn là sống phục vụ hy sinh:
Ba Ngôi Thiên Chúa không giữ lại tình yêu cho riêng mình mà chia sẻ tình yêu ấy cho mọi thụ tạo, đặc biệt là con người qua tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người qua mầu nhiệm nhập thể để phục vụ và hiến dâng mạng sống để con người được sống và sống dồi dào. Do vậy không thể tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi mà lại sống ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến mình, lo cho mình mà thôi.
Người ta kể rằng Christophe Colomb, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: “Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh”. Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colomb đã thề hứa sẽ dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là “Trinidad”, tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colomb đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị mình ngay trong gia đình mình, cộng đoàn mình theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

90. Khám phá Tình Yêu Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Không có suy nghĩ nào nghèo nàn cho bằng suy nghĩ của loài người về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi của nhân loại nghèo đến nỗi, nhân loại chưa bao giờ đạt thấu ý nghĩa như chính mầu nhiệm gợi hứng. Nếu có thể diễn tả được một vài góc cạnh nào đó, thì những diễn đạt ấy cũng chỉ là những diễn đạt loại suy, những diễn đạt nhiều thiếu sót hoặc rất nôm na.
Cũng phải thôi. Chính mình mà còn có lúc chưa hiểu hết nỗi lòng của mình, hay lòng người với người cũng chưa ai có thể dò được hết, nói gì đến việc hiểu thấu Thiên Chúa, Đấng vô biên, vượt trên tất cả mọi thứ mà loài người có thể nghĩ ra. Vì thế, đi tìm câu trả lời cho huyền nhiệm về Ba Ngôi, loài người thực hiện một cố gắng vô ích, một cố gắng vượt trên sức hiểu biết của mình. Điều hay nhất, bổ ích nhất, cần thiết nhất ta phải thực hành ngay, không phải là khám phá tới cùng mầu nhiệm Ba Ngôi, nhưng hãy quay về chính mình, nhận ra thân phận bé nhỏ của mình để sống sao cho xứng đáng với tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Có một cách tốt nhất để ta có thể quay về với mình, đó là lắng nghe và đón nhận thánh ý Chúa trong suốt cuộc đời làm người của ta. Kinh nghiệm cho thấy, thánh ý Chúa nhiều khi rất rát buốt, làm cho ta cảm thấy như đời mình đang rơi vào đêm đen. Nhưng ngay cả những lúc bước đi trong đêm đen như thế, nếu ta vẫn giữ được đức tin, vẫn cố bám vào tình yêu của Chúa, ta sẽ cảm nhận niềm an ủi sâu hơn, sức chịu đựng của bản thân như tăng lên, và nghị lực cùng với niềm hy vọng vẫn còn đó như một chút lửa tàn còn lại trong tro, lóe một chút ánh sáng ở phía cuối đường mà ta đang bước đi.
Tôi đã đọc được điều đó trong một lá thư của một người trẻ gởi cho tôi. Trong lá thư, dù không phải tâm tình của tôi, nhưng người bạn trẻ là tác giả của lá thư đã cho tôi thấy mình tìm được chính tâm hồn của mình, và dễ dàng chấp nhận thánh ý Chúa hơn. Xin tác giả cho phép tôi được chia sẻ cùng mọi người. Vì tôi nghĩ rằng, nó sẽ mang lại lợi ích cho nhiều người khi họ đọc. Lá thư như sau:
“Cha H. ơi. Con buồn quá, mà không muốn nói với ai nên viết thư này đến cha. Cha ơi, hôm nay là ngày con được lãnh lương lần thứ năm. Cha biết không, con đã đi làm được năm tháng. Cứ mỗi lần lãnh lương là gia đình lại có chuyện không vui. Tháng đầu tiên thì ba con lãnh bí tích Xức dầu, rồi sau đó nhập viện. Một tháng sau, ba con được xuất viện. Cả nhà mừng lắm vì tưởng rằng ba đã khỏe hơn, nhưng thực tế thì ngược lại mà đâu ai biết. Sau đó đến tháng lương thứ ba, đúng vào trưa ngày con dự buổi họp các bạn trẻ trong nhóm linh hoạt viên của giáo phận, nơi con đang sống thì ba mất (lúc đó con không có ở nhà, vì còn đang họp). Tháng lương thứ tư thì xây mộ cho ba. Bây giờ là tháng thứ năm, không biết rồi sẽ còn gì nữa không, nhưng con cảm thấy rất buồn. Thật là khó đón nhận thánh ý Chúa. Dù sao thì ba con cũng đã mất rồi. Ai cũng nói rằng, ba con mất đi đó có lẽ là một điều tốt cho gia đình, vì sẽ bớt phần lo bệnh tình của ba, nhưng làm sao có thể nghĩ như vậy được.
Con chưa bao giờ nghĩ rằng, tụi con sẽ sớm mồ côi ba như vậy. Năm nay con chỉ mới 20 tuổi, còn em út của con thì chưa tròn 5 tuổi. Đôi khi thật không hiểu Chúa thương gia đình con như thế nào nữa, thật không thể hiểu được. Mỗi ngày đi làm con thấy nặng lòng lắm. Bây giờ con mới hiểu được nỗi đau đớn trong lòng nó như thế nào.
Con nhớ ba nhiều lắm. Hình như bất cứ điều gì cũng làm con nhớ đến ba. Mỗi buổi sáng, ba thường kêu con dậy đi lễ. Buổi chiều ba đợi con đi làm về. Ba rất muốn biết chỗ làm của con nhưng chưa kịp. Con không biết phải nói thế nào, phải làm sao để giải tỏa bớt con người của mình. Mọi công việc của con đều diễn ra bình thường, không có gì thay đổi cả. Thậm chí con còn làm nhiều hơn, nói nhiều hơn, cười nhiều hơn và đi nhiều hơn, nhưng đâu vẫn vào đó. Có lẽ để con khóc thật nhiều thì tốt hơn, nhưng con lại chẳng thể khóc được.
Cha ơi, con nghĩ rằng, những ngày đầu vắng ba, con sẽ khó mà vượt qua được. Nhưng con đã vượt qua nó. Còn bây giờ, con không biết phải làm sao cả. Nhiều khi con nghĩ Chúa đã đối xử với tụi con quá tàn nhẫn. Nói là nói như vậy, nhưng cha yên tâm, con sẽ không sao đâu. Mọi chuyện chắc chắn rồi cũng sẽ qua đi mà thôi, mặc dù buồn lắm. Làm sao tránh khỏi điều đó phải không cha.
Nỗi buồn này con chỉ biết nói với cha, dù cha và con chưa hề biết mặt. Vì con không thể nói với người ngoài, chắc chắn họ sẽ không hiểu. Còn nói với người trong nhà, chỉ khơi lại nỗi buồn mà thôi. Cha cầu nguyện cho gia đình con, cha nhé, vì sau khi lo an táng ba con xong, mẹ con cũng đổ bệnh. Mấy lần đi bác sĩ, vẫn chưa biết chắc mẹ bị bệnh gì. Thôi thì một lần nữa lại phó thác cho Chúa phải không cha?
Con chúc cha luôn dồi dào sức khỏe và yên vui trong mọi sự. Nguyện xin bình an của Đấng Phục Sinh ở bên cha”.
Đọc lá thư, tôi thấy mình không chỉ đọc mấy con chữ, không chỉ đọc một mớ tâm tình, không chỉ đọc niềm tin tưởng của người bạn trẻ đã tin tưởng và chia sẻ thật lòng với tôi, không chỉ đọc một nỗi đau buồn đang gặm nhấm nỗi lòng của người bạn trẻ ấy. Nhưng qua lá thư, dù chỉ là những bộc bạch đơn sơ, tôi lại thấy cả một chiều sâu của đức tin, một chiều sâu của lòng đạo đức lớn. Tôi thấy nơi đó là một tình yêu đối với Thiên Chúa mãnh liệ. Và tôi thấy điều lớn nhất là một sự chấp nhận thánh ý Chúa quá can đảm. Tôi cũng thấy lá thư của người bạn trẻ ấy nâng đỡ tôi trong hành trình sống đời ơn gọi của mình rất nhiều. Và tôi nghĩ, nó cũng sẽ nâng đỡ tất cả những ai đang đau khổ, đọc lấy nó, và tìm ra cho mình một sự đồng cảm, một rung động của trái tim tìm được sự san sẻ…
Hôm nay lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm tuyệt đối cao cả, nhưng chúng ta chẳng nói điều gì cho lớn, cho hay. Chỉ mong mỗi một người lắng nghe tiếng Chúa nói trong lòng mình, lắng nghe thánh ý Chúa trong trong nội tâm của mình. Sự lắng nghe ấy sẽ liên tục trên suốt cả dòng đời mà mình đang trải qua, đang sống đây. Nhờ khám phá lại thánh ý Chúa nơi cõi lòng như thế, chúng ta sẽ càng ngày càng vững tin vào Chúa hơn, biết phó thác trong cánh tay quan phòng và yêu thương của Chúa.
Ai đó có lần đã từng nói: “Nếu bạn đi khắp cùng trời cuối đất, bạn sẽ gặp dấu vết của Thiên Chúa. Nếu bạn đi thẳng vào cung lòng bạn, bạn sẽ gặp chính Thiên Chúa”. Nhiều vị thánh trong Hội Thánh đã gặp Chúa nhờ lắng chìm trong cầu nguyện, suy tư. Trong sự lắng đọng và thinh lặng của cõi lòng, các thánh đã đi thẳng vào cung lòng mình để được gặp Thiên Chúa. Các thánh là tấm gương dạy ta biết quay về với chính mình để khám phá khuôn mặt tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Một khi có Chúa nơi tâm hồn và trong cuộc đời, mọi lao khổ, mọi nỗi buồn vui của cuộc đời, đều trở thành gánh nhẹ trên vai ta.
Nguyện xin tình yêu của Chúa Ba Ngôi luôn chan chứa trên cả đời của từng người chúng ta. Nguyện cho tình yêu ấy trở thành sức mạnh giúp chúng ta can trường sống thánh ý của Người suốt cuộc đời, dù phải đương đầu với bất cứ hoàn cảnh nào. Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả chúng ta. Amen.

91. Cánh đồng lúa chín
(Suy niệm của Br. B.M.Thiện Mỹ CRM)
LỜI CHÚA:
Bài đọc1: Dnl.4,32-34.39-40: Chính Chúa là Thiên Chúa, chớ không có Chúa nào khác.
Bài đọc 2: Rm.8,14-17: Anh em đã nhận tinh thần nghĩa tử; trong tinh thần ấy, chúng ta kêu lên rằng: Abba, lạy Cha.
Phúc âm: Mt.28,16-20: Hãy làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
SUY NIỆM:
Cha Maistrino người Ý, thuộc hội thừa sai Milanô đang truyền giáo tại Hồng Kông vào đầu thế kỷ 20. Cha kể lại một chứng từ sau đây:
Một ngày năm 1938, một phụ nữ người Hoa đến gặp tôi và rụt rè nói:
– Con không có đạo. Con có người bạn có đứa con gái tên là Têrêsa Quang thị Lộ bị lao phổi nặng, chắc không sống bao lâu nữa. Cô ấy muốn trở lại đạo Công Giáo. Xin cha thương giúp.
Tôi nhận lời đi giúp ngay. Nhưng bà ta nói tiếp:
– Thưa cha, bạn con dặn: Nếu cha bằng lòng đến giúp thì xin cha đến cách kín đáo, vì chồng bà không thích người có đạo. Ông ta còn ngăm đe bà vợ: Nếu linh mục nào bén bảng đến nhà, ông sẽ đuổi ra xấu hổ. Vậy xin cha cẩn thận đến nhà lúc ông đi làm.
Nói xong bà ta biên địa chỉ nhà cho tôi rồi cáo biệt ra về.
Tôi bắt đầu tìm biết đến người không thích đạo ấy. Ông ta là luật sư nổi tiếng, có hai vợ, Têrêsa là con của vợ bé ở ngoại ô, còn ông thường sống với vợ lớn ở thành phố.
Sáng hôm đó, tôi đánh bạo đến nhà Têrêsa. Tôi cảm thấy vừa nguy hiểm vừa ngượng ngùng vì những cặp mắt soi mói của những người trong xóm. Cố tìm được nhà, vừa bước vào, tôi đã thấy cô Têrêsa nằm trên giường cây, đầu gối trên viên gạch, thân hình gầy ốm xanh xao.
Cô lễ phép chào tôi rồi kể lại lúc học ở trường Tin Lành, cô đã chọn tên Têrêsa vì thích tên này và vì mộ mến thánh nữ. Giờ đây cô muốn trở thành người Công Giáo….
Tôi liền nhờ một phụ nữ Trung Hoa tên là Êlêna dạy đạo cho cô. Và ba tháng sau, Êlêna báo tin cho tôi cô Têrêsa trở bệnh nặng. Tôi vội vàng chạy đến và rửa tội cho cô. Tôi vừa đọc xong:
“Têrêsa, cha rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Cô ngước mắt nhìn tôi với đôi mắt tràn đầy niềm vui tươi hạnh phúc….
Nhờ máu tử giá của Chúa Giêsu Kitô đổ ra để cứu chuộc thế gian, nên nguồn sinh lực ân sủng dồi dào khơi dậy các linh hồn tìm về nguồn ơn cứu rỗi. Sự khao khát ấy như Chúa đã nói từ xưa: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Lời nói ấy vẫn còn tiếp tục âm vang qua mọi thời đại và càng ngày càng trở nên thời sự:
– Thời đó mặc dù quan Philatô là vị thủ lãnh thông giỏi mà vẫn còn bỡ ngỡ hỏi Chúa Giêsu rằng: “Sự thật là gì” (Ga.18,38).
– Thời nay một số tù nhân ngoại giáo và những lính cai tù cũng đã hỏi Đức Hồng Y Tổng Giám Mục F.X. Nguyễn văn Thuận rằng: “Tại sao ông đã bỏ mọi sự: gia đình, quyền thế, giàu sang, để theo Chúa Giêsu? Có Thiên Chúa thực không? Lúc đó Đức Hồng Y Thuận trở thành ngôn sứ và mục tử của Chúa trong trại giam. Ngài đã giải thích những thắc mắc của họ….
Những ai đã được diễm phúc làm con Chúa, nhất là những người được đặc ân dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì, càng có khả năng và hoàn cảnh thuận tiện để nâng đỡ những linh hồn giầu thiện chí tìm về Chân Thiện Mỹ nhưng chưa thấy được ánh vinh quang huy hoàng của Chúa:
– Họ khao khát Lời Chúa.
– Họ khao khát gương sáng.
– Họ khao khát làm con của Chúa.
Đi vào thực tế trong đời sống, có rất nhiều linh hồn ước mong làm con Chúa nhưng còn bị ngăn trở bởi đam mê, bị ngăn bởi gia đình họ hàng, hoàn cảnh làm ăn phức tạp; hoặc là nhiều người không được các tông đồ dân Chúa đem nguồn sức thiêng đến cho họ. Chẳng hạn tiếng kêu S.O.S. thời sự nóng bỏng trong thế giới hiện tại của vô số thai nhi bị sát hại, chúng đang chờ mong các thiện nguyện viên đem “nước hằng sống” đến cứu họ….
Hôm nay trước khi về trời Chúa Giêsu cũng nói những lời cấp bách và truyền cho các tông đồ tiếp tục sứ mệnh của Ngài:
1. Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy: Vương quyền này tỏ rõ từ lời tuyên bố Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavit. Và sách sử còn chép rằng: Lúc còn trẻ Ngài được các nhà chiêm tinh từ đông phương nhìn nhận là “Vua dân Do Thái”. Tiếp nối trong cuộc đời, Chúa Giêsu đã từ chối nghe theo lời ma quỉ cám dỗ trong sa mạc để được quyền hành thế gian mà không cần phải hiến thân phục vụ tha nhân và chịu đau khổ cho đến chết. Nhưng trái lại Ngài đã theo ý Đức Chúa Cha, lãnh nhận cuộc tử nạn đầy thương khó để trở thành “Vua dân Do Thái” với mọi quyền hành trên trời dưới đất.
2. Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân:
Đây là hậu quả tất nhiên của vua uy quyền mà Chúa Giêsu đã được. Việc sai đi truyền giáo ở đây có ý nghĩa rất đặc biệt là đến với muôn dân chứ không hạn chế như trước kia là chỉ đến với “chiên lạc nhà Israel”. Đó là Hội Thánh phổ quát, đạo Công Giáo là dành cho hết mọi người. Chúa muốn qui tụ mọi dân tộc khác nhau, nhờ phép rửa tội mà chúng ta được trở nên nghĩa tử của Chúa Ba Ngôi: Với Chúa Cha là Đấng Tạo Thành, với Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, và với Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá.
3. Làm phép rửa cho họ: Đây là công tác của vị tông đồ. Khi ban phép Rửa tội, vị tông đồ đã tháo gông cùm của sự chết mà đưa họ vào cuộc phục sinh với Đức Kitô. Từ đây họ có thể cùng hợp xướng với thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải còn là tôi sống, mà là đức Kitô sống trong tôi” (Gl.2,20).
4. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần: Dấu ấn ân tình Chúa Ba ngôi khắc ghi trong tâm hồn sẽ là hạt giống trổ sinh ơn thánh, làm linh hồn ta lớn luôn mãi. Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa mà ta được lãnh nhận là ơn bí tích Rửa tội mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận qua bàn tay Giáo Hội. Hằng ngày chúng ta cảm nghiệm mầu nhiệm ấy mỗi khi sốt sắng làm dấu Thánh Giá trên mình.
5. Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Thánh Phaolô nói: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr.5,14). Động lực này sẽ giúp vị tông đồ hăng say loan truyền Lời Chúa khắp nơi: trực tiếp đến với tha nhân hoặc qua đài phát thanh, Intenet v.v.
6. Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Giêsu hiện diện ở trần gian 33 năm. Và sau Ngài về trời Chúa Thánh Thần sẽ mãi mãi là bảo đảm, là sức mạnh cho các tông đồ lên đường thi hành sứ mệnh được trao phó.
Ước gì chúng ta hợp nhất với các tông khắp nơi trên đường truyền giáo qua các vần thơ:
Trải qua các phố các phường,
Xĩm làng buổi sáng, hội đường chiều hơm.
Chữa chuyên, dạy dỗ, thăm nom,
Tình thương trải rộng bao trùm nơi nơi.
Những mong sứ điệp Nước Trời,
Rao truyền cho khắp người đời được nghe.
Thấy dân thống khổ ê chề,
Lịng người xúc động tràn trề mối lo.
Thường kêu mơn đệ dặn dị:
Các con hãy nguyện xin cho thêm người.
Lúa đà chín ngợp chân trời,
Kíp thêm cơng gặt, kịp thời tăng thu.
(Trích thơ của Linh Mục Nguyễn Xuân Văn)

92. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
TẬN THÂM CUNG CỦA THIÊN CHÚA
Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh mở màn chẳng những với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống mà còn với cả ba Lễ Trọng sau đó nữa, đó là Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (chính thức được cử hành vào Thứ Năm trong tuần Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng thường được cử hành vào Chúa Nhật), và Lễ Thánh Tâm Chúa (bao giờ cũng vào Thứ Sáu trong Tuần Lễ Mình Máu Thánh Chúa, dù là Lễ Trọng nhưng là lễ trọng không buộc). Nếu Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thì sự sống Ngài ban đây được bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được chất chứa nơi Mình Máu Thánh Chúa Kitô, và được thông ban do tình yêu vô biên của Thiên Chúa, một tình yêu được biểu hiện nơi Thánh Tâm Chúa Kitô.
Riêng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của chu kỳ phụng vụ năm B này liên quan đến mầu nhiệm con người tạo vật được làm con Thiên Chúa, được thông dự vào sự sống thần linh, sự sống nội tại của Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi. Trước hết, trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Mathêu chúng ta thấy Chúa Kitô lần đầu tiên (cũng là lần sau hết nên là lần duy nhất) tỏ tường mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi bằng một câu nói ngắn gọn bao gồm cả Ba Ngôi một lúc, đó là “Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh ‘Cha và Con và Thánh Thần’”. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo thì khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là con người tạo vật tội lỗi chẳng những, về phần tiêu cực, được rửa sạch tội tổ tông cùng tội mình làm (nếu được rửa tội vào lúc đã có đủ trí khôn) và được tha cả hình phạt bởi tội lỗi, mà còn, về phần tích cực, được ơn nghĩa với Thiên Chúa, kèm theo ba thần đức Tin Cậy Mến, để nhờ đó họ tư cách và khả năng thực hiện những tác động thần linh, cũng như được thông phần bản tính thần linh sống sự sống thần linh, sống như một người con cái Cha trên trời, trở nên chi thể của Chúa Kitô và thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Vấn đề thực tại sự sống thần linh hay cơ cấu sự sống siêu nhiên nơi con người lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội được phân tích theo giáo lý trên đây tuy rõ ràng nhưng có vẻ phức tạp và dài dòng. Giống như kiểu phải dọn dẹp một căn nhà cũ bề bộn những thứ bẩn thỉu hôi ám xấu xa cho đàng hoàng sạch sẽ trước đã rồi sau đó mới mang đồ đạc mới vào để trưng bày thành một căn nhà mới mẻ, hợp thời và sang trọng vậy. Thật ra, như ánh sáng chiếu tỏa tự nhiên làm tan bóng tối ngay lập tức thế nào thì con người tạo vật lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội cũng thế, bởi vì, lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, trước hết và trên hết, là lãnh nhận Thần Linh Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô đến là để làm phép rửa Thánh Linh (x Jn 1:33), và những ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x Jn 1:12), thì kẻ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội tức là con người được tái sinh bởi trên cao (x Jn 3:3), được tái sinh bởi nước và Thần Linh (x Jn 3:5). Cuốn Tông Vụ, một cuốn sách được gọi là Phúc Âm Thứ Năm, Phúc Âm về Chúa Thánh Thần, hầu như mỗi lần thuật lại một trường hợp lãnh nhận phép rửa đều có dính dáng hay đi liền với việc lãnh nhận Thánh Thần. Chẳng hạn như trường hợp Thánh Phêrô rửa tội cho cả nhà dân ngoại đầu tiên là gia đình Cornêliô (x Acts 10:44-48); trong trường hợp đây, thậm chí Thánh Thần đã xuống trên gia đình dân ngoại này trước khi họ chính thức lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội bằng hình thức nước nữa. Hay trường hợp Thánh Phaolô rửa tội cho một số môn đồ ở Êphêsô, những người mới lãnh nhận phép rửa thống hối của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, để họ có thể lãnh nhận Thánh Thần (x Acts 19:1-6).
Đúng thế, không có Thánh Thần, không lãnh nhận Thánh Thần, nghĩa là nếu không được Cha trên trời ban cho Thánh Thần của Ngài, cũng là Thánh Thần của Con (x Gal 4:6), một Thánh Thần hiệp thông Cha Con, không ai có thể nhận biết Thiên Chúa, một Vị Thiên Chúa tỏ mình nơi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô, tức không thể chấp nhận Chúa Kitô (x Acts 1Cor 12:3), do đó cũng không thể làm con Cha trên trời. Đó là lý do, ngay câu đầu tiên trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô đã tuyên bố: “Tất cả những ai được Thần Linh Thiên Chúa dẫn dắt đều là con cái Thiên Chúa”. Tại sao? Tại vì Thánh Thần được ban cho con người lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội đây, cũng trong bài đọc thứ hai cho thấy, là Thánh Thần yêu thương, chứ không phải là một thứ tinh thần sợ sệt (như tinh thần của Thời Cựu Ước), một Thánh Thần làm cho “chúng ta kêu lên ‘Abba’ (tức là ‘Cha ơi’)”. Phần chúng ta là thành phần lãnh nhận Phép Rửa nhân danh Chúa Kitô, Phép Rửa Thánh Thần, nhờ Thánh Thánh đã được ban cho, chúng ta từ từ sẽ thấy được rằng và sẽ sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa. Đó là lý do sau khi cho biết những ai lãnh nhận tinh thần thừa tự để có thể kêu với Thiên Chúa là ‘Cha ơi’, Thánh Phaolô liền dẫn giải thêm: “Chính Thần Linh làm chứng cho tâm linh chúng ta rằng chúng ta là con cái của Thiên Chúa”. Đúng thế, Thánh Thần được ban cho Kitô hữu chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội sẽ “dẫn đắt” thành phần con cái Thiên Chúa chúng ta, sẽ làm cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta từ từ cảm nhận được trong cuộc đời sống đạo của mình thân phận cao trọng được làm con cái Thiên Chúa, tức dần dần làm cho chúng ta sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Tất cả tiến trình Linh Đạo Kitô Giáo, hay tất cả con đường nên thánh của Kitô hữu là ở chỗ này.
Thật vậy, Thánh Thần được ban cho Kitô hữu khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội là Vị, qua các tặng ân của mình, tặng ân khôn ngoan và thâm hiểu, tặng ân huấn dụ và sức mạnh, tặng ân tri thức và kính sợ cùng hiếu thảo (x Is 12:2-3), sẽ làm cho Kitô hữu mỗi ngày một sống trọn ơn gọi làm con cái Thiên Chúa hơn. Ở chỗ, Ngài làm cho họ càng ngày càng nên giống như Chúa Kitô, càng đạt đến tầm mức thành toàn của Chúa Kitô là Đầu (x Eph 3:13,15), một Người Con đẹp lòng Cha mọi đàng (x Mt 3:17, 17:5), vì luôn luôn làm theo ý của Cha hơn là ý của mình (x Jn 17:4). Đúng thế, làm cho Kitô hữu nên giống Chúa Kikô, hay làm cho Chúa Kitô được hoàn toàn hình thành nơi Kitô hữu, tức là làm cho Kitô hữu sống trọn Kinh Lạy Cha, với tất cả tâm nguyện và đời sống chỉ biết làm sao để “Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6:9-10). Vì tất cả cuộc đời trần gian của Chúa Kitô, của Con Thiên Chúa Làm Người là sống chết với ước nguyện duy nhất này. Để rồi, sau khi hoàn tất mọi sự trên Thập Giá đúng như ý muốn của Cha, cho dù có phải uống cạn chén đắng Cha trao (x Mt 26:39), thậm chí có bị Cha hoàn toàn bỏ rơi (x Mt 27:46), Vị Thiên Chúa Nhập Thể này, sau khi sống lại từ trong kẻ chết, đã thông ban Thánh Thần của mình cho các tông đồ, và qua các vị ban cho thành phần tin tưởng chấp nhận Người (x Jn 20:22-23; Lk 24:46-47).
Nếu Chúa Cha khi hoàn toàn tỏ mình ra nơi Ngôi Lời Nhập Thể đồng thời cũng thông ban Thánh Thần của Ngài cho nhân loại nơi Con Người Giêsu Kitô, và Con Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô đến để tỏ Cha ra (x Jn 1:18) đồng thời cũng để thông ban Thánh Thần của Người cho những ai tin tưởng chấp nhận Người và qua họ cho tất cả thế gian, thì Thánh Thần đến là để làm cho con người tin nhận Chúa Kitô, nên một với Chúa Kitô, sống Chúa Kitô, một Chúa Kitô Thiên Sai, đến để làm chứng về Cha, Đấng đã yêu thương thế gian đến ban Con một mình để những ai tin Con thì không phải chết nhưng được sự sống trường sinh (x Jn 3:16), được Thánh Thần, được hiệp thông với Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi, Đấng con người đã lãnh nhận Phép Rửa ‘nhân danh Cha và Con và Thánh Thần’.
Thiên Chúa là Cha đã ban cho chúng ta Bản Thân Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Lời Nhập Thể, và ban cho chúng ta Thâm Cung của Ngài là Thánh Thần, Thần Chân Lý (x Jn 16:13), Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự kể cả thâm cung Thiên Chúa (x 1Cor 2:10). Nếu bản tính Thiên Chúa, theo Mạc Khải Cựu Ước, là hiện hữu (x Ex 3:14), thì Chúa Kitô đã mạc khải trong Tân Ước rất chính xác: “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24). Bởi vì, “là Thần Linh”, từ đời đời đến đời đời, Thiên Chúa (Chủ Thể) hằng Ý Thức (Thần Linh) về Bản Thân Mình (Ngôi Lời). Đó là lý do, “ai tôn thờ Thiên Chúa phải tôn thờ Ngài trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24), tức trong Thần Linh và Chúa Kitô (Chân Lý). Nhờ Thánh Thần, Thần Linh của Thiên Chúa, con người tạo vật mới có thể biết được Thiên Chúa như chính Ngài biết mình Ngài, như Ngài đã tỏ ra nơi Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô. Như thế, một khi được lãnh nhận Thánh Thần là Thần Linh của Thiên Chúa, là con người được hiệp thông với Thiên Chúa, được nên con Thiên Chúa và sống Sự Sống Thần Linh, Sự Sống Nội Tâm của Thiên Chúa.
Vấn đề cần phải đặt ra ở đây là trong Lời Nguyện Hiến Tế của Chúa Kitô kết Bữa Tiệc Ly, một lời nguyện mà, theo nội dung, là cốt lõi của Phúc Âm nói riêng và của toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước nói chung, tại sao Chúa Giêsu không hề nói đến một chút nào Thánh Thần? Nếu vậy thì chẳng những Lời Nguyện Hiến Tế này không thể gồm tóm tất cả Mạc Khải của Thiên Chúa, mà chính Mạc Khải về Thiên Chúa cũng có khuynh hướng đa thần hơn là độc thần. Bởi vì, nếu không có Thánh Thần, không hiệp thông nên một, Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con không còn là Một Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất mà là hai Thiên Chúa hoàn toàn khác nhau, có những lúc kình chống nhau như nước với lửa, như sáng với tối, không vị nào chịu vị nào, vị nào cũng muốn mình là chúa tể. Đó là lý do Chúa Kitô mới mạc khải “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24). Vị “Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất” (Jn 17:3) chính là Vị “Thiên Chúa là Thần Linh”. Thật ra, dù Chúa Giêsu không hề minh nhiên nhắc đến chữ Thánh Thần hay Thần Linh như Người đã nói với các tông đồ trước đó trong Bữa Tiệc Ly, nhưng Thánh Thần thực sự hiện diện trong Lời Nguyện Hiến Tế này. Ở những chỗ Người nói về “sự sống đời đời” và “hiệp nhất nên một”.
Về “sự sống đời đời”, nếu Thánh Thần là Thần Linh Thiên Chúa, là Ý Thức Thần Linh của Thiên Chúa về Bản Thân Mình, mà “sự sống đời đời là nhận biết Thiên Chúa chân thật duy nhất và Giêsu Kitô Cha sai” (Jn 17:3), thì “Người ban cho họ sự sống đời đời” (Jn 17:2) đây không phải là ban Thánh Thần cho những ai tin vào Người hay sao? Thật vậy, vì Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất về bản thể và ưu phẩm, nên trong thâm cung của Thiên Chúa, Ba Ngôi đều là sự sống. Tuy nhiên, nơi Thiên Chúa lại có Ba Ngôi Vị khác nhau về tính cách và vai trò, mà Ba Ngôi là sự sống cũng có tính cách khác nhau. Chúa Cha là sự sống tương tự như Mặt Trời, Ngôi Lời “là sự sống” (Jn 4:16) tương tự như ánh sáng tỏa ra từ mặt trời, “Ánh Sáng sự sống” (Jn 8:12), và Thánh Thần là sự sống tương tự như Nhiệt Năng của Mặt Trời làm cho sinh vật sinh động.
Về “hiệp nhất nên một”, nếu Chúa Kitô liên quan đến ân sủng, Chúa Cha liên quan đến tình yêu và Thánh Thần liên quan đến ơn thông hiệp (x 2Cor 13:13), thì lời Chúa Kitô nguyện cùng Cha cho Giáo Hội “được hiệp nhất nên một như Chúng Ta” (Jn 17:21) bấy giờ không phải là cho Giáo Hội “được Thần Linh như Chúng Ta” hay sao, nhờ đó, họ được ở trong Chúng Ta? Có thể nói, hoạt động ngoại tại của Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất là Mạc Khải tất cả thâm cung của Thiên Chúa là Thần Linh nơi Lời Nhập Thể Vượt Qua đầy Thánh Thần. Nếu nội tại, Chủ Thể Thần Linh (Ngôi Cha) Ý Thức Thần Linh (Thánh Thần) được Bản Thân Thần Linh của Mình là Ngôi Lời thế nào, thì ngoại tại, Ngôi Lời cũng Ý Thức Ngôi Cha như vậy, cũng phản ảnh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha như vậy (x Heb 1:3), chẳng những qua Mầu Nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua, mà còn qua Giáo Hội Chứng Nhân của Người nữa.
Vậy con người tạo vật chúng ta được rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, như bài Phúc Âm nói đến đây là gì, nếu không phải được tái sinh vào Sự Sống Thần Linh. Vì “Cha” đây nghĩa là nguồn mạch sự sống. “Con” đây là chính sự sống của Cha, phát xuất từ nguồn mạch của mình là Cha. “Thánh Thần” đây là “Đấng ban sự sống”, vì Ngài là Ý Thức của Cha về Bản Thân Cha là Con. Bởi thế, khi được lãnh nhận phép rửa “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” là Kitô hữu lãnh nhận “phép rửa Thánh Thần” (Jn 1:33), hay lãnh nhận chính Thánh Thần, tức Ý Thức Thần Linh, để họ có thể “hiệp nhất nên một như chúng ta là một” (Jn 17:22), tức như “Cha ở trong Con” (Jn 17:21), ở chỗ Cha Ý Thức Bản Thân Mình là Con, và như “Con ở trong Cha” (Jn 17:21), qua việc Con Nhập Thể “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Sự Sống Thần Linh, hay Sự Sống Thiên Chúa Ba Ngôi, nơi Kitô hữu đây quả thực ở chỗ họ “nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

93. Lễ Chúa Ba Ngôi
HUẤN TỪ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
(Chúa Nhật Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi – 31/5/2015 – Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch)
Xin chào anh chị em thân mến Chúa Nhật!
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một lễ nhắc nhở chúng ta về mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất có ba Ngôi Vị: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Ba Ngôi là một thực tại hiệp thông Thần Linh với nhau, cho nhau và trong nhau: thực tại thần linh này là sự sống của Thiên Chúa, là mầu nhiệm yêu thương của Vị Thiên Chúa hằng sống. Thế nhưng, ai đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này vậy? Chúa Giêsu. Người đã nói với chúng ta về Thiên Chúa như là một Vị Cha; Người đã nói cho chúng ta về Thần Linh; và Người đã nói cho chúng ta về chính Bản Thân Người như là Con của Thiên Chúa. Thế nên Người đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này. Rồi khi sống lại từ cõi chết, Người đã sai các môn đệ của Người đi truyền bá phúc âm hóa dân chúng, bảo các vị hãy rửa tội cho họ “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mathêu 28:19). Chúa Kitô trao phó cho Giáo Hội ở mọi thời đại lệnh truyền này, một Giáo Hội thừa hưởng sứ mệnh truyền giáo này từ các Tông Đồ. Người cũng ngỏ cùng mỗi một người chúng ta là thành phần nhờ Phép Rửa đã thuộc về Cộng Đồng của Người nữa.
Bởi thế, việc long trọng cử hành phụng vụ hôm nay, trong khi cho chúng ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm diệu vợi này là mầu nhiệm chúng ta vừa phát nguồn vừa nhắm tới, cũng canh tân trong chúng ta sứ vụ sống hiệp thông với Thiên Chúa và sống hiệp thông giữa chúng ta theo mô phạm hiệp thông của Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi không phải để sống thiếu nhau, sống trên nhau hay sống nghịch nhau mà là sống với nhau và sống trong nhau. Nghĩa là chúng ta được kêu gọi để nhận lãnh và theo đó cống hiến chứng từ về vẻ đẹp của Phúc Âm, để sống trong tình yêu thương nhau và hướng về tất cả mọi người, chia vui xẻ buồn, biết xin lỗi và tha lỗi, trân trọng những đặc sủng khác nhau theo sự hướng dẫn của các vị Mục Tử. Tóm lại: chúng ta được trao phó cho công việc xây dựng nên các cộng đồng giáo hội càng ngày càng trở nên như là một gia đình, có khả năng phản ánh quang rạng ngời Chúa Ba Ngôi và có thể truyền bá phúc âm hóa chẳng những bằng ngôn từ mà còn bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa sống trong chúng ta.
Ba Ngôi, như tôi đã đề cập, còn là đích điểm tối hậu nhắm tới cho cuộc hành trình trần thế của chúng ta. Con đường của đời sống Kitô hữu thực sự là một con đường mang tính cách chính yếu là “ba ngôi”: Thánh Linh hướng dẫn chúng ta để hiểu biết trọn vẹn về giáo huấn của Chúa Kitô. Đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta về những gì Chúa Kitô dạy chúng ta. Về phần mình, Chúa Giêsu đã đến thế gian để làm cho chúng ta nhận biết Cha, để chúng ta được Ngài dẫn dắt, và để hòa giải chúng ta với Ngài. Hết mọi sự trong đời sống Kitô hữu đều xoay quanh mầu nhiệm Ba Ngôi và được viên trọn trong mầu nhiệm vô cùng này. Thế nên, chúng ta hãy tìm cách để vươn cao “cách” sống của chúng ta, nhắc nhở mình rằng chúng ta hiện hữu, hoạt động, tranh đấu, chịu đựng cho đích điểm cũng như cho vinh quang nào; và chúng ta được kêu gọi để thừa hưởng phần thưởng bất tận nào.
Mầu nhiệm này bao gồm tất cả đời sống của chúng ta và trọn cuộc đời Kitô hữu của chúng ta. Chúng ta cần phải nhắc nhở mình mỗi lần chúng ta làm dấu Thánh Giá: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Vậy giờ đây tôi mời anh chị em hãy cùng nhau lớn tiếng làm dấu Thánh Giá. Nào hết mọi người! [Làm dấu Thánh Giá].
Trong ngày cuối cùng của Tháng Năm này, tháng Thánh Mẫu đây, chúng ta hãy ký thác bản thân cho Đức Trinh Nữ Maria. Chớ gì Mẹ là Đấng hơn bất cứ một tạo vật nào đã nhận biết, tôn thờ và kính mến mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh, lấy tay dẫn dắt chúng ta; giúp chúng ta nắm bắt được những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần nơi các biến cố trên thế giới này. Xin Mẹ giúp chúng ta yêu mến Chúa Giêsu hết lòng, tiến bước về viễn ảnh Ba Ngôi, đích điểm tuyệt vời mà cuộc đời của chúng ta nhắm đến. Chúng ta cũng xin Mẹ giúp cho Giáo Hội để Giáo Hội trở thành một mầu nhiệm hiệp thông, luôn là một cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng hiếu khách, nơi mà hết mọi người, nhất là người nghèo và bị ra rìa, có thể được chấp nhận, và để Giáo Hội cảm thấy mình như là một nữ tử của Thiên Chúa được Ngài mong muốn và thương yêu.

