CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM và Các BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – B

Lễ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32
MỤC LỤC
* CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM 5
1. Để làm chứng cho vua quan 5
2. Anh em làm chứng cho Thầy 8
3. Không thuộc về thế gian 11
4. Sống vì đạo 14
5. Con đường hạt lúa 17
6. Chứng nhân tình yêu 20
7. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 23
8. Tử Đạo giữa đời thường – 27
9. Sống đức tin kiên cường 32
10. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 36
11. Thiên Hùng Ca Việt Nam 41
12. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 47
13. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 51
14. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 53
15. Hạt lúa gieo vào lòng đất 55
16. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 58
17. Làm chứng cho Tình yêu 61
18. Những Anh Hùng Đất Việt 66
19. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 69
20. Sống chứng nhân 73
21. Tử Đạo thời công nghệ 4.0 76
22. Con người thích thỏa hiệp 80
23. Làm chứng nhân 83
24. Chứng nhân anh dũng 87
25. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 99
26. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 102
27. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 106
28. Các thánh tử đạo Việt Nam 112
29. Sống và sống dồi dào 116
30. Sống chứng nhân. 120
31. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” 123
32. Truyền đạo 127
33. Làm chứng 130
34. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 134
35. Can đảm nói không với tội lỗi 137
36. Tử đạo hay sống đạo? 140
37. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 143
38. Những Đấng Bậc Anh Hùng 147
39. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 150
40. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 154
41. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 158
42. “Đây Bài Ca Ngàn Trùng” 161
43. Sống đạo và chết vì đạo 164
44. Niềm tin 167
45. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 170
46. Các thánh Tử Đạo Việt Nam 174
47. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 178
48. Người chứng thứ nhất 184
49. Tử đạo 188
50. Anh hùng tử đạo 191
51. Chứng nhân 194
52. Chứng nhân. 198
53. Chọn Đấng Chịu Đóng Đinh 202
54. Sức mạnh của đức tin 207
55. Tử đạo 215
56. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 218
57. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 229
58. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 236
59. Các chứng nhân Kitô giáo 239
60. Các tôi trung kiên cường 244
61. Làm chứng 248
62. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 252
63. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 255
64. Lửa yêu 262
65. Những tên lý hình thời đại 267
66. Chết vì yêu 273
67. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 277
* CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN 283
1. Thời kỳ cuối cùng 283
2. Ngày tận thế 292
3. Ngày Con Người ngự đến 295
4. Chúa Nhật 33 Thường Niên 298
5. Khi Chúa thương gọi con về 301
6. Chúa Nhật 33 Thường Niên 306
7. Tin và hy vọng vào Lời Chúa 310
8. Quê Trời 313
9. Chết trong tình yêu Thiên Chúa 318
10. Ngày phán xét 321
11. Ngày cùng tận 323
12. Thế giới này sẽ qua đi 325
13. Tận Thế 335
14. Tận thế 340
15. Chúa Nhật 33 Thường Niên 344
16. Sống sót 354
17. Hiện thực 356
18. Dấu chỉ 359
19. Chúa Nhật 33 Thường Niên 363
20. Chúa Nhật 33 Thường Niên 365
21. Chúa Nhật 33 Thường Niên 368
22. Chúa Nhật 33 Thường Niên 371
23. Chúa Nhật 33 Thường Niên 375
24. Chúa Nhật 33 Thường Niên 378
25. Với uy quyền và vinh quang 388
26. Con Người sẽ đến trên đám mây 390
27. Thế giới này sẽ qua đi 393
28. Ngày cùng tận 397
29. Thế giới này sẽ qua đi 399
30. Phán xét chung 403
31. An tâm 406
32. Làm gì khi trông chờ? 408
33. Hãy chuẩn bị 412
34. Chúa sẽ đến 415
35. Chúa sẽ đến 418
36. Qua đi 421
37. Chúa Nhật 33 Thường Niên 424
38. Chỉ nam 428
39. Ngày tận thế 430
40. Cuộc quang lâm của Con Người 432
41. Chúa Nhật 33 Thường Niên 438
42. Đi tìm sự vĩnh cửu 443
43. Cuộc quang lâm của Con Người 445
44. Chúa Nhật 33 Thường Niên 463
45. Chúa Nhật 33 Thường Niên 469
46. Chúa Nhật 33 Thường Niên 476
47. Chuẩn bị Ngày Phán Xét 481
48. Sẵn sàng đón Chúa lại đến 485

* CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1. Để làm chứng cho vua quan
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm (Mt 10, 17-22)
Các vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay: bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì Danh Đức Giêsu (c.22).
Các ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Bầu khí của toà án là bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. “Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng trong anh em” để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con người mỏng dòn yếu đuối.
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu” (Ga 15,13)
Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết.
Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.
Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…
Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
Bị cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường không?
Cầu Nguyện
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

2. Anh em làm chứng cho Thầy
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.” Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.
Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.
Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.
Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.
Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi…)
Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

3. Không thuộc về thế gian
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô.” Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước qua thánh giá.
Ông là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ.
Ông không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo Hội.
Khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước, chống lại triều đình.
Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay.
Người Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. “Như Cha đã sai Con đến trong thế gian, Con cũng sai họ đến trong thế gian” (Ga 17,18).
Thế gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan, là thứ dân… Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn.
“Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian” (Ga 17,16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và sống như thế gian.
Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội, nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó, họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn tính của người Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh, thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn, thoải mái…
Thế gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.
Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Kitô hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
Thời nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

4. Sống vì đạo
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt)
Chúng ta đang sống trong một xã hội văn minh vật chất. Khuynh hướng tìm chiếm hữu, hưởng thụ, an nhàn là rất mạnh. Thế mà Lời Chúa hôm nay kêu gọi ta phải từ bỏ mình, phải vác thập giá, phải hy sinh mạng sống. Phải chăng Chúa muốn ta tàn lụi đi? Hay Chúa muốn ta trở nên dại dột? Thưa không phải như thế. Chúa khuyên bảo ta hãy biết từ bỏ mình vì lợi ích của ta.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị cao quý hơn. Trong đời sống, cơm áo gạo tiền là cần là quý. Nhưng còn những thứ cao quý hơn. Ví dụ như danh dự, tình yêu, lòng chung thủy. Mạng sống là quý. Nhưng có những giá trị còn cao quý hơn. Ví dụ như đức tin, tổ quốc. Thân xác là quý. Nhưng linh hồn còn cao quý hơn. Vì thế, khi không thể chọn cả hai, ta phải biết chọn những giá trị cao quý hơn.
Chúa chỉ đường cho ta đến những giá trị bền vững hơn. Vật chất là quý. Nhưng giá trị của nó không lâu bền. Chết rồi ta chẳng mang theo được vật chất theo mình. Những giá trị tinh thần bền vững hơn. Dù chết rồi vẫn còn tồn tại. Tục ngữ có câu: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cuộc sống đời này là quý. Nhưng cuộc sống đời này không kéo dài lâu. Cuộc sống đời sau mới trường tồn vĩnh cửu. Khi không thể chọn lựa mọi giá trị, ta phải biết lựa chọn những giá trị có tính cách vĩnh cửu.
Chúa chỉ cho ta đường đến với Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Chọn Chúa mới là chọn những gì tốt đẹp nhất. Chúa là giá trị cao quý nhất. Chúa là giá trị vĩnh cửu nhất. Chúa là hạnh phúc hoàn hảo nhất. Hạnh phúc ở nơi Chúa làm ta no thỏa. Hạnh phúc ở nơi Chúa không bao giờ tàn lụi. Hạnh phúc ở nơi Chúa cho ta đạt được mọi ước mơ của con người.
Chúa chỉ cho ta con đường đi theo Chúa. Khi dậy dỗ ta, Chúa Giêsu không nói suông. Chính Người đã thực hành. Người đã từ bỏ mình, vác thánh giá. Người đã liều mạng sống, chịu chết vì chúng ta. người đã từ bỏ tất cả những giá trị trần gian để vâng theo thánh ý Đức Chúa Cha. Cuối cùng Người lại được tất cả. Chết rồi được Phục Sinh. Tự hủy mình ra không lại được trở thành Vua vũ trụ. Người đã từ bỏ tất cả, nay Đức Chúa Cha lại ban cho Người tất cả, khi đặt mọi sự dưới chân Người.
Yêu mến Chúa là vâng theo Lời Chúa, các thánh Tử đạo Việt Nam đã đi theo con đường của Chúa. Để bảo vệ đức tin, các ngài đã chịu mất tất cả cuộc sống an vui, mất danh vọng chức quyền, mất nhà cửa của cải. Vì hiểu rằng đức tin là gia tài cao quý nhất. Hướng về sự sống đời sau, các ngài đã sẵn sàng chịu giam cầm, chịu nhục nhà, chịu hành hạ đau đờn. Vì biết rằng những đau khổ đời này rồi sẽ qua đi, hạnh phúc đời sau mới vĩnh cửu. Để trung thành với Chúa, các ngài sẵn sàng chịu mất mạng sống. Vì biết rằng Chúa sẽ ban lại sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho các ngài. Các ngài thật can đảm. Vì khi chọn lựa từ bỏ như thế, phải chịu nhiều đau đớn, khổ nhục. Đó là chọn lựa tuyệt đối quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Đã biết từ bỏ cái tầm thường để lựa chọn điều cao quý. Đã biết từ bỏ cái tạm bợ để lựa chọn điều vĩnh cửu. Đã biết từ bỏ những giá trị tương đối để lựa chọn Chúa là giá trị tuyệt đối.
Cuộc sống hôm nay cũng đặt chúng ta trước nhiều lựa chọn. Để sống đúng lương tâm công giáo, ta phải chối từ những mối lợi bất chính. Để chu toàn luật Chúa, ta phải từ chối những hưởng thụ ngọt ngào. Để thực hành luật yêu thương tha thứ, ta phải cắn răng chịu nhịn nhục. Để chọn Chúa, ta phải vác thánh giá. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến lòng ta đau đớn như bị vết thương. Vết thương rỉ máu âm ỉ suốt cuộc đời. Những lựa chọn đó nhiều khi khiến ta rơi lệ. Những dòng lệ đau đớn xót xa. Đó thực là những cuộc tử đạo. Cuộc tử đạo không thấy máu. Vì máu chỉ rỉ trong tâm hồn. Cuộc tử đạo không thấy lệ. Vì lệ đã nuốt ngược vào trong. Máu ri rỉ đau đớn nhức nhối lắm. Lệ nuốt vào cay đắng lắm. Để lựa chọn như thế phải có ơn khôn ngoan của Chúa. Để lựa chọn như thế cần phải có ơn sức mạnh của Chúa. Nhưng có lựa chọn như thế ta mới xứng đáng là môn đệ Chúa và xứng đáng là con cháu các thánh anh hùng tử đạo. Chính những lựa chọn đó đem lại cho ta sự sống đích thực.
Chính những lựa chọn đó đưa ta đến hạnh phúc vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao Chúa bảo ta phải từ bỏ mình? Chúa muốn ta tàn lụi hay phát triển?
2- Các thánh tử đạo đã theo Chúa cho đến cùng. Ta có thực sự theo Chúa Giêsu, Đấng chịu khổ hình, vác thánh giá và chịu chết không?
3- Thời nay không còn cấm đạo, không còn giết người có đạo, bạn nghĩ rằng thời nay sống đạo dễ hơn xưa không?

5. Con đường hạt lúa
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Suy niệm. Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.
Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.
Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?
2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

6. Chứng nhân tình yêu
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thánh lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền giáo tại Việt Nam.
Có điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả vì tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giêsu, Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý hình.
Tình yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người, mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu, ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam. Amen.

7. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam vì 3 lý do:
– Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn cầu.
– Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh. Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các Thánh.
– Hân hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì chết vì đạo.
Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

8. Tử Đạo giữa đời thường –
(Suy niệm Tin Mừng Lc 9, 23-26 của Dã Quỳ)
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người đề cao chủ nghĩa cá nhân, một thời đại mà người ta cạnh tranh nhau quyền cao chức trọng ở mọi lãnh vực, một xã hội mà quyền lợi cá nhân, hưởng thụ và sở hữu được ưa chuộng. Hôm nay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta “Từ bỏ chính mình, liều mất mạng sống…” để theo Chúa, điều này nghe ra thật phi lý và ngược đời! Thế nhưng, sẽ thật có lý và hợp với đời của một Kitô hữu vì đó là điều kiện tiên quyết để bước theo Chúa. Lời Chúa và mẫu gương của chính Chúa đã hy sinh mạng sống cho nhân loại, và của các Thánh Tử Đạo Việt Nam sẽ là một bảo đảm minh chứng cho chúng ta.
Đường Trần Gian – Đường Thập Giá.
Cuộc đời được ví như một hành trình. Hành trình này chẳng thẳng ngay và không hề nhẹ nhàng êm ái. Lớn hay nhỏ đang sống trong trần gian, chúng ta đều cảm nhận trần gian đầy đau khổ và nước mắt, chẳng thế mà nhạc sĩ nào đó đã viết “Đường nhân gian đày ải chông gai, ai chưa qua chưa phải là người!” Giàu cũng khổ mà nghèo thì khốn khổ hơn! Tiền bạc, chức vị cũng không làm cho người ta hạnh phúc và cũng không mua được bình an. Đau khổ như là một thập giá gắn liền với đời người dù người đó có là môn đệ Chúa Kitô hay không. Thập giá đến với mỗi người mỗi cách khác nhau. Thập giá ấy có thể là từ trong những bất toàn của bản thân, trong bệnh tật, trong khó khăn của cuộc sống. Thập giá cũng có thể là từ những nghịch cảnh thông thường của cuộc đời…
Với người Kitô hữu, chúng ta sẽ gặp thập giá trong cuộc đời khi sống trung thành với giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Thập giá đến khi ta sống ngay thẳng trong buôn bán, thật thà và công bằng trong kinh doanh hay trong giao tiếp. Người ta có thể cho là ta điên rồ, ngược đời hay ngu xuẩn thậm chí bị loại trừ. Thập giá đến với ta trong những chọn lựa từ bỏ mình để yêu thương đón nhận tha nhân ngay cả khi họ vu oan, ghen ghét, làm hại ta… Và thập giá cũng sẽ được ta đón nhận khi ta biết cố gắng sống theo Lời Chúa dạy, biết sửa mình, ăn năn sám hối về những tính hư, nết xấu và tội lỗi của ta để xứng đáng là con cái Chúa.
Đường Thập Giá – Đường Tử Đạo.
Khi thập giá đến, chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta sẵn sàng đón nhận hay dễ dàng để ôm lấy. Đã là thập giá, thường ta luôn cảm thấy nặng nề, khó vác. Đôi khi ta không dám nghĩ tới và muốn tránh bởi không ai thích đau khổ, thất bại, bị loại trừ, nghịch cảnh, thất vọng chán nản… Và hơn thế nữa, Satan cũng tìm đủ cách lôi chúng ta xa thập giá, vì nó không muốn ta đi vào con đường của Chúa.
Lời Chúa tha thiết mời gọi ta: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Từ bỏ chính mình, không đơn giản chút nào! Từ những cái rất nhỏ trong cuộc sống: người mắng ta một câu, ta muốn đáp lại hai, ba câu. Nhưng từ bỏ mình là bỏ qua, là chấp nhận lời nói không tốt đó và đáp lại bằng lời yêu thương, lời hòa giải. Khó lắm, nó đau ở trong lòng và như nuốt cục phèn vậy, nhưng nếu ta làm được, ta sẽ cảm nhận ngọt ngào trong tâm hồn. Từ bỏ mình trong những chọn lựa theo Tin Mừng, sống yêu thương, tha thứ sẽ như là những cuộc tử đạo âm ỉ từng ngày chứ không chỉ một lần. Trong cuộc sống với những bôn ba cho cơm áo gạo tiền, nhiều khi đặt ta trước những chọn lựa theo công bằng, bác ái đòi ta phải hy sinh mối lợi, mất miếng ăn để chu toàn luật Chúa. Ta sẽ đau lắm và dằn vặt nhưng với ơn Chúa, ta chọn lựa tử đạo khi mất lợi danh và có khi mất cả mạng sống. Tôi nghĩ đến một người đàn ông Công Giáo, đã làm việc thật tốt trong một công ty sản xuất. Thế rồi, vì sống ngay thật, không theo những mánh khóe gian dối với đồng nghiệp nên anh đã lãnh nhận hậu quả là bị hại chết ngay trong chuyến công tác xa, sau bữa ăn cùng nhóm đồng nghiệp ấy. Ta có thể đi vào đường tử đạo khi sống trung thành với Chúa Kitô để bảo vệ sự sống, như một chị y tá nọ sau nhiều năm học tập, chị được chọn vào làm trong một bệnh viện lớn. Thế nhưng, ngay ngày thứ hai đi làm, người ta yêu cầu chị tham gia vào ca phá thai. Chị từ chối, lập tức người ta sa thải chị. Chị mất việc mà chị đã tốn nhiều công sức tiền của để có được. Chị đã vác thập giá cùng với Chúa Kitô! Để chọn lựa vác thập giá hàng ngày, chọn lựa tử đạo suốt đời, ta không thể thực hiện với sức riêng nhưng phải cậy nhờ ơn Thánh và nếu ta tin tưởng cậy dựa vào Chúa, Ngài sẽ luôn giúp ta vì: “Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách” (1Cr 1,4).
Đường Tử Đạo – Đường Tới Vinh Quang.
Ngày nay, trên quê hương chúng ta ít có những cuộc cấm hay bách hại đạo như xưa cha ông ta đã trải qua. Nhưng lại xuất hiện nhiều hơn những dịp thử thách về đức tin tinh vi mà nếu không tỉnh thức, ý thức và có một tâm hồn bén nhạy thì ta sẽ dễ đi vào việc chối đạo, phản đạo và bỏ Chúa qua chính cách sống, lời nói và việc làm của ta. Các Thánh Tử đạo Cha ông chúng ta đã kiên trung thực thi Lời Chúa dạy: “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 24). Các ngài yêu Chúa hơn yêu mạng sống mình như lời nói và máu đổ ra của Thánh Phaolo Khoan “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa và Chúa Cả Trời đất, con xin dâng mạng sống cho Ngài”. Có vị thánh đã từ bỏ chức quyền để giữ vững đức tin và linh hồn như thánh Hồ Đình Hy là quan lớn, thánh Phạm Trọng Tả là chánh tổng nhưng các Ngài chọn Chúa hơn là địa vị ở trần gian. Các ngài chọn gia nghiệp Nước Trời hơn là sản nghiệp trần thế nay còn mai mất “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời” (Thánh Phêrô Truật). Các ngài không dẫm lên Thập giá Chúa Kitô nhưng anh dũng bước đi trên đường Thập giá vì các ngài xác tín chỉ qua Thập giá mới tới Vinh quang và cuối đường, chính Chúa Kitô đón các ngài vào hưởng vinh quang hạnh phúc với Người trong Nước Trời, như sách Khôn Ngoan nói: “Người đời nghĩ rằng họ bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chan chứa niềm hy vọng được trường sinh bất tử. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3,4.8)
Trải qua suốt ba thế kỷ bách hại, đã có cả trăm ngàn anh em Kitô hữu chết vì đạo. Gương chứng nhân Đức Tin và lòng hy sinh mạng sống vì Chúa Kit-tô và vì Tin Mừng của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cha ông ta, sẽ là mẫu gương và niềm hãnh diện lôi cuốn chúng ta can trường sống chứng nhân giữa đời thường và dám chọn sống, chết vì đạo. Từ dòng máu anh hùng của cha ông, từ những khổ đau, những đắng cay của các ngài, ta có được hạt giống đức tin hôm nay. Vậy thập giá là một phần quan trọng của đời Kitô hữu và chính Chúa Giê-su đã không khước từ thập giá vì đường thập giá-đường tử đạo mới là đường dẫn tới vinh phúc: “…Người vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người…” (Pl 2,6-11). Lao nhọc, đau khổ, nghịch cảnh, hy sinh, chiến đấu và tử đạo… cần thiết để trở thành một phần của đời người môn đệ Chúa Kitô. Ước gì khi sống giữa đời, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng tin tưởng thưa lên như thánh Phaolô “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy… Trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,35-37). Để rồi chúng ta dám sống vì Chúa, chọn lựa theo Chúa, trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và can trường chết vì Chúa trong những dịp tử đạo giữa đời thường. Vì “Ai liều mất mạng sống vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8,35).
Nguyện xin Thần Khí Chúa ban ơn khôn ngoan và sức mạnh giúp chúng con biết chọn lựa sống vì Chúa, vì Tin Mừng. Và xin dạy chúng con biết yêu thập giá là dấu chỉ của chiến thắng, của vâng phục, của tình yêu và của con đường dẫn đến ơn cứu độ. Amen.

9. Sống đức tin kiên cường
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm nay, toàn thể Hội Thánh Việt Nam cử hành thánh lễ kính trọng thể các thánh tử đạo Việt nam đồng thời đây cũng là dịp để tỏ lòng biết ơn các ngài, nhất là hun đúc đức tin và làm cho đức tin chúng ta càng kiên cường để vượt qua muôn ngàn gian khó của cuộc đời như các Thánh Tử Đạo xưa. Qủa thế, thánh Augustinô nói: “Việc tôn kính các Thánh tử đạo là để hun đúc tinh thần tử đạo nơi người tín hữu. Tử đạo là chứng tỏ cho lòng tin, tình yêu trung kiên đối với Thiên Chúa và cho đời sống vĩnh cửu”.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, tuy nhiên trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các vị tử đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, cho sự sống vĩnh cửu. Các ngài dám đem cái chết để minh chứng cho đức tin chân thật và duy nhất. Mỗi vị thánh tự đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn. Cho nên, thánh Tertulianô: “Nói máu các thánh tử đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bài đọc một mô tả bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và noi gương về lòng can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn như thế để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các vị tử đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống. Đức tin của các ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con thấy vậy phiền trách móc vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha còn ông trùm Quỳnh vị có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ và đớn đau, nhục nhã ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường các vị tử đạo sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo trước những thách đố của cuộc sống hôm nay. Thách đố trước hết đối với Đức Tin là kinh tế tiền bạc. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Cho nên, nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ…để có tiền. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Cho nên, chúng ta cũng phạm tội như một người chưa có đức tin. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cá nhân, cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Cho nên, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” ngày nay. Nền văn hóa vứt bỏ này đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với cả mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm đức tin và làm đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng..
Ước gì mỗi người chúng ta qua thánh lễ này biết phát huy đời sống đức tin vững mạnh để tiếp tục ươm trồng và vun tưới cho Đạo Chúa tại Việt Nam ngày càng sáng tươi và rạng ngợi. Xin Chúa giúp đức tin của chúng con mạnh mẽ và can trường để sống làm chứng cho Tin Mừng của Chúa nơi xã hội chúng con đang sống. Amen.

10. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
NOI GƯƠNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO – SỐNG ĐỨC TIN HÔM NAY
Hôm nay, Giáo Hội Việt Nam kết thúc năm Thánh năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam kỷ niệm 30 năm Các Ngài được tuyên Thánh. Qủa thế, cách đây 30 năm, 19-06-1988, Giáo Hội Công giáo Việt Nam vui mừng hãnh diện với Các Thánh Tử đạo Việt Nam, hãnh diện vì đức tin sáng ngời của các Ngài trước biết bao cuộc bách hại bạo tàn. Gông cùm, đòn roi và án tử đã trở nên con đường để các Ngài cùng Chúa Giêsu tiến lên đồi Canvê. Dòng máu tình yêu của các Ngài đã tưới gội cho hạt mầm đức tin của lớp lớp con cháu được lớn mạnh trên quê hương Việt Nam con rồng cháu tiên. Các Ngài đã hát bài ca tán dương Thiên Chúa bằng chính sự sống của mình, nhờ đó, các Ngài được phúc hiển vinh trong hàng ngũ các Thánh trên Trời.
Nhìn lại lịch sử suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130.000 anh hùng Tử đạo, trong số đó chỉ có 117 vị được phong hiển Thánh và một vị chân phước là Anrê Phú Yên. Điều đáng nói ở đây là các Vị Tử Đạo là những con người mang thân xác mỏng dòn như chúng ta, cũng biết rung cảm, biết ham sống sợ chết, nhưng giờ phút hy sinh đến, các Ngài sẵn sàng hiến dâng sự sống mình cho Thiên Chúa, minh chứng cho đức tin về sự sống vĩnh cửu, một đức tin chân thật và duy nhất. Các thánh Tử Đạo Việt Nam chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả đều hiên ngang và can trường dùng lời nói và mạng sống để rao giảng Lời Chúa, bênh vực chân lý, yêu thương tha thứ cho kẻ bách hại và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi một cách hào hùng ngõ hầu làm rạng danh Thiên Chúa và cứu vớt được nhiều linh hồn như lời thánh Tertulianô xác tín: “Máu các thánh Tử Đạo làm nẩy sinh các Kitô hữu”.
Bà mẹ trong bài đọc một đã can đảm chịu đựng và hy sinh tất cả vì niềm tin và trông cậy vào Thiên Chúa. Đức tin của bà thật mạnh mẽ và kiên cường lắm, mới có thể dạy các con mình về Thiên Chúa và sự sống vĩnh cửu một cách hùng hồn, để rồi các con của bà chấp nhận “chết vinh hơn sống tội”, tức là để vinh danh Chúa chứ không phạm tội; vì chưng, họ đã tin rằng: “Thiên Chúa, Đấng tạo hóa càn khôn đã nắn đúc nên loài người, chính Người do lòng thương xót cũng sẽ trả lại các con thần khí và sự sống”. Cho nên, thánh Phaolô trong bài đọc 2 xác quyết rằng “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có một đức tin mãnh liệt và kiên cường, sâu xa và trung thành với Thiên Chúa hằng sống cũng không kém. Đức tin của các Ngài mạnh đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào tách các Ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Cụ thể, Thánh Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh 1768 tại Quảng Bình làm nghề thầy thuốc khá giả. Dù có giàu sang nhưng ông Quỳnh hết sức thương người nghèo đến nỗi vợ con trách móc ông vì lấy của gia đình cho họ. Thời bách hại vua Minh Mạng ông rời bỏ gia đình vợ con, đi với các cha vào hầm trú để che chở các cha. Năm 1838 ông bị lính bắt giải các cha và ông về Đồng Hới. Vua ra lệnh trảm quyết (chặt đầu) và xử giảo (xiết cổ) các cha, còn ông trùm Quỳnh vì có tiếng nhân đức nên kéo dài thời gian kết án để ông nản lòng bỏ đạo nhưng dù trong suốt hai năm tù vô cùng cực khổ, đớn đau và nhục nhã nhưng ông vẫn can trường giữ vững đức tin. Cuối cùng nhà vua hạ lệnh xử giảo (xiết cổ) ông năm 1840.
Với đức tin mạnh mẽ và ý chí can trường như thế cho nên các Thánh Tử Đạo đã sẵn sàng giữ Đạo Chúa cho trọn và tuyên xưng danh Chúa trước mặt thiên hạ dù bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man, ghê rợn, dầu phải đổ hết máu mình ra, các Ngài vẫn cam chịu miễn sao bảo tồn đức tin nguyên vẹn để được Chúa và sự sống đời đời làm gia nghiệp. Qủa đúng như Lời Chúa hôm nay Giêsu nói: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin kiên cường như các Thánh Tử Đạo Việt Nam trước muôn vàn thử thách để sống đời làm chứng cho Chúa và Tin Mừng. Thách đố trước hết là kinh tế tiền bạc. Vì đồng tiền mà nhiều người sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn dù biết đó là tội và tàn ác nhưng vẫn làm để có tiền và nhiều người Công Giáo chúng ta cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất ĐứcTin, xa rời Giáo Hội. Thách đố thứ hai đó là xã hội đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn, đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Sống trong môi trường như thế, chúng ta bị cám dỗ và sa ngã phạm tội vì đức tin yếu kém. Và thách đố cuối cùng là lối sống hưởng thụ ích kỷ. Vì sống hưởng thụ cho nên người ta biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt, mua vui và vứt bỏ. Vì vậy, trong Thông điệp “Laudato si”, Đức Giáo hoàng Phanxicô lên án mạnh mẽ nền văn “văn hóa vứt bỏ” này, vì nó đã khiến cho chúng ta trở thành vô cảm đối với mọi người và mọi tạo vật.
Mỗi khi cử hành phụng vụ là cử hành mầu nhiệm Đức tin và làm cho đức tin của chúng ta bừng lên mãnh liệt nhờ mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô và của các Thánh tử Đạo. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các Ngài đồng thời được tiếp thêm sức mạnh đức tin để sống và giữ Đạo giữa biết bao thách đố của thời đại. Vì vậy, khi chúng ta bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô, chúng ta được củng cố trong đức tin, được tràn đầy sức mạnh, như thế, chúng ta kiên cường tuyên xưng và sống đức tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng…
Ước gì qua Thánh lễ này, chúng ta là thế hệ con cháu của Các Thánh tử Đạo, cũng nguyện một lòng cùng với Chúa Giêsu gieo mình vào Đất Việt tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng của Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa và Tin Mừng đã làm cho trái tim chúng ta không bao giờ mục nát, cánh hoa cuộc đời chúng ta chưa một lần úa tàn, những ánh sao không bao giờ lịm tắt, những người con Chúa sống mãi không thôi. Đó là những tâm tình Á Thánh tiên khởi Anrê Phú Yên nhắn nhủ với hậu thế chúng ta. Vì vậy, dù kết thúc Năm Thánh Tôn Vinh Ngài, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống theo những lời hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: Làm việc lành phúc đức; sống tinh thần Tử đạo: Các gia đình Công giáo hãy từ bỏ những ham muốn bất chính và tính toán ích kỷ, để làm chứng rằng Tin Mừng về hôn nhân Công giáo là nẻo đường hạnh phúc. Các anh chị em sống đời thánh hiến hãy từ bỏ những ham muốn tự nhiên để sống trọn vẹn theo các lời khuyên Phúc Âm, làm chứng cho Nước Trời là giá trị tuyệt đối và kho tàng vô giá; qua đó, chúng ta có thể góp phần “thức tỉnh thế giới” như Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi. Các linh mục hãy trung thành với lời thề hứa khi chịu chức, tận tụy thi hành bổn phận đã được trao phó trong khiêm tốn và cậy trông, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử nhân lành, “hiến mạng sống cho đoàn chiên” (Ga 10,15), và hăng say rao giảng Tin Mừng trong mọi hoàn cảnh. Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho chúng con. Amen.

11. Thiên Hùng Ca Việt Nam
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc, Ninh Bình, vào đúng sáng ngày lễ Phục Sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà… Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre: “Xin Cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt.” Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ, lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy Cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và bà Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa…
Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.” Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn.” Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gía. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.” Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa.” Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan: “Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Bà còn khuyên: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”…
Sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin, ngày 12.07.1841, trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà Anê Lê Thị Thành cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết lòng theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con”. ( Lm. Đào Trung Hiệu, OP, Thánh Anê Lê Thị Thành (bà thánh Đê, 1781-1841 )
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19. 6. 1988 tại Rôma, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, trong đó có thánh Anê Lê Thị Thành. Các vị gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại. Hôm nay Giáo Hội hoàn vũ chung niềm vui với Giáo Hội Việt Nam, cảm tạ, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa đã ban tràn đầy hồng phúc cho dân Việt.
Chết đi bản thân
Các Thánh Tử Đạo đã đổ máu đào làm chứng cho Tin Mừng, cũng như trung thành thực hành Lời Chúa đến hơi thở cuối cùng. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.” Trong gian truân bách hại, Đức Giêsu sẵn sàng đương đầu gánh chịu, các Thánh Tử Đạo cũng noi gương Người, đã không bỏ trốn, mà từ bỏ mình đi theo Chúa, hoàn toàn phó thác, tuân thủ Thánh Ý Chúa: “Đức Chúa Trời gìn giữ thì Cha thoát, bằng không Cha và con đều bị bắt.” Bà Thánh Anê đã tuyên xưng đức tin sáng ngời, xứng đáng trở thành vị Thánh nữ tiên khởi của dân Việt.
Chết đi bản thân cũng có nghĩa là chẳng thiết tha những gì dính líu đến đời sống phàm tục, của cải, tiền bạc, danh phận, chức tước, bổng lộc. “Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết.” Khi mất đi của cải là lúc được Thiên Chúa bù đắp gấp trăm, gấp vạn lần, chính là Nước Trời. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Chết đi cái tôi có nghĩa là hy sinh thân xác, mặc bao đòn vọt, khổ nhục, để hiên ngang làm chứng nhân Tin Mừng. Một lòng chính chuyên phó thác và cậy trông ơn trên, cầu bầu Mẹ Maria cứu giúp. “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn.” Bà Thánh Anê còn an ủi lại người chồng xót thương đến thăm.
Chết cho tha nhân
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, tuy không công khai tái diễn thảm họa bách hại đạo Chúa, nhưng khuynh hướng thực dụng và duy vật đang thách đố tín hữu Kitô sống đạo, sống trung thực Tin Mừng. Tiên quyết để theo Đức Giêsu là tuân theo lời dạy bỏ mình, vác thập giá mà theo Người. Vậy xả kỷ, vị tha cũng chính là chết cho tha nhân, dấn thân phục vụ, không quản khó khăn, trở ngại, chấp nhận những hiểm họa, nhục hình có thể xảy đến.
“Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”… Dù đang chịu xiềng xích, tù đầy, roi vọt, Thánh nữ Anê vẫn không hề nao núng hãi sợ, mà còn ân cần, lo lắng khuyên nhủ con cái sống đạo chu đáo, sốt sắng và sẵn sàng tuyên xưng đức tin. “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.”
Khiêm nhường, nhân ái, hy sinh, phục vụ, làm chứng nhân, chính là chết cho tha nhân được nảy chồi đâm lộc, sinh hoa kết trái. Như hạt lúa chịu mục nát, thối đi, chết đi mới có thể nảy mầm, đâm chồi, sinh hoa, kết hạt, bội thu gấp chục, gấp trăm. Những giọt máu đào của chư thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã trổ sinh cánh đồng Giáo Hội xanh tươi, bát ngát, được mùa như ngày hôm nay. “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”
Chết cho Chúa
“Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”. Phúc thứ tám là phần thưởng cho những ai chịu chết vì danh Chúa, vì Tin Mừng. Người tín hữu Kitô nào dám can đảm lội ngược dòng đời để sống Tin Mừng, làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, cũng gian nan khốn khổ không kém phúc tử vì đạo. Không im lặng, đồng lõa, hùa theo, toa rập theo bầy đàn làm điều ôi ác, đê hèn, xấu xa, gian tham, háo danh, vụ lợi, không chấp nhận bất công, phân biệt, kỳ thị, không chiều theo khuynh hướng hưởng lạc, rượu chè, cờ bạc, dâm ô, khước từ văn minh sự chết, mà công khai sống theo Tin Mừng, thấm nhuần Bát Phúc, trở nên chứng nhân đích thực của Đức Giêsu, chính là chết cho Chúa.
Hôm nay, chứng nhân Tin Mừng không phải chịu đổ máu đào như xưa, nhưng vẫn quyết tâm tiếp tục chiến đấu mãnh liệt và liên tục giữa sự dữ của thế gian, ma quỷ và xác thịt, giữa một thế giới duy vật, hưởng thụ, thực dụng, sa đọa, vị kỷ, chối bỏ Thiên Chúa. Một cuộc tử vì đạo âm thầm, lặng lẽ, thách thức, dai dẳng trong suốt cuộc đời Kitô hữu, với niềm hy vọng sâu sắc, cháy bỏng, bền vững và bất tận: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” Còn lời hứa nào trọng đại và cao quý hơn?
“Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và Đại Diện của Ngài: Đức Thánh Cha, các giám mục, kế vị các thánh Tông Đồ. Sống và chết vì Hội Thánh như Chúa Kitô. Đứng nghĩ chết vì Hội Thánh mới hy sinh. Sống vì Hội Thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.” (Đường Hy Vọng, số 987)
Lạy Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những vị tiền nhân, đã anh dũng hy sinh cả cuộc đời, trở nên những chứng nhân Tin Mừng cho toàn thể dân Chúa. Các ngài đã nêu tấm gương thật sáng ngời, bỏ tất cả mọi sự, kể cả sinh mạng, để trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin Chúa ban ơn, giúp sức chúng con quyết tâm luôn noi gương các ngài làm chứng nhân Tin Mừng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, an ủi, khích lệ chúng con luôn làm chứng nhân cho Chúa trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh, noi gương các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam. Amen.

12. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
TRI ÂN VÀ MỪNG KÍNH CÁC THÁNH TỔ TIÊN
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hàng năm cứ đến ngày này, những người con dân Việt từ khắp muôn phương cùng với Giáo hội hoàn vũ hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Trong hân hoan vui sướng và hãnh diện, chúng ta tôn vinh, tri ân các ngài đồng thời hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng”.
Hôm nay chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các ngài. Nói là đặc biệt về các ngài, nên chúng ta tạm đặt ra mấy câu hỏi cho là cơ bản, để nhờ đó chúng ta lần lượt đưa ra những gì đã hiểu biết về các ngài, mặc dù đây chỉ là những điều nhiều người đã biết.
Trước hết chúng ta cần xác nhận:
Hỏi: Các ngài là ai vậy?
Thưa: Các ngài là Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam, chết vì Đạo tại Việt Nam. Ở đây, từ ngữ Đạo được hiểu theo nghĩa chặt: Đạo Công Giáo Lamã, mà ai cũng biết rõ. Ngày nay thì Đạo Công Giáo Lamã hiện diện khắp nơi.
Hỏi: Các ngài là bao nhiêu?
Con số các ngài chính thức là 117 vị thánh và 1 á thánh. Đó là những vị đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19.6.1988. Thế nhưng, đối với chúng ta hiểu, còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt Nam mà chưa được tuyên phong. Dù vậy, các vị cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Thời gian bắt đầu vào năm 1580 và chỉ kết thúc hoàn toàn vào năm 1888, có khoảng 400.000 người bị lưu đầy và phát lưu. 130.000 người đã chết vì đạo.
Hỏi: Các ngài thuộc những thành phần nào?
Các ngài đã là các Kitô hữu thuộc đủ mọi thành phần, cấp bậc trong Giáo hội Công Giáo. Có 8 vị Giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân (gồm 1 chủng sinh, 16 giáo lý viên, 10 vị dòng ba Đa Minh và 1 phụ nữ) … thuộc đủ mọi tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. Trong số đó, bao gồm cả một số nhà truyền giáo (ngoại quốc) như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt Nam truyền Đạo và chết vì Đạo. Nói chung, cũng nhờ các vị truyền giáo này mà nhiều người Việt Nam biết Đạo, theo Đạo, sống Đạo và chết vì Đạo nữa, lại được nhập đoàn Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam mà chúng ta đang kính nhớ.
Nói tóm lại, đây là những chứng nhân của Thiên Chúa, đã anh dũng hy sinh cả mạng sống tại Việt Nam để thi hành sứ vụ Thiên Chúa trao.
Nói mạnh hơn: các ngài là những tổ tiên anh dũng của chúng ta. Dĩ nhiên phải quả quyết: chính nhờ các ngài mà có chúng ta và ngày nay chúng ta luôn rất hãnh diện tuyên nhận các ngài là tổ tiên trước mặt cả thế giới.
Hôm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các ngài như hướng về tổ tiên yêu quý. Đọc lại tiểu sử các ngài, ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các ngài. Vì trung thành với Chúa, các ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng sống vì Đức tin.
Có những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền, mất danh vọng hơn mất Đức tin. Vì Chúa, các ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các ngài đã cương quyết khước từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho Đức tin chân chính.
Hỏi: Tại sao các ngài chết vì đạo?
Thưa: Giết thì chết chứ còn sao nữa. Đây phải được coi là cơ bản của vấn đề. Kể ra, nếu nhìn bên ngoài thôi thì đã có câu trả lời rồi: chết vì Đạo mà! Lúc đó một số các vua chúa ghét Đạo và cấm Đạo nên họ giết những người có Đạo mà không chịu bỏ Đạo. Bị họ giết thì chết, dù là người Việt hay ngoại quốc…thế nhưng, nhận xét cho đàng hoàng thì vấn đề chết vì Đạo ở đây có ý nghĩa rất phong phú. Có thể nói tóm gọn bằng 2 từ Tin Yêu. Nhưng hai từ này bao gồm ý nghĩa rất cao siêu mà Kitô Giáo gọi là “Thần Đức”: Đức Tin kéo theo Đức Cậy và Đức Mến. Ba nhân đức siêu việt hơn các nhân đức khác mà ta phải quả quyết: chỉ “người có Đạo” mới có.
Hỏi: Các ngài đã chết tử Đạo như thế nào?
Về các hình khổ: Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như:
– Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói.
– Bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v.
– Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống.
– Vô cùng man rợ và hiểm độc như bị xử lăng trì, tức là phân thây ra từng mảnh hay là xứ bá đao.
Theo loại hình phạt 79 vị bị trảm quyết tức là bị chặt đầu. Như vậy là con số bị trảm quyết nhiều nhất. 18 vị bị xử giảo tức là bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị lăng trì – tức là phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và. 1 bị bá đao.
Là người Công Giáo Việt Nam, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các ngài, ta cảm thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao ước được như các ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Kính lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, làm sao chúng con có thể có được cái chết cao đẹp như các ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm Đạo, bắt Đạo, giết người có Đạo như thời vua quan ngày xưa nữa, nên chúng con không còn hy vọng chết vì Đạo. Xin cho chúng con biết học đòi, bắt chước các ngài trung thành với Đức tin và sống đạo cho đến trọn đời. Amen.

13. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Suy niệm: Ga 12,20-32
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ở mọi nơi và trong mọi lúc, người môn đệ của Chúa vẫn phải chịu chung một số phận với Thầy mình, nghĩa là bị bắt bớ và bị cấm cách, bị ghét bỏ và bị giết chết. Thời nào cũng có những vị tử đạo.
Hôm nay là ngày giỗ tổ, ngày Giáo Hội Việt Nam chúng ta long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo, những vị anh hùng đã bỏ mình vì Chúa, đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin, cũng như để xây dựng Giáo Hội.
Lịch sử cho biết: Ngày 19.3.1615, hai vị thừa sai đầu tiên đã lén lút chèo một chiếc thuyền vào cửa Bạng ngoài Thanh Hóa, để bắt đầu công việc giảng đạo. Hai đấng thấy trên một mỏm đá ở giữa giòng sông hình cây thánh giá, được vẽ bằng vôi. Các đấng ấy hiểu ra rằng: Đây là dấu Chúa cho hay sẽ có bắt bớ và cấm cách. Mà thực vậy, ba trăm năm rao giảng Tin Mừng cũng là ba trăm năm máu chảy đầu rơi. Sau Giáo Hội Rôma, thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Thiên Chúa nhiều vị thánh tử đạo hơn cả. Trên một trăm ngàn người đã chết vì đức tin, trong đó có 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Vậy các ngài là những ai?
Có khi các ngài là những người giáo dân không tên tuổi, mà lịch sử chỉ ghi lại bằng những cử chỉ anh hùng. Có vị bị bắt, rồi bị lính lấy dùi nung đỏ khắc lên hai gò má bốn chữ “Giatô tả đạo”, rồi tống vào ngục. Trong ngục, ông đã tự thẹn cho rằng mình thiếu can đảm, không dám tỏ thái độ. Giatô đâu phải là tả đạo, mà là chánh đạo. Vì thế, ngay đêm hôm đó, ông đã xin bạn tù lấy dao rạch và bỏ đi hai chữ tả đạo, chỉ để lại hai chữ Giatô, thánh danh Đức Kitô mà thôi. Các chị em phụ nữ cũ không kém phần anh hùng. Có một thiếu phụ bị bắt và bị kết án voi giày. Gần tới ngày ra pháp trường, bà xin người nhà gửi vào cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang nhất vì bà nghĩ rằng ngày bà chết là ngày bà được gặp gỡ Đức Kitô.
Phải. Các ngài là những người thuộc đủ mọi thành phần, mọi tuổi tác, mọi nghề nghiệp. Thế nhưng, các ngài đã làm gì? Các ngài là cha ông của chúng ta, đã sống trên đất nước mình, đã yêu mến quê hương mình, đã chia sẻ số phận với đồng bào của mình. Và cách riêng, các ngài đã chia sẻ niềm tin với chúng ta. Các ngài đã hiên ngang sống và làm chứng cho niềm tin, thà chết chứ chẳng thà chối bỏ Chúa: Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự ở trên trời.
Một ngày kia, các ngài đã phải chọn lựa: giữa mất và còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sống và chết. Cuối cùng, các ngài đã chọn Đức Kitô và đã lấy máu đào làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Tử đạo chính là chọn Chúa và làm chứng cho Chúa. Tử đạo chính là sống đạo một cách tích cực và làm tông đồ một cách nhiệt thành. Tử đạo chính là trở nên men trong bột, muối trong đồ ăn và ánh sáng trong đêm tối.
Trong ngày giỗ tổ hôm nay, chúng ta hãy ôn cố tri tân, ôn lại chuyện cũ của các ngài, đề tìm lấy một cách sống mới, phụ hợp với tinh thần Phúc âm, để rồi chúng ta cũng sẽ trở nên là những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

14. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?
Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.
Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.
Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.

15. Hạt lúa gieo vào lòng đất
(Suy niệm Ga 12,24-26 của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: “Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì… Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!…”
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.
* * *
Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”
Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất… nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!
Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô… Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong… nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
* * *
Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như “hạt-lúa-Giêsu”, như “hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo”, bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng… Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy” để rồi “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”

16. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
KHÔNG ĐI THEO ĐẠO YÊU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊSU LÀ BỎ ĐẠO
Khi nào ta bỏ đạo?
Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa thường bày ra để xử tội người có đạo là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền cho họ bước qua. Ai chấp nhận bước qua là tỏ dấu công khai từ bỏ đạo Chúa thì được tha về. Ai kiên quyết không bước qua thì được xem là người ngoan cố, không chịu từ bỏ đạo Chúa thì phải chịu tra tấn, tù ngục, chịu hành hình và chịu chết.
Có nhiều người kiên quyết không bước qua thánh giá, dù bị khiêng qua thì cũng co chân lại để khỏi dẫm đạp lên. Có người lỡ dại dột bước qua, nhưng về sau ân hận nên quay trở lại, khẳng định với quan quân mình không bỏ đạo nữa và xin được chịu chết vì Chúa.
Tất nhiên có nhiều người vì sợ ngục tù xiềng xích, gông cùm và tra tấn hoặc sợ chết nên đã bước qua thánh giá. Nhưng trái lại, cũng nhiều người dứt khoát không bước qua thánh giá, cho dù phải mất hết mọi sự và mất cả mạng sống mình.
Không đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu là bỏ đạo
Đạo là gì? Người Á đông quan niệm rằng đạo là đường, đường đưa về chân thiện mỹ. Thiên Chúa là Tình Yêu nên đạo của Ngài cũng là đạo Tình Yêu. Chúa Giêsu đến trần gian để lập nên đạo yêu thương như một con đường đưa nhân loại về cõi phúc.
Chỉ có những ai giữ tròn quy luật yêu thương mới thực sự là người người theo đạo Chúa. Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Người ta căn cứ vào dấu nầy để nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).
Những ai theo đạo yêu thương, tức là giữ tròn giới luật yêu thương Chúa dạy, thì được liệt vào hàng ngũ người con cái Chúa. Ngày phán xét, Chúa Giêsu mở cửa đón nhận họ vào Vương Quốc của Ngài: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa”; ai không sống theo luật yêu thương, là người bỏ đạo Chúa, thì bị liệt vào hàng ngũ những người bị nguyền rủa và bị loại trừ vĩnh viễn khỏi nhan Thiên Chúa: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 24, 34. 41)
Ngày trước trong thời bách hại, hành động bước qua thập giá Chúa Giêsu là dấu chỉ cho biết ai là người bỏ đạo. Ngày nay, hành động chà đạp lên nhân phẩm, chà đạp tình người, là dấu hiệu chứng tỏ người thực hiện điều đó đã chối bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Nói cụ thể:
Trong đời sống chung giữa xã hội, ai nuôi lòng thù oán anh em mình, xúc phạm đến người khác, gây tổn thương thanh danh, phẩm giá người khác… là người đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Trong phạm vi gia đình, đạo yêu thương của Chúa dạy vợ chồng phải nên một với nhau, phải yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời. Thế nên khi vợ chồng không còn sống yêu thương hiệp nhất nữa mà sống phân li chia cắt, thì lúc đó, hai người đã lìa bỏ đạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Đạo yêu thương Chúa dạy cha mẹ phải chăm lo, giáo dục con cái, rèn đúc con cái nên người tài đức. Nếu cha mẹ thờ ơ không làm tròn nhiệm vụ đó, là cha mẹ đã bỏ đạo Chúa.
Đạo yêu thương Chúa dạy con cái phải thờ cha kính mẹ, thảo hiếu với ông bà tổ tiên; nếu con cái không giữ tròn chữ hiếu với cha mẹ, với ông bà tổ tiên là họ đã từ bỏ đạo yêu thương của Chúa rồi.
Trái lại, khi chúng ta theo lời Chúa dạy mà tha thứ cho người khác khi họ xúc phạm đến mình, cứu giúp những người hoạn nạn, chia cơm sẻ áo cho người nghèo thiếu, quên mình phục vụ những người chung quanh… là chúng ta đang đi theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu cách triệt để nhất.
Các thánh tử đạo Việt Nam đã rất anh dũng bước theo đường lối Chúa Giêsu, theo đạo yêu thương của Chúa Giêsu. Dù ngục tù, gươm đao, dù bị róc xương xẻ thịt cũng vẫn không làm cho các ngài từ bỏ đạo Chúa. Chúng ta là con cháu các ngài, mang dòng máu bất khuất anh dũng của các ngài trong huyết quản mình, thì chúng ta cũng kiên quyết đi theo đạo yêu thương của Chúa như các ngài, để mai ngày đáng được hưởng triều thiên vinh hiển với các ngài trên thiên quốc.
Nguyện xin các thánh tử đạo Việt Nam là ông bà tổ tiên của chúng ta luôn phù giúp chúng ta vững bước đi theo đạo yêu thương của Chúa.

17. Làm chứng cho Tình yêu
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Một lãnh tụ vô thần đã tuyên bố: “Chúng ta hãy triệt phá Giáo hội, nhưng đừng tạo ra những vị tử đạo”. Khi tuyên bố như thế, một cách mặc nhiên ông ta công nhận điều mà Thánh giáo phụ Tertulianô đã nói là đúng: “Máu các Thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu”. Hôm nay, chúng ta mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt Nam. Máu các Ngài đã đổ ra năm xưa, dệt nên những trang sử oai hùng giữa lòng dân tộc. Chúng ta kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cái chết của các bậc tiền bối cha ông và mở lòng đón nhận sứ điệp về ơn gọi tử đạo mà các Ngài chuyển giao cho con cháu là chúng ta ngày hôm nay.
Lược sử Giáo hội Việt Nam qua dòng thời gian
Hạt giống đức tin đã được gieo vào mảnh đất quê hương Việt Nam từ hơn 500 năm trước. Trong suốt chiều dài lịch sử, Giáo hội Việt Nam đã trải qua hơn 100 năm sống trong bách hại. Sắc dụ cấm đạo đầu tiên được ban hành năm 1625, kéo dài đến hết thời Văn Thân năm 1886. Hàng vạn con người đã ngã xuống do sự thù ghét. Thế gian ghét đạo, ghét Đức Giêsu và ghét luôn những môn đệ của Ngài. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu đã cảnh báo từ 2000 năm trước (Mt 5, 11; 10, 22). Trong số các anh hùng Tử đạo, đã có 118 vị được ghi tên trong sổ bộ các thánh, gồm 117 Hiển thánh và một Chân phước. Có 97 vị là người Việt Nam, 11 vị Tây Ban Nha, và 10 vị người Pháp. Họ thuộc đủ các giai tầng xã hội, gồm 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Trong số giáo dân, có cả những vị làm quan trong triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, y sĩ hoặc chỉ là nông dân quèn. Dù là người Việt Nam hay ngoại quốc, các Thánh Tử đạo đều nói lên một chứng từ duy nhất, đó là các Ngài làm chứng về Đức Giêsu chịu hiến tế, như Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “ Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh vào Thập giá”. Cái chết của các Ngài là bài giảng sống động nhất và thâm thúy nhất. Họ rao giảng không phải trên lý thuyết, nhưng bằng chứng tá cụ thể, những chứng tá sống động và rất sâu xa. Có 6 loại án được thực hiện để hành quyết các vị tử đạo: Bá đao (cắt thân thể thành trăm mảnh) có 1 vị; Lăng trì (chặt chân tay, mổ bụng và vất xuống sông) có 4 vị ; Thiêu sinh (đốt sống) có 6 vị; Xử giảo (xiết cổ bằng dây) có 2 vị ; Xử trảm (chém đầu) có 75 vị và chết rũ tù có 9 vị. Vị Tử đạo lớn tuổi nhất là linh mục Vũ Bá Loan 84 tuổi và trẻ nhất là chủng sinh Tôma Thiện 18 tuổi. Trong thời Trịnh Nguyễn từ năm 1745 đến năm 1774 có 4 vị. Thời vua Cảnh Thịnh (1788 – 1801 ) có 2 vị. Dưới thời Minh mạng (1820 – 1840) có 58 vị tử đạo. Trong thời Thiệu Trị từ năm 1841 đến 1847 có 3 vị và thời Tự Đức từ năm 1847 đến 1883 có 50 vị. Đó là phác lược tổng quát các mốc điểm thời gian và bối cảnh dẫn đến cái chết của các Thánh Tử đạo. Nhìn lại một cách thoáng chung lịch sử của Giáo hội Việt Nam, chúng ta tạ ơn Chúa vì gia sản đức tin mà cha ông đã để lại. Gia sản đó được đan dệt bằng máu và nước mắt, đúng như lời quả quyết của thánh Tertulianô: “ Máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh các Kitô hữu.”(Sanguis Martyrorum semens Christianorum est)
Ý nghĩa của việc tử đạo
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị có kể lại một giai thoại. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng bỗng có tiếng khóc ai oán vang lên nghe thật não nuột. Đứa bé sợ, ôm chầm lấy mẹ và hỏi: “ Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời thằng bé thế nào. Bà ngồi bật dậy mở Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan, bà đọc thấy đoạn sau: “ Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Chúa Cha và yêu thương đến cùng. Đây là hai chiều kích đặc thù nơi cái chết của Đức Giêsu, vị tử đạo đầu tiên, và cũng được lập lại nơi cái chết của các Thánh tử đạo tại Việt nam. Các Ngài đã chết để trở về nhà Cha và hoàn tất cuộc hành trình yêu thương của mình nơi trần thế. Họ ý thức Lời Chúa dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Nếu được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì?” (Mc 8, 35-36)”. Thánh Phaolô Đạm nói trước tòa án Nam Định: “ Nếu tôi có hai linh hồn, tôi sẽ bán một cái cho ma quỷ để cho các ông vui lòng, nhưng tiếc quá tôi chỉ có một linh hồn, nên tôi không thể bỏ mất”.
Nhưng trên hết, hành vi Tử đạo luôn hàm ngậm ý nghĩa của việc làm chứng. Hạn từ Marturion theo nguyên ngữ Hi Lạp cũng mang chở ý nghĩa này. Các Ngài chết để làm chứng, nhưng không phải làm chứng cho một chế độ, một chủ nghĩa, mà là làm chứng cho một con người. Con người đó chính là Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người đã can đảm đón nhận cái chết khủng khiếp giống một tên cướp, để khai mở cho chúng ta chân trời ơn cứu độ. Các Thánh Tử đạo đã dùng máu của mình để làm chứng cho Đấng mà các Ngài tin theo.
Sống ơn gọi tử đạo ngày hôm nay.
Trong đại hội tu sĩ trẻ thế giới tổ chức tại Rôma đầu tháng Chín năm 2015. Ban tổ chức đã dành một tiếng đồng hồ để các tu sĩ đặt câu hỏi và Đức Thánh Cha trực tiếp trả lời. Có một anh em tu sĩ dòng DonBosco đến từ Syria đứng lên phát biểu và hỏi Ngài vài điều. Đức Thánh Cha sau khi trả lời đã hỏi ngược lại: “Con từ đâu đến đây?”. Vị tu sĩ trẻ nói là Ngài đến từ Syria. Đức Thánh Cha mở to đôi mắt nhìn vị linh mục và nói với cử tọa: “Chúng con hãy cầu nguyện cho các vị tử đạo hiện nay tại Iraq và Syria”. Cả hội trường xúc động vì tình hình chiến sự đang xảy ra rất khốc liệt tại Trung Đông, khiến bao nhiêu Kitô hữu bị giết, nhiều gia đình ly tán, các nhà thờ bị đốt phá, cả trăm ngàn người dân vô tội phải trốn tránh hoặc đi tị nạn.
Như vậy, ngày hôm nay vẫn còn các vị tử đạo, những con người bị thù ghét vì lý tưởng và niềm tin của mình. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng hơn, sống mầu nhiệm tử đạo không phải là chuyện viễn tưởng xa vời. Đó chính là bản chất ơn gọi gắn liền với căn tính Kitô hữu chúng ta. Chúa Giêsu đã nói “Ai muốn theo tôi phải bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo tôi” (Mc 8,34).
Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đã bãi bỏ án tử hình, và cũng tôn trọng tự do tôn giáo, ít nhất là trên lý thuyết. Việc đàn áp tôn giáo với những màn tra tấn, tống ngục hay giết chết đang dần bị con người ngày hôm nay đào thải, vì nó đi ngược với khái niệm về nhân quyền mà xã hội luôn đề cao. Tuy nhiên lời mời gọi của Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy để sống ơn gọi tử đạo vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người thuộc mọi thời đại, vì nó là thuộc tính nơi cuộc sống của những học trò Đức Giêsu. Ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết. Cái chết trên Thập giá theo gương Đức Giêsu là đích điểm mà tất cả mọi người chúng ta phải vươn tới. Văn hào Goethe đã viết: “ Làm một việc hy sinh to lớn trong khoảnh khắc thì dễ, chỉ cần chút can đảm nhất thời, nhưng thể hiện những hy sinh nho nhỏ và liên tục trong suốt cuộc đời thì khó hơn nhiều”. Đó là cái chết tiệm tiến, từ từ trong cuộc sống đức tin để sao chép lại chính cái chết của Đức Giêsu. Mô thức ơn gọi tử đạo của tất cả chúng ta hôm nay là như thế. Chúng ta phải đi sâu vào cái chết không đổ máu, không xích xiềng hay tù ngục qua cuộc sống hằng ngày và một cuộc sống như vậy chính là để làm chứng cho tình yêu.
Kết luận
Để kết luận, xin trích mượn tư tưởng của thánh Charles de Faucauld. Ngài nói: “Ở đời này chúng ta chỉ có thể ôm lấy Chúa Giêsu bằng cách ôm trọn Thập giá của Ngài. Ta không thể yêu mến Thập giá mà lại không có Chúa Giêsu bị đóng đinh nằm ở trên. Đồng thời chúng ta cũng không thể ôm lấy Chúa Giêsu mà lại vắng bóng Thập giá”. Hoa hồng là biểu tượng của tình yêu. Cánh hoa hồng càng rực rỡ càng có nhiều gai nhọn ẩn sâu bên dưới. Cũng vậy tình yêu đến thật nhiều xuyên qua đau khổ. Con đường đau khổ dẫn đến Thập giá, chính là con đường của ơn gọi tử đạo, con đường của tình yêu. Cũng như thánh Têrêsa hài đồng Giêsu đã viết: “Sống bằng tình yêu không phải là định cư mãi với Chúa Giêsu trên đỉnh núi Tabor giữa những vinh quang sáng chói, nhưng là còn phải trèo lên đỉnh Calvê để ôm nhận Thập giá như một kho tàng”. Sống ơn gọi tử đạo là như thế.