94. Người mang Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Minh Vận, CRM)
Kirchner, một nhà thiên văn nổi tiếng, có một bạn học là người vô thần. Một hôm, ông bạn này tới thăm nhà thiên văn và rất thích thú ngắm nghía mô hình thái dương hệ đặt trên bàn giấy. Mỗi khi dùng cần quay, thì cả thái dương hệ di chuyển theo đung vị trí của mỗi hành tinh. Ông bạn vô thần hỏi:
– Hay thiệt, ai làm mô hình này vậy?
– Chẳng ai làm cả, nhà thiên văn trả lời.
– Thật đó, nói đi, tôi thật muốn biết, nhà vô thần nói tiếp.
– Thì tôi vừa nói với anh la không ai làm cả. Nó tự mình mà có, nhà thiên văn đáp.
Ông bạn vô thần lúc này cảm thấy hơi nóng mặt, nên nói gằn từng tiếng: “Thì ra anh chơi tôi đấy phải không?” Nhà thiên văn đáp: “Xin lỗi anh, nhưng tôi chỉ muốn cho anh thấy cái vô lý của anh. Trong khi anh không tin cái mô hình đó tự nó mà có, anh lại cho rằng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, và cả vũ trụ hiện hữu mà không có Đấng Tạo Dựng!”
Người bạn vô thần lặng lẽ từ gia ra về, lòng suy nghĩ miên man, rồi cuối cùng đã xin trở lại gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trong nhất trong Kitô Giáo: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi riêng biệt, Thiên Chúa Ngôi Cha, Thiên Chúa Ngôi Con và Thiên Chúa Ngôi Thánh Linh. Chúa Cha tạo dựng vũ trụ, Chúa Con Cứu Chuộc muôn dân và Chúa Thánh Linh thánh hóa các linh hồn.
Đây là một mầu nhiệm thuộc đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, nó vượt mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Các nhà bác học dù khôn ngoan thông thái đến đâu cũng không thể hiểu hết được cái vũ trụ vật chất đang hiển hiện trước mắt, mà chỉ mò mẫm khám phá được một phần nào nơi các công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Vậy con người càng phải thú nhận sự bất lực của chính mình, trước một mầu nhiệm cao trọng nhất của Đức Tin, đó là Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta hãy hết lòng khiêm tốn suy phục và tôn thờ những điều Chúa đã mạc khải trong Thánh Kinh, với thế giá là Đấng chân thật vô cùng, không hề lừa dối ai và cũng không ai có thể lừa dối được Ngài.
I. MẶC KHẢI CHÚA BA NGÔI TRONG TÂN ƯỚC
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Chúa Kitô, là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người đã mạc khải cho chúng ta về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, qua thánh lệnh Ngài truyền cho các Tông Đồ: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được Chúa Cha trao ban cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm Phép Rửa cho họ nhân Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Chúa còn phán tiếp: “Thầy hứa sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:19-20).
Nơi khác, Chúa hứa yêu thương và đến ngự trong lòng những kẻ yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Ngài: “Ai yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ngự trong người ấy” (Jn. 14:23). Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi còn được mac khải ở nhiều nơi khác trong Tân Ước, như dịp Chúa tỏ vinh quang của Người cho ba môn đệ (Mt 17), dịp Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan (Mt 3:13-17).
Đó là những chân lý Chúa và Giáo Hội dạy chúng ta phải tin, hằng ngày chúng ta tuyên xưng niềm tin đó khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá, đọc kinh Sáng Danh, và tuyên xưng trong kinh Tin Kính, hoặc các trường hợp khác tương tự khi tham dự các Nghi Lễ Phụng Vụ.
II. ĐỀN THỜ SỐNG ĐỘNG CỦA CHÚA BA NGÔI
Khi lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được diễm phúc trở nên con Thiên Chúa, được Chúa Ba Ngôi ngự trong hồn xác chúng ta như Đền Thờ sống động, như Thiên Đàng của Người. Chúng ta còn được sống bằng sức sống thần linh cua Chúa, nhờ công nghiệp Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô.
Chính nhờ niềm tin Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn, mà biết bao người đã biết sống cuộc đời trong sạch; bao tội nhân đã được ơn cải thiện, bỏ đàng tội lỗi trở về với Chúa; bao chính nhân đã anh dũng hy sinh vì Chúa, sẵn sàng hy hiến cuộc đời để bênh vực Đức Tin; bao thanh niên nam nữ đã hy sinh cả cuộc đời mộng mơ, thánh hiến bản thân và cả cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa; bao vị tông đồ đã từ bỏ quê cha đất tổ, với nếp sống đầy đủ tiện nghi thoải mái, để chọn một cuộc sống khổ cực nghèo nàn vất vả nơi các xứ truyền giáo, nhiều khi phải liều cả mạng sống mình để chinh phục các linh hồn về cho Chúa.
III. NGHĨA VỤ KHẨN THIẾT CỦA CHÚNG TA
Là con cái Chúa và Giáo Hội, chúng ta phải có nghĩa vụ nào với ơn cao cả được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta? Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta không phải chỉ như một Thiên Chúa, một Chủ Tể tối cao hiện diện trong các thụ tạo của Người; mà hơn nữa, Chúa còn ngự trong tâm hồn chúng ta như một Người Cha Nhân Từ hằng yêu thương con cái, như lời Chúa Cứu Thế đã dạy chúng ta cầu xin với Người: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời”. Chúa quan đến mọi nhu cầu dù rất nhỏ mọn, chẳng khác gì một bà mẹ săn sóc con nhỏ của mình. Chính Chúa đã bày tỏ lòng yêu thương đó, khi sánh Mình như một bà mẹ qua lời Chúa phán với tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, nâng niu trên đầu gối, như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng cưng yêu vỗ về các con như vậy” (Is 66:12-13).
Tình Chúa yêu thương chúng ta còn tới chỗ thai quá khi nâng chúng ta lên ngang hàng với Người và gọi chúng ta là bạn: “Thầy không còn gọi các con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi các con là Bạn Tâm Phúc, vì tất cả những điều Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho các con biết” (Jn 15:15).
Chúa còn ngự trong tâm hồn chúng ta như Đấng Thánh Hóa, luôn trào đổ muôn ơn lành xuống trên chúng ta, ban cho chúng ta các nhân đức và hồng ân của Người, giúp chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi và quyền lực Satan, hầu chúng ta được sống xứng đáng với ơn gọi cao cả làm con Chúa, làm Đền Thờ sống động Chúa hằng sung sướng hiển ngự.
Vậy nghĩa vụ khẩn thiết chúng ta phải có đối với Chúa Ba Ngôi là:
1. Tôn Thờ: Chúng ta cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đ¨¢ng như một nghĩa vụ khẩn thiết của một thụ tạo phải có đối với Đấng Tạo Hóa, bằng cách luôn hiệp với Hiến Lễ Thánh Thể hằng tiến dâng nơi các bàn thờ trên khắp thế giới, nhất là mỗi khi chúng ta cử hành hay tham dự Thánh Lễ Misa; đồng thời; biến cả cuộc đời chúng ta cùng với Công Nghiệp và Giá Máu Chúa Cứu Thế, thành một Thánh Lễ liên tiếp để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì chỉ có Lễ Hy Sinh của Chúa Kitô mới có giá trị vô song, tái diễn Lễ Hiến Tế Núi Sọ mới đáng được Thiên Chúa hài lòng chấp nhận. Không bao giờ cố tình tục hóa Đền Thờ bản thân chúng ta đã được hien dâng cho Chúa ngày chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em không biết rằng anh em là Đền Thờ Thiên Chúa sao, ai tục hóa Đền Thờ Thiên Chúa, sẽ bị Chúa hủy diệt” (1 Cor 3:16).
2. Yêu Mến: Chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa, bằng cách không từ chối Chúa điều gì, luôn làm hài lòng Chúa, làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, dâng trót tình yêu cho Chúa, đáp lại lòng Chúa khát khao: “Con hãy dâng trái tim con cho Cha!” (Prov 23:26) hợp với thánh lệnh Chúa truyền: “Con hãy yêu mến Thiên Chúa là Chúa con hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết tâm hồn con” (Mt 22:37).
3. Biết Ơn: Để tỏ lòng biết ơn Chúa vì những ơn phúc Chúa đã ban, ơn được làm con Chúa, ơn được làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, ơn được trở nên Thừa Tác Viên phân phát các mầu nhiệm thánh… Chúng ta hãy cẩn phòng bảo toàn ơn thánh đã lãnh nhận, luôn giữ tâm hồn trong sạch sống trong ơn nghĩa Chúa, luôn làm hòa lòng Chúa, không bao giờ xúc phạm đến Chúa, bằng cách cố tình phạm bất cứ một tội lỗi nào, nhất là tội trọng, vì phạm tội trọng là trục xuất Chúa Ba Ngôi ra khỏi tâm hồn, đón rước ma quỉ vào thống trị tâm hồn mình. Hơn nữa, cần phải cố gắng giãi sáng ơn thánh Chúa bằng sống đời gương mẫu thánh thiện, nên chứng nhân chinh phục cho Chúa các linh hồn, để chớ gì tất cả những ai chúng ta giao tiếp, những ai chúng ta có sứ mạng phục vụ, đều cảm nhận thấy nơi bản thân chúng ta là “Người mang Thiên Chúa trong lòng”.
Kết Luận
Những ai được tham dự các buổi triều yết Đức Thánh Cha Piô XII đều có cùng một nhận định khi quả quyết rằng: “Chúng tôi có cảm giác như ngài đang thấy Thiên Chúa hiện diện”. Một bác nông phu nhà quê cũng phát biểu một tư tưởng tương tự, khi được mời tới thẩm vấn để lập hồ sơ xin phong Thánh cho Thánh Gioan Maria Vianney: “Toi đã thấy Thiên Chúa nơi ngài!”
Vậy, người ta sẽ phát biểu thế nào khi thấy chúng ta, là những con người được diễm phúc mang danh nghĩa là con Thiên Chúa, là Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, là Chúa Kitô thứ hai, là những tông đồ, những sứ giả của Thiên Chúa?

95. Dòng sông
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày nào Hội thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta quan tâm để tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc đời của chúng ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên he gì tới đời sống của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và liên hệ mật thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình va dẫn lối để chúng ta đi tới bến bờ hạnh phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho các vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chay đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đong càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước la đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ hôm nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Mà tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người, nghĩa là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan tâm nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu Chúa Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết để cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi vậy.

96. Sống hoà nhịp
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng đi với mình:
– “Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”.
Người ban của anh ngạc nhiên và hỏi:
– “Làm sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế, giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?”
Người nông dân đáp lại:
– “Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được với tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói:
– “Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền muộn, chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói: “Ngay khi mở đôi mắt của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa”. Và Abraham Lincoln đã nói: “Tôi có thể nhận thấy con người có thể nhìn xuống mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng không hề có Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa. Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do người may, một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được gì. Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất cứ người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu nhiệm này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một người Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như là một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta sống theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như la anh chị em trong một cộng đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu, đây là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu.

97. Lễ Chúa Ba Ngôi
THIÊN CHÚA ĐO LƯỜNG TRÁI TIM CHÚNG TA.
(Suy niệm của Lm Hữu Độ)
Chuyện kể rằng: một hôm có chàng thanh niên vào rừng đốn củi. Đến trưa nhọc mệt anh nằm nghỉ dưới gốc cây đa cổ thụ, nhìn lên thấy cành lá rườm rà, song qủa đa nhỏ xíu. Anh thầm nghĩ, sao cây thì khổng lồ mà trái nhỏ xíu vậy tôi mà là Ông Trời thì tôi cho trái nó to như trái bí và lá nó to như lá chuối như thế mới cân xứng. Đúng là Ông Trời thiếu khôn ngoan, không biết tính toán gì cả. Thế rồi anh ngủ đi lúc nào không hay. Đang ngủ say thì một cơn gió lớn thổi mạnh làm một qủa đa rớt vào mặt anh ta. Anh giật mình thức dậy vừa xoa mặt vừa nghĩ: May quá, nếu trái đa lớn bằng trái bí thì mặt mình đã dập ra như cái bánh bao rồi. Qủa là Ông Trời khôn ngoan, biet lo liệu hơn là mình nghĩ.
Thiên Chúa sáng tạo mọi sự hài hòa và có tính toán của Chúa. Nhìn vào chính thân thể mình, chúng ta thấy là cả một công trình vừa tỉ mỉ vừa tài khéo không có đầu óc phàm nhân nào hiểu thấu. Thí dụ như chỉ trong một square inch da của chúng ta mà thôi thì trong đó có chứa tới 19 triệu tế bào của da, 60 sợi lông, 90 tuyến mỡ, 19 feet mạch máu, 625 tuyến mồ hôi và 19,000 tế bào cảm giác.
Sách Giáo Lý Công Giáo so 292 cho chúng ta biết Sáng Tạo là công cuộc của Chúa Ba Ngôi, “Được ám chỉ trong Cựu Ước, được mạc khải trong Tân Ước, hành động sáng tạo của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, là một và không thể tách rời hành động sáng tạo của Chúa Cha… Sáng tạo là công cuộc chung của Ba Ngôi Thiên Chúa.”
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm vượt trên mọi trí khôn thụ tạo. Mầu nhiệm này là mầu nhiệm trung tâm của Đức Tin và của sinh hoạt Kitô giáo. Nếu dùng đầu óc để tìm hiểu mầu nhiệm này thì chắc chắn chúng ta thất vọng. Nhưng may mắn chúng ta có Trái Tim để cảm nghiệm được một phần nào không phải cái “lý lẽ” của mầu nhiệm nhưng thứ “tình yêu” bao la mà Thiên Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta. Nghĩa là vì yêu thương mà Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên chúng ta, vì yêu thương mà sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa không bỏ mặc nhưng hy sinh Người Con duy nhất của Ngài để cứu chuộc chúng ta, rồi cũng vì yêu thương mà Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta, tức là Chúa Thánh Thần tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa Con nơi mỗi người cho tới khi thành đạt là được hưởng Nước Trời.
Bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu cho nên khi đo lường con người thì Chúa đo ở Trái Tim chứ không ở Cái Đầu. Có nghĩa là Chúa đo mức độ chúng ta mến Chúa và yêu anh chị em chứ không đo mức độ chúng ta hiểu biết khoa học nhiều hay thông suốt nhiều ngôn ngữ.
Cứ trở lại Phúc Âm chúng ta thấy rõ điều đó: để định đoạt số phận đời đời của mỗi người thì Chúa hỏi chúng ta có làm hay không làm cho những anh chị em nghèo đói, trần truồng, lao tù, đau yếu? Để xác định chúng ta được tha nhiều hay ít thì Chúa cũng đo ở tình yêu, “Chị này được tha nhiều bời vì chị yêu mến nhiều.” Để giao trách nhiệm liên quan đến người khác thì Chúa đo lường ở tình yêu, “Phêrô, con có yêu mến Thầy hơn những người nay hay không?… hãy chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Thầy.” Để xác định chúng ta là môn đệ Chúa hay không thì Chúa cũng dựa vào tình yêu, “Các con cứ yêu mến nhau để thiên hạ nhìn thấy mà biết các con là môn đệ Thầy.” Như vậy “đồng phục” của người Công Giáo là Đức Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày nào đó con người sẽ trở về nguồn gốc của mình là tro bụi. Tất cả những hành trang chúng ta gom góp và nâng niu như: kiến thức, sức khỏe, sắc đẹp, thông minh, tài khéo… khi chạm tới quan tài đều biến thành con số không. Chỉ có một thứ hành trang duy nhất chúng ta có thể mang đi với mình là Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Trong ngày lễ trọng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta nhắc nhở mình cái chân lý này: Tôi đã được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nên Ngài dựng thành, cứu chuộc và thánh hóa. Vậy tôi phải có nghĩa vụ đáp trả lại tình yêu đó. Nợ tình phải trả bằng tình. Cuối cùng chỉ có Đức Mến là thiên thu.
Đã nhiều lần tôi trộm nghĩ, nếu bây giờ mình ra khỏi thế gian này, đứng trước tòa Chúa phán xét thì điều gì tôi hối hận nhất? Tôi không cần suy nghĩ lâu để tìm ra câu trả lời, “Điều tôi hối hận nhất là khi còn sống trên trần gian này tôi yêu mến Chúa qúa ít. Từ cái nhược điểm đó nó kéo đi theo bao nhiêu vấn đề xấu hay tiêu cực khác.” Rất may chúng ta còn có thời giờ, chúng ta biết phải làm gì để bơt hối hận nhiều ở đời sau.

98. Đền thờ của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao siêu và quan trọng vọng nhất trong đạo, do Thiên Chúa là Đấng chân thật vô cùng đã mạc khải qua Thánh Kinh. Một mầu nhiệm đó vượt quá trí khôn thụ tạo, mà Giáo Hội truyền dạy chúng ta. Thánh Gioan Thánh Giá lại dạy: “Hãy nghe lời cốt yếu và đầy chân thật mà giác quan không thể chạm tới. Hãy tìm lời đó trong Đức Tin và trong tình yêu mến, con đừng tìm vui thỏa, mãn nguyện trong bất cứ thụ tạo nào”. Thánh Phaolô dạy: “Đức Tin là bảo đảm những điều chúng ta hy vọng, là bằng chứng thực tại những điều chúng ta không thấy” (Heb 11.1).
Nếu chúng ta hỏi các nhà khoa học: Điện là gì và tại sao điện có nhiều công hiệu khác nhau như vậy? Tại sao khi cắp điện vào thi bàn ủi nóng? Tủ lạnh tỏa hơi lạnh? Lắp bóng điện vào là đèn cháy sáng? Bật công tắc máy quạt là máy quay?… Còn biết biết bao điều tương tự như thế nữa, dù các nhà khoa đại tài cũng không giải thích thỏa đáng được.
Vậy trong lãnh vực tự nhiên ấy mà các nhà khoa học còn không thể hiểu, thì trong lãnh vực siêu nhiên, con người hữu hạn có thể hiểu sao được? Chúng ta hãy khiêm nhường suy phục và tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa mà Chúa đã thương tỏ cho chúng ta.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi được tỏ rõ trong Tân Ước như lúc:
a. Chúa Kitô đi giảng, Ngài đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28:19).
b. Khi Chúa Kitô chịu phép rửa trên sông Jordan, Chúa Thánh Thần lấy hình ảnh Chim Bồ Câu đậu trên đầu Ngài và đồng thời có tiếng Chúa Cha từ trời tuyên phán: “Đây là Con Cha yêu dấu, Con làm vui thỏa lòng Cha” (Mt 3:17).
c. Rồi khi khác, Chúa lại phán: “Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lệnh Thầy truyền, Thầy sẽ nài xin Chúa Cha sai Đấng An Ủi đến ở cùng các con mọi ngày” (Jn 14:15)…
Chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội tuyên xưng Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi, Cha Con, và Thánh. Ngài đã cứu chuộc, ban ơn thánh hóa, để chúng ta sống xứng đáng ơn gọi làm con Chúa.
Khi dựng nên ta, Ngài đã yêu thương ta như một thụ tạo của Đấng tạo thanh. Khi rửa tội, Ngài đã phục hồi ơn nghĩa làm con Chúa. Khi sống trong ơn nghĩa, Ngài lại coi ta như người bạn tâm phúc, như Người Yêu muôn thuở. Chúng ta hằng được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn, như ngự trên Thiên Đàng hạnh phúc, Ngài phán: “Hạnh phúc của Ta là ở giữa con cái loài người”. Thánh Phaolô cũng đã minh xác: “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, là đền của Chúa Thánh Thần ngự trị” (I Cor 3:16).
Vậy chúng ta phải có nghĩa vụ nào đối với Vị Thượng Khách qúy mến ấy? Chúng ta phải năng tưởng nhớ đến Người, năng dâng lên Ngài lòng tôn thờ, yêu mến, tri ân và nhất là đừng bao giờ cố tình phạm tội trọng xúc phạm đến Ngài.
Lạy Mẹ Maria là bạn tâm phúc của Chúa Thánh Thần, xin Mẹ giúp chúng con hiểu biết giáo huấn của Ngài, để chúng con biết quí trọng và gìn Chúa Ba Ngôi đang ngự trong tâm hồn chúng.
Xin thúc dục chúng con năng tưởng nhớ, viếng thăm và thân thưa với Ngài, nhất là giữ tâm hồn chúng con luôn trong sạch, thánh thiện, để chỉ biết yêu mến và làm hài lòng Ngài thôi.

99. Suy niệm của Lm. Thu Băng
Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa
Trong đoạn Tông thư Thánh Phaolô có lời cầu chúc: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đ¨¬nh đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng…”. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: “Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đ¨¤ng”
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
– Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
– Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
– Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
– Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. “Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi” và ngài đã kết luận “Thiên Chúa Ba ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời”. Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngoi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chua Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngoi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: “Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em” (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buon bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội… tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng… gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau…. Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thien, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.

100. Kẻ nội thù
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng, chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính, thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay cũng chỉ làm thanh một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng, cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt, nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về Chúa Ba Ngôi.
Sở dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi nhận: Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám mây có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta cũng thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và Chúa Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến ông thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng bằng vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh sẵn sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng cô công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai, một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư ngụ trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin đề nghị hai việc.
– Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc kinh Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm va sốt sắng, để nhờ đó tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
– Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay lưng chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa Con một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta.

101. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Các Bài Đọc chu kỳ Năm B: Bài Đọc I (Đệ Nhị Luật 4: 32-34, 39-40): Ông Môsê nói với Dân Chúa: Thiên Chúa là Chúa duy nhất trên trời dưới đất; chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác. Bài Đọc II (Thơ Rôma 8:14-17): Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận, chúng ta được làm con cái Chúa và có thể xưng với Chúa là Cha. Bài Phúc Âm (Matthêu 28:16-20): Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: “Hãy đi giảng dạy muôn dân và ban phép Thánh Tẩy cho họ “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Thiên Chúa Ba Ngôi là một Mầu Nhiệm, nghĩa là một Tín Điều mà chúng ta không thể nào cắt nghĩa được bằng lý trí; nhưng chúng ta tin và lãnh nhận do Chúa Giêsu đã giảng dạy, và nhờ ơn Chúa Thánh Thần soi sáng (Gioan 16:12) để nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà Ngài có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần; Ba Ngôi cùng một bản thể, cùng là một Thiên Chúa duy nhất.
Người ta nói khi Thánh Patrick giảng dạy về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngài đã dùng một lá có ba nhánh để làm thí dụ. Giáo sư Tiến sĩ Phan Văn Ngọc, sau khi tìm hiểu Thánh Kinh kỹ càng và được ơn Chúa soi sáng, đã tin nhận Thiên Chúa và chịu phép Thánh Tẩy. Khi tìm hiểu giáo lý, ông cảm thấy điều khó hiểu nhất là về Thiên Chúa Ba Ngôi; nhưng sau cùng, ông suy nghĩ: dù chỉ là nước, nhưng vẫn có thể ở thể lỏng, thể rắn (nước đá) hay thể hơi (hơi nước).
Tuy nhiên, tất cả những so sánh, những biểu tượng bề ngoài chỉ để tạm thời giải thích Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi; vì ‘Mầu Nhiệm’ là điều vượt quá mọi sự suy nghĩ của lý trí con người. Con người dù thông minh thế nào, cũng không thể hiểu hết được những ‘bí ẩn’ trong vũ trụ, huống chi làm sao hiểu được hết mọi điều siêu việt của Thiên Chúa. Thánh Augustinô (354-430) là một nhà Thần Học và Triết Gia, Ngài luôn muốn cắt nghĩa mọi sự theo ly trí, kể cả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một ngày kia, Ngài đi đi lại lại trên bờ biển để vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ trong tâm trí xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang lúc vừa đi đi, lại lại trên bờ biển, vừa suy nghĩ mung lung, chợt ông thấy có một em bé trông rất khôi ngô và thông minh, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ trên bờ biển. Thánh Augustinô liền dưng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn múc hết nước đại dương để đổ vào cái lỗ nhỏ này.” Thánh Augustinô liền cười và nói: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy… Làm sao cháu có the múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé liền cười nói: “Việc của cháu đang làm có vẻ khờ dại thật, nhưng việc bác đang suy nghĩ còn khờ dại hơn…”
Thiên Chúa là cả một đại đương mênh mông, tâm trí con người chỉ là một giới hạn nhỏ bé, làm sao có thể thông hiểu tường tận hết mọi điều về Thiên Chúa. Chỉ với đức tin và tâm hồn khiêm nhường và sự kết hiệp với Chúa qua lời cầu nguyện, chúng ta mới có thể được Ơn Chúa soi sáng và tin nhận được các Mầu Nhiệm về Thiên Chúa, nhất là Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chứ không phải qua suy nghĩ của lý trí hạn hẹp của chúng ta.
Như vậy, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một điều ‘huyền nhiệm’ chỉ các nhà Thần Học mới hiểu được. Một nhà Thần Học thế kỷ 19, ông Thomas Hancock nói: “Một người đàn ông hay một người phụ nữ dù quê mùa không thể lý luận về Thịên Chúa Ba Ngôi, nhưng vẫn có thể nhận thức được về Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hoàn hảo hơn một nhà Thần Học uyên bác, thông hiểu các tác phẩm của Thánh Athanasius hay Thánh Augustinô và tất cả những tranh luận của sáu thế kỷ đầu của Giáo Hoi!” (trích trong Preaching the Lectionary, Reginald H. Fuller). Thánh Phaolô cũng nói với chúng ta: “Đức tin của chúng ta không dựa vào những lý lẽ khôn ngoan của con người…nhưng nhờ mạc khải của Thiên Chúa qua sự soi sáng của Chúa Thánh Thần (Xin xem 1 Cr, chương 2; hoặc Ga 14,26). Trong một lần cầu nguyện, Chúa Giêsu đã nói: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã không soi sáng cho những kẻ khôn ngoan thế gian biết những điều ấy, nhưng cho những người đơn sơ, hèn mọn!” (Lc 10,21; Mt 11,25). Chính vì vậy, Pascal, một nhà tư tưởng lớn trong thế kỷ 17, đã luôn cầu xin cho mình được có một Đức Tin mạnh mẽ của một bà nhà quê ở xứ Bretagne!
Chúng ta tuyên xưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi khi đọc kinh Tin Kính. Mỗi khi chúng ta đọc kinh: “Sáng Danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần”, chúng ta cúi đầu để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba ngôi: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.” Chúng ta được chịu phép Thánh Tẩy để gia nhập Gia Đình Hội Thánh Chúa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi trong công thức: “Cha rửa con, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.”
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng kính mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy cầu xin cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái.
Với lời cầu nguyện của Thánh Phaolô, chúng ta hãy cùng “nguyện xin Ân Sủng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Tình Yêu của Chúa Cha, và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng mỗi người, mỗi gia đình chúng ta!” (2 Cr 13,13).

102. Mầu nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Lê Hoàng Vũ)
Hàng ngày khi làm dấu thánh giá là chúng ta tuyên xưng vào mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Đó là trọng tâm trong đời sống đức tin của người Công giáo. Đó là lời dạy của Chúa Giêsu với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là mầu nhiệm đức tin mời gọi chúng ta đem vào cuộc sống của mình. Vì mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi khó hiểu nên người ta chỉ có thể đón nhận bằng cả cuộc sống mà thôi. Hiểu không quan trọng bằng tin, yêu và sống với Chúa Ba Ngôi.
“Thiên Chúa là tình yêu” phát biểu này của Thánh Gioan Tông đồ giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa. Để có thể phát biểu được như vậy, ngài đã luôn tin tưởng vào Chúa và được Chúa yêu thương. Lời phát biểu đó là đúc kết của cả cuộc đời theo Chúa của thánh nhân. Lời phát biểu đó soi sáng đức tin cho chúng ta hiểu về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, Thiên Chúa là Tình yêu thì tất cả những gì thuộc về Ngài hay ở trong Ngài cũng là Tình yêu. Chính vì thế Thánh Augustinô lại cho chúng ta một nhận định rõ ràng hơn: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của Tình yêu” Tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là tình yêu trọn hảo. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên mọi thứ tình cảm khác trong nhân loại. Tình yêu của Ngài là tình yêu chung thủy bền vững, tình yêu muôn đời tồn tại và vô vị lợi. Trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chúng ta học được cung cách sống yêu thương mọi người.
Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và mỗi Ngôi vị đều có những chương trình riêng nhằm phục vụ lợi ích cho con người. Chúa Cha là Đấng Tự Hữu, Ngài yêu thương và tạo dựng muôn vật, khi tạo dựng nên con người. Ngài ban cho một phẩm giá cao trọng. Chúa Con đến trần gian để cứu độ những người lầm lạc tội lỗi. Ngài dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là Đấng nhân hậu và đầy lòng thương xót. Sau cùng Chúa Thánh Thần là Tình yêu và Sự Sống, Ngài đang đồng hành với Hội Thánh. Chính Ngài nuôi dưỡng đức tin và lòng mến của người Kitô hữu qua mọi thời đại, Như vậy Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống con người. Ba Ngôi Thiên Chúa là cộng đồng của tình yêu thương. Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất nhau trong tình yêu. Chương trình chính yếu trong mọi hoat động của Thiên Chúa Ba Ngôi là nâng cao người vươn tới tầm mức của một Tình yêu cao đẹp. Chúng ta đã đón nhận hồng ân Thiên Chúa Ba Ngôi thì cuộc sống chúng ta phải thấm nhuần tình yêu thương. Chúng ta sẽ xứng đáng là những người con của Cha trên trời nếu chúng ta biết sống trao ban tất cả cho mọi người. Với phương châm sống “mình vì mọi người, nhưng không đòi hỏi người khác sống vì mình”, chúng ta đang trao ban hạnh phúc cho tha nhân. Đặc biệt là gia đình chúng ta đang sống phải là cộng đồng của tình yêu thương. Một gia đình ngập tràn tình yêu thương và niềm hạnh phúc vì mỗi người biết sống vì nhau sẽ là mô thức về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trong ngày lễ Cháu Ba Ngôi mỗi người Kitô hữu sẽ được học tập để sống yêu thương như là bài học vỡ lòng không bao giờ quên trong cuộc đời. Chúng ta chiêm ngắm Chúa Ba Ngôi là cộng đồng của tình yêu thương để học theo. Học sống theo gương Chúa là chúng ta luôn giữ cho gia đình mình đầm ấm yêu thương. Điều đó tùy thuộc vào việc chúng ta sống có trách nhiệm với gia đình mình. Học sống theo gương Chúa Ba Ngôi là chúng ta sống sao để đem niềm vui đến cho mọi thành viên trong gia đình. Và tấm lòng của chúng ta đối với gia đình sẽ được cụ thể: Khi người con biết kính yêu, vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ, người cha tận tụy làm việc nuôi dạy con cái thành người, người mẹ chăm sóc, lắng nghe, chia sẻ, những tâm tự của con cái. Sống được như thế là gia đình chúng ta đang có Chúa hiện diện. Dưới sự hướng dẫn dịu, chúng ta sẽ tìm được chỗ dựa cho gia đình mình trước những cơn sóng gió trong cuộc sống đức tin.
Lay Chúa, Chúa đã dạy chúng con rằng” không có Thầy chúng con không làm được gì”. Chúng con luôn tin vào lời đó của Chúa. Xin Chúa soi lòng mở trí chúng con hiểu về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhất là để chúng con luôn cảm nhan tình Chúa yêu thương chúng con là vô bờ, để chúng con luôn cố gắng gìn giữ cho gia đình mình luôn là cộng đồng của tình yêu thương như Thiên Chúa là tình yêu vậy. Amen.

103. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
SỨ MẠNG PHỔ QUÁT
1.- Ngữ cảnh
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:
a) Sứ điệp tích cực
Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:
– bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.
– bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.
Đoạn văn Mt 28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao: khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.
b) Sứ điệp tiêu cực
Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do-thái.
Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de) giữa các thủ lãnh Do-thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do-thái tung ra và thực tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã được phổ biến. Đối với người Do-thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”, chứ không như tin đồn thất thiet kia, chỉ được loan truyền “giữa người Do-thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos, 23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toan lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan, 28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế, nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);
2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):
a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).
3.- Vài điểm chú giải
– Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de (“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu với mười một môn đệ.
– Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x. 5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta” [“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu (12,46-50). Mt xác định rằng các ong là “mười hai môn đệ” (10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).
Con số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm, tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75). Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.
– ngọn núi (16): To oros (danh từ với quán từ) khẳng định rằng chính là trên một quả núi mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định nào khác.
– Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc 2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).
– Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.
– Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).
Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt (9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn 5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng: 7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân chúng tôn vinh Thiên Chua: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ không phải từ tay ma quỉ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền (exousia) đã được Thiên Chúa ban.
– hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từ mathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt (13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive): trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu cua quan hệ này chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).
– nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.
– Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọng idou egơ luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.
– Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras (tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ. Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)
Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato, c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại chỉ là một mệnh lệnh, mot hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt, chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).
Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai, “mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ (lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).
Trong Mt, ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả các chi tiet này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ (tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10). Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào trong tình bằng hữu với Ngươi, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).
Như thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt); điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”). Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người, hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.
Lời Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.
“Ngọn núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29: mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dan Người như Môsê xưa kia trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật tầm quan trọng của mạc khải như thế).
Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”. Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan), đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây, nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực, nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lương lự, trong bối cảnh lại quá đậm đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc 24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga 20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.
* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)
Đứng trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói. Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.
Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội cho đến tận thế.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu (so sánh vơi 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả các quyền hành trên trời dưới đất.
Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios) trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào, nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó: trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất), như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; va trong thời gian, Người hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.
Bây giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.
Từ oun, “vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhom Mười Một phát xuất từ quyền bính của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn phận này.
Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein), nhưng là kiến tạo một cộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là chuẩn mực cho mọi ki-tô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất của ki-tô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư cách mà kể tư nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).
Chiều hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1), trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54). Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền cac môn đệ là chỉ đi đến với các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể vào thời của cộng đoàn Mt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do-thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt. Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do-thái vẫn có thể đến với cộng đoàn các môn đệ. Sẽ xuất hiện một cộng đoàn phổ quát trong đó mỗi ngươi có một quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).
Để làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức Giêsu, bằng cách bây giơ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.
Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn qui về tất cả mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn cua Đức Giêsu trong TM Mt, nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhan nhủ này (x. 7,13-27).
Tuy nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”. Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.
Mục tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuan giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở 5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó chính Yhwh truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2; 12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người. Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn sứ”: x. 22,40).
Tuy nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xac định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu (x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x. 7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản chat của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).
Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và “cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta + thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất (cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng, khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều kích vũ hoàn cua bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại, đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23); trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15; 26, 18. 20. 36. 38. 40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.
Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi, Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện, nghĩa là giúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, đe cứu độ. Đấng Kyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước. Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các mon đệ, và nhắm đến tận thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.
+ Kết luận
Trên núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc. Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn của Ngài (Xh 19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.
Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của Tin Mừng này.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm
Không dễ gì mà tiếp cận với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay. Đây là một trong những đại lễ dường như ở hơi xa đời sống chúng ta. Tuy vậy, chúng ta vẫn nhớ những bài học giáo lý khi còn bé bảo rằng Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm trọn vẹn đời sống chúng ta; và ý tưởng này vẫn cung cấp sức mạnh và sự tin tưởng cho chúng ta và nhắc chúng ta nhớ rằng đây là một thực tại sống động. Các bài Lời Chúa hôm nay có góp phần làm sáng tỏ mầu nhiệm này. Trong bài đọc thứ nhất, Môsê đã mời gọi dân chúng: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa”. Nếu tôi đi ngược lại thời gian cho đến “những thời xa xưa”, tôi cũng sẽ sống lại kinh nghiệm của dân Israel: tôi ghi nhận sự hiện diện thường trực của Thiên Chúa, Đấng đã chọn lựa tôi từ thuở đời đời, rồi vẫn hiện diện trong cuộc sống thường ngày tầm thương của tôi, tỏ mình ra qua những dấu chỉ, nâng đỡ tôi trong các thử thách, bung mở các việc kỳ diệu ra trong thế giới.
2. Ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng
Khi đó, ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong lòng, có nghĩa là trước tiên ý thức rằng lịch sử chúng ta có gốc rễ rất xa, từ bao đời vẫn ở trong tay Thiên Chúa, Ngài vẫn dẫn dắt cuộc sống chúng ta, vì trung thành với lời đã hứa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc lại rằng vị Thiên Chúa này, Đấng ban sự sống, đã thổi Thần Khí của Ngài vào chúng ta, để nhờ Thần Khí, Ngài giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và nỗi sợ hãi, và làm cho chúng ta thành conc ái Ngài, khiến chúng ta có thể gọi Ngài là Cha. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, khi đó, cũng có nghĩa là ý thức về ân huệ Thanh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho ta, để cho Ngài dẫn dắt và biến đổi đời sống chúng ta, sống kinh nghiệm tự do nội tâm, một kinh nghiệm phát sinh từ cảm nhận chúng ta được yêu thương như là những người con và là kinh nghiệm mạnh hơn mọi nỗi sợ hãi, mọi đau khổ.
3. Đức Giêsu Phục Sinh sai phái các tông đồ
Cuối cùng, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ, truyền họ ra đi và tiếp nối công trình của Người nhân danh Ba Ngôi vị thần linh, bảo đảm với họ rằng Người sẽ hiện diện với họ mọi ngày cho đến tận thế. Ở trong lòng Ba Ngôi và có Ba Ngôi trong lòng, cuối cùng, có nghĩa là có cặp mắt có khả năng nhận ra Đức Giêsu, vị Thiên Chúa làm người, ngay tại những nơi của đời sống mà Người cho ta làm điểm hẹn, và ra đi trong Thánh Thần, để bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa cho mỗi người, để làm cho mọi người sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa.

104. Chú giải của Noel Quesson
Mười một môn đệ đi tới miền Galilê
Riêng câu này cũng đủ nói cho chúng ta biết “Giáo Hội là ai”. Đó là Hội Thánh của những quốc gia ngoại giáo. Những môn đệ được chính Chúa Giêsu mời gọi rời bỏ Giêrusalem (Mt 28,7), cho đến lúc bấy giờ vẫn là trung tâm địa lý của Đức Tin, nơi Thiên Chúa hiện diện. Theo Thánh Matthêu, không có sự hiện ra “chính thức” với các tông đồ tại Giêrusalem. Chúa trao phó sứ mạng cho các phụ nữ một cách riêng tư, Người triệu tập các tông đồ đến “miền Galilê của chư quốc”, một tỉnh có nhiều dân tứ xứ vãng lai – Hội thánh bắt đầu tại Galilê, vùng này thay thế cho Giêrusalem và trở thành trung tâm phát triển của cộng đoàn mới. Trong những chương đầu, Matthêu cho thấy tính cách bí nhiệm của các “Đạo sĩ phương Đông”, họ đến từ những vùng ngoại giáo, sấp mình thờ lạy Giêsu Hài Nhi, trong khi đó, Giêrusalem lại không đón tiếp Người.
Phải chăng tôi có quan niệm như thế về Giáo Hội?
Một Giáo Hội mở rộng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới, chứ không đóng kín trong những bức tường.
Đến những ngọn núi Chúa Giêsu đã hẹn với các ông
Chữ “Eklésia”(Giáo Hội) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “tập họp những người được triệu tập”. Kitô hữu là những người được Đức Giêsu Phục Sinh triệu tập. Mỗi Chúa Nhật khi đến với Bí tích Thánh Thể, tôi có ý thức rằng, không phải tôi có sáng kiến này, mà Đức Giêsu đã triệu tập tôi. Tôi đáp lại lời mời trước tiên, đức tin của tôi không phải là một mớ kiến thức, mà là sự đáp trảvới đấng đã kêu gọi tôi “trên núi”.
Trong Tin Mừng của Matthêu, người ta không bao giờ nói núi đó là núi nào. Nhưng trái lại, phải chăng là tình cờ, núi là địa điểm tốt nhất cho sự mạc khải của Thiên Chúa. Chính ở trên “núi cao”, Đức Giêsu đã tuyên bố diễn văn khai mạc tức là “Bài giảng trên núi”(Mt 5,1–8,1). Người cũng đã cầu nguyện, hoá bánh ra nhiều và biến hình trước mặt các tông đồ của người ở trên núi cao.
Tôi để biểu tượng này in sâu trong tôi.
Tôi để cho Đức Giêsu triệu tập tôi trên núi cao.
Tôi chấp nhận mở rộng nhãn giới của tôi. Phong cảnh Đức Giêsu mời gọi tôi thật hùng vĩ.
Người ta thoải mái hít thở không khí ở trên đỉnh cao.
Khi thấy Người các ông sụp lạy
Đó là cử điệu Phụng vụ mà những người trẻ sẽ thực hiện lai, và dân chúng phương Đông thường làm một cách tự phát: Nằm dài trên mặt đất hay ít nhất là cúi rạp, trán chạm đất. Đây là cử chỉ tôn thờ long trọng. Cử điệu cao quí nhất mà con người có thể làm hiện được. Trong tin mừng Thánh Matthêu, sự sụp lạy này cũng được các tông đồ thực hiện trong chiếc thuyền, khi thuyền đã được cứu khỏi cơn phong ba bão táp (Mt 14, 33). Đó cũng là cử điệu của ba nhà Đạo sĩ ngoại giáo (2,11), của người bệnh phong (8,12), và của một phụ nữ Canaan, một người ngoại đạo khác (15,25).
Tôi có bao giờ thờ lạy như thế không? Nghĩa là thầm lặng suy niệm về sự oai nghi của đấng đang ở trước mặt tôi chăng?
Nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giêsu đến gần
Giáo Hội dâng lễ tế để tôn thờ Thiên Chúa vẫn còn là một Giáo Hội của những người tội lỗi. Đức tin của những con người. Đức tin của những tông đồ đầu tiên (cũng như đức tin của chúng ta) vẫn còn là một đức tin pha trộn hoài nghi và nước đôi, đó là một đức tin còn đang di hành. Giáo hội đón tiếp Đức Giêsu vẫn là một Giáo Hội của những người “yếu đức tin” (Mt 14,31), bị hư mất một người, chỉ còn 11 trong số 12 người đã được chọn. Đức Giêsu không ngạc nhiên về điều này. Người đến gần họ như ngày người đã biến hình (Mt 17,7). Lạy Chúa xin hãy đến. Xin Chúa hãy đến gần hơn. “Maranatha”. Lạy Chúa xin thương xót chúng con và tất cả những người đã không tuyên xưng Đức tin một cách hoàn toàn và rõ ràng. Xin Chúa thương xót biết bao bạn trẻ, biết bao con người thời nay “không đạt đến đức tin”. Xin Chúa thương xót con, vì đôi khi đức tin của con cũng hoài nghi.
Người nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi đến muôn dân và kết nạp môn đệ … Dậy họ tuân giữ những điều răn… Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời của Đức Giêsu phục sinh nói trên đây oai nghi biết bao!
Sau cuộc sống khiêm nhường thành Nagiarét, giờ đây sự thật đã tỏ lộ. Bên ngoài, đây có vẻ như là tramg cuối của một câu truyện, giai đoạn kết thúc của cuộc sống một con người, nhưng thực ra đây là khởi đầu của một cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất trong các thời đại, không thể giải thích được bằng những tiêu chuẩn bình thường của lịch sử.
Chúng ta nên lưu ý đến tầm quan trọng của tất cả tĩnh từ “tất cả, toàn thể” đã được lập lại tới bốn lần. Nhắc lại bốn lần từ “toàn thể”, nhắc lại bốn lần từ “trọn vẹn” là để biểu lộ hành động của Đức Giêsu. Đó là tính trọn vẹn – toàn diện trong hành động của Thien Chúa, Đấng đã chấp nhận thân xác trong toàn diện hành động của con người, theo suốt dòng thời gian trôi chảy! Nên đọc lại tư tưởng của Cha Teihard de Chardin. Dưới đây là là một trích đoạn: “xét về mặt vật lý, Đức Kito là Đấng choán phủ tất cả: Không có một yếu tố nào trong vũ trụ, vào bất cứ một giây phút nào của trần gian, chuyển hành mà lại không di chuyển, và không bao giờ được vận hành ngoài tầm hướng dẫn của Người cả. Khong gian và thời gian đã ngập đầy sự hiện diện của Người. Cũng xét về mặt thể lý, Đức Kitô là Đấng “tiêu thụ” tất cả: trọn vẹn vũ trụ chỉ được hoàn tất trong một tổng hợp cuối cùng, mà ở đó có một ý thức siêu viet sẽ biểu lộ trên mọi yếu tố phức tạp cho dù đã được cấu tạo một cách tuyệt vời. Mọi con người sẽ hội tụ và cùng kết nối lại với nhau trong Người. Chính Đức Kitô sẽ tạo cho toàn bộ công trình vật chất và tinh thần độ bền vững mãi.
Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha chỉ là “Cha”, vì Người quên mình hoàn toàn, để chuyển trọn vẹn sang Ngôi Con. Chúa Con chỉ là “Con” vì Người quên mình để trọn vẹn “tự hiến dâng” cho Chúa Cha – Chúa Thánh Thần sẽ không là gì cả nếu Người không phải là tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con, Thiên Chúa là Tình yêu.
Chương trình lớn lao của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu đã giao cho các tông đồ, cho Giáo Hội, nhằm “nhận dìm” (đấy là nghĩa chữ Hy Lạp baptizô) nhân loại trong tương quan tình yêu liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Dấu” rửa tội đúng là dấu Thanh Giá; đó là “cuộc sống cho tha nhân”. Chúng ta được rửa tội nhân danh tình yêu. Chúng ta được “nhận dìm” trong nguồn tình yêu đó – Đấy là “chương trình” của Giáo Hội.
Đôi khi người ta tự hỏi Đức Giêsu đã muốn sáng lập Giao Hội nào? Chắc chắn, Đức Kitô đã không nghĩ đến nước Vatican, đến các vị Giám mục đội mão, đến những văn phòng hành chánh, những kiến trúc tôn giáo hay những nghi lễ trọng thể của Giáo Hội, giống như những triều đình vua chúa ngày xưa.
Nói điều này để chúng ta đừng đóng khung Giáo Hội sống động trong những bộ mặt trần thế mà Giáo Hội đã có trong một số thời đại. Điều Đức Kitô muốn đó là “Tập hợp tất cả mọi người trong tình yêu” – Chúa là tình yêu – Chúa là cộng đồng những người thương yêu nhau tronh hiệp nhất của Chúa Thánh Thần – phải tìm điều cốt yếu của Giáo hội trong bản tính của Chúa Ba Ngôi.
Những người thấy tôi sốt sắng, tôi được “nhận dìm”, “được rửa tội” trong Chúa Ba Ngôi tình yêu, những người quan sát những nhóm mà tôi đang sống: Gia đình, nhóm làm việc với tôi, họ có thể cảm thấy “tôi đã được rửa tội nhân danh ai”?
Anh em hãy dạy bảo họ giữ những điều Thầy đã dạy cho anh em.
Đức Giêsu đã truyền dạy những điều răn nào? Đó là giới răn tình thương. “Người ta sẽ nhận các con là môn đệ của Thầy, ở điều này, nếu các con yêu thương nhau”. Không phải cứ được rửa tội là đủ – phải tỏ ra là “môn đệ” của Đức Giêsu bằng mọi hành động trong cuộc sống. Đối với Đức Giêsu, giáo lý không phải là một bài phải học mà là một tập luyện sống “theo tình thương”
Và đây; Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
Lời hứa “Thầy ở cùng” trên đây rất mạnh nghĩa. Cũng như trong Tin Mừng Thánh Gioan, ta đoán nhận ra trong lời phát biểu đó, cung cách của “Giavê”trong Cựu ước. Hơn nữa, theo lối hành văn của người Sêmít, ơ đây ta nhận thấy, để kết thúc Tin mừng của mình, Matthêu đã lập lại tư tưởng đã đề cập ở đầu sách: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Khi báo tin cho Thánh Giuse (Mt 1,23), Thiên sứ đã nói con trẻ sẽ được gọi là Emmanuel, vậy mà Thánh Giuse đã đặt tên Chúa là Giêsu: Nhưng trong dòng cuối của Tin Mừng, Thánh Matthêu đã giải thích bí mật này: Đức Giêsu Phục sinh, chính là “Chúa ở cùng chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa”.

105. Chú giải của Fiches Dominicales
HÃY RỬA TỘI CHO HỌ NHÂN DANH CHÚA CHA,
VÀ CHÚA CON, VÀ CHÚA THÁNH THẦN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đoạn mở đầu:
Đây là đoạn kết thúc Tin Mừng Matthêu: một kết thúc dưới dạng mở ra.
Thực vậy, trong Tin Mừng về thời thơ ấu, Matthêu mời ta chiêm ngắm trong cuộc hạ sinh của Đức Giêsu tại Bêlem, thành của Đavid, sự ứng nghiệm lời tiên tri về “Emmanuel”, “Thiên Chúa với ta” (Is 7) và miêu tả trong các vị đạo sĩ đến từ Phương Đông hình ảnh của những người dân ngoại tiên phong đã tin vào Đức Kitô và họ sấp mình thờ lạy người”.
Trong đoạn kết thúc, rõ ràng Tin Mừng nhắc lại nguyên văn những kiểu nói trên để thuat lại cuộc gặp gỡ cuối cùng tại Galilê của Đấng Phục sinh với các môn đệ: “Khi họ thấy Người, họ sấp mình thờ lạy”. Đức Giêsu liền sai họ đi truyền giáo cho “tất cả các dân tộc”, và người long trọng tuyên bố với họ: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
J. Radermakers chú giải: “Đoạn kết Tin Mừng trả lời cho đọan mở đầu; đó là một bao hàm vĩ đại, con người Đức Giêsu mở một chiều kích phổ quát trên toàn thể lịch sử nhân loại, mà vẫn không quên nguồn gốc xác thân của Người đâm rễ trong thời gian và không gian” (Au fil de l’évangile selon saint Matthieu, lnstitut d’etudes Théologiques, Bruxelles, 1974, trang 362).
2. Một đoạn kết dưới hình thức mở ra.
Sau phục sinh, Đức Giêsu đã chọn điểm hẹn với các môn đệ không phải ở Giêrusalem, thủ đô, thành thánh, như trong Tin Mừng Luca, nhưng là “Galilê” bị khinh miệt, “nơi qui tụ các dân”. (Mt 4,12-23), biểu tượng của thế giới dân ngoại.
“Cũng thế Giáo Hội phải rời Giêrusalem, hồi đó vẫn được coi là trung tâm địa lý của đức tin, để lên đường đi tới “Galilê của dân ngoại”. Một Giáo Hội được định nghĩa là Giáo Hội cho trần gian”: đó chính là sứ mệnh của Giáo Hội như Đức Giêsu sẽ định rõ sau này” (“Cahiers-evangile” số 9, trang 6).
Nơi mà Đức Giêsu truyền họ đi tới, đó là “ngọn núi”, nơi dành riêng cho các mạc khải thần linh. Hơn nữa, ở đây cũng như dọc dài suốt Tin Mừng của Ngài, thánh Matthêu luôn trình bày Đức Giêsu như Môsê mới ban Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa.
Claude Tassin chú thích: “Như những hình ảnh trong phim nối tiếp nhau, ta thấy lại ngọn núi nơi ma quỉ chỉ cho Đức Giêsu các vương quốc trần gian, ngọn núi Tám mối phúc nơi vị Tôn sư công bố hiến chương Nước Trời ngọn núi biến hình nơi vinh quang Con Người được hiển lộ, và sừng sững uy nghi phủ trên tất cả là bóng ngọn Nêbô cao vời (Tl 34) nơi Môsê nói lời giã từ khi dân chúng tiến về Đất Hứa” (Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Centurion, trang 303).
– Khi thấy Đức Giêsu, các môn đệ “sấp mình thờ lạy”. Đó là một cử chỉ tỏ lòng kính trọng mang màu sắc tôn giao và phụng vụ như khi các đạo sĩ thấy con trẻ và Maria, mẹ Người (2,2-8.1 1), như khi các môn đệ ở trên thuyền, lúc sóng gió nổi lên (14,33); như người đàn bà xứ Canaan (15,25).
Tuy thờ lạy nhưng họ vẫn còn “hoài nghi’, niềm hoài nghi, theo Jean Radermakers, “là bạn đồng hành bất khả phân ly với niềm tin biến động”.
– Đấng tỏ mình ra cho các môn đệ (“Đức Giêsu đến gần và các môn đệ sấp mình thờ lạy chính là Đức Chúa vinh hiển được tôn vinh, được trao quyền tối thượng xét xử toàn thế giới (Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”), từ đó Người có thể sai các môn đệ đi khắp thế giới làm cho uy quyền này trở thành hiện thực.
Những lời Người nói với họ ghi dấu sự mở ra một giai đoạn trong sứ mệnh của người; một sứ mệnh từ nay Người tiếp tục Giáo Hội.
+ “Hãy đi…! Làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ Thầy”. Trong suốt thời hoạt động công khai, Đức Giêsu đã giới hạn các hoạt động vào các “chiên lạc nhà Israel”. Từ nay, Người phá huỷ biên cương phân chia không gian và thời gian: Đức Giêsu đã có thể hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh người Tôi Tớ Thiên Chúa như Matthêu loan báo khi nhắc lại lời sấm của Isaia (42,1-4): dân ngoại sẽ đặt niềm hy vọng vào danh người” (Mt 12, 18 -21). Dân ngoại, đã hiện diện ngay ở những trang đầu của sách Tin Mừng trong hình ảnh các vị đạo sĩ, lại thấy xuất hiện ở đoạn ket, Tin Mừng như đối tượng mà Tin Mừng nhắm tới. Và Đức Giêsu trao phó sứ mệnh phổ quát ấy cho Giáo Hội của Người.
Claude Tassin nhận xét: “Điều quan trọng không phải là “đi” cũng không phải là một sứ mệnh chinh phục đất đai, nhưng là một cởi mở đón nhận mọi nhóm người, không phân biệt. Vì Đức Giêsu có “mọi quyền năng”, nên mọi người được mời gọi đặt hiện hữu cuộc đời dưới uy quyền của người. Sứ mệnh, theo Mátthêu, là gì? Các môn đe hãy chiêu mộ thêm các môn đệ khác; nhũng ai cảm thấy giáo huấn của Đức Giêsu biến đổi cuộc đời mình. Hãy chia sẻ kinh nghiệm ấy với người khác, “dạy cho họ tuân giữ mọi giới răn” của Đức Giêsu gồm tóm trong luật duy nhất: tình yêu” (O.C., trang 304).
+ “Hãy rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha: và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Sứ mệnh không phải là quảng bá một ý thức hệ, dù rất cao siêu; sứ mệnh không ngừng đề nghị thiết lập một cộng đoàn: cộng đoàn những người, nhờ bí tích rửa tội, muốn những mối liên hệ hỗ tương của họ đâm rễ sâu vào một gắn bó chung “nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Tạp chí “Célébrer” số 269 nói:.”Công thức nhân danh Ba Ngôi này chỉ có trong Tân ước. Những bản văn khác nói về phép rửa “nhân danh Đức Giêsu” hoặc phép rửa “nhờ Chúa Thánh Thần”. Tuy không có ngay từ buổi ban đầu, nhưng công thức này không xuất hiện quá trễ. Có lẽ công thức ấy được vay mượn từ truyền thống phụng vụ của cộng đoàn nơi thánh Matthêu phụ trách. Công thức rửa tội ấy diễn tả mối kết hiệp chặt chẽ giữa người lãnh bí tích Rửa tội với Ba Ngôi Thiên Chúa:
+ “Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều răn Thầy đã truyền cho anh em”. Đừng giản lược sứ mệnh truyền giáo vào việc cải đạo không có tương lai. Giáo Hội phải giúp những người đã lãnh bí tích rửa tội sống mỗi ngày mỗi phù hợp với nếp sống mới mà họ đã bước vào. J. Radermakers nhận xét: “Như thế toàn thể Tin Mừng khi trở nên lời giáo huấn bằng đời sống cho các môn đệ, về phương diện bí tích sẽ rất có ý nghĩa trong bí tích Rửa tội và về phương dien nhân loại sẽ trương rộng ra trong đời sống hằng ngày; trong cộng đoàn Kitô hữu, đời sống luân lý không gì khác hơn là Tin Mừng biến thành hành động” (Sđd, trang 365).
+ “Và Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Đó là chóp đỉnh của lời Đức Giêsu tuyên bố: bảo đảm một hiện diện tích cực, hiệu quả, không giới hạn ở đoạn kết Tin Mừng, Matthêu đã công bố rằng lời thiên thần hứa với Giuse đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi Đức Giêsu: “Tên người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở với chúng ta”.
J. Potel kết luận: “Đức Giêsu không lìa xa Giáo Hội của Người. Dù Người vô hình, Người vẫn hiện diện ở mọi nơi Giáo Hội ở mọi nơi, cho đến tận cùng thời gian. Theo thánh Matthêu, Người không biến mất trên trời cao. Trái lại, lời cuối cùng của Người cũng là câu cuối cùng của Tin Mừng đã hứa: “Thầy sẽ ở với anh mọi ngày cho đến tận thế”. Chính Người đã nói: khi có hai ba người tụ họp nhân danh Thầy, Thầy sẽ ờ giữa họ, (Mt 18,20). Phục Sinh không ở lại trên núi Galilê. Người đồng hành với các môn đệ trên mọi nẻo đường trần gian” (“Đức Giêsu, lịch sử đích thực”, Centúrion, 1994, trang 516).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ba khía cạnh trong sứ mệnh của Giáo Hội
(Mgr. L.Daloz, “Nước Thiên Chúa đã đến gần”, Centurion-duculot, tr. 385).
Hình thức của sứ mệnh đã được chỉ dẫn rõ ràng: “Hãy làm cho mọi dân tộc nên môn đệ của Thầy, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ tất cả những điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ta thấy có ba khía cạnh: Loan báo Tin Mừng là động lực thôi thúc các môn đệ; tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua nhờ bí tích Rửa tội và các bí tích; cuộc sống mới thực hành những lời Đức Giêsu đã truyền dạy. Tất cả những điều đó làm thành sứ mệnh của Giáo Hội. Không có ba yếu tố đó sứ mệnh không hoàn hảo, và không có yếu tố nào trong ba có thể tự mình thực hiện được sứ mệnh truyền giáo. Điều quan trọng là tất cả các dân nước được thừa hưởng cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu, là họ đón nhận Đức Giêsu để được đổi mới. Như thế, họ đi vào mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa: nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Qua sứ mệnh của các Tông đồ, Đức Giêsu tiếp tục nhiệm vụ mà Người đã khởi đầu trong lễ Vượt Qua: “Còn Thầy, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ta còn sợ gì nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với ta”.
2. Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cho ta biết Người ở “với ta”.
(Báo Fêtes et Saisons số 496, “Ba Ngôi Thánh”, trang 31).
Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn khác, tự đầy đủ ở nơi chính mình, nhưng Người đã cởi mở đón nhận một tạo vật do tay Người sáng tạo, hay đúng hơn từ ngữ loài người giới hạn khó mà diễn tả được một mầu nhiệm như thế – Chúa Cha, nguồn cội và sự duy nhất của Ba Ngôi, đã đưa dẫn thế giới mà người tạo dựng vào hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi gợi lại sự Nhập Thể của Chúa Con và Ân Ban của Chúa Thánh Thần, ta khẳng định Thiên Chua Hoàn Toàn Khác đã trở nên Hoàn Toàn Gần Gũi. Thực vậy, trong viễn tượng Ba Ngôi, nói cho đúng chính Thiên Chúa đã đem ta lại gần Người vì, thực ra, Người đã tác tạo nên ta trong Người. Sự gần gũi thân mật lạ lùng của Thiên Chúa là thế. Nhưng để xúc động sâu xa về điều đó lại cần phải linh cảm được Thiên Chúa vô vàn khác biệt và siêu việt dường nào.
Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa tỏ cho ta biết Người ở “với ta”. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người là Thiên Chúa ở trong ta, nhưng chính là để ta được ở với Người và trong Người. Ở đây không có ý nói rằng, để yêu mến Thiên Chúa, con người phải xa ta trần gian. Như cuộc đời Đức Kitô là bằng chứng, cuộc hiệp thông với Thiên Chúa thực hiện trong trần gian và với anh em ta; hình ngay từ cõi đời trần tục này, bên cạnh và cùng với những người anh em này mà Thiên Chúa gọi ta đến với Người.
3. Được mời gọi đến khám phá Thiên Chua hàng sống và chân thật.
(Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf trang 50-52).
Niềm tin vào Đức Giêsu bao gồm lòng can đảm chấp nhận chính sự sống của Thiên Chúa trong cuộc sống nhân loại chúng ta. Nếu ta co đặt Lời Chúa và các bí tích, đức tin đối nghịch với con người, cũng chỉ nhằm mục đích hiểu biết niềm vui được sống được yêu như những người con của Thiên Chúa, theo gương Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chính qua ân ban của Chúa Thánh Thần từ biến cố Hiện Xuống mà Chúa Cha nối kết con người vào đời sống của Người Con riêng của Người.
Như thế mầu nhiệm phục sinh mà Đức Giêsu đã trải qua ghi đậm dấu ấn vào cuộc sống chúng ta: mầu nhiệm ấy được thông ban cho ta để ta sống sự sống và cái chết của ta trong tinh thần năng động của ân ban mà Chúa Thánh Thần đã khơi lên và linh hoạt. Về sự năng động mới phải lan toả ra toàn thể lịch sử và tạo vật “còn đang rên la trong cơn đau sinh con” (Rm 8,22), nhưng vẫn “giữ vững niềm hy vọng sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ sự hư nát” (Rm 8,20-21).
Chúa Thánh Thần đến từ Cha trên trời, qua Đức Giêsu, được gởi đến để hoán cải tâm hồn ta theo Tình Yêu Thiên Chúa và tha nhân, nhưng cũng để giữa lòng nhân loại phát sinh một tạo vật mới, được giải thoát khỏi sự dừ và sự chết (x. Rm 8, 22-23).
Ta đừng phân cách hai hoạt động ấy của Chúa Thánh Thần. Người muốn tạo ra một sự hạ sinh mới vừa trong thâm sâu các tâm hồn và các lương tâm, vừa trong sự phức tạp của thế giới và của lịch sử. Cảm nghiệm của người Kitô hữu về Chúa Thánh Thần luôn có hai chiều kích: cá nhân và lịch sử, sâu xa trong tâm hồn con người và trong dòng toàn bộ lịch sử cứu đó.
Đứng trước mạc khải về chiều sâu của Ba Ngôi và của nhân tính Thiên Chúa, hiển nhiên ta cần một cuộc khai tâm thường xuyên. Chỉ dạy cho các tân tòng và các thanh niên xin được rửa tội và thêm sức nhưng yếu tố cơ bản của kinh “Credo” là không đủ. Tất cả chúng ta đều được mời gọi đi đến khám phá Thiên Chúa hằng sống và chân thật, tìm kiếm Ngươi, nhận biết Người và cầu khẩn Người như Người đã tỏ mình ra qua Đức Kitô.
Dấu chỉ đó cho thấy tất cả chúng ta đều cần đến Giáo Hội nhu cầu nơi để đọc chăm lo bú mớm, nơi cảm nghĩ đức tin bén rễ. Thực vậy, Giáo Hội khong ở ngoài mầu nhiệm mà Giáo Hội loan báo. Giáo Hội không chỉ là một nhóm các bạn hữu Đức Kitô hoặc hiệp hội nhưng người tưởng nhớ đến Người.
Theo Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là “bí tích trong Đức Kitô. Nghĩa là vừa là dấu chỉ, vừa là phương tiện giúp kết hiệp thân mật với Thiên Chúa và sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium 1).
Chính trong và nhờ Giáo Hội mà nhân tính của Thiên Chúa, hôm nay và cho đến ngày tận thế, có thể được trao ban để được nhận biết trong thế giới. Giáo Hội thân thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần, phải làm vang vọng lên nơi nhân loại lời mời gọi mà Thiên Chúa muốn ngỏ với họ.