18. Những Anh Hùng Đất Việt
Anh chị em thân mến.
Mang kiếp sống con người, được sinh ra trên trần gian thì cũng sẽ có ngày từ giã trần gian. Chúng ta từng chứng kiến nhiều cái chết: có những cái chết hết sức thương tâm, có những cái chết mà dường như người chết không hay biết gì, không có được một sự chuẩn bị nào hết. Có những cái chết mà đương sự lo sợ, cố tìm mọi cách để nó đừng đến nhưng không được, có những cái chết hết sức bình thản ung dung, cũng có những cái chết mang lợi ích cho biết bao nhiêu người, vì cái chết làm cho nhiều người sống xứng đáng hơn, mạnh mẽ hơn.
Ngày hôm nay, giáo hội Việt mừng những cái chết của những người đã từ giã trần gian nầy, mừng những cái chết hào hùng, đã để lại cho biết bao người tấm gương anh hùng trong đời sống, những người này dám dùng cái chết của mình để làm cho mình và nhiều người được sống, họ dám hiên ngang từ bỏ những gì không cần thiết nên giờ đây họ được sống mạnh mẽ cùng với hạnh phúc Thiên Đàng.
Họ là ai mà họ can đảm thế?
Họ là ai mà họ anh hùng thế?
Họ là ai mà họ được hưởng hạnh phúc như thế?
Thưa họ là những con người như bao nhiêu người khác. Họ cũng là những người Việt Nam, cũng có một mái ấm gia đình, cũng biết yêu thương và tràn đầy những ước mơ cho cuộc sống. Nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa: “Ai lo bảo vệ mạng sống mình thì sẽ mất”, “ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”.
Các ngài đã lắng nghe lời Chúa, không phải chỉ nghe mà thôi, nhưng nghe mà còn sống, còn hành động. Các ngài đã anh dũng sống lời Chúa, khi các ngài dám chọn con đường chết. Những ước mơ của các ngài không là gì khi các ngài nhìn thấy được hạnh phúc đời đời. Tình yêu thương nơi trần thế giờ đây không chỉ đơn thuần là của trần thế, nhưng đã được thăng hoa, được nâng lên để trở thành bất diệt. Mái ấm gia đình mà các ngài đang sống làm sao có thể so sánh được với gia đình vĩnh cửu mà các ngài đang sống trên Thiên Đàng, nên mạng sống của các ngài cũng đã hoà nhập vào sự sống bất diệt.
Các ngài dám bước di trên con đường thập giá, dám hy sinh mạng sống, các ngài đã để lại cho con cháu, cho chúng ta gương anh hùng, để lại con đường sống, con đường theo Chúa.
Chúng ta là con cháu các ngài, nhưng giờ này cuộc sống của chúng ta có là cuộc sống anh hùng mà các ngài đã nêu gương và để lại cho chúng ta, hay chúng ta vẫn sống bình thản, như không hay biết gì về sự hy sinh của các ngài. Lời Chúa mà các ngài đã thực hiện, chúng ta cũng đã nghe, đã biết, nhưng không thể thi hành được như các ngài. Chúng ta còn quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được, nên đang tìm mọi cách để thực hiện cho được những gì là ước mơ, không cần biết nó có chính đáng hay không. Chúng ta sợ mất đi những gì mình có, nên cố gắng bảo vệ nó. Chúng ta bảo vệ những gì mà một ngày nào đó nó cũng sẽ phản bội và từ bỏ, khi chúng ta bước vào sự chết. Chúng ta đang cố lừa dối mình, không nói đến cái chết, để không chuẩn bị gì hết, cố bám lấy điều mà chúng ta gọi là sự sống và cố gắng một cách vô vọng. Như thế chúng ta đang run sợ trước cái chết vì không biết chuẩn bị, cũng không biết mình đi đâu. Chúng ta cũng đang bị bất ngờ trước cái chết vì đang tìm sự sống cho chính mình, sự sống của trần gian này.
Nếu chúng nhìn thấy được gương anh hùng mà các thánh tử đạo đã thực hiện, nếu chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà các ngài đã cảm nhận và đã sống, nếu chúng ta nhận ra được con đường mà các ngài đã đi, để biết noi gương các ngài thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta can đảm chu toàn những gì mà mình phải làm trong trách nhiệm với tất cả ý thức, đó là một hình thức tử đạo, không phải một lần, nhưng từng giây từng phút của cuộc đời. Nếu trước những gian khó mà không lùi bước, sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa, để biết yêu thương giúp đở người khác khi cần thiết. Đó là chúng ta đang đi trên con đường can đảm mà các ngài đã đi.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa và xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cho chúng ta được ơn can đảm, biết chu toàn bổn phận trong đời sống hằng ngày và biết yêu thương giúp đỡ mọi người,để sống xứng đáng là con cháu của các Ngài.

19. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
AI MUỐN THEO TÔI PHẢI TỪ BỎ CHÍNH MÌNH
Một bác tiều phu đi đốn củi. Đốn được một bó to sắp mang về thì bác bỗng chợt nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên, sức khoẻ thì sút đi, mà gánh nặng gia đình vẫn không đổi thay, lại thấy nhiều người chẳng phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Bác mới kêu lớn lên: “Ước gì tôi được gặp Thần Chết!”
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: “Ông lão muốn điều gì?” Bác lập cập trả lời: “Bó củi to nặng quá! Nhờ ngài đưa giùm lên vai tôi”.
Thế đó, dù khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn mọi giá. Nhưng dù có quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được: “Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng phải đến ngày tận số?” (Tv 49,9-10)
Thoạt nhìn, sự chết là một thực tại cay đắng của phận người, nó đập tan mọi bảo đảm bền vững, mọi dự tính khôn ngoan của trần gian.
Nhưng phải cám ơn Thần Chết! Vì đó là người thổi tiếng kèn đánh thức con người khỏi mê ngủ bởi những quyến rũ hào nhoáng của thế gian, để đi tìm một ý nghĩa cao đẹp cho thân phận cát bụi, để nhận ra và sống tình yêu thương, đó là cánh cửa đưa chúng ta vào sự sống thực sự và vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã ban tặng khi dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài. Sự chết cho chúng ta thấy tình yêu Chúa: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16)
Vâng, ai cũng kính phục một người sẵn lòng chết vì yêu, dù người đó có địa vị thấp hèn đến đâu đi nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thế mà tình yêu đẹp nhất đã dành cho chúng ta: Trên cây thập tự, Chúa nâng chúng ta lên cao khi gọi chúng ta là bạn hữu, và yêu thương chịu chết cho tội của chúng ta.
Niềm tin Kitô là một nghịch lý trước mọi suy nghĩ, tính toán của thế gian, ngay từ lời mời gọi của Đức Kitô: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24).
Nhưng ai đi theo Đức Kitô, bỏ mình vì yêu, người ấy nghiệm được nơi mình một kho báu vượt trên tất cả và không bao giờ bị mất.
Tình yêu Thiên Chúa hướng con người đến một giá trị không tàn phai theo thời gian, và làm cho mọi bóng tối trong cuộc đời khổ cực được tràn đầy ánh sáng phục sinh: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,7-9)
Năm 1861, khoảng 2300 giáo dân Bà Rịa đang yên ổn sống đạo thì đến tháng 8 quan tuần vũ Biên Hoà ra chỉ thị cho phủ Bà Rịa lập danh sách người có đạo. Dân có đạo phải “khắc tự” hai bên má, một bên chữ Biên Hoà, một bên chữ tả đạo. Đến tháng 9, có khoảng 700 người Kitô hữu bị giam trong bốn nhà giam được thiết lập tại phủ Bà Rịa.
Lính gác nghiêm nhặt ngày đêm, không cho ai ra ngoài. Đại tiện, tiểu tiện đều tại chỗ, may lắm mới có được một đứa nhỏ ở ngoài được cho vào hốt đổ đi. Thời tiết mùa mưa ẩm thấp, phải nằm ngủ dưới nền đất, lại không phên bạt che nắng mưa nên nhiều người lâm bệnh chết rũ tù.
Dù vậy, chẳng có ai bỏ đạo. Có một ông bị nhốt trong ngục, vợ và con ở ngục khác trốn thoát được ra ngoài mới tìm chạy được 30 quan tiền định lo lót cho chồng được tha. Nhưng ông nhất định không chịu vì coi đó là việc không chính đáng, và sẵn sàng ở lại để chịu chết vì Chúa.
Cuối tháng 12, Biên Hoà thất thủ, quân nhà Nguyễn chạy đến Bà Rịa nhưng thấy không đủ sức địch lại quân Pháp nên phải rút đi. Trước khi rút, ngày 07/01/1862, họ phóng hoả đốt cả bốn nhà giam các tín hữu.
Người bị giam cố gắng thoát ra, có lính canh ở ngoài đâm chết, có lính thấy đàn bà trẻ con thì thương tình phá cửa cho họ chạy, một cai đội chặn họ lại cướp của. Số người tử vì đạo là 444 người.
Họ đã chết, nhưng chết trong niềm vui, chết trong hy vọng.
Được sinh ra, sống, chết và chịu đau khổ là những gì không ai tránh được. Nhưng mọi đau khổ trong cuộc sống sẽ nở hoa niềm vui và hy vọng khi chúng ta để tình-yêu-đến-bỏ-mình của Chúa dẫn đường và thúc đẩy: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương” (Tv 63,4)
Sống yêu thương có phải là chọn lựa của tôi?

20. Sống chứng nhân
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
“Tin đạo chứ không tin người có đạo”. Câu nói này tôi đã nghe nhiều người nói. Nhưng đáng tiếc không phải là những người ngoại đạo nói mà là những người có đạo nói. Đa số họ là những người đã lâu năm không tới nhà thờ. Họ bỏ xưng tội rước lễ. Họ bỏ đồng đạo. Họ có đạo nhưng không sống đạo. Họ mang danh ky-tô hữu nhưng lại bảo rằng “đạo tại tâm” nên không thể hiện ra bên ngoài dấu chỉ là người ky-tô hữu. Thế nhưng, họ lại biện minh cho hành động chối đạo của mình là vì chê ghét một ai đó trong đạo. Họ không đến nhà thờ vì ông A, ông B đã không tốt với họ. Họ bỏ Chúa vì cha xứ quá khắc khe trong lề luật của Chúa. Họ không còn xưng tội rước lễ vì bà A, bà B vẫn chứng nào tật ấy có tốt hơn họ đâu? Họ đòi người khác phải làm chứng cho họ còn bản thân họ thì lại không chịu làm chứng cho tin mừng. Họ đòi người khác sống tốt còn bản thân họ thì lại nuôi thù oán. Họ đòi người khác phải bác ái yêu thương còn bản thân họ thì cô lập một mình không gắn bó với giáo xứ. Họ chính là những cỏ dại đang làm mất đi vẻ đẹp của cánh đồng lúa Giáo hội Chúa Kitô. Họ chính là những người có đạo nhưng không đáng tin vì tính cố chấp, nuôi thù hận mà bỏ Chúa, bỏ anh em.
Các thánh Tử đạo Việt Nam năm xưa đã lãnh nhận cái chết tử đạo nhiều khi cũng bởi chính những con người mang danh ky-tô hữu nhưng đã không còn sống men tin mừng. Họ đã tố giác anh em vì một chút bổng lộc. Họ đã bán đứng anh em vì cố chấp trong tội lỗi. Như trường hợp thánh An-rê Kim Thông, ngài đã bị tố giác bởi chính người cháu tội lỗi, ngang ngược. Ngài đã từng nhắc nhở người cháu sửa đổi nhưng chứng nào tật ấy. Hắn đã không sửa đổi mà còn tố giác ngài để cầu vinh.
Trường hợp Thánh Phaolô Hạnh cũng thế. Ngài là một thanh niên nổi tiếng về sự quen biết những tay anh chị trong giới giang hồ tại chợ Quán. Một lần, chứng kiến một phụ nữ bị đàn em bóc lột không thương tiếc. Thánh nhân bỗng xúc động ra tay can thiệp, làm áp lực buộc chúng trả lại tất cả những gì đã lấy của nạn nhân. Vì hành động nghĩa hiệp này, thánh nhân phải trả giá: họ tố cáo ngài ngoài tội là Kitô hữu, còn tiếp tay với quân đội Pháp. Thánh nhân bị bắt, bị cầm tù, sau cùng bị trảm quyết tại Chí Hoà ngày 28-5-1859.
Trường hợp Cha Thánh Luca Vũ Bá Loan còn đáng thương và cảm động hơn. Có hai tên tội phạm đang chờ xét xử. Họ bàn tính với nhau đến bắt Cha Loan để lập công chuộc tội. Thế là họ đang tâm nộp Cha cho quan huyện Phú Xuyên, nhưng quan không chịu nhận, họ phải đưa Cha về Thăng Long. Sau cùng, ngày 5-6-1840, Thánh Luca Loan bị chém đầu.
Điểm chung của các thánh Tử Đạo chính là can đảm đón nhận thập giá Chúa gửi đến mà không oán hận kẻ làm hại mình. Các ngài đã vui nhận hy lễ thập giá vì yêu mến Chúa Kitô. Các ngài luôn xác tín rằng: những đau khổ đời này không đáng gì so với vinh quang bất diệt mai sau. Các ngài dầu có chịu khổ hình trong giây lát nhưng được sống lại vinh quang muôn đời. Đó là điều mà thánh Đaminh Hạnh đã xác tín, khi mà quan triều đình nói với ngài: “Xem kìa, đạo trưởng Duyệt đã chịu bỏ đạo, được tha về, ông cứ làm như thế tôi sẽ tha cho ông”. Nhưng thánh Đaminh Hạnh bình tĩnh trả lời: “Kẻ trung thành với Chúa, khi chết sẽ được lên thiên đàng”.
Mừng kính các thánh Tử đạo Việt Nam là dịp nhắc nhở chúng ta hãy sống thể hiện niềm tin trung kiên của mình trong mọi tình huống. Đừng vì một chút cỏ dại lấn át mà chán nản bỏ đạo. Đừng vì một chút giận hờn mà thù hận cả niềm tin của mình. Đừng chối đạo vì ghét ai đó hay đánh mất niềm tin vì bên trong Giáo hội vẫn có cỏ lung xen lẫn. Và nhất là đừng bán đứng anh em để cầu vinh.
Ngày nay chúng ta không còn những bạo chúa bách đạo bằng gươm đao súng đạn, nhưng đề sống niềm tin đòi hỏi chúng ta phải chiến thắng chính mình. Không ai bắt chúng ta bỏ đạo nhưng vẫn còn đó những người bỏ đạo vì chức vụ trần gian, vì lười biếng ham chơi, vì đam mê truỵ lạc. Không ai ngăn cản chúng ta thực hành đạo nhưng vẫn còn đó những người luôn nuôi dưỡng hận thù, luôn bất mãn với tha nhân nên đã sống thiếu yêu thương trong lời nói và việc làm. Không ai dụ dỗ chúng ta bỏ đạo nhưng nhiều người đã lao vào những con đường tội lỗi, những quan hệ bất chính nên đã không còn xứng đáng mang danh là ky-tô hữu.
Quả thực, ngày nay không cần những cuộc bắt đạo những vẫn có hàng ngàn người bỏ đạo vì những danh lợi thú trần gian. Ngày nay không ai bắt chúng ta bước qua thập giá nhưng vẫn còn đó nhiều người vì danh lợi thú đã tự tháo bỏ thập giá khỏi bàn thờ gia đình, khỏi cuộc sống của mình. Họ đích thực là loại người mà nhân loại kết án “tin đạo chứ không tin người có đạo”, vì lẽ họ không còn sống niềm tin của mình.
Lạy các thánh Tử đạo Việt Nam, là cha ông chúng con. Xin cho chúng con biết tôn thờ Chúa trên hết mọi sự, biết noi gương các ngài để thể hiện niềm tin trung kiên của mình trước những cám dỗ lợi lộc của thế gian. Xin giúp chúng con biết thể hiện niềm tin của mình qua đời sống thánh thiện, bác ái yêu thương. Amen.