106. Chú giải của Fiches Dominicales
MẶC KHẢI BẤT NGỜ CỦA PHÚC ÂM
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tình yêu của Chúa Cha trong Con,Đức Giêsu Kitô, được biểu lộ.
Trong năm A này, sách bài đọc đã mượn bài Phúc âm trong chương 3 của thánh Gioan, phần cuối của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô. Dựa vào giai thoại “con rắn đồng” (Ds 21,4-9), Đức Giêsu đi đến cử hành tế lễ treo trên thập giá như là đỉnh cao của mặc khải về tình yêu, tiếng nói đầu tiên và cuối cùng của y định của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình: vì thế ai tin vào Ngài sẽ không chết nhưng được sống đời đời. Cụm từ “Con Một” gợi lên lễ hiến tế của Abraharn (Gen 22,2-12). Còn về viec “Nâng cao Con Người lên” (Ga 3,14) nơi thánh Gioan, bao gồm vừa là cái chết của Đức Kitô trên thập giá vừa là sự tôn vinh Người bên hữu Chúa Cha, và theo X.lon Dufour, “bao gồm rộng hơn nữa, cả hành trình của Ngài ở trần gian” (Đọc Tin Mừng thánh Gioan Tom I, Ed. du Seuil p.306-307). Thánh giá này là nguồn sống của tín hữu, không phải do khía cạnh hiến tế và đổ máu, nhưng theo A. Marchadour, là cách diễn tả cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa”. Ông viết tiếp: “Không như một vài người nhìn thánh giá như là nơi diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, khi Chúa Cha từ bỏ Chúa Con để chuộc tội loài người. Ở đây, Con và Cha hiệp thông với nhau trong cùng một tình yêu đối với thế gian (Tin Mừng Gioan, Centurion, p.69). Dự án tình yêu nhưng không của Thiên Chúa Cha mà Đức Giêsu mặc khải, mang tính phổ quát: “cho thế gian”, chứ không chỉ dành riêng cho một ít người. X.lon Dufour nhận xét: “Ba câu này liên kết mật thiết với nhau, hai câu đầu nói lên động cơ (3,16) và mục đích (3,16-l7) của ơn Chúa hay việc Cha sai Con Một mình. Trong chương trình này, lần thứ nhất, hai lần Thiên Chúa là “chủ từ”. Thiên Chúa được coi là nguồn gốc của hành động cứu rỗi, vì tình yêu cao cả ngất ngây của Ngài. Ở trung tâm của tất cả, nhất là trung tâm vai trò của Con Người và con đường dẫn tới thập giá, người ta tìm thấy Thiên Chúa yêu thương thế gian. Sư khẳng định đó coi Thiên chúa và tình yêu của Ngài như là thực tại nền tảng và tuyệt đối… Tình yêu đi trước tất cả, như trong lời mở đầu của thánh Gioan ánh sáng thiên linh đã hiện hữu vì con người trước khi có tối tam. Thiên Chúa tình thương chỉ có một mục đích là cứu rỗi và ban sự sống (O.C. p.305-306).
2. Kêu gọi câu trả lời tự do của chúng ta “bây giờ”
Nhưng không, vô điều kiện, phổ quát, tình yêu Chúa Cha tỏ hiện trong Con Một, đòi hỏi một câu trả lời tự do của con người. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải tình yêu Chúa Cha, đòi hỏi mọi người ‘bây giờ phải chọn lựa, một sự chọn lựa sẽ quyết định cho số phận của mình’.
Với kẻ kết hiệp trong đức tin, với Thiên Chúa tình yêu được bày tỏ trong Đức Giêsu Kitô, với kẻ tin “nhân danh Con Một”, thì được hiệp thông với “sự sống đời đời”. Từ hôm nay họ được dẫn vào sự duy nhất vĩnh viễn và trong sự thân mật hoàn hảo của Chúa Cha và Chúa Con: “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng nên một với Ta” (Ga 17). Còn với “ai không muốn tin” thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào Con Thiên Chúa”. X. lon Dufour nhấn mạnh: “sư sống đời đời và án phạt không dành cho ngày sau hết mà thôi (phán xét chung thẩm): cả hai được thể hiện trong hiện tại khi gặp gỡ Đức Kitô. Tin vào Ngài tức thì “có sự sống”, trái lại, từ chối không tin là tự định đoat cho mình phải chết” (O.C. p.308-309).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Sống và yêu theo nhịp Chúa Ba Ngôi” (J.N. Bezencon, trong, “Babor p.131-132).
Mặc khải về Chúa Ba Ngôi không chỉ là sự bổ sung vào ý niệm chung về Thiên Chúa. Sẽ không đu nếu chỉ thêm thắt vào ý niệm về Thiên Chúa của các tôn giáo khác. Mặc khải về Chúa Con và Chúa Thánh Thần để từ đó khám phá ra Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. So với tôn giáo độc thần của Do Thái mà một Chúa Ba Ngôi là sự hoàn thành, ý niệm Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu là cả một cuộc cách mạng trong sự hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế trong kinh Tin Kính của Kitô giáo, không có một đoạn đầu chung chung nói về Thiên Chúa trong những từ mà chúng ta có thể chia sẻ với anh em Do Thái giáo hay Hồi giáo. Chức làm Cha của Thiên Chúa, quyền năng vô biên của Ngài, hành động sáng tạo của Ngài, quyền làm Chúa của Ngài trên vũ trụ phải được đọc dươi ánh sáng của Đức Giêsu và thập giá của Ngài. Đức tin Kitô giáo, đức tin vào Chúa Ba Ngôi, không chỉ khác bởi nội dung của nó, như thể là trong danh mục các chân lý phải tin, chỉ cần thêm vào, cho là ở đâu đi nữa, mot chương về Ba Ngôi là đủ. Chính đức tin đã khác biệt rồi, khác trong chính kết cấu, trong năng động. Đức tin cách nào đó, đảo ngược: khi tôi nói tôi xây dựng cuộc sống tôi trên Ngài, trước hết tôi muốn nói trong Ngài la nguồn suối, Ngài tin ở con người và phó thác cho tôi, ràng buộc mình với chúng ta, và tuỳ may rủi, Ngài chọn xây dựng tất cả dự tính tình yêu của Ngài, và chia sẻ, dựa trên sự đáp trả tự do và mong manh của chúng ta: Đức tin của chúng ta, tiếng Amen của chúng ta là câu trả lời như tiếng dội của lòng tin của Thiên Chúa. Nói Ngài là Cha là mẹ (đứa trẻ nói: Thiên Chúa là người Cha, thương yêu như người mẹ) điều đó muốn nói chính Ngài luôn luôn đi bước đầu. Huấn giáo (catécalèse) không có điểm xuất phát nào ngoài phát minh làm chóng mặt rằng một ai đó đã tin tôi đến nỗi làm cho tôi sống: “Con là con Ta, trong con Ta đặt tất cả tình yêu”. Bởi thế ngay lập tức, đức tin ấy là tin vào Chúa Ba Ngôi. Dựa vào huấn giáo là đặt mình ở điểm chính xác nơi mà Lời của Thiên Chúa có thể tìm thấy tiếng dội trong con người. Đó là đi vào kinh nghiệm làm con của Đức Giêsu. Cuối cùng huấn giáo là huấn giáo về Chúa Ba Ngôi vì đời sống Kitô giáo là tin vào Chúa Ba Ngôi: ở chỗ để Thánh Thần chiếm đoạt, đến nỗi nên một với Đức Giêsu mà Chúa Cha hằng sinh ra. Từ đó huấn giáo các bí tích mà người Kito giáo học sống sự hiệp thông Ba Ngôi là rất quan trọng. Đó là dịp để quảng diễn các kinh trong sách nghi lễ, với điều kiện là đừng bắt đầu cách loại bỏ những gì mà tất cả những ai được giáo huấn (catéchisés) cho rằng không hiểu. Một nhóm nhỏ làm công tác giáo huấn làm ta nghĩ đến bức tượng thánh Icône của André Roublev, ba thiên thần được Abraham đón tiếp, truyền thống công nhận đó là hình ảnh tiên báo về Chúa Ba Ngôi. Tất cả Giáo Hội, tất cả mọi tế bào của Giáo Hội, là hình ảnh của Chúa Ba Ngôi nếu như mỗi người đều hướng về kẻ khác trong sự chia sẻ và trong sự hiệp thông. Trong một êkip làm công tác huấn giáo, trong đó mỗi người đều biết đon nhận những gì mà người khác nói và làm ở đó, những lúc thinh lặng và cầu nguyện thật là những giây phút hiệp thông, một cái gì đó sống, đồng thời cũng có giá ăn mặc khải mầu nhiệm của Thiên Chúa như là cái nhìn nhau giữa các thiên thần của bức tượng thánh của Roublev. Sự tuần hoàn của tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa, được anh em Hy Lạp gọi là “Périchorèse” (một thứ vũ vòng quanh, cũng có gốc với từ chorégraphie). Thiên Chúa khong bất động. Và vì Ngài luôn luôn là chuyển động và chia sẻ chính Ngài, Ngài là chuyển động hướng về chúng ta. Huấn giáo là nơi mà trẻ con, chúng biết chúng không bao giờ ở yên, được mời gọi đi vào chuyển động điệu mua Ba Ngôi, học sống và yêu với nhịp điệu của Cha, Con và Thánh Thần…”.
2. “Giáo Hội nói những gì Giáo Hội làm” (Pour dire le Credo, Cerf).
Nhìn Giáo Hội trong những gì Giáo Hội là, không phải là chuyện dễ dàng đâu. Giáo Hội loan báo Phúc âm, Tin Mừng của Đức Kitô vì hạnh phúc con người, và Giáo Hội làm cho con người sống các bí tích mà Đức Kitô đã truyền lại, đặc biệt và ngay từ đầu, Giáo Hội làm cho con người sống bí tích Thanh Tẩy. Giao Hội hiện hữu là thế đó, nghĩa là như một công đồng của những ai, nam cũng như nữ, chấp nhận tình yêu Chúa Cha và liều mình sống đời sống của Ngài. “Hãy đi khắp muôn dân thu tập các môn đệ, làm phép rửa cho họ” (Mt 28,19). Nhiều khi chúng ta cho lời nói của Giáo Hội có tầm quan trọng (sự can thiệp của Đức Thánh Cha, các tuyên bố của các giám mục) hơn là việc làm của Giáo Hội, và chúng ta có cảm tưởng Giáo Hội là một tổ chức để noi, một bà già rất đáng kính nói hơi nhiều. Phải rồi Giáo Hội nói, và Giáo hội phải làm thế để nói lại với loài người vẻ đẹp của lời dạy của Đức Giêsu, và giúp họ thay lòng đổi dạ. Nhưng trong chân lý sâu thẳm của mình, trước hết Giáo Hội hành động, và khi suy nghĩ đến hành động của mình, Giáo Hội nói và khám phá ra những gì Giáo Hội đã làm. Như thế Giáo Hội kiểm tra lại sự thật của hành động mình, và cắt nghĩa giá trị của hành động ấy. Giáo Hội làm phép rửa, một hành động huyền bí cho phép con người nhận ra mình được Cha yêu thương và được hợp nhất với Đức Giêsu, nhờ ơn sức mạnh của Thánh Thần của Đức Giêsu…,được trở nên chứng nhân của tình yêu phổ quát của Cha. Chúng ta luôn phải tái khám phá ra vẻ đẹp và sự quan trọng của phép Rửa mà chúng ta đã lãnh nhận. Và trong dây liên kết chặt chẽ với hành động chịu phép rửa mà Giáo Hội đã đề ra kinh Tin Kính, để cho mọi người sẽ chịu phép rửa, cùng nhau nhận ra kho tàng họ được chia sẻ không do công lệnh gì của họ. Phải luôn lặp lại lời thánh Phaolô: “Nhờ ơn thánh mà anh em được cứu chuộc, anh em chẳng có công trạng gì trong đo cả, chỉ là một ơn huệ của Thiên Chúa” (Ep 2,8). Kinh Tin Kính là bản đồ đi đường chỉ cho chúng ta thấy vẻ đẹp của thế giới mới trên bờ bến mà bí tích rửa tội đã đưa chúng ta tới. Việc tuyên xưng đức tin bắt đầu trong ngây ngất (của tâm hồn) và trong lời kinh tạ ơn.
3. “Hội Thánh của Thiên Chúa Ba Ngôi”. (B. Franck, trong “La Croix”, 12/2/1995, p.27).
Nếu Giáo Hội thật là một hiệp thông (koinonia), nếu từ cơ bản Giáo Hội là “dân Thiên Chúa”, “thân thể Đức Kitô và đền thờ Chúa Thánh Thần, nếu Thiên Chúa Ba Ngôi vừa là nguồn gốc vừa là khuôn mẫu của sự sống của Giáo Hội, nếu những người chịu phép (giáo sĩ, giáo dân, tận hiến) phải được đào tạo theo mẫu nhưng liên hệ nối kết Ba Ngôi Thiên Chúa, khi ấy Giáo Hội phải cố gắng phản ảnh lên trái đất, giữa các Kitô hữu, những mối liên hệ bình đẳng hỗ tương và bác ái, mối liên hệ giữa Cha, Con và Thánh Thần. Giữa Ba Ngôi, không có trên cũng không có dưới, không có Đấng quyết định và Đấng thi hành quyết định, Ba Ngôi với nhau, hoạt động với nhau sống với nhau mà vẫn giữ được căn tính của mình và Ngôi vị riêng biệt, tuy mỗi Đấng có một sứ menh đặc trưng có một không hai.
Giáo Hội tự mình muốn và tự nói mình là “bức tượng thánh của Ba Ngôi”. Giáo Hội phải luôn cố gắng hướng tới để trở nên cái mà mình phải là, chứ không phải luôn làm biến dạng khuôn mặt Ba Ngôi mà Giáo Hội tự cho mình là hình ảnh.