21. Tử Đạo thời công nghệ 4.0
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đức Thánh Cha Phanxicô đã từng nói: “Một Giáo hội không có các vị tử đạo là một Giáo hội không có Chúa Giêsu”. Đức Thánh Cha cũng mời gọi cầu nguyện “cho các vị tử đạo của chúng ta đang đau khổ rất nhiều,” “cho các Giáo hội không được tự do để diễn tả chính mình”: “họ chính là niềm hy vọng của chúng ta.” Ngài nhắc lại lời của giáo phụ Tertullien xưa đã viết: “Máu của các vị tử đạo, là hạt giống của các Kitô hữu.” Thế nên, Đức thánh Cha cám ơn Chúa đã hiện diện với sức mạnh của Chúa Thánh Thần nơi các anh chị em đang chịu bách hại bằng nhiều cách…
Quả thực, ngày nay vẫn còn đó những cuộc bách hại bằng khủng bố đánh bom nhà thờ, và sát hại các linh mục tu sĩ, vẫn còn đó những cuộc cấm đoán biểu lộ niềm tin như giáo hội hầm trú Trung Quốc, hay tại các nước đang phát triển mà Đức Thánh Cha đãnói: “Tôi không thể quên chứng tá của Linh mục và nữ tu ở nhà thờ chánh tòa Tirana: năm này qua năm khác ở trong tù, bị lao động khổ sai, hạ nhục,”, đối với họ nhân quyền không tồn tại.
Ngày hôm nay còn có một hình thức bách hại mới mà Giáo hội Việt Nam cũng đang phải đối diện. Đó chính là sự bách hại bởi truyền thông xã hội. Chúng ta cũng thấy nhiều linh mục, Giám mục đã trở thành “các vị tử đạo” bởi truyền thông xã hội khi các ngài mạnh dạn lên tiếng nói cho sự thật và bảo vệ công lý. Có những linh mục giúp cho dân mình khởi kiện sự tàn phá môi trường của Formosa liền bị quy chụp bởi nhiều tội danh chẳng liên quan đến việc đòi lại công lý. Có những giám mục chỉ nói lên tiếng nói của sự thật liền bị truyền thông cắt xén, bóp méo và tìm cách loại trừ. Có những Giám mục bảo vệ công lý thì bị quy chụp là xem thường pháp luật, bị các thế lực thù địch xúi giục, bao che tội phạm… mà trong nhiều hệ thống báo chí, đài phát thanh và truyền hình đã từng đăng tải…
Cónhững linh mục còn bị những truyền thông giấu mặt mà người ta hay nói là đội quân DLV luôn chửi bẩn, nói bậy khi các linh mục này dám lên tiếng nói kêu gọi tôn trọng sự sống và phẩm giá con người. Đội quân DLV đa số là thành phần thất học, chỉ cần tiền nên không biết lý lẽ, phải trái… và sẵn sàng lao vào người ngay chính rủa xả và dừơng như họ luôn coi các lãnh đạo tôn giáo như kẻ thù và là mục tiêu của thách thức chế diễu, lăng mạ…
Thời nào cũng có những cuộc bách hại, nhưng Giáo hội lại càng cần những chứng nhân trong những cuộc bách hại như thế. Vì càng bị bách hại người tín hữu càng được tôi luyện mình nên tốt hơn, và là dịp thuận lợi để làm chứng cho niềm tin của mình.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà người ta sống ảo nhiều hơn sống thực. Thế giới ảo phải chăng chính là môi trường cần thiết để chứng tá tin mừng được ghi dấu nơi ấy? Thế giới ảo phải chăng là lời mời gọi cuộc cách mạng tin mừng hãy dùng chính thế giới ảo ấy lan truyền tin mừng của Chúa đến cho mọi người? Đây cũng là một thế giới công bằng và cộng đồng mạng là những người thực thi công lý. Bởi vì rất nhiều những án oan, nhưng bất công đã được cộng đồng mạng đồng tâm chia sẻ và đòi lại công bằng đã thành công.
Tại sao người Công giáo chúng ta còn ngần ngại tuyên xưng niềm tin bằng việc loan tải những sứ điệp đầy yêu thương của Chúa đến cho mọi người? Tại sao chúng ta không tận dụng truyền thông để đẩy lùi sự dữ ra khỏi xã hội loài người? Phải chăng còn rất ít người dám tuyên xưng niềm tin? Phải chăng chúng ta đã cố tình bịt mắt, bịt tai, bịt miệng để tìm an toàn cho bản thân?
Cha ông chúng ta dám đổ máu đào để bảo vệ đức tin và làm chứng cho tin mừng trong điều kiện đầy khó khăn và gian khổ. Máu của các ngài đã đổ ra để bảo vệ và truyền lại đức tin cho con cháu là chúng ta. Chắc chắn các thánh TĐVN cũng mong muốn con cháu mình phải tiếp tục bảo vệ đức tin trong thế giới hiện đại. Nhất là trong truyền thông giáo hội đang bị xuyên tạc và khủng bố, nên rất cần người tín hữu công khai bảo vệ niềm tin của mình. Như cuối năm 2017 người ta dựng nên một Đạo thánh Đức Chúa Trời với một phong trào rầm rộ cả nước Việt Nam, rõ ràng đây là một âm mưu nhằm xuyên tạc tín lý giáo hội Công giáo, và khủng bố niềm tin nơi giáo dân. Rồi người ta lăng mạ các linh mục tu sĩ trong hình dạng ma quái ghê sợ trong ngày halloween, người ta cho biểu diễn game show với hình nữ tu ăn mặc hở hang… Thế giới truyền thông cũng tiềm ẩn rất nhiều sự dữ nên cần người tín hữu phải mạnh dạn lên tiếng bênh vực công lý và đẩy lùi sự dữ cho dầu có chịu nhiều lăng nhục hay bách hại…
Chắc chắn khi chúng ta dám làm chứng cho sự thật, dầu ở môi trường nào cũng là đối kháng lại với thế gian nên sẽ gặp những chống đối, quy chụp, bách hại,… Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình vì “phần thưởng chúng ta rất lớn trên quê trời, vì Chúa Giê-su đã từng nói: phàm ai tuyên “xưng Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8)
Nguyện xin các thánh TĐVN giúp sức để chúng ta can đảm tiếp nối các tiền nhân dám làm chứng cho tin mừng, cho công lý và sự thật giữa thế giới văn mình nhưng thiếu tình yêu hôm nay. Amen.

22. Con người thích thỏa hiệp
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống con người luôn đầy rẫy sự thỏa hiệp. Thỏa hiệp trong giao tế, trong chính trị, trong làm ăn. Thỏa hiệp đòi hỏi sự nhượng bộ, sự nhân nhượng, nhường bước. Sự thỏa hiệp đòi hỏi phải từ bỏ một phần quan điểm của mình để nhượng bộ cho đối phương. Cách riêng, trong đời sống luân lý thì không có sự thỏa hiệp. Con người không bao giờ được thỏa hiệp với sự dữ, nghĩa là không bao giờ thỏa hiệp với Satan và bộ hạ của nó. Thỏa hiệp với ma quỷ là con người tự làm cho mình ra nô lệ tội lội.
Adam – Eva đã tự tìm đến cái chết khi thỏa hiệp với ma quỷ. Thỏa hiệp luôn là thất bại trong cay đắng. Thỏa hiệp là tự tìm đến cái chết thay vì được sống trong tự do. Biết bao người đã thỏa hiệp để bắt tay làm ăn bất chính, để làm ngơ trước sự xấu hoành hành. Họ có tiền, có quyền nhưng không bao giờ có niềm vui tâm hồn bình an.
Tuy nhiên, cuộc đời vẫn còn đó những con người từ chối thỏa hiệp. Họ là những con người thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng. Đôi khi còn được hưởng chức tước vua ban. Nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không vì ham sống sợ chết mà chà đạp lên thập giá. Các ngài cam lòng chịu đòn roi, chịu án tử hình như cơ hội để lãnh phúc triều thiên vinh quang. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: “Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy”. Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin Đức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng”.
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã dám chết để minh chứng niềm tin. Đây là gương sáng mà các ngài để lại cho hậu thế. Hãy sống trung thành với Chúa, với Giáo hội. Hãy can đảm từ chối mọi thỏa hiệp bất chính. Nhưng xem ra cuộc đời vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo đã chẳng giữ đạo hay chỉ giữ một cách hời hợt. Họ giữ đạo hình thức đôi khi có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng tiền bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ Giáo Hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.

23. Làm chứng nhân
(Suy niệm Lc 21, 5-19 của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19/6/1988 tại Rôma, tức là 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.
300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ.
Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công Giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững đức tin chân chính của mình.
Trong hơn 100.000 vị tử đạo, có 58 giám mục và linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Ý, 15 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu Mến Thánh Giá và 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã bị bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình để làm chứng cho đức tin của mình:
– Bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bệnh và bị dã thú ăn thịt…với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man.
– Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ.
Như vậy các thánh tử đạo Việt Nam đã làm chứng bằng việc chịu chết vì đức tin và máu của các ngài đã đem lại nhiều lợi ích cho Giáo Hội như Tertulianô đã nói: “máu của các vị tử đạo là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Ngày nay mỗi Kitô hữu có thể làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách khác nhau và mỗi người có một cách làm chứng riêng của mình. Trên thế giới ngày nay có biết bao nhiêu ngành nghề, biết bao lãnh vực, cho nên có vô vàn vô số những phương cách thích hợp. Chính vì vậy mà Chúa đã nói với các tông đồ và cũng nói với mỗi người chúng ta rằng: “Các con là chứng nhân của Thầy” (Lc 24,48). Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất là làm chứng nhân cho Chúa bằng chính cuộc sống của chúng ta như cha Vianney. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
Và đây, một bác tài xế xe taxi đã làm chứng nhân cho Chúa trong chính cuộc sống đời thường của mình:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách sống đời chứng nhân của một bác tài xế xe taxi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường… Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
– Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
– Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
– Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
– Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn “Thượng Lộ Bình An”. Amen.

24. Chứng nhân anh dũng
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM.
Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.
Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó:
– Bá đao: bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.
– Lăng trì: chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.
– Thiêu sinh: bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.
– Xử trảm: bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.
– Xử giảo: bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.
– Chết rũ tù: bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.
Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc!
Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.
Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.
Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.
Kế họach phân sáp gồm bốn mặt:
– Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.
– Mặt thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
– Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.
– Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng: các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).
Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại: vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị. Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội: các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức….
Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm tại Việt nam vào năm 1960.
II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv… Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó mà sổ các thánh được gọi là Martyrologie.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.
(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)
Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết. Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.
Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này. Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó. Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố: ”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”. Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo: đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.
Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán: ”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22). Từ ngày đó, Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.
Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên: ”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.
Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).
Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì: ”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).
Truyện: Xin mua được một linh hồn.
Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.
– MỚI – quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.
– Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.
– Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.
– Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.
– Sao? quan sửng sốt, quát: Thế còn chưa đủ ư? Vậy mày muốn bao nhiêu?
– Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể mua được một linh hồn khác đã…
Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.
III. VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.
1. Theo công đồng Vatican II.
Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).
Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr:
”Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.
Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.
Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.
2. Tư tưởng chung thời nay.
Nếu như các nhà thần học nói: ”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy? Chắc không phải thế. Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.
Ta đặt câu hỏi: bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không?
Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa các anh hùng tử đạo.
Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo:
* Tử đạo đỏ: là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.
* Tử đạo trắng: sống đời hãm mình trinh tiết.
* Tử đạo xanh: chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hương xứ sở mình.
Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng: ”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi. Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi: ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).
Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa: ”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau…”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói: ”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).
Truyện: chết theo lệnh vua.
Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.
Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre:
– Nhà ngươi muốn gì?
– Ta muốn nhà vua đầu hàng.
– Đầu hàng? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi?
– Nhà ngươi hãy xem cho rõ.
Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước về hướng vực thẳm ngòai thành.
Tò mò, quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.
Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người, từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.
Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng, nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.
Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?
Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.
Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.
Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.
Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: ”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận: ”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.
Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat:
Cái nhà là nhà của ta,
Ông cố ông cha lập ra
Cháu con ta gìn giữ lấy
Muôn năm với nước non nhà.
Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là: ”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu: ”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)
Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày. Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.
Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23). Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng: ”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

25. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Anfonso)
“Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình!”
Suy niệm:
Lịch sử Giáo hội trải qua hơn 2000 năm không thiếu những gương chứng nhân đức tin giúp củng cố lòng đạo nơi các tín hữu. Và cũng như Tin mừng mới đến trên mảnh đất Việt Nam vào giữa thế kỷ XVI, do một linh mục thừa sai tên Inêkhu truyền giáo năm 1533, thế nhưng cũng đã đóng góp vào lòng Giáo hội hoàn vũ tới 130.000 tín hữu chịu tử đạo vì danh Chúa trên khắp cả nước, mà khởi đầu là Anrê Phú Yên hay còn gọi là Anrê Trung chịu tử đạo năm 1644, và kéo dài mãi đến năm 1885 khi phong trào Cần Vương phò vua đã quyết “Bình Tây diệt Tả”, tiêu diệt người ngoại quốc, diệt trừ Kitô giáo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ XIX, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Lý do bị bách hại là vì Kitô giáo bị coi là ngoại lai, do người Tây đem vào; hoặc vua được coi là thiên tử, phải thờ phượng nhà vua trên hết mà nay Kitô giáo lại tôn thờ Thiên Chúa trến hết; hay vì lý do người Kitô hữu sống một vợ một chồng, điều này đi trái lại ý vua muốn trai năm thê bảy thiếp để có thể sinh ra cho nhà vua một dân tộc lớn mạnh với số dân đông đảo để có người bảo vệ đất nước. Và thậm chí Kitô giáo bị hiểu lầm là những người bỏ việc thờ kính cha mẹ, đi ngược lại với truyền thống tổ tiên nên gọi là Tả đạo và quyết loại bỏ đạo sai trái này.
Vinh phúc tử đạo là phần phúc cao cả nhất dành cho người tin vào Chúa Kitô Giêsu vì được chung phần đau khổ với Người, được vác thập giá mình mà theo Người. Với đa dạng những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau từ giáo sĩ tới giáo dân, từ quan lính tới thường dân, từ nhà giàu đến người nghèo bất kể nam phụ lão ấu đều can đảm dùng giá máu làm chứng cho giá trị Tin mừng. Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn vũ ghi nhận và vinh danh. Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Tại quảng trường thánh Phêrô ở Rôma, Đức thánh cha Gioan Phaolô đệ II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh, đại diện cho muôn ngàn tín hữu khác cũng chịu phúc tử đạo.
Trong số 117 vị ấy, có 8 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục thì có 13 vị người ngoại quốc và 37 vị người bản địa Việt Nam, 14 Thầy giảng; 1 Chủng sinh và 44 Giáo dân. Trong những cái chết anh dũng ấy, có 1 vị chịu bá đao (một trăm nhát dao), 4 vị chịu lăng trì (tùng xẻo: gõ tiếng trống thì lóc miếng thịt), 6 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo (siết cổ tới chết) và 9 vị chết rũ tù.
Giáo hội Công giáo Việt Nam tự hào và biết ơn cùng sự ngưỡng mộ đối với các bậc tiền bối anh dũng. Qua đó, cũng để nhắc lại gương sáng của các ngài cho hậu thế, Giáo hội Việt Nam sắp khép lại Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này, thế nhưng hào khí trở nên chứng nhân cho Chúa Kitô giữa lòng xã hội không hề giảm sút nơi lòng tín hữu con dân Việt Nam, đủ để thấy như lời văn sĩ Tertulianô đã nói: “Máu các vị thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”. Vậy chúng ta là những người hậu thế cố gắng trong mỗi ngày sống quyết luôn can đảm làm chứng cho Chúa ngay từ những việc nhỏ bé hằng ngày, từ việc làm dấu, dự lễ sốt sắng, từ đời sống chân thành, chịu đựng lẫn nhau, tận dụng những dịp đến với anh chị em là cơ hội cho mình trở nên chứng nhân cho Chúa với một đời sống tốt lành, như lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng”, ngài đã viết: “Có một điều nghịch lý căn bản trong Tin Mừng: muốn tìm thấy sự sống, phải bỏ mất nó; muốn sinh ra, thì phải chết; muốn được cứu độ, phải nhận lấy thập giá của mình! Amen”.

26. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm Lc 9,23-26 của Lm. Trầm Phúc)
ANH EM ĐỪNG LO PHẢI NÓI LÀM SAO HAY PHẢI NÓI GÌ.
Hôm nay Giáo hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo tại Việt Nam, 117 vị đã được Giáo hội tuyên phong hiển thánh, nghĩa là nhìn nhận nhân đức anh hùng của các ngài, và xem các ngài như những gương sáng cho chúng ta là con cháu các ngài. Các ngài đã can đảm hy sinh mạng sống trong khổ hình vì yêu mến Chúa, trung thành đến cùng.
Mừng các thánh phải chăng là nhắc nhớ một kỷ niệm, tôn vinh lòng can đảm của các ngài? Nếu thế thì cũng không khác gì người đời tưởng niệm những vị anh hùng đã hy sinh cho đất nước.
Chúng ta mừng các thánh không chỉ là nhắc nhớ những người đã chết mà là nhắc đến những người đang sống. Người đời không biết điều đó. Chúng ta tin rằng các ngài đã chết, nhưng hiện nay các ngài vẫn sống trong Chúa. Mối liên hệ của chúng ta với các ngài là một mối liên hệ sống động, thân thương, chứ không chỉ là kỷ niệm.
Khi còn sống ở trần gian, các ngài cũng yếu đuối như chúng ta, cũng mang nặng kiếp người như chúng ta, “vác thập giá mỗi ngày để theo Chúa” như chúng ta, nhưng hôm nay, các ngài đã đạt đến vinh quang thiên quốc đang đứng trước ngai tòa Con Chiên, tay cầm nhành thiên tuế. Các ngài đã liều mất mạng sống vì Chúa.
Nếu chúng ta ở trong tình trạng của các ngài, liệu chúng ta có dám hi sinh tất cả như các ngài không?
Chịu bách hại gần như là thân phận của những người theo Chúa kể cả chúng ta. Đi vào lịch sử của dân Do Thái là dân Chúa, chúng ta thấy rằng dân này đã bước đi giữa những cơn bách hại liên tục. Họ bị bách hại ở Ai Cập và sau này họ vẫn bị bách hại một cách dã man, nhất là trong thời Maccabê mà chúng ta đã nghe tường thuật một ví dụ trong bài đọc sách Maccabê.
Những người theo Chúa cũng bị bách hại. Vua Đavit cũng bị vua Saun bách hại. Các tiên tri đều qua những cơn bách hại dai dẳng. Và sau cùng là Chúa Giêsu bị bách hại ngay khi mới sinh, và suốt đời Ngài luôn bị săn đuổi cho đến khi chết trên thập giá. Ngài chính là vị tử đạo cao cả nhất trong các vị tử đạo, là vị tử đạo thần linh. Và chính Ngài cũng đã nói: “Nếu họ đã ghét Thầy thì họ cũng sẽ ghét anh em”.
Các Tông đồ cũng chịu chung một số phận là trở thành những con chiên bị đem đến lò sát sinh. Và qua nhiều thế kỷ, Giáo hội tiên khởi cũng trải qua những cơn bách hại đẫm máu. Hiện nay, Giáo hội luôn bị bách hại khắp nơi trên thế giới. Nhiều nơi, những cuộc bách hại trở nên khốc liệt, tinh vi và dã man chưa từng thấy.
Những cuộc bách hại mang nhiều hình thức, lúc công khai, đẫm máu, lúc âm thầm, nham hiểm, nhưng luôn là những cố gắng để tiêu diệt Giáo hội. Chúa Giêsu đã tiên báo điều này và luôn khuyến khích chúng ta bền tâm chịu đựng: “Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính… Hãy vui mừng vì phần thưởng của các ngươi sẽ trọng đại ở trên trời”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu chịu bách hại, nhưng Ngài luôn bình thản chịu đựng “con chiên hiền lành bị đem đi đến lò sát sinh mà không hở môi. Ngài lại xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Các thánh tử đạo cũng luôn bình thản chấp nhận mọi khổ hình không nao núng, không hận thù, luôn kiên nhẫn và can đảm, nhiều vị còn tỏ ra vui mừng, điều làm cho mọi người phải ngạc nhiên. Họ đi ra pháp trường như đi vào một lễ hội. Tại sao?
Chỉ vì họ chứng tỏ lòng tin và tình yêu của họ đối với Đấng đã yêu thương và đã chết cho họ. Vì họ biết rằng chết đối với họ là một vinh dự, một chiến thắng như Thầy chí thánh đã chiến thắng thế gian bằng cái chết đau thương. Họ biết rằng, đây là một bằng chứng tình yêu mà họ thể hiện trong chính sự yếu hèn của họ. “Không có tình yêu nào trọng đại cho bằng dám chết cho bạn hữu”. Vì yêu, họ bỏ mình, vác thập giá theo Thầy của họ. Đối với các ngài, tình yêu là chóp đỉnh của cuộc sống. Như thánh Phaolô, không gì có thể làm cho họ nao núng, không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô, dù khổ đau, gươm giáo…” “Tôi luôn vui mừng trong những gian lao khổ cực tôi chịu vì Chúa”.
Ông Tertulianô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống gieo người tín hữu”. Các thánh tử đạo tại Việt Nam chính là mầm giống hôm nay đã sinh hoa kết quả. Giữa mọi khó khăn, người tín hữu vẫn trung thành giữ vững đức tin, vẫn kiên trì sống yêu thương không hận thù, vẫn cố gắng đem đến cho xã hội mình sống “một nền văn minh của tình thương”, như thánh Gioan -Phaolô đã nói.
Hôm nay, chúng ta vẫn luôn đương đầu với những khó khăn để sống đức tin, để trung thành với Chúa. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người…” Cuộc tử đạo của chúng ta không đổ máu, nhưng cũng không kém cam go. Cuộc tử đạo của chúng ta cũng như các ngài là một cái chết hằng ngày trong tin yêu. “Bỏ mình vác thập giá và theo Ngài”. Tử đạo theo nguyên ngữ Hy Lạp là làm chứng. Đời sống của mỗi người chúng ta phải là một bằng chứng cho sự thánh thiện và tình yêu của Thiên Chúa giữa thế gian. Người tín hữu, dù ở đâu, mọi thời, mọi lúc phải là bằng chứng cho Chúa của mình bằng một đời sống ngay chính và yêu thương. Các thánh tử đạo đã được vinh dự đổ máu vì Chúa, chúng ta không được vinh dự đó, nhưng cuộc sống chính là môi trường để chúng ta chứng tỏ tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu. Sống tốt trong một thế giới đầy gian ác và thù hận không là một việc dễ dàng. Từ chối tội lỗi, từ chối tất cả những gì làm nhơ nhuốc lương tâm cũng là một điều không mấy người làm được. Đó là cuộc tử đạo của chúng ta hôm nay.
Chúa Giêsu, vị tử đạo thần linh của chúng ta biết chúng ta phải cực khổ như thế nào để trung thành với Ngài. Ngài không bỏ rơi chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài đã dùng tấm bánh tình yêu là chính thân thể Ngài để làm của ăn nuôi dưỡng chúng ta trên con đường về quê thật, củng cố niềm tin của chúng ta, giúp chúng ta biết yêu thương một cách vẹn toàn hơn. “Không có Thầy, anh em không thể làm việc gì”. Chúng ta cần được nuôi dưỡng bằng tấm bánh Tình Yêu để sống trong tình yêu, gắn bó với Ngài đến cùng. Hãy ăn lấy Ngài để cho Ngài tiếp nối công trình cứu chuộc của Ngài trong mỗi người chúng ta, cho đến tận thế.

27. Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Gioan Trần Mạnh Duyệt – Roma 20/11/2021)
Kính thưa quý Cha, quý Sơ, quý ACE rất thân mến,
Thật là cơ hội vàng cho con, được chia sẻ với ACE những tâm tình ý nghĩ sâu đậm nhất của con, để cùng chung lời tôn kính các Thánh Tử Đạo VN, cha ông trân quý của chúng ta trong Đức Tin.
Nhờ giáo lý, chúng ta biết rõ, tôn kính các Thánh trong phụng vụ không phải là suy tôn các ngài cho chính các ngài, mà là tôn vinh Thiên Chúa qua các ngài: nêu gương sống Đức Tin của các ngài, để bắt chước và, với lòng kính mến biết ơn, cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay trước mặt Thiên Chúa, vì các ngài đã chắc chắn đạt được vinh phúc Chúa hứa ban và sự chuyển cầu của các ngài thật là quý giá.
Con sô 117 Thánh gồm gói mọi thành phần Giáo Hội: giám mục, linh mục, tu sĩ, thầy giảng, chủng sinh, giáo dân, cách riêng, một phụ nữ (Anê Lê Thị Thành), đại diện cho thành phần tối quan trọng trong gia đình và cộng đoàn.
Chúng ta đã nghe, đã đọc nhiều về các Thánh TĐVN, nhưng chắc chưa có ai đã am tường từng vị trong danh sách 117 đấng được phong thánh đó, nhất là những vị của miền đất khác, thuộc giáo phận khác. Cuốn tập nhỏ “Danh Sách 117 Thánh TĐVN” mà con đã hân hạnh hiến tặng (ai chưa lấy, con xin trao tiếp sau Thánh Lễ): danh sách đó sẽ có thể cung cấp dồi dào các chi tiết đặc điểm của từng vị. Ngoài các vị là quan triều đình như Hồ Đình Hy, Tống Viết Bường, các chức sắc trong làng, các giám mục, rất nhiều linh mục, thừa sai, tu sĩ, còn có các cha già yếu (Cha Vũ Bá Loan 84 tuổi), nhiều thày giảng, chủng sinh (Trần Văn Thiện 18 tuổi, trẻ nhất), nhiều giáo dân thường, lính tráng và – chắc ít người biết – cả một tướng cướp (Phaolô Trần Văn Hạnh, quê Tân Triều, Giáo Phận Xuân Lộc). Hay lắm, xin đừng bỏ sót.
Sách Khôn Ngoan viết: “Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa” (Kn 3,6). Các Thánh của chúng ta hằng chịu gông cùm, xiềng xích, tù ngục, tra tấn với những trận đòn om xương, nát thịt, máu me vọt ra đầm đìa (Hãy đọc thư Thánh Lê Bảo Tịnh trong bài đọc 2 kinh sách ngày 24/11 thì rõ). Mục đích kẻ bách đạo (Cf Mt 10, 17-22) không phải là giết chết ngay, nhưng là để tín hữu kiệt lực, thối chí sờn lòng mà ưng thuận bỏ đạo. Rồi sau thời gian dài thử thách, nếu chưa chết rũ tù, thì thi hành án tử, bằng thể loại mà chỉ nghe, ta đã ớn người: xử giảo (giây thắt vào cổ, rồi 2 người kéo 2 đầu giây, ghìm chặt cho tới khi nạn nhân hoàn toàn tắt thở), trảm quyết (chặt cổ mấy nhát cho tới khi đầu đứt rơi xuống đất), thiêu sống (nướng chín với lửa hồng), bá đao (cắt trăm miếng thịt khắp thân thể), lăng trì (phân thây ra nhiều khúc) và treo đầu mấy ngày, xong nghiền nát toàn thịt xương và cho vào lòng đại bác bắn tung ra biển…
Các ngài đã trung kiên làm chứng cho Đức Tin vững vàng vào Chúa như thế, thì Chúa đáp lại “chấp nhận như của lễ toàn thiêu” (Kn 3,6) và “được vinh dự lớn lao” (Kn 3,5).
Quả quyết điều này là chúng ta nói không chỉ theo Đức Tin vào Lời Chúa, mà cũng theo cảm nghiệm cụ thể do nhiều dấu lạ hiển nhiên. Nhưng Giáo Hội vẫn hết sức cẩn thận để lòng tin đó không thể sai lầm: nó phải hóa ra như “tín điều” nhỏ, điều hằng diễn ra trong quá trình làm án phong thánh, mà quả thật là rất khó khăn và lâu dài. Cái khó khăn hơn hết ở đây là phải có ít là 1 phép lạ được công nhận.
Với các Thánh của chúng ta, tuy được kể lại, có nhiều dấu lạ, nhưng chưa có “phép lạ” (trong ngoặc kép) theo đúng giáo luật. Dù vậy vẫn đã được tuyên thánh ngày 19/6/1988, nhờ Đưc Thánh GH Gioan Phaolo II chuẩn luật: đó hóa ra cuối cùng phải được kể là phép lạ.
Con xin nói ít lời về việc này và vài chi tiết liên quan đến Đại Lễ Phong Thánh để thấy rõ sự quan phòng kỳ diều của Chúa cho các Thánh chúng ta.
Con số 117 vị TĐVN là gom lại 4 nhóm đã được tuyên phong chân phước vào những năm 1900 (64 vị thuộc cả MEP và OP), năm 1906 (8 vị OP), năm 1909 (20 vị MEP) và năm 1951 (25 vị OP).
Sau khi đã là Chân Phước thì ai cũng mong muốn sớm thành Hiển Thánh. Nhưng phải đợi nhiều năm sau, mãi tới 1979, khi Đức TGM Hà Nội Trịnh Văn Căn, Chủ Tịch HĐGMVN được sang Roma lĩnh mũ hồng y, kế hoạch xin phong thánh mới được khởi sự. Ngài xin ĐÔ Bernard Jacqueline, người Pháp, đang làm Thừa Tác Viên (Minutante) cho VN tại Bộ Truyền Giáo đứng làm Cáo Thỉnh Viên (Postulatore). Nhưng vị này thưa không biết gì nhiều về các Chân Phước VN, tuy rất quý mến miền truyền giáo mà ĐC Lambert de la Motte vị đồng hương với ngài đã là Phủ Doãn Tông Tòa đầu tiên và nay ngài được vinh dự phục vụ tại Roma. ĐHY Căn liền chỉ tên con, cho làm Phó của ngài, để cung cấp những chi tiết cần thiết. Hồi đó con đang nghiên cứu về lịch sử GHVN, và với nhiều cố gắng đã tìm ra được đủ 117 Đấng cùng với tài liệu rõ ràng, gồm gói trong 4 nhóm chân phước nói trên.
Cũng vào thời đó, Bộ Phong Thánh ra luật mới, khẳng định phải có 2 hoặc ít là 1 phép lạ. Thế là phải lo việc cổ võ trong dân, mà cả một con số lớn như vậy thì khó khả thi, nên ĐÔ bảo con chọn một nhóm nhỏ thôi, đại biểu cho mỗi tầng lớp thành phần, những vị danh tiếng và quan trọng hơn. Cố làm cho xong, con chờ đợi dịp may hiếm có, gửi kết quả công việc về ĐHY Căn, xin ngài chuẩn y. Nhưng ngài bác bỏ hoàn toàn, chủ trương phải xin cho được cả 117 vị, và phép lạ nhãn tiền là: NHỜ CÁC NGÀI MÀ ĐÃ CÓ ĐƯỢC GHVN NGÀY NAY.
Không lâu sau đó, 1982 ĐÔ Jacqueline được thăng chức Giám Mục, rời Roma đi làm Khâm Sứ tại Phi Châu (Burundi), nên công việc gián đoạn cho tới 1985, khi ĐHY Căn trở lại viếng Tòa Thánh nữa. Nhân dịp này, con đã xin ngài đặt ĐÔ Trần Ngọc Thụ, đang phục vụ tại Phủ Quốc Vụ Khanh Vatican thay chân ĐÔ Jacqueline làm tiếp Postulatore. Không ngờ vụ việc này trở nên quá tốt. ĐÔ Thụ vui vẻ nhận lãnh công tác, hoàn toàn gratis (miễn phí), với ý thức tự lo mọi chuyện, không thể cậy nhờ gì nhiều nơi ĐHY ở VN, nhất là không có đồng tiền quỹ nào. Thật may là 1988 ngài được làm Bí Thư Riêng của Đức Gioan Phaolo II, nên nhiều giao tiếp cấp cao trong Giáo Hội thành khá dễ dàng. Chuyện căn bản vẫn là chuyện phép lạ. Vậy, đồng lòng với ĐHY VN rằng: GHVN phát triển không ngừng trong bao bách hại, được tới trên 6,7 triệu (1980), i.e. 7% dân số, với tổ chức quy củ tốt đẹp thế này: đúng là phép lạ lớn nhãn tiền. Và kết quả đó là đúng như câu viết thời danh của Giáo Phụ Tertulliano (Apol. 50,13): “Sanguis martyrum, semen christianorum” (Máu các vị tử đạo là hạt giống các tín hữu Kitô). Các GH Pháp, Tây Ban Nha và Phi Luật Tân đã từng gửi thừa sai tới VN cũng đồng ý như thế, nên 4 HĐGM cùng với Hội Thừa Sai Paris (MEP) và Dòng Đaminh (OP), sau lời yêu cầu của ĐÔ Thụ, đã riêng rẽ viết thư thỉnh cầu ĐGH phong thánh cho 117 vị anh hùng của chúng ta mà không cần đắn đo do dự.
Thế là Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vốn rất thương mến VN đã ưu ái nhận lời, cho tiến hành ngay việc phong thánh, không đòi hỏi phép lạ nào hơn.
Một khó khăn khác là vấn đề tài chính. Như đã nói trên, từ đất nước VN hồi đó không thể mong chờ gì; nhưng vì có sự cộng tác tích cực của 3 giáo hội, nơi đều có các vị tử đạo trong nhóm, nên kinh phí cuộc đại lễ được chia 3: Pháp 1/3, Tây Ban Nha 1/3 và VN 1/3. Đối với nố 1/3 của VN này cũng còn rất khó, nhưng được giải quyết cách rất thần kỳ. Ta hãy nghe chuyện kể của chính ĐÔ Thụ.
Ngài vào Ngân Hàng Vatican (IOR) vay tiền. Nơi đó, ĐÔ của Vatican, Mons. Donato De Bonis thấy món tiền lớn quá thì báo động về tiền lời sẽ phải trả rất nhiều. Nhưng sau khi biết tiền được liều vay cho vụ phong thánh thì ĐÔ De Bonis đã tặng cho tất cả (Cf. Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, Tủ Sách Hoàng Sa 2018, tr.206).
Rồi bức họa 117 Thánh TĐVN (4m x 3,2m) do họa sĩ Gordon Faggetter vẽ, để chăng tại mặt tiền Đền Thánh Phêrô ngày phong thánh, thực hiện trong hơn 1 năm trời, tiêu tốn rất nhiều tiền. May nhờ các nhóm hành hương, đặc biệt từ Mỹ và Pháp đóng góp giúp cho; rồi sau ngày phong thánh, đoàn hành hương đông đảo từ Vizcaya (TBN) dâng một món tiền lớn để được lĩnh bức họa đem về giữ trưng bày tại quê hương thánh GM Berrio Ochoa (Vinh) của họ. Vậy là giải quyết thanh toán xong về bức vẽ. Thế mà khi chết, năm 2002, trương mục ngân hàng của ĐÔ Thụ không còn lại một xu.
Rồi nữa cũng nên nói ở đây: Nhà Nước XHCNVN thời đó đối nghịch việc phong thánh cách mãnh liệt, nên đã tuyên truyền khắp nơi trong nước, chống việc phong thánh này. Điều hay bất ngờ là làm thế, họ quảng bá về các Thánh TĐ giúp mình, mà mình không phải tốn đồng nào cho một công chuyện to lớn như vậy.
Cuối cùng , ngày vinh quang 19/6/1988 đã diễn ra hết sức vĩ đại, long trọng, tốt đẹp và tràn ngập niềm vui tại quảng trường Thánh Phêrô Roma với Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chủ tọa, bao quanh bởi 20 Hồng Y, 40 Giám Mục và 560 linh mục tu sĩ. Hiện diện trong đại lễ thấy có các đại diện Ngoại Giao Đoàn bên cạnh Tòa Thánh và đại đoàn hơn 30.000 tín hữu: trong số này 15.000 người Việt đến từ 25 quốc gia, 10.000 người Tây Ban Nha và 5.000 người Pháp. Lưu ý rằng trong số 117 Thánh Tử Đạo được tuyên dương hôm nay, có 11 vị là Thừa Sai Tây Ban Nha, 10 vị là Thừa Sai Pháp và 96 vị là con dân Nước Việt (Cf. Kỷ Yếu Phong Thánh Tử Đạo Việt Nam, Vaticano 1989, tr. 81).
Kết luận – Nhìn vào 117 Thánh TĐVN chúng ta thấy rõ ứng nghiệm lời Sách Khôn Ngoan: “Các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau” (Kn 3,7) và “các ngài sẽ được vinh dự lớn lao” (Kn 3,5).
Ước gì chúng ta thêm ý thức, được thêm lòng sùng mộ Các Thánh Tổ Tiên ấy cùng góp phần quảng bá sâu rộng trong xã hội ngày nay và mãi mãi tới thế hệ sau này. Làm vậy cũng là tuyên xưng lời Chúa trong Thánh Vịnh 115: “Đối với Chúa thật là đắt giá, cái chết của những ai trung hiếu với Người” (Tv 115,15).
Đúng là ứng nghiệm hoàn toàn Lời Chúa Giêsu tuyên bố long trọng trong 8 Mối Phúc: “Phúc cho anh em khi vì Thày mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12) . Amen.

28. Các thánh tử đạo Việt Nam
(Suy niệm Ga 17, 11b-19 của Lm. Trầm Phúc)
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay là một đoạn ngắn trong lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau bữa Tiệc Ly, trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn.
Đọc lại những lời này, chúng ta cảm nghiệm được mối liên hệ sâu xa giữa Chúa Giêsu với Cha Ngài. Chúng ta cũng cảm nghiệm được mối tình đầy ắp giữa Chúa Cha và Chúa Con, khi Ngài đang là người giữa chúng ta. Ngài đưa chúng ta vào giữa tình yêu của Ngài với Chúa Cha. Ngài cho thấy sự sống đầy yêu thương giữa Chúa Cha và Ngài. Tình yêu đã làm cho Ngài và Chúa Cha nên một, và Ngài muốn chúng ta nên một như thế.
Định luật tình yêu chân thật là như thế.
Ước nguyện của Ngài là chúng ta không những được nên một với nhau mà nên một với Chúa Cha. Vì thế, sống hay chết, chúng ta vẫn hiệp thông với Chúa Cha và với nhau.
Các thánh tử đạo là những người đã đạt tới đỉnh cao của tình yêu. Dù thử thách, gian nan hay nhục hình, các ngài vẫn trọn tình với Chúa.
Tử đạo là chết vì yêu, là nên một với Đấng mình yêu trọn vẹn. Các thánh tử đạo đã thực hiện trọn vẹn lời của thánh Phaolô: “Ai có thể tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?… Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu sự sống hay sự chết…bất cứ một thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Vì thế không có thánh tử đạo nào tỏ ra buồn bã hay chán nản, mà ngược lại, hiên ngang và vui tươi. Cái chết đối với các ngài không phải là một mất mát mà là vinh quang. Các ngài đã nên một với Chúa từ đời này, trong ngục tù, trong khổ nhục và họ chỉ mong được nên một với Chúa của họ trong vinh quang. Vì thế, cái chết chỉ là một cuộc vượt qua.
Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các môn đệ và Ngài đã gìn giữ họ trong tình yêu của Ngài, không để cho ai bị hư mất trừ người đã tự mình chọn lấy sự hư mất.
Cái chết đối với họ cũng là dấu chỉ của tình yêu. Họ sẵn sàng chấp nhận nó trong niềm vui. Đây là điều gây ngạc nhiên cho những người không tin. Tại sao đứng trước khổ hình và cái chết, họ luôn hiên ngang và vui tươi như thế? Họ đi vào cái chết như đi vào một tiệc vui. Làm sao hiểu được niềm vui trong lòng cô dâu và chú rể trong ngày thành hôn?
Phải yêu thực sự mới hiểu được niềm vui của các thánh tử đạo.
Chính Chúa Giêsu là niềm vui bất diệt của các ngài. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ: “Bây giờ Con đến cùng Cha và Con nói lên những điều này lúc Con còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của Con.” Chúng ta hiểu tại sao cái chết trở nên nhẹ nhàng như thế. Thế gian tưởng họ là những người điên khùng hay cuồng tín. Đối với thế gian, cái chết của họ thật vô lý. Thế gian đâu hiểu được rằng cuộc sống trong trần gian, nếu không có cuộc sống hạnh phúc mai sau, thì mới thực sự là vô nghĩa.
Hơn nữa, người Công giáo có một mối tình sâu đậm và quí báu đến nỗi không bao giờ họ đổi với một cái gì khác, và đối với họ “không có tình yêu nào cao đẹp cho bằng chết cho bạn hữu”. Và họ dám chết cho người yêu duy nhất của họ là Chúa Giêsu. Vì thế họ xem cái chết như một cử chỉ yêu thương tuyệt hảo, cũng như Ngài đã chết cho họ vì yêu thương. Qua khuôn mặt của các ngài, chúng ta nhìn thấy một khuôn mặt khác không thể tả là khuôn mặt của Đấng là Tình Yêu.
Tại sao thế gian khai trừ họ?
Chúa Giêsu nói: “Con đã truyền cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian…” Tại sao họ phải chết? Vì họ không thuộc về thế gian. Họ chính là một cái gai trước mặt thế gian, nếp sống của họ, Thiên Chúa của họ là một lời tố cáo thế gian. Họ sống trong thế gian, như mọi người, cũng lao động để kiếm sống như mọi người, nhưng họ không thuộc về thế gian. Vì họ không chỉ xây dựng một thế giới vật chất mà thôi. Họ sống cho một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa là tất cả. Đối với họ, thế gian chỉ là phương tiện để đạt đến một cuộc sống hạnh phúc vững bền chứ không tạm bợ. Cuộc sống đó chính là Thiên Chúa. Vì thế, họ đã chọn từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống: “Ai không bỏ mình vác thập giá mà theo Ta…”
Họ cũng là những con người yếu đuối, mong manh, cũng ham sống, cũng thích cuộc sống vật chất, nhưng khi cần, họ cũng dám liều mạng, vì họ muốn đáp lại tình yêu của Đấng đã chết và sống lại cho họ và ban cho họ cuộc sống mới mà thế gian không thể hiểu được. Tình yêu đó chính là sức mạnh khiến họ có đủ can đảm chấp nhận tù tội, nhục hình và cái chết đau đớn. Có lẽ giờ này trong vinh quang, các ngài nhìn lại, chắc các ngài cũng ngạc nhiên tại sao mình có thể chịu đựng được những hình khổ như vậy. Vì thật ra ai cũng biết đau đớn, biết buồn sầu lo lắng, nhưng trong lúc đau đớn như thế, có một sức mạnh nào đó đã yểm trợ họ, trong sự yếu đuối mỏng giòn của họ. Họ đã được thánh hiến trong đau khổ như Chúa Giêsu đã được thánh hiến. Thánh hiến tức là hoàn toàn thuộc về Chúa Cha, hoàn toàn phó thác trong tình yêu.
Trong cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta, Chúa đang chờ đợi chúng ta tử đạo. Tử đạo hôm nay, ngay trong cuộc sống này, đó là yêu thương đến tận cùng. Yêu mến Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như Thầy đã yêu.
Cuộc sống không thương xót chúng ta đâu! Thế gian cũng không nương tay đối với chúng ta đâu! Phải can đảm dấn thân trong cuộc sống hằng ngày và can đảm vượt lên trên tất cả để trở thành những vị anh hùng tử đạo. Chúng ta được gọi trở nên anh hùng. Sống tốt giữa một thế giới đầy gian ác là một cuộc tử đạo đau đớn chứ không dễ dàng. Yêu thương giữa hận thù tranh chấp cũng là một nếp sống anh hùng. Chúa đang mong chờ những chiến sĩ can đảm như thế. Chúa đang chờ đợi những chứng nhân đáng tin cậy trong một thế giới mà Ngài trở thành cớ vấp phạm.
Chúa Giêsu không xin Cha đem chúng ta ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin cho chúng ta khỏi ác thần mà thôi. Phải, chúng ta luôn chiến đấu không phải với con người có xác như chúng ta mà là với thần linh, như thánh Phaolô đã nói. Chỉ xin cho chúng ta can đảm đến cùng, làm chứng nhân đến cùng mà thôi. Chúng ta được nuôi dưỡng bằng một thứ của ăn mà thế gian không bao giờ biết, đó là thịt máu Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta và đã đi trước chúng ta trong một cuộc tử đạo ghê gớm nhất. Nhưng Ngài vẫn bảo chúng ta: “Chúng con hãy vững tin, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng thế gian bằng một thứ vũ khí mà thế gian cũng không thể hình dung được: đó là Tình yêu không sứt mẻ hao mòn, tình yêu luôn tự hiến. Chúng ta chỉ có thể thắng thế gian bằng thứ vũ khí đó mà thôi. Thắng thế gian bằng cái chết tin yêu.