107. Chú giải mục vụ của Claude Tassin
CHÚA GIÊSU GẶP GỠ
VÀ SAI PHÁI CÁC MÔN ĐỆ NGÀI
Các phụ nữ đã chuyển giao hoàn thành xong sứ điệp bởi vì hiện giờ các môn đệ đang tụ họp cho cuộc gặp gỡ tối hậu đầy trang trọng. Chúng ta hãy cố gắng hiểu cho được tình cảnh của Matthêu khi ông đặt bút soạn thảo chương kết này. Các truyền thống mà Matthêu cậy dựa đều phù hợp với nhau về sự kiện Đức Giêsu đã hiện ra ở Galilê; tuy nhiên không một truyền thống nào đã bảo tồn các trình thuật về những cuộc hiện ra ở Galilê này. Bỏ qua một bên mọi tưởng tượng, tác giả Phúc Âm phải xây dựng sứ điệp mình dựa trên các mo hình Kinh Thánh về việc soạn thảo (a) và trên các chất liệu được Giáo Hội ông nhận biết (b).
1) Ở đây Matthêu sử dụng nhiều mô hình, tuy nhiên lược đồ nền tảng là lược đồ các sắc chỉ vương triều được xây dựng như sau:
Ta đã nhận lãnh quyền hành như thế.
Vậy Ta truyền…
Như vậy các lời nói của Đấng Phục Sinh được soạn lại như sau:
a) “Mọi quyền hành đã được ban cho Ta” (c.18)
b) Vậy, các con hãy đi… (c.19-20a)
Sự lựa chọn này không phải la ngẫu nhiên: Kinh Thánh Hy Bá Lai mà tác giả Phúc Âm sử dụng đã kết thúc chính xác (2Sb 36,23) bằng một sắc chỉ vương triều giống thế, sắc chỉ của vua Cyrus. Hình bóng của Đấng Mêsia trong truyền thống Do thái thời xưa (x. Is 45,1). Như thế, Matthêu đã mở đầu tác phẩm của mình bằng cách nói về “Sách Sáng Thế” (1,1) và kết thúc bằng lời ám chỉ đến câu cuối cùng trong Cựu Ước: Lịch sử Chúa Giêsu hoàn tất tất cả lịch sử Thánh Kinh.
2) Về mặt chất liệu, hầu như ở mỗi lời trong 5 câu này, đều thấy có can dự đến một bản mục lục gồm những chủ đề lớn được Matthêu khơi động dọc suốt Phúc Âm của ông. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong một Giáo Hội đầy sợ hãi, nơi mà các thành viên gốc Do Thái vẫn còn nghĩ rằng phải tập trung chú tâm mình “các con chiên lạc nhà Israel”, có thể là các Kitô hữu khác, dày dạn hơn, tự nuôi sống mình bằng khẩu hiệu này “kêu gọi dân ngoại (bất cư ai) trở thành môn đệ; tháp nhập họ (ngay cả nhóm người của Gioan Tẩy Giả) bằng phép Rửa tội Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chia sẻ cho họ tất cả những gì Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta” (c. 19-20). Đây chính là chương trình của Giáo Hội! Trong đoạn kết, Nhân Danh Chúa Kitô, Matthêu đã đưa ra lý do bênh vực cho sự bảo trợ chí nguyện này và hun đúc lại lòng can đảm của những kẻ đang co rúm lại. Tuy nhiên, để kết thúc, cần phải nhớ lai chính bản văn của tác giả Phúc Âm, bản văn ấy còn sung mãn hơn cả những nỗ lực làm sáng tỏ này.
Các câu 16-17 cung cấp bức khung những lời cuối cùng của Đấng Phục Sinh. Như Luca thì hẳn đã diễn tả rằng nhóm tông đồ bây giờ là nhóm Mười Một (tông đồ). Đang khi đó, trung thành với chính mình, Matthêu lại nói đến mười một môn đệ: vào lúc được Chúa sai phái, họ vẫn luôn luôn là các “học trò”, đây quả là một ý tưởng quan trọng đối với các khái niệm thừa sai của tác giả Phúc Âm.
Galilê biểu tượng thế giới dân ngoại, mặc lấy trọn vẹn ý nghĩa của nó qua việc Chúa sai phái các môn đệ đi toàn thế giới, điều này sắp sửa dội vang. Tuy nhiên, chính xác hơn cuộc gặp gỡ đã xảy ra ở “trên núi”. Tựa như một chuỗi nối tiếp quyện vào nhau, người ta thấy lại ngọn núi nơi trước đây ma quỷ đã phô bày cho Chúa Giêsu mọi vương quốc của trái đất, ngọn núi “Bát Phúc” nơi Chúa Giêsu đã công bố Hiến Chương Nước Trời và ngọn núi “biến hình” nơi vinh quang của Con Người từng toả sáng, và trên tất cả những thứ đó là bóng hình ngọn núi Nêbô (Đnl 34) nơi Môsê nói lời vĩnh biệt khi dân tộc ông sắp bước vào miền đất hứa.
Quang cảnh cuối cùng trước đây các môn đệ để lại là quang cảnh họ bỏ trốn chạy (26,56); còn giờ đây họ đang phủ phục trước Chúa Giêsu; “Tuy nhiên, vài người vẫn còn hồ nghi” nên vẫn chưa thực hiện được hành trình đức tin dẫn họ đến niềm vui không pha tạp (x. 28,8). Mô hình ngờ vực là một yếu tố truyền thống thường thấy trong các trình thuật Chúa Phục Sinh hiện ra, yếu tố này lẽ ra buộc Đấng Phục Sinh phải giúp cac môn đệ nhận ra Ngài cũng như Ngài phải trấn an họ, tuy nhiên ở đây Chúa Giêsu đã không hề làm như thế. Ngày xưa Ngài đã từng nói với Phêrô “Hỡi kẻ kém lòng tin, tại sao ngươi lại nghi ngờ?” (14,31). Đức tin vẫn mãi mai đòi ta phải liều và chính trong ‘hành động’ thừa sai (c.19-20) các môn đệ mới có thể chiến thắng nổi những ngờ vực của họ.
Ở câu 18, người ta nhớ lại vào cuối Kinh Thánh Hy Bá Lai, vua Cyrus đã tuyên bố: “Chúa là Thiên Chúa, Ngài đã ban cho tôi tất cả vương quốc trên mặt đất” (2Sb 36,23). Và lớn lao hơn chính quyền năng trên trời được thông ban cho Con Người mầu nhiệm trong sách Daniel: “Người được Thiên Chúa ban cho mọi quyền hành… mọi dan tộc sẽ phụng sự Người… quyền hành muôn thuở” (Dn 7,14). Ở đây không hề thấy một quang cảnh hùng vĩ, tuy nhiên qua bức tranh cuộc phán xét cuối cùng (25,31) được gợi lại Chúa Giêsu quả quyết rằng kể từ nay Thiên Chúa đã trao ban cho Ngài vương quyền hoàn vũ này.
“Vậy” (c.19) “các ngươi hãy đi chiêu mộ môn đồ từ mọi dân tộc”. Chúa Giêsu không nhấn mạnh đến từ “Đi” cũng không nhấn mạnh đến sứ mệnh chinh phục mặt địa lý mà nhấn mạnh đến việc mở lòng đón nhận tất cả mọi nhóm người không phân biệt. Bởi vì Chúa Giêsu nắm trọn quyền hành, cho nên mọi người đều được mời gọi sống dưới quyền hành của Người. Đối với Matthêu, sứ mệnh là gì? Là các môn đe đi chiêu mộ kẻ khác trở thành môn đệ, là mọi người nam cũng như nữ sau khi cảm nghiệm rằng lời giáo huấn của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc hiện sinh của họ sẽ đem chia sẻ kinh nghiệm đó với kẻ khác “dạy cho họ giữ tat cả mọi huấn lệnh của Chúa Giêsu” được tóm gọn lại trong chỉ một lề luật yêu thương.
Tuy nhiên sứ mệnh đó không phải là sự triển khai một ý thức hệ, dù rằng cao đẹp mấy đi nữa. Nó không ngừng đòi hỏi phải tạo ra một cộng đoàn, gồm những người; qua nghi thức Rửa Tội, muốn ghim chặt mối dây liên đới với nhau trong một tuỳ thuộc chung: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (c.19). Đây là công thức mầu nhiệm Ba Ngôi duy nhất trong Tân Ước nói về phép Rửa Tội “Nhân danh Chúa Giêsu” hay “Trong Thánh Linh”. Danh xưng Ba Ngôi ở câu 19 chắc chắn phát xuất từ Phụng Vụ Thánh Tẩy đang thịnh hành trong Giáo Hội của Matthêu. Tác giả Phúc Âm sẵn sàng chấp nhận danh xưng này và qua đó ông đưa độc giả mình về lại với tất cả những gì họ đã học biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Linh suốt những trang Phúc Âm của ông.
Trong một cách thức nào đó, Đấng Phục Sinh đã kết luận như sau: “Các ngươi còn ngờ vực”, vậy hãy liều thân đi phục vụ mọi người. Khi thấy họ quay về với đức tin bấy giờ các ngươi sẽ khám phá rằng thực sự “mọi quyền hành đã được ban cho Ta” và nhất là các ngươi sẽ khám phá ra rằng chính Ta, Ta luôn ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế (c.20). Suốt dòng lịch sử, Đấng Phục Sinh vẫn luôn mãi là Đấng Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23): Như thế phần đầu và phần cuối Phúc Âm đã phúc đáp cho nhau, ngoài ra dòng Phúc Âm đầu tiên (1,1) ghi nhận: “Các nguồn gốc”; sự khởi nguyên còn dòng Phúc Âm cuối cùng nhắc đến “Thế mạt” (28,20): Bản thân Chúa Giêsu thâu tóm toàn lịch sử nhân loại; Tuy nhiên kể từ “ngày đầu tiên trong tuần” (28,1) tức buổi sáng Phục Sinh, lịch sử này đã tháp nhập vào đó sự dấn thân và chứng ngôn của Kitô hữu.

108. Chú giải của William Barclay
VINH QUANG CỦA LỜI HỨA CUỐI CÙNG
Chúng ta đi đến phần kết thuc câu chuyện Phúc Âm và ở đây chúng ta lắng nghe những lời sau cùng của Chúa phán với môn đệ Ngài. Trong cuộc gặp gỡ sau cùng này, Chúa Giêsu làm ba điều:
1) Ngài bảo đảm cho họ về quyền năng của Ngài. Chắc chắn không có điều gì vượt ngoài quyền năng của Đấng đã chết và chiến thắng sự chết. Giờ đây họ là những người của một Đấng có quyền bính khắp cả trên trời lẫn dưới đất.
2) Ngài giao cho họ một sứ mạng. Ngài sai họ đi, làm cho thế gian trở nên môn đệ Ngài. Sứ mạng Chúa giao phó cho chúng ta là đi chinh phục mọi người về cho Ngài.
3) Ngài hứa sẽ ở với họ. Việc Chúa sai mười một người Galilê hiền lành ra đi chinh phục thế giới là một điều không tưởng. Họ chắc thất vọng khi nghe điều đó. Nhưng sau mệnh lệnh đó là một lời hứa kèm theo. Họ cũng như chúng ta được sai đi khắp thế gian với một công tác trọng đại nhất lịch sử, và có Đấng vĩ đại nhất cùng đi với họ giữa trần gian này.

109. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin Mừng Mt 28: 16-20: Hẳn là ai trong chúng ta cũng thuộc lòng câu giáo lý được truyền từ thế hệ này tới thế hệ khác, tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Và hơn nữa, với người Kitô hữu..
Suy niệm
Hẳn là ai trong chúng ta cũng thuộc lòng câu giáo lý được truyền từ thế hệ này tới thế hệ khác, tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Và hơn nữa, với người Kitô hữu, chúng ta còn tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cách thân quen nhiều lần trong ngày khi làm Dấu Thánh giá “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đó cũng chính là một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi trừu tượng khó hiểu lại trở nên quen thuộc làm sao. Thiên Chúa mà người ta nghĩ Ngài là Đấng “ở trên” là một ông Trời, ông Thiên xa vời thì Ngài cũng lại là Đấng “ở với” loài người cách gần gũi. Vào thời Cựu Ước, Thiên Chúa đồng hành với Môisen và dân Ngài trong hành trình vào đất hứa. Lời hứa “ở với” ấy được thực hiện ngày càng trọn hảo nơi Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1,23). Thiên Chúa ở với loài người không những bằng sự hiện diện mà còn chia sẻ phận người trong mọi hoàn cảnh, kể cả cuộc khổ nạn vì tội lỗi con người, Người chịu đau thương trên thánh giá, để nhân loại có thể cảm nhận được việc Chúa “ở với” tới tận cùng. Chúa Kitô Phục sinh còn tiếp tục ở cùng Hội thánh khi hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Người còn tiếp tục trao ban tình thương cho các môn đệ bằng việc trao ban Thánh Thần để dạy bảo, dẫn dắt và canh tân Hội thánh.
Cho nên, Phụng vụ Hội thánh mừng lễ kính Chúa Ba Ngôi vì Hội thánh muốn các tín hữu nhớ rằng mỗi ngày Chúa nhật là ngày dành riêng để cảm tạ hồng ân Chúa Ba Ngôi ban xuống trên mỗi người chúng ta. Chúa Ba Ngôi luôn phải được vinh danh trong các Bí tích mà Hội thánh cử hành, khởi đầu là Bí tích Rửa tội, như câu trích nổi tiếng bàn về Chúa Ba Ngôi trong đoạn kết thúc Tin mừng, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi còn được Hội thánh minh họa bằng hình ảnh một gia đình đầm ấm, yêu thương và liên kết nên một. Trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhắc nhở các tín hữu rằng: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (số 6). Vâng, một gia đình thắm đượm tình yêu thương thì 1+1+1 không là 3, mà là 1. Và nếu Ba Ngôi Thiên Chúa là kiểu mẫu của gia đình, thì mọi thành viên trong gia đình cũng phải yêu thương nhau bằng tình yêu trao ban và tự hiến như vậy. Đó chính là giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu Phục Sinh đã truyền dạy các môn đệ: “Hãy giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Điều Người truyền dạy đó là “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Như vậy, giáo lý mà Chúa Giêsu truyền lại không phải là một bài học lý thuyết mà là việc tập luyện sống “yêu thương”. Tình thương ấy cần được thể hiện nơi tổ ấm gia đình, cộng đoàn, giáo xứ bằng những nỗ lực sống chan hòa và hợp nhất. Chính khi sống trao ban, chúng ta đang dần phản ảnh trung thực tình yêu thương của Chúa Ba Ngôi. Và Ba Ngôi Thiên Chúa cũng ở lại, đồng hành với chúng ta trong sứ vụ loan báo tình yêu thương của Thiên Chúa cho anh chị em mình.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
Xin giúp con quên mình hoàn toàn
Để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình
Như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
Mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con,
Hay làm cho con ra khỏi Chúa;
Nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
Tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
Xin biến hồn con thành chốn trời cao,
Thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa, nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
Nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
Với thái độ nhạy bén trong đức tin,
Cung kính tôn thờ và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)

110. Lễ Chúa Ba Ngôi
TÌNH LIÊN ĐỚI TRONG BA NGÔI THIÊN CHÚA
(Suy niệm của Lm. Basil Quang Linh, CRM)
Một ngày nọ, thánh Augustinô đang dạo theo bờ biển, suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, bất ngờ thấy
một em bé đang đào một cái hố nhỏ ở bờ biển. Rồi em chạy ra chạy vào múc nước đổ vào cái hố cỏn con. Thánh Augustinô lấy làm lạ hỏi: “Em làm gì thế?” Em bé đáp: “Con đang cố gắng múc cạn nước biển đổ vào cái hố này.” Thánh nhân hỏi: “Biển thì rộng lớn, còn cái hố của con lại nhỏ bé, làm sao em có thể múc hết nước biển đổ vào đó được.” Em bé hỏi lại: “Làm sao bác có thể dùng khối óc nhỏ bé của bác để hiểu được sự bao la sâu thẳm của Chúa Ba Ngôi được?” Nói xong em biến mất. Nghe thế, thánh nhân ngẩn người ra.
Giống như thánh Augustinô, ta không thể nào hiểu được mầu nhiệm một Chúa mà lại có ba ngôi. Nhưng tại sao Thiên Chúa lại muốn mạc khải cho ta biết về bản tính siêu việt của Ngài khi ta không thể hiểu hết bản tính của Ngài? Vấn đề quan trọng của tín điều Chúa Ba Ngôi là ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, càng hiểu Thiên Chúa ta càng hiểu chính mình hơn. Các nhà thần học cho ta thấy rằng, người ta luôn gắng sức nên giống Chúa khi họ thờ phượng kính mến Ngài. Ai phụng sự Chúa như người dũng sĩ sẽ sống cách anh hùng. Ai phụng sự Chúa trong hoan lạc sẽ luôn tìm kiếm hoan lạc. Ai phụng sự Chúa trong khó chịu dễ có khuynh hướng bực bội. Như vậy, hiểu về tín điều Chúa Ba Ngôi tùy thuộc về cách ta phụng sự Ngài. Sau đây là hai điều cần suy tư.
Điều thứ nhất: Thiên Chúa không hiện hữu trong cá nhân đơn độc nhưng trong tương quan tình liên đới với các ngôi khác. Nói cách khác, Thiên Chúa không sống đơn độc. Nghĩa là người Kitô hữu sống theo hình ảnh Thiên Chúa phải tránh xa chủ nghĩa cá nhân và tự cô lập hóa chính mình.
Điều thứ hai là tình yêu chân thật cần có tình thân giữa ba người. Người ta nói rằng: “Hai người tạo thành tình bạn, ba người làm thành đám đông.” Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cho ta thấy một cộng đồng bao gồm ba thành phần. Cả ba đều yêu mến nhau như người nam yêu người nữ sản sinh ra người con. Tình yêu sung mãn ấy làm ta nên giống tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói chung là ta chỉ trở nên trọn vẹn khi ta có tình liên đới với Thiên Chúa và với nhau và như thế ta sẽ nên giống hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên điều thách đố đối với ta về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là nguyên lý tay ba: ta-Thiên Chúa-tha nhân. Ta thực sự là Ki tô hữa đích thực khi ta sống liên đới với Thiên Chúa và với tha nhân. Xin Chúa Ba Ngôi ban ơn trợ giúp để ta loại trừ mọi lối sống ích kỷ, không chỉ sống cho riêng mình mà sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Có như thế tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa mới hiện diện trong cuộc đời ta.

111. Làm Dấu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thiếu nhi trong Giáo xứ Kim Ngọc chúng tôi thuộc lòng ca khúc “Làm Dấu”, ngày Chúa Nhật nào các em cũng hát trước khi học giáo lý.
1. Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.
Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh thiên hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.
ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.
Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.
2. Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.
Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.
Đa có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng cháy niềm tin.
Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.
Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác.
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chua Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, đieu khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nao? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “ Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “ Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên mot: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.

112. Lễ Chúa Ba Ngôi – Dấu Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 28: 16-20: Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo…
Theo truyền thống của Hội Thánh, khi bắt đầu bất cứ công việc gì, người tín hữu làm “Dấu Thánh Giá” để tuyên xưng danh Chúa Ba Ngôi; và khi kết thúc công việc, họ đọc kinh “Sáng Danh” để tạ ơn Thiên Chúa Ba Ngôi.
Giáo lý Hội thánh Công giáo giải thích: “Kitô hữu bắt đầu một ngày của mình, các kinh nguyện và hoạt động của mình bằng dấu thánh giá ‘nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen’. Người đã chịu Phép Rửa dâng trọn vẹn ngày mình sống để tôn vinh Thiên Chúa và kêu cầu Đấng Cứu Độ ban ân sủng giúp họ hành động trong Thần Khí như một người con của Chúa Cha. Dấu thánh giá làm cho chúng ta nên mạnh mẽ trong các cơn cám dỗ và trong những khó khăn” (GLCG số 2157, 2166).
“Tôi còn nhớ một trong những câu hỏi trong sách giáo lý cho trẻ em ngày xưa: ‘Dấu chỉ của Kitô hữu là gì? Thưa, là dấu thánh giá’. Tất cả các thể chế, các thương hiệu ngày nay đều có một dấu hiệu riêng biệt, một logo nói lên nét đặc biệt của cơ quan, công ty mình. Tôi nghĩ đến các Kitô hữu đầu tiên, họ đáng được nhận giải thưởng quảng bá giỏi nhất, họ đã tạo ra một logo biểu tượng cho hình ảnh của Giáo hội. Người ta khó có thể tìm một hình ảnh nào đơn giản hơn, trọn vẹn hơn, qua chiều sâu, chiều rộng, tầm nhìn, sứ mệnh, các giá trị của Giáo hội, cây thánh giá hội đủ các yếu tố trên” (x. phanxico.vn, 12.12.2016).
Làm Dấu Thánh Giá là tuyên xưng Chúa Ba Ngôi. Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung HĐGMVN 2011, số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Mầu nhiệm Ba Ngôi thật cao cả và cũng thật gần gũi. Thánh Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”. Tình yêu gắn liền với đời sống con người.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
– Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15,13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
– Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
– Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
– Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương, hiệp nhất nên một giữa vợ chồng, hiệp nhất giữa các thành viên trong gia đình: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6), hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn, hiệp nhất giữa mọi thành phần trong Giáo Hội.
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh.
Dấu Thánh Gía là một công thức ngắn gọn nhất, nhưng lại đầy đủ nhất về đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu Thánh Giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Lạy Chúa, khi làm dấu Thánh Giá, xin cho con biết “khắc ghi tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu, Chúa mãi ở trong con, con ở trong Chúa”. Amen.