29. Sống và sống dồi dào
Anh chị em thân mến,
Hồi còn nhỏ, lúc học Tiểu học, được đọc truyện các thánh, nhất là các Thánh Tử đạo, biết gương can đảm của các ngài, dám liều mình chịu chết, hi sinh cả mạng sống, tôi rất kính phục. Từ sự kính phục đó, nhìn lại con người của mình, cảm thấy mình hèn kém quá, tôi có ý nghĩ này: Các thánh đáng phục, đáng kính đó, nhưng rõ ràng họ cao cả quá, chắc chắn là mình không làm sao theo nổi, không làm sao bắt chước các ngài được. Vậy là người có đạo, người tin Chúa, mình phải sống làm sao đây? Tôi đã chọn giải pháp trung dung, thôi thì cũng ráng sống tốt, cũng ráng nên thánh, nhưng vừa vừa thôi, để được lên thiên đàng là đủ rồi. Chắc ăn lắm! Đó là nên thánh nửa vời. Mải đến chừng đi chủng viện, qua học thần học, tín lý, tôi mới hiểu câu nói của một vị thánh: không có tình trạng nên thánh nửa vời. Đọc qua lịch sử của các thánh Tử đạo VN, ta sẽ thấy rõ điều đó. Hôm nay mừng kính trọng thể các Thánh Tử đạo VN. Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Những nhà truyền giáo đặt chân lên đất nước VN, lối đầu thế kỷ 17 (1638). Vậy mà trong khoảng non 300 năm đầu, lịch sử của Hội thánh VN là một cuộc Tử đạo liên miên kéo dài. Đây là lịch sử của trên 100.000 anh hùng tử đạo, tuy chỉ được tôn phong vẻ vang trên bàn thờ có 117 vị. Đây cũng chính là lịch sử Giáo hội VN được ghi bằng những trang sử oai hùng, được tô điểm những nét vàng son, chói lọi về những cái chết anh hùng của bậc tiền nhân. Chính lời của Chúa Giêsu là sức sống, là niềm tin của họ, nhờ đó họ mới có thể vượt qua được cái chết thường tình: “anh em đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn…” Họ đã lãnh triều thiên tử đạo vì các lẽ như sau:
Cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước: Chúa nói: “anh em sẽ bị nộp;bị đánh đập trong hội đường, vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người ghen ghét.” (Mt 10,18.22). “Tôi tớ không hơn chủ; nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (Gn 15, 20). Ở tại bến cảng Đà Nẵng có một cây thánh giá thật to, rất lâu đời. Không rõ thánh giá này đuợc dựng nên từ đời nào, nhưng rõ ràng nó chính là biểu tượng của người kitô hữu VN. Một vị thừa sai thời Pháp, nhìn cây thánh giá nói: “đất nước này rồi sẽ lắm đau thương.” Đúng vậy! Hội thánh VN đã dựng tượng thánh giá, ở khắp mọi nơi, trước hết qua các thánh tử đạo, đã rải dài từ Bắc xuống Nam; nơi đâu có máu của các ngài đổ xuống là nơi đó thánh giá mọc lên; mọc lên hữu hình không chỉ trong các nhà thờ, tại tư gia, hay trên cổ trên áo, mà nhất là trong tâm hồn của mọi kitô hữu. Họ tôn thờ thánh giá không phải vì cuồng tín, mà vì chính Thầy của mình đã đi qua con đường đó và họ cũng phải đi qua như Thầy mình vậy. Vì thế cái chết của họ đã được báo trước; nhưng họ vẫn thanh thản vui lòng chấp nhận như Thầy mình.
Các ngài đã bền chí, trung kiên trong niềm tin, trong yêu mến: Đừng nói các thánh tử đạo muốn chết, mà không ham sống. Sự sống là quà tặng quí giá mà Thiên Chúa ban cho họ. Họ vẫn ý thức rằng: được sống là một hồng ân cao cả, vì họ cũng là người VN, da vàng máu đỏ như ta. Tuy nhiên, điều hệ trọng của họ chính là phải sống thế nào cho ra kiếp người: câu trả lời của họ, đó chính là sống trong tin yêu và trong tự do. Các ngài đã chọn lựa sống tự do, trong tình yêu chung thủy với Thiên Chúa và anh em; nhưng vua quan lại muốn tách họ ra khỏi Thiên Chúa bằng vũ lực, bằng hình khổ và cả mạng sống của họ nữa. Dù vậy, họ vẫn ý thức Lời Thầy mình nói: “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào có ích gì..” Họ liều mạng sống đời này, không phải vì cuồng tín, nhưng vì tin vào Chúa Thiên Chúa, Đấng luôn tín trung, không hề lừa dối ai bao giờ….
Bà thánh Inê Đê, thánh nữ tử đạo duy nhất được tôn phong của Hội thánh VN, vì giúp đở, che giấu các vị truyền giáo trong nhà mình tại Phúc Nhạc, mà bà bị bắt, bị tra tấn đánh đập nhiều lần; bà bị kiệt sức và chết trong tù ngày 12. 07. 1841. Lúc trong tù, con cái vào thăm mẹ; chúng thấy áo quần bà đầy vết máu, chúng òa khóc lên. Bà Inê Đê cười, nói: “các con đừng khóc, mẹ đang mặc áo hoa hồng đây”. Nói được câu này, đủ minh chứng bà thánh Đê, đầy ơn Chúa, nên mới can đảm, trung kiên tới cùng như thế…
Lấy máu mình để làm chứng: Khi ta bị đứt tay, trặc chân, lỗ đầu, sứt trán, ta còn cảm thấy đau; chưa kịp uống thuốc giảm đau, ta đã la inh ỏi. Vậy màThánh Tử đạo Marchand Du, bị xử bá đao, nghĩa là bị lóc thịt đủ một trăm miếng. Đầu tiên họ lóc da đầu của ngài kéo ra phía trước để che mặt, rồi tiếp tục chổ khác. Vậy mà nghe nói thánh nhân không rên la; tuy nhiên lóc chưa đủ số, thì ngài đã chết rồi.
Ông bà mình nói: máu chảy ruột mềm, có nghĩa là lúc bị hoạn nạn tâm trạng con người dễ xiêu lòng, thay đổi. Các thánh tử đạo VN cũng là người như ta, cũng da vàng máu đỏ, nhưng sở dĩ các ngài chịu được những tra tấn, chặt đầu, lóc thịt chính vì để minh chứng cho Một Con người: đó là Đức Kitô. Chính vì các ngài tin vào thế giá của Đức Kitô, tin rằng Ngài không bao giờ dối gạt họ, tin vào tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, tin rằng sau cái chết đời này còn một cuộc sống vĩnh cữu đáng quí hơn nhiều, đáng đổi lấy hơn sự sống đời này, tin rằng họ hoàn toàn không ảo tưởng, vì chính Đức Kitô cũng đã chết cho họ, để họ cũng được sống lại với Ngài. Rõ ràng họ không chết cho một lý tưởng, mà là chết cho một con người, đó là Đức Kitô, chết cho Hội thánh Chúa.
b/. Gợi ý sống và chia sẻ: Hôm nay chúng con xin dâng lên các thánh TĐ.VN hai nén hương: một nén là để ca tụng, thán phục các ngài, những tấm guơng sáng chói đời đời cho hậu thế soi chung. Một nén khác: để khẩn cầu các ngài phù trợ chúng con nhiều ơn Chúa, trên đường trần gian hôm nay, đầy cạm bẩy, đầy trắc trở, giúp chúng con vượt qua mọi thử thách trên đời, hầu như không thể vượt qua. Amen.

30. Sống chứng nhân.
Truyền thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục, các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu. Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn cảnh.
Chẳng hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư, đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ, sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin, bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.

31. “Thà chết vinh còn hơn sống nhục”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Từ ngày tổ tông loài người thoả hiệp với ma qủy quay lưng lại với Thiên Chúa, ma qủy thường dùng chiêu thức này để kiếm thêm đồng minh chống lại Thiên Chúa. Trong vườn địa đàng nó đã nói cùng Adam – Eva: “cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Ông bà đã ăn. Ông bà đã bắt tay cùng satan để chống lại Thiên Chúa. Con cháu Adam từ đời này đến đời nọ vẫn còn vô số người vì sự an nhàn bản thân, vì mong tìm kiếm lợi lộc, tìm hư danh trần thế, họ vẫn bằng lòng quay lưng lại với Thiên Chúa để làm tôi cho ma qủy, để tận hưởng khoái lạc mau qua trần gian.
Và cũng từ ngày Con Thiên Chúa từ chối thoả hiệp với sa tan, các môn đệ của Chúa trải qua bao thời đại vẫn còn đó những tấm gương quả cảm, anh dũng can trường từ chối thoả hiệp với sa tan. Họ thà nghèo đói để được bình an tâm hồn hơn là kiếm tiền bằng việc phi nhân thất đức mà lòng chẳng chút bình an. Họ chấp nhận vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời vua chúa trần gian, cho dù phải tù đầy, gian truân khốn khó. Họ chấp nhận đánh mất mùa xuân hạn hẹp trần gian để đổi lấy mùa xuân bất diệt thiên đàng.
Hôm nay chúng ta mừng kính 117 thánh tử đạo Việt Nam, là con số tượng trưng cho hơn 130 ngàn vị tiền nhân đã chết trong các đợt cấm đạo tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Họ đã chết không phải vì chống lại triều đình. Họ đã chết không phải vì lỗi công bình bác ái với tha nhân. Họ đã chết vì không chịu thoả hiệp với thế gian. Giữa sự sống và sự chết chỉ cách nhau một lằn ranh. Lằn ranh đó chính là cây thập giá. Bước qua thì được thoát khỏi cực hình trần gian. Bước qua thì được trở về với vợ con, với xóm làng, với chức tước vua ban và bổng lột trần gian, nhưng các thánh tử đạo Việt Nam đã không vì thế mà chối Chúa, bỏ đạo. Không thể vì ham sống sợ chết mà phải chà đạp lên thập giá là bỏ cơ hội sống đời đời để đổi lấy cuộc sống lây lất tạm thời trần gian. Các ngài thà chịu đòn roi, thà chịu án tử hình để trung kiên theo Chúa, để lãnh phúc triều thiên vinh quang bất diệt trên quê trời còn hơn là làm tôi mọi cho ma qủy. Như trường hợp ông đội Bường đã thẳng thắn trả lời với quan quân: “Bên đạo chúng tôi ai chết trẻ là đi đường tắt, ai chết già là đi đường trường. Song đàng nào cũng tới quê thật là nước thiên đàng vậy”. Thế nên, thánh nhân đã khuyên nhủ các đồng đạo rằng: “Chúng ta hãy vui lòng chịu mọi sự khốn khó để giữ nghĩa cùng Chúa cho đến khi nào thánh ý Chúa định thể khác. Nếu quan có hành hạ thì hãy can đảm chịu đựng. Hễ xác chết rồi thì hồn chúng ta bay thẳng về trời, không sợ gì roi đòn. Chịu sự khó như vậy là vác thánh giá theo Chúa Giêsu. Nếu có đau đớn quá thì hãy xin #ức Mẹ phù trợ cho được bền lòng đến cùng”.
Đọc lại tiểu sử các thánh tử đạo Việt nam chúng ta thấy có vô số lời dụ dỗ thật ngọt ngào. Tại Hà Tĩnh, các quan cho gọi những người đứng đầu các họ đạo Công Giáo đến và vẽ hình chữ thập xuống đất rồi bảo họ: “Chúng tôi chẳng muốn bắt ép quí vị điều gì trái nghịch với đạo. Chúng tôi biết đây không phải là thánh giá mà quí vị tôn thờ. Vậy hãy bước qua để chúng tôi có thể trình lại với vua là chúng tôi đã thi hành lệnh, nếu không chúng tôi mắc lỗi trước mặt vua”. Riêng tại Nghệ An, ông quan tỉnh đã nói với người công giáo: “Các ông thật dại dột để mình phải khổ sở. Làm sao chống lại được với lệnh vua? Đạo ở trong lòng chứ đâu có ở bên ngoài. Tạm chối đi, rồi hai ba tháng sau theo trở lại. Hãy xem thánh Phêrô đã chối đạo ba lần mà vẫn còn được cất nhắc lên cao”.
Song le, có nhiều phản ứng khác nhau.Có kẻ giả vờ bước qua để sống an nhàn. Có kẻ đã thản nhiên bước qua vì gia đình và dòng họ còn cần đến mình. Nhưng vẫn còn đó nhiều người không chịu bước qua dù chỉ là giả vờ, dù chỉ là tạm thời bỏ đạo rồi khi sóng gió đi qua lại quay lại với Thiên Chúa. Họ đã vui lòng đón nhận mọi khốn khó để nói lên lòng trung thành với đức tin vào Chúa.
Riêng cha Anrê Dũng Lạc, dù rằng quan quân mở lối thoát bằng việc cho giáo dân đem tiền chuộc Ngài nhưng ngài vẫn cương quyết chối từ. Các giáo dân đã tới trại giam khuyên nhủ cha rằng: “Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại”. Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì. Tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì xin anh em đừng chuộc tôi nữa”.
Là con cháu các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta luôn tự hào vì có các vị tiền nhân đã quả cảm để sống niềm tin, nhưng liệu rằng chúng ta hôm nay còn mấy ai dám khước từ những thoả hiệp trần gian để trung kiên với đức tin của cha ông để lại? Vẫn còn đó những con người vì chút bổng lộc trần gian đã bỏ đạo, đã chống đối đạo. Vẫn còn đó những con người vì miếng cơm manh áo, vì tương lai của con cái đã chẳng giữ đạo hay theo đạo một cách hời hợt. Có cũng như không. Vẫn còn đó những con người vì tiền mà bán mình, bán con để kiếm đồng đola bất chính. Họ thà rằng lỗi luật Chúa còn hơn là bỏ lỡ cơ hội lấy tiền, lấy bạc. Họ thà rằng mắt mặt với bà con xóm làng còn hơn là mất túi ba gang mà “quạ đen ban tặng”. Vẫn còn đó những con người bỏ Chúa chứ không bỏ tiền, bỏ Chúa chứ không bỏ tình, bỏ giáo hội chứ không bỏ danh vọng trần gian.
Lạy các thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông của chúng con, xưa các ngài đã dùng máu đào để bảo vệ đức tin xin gìn giữ chúng con luôn trung kiên theo Chúa, dám khước từ danh lợi thú trần gian để nên chứng nhân cho Nước Trời trong cuộc sống hôm nay.

32. Truyền đạo
Người Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương tiện truyền giáo.
Cũng có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến. Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca tụng tán dương.
Khi đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác, hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo. Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?

33. Làm chứng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể Các Thánh Tử Đạo Việt nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm. lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tực năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ là tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19-6-1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác dòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những giòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quý báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của giòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quý để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quý vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần Nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao…Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỷ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Ki-tô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. là Ki-tô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.

34. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
CHÚA THÁNH THẦN SẼ SOI SÁNG CHO BIẾT PHẢI NÓI GÌ
Suy niệm: Mt 10, 17-22
Qua những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái độ phải có khi đối diện với những bách hại này. “Đừng lo sợ phải nói gì và nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì”. Sự bách hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người đồ đệ như sau:
“Nếu thế gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy bảo: “Tôi tớ không trọng hơn chủ”. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn họ sẽ bắt bớ các con”.
Người đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã kêu gọi “đừng sợ” đến ba lần:
– “Các con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật luôn là sự thật”.
Trung thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả bằng chính mạng sống mình.
– Lần thứ hai Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được linh hồn”.
Lý do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
– Lần thứ ba Chúa Giêsu nhắc: “Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa chăm sóc cho hay sao”.
Đó là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
“Ai nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Thầy ở trên trời”. Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô qua mọi thời đại.
Lạy Chúa,
Xin giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con, để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.

35. Can đảm nói không với tội lỗi
(Suy niệm Lc 20, 27-38 của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong thời kỳ bách hại đạo Công giáo tại Việt Nam, một trong những thử thách mà các kitô hữu bị bắt bớ phải trải qua là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các kitô hữu bước qua. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình. Còn ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.
Nói không trước những lời dụ dỗ và thúc ép
Vậy mà các bậc cha ông tử đạo của chúng ta ngày trước đã can đảm khước từ tất cả những hứa hẹn hấp dẫn đó, và đã kiên quyết nói không: Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa, không từ bỏ niềm tin.
Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Nói không trước những cực hình dã man và khủng khiếp nhất
Để uy hiếp các kitô-hữu và ép buộc các ngài bỏ đạo, ngoài những lời thuyết phục và dụ dỗ, vua quan ngày xưa còn áp đặt những cực hình man rợ và hết sức khủng khiếp để uy hiếp các ngài: bắt mang gông cùm nặng nề, bị giam nhốt trong ngục tối với rắn rết, muỗi mòng ghê sợ, chịu thiêu đốt, chịu thắt cổ, chịu chém đầu, chịu phanh thây, chịu án lăng trì (tức bị chặt tay, chặt chân trước rồi mới chém đầu sau), và khủng khiếp hơn cả là án bá đao như quan quân đã bắt cha Marchand Du phải chịu: chịu xẻo từng miếng thịt theo tiếng trống, cho đủ trăm miếng rồi mới chém đầu, moi ruột moi gan…
Dù vậy, các thánh tử đạo đã kiên quyết nói không: không chối Chúa, không bỏ đạo cho dù phải đổ máu, phải chịu xẻ thịt phanh thây, phải hy sinh mạng sống mình.
Nói không với tội lỗi
Ngày hôm nay, không ai dùng bạo lực, dùng những cực hình man rợ bắt chúng ta bỏ đạo hay chối Chúa như các thánh tử đạo ngày xưa. Vì thế, chúng ta không cần nói không trước những hăm doạ, đòn vọt hay án chết như các ngài.
Nhưng chúng ta cũng phải đương đầu với những thách thức mới. Đó là những cám dỗ, những lôi cuốn của tội lỗi làm chúng ta đi trệch con đường của Chúa Giêsu, đi lạc ra khỏi đạo lý của Người.
Noi gương các anh hùng tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy can đảm nói không với các tệ nạn xã hội, với các thói hư tật xấu, với những lời quyến rũ của bạn bè xấu…
Muốn nâng lên được những tạ nặng, các lực sĩ cử tạ phải tập nâng những tạ nhẹ trước. Muốn giải được những bài toán khó, các học sinh phải tập làm những bài toán dễ trước. Những lực sĩ muốn nhảy thật cao thì trước tiên phải tập băng mình qua những mức thấp trước.
Tương tự như thế, để có thể nói không trước những cám dỗ lớn lao sẽ đến trong cuộc đời, trước những cái ác, cái xấu lôi kéo quyến rũ chúng ta nay mai, chúng ta phải tập nói không với các cám dỗ nho nhỏ xảy ra hằng ngày trước.
Nguyện xin các anh hùng tử đạo Việt Nam cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta luôn biết noi gương các ngài, anh dũng nói không với tội lỗi và các cơn cám dỗ, cho dù phải chịu mất mát thua thiệt trong cuộc sống đời nầy, để mai sau xứng đáng được lãnh vòng hoa chiến thắng và chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc.

36. Tử đạo hay sống đạo?
Nếu như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên toàn đế quốc La mã.
Nếu so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng, máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu.
Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó, tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất, như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hành động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo, bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ, chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn nhà sẽ bị sụp đổ.
Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho Chúa.
Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta.

37. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!

38. Những Đấng Bậc Anh Hùng
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.
Họ là ai?
Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục. Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay. Họ là những người “dường như” không sợ chết. Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Họ là ai? Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết? Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu? Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ? Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ? Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?
Không! Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng. Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu. Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc. Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm”. Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.
Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?
Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.
Ai không sợ chết? Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích? Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được. Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.
Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được. Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ. Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình. Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.
Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng
Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng. Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh”. Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.
Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v..Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình”, vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
(Nên hát “Đây bài ca ngàn trùng” trước khi chia sẻ)
1. “Ngày nay tử đạo không đổ máu”, bạn hiểu sao về câu này?
2. Với bạn, đâu là khó khăn nhất của đời sống kitô-hữu (đòi bạn phải hy sinh)?
3. Bạn biết gì về các thánh hoặc chân phước tử đạo Việt Nam? (Kể tiểu sử một vị, hoặc điểm nào đó mà bạn thán phục của một trong các vị mà bạn biết).

39. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm Lc. 9, 23-26 của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Tử đạo, là từ ngữ dịch của chữ ,  (martus, martureô), có nghĩa là chứng nhân, làm chứng. Các vị tử đạo là những chứng nhân, những người đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho điều mình tin, điều mình biết và nói. Trong cuộc sống, người ta có thể chỉ trời chỉ đất để thề điều người ta nói là sự thật; nhưng lời chứng đáng tin nhất là lời chứng của kẻ dám lấy chính mạng sống của mình làm bảo đảm.
I. Hiện hữu một Thiên Chúa tình yêu
Các vị tử đạo làm chứng cho điều gì? Các vị tử đạo Việt Nam là những người bị buộc phải bỏ đạo nếu không họ sẽ bị tra tấn và bị giết. Những người muốn các ngài bỏ đạo không có cùng niềm tin với các ngài; những người này không biết như các ngài đã biết. Không chắc rằng những người có quyền thế này không tin có một Đấng tối cao vượt trên tất cả mà tất cả mọi loài phải kính tôn thờ phượng. Có lẽ những người có quyền thế này hiểu lầm, cho rằng các ngài là những người không tốt, cho rằng các ngài bị mê hoặc để tin theo một tôn giáo dạy điều xằng bậy, hoặc một tổ chức gây phương hại đến sự tồn vong của đất nước.
Khi trung thành với chính mình, trung thành với đức tin, trung thành với Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ, các vị tử đạo cho tất cả mọi người, kể cả những người bắt bớ các ngài thấy rằng, có một điều gì quý trọng hơn cả mạng sống. Có một thực tại nào đó mà các ngài sẵn sàng chết vì thực tại đó, có một Đấng nào đó mà các ngài đã cảm nghiệm, đã biết một cách thâm sâu và có tương quan thân thiết; vì nếu không như vậy thì tại sao các ngài đã dám bỏ cả mạng sống mình, bỏ tất cả kể cả những người thân yêu vì Đấng đó!
Đành rằng có nhiều người chết vì ý thức hệ, nhưng những người chết vì đạo là những người chết cho tình yêu, không thù hận những người giết hại mình, ngược lại, các ngài là những kẻ cầu nguyện và muốn điều tốt lành cho mọi người, ngay cả những kẻ hãm hại mình. Chính tương quan với Đấng Siêu Việt đã làm các ngài có cách cư xử khác với những người chết vì ý thức hệ hay tham vọng trần gian. Các vị tử đạo làm chứng hiện hữu một Đấng Thiên Chúa yêu thương, và các ngài sẵn sàng đánh đổi tất cả để được chia sẻ sự sống với Người. Thiên Chúa đang mời gọi các ngài bước lên, chấp nhận tất cả vì tình yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa tình yêu.
II. Niềm vui và bình an của các chứng nhân anh dũng
Các chứng nhân đã dám hy sinh chính mạng sống để sống trung thực với chính mình, và qua đó cho con người của mọi thời đại thấy rằng, có một điều gì đó siêu vượt và đặc biệt, đã làm các ngài dám hiến chính mạng sống mình. Đã là người, ai không sợ đau đớn và gian khổ, ai không sợ chết, ai không muốn được sống gần những người thân yêu của mình, nhưng các ngài đã vượt lên trên những gì tự nhiên đó, các ngài đã chấp nhận bị hành hạ và ngay cả cái chết. Nơi các ngài, người ta còn nhận ra có một sự an bình nào đó mà những người ghét các ngài không thể làm mất được.
Đứng trước các ngài, những người quyền thế hành hạ các ngài vẫn như là những kẻ thua cuộc. Trước một phụ nữ chân yếu tay mềm như thánh Anê Lê Thị Thành, các quan quyền với những tra tấn vẫn không thể thắng được bà. Qua bà, người ta nhận thấy một sức mạnh siêu vời tiềm ẩn mà thế gian không thể thắng được. Người ta có thể lấy mạng sống của bà, nhưng người ta vẫn là kẻ thua. Những người bị giết chết lại là những người bất khả bại. Dưới một khía cạnh nào đó, tra tấn hành hạ và ngay cả giết người, là dấu chỉ bất lực của sự dữ và những người theo sự dữ.
Giữa những đau đớn của thân xác mà con người không thể tránh được, người ta vẫn nhận ra nơi các chứng nhân tử đạo một niềm tin niềm vui và một sức mạnh vô hình. Ngay lúc chết, các chứng nhân mục kích tường thuật, các ngài vẫn luôn kêu tên Yêsu, điều này cho thấy tình yêu của các ngài đối với một Đấng đặc biệt, Đấng mà vì Ngài mà các chứng nhân tử đạo đã dám hiến chính mạng sống, và sẵn sàng mất tất cả vì Ngài. Niềm vui, bình an và khao khát siêu nhiên đã làm các ngài chiến thắng tất cả. Ngay cả giữa những đau khổ thể xác, các ngài vẫn cho thấy có niềm tin niềm vui và hy vọng tràn ngập lòng các ngài.
III. Cuộc chiến vẫn tồn tại mỗi ngày nơi mỗi người
Ngày nay không còn nhiều những cơ hội thách đố tín hữu phải chết vì đức tin, nhưng con người của mọi thời đại đều phải đối diện với những cám dỗ hướng về những thực tại trần thế, khuynh chiều chỉ muốn sống riêng cho mình bằng cách thỏa mãn quyền lợi và ham muốn thể xác. Con người phải chọn lựa sống tốt lành hay vi phạm quyền lợi và nhân phẩm của người khác, chọn tôn trọng tha nhân hay thỏa mãn xu hướng ích kỷ của mình.
Ngày nay, thân xác và những khuynh chiều của thân xác vẫn luôn hiện diện với con người: bao nhiêu người đã chọn vật chất trần gian như tiền bạc danh vọng, bao nhiêu người đã chọn đề cao chính mình và những quyền lợi của họ cho dù chà đạp nhân phẩm. Ngày nay, con người vẫn được mời gọi để vươn lên từng ngày: con người được mời gọi tôn trọng phẩm giá của tha nhân cũng như của chính mình; con người được mời gọi tôn trọng quyền lợi của tha nhân được diễn tả qua việc tôn trọng công bình; con người được mời gọi sống ơn gọi làm người, ơn gọi yêu thương tha nhân như chính mình, và hơn nữa, yêu thương tha nhân như chính Đức Yêsu đã yêu thương.
Vượt qua chính mình với những khuynh chiều của thể xác, là một hành vi cao thượng. Con người phải chết mỗi ngày cho những khuynh chiều vật chất nơi mình. Làm như vậy, con người cũng trở thành chứng nhân “tử đạo”: làm chứng có một đời sống mai hậu, hiện hữu một Tuyệt Đối đằng sau những thực tại hữu hình mau qua này. Con người được mời gọi làm cho thế giới này tươi đẹp hơn bằng những hành vi yêu thương tha nhân đồng loại. Kitô hữu Việt Nam hôm nay được mời gọi sống sao cho xứng với các bậc cha anh, những người đã hiến thân làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tự hào vì là người Việt Nam không? Tại sao có? Tại sao không? (Một số người trẻ Việt Nam sinh tại ngoại quốc có mặc cảm tự ti vì là người Việt Nam. Chỉ có một số thôi, không phải tất cả!).
2. Bạn có tự hào về các bậc cha anh tử đạo không? Bạn tự hào vì điểm gì?

40. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)
Là con cháu của các Thánh tử vì đạo nước Việt Nam, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng được vinh dự, tự hào về tổ tiên ông bà của mình. Nhưng, nếu chúng ta được hỏi hay phải minh chứng về các Thánh tử vì đạo, đặc biệt cho những lương dân; chúng ta có mạnh dạn, tự tin để trả lời cho họ? Hơn thế nữa, chúng ta có đang sống đúng với căn tính là con cháu của các Ngài hay không? Nhiều câu hỏi được đặt ra, để mỗi người chúng ta có cơ hội cùng lắng đọng-suy tư. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ai? Tại sao hôm nay chúng ta lại được mừng kính các Ngài cách trọng thể? Điểm son nổi bật nhất của các Thánh Tử Đạo Việt Nam là gì? Chúng ta đã và phải sống thế nào để có thể chuyển tải và nêu cao những sứ điệp, gương mẫu hào hùng của các Thánh cho mọi người?
Ngày hôm nay, Giáo hội địa phương tại Việt Nam được đặc ân để mừng kính những người con ưu tú của mình, là các Thánh tử vì đạo nước Việt Nam, là tổ tiên ông bà chúng ta, là những nhân chứng của đức tin, nhân chứng cho Chúa và Tin mừng cứu độ. Thế nên, các bài đọc Lời Chúa hôm nay như soi sáng, hướng dẫn và giúp cho chúng ta không những biết rõ về các Thánh mà còn giúp chúng ta cách sống chứng tá như các Ngài đã sống.
Tin mừng (Mt 10, 17-22) đã cho chúng ta câu trả lời rất mạnh mẽ của Chúa Giêsu về các Thánh tử đạo. “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết”. Tất cả các Ngài đã vì danh Chúa, vì Tin mừng, vì sống chứng tá cho niềm tin của mình mà được vinh phúc tử vì đạo, được phúc lãnh nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa đã hứa ban. “Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Nhưng tại sao khi tin theo Chúa, sống cho Chúa và niềm tin, thì lại bị mọi người ghen ghét, bị bắt hại và ngay cả phải hy sinh cả mạng sống? Chứng tá mà Thánh Matthêu Nguyễn Văn Phượng, Trùm họ Sáo Bùn để lại: Khi bị bắt giam, tù đày, Ngài đã khuyên nhủ các con: “Dù sự gì xảy đến hay cha phải tử hình, đó là điều cha hằng mong ước, được tử đạo đổ máu ra vì Chúa Giêsu Kitô. Chúng con hãy cầu nguyện cho cha, hãy yêu mến nhau. Dù gặp sự dữ thế nào chúng con đừng yếu lòng chối Chúa”.
Thánh Phêrô hơn bất cứ ai khác, Ngài đã sống và cảm nghiệm điều mà Ngài tin nhận, nên Ngài đã nâng đỡ khích lệ các tín hữu khi họ phải vì danh Chúa và Tin mừng mà phải chịu đau khổ, cực hình. “Nếu anh em bị sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, thì phúc cho anh em, vì Thánh Thần Chúa sẽ ngự trên anh em”. (1 Pr 4, 14) Được làm chứng và được chết để minh chứng cho Chúa là một ơn phúc không phải ai cũng có vinh phúc này. Điểm son nổi bật của các Thánh Tử vì Đạo nước Việt Nam đó chính là: tin, chấp nhận và sống trọn vẹn cho Thánh giá cứu độ mà Thiên Chúa ban qua Chúa Giêsu và Hội Thánh. “Chết vì Thánh Giá” là điều mà nhiều người và các cấp chính quyền thời bấy giờ không thể hiểu, nên họ đã cho rằng, điều này quá điên khùng, khờ dại, vì theo “Tả Đạo” như vậy. Chắc hẳn các Thánh hơn ai hết đã ý thức và hiểu rõ về “cái giá phải trả” khi tin theo làm con cái Thiên Chúa. Nhưng tại sao các Ngài vẫn hiên ngang, can đảm để sống và tuyên xưng cách hào hùng về niềm tin của mình, hơn thế nữa các Ngài còn hân hoan vui sướng khi được sống và minh chứng cách trọn vẹn cho niềm tin đó. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã khẳng định: “Thập Giá chính là sức mạnh của Thiên Chúa ban cho chúng ta”. Từ Thánh Giá Chúa, sức mạnh của tình yêu, sự tha thứ và ơn cứu độ được trao ban và lan tỏa, nhờ đó những ai khiêm tốn, mở lòng đón nhận với lòng tin yêu, thì sẽ được ơn Chúa giúp sức, nâng đỡ; chính sức mạnh của Chúa đã hoạt động và bổ sức cho các Ngài. Thánh Anê Lê Thị Thành, dù đòn roi hay cực hình vẫn không hề lay chuyển được, thì quân lính vừa đánh vừa dùng vũ lực mà lôi bà qua Thánh Giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá.”
Như vậy, với con đường, cách sống và mẫu gương chứng tá mà các Thánh tử vì đạo đã để lại chính là sự khôn ngoan tuyệt vời. Khôn ngoan khi đón nhận niềm tin và ơn thánh Chúa ban, khôn ngoan khi biết sử dụng những kho tàng ơn phúc đó để sinh hoa kết trái. Qua những khó khăn, gian khổ, cực hình và cả sự hiến thân của các Ngài, không có cái gì đã ra vô ích hay khờ dại hết. Điều này sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 đã minh chứng cho chúng ta biết “Chúa đã chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Với hy lễ được tiến dâng, Chúa không những đón nhận và ban ơn cứu rỗi cho các Ngài, mà Chúa còn thương cho các Ngài được thông phần cộng tác vào trong chương trình cứu độ của Chúa. Chính vì lẽ đó mà Tertuliano đã khẳng định: “Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh nhiều giáo hữu.” Thánh Anê Thành khi ở trong ngục tù, cô Lucia Nụ, con gái đến thăm Mẹ, thấy y phục mẹ loang lỗ máu, cô khóc nức nở vì thương mẹ; bà đã an ủi, khích lệ con bằng những lời tràn trề lạc quan “Con đừng khóc nữa, mẹ được mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc? Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con, coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng.”
Nguyện xin Chúa, qua những hy lễ tuyệt hảo được tiến dâng, những chứng tá đức tin tuyệt vời và những gương mẫu sống đạo kiên trung của các Thánh tử vì đạo, chuyển cầu cùng Chúa mà ban ơn cho chúng con. Để trong mọi hoàn cảnh sống, chúng con luôn khiêm tốn, mở lòng tin nhận Chúa cùng với các ơn phúc Chúa ban. Hầu chúng con xứng đáng được gọi là con cháu của các vị thánh tử đạo Việt Nam hào hùng. Xin cho chúng con với những hy sinh, cố gắng nỗ lực mỗi ngày, luôn sống chứng tá đức tin qua những việc lành, bác ái, dấn thân để danh thánh Chúa và danh hào hùng của các Thánh tử vì đạo được tôn vinh. Amen.

41. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
NHỚ ƠN CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
(Suy niệm của Nguyễn Minh Triệu)
Hôm nay Giáo Hội Việt Nam long trọng mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, những người anh hùng trong trái tim của mỗi tín hữu đất Việt.
Đây là một dịp để chúng ta cùng ôn lại truyền thống hào hùng của Giáo hội Việt Nam, và cũng là một cơ hội để chúng ta làm mới lại đức tin của mình ngang qua mẫu gương của các ngài. Có lẽ, chúng ta không bao giờ kín múc hết nguồn suối ân huệ mà các thánh tử đạo Việt nam để lại. Qua đời sống và cái chết của các ngài, Giáo hội Việt Nam lãnh nhận được một kho tàng vô giá.
Trước hết, đời sống và cái chết của các vị tử đạo là một lời chứng hùng hồn nhất cho đức tin của chúng ta. Trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, một xã hội bị ảnh hưởng nặng nề bởi trào lưu tục hoá và chủ nghĩa vô thần, niềm tin của chúng ta không ngừng bị đặt lại, chúng ta phải minh chứng cho niềm tin của mình. Trong kho tàng của Giáo hội, chúng ta có nhiều chứng cớ để minh chứng cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, ngang qua đời sống và cái chết của các vị tử đạo, chúng ta có một lời chứng không thể hùng hồn hơn. Vì khi đón nhận hồng phúc tử đạo, các ngài đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin. Mạng sống vốn là điều quý giá nhất của con người, vậy tại sao các vị lại chấp nhận từ bỏ nó? Ắt hẳn các vị ấy đã khám phá ra một kho tàng quý giá gấp bội, một kho tàng để các vị dám từ bỏ chính điều được xem là quý giá nhất nơi con người. Hơn nữa, các ngài đã đón nhận cái chết trong tự do, vui tươi và bình an. Các vị tử đạo của chúng ta có tự do để chọn lựa. Thay vì chọn lựa cái chết trong đau khổ, các ngài có thể chọn một cuộc sống yên ổn bên vợ con, gia đình.. Vâng, tử đạo tự bản chất có nghĩa là làm chứng. Khi các thánh tử đạo đón nhận cái chết vì Đức Giê-su, đức tin của chúng ta được minh chứng bởi một bảo chứng vô giá giúp chúng ta vững tin trong chọn lựa của mình và cũng là một câu trả lời minh bạch nhất cho mọi chất vấn của con người trong thời đại hôm nay.
Các Thánh tử đạo không chỉ làm chứng về đức