113. Lễ Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Vinh Danh Chúa Ba Ngôi
Thiên Chúa Chí Linh Tam Vị Nhất Thể
Chúng Nhân Hèn Mọn Một Đời Oan Khiên
Hằng ngày, nhiều lần chúng ta tuyên xưng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi – Đấng Tam Vị Nhất Thể (Holy Trinity). Có nhiều cách, nhưng cách đầu tiên và đơn giản nhất là làm dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần – khởi đầu và kết thúc mọi sự trong sinh hoạt hằng ngày của tín nhân. Một trong các cách khác là cầu nguyện bằng Kinh Sáng Danh.
Khi nhìn vào Tam Giác Đều, chúng ta thấy có mọi thứ bằng nhau: Ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, ba đường trung tuyến bằng nhau. Thiên Chúa Ba Ngôi cũng vậy, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém. Một mà Ba, và Ba mà Một. Một Chúa mà Ba Ngôi – gọi là Tam Vị Nhất Thể, nói theo Việt ngữ bình dan là ba-trong-một. Điều này hoàn toàn vượt ngoài tầm hiểu biết của loài người. Chắc chắn những người KHÔNG có niềm tin tôn giáo KHÔNG thể chấp nhận theo lý luận của trí tuệ loài người. Không tin cái gì đó không phải là cái đó không hiện hữu, nghĩa là cái gì đó vẫn thực sự hiện hữu dù chúng ta có tin hay không.
Có câu chuyện kể rằng chàng Augustinô là người giỏi giang, thông minh xuất chúng, suy nghĩ và lý luận về Chúa Ba Ngôi mà không thể hiểu thấu. Và rồi chàng Augustinô gặp một em bé ngồi múc nước biển đổ vào cái hang, thấy lạ nên mới hỏi: “Cháu làm gì thế?”. Em bé trả lời: “Cháu tát nước biển”. Augustinô nói: “Làm sao cháu tát cạn được bien?”. Đứa bé vô tư nói: “Việc cháu đang làm đây còn dễ hơn việc chú đang suy nghĩ”. Chàng Augustinô đã giật mình và tỉnh ngộ. Đó chính là Thánh tiến sĩ Augustinô, cậu con trai “ngang ngược” của Thánh Monica.
Ngày xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh qua ông Môsê: “Anh em CỨ HỎI những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; CỨ HỎI từ chân trời này đến chân trời kia: Có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4:32-34). Những câu hỏi có vẻ dễ dàng mà hóc búa ghê đi!
Những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời. Và ông Môsê kết luận: “Vậy hôm nay, anh em PHẢI biết và để tâm suy niệm điều này: Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ KHÔNG CÓ thần nào khác nữa. Anh em PHẢI GIỮ các THÁNH CHỈ và MỆNH LỆNH của Ngài, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này se được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em” (Đnl 4:39-40). Những lời giản dị và rõ ràng, thật dễ hiểu. Trong mệnh lệnh có kèm theo lời hứa. Ôi, Chúa Ba Ngôi vô cùng đại lượng và nhân từ!
Vâng, Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa. Thánh Vịnh gia xác định: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Mỗi chúng ta cũng đã và đang cảm nghiệm được lời hứa đó trong cuộc sống đời thường này.
Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng chí minh và chí thiện nên Ngài “yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Ngài chan hoà mặt đất” (Tv 33:5). Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng toàn năng: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú. Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Ngài ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33:6 & 9). Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19).
Vì thế, chúng ta luôn rất cần Ngài và phải tín thác vào Ngài bằng cách thân thưa: “Tâm hồn chúng con đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), và không ngừng van xin cầu khẩn: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chua, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Có nghĩa là chúng ta tín thác như thế nào thì được như vậy: tin nhiều thì được nhiều, tin ít thì được ít. Hoàn toàn công bằng. Mỗi khi chữa lành, chính Chúa Giêsu luôn xác định rằng “chính đức tin đã cứu người được chữa lành”.
Một lần nọ, khi Tông đồ Phi-líp-phê thắc mắc về Chúa Cha (Ngôi Nhất), Chúa Giêsu (Ngôi Hai) đã minh nhiên xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Tình yêu cua Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất Chúa Thánh Thần (Ngôi Ba). Thấy và biết Ngôi Hai là thấy và biết Ngôi Cha, cũng là thấy và biết Ngôi Ba vậy. Theo “cách chia” của chúng ta: Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu độ, và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Đó là cách nói để cho loài người dễ hiểu theo trí tuệ phàm tục mà thôi. Ba là Một thì không có chuyện tách rời như vậy.
Chúa Thánh Thần là Gió (Khí), Lửa và Nước. Ngài luôn hoạt động tích cực trong mỗi chúng ta, trong từng biến cố cuộc đời. Xét theo nghĩa đen, cuộc sống con người KHÔNG THỂ THIẾU ba thứ đó.
Thánh Phaolô cho biết: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Quả thật là nguy hiểm nếu thiếu Chúa Thánh Thần: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chung ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Phúc thay cho chúng ta, bởi vì chúng ta đã được Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần (Thần Khí, Thánh Linh), vì thế “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:16). Những tội-nhân-chúng-ta lại được tha thứ và được phục hồi nguyên trạng với quyền làm con cái của Thiên Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Ngài, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài” (Rm 8:17). Được “đồng thừa kế với Đức Kitô” thì quả là điều vô cùng kỳ diệu, chúng ta không thể nào hiểu thấu “tình trạng” đó.
Kỳ diệu cứ tăng theo cấp số nhân, bởi vì những tội-nhân-đáng-chết như chúng ta – tức là tử tội, mà lại được Thiên Chúa thương xót, tha thứ và cho thừa kế với Đức Kitô, được làm tiểu đệ của Đại Huynh Giêsu. Ôi, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được? Đúng là Đại Hồng Phúc đối với chúng ta. Hồng ân cứ nối tiếp ân sủng… Cứ thế và cứ thế!
Tuy được lãnh nhận vô vàn ân phúc như vậy, nhưng con người luôn yếu đuối và hoài nghi, dù đã mục sở thị các sự lạ, tận mắt chứng kiến những điều kỳ diệu. Đúng là phàm nhân chúng ta ngang ngược thật đấy chứ!
Thánh sử Mátthêu kể: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28:16-17). Ui da, ngay cả các môn đệ thân cận, tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, thế mà vẫn có “ngờ-i-nghi”. Chúa Giêsu chắc buồn lắm. Nhưng Ngài hiểu chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình. Ngài đến gần, xác định với họ: “Thầy đã được trao TOÀN QUYỀN trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dan trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:18-20a).
Tất nhiên đó là sứ vụ không của riêng ai, nghĩa là ai cũng phải hành động theo cương vị và hoàn cảnh sống của mình. Sứ vụ này cũng đã được Giáo hội đề cập trong Giáo huấn Xã hội Công giáo (chương II). Thi hành sứ vụ thì tất nhiên không thể không… mệt. Nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự cảnh giác cao độ, làm gì thì cũng phải thực sự NHÂN DANH CHÚA BA NGÔI chứ ĐỪNG nhân danh bất kỳ thứ gì khác, nguy hiểm nhất là làm để “vinh danh chính mình” – đó là ẢO TƯỞNG và TỰ KIÊU. Người Pháp có cách ví von thú vị thế này: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác”. Rất có thể chúng ta thường mắc lỗi này!
Chắc chắn rằng thực hiện sứ vụ nào cũng mệt – dù đó là việc to hay nhỏ, thế nhưng chúng ta không đơn độc hành động, bởi vì Thiên Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ “đến từng chi tiết”. Thật vậy, trước khi về trời dọn chỗ cho chúng ta, chính Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta lời hứa đặc biệt: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Đừng nghi ngờ, mà hãy vững tin!
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng và hằng hữu, nếu không có Ngài thì chắc chắn chúng con chẳng làm được tích sự chi cả. Vì thế, chúng con tha thiết cầu xin Ngài luôn ban Thần Khí soi sáng và hướng dẫn mọi sự từ lúc khởi sự cho tới lúc hoàn thành, xin dạy chúng con những điều phải làm, xin luôn đồng hành và gia tăng lòng can đảm để chúng con sẵn sàng hành động chỉ vì Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

114. Nhân danh Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tam giác cân có mọi thứ bằng nhau: Ba cạnh bằng nhau, ba góc bằng nhau, ba đường trung tuyến bằng nhau. Thiên Chúa Ba Ngôi cũng vậy, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém. Một mà Ba, và Ba mà Một. Một Chúa mà Ba Ngôi, gọi là Tam Vị Nhất Thể, nói theo Việt ngữ bình dân là ba-trong-một. Điều này hoàn toàn vượt ngoài tầm hiểu biết của loài người. Những người không có niềm tin tôn giáo thì chắc hẳn không thể chấp nhận theo lý luận của con người.
Chuyện kể rằng Thánh Augustinô là người giỏi giang, thông minh xuất chúng, suy nghĩ và lý luận về Chúa Ba Ngôi mà không thể hiểu thấu. Thánh Augustinô gặp một em bé ngồi múc nước biển đổ vào cái hang, thấy lạ nên ngài hỏi: “Cháu làm gì thế?”. Em bé trả lời: “Cháu tát nước biển”. Thánh Augustinô nói: “Làm sao chau tát cạn được biển?”. Đứa bé vô tư nói: “Việc cháu làm đây còn dễ hơn việc ông đang suy nghĩ”. Thánh Augustinô giật mình và tỉnh ngộ!
Thiên Chúa nói qua ông Mô-sê: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: Có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thien Chúa phán từ trong đám lửa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4:32-34).
Những câu hỏi đó cũng chính là những câu trả lời. Ông Mô-sê kết luận: “Vậy hôm nay, anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: Trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh cua Ngài, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em” (Đnl 4:39-40). Những lời giản dị và rõ ràng, thật dễ hiểu.
Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn giữ đúng lời hứa. Tác giả Thánh vịnh xác định: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Thiên Chúa là Đấng chí minh và chí thiện nên “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:5). Thiên Chúa là Đấng toàn năng: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tu. Vì Người đã phán, và muôn loài xuất hiện, Ngài ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên” (Tv 33:6 & 9). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-19). Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài và phải tín thác vào Ngài bằng cách thân thưa: “Tâm hồn chúng con đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phu trì” (Tv 33:20), và luôn cầu khẩn: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).
Khi Tông đồ Phi-líp-phê thắc mắc về Chúa Cha (Ngôi Nhất), Chúa Giêsu (Ngôi Hai) nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Tình yêu của Cha và Con nhiệm xuất Chúa Thánh Thần (Ngôi Ba). Thấy và biết Ngôi Hai là thấy và biết Ngôi Cha, cũng là thấy và biết Ngôi Ba vậy. Theo “cách chia” của chúng ta: Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu độ, và Chúa Thánh Thần Đấng thánh hóa. Đó là cách nói để cho loài người dễ hiểu theo trí tuệ phàm tục mà thôi. Ba là Một thì không có chuyện tách rời như vậy.
Chúa Thánh Thần là Gió (Khí), Lửa và Nước. Ngài luôn hoạt động tích cực trong mỗi chúng ta, trong từng biến cố cuộc đời. Thánh Phaolô nói: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14). Thật nguy hiểm nếu thiếu Chúa Thánh Thần: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:15). Phúc thay cho chúng ta vì chúng ta đã được Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần (Thần Khí, Thánh Linh), vì thế “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:16). Những tội-nhân-chúng-ta lại được tha thứ và được phục hồi nguyên trạng quyền làm con cái Thiên Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Ngài, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Ngài” (Rm 8:17). Quá kỳ diệu! Chúng ta không thể nào hiểu thấu.
Những tội-nhân-đáng-chết như chúng ta, tức là tử tội, mà lại được Lòng Thương Xót của Chúa cho thừa kế với Đức Kitô, được làm tiểu đệ của Đại Huynh Giêsu. Làm sao chúng ta có thể tưởng tượng được? Đúng là Đại Hồng Phúc đối với chúng ta.
Tuy nhiên, con người luôn yếu đuối và hoài nghi, dù đã tận mắt chứng kiến. Thánh sử Mátthêu kể: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28:16-17). Ngay cả những môn đệ thân cận, tận mắt chứng kiến Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, thế mà vẫn có “mấy ông hoài nghi”. Chúa Giêsu chắc buồn lắm. Nhưng Ngài hiểu chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình. Ngài đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:18-20a).
Đó là sứ vụ không của riêng ai, phải hoàn hành động theo cương vị mình. Sứ vụ này cũng đã được Giáo hội đề cập trong Giáo huấn Xã hội Công giáo (chương II). Sứ vụ thì phải… mệt. Đó là điều tất nhiên. Nhưng thiết nghĩ chúng ta cũng nên tự cảnh giác cao độ, làm gì thì cũng phải thực sự nhân danh Chúa Ba Ngôi chứ đừng nhân danh bất kỳ thứ gì khác, nguy hiểm nhất là làm để “sáng danh chính mình”. Người Pháp có câu nói hay: “Đừng vì kính mến Chúa mà chà đạp người khác”.
Thực hiện sứ vụ nào cũng mệt, thế nhưng Thiên Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ, vì chính Chúa Giêsu đã có lời hứa đặc biệt: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Lạy Chúa, không có Ngài thì chúng con chẳng làm được gì, chỉ là đồ vô tích sự. Vì thế, xin luôn soi sáng, hướng dẫn, đồng hành và tăng lực can đảm để chúng con sẵn sàng hành động nhân danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

115. Tam Vị Nhất Thể
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
TÔN VINH BA NGÔI
Con nhẹ đặt tay lên trán
Tôn vinh Ngôi Cha toàn năng
Đã tác tạo nên vạn vật
Đất trời bỗng hoa vô thường
Con nhẹ đặt tay lên ngực
Tôn vinh Ngôi Con yêu thương
Nhập thể, hiến thân chịu chết
Cứu độ con vì xót thương
Con đặt tay lên vai phải
Và đặt lên vai trái này
Tôn vinh Ngôi Ba chí ái
Hằng ngày thánh hóa con đây
Nhân danh Ba Ngôi Một Chúa
Con tạ ơn muôn Hồng ân
Xin cho mọi người hiệp nhất
Luôn sống yêu thương thành tâm
Tam Vị Nhất Thể là Một Chúa Ba Ngôi, là Thiên Chúa “ba trong một”. Trinity (Tam Vị Nhất Thể) có từ gốc Latin là “trinitas” – nghĩa là “ba” (triad), tiếng Hy Lạp tương đương là “triados”. Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của niềm tin Kitô giáo.
Tín điều Chúa Ba Ngôi được xác định trong hai giai đoạn: Tại Công đồng Nicê I (năm 325 sau công nguyên) và tại Công đồng Constantinope I (năm 381 sau công nguyên).
Từ khi sinh ra, trẻ em Công giáo được cha mẹ dạy bài học đầu tiên là làm Dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Chúng ta được đóng dấu ấn thánh này khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, và ấn tín này ghi đậm suốt cuộc đời chúng ta.
Hằng ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần: khi đi ngủ, khi thức dậy, khi tham dự Thánh lễ, khi cầu nguyện, khi ăn uống, khi ra đường,… Chúng ta dùng Dấu Thánh Giá để ca tụng và kêu xin Thiên Chúa mọi nơi và mọi lúc. Năm 211, trong cuốn The Chaplet (chuỗi hạt, tràng hạt), thần học gia Công giáo Tertullian nói về việc làm Dấu Thánh Giá như nhiệm vụ hằng ngày: “Trước khi di chuyển, đi xa hoặc đi đâu đó, khi mặc quần áo, khi tắm, khi ngồi vào bàn ăn, khi thắp đèn, hoặc khi làm bất kỳ hành động nào trong cuộc sống đời thường, chúng ta vẫn vẽ Dấu Thánh Giá trên trán”.
Làm Dấu Thánh Giá không chỉ xin Ngài thánh hóa chúng ta và những gì chúng ta làm, mà đặc biệt là tôn vinh và tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi. Trong các giờ Phụng Vụ, chúng ta cũng nhiều lần xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi: “Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần…”.
Chính Thiên Chúa đã xác định: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1:8). Ngài là Đầu và Cuoi, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13). Ngài tuyên ngôn rạch ròi: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đat thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:3-6; x. Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Is 43:10; Is 44:8; Is 45:6; Is 46:9; Hs 13:4). Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng Tam Vị Nhất Thể, là Thiên Chúa duy nhất.
Trên núi Khô-rếp, Thiên Chúa đã mặc khải qua Mô-sê: “Anh em cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh em, từ ngày Thiên Chúa dựng nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy chăng? Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lưa như anh em đã nghe, mà vẫn còn sống không? Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn táng đởm, như Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập, trước mắt anh em không?” (Đnl 4:32-34).
Và rồi Mô-sê tiếp tục cho dân chúng biết quyết định của Thiên Chúa: “Anh em phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như dưới đất thấp, chính Đức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. Anh em phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi truyền cho anh em; như vậy anh em và con cháu anh em sau này sẽ được hạnh phúc, và anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em” (Đnl 4:39-40).
Các mệnh lệnh rất rõ ràng, mãnh liệt, chắc chắn. Phàm điều gì đã là mệnh lệnh thì phải nghiêm túc thực hiện, không thể tùy ý, tùy hứng, dù biết rằng làm theo thì được thưởng. Thiên Chúa vui vẻ, thoải mái, nhưng nghiêm túc, dứt khoát, không nói đùa.
Tác giả Thánh Vịnh nhan xét: “Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:4-5). Quả thật, Thiên Chúa là Đấng hằng hữu, hằng sinh và toàn năng, “một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33:6). Thật kỳ diệu, Thiên Chúa chỉ phán một lời là “muôn loài xuất hiện”, và Ngài ban lệnh truyền thì “tất cả được dựng nên” (Tv 33:9). Chắc chắn không có một chúa nào khác toàn năng như vậy, và cũng chẳng một thần linh nào có thể làm được như Thiên Chúa của chúng ta.
Thật hạnh phúc khi đức tin của chúng ta không lệch lạc, và chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa vô song, độc nhất vô nhị. Đặc biệt là Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Đấng giàu lòng thương xót: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Người luôn che chở phù trì” (Tv 33:18-20). Tuy nhiên, vì tôn kính và yêu mến, chúng ta vẫn phải không ngừng cầu xin: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22). Càng trông cậy thì chúng ta càng được thương xót. Chúng ta chẳng mất gì mà lại được thêm nhiều, thế thì còn gì hơn nữa?
Chúng ta chỉ là tro bụi, là tội nhân, hoàn toàn bất xứng, nhưng chúng ta lại được gọi Thiên Chúa là Cha, nghĩa là chúng ta trở nên con cái Ngài. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chua” (Rm 8:14). Chúng ta đã và đang có Chúa Thánh Thần trong chúng ta, nghĩa là chúng ta thực sự là con cái Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cho biết thêm: “Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: ‘Áp-ba! Cha ơi!’. Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8:15-17).
Cái gì cũng có hệ lụy riêng, dù chỉ là điều nhỏ, không quan trọng, huống chi là điều quan trọng. Cuộc sống luôn có những điều tất yếu, được cái này thì cũng có trách nhiệm kèm theo, đó là hệ lụy đương nhiên mà thôi. Thật vậy, có khổ luyện mới khả dĩ thanh công, có hạnh phúc nào mà lại không có ít nhiều đau khổ?
Thánh sử Mát-thêu cho biết rằng mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Cuộc hẹn gặp này xảy ra sau khi Ngài phục sinh. Đến nơi, khi thấy Ngài, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Quả thật, lòng tin của con người khó lay chuyển thật! Tuy nhiên, nói đi cũng cần nói lại, con người là phàm tục, chưa thấy ai chết đi mà sống lại bao giờ, thế nên cũng muốn “cân, đo, đong, đếm” xem sao thế thôi. Nếu là chúng ta, chắc gì chúng ta tin ngay, nghĩa là trong mỗi chúng ta vẫn luôn có “loại máu” như Tô-ma Tông Đồ.
Biết có những môn đệ vẫn bán tín bán nghi, nhưng chỉ là “chuyện nhỏ”, Ngài quan tâm vấn đề quan trọng hơn, vì giờ G đã điểm, Ngài biết sắp đến giờ Ngài phải về cùng Cha rồi. Thật vậy, khi đó Ngài đến gần họ và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trơi dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:18-20).
Đó là trách nhiệm đầu tiên được trao cho các môn đệ, nhưng đồng thời cũng là trách nhiệm của bất kỳ ai mang danh là Kitô hữu: Loan báo Tin Mừng. Đặc biệt hơn, chúng ta đang sống trong chu kỳ năm Tân Phúc Âm Hóa (năm 2014: Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình; năm 2015: Phúc-Âm-hóa đời sống giáo xứ và cộng đoàn; và năm 2016: Phúc-Âm-hóa đời sống xã hội).
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, thiết nghĩ cũng có thể “mở ngoặc” một chút. Thời gian này là lúc chúng ta đang ở vào “cao điểm” của mùa hè, thời tiết khắc nghiệt, trời nắng gay gắt như đổ lửa. Chắc chúng ta còn nhớ người ta vẫn thường cao ngạo nói: “Vắt đất ra nước, thay trơi làm mưa”. Vậy sao người ta không làm mưa cho cơn độ nóng giảm xuống? Chỉ là kiêu ngạo, là “chảnh”, là “nổ” – vì sinh ra trong chiến tranh, thường xuyên nghe tiếng đạn, bom, lại sống gần kho bom nên ảnh hưởng “tiếng nổ”. Với khoa học tiến bộ, người ta cũng đã từng làm được mưa nhân tạo, nhưng chỉ ở diện tích nhỏ, không thể làm nhiều. Và tất nhiên cũng chẳng thấm vào đâu. Nắng vẫn nắng, nóng vẫn nóng.
Thế mà thật lạ, chỉ nhờ một cơn mưa nho ở nơi khác, dù nơi chúng ta ở không mưa, nhưng thời tiết vẫn dịu hẳn xuống, và chúng ta khả dĩ cảm thấy dễ chịu ngay lập tức. Đơn giản như gió. Gió trời khác hẳn gió quạt điện, khác một trời một vực. Gió trời làm chúng ta dễ chịu vì có hơi nước tự nhiên, gió quạt điện chỉ là khua “không khí nóng”, không thể làm chúng ta dễ chịu. Người ta còn có những cách “chữa lửa” bằng cách xịt hơi nước, nhưng cũng không thể làm giảm độ nóng, không thể làm chúng ta dễ chịu.
Vậy phải làm sao? Ai có thể làm được để chúng ta cầu cứu? Chắc chắn chỉ có Một Chúa Ba Ngôi làm được mọi thứ, ngay cả những điều mà con người đành thúc thủ, phải chịu “bó tay”. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã từng nhìn thẳng vào các môn đệ và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được” (Mt 19:26).
Mừng kính và tôn vinh Một Chúa Ba Ngôi cũng là dịp chúng ta nhớ tới mối liên kết trong cây nho – thân nho và cành nho phải nối liền với nhau (Ga 15:1-17), và cũng nhắc chúng ta nhớ tới sự hiệp thông trong Nhiệm Thể Đức Kitô: Mọi người phải Nên Một (Ga 17:1-26). Đó là điều Chúa Giêsu ước muốn, và đó là mối liên kết của mọi chi thể, cũng là sự đoàn kết của mọi thành phần.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi trong mọi hoàn cảnh, dù vui hay buồn, dù thành công hay thất bại, dù an bình hay đau khổ,… Và xin giúp chúng con liên kết với nhau trong mối tình thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Ba Ngôi, Đấng hằng sinh và hằng hữu. Amen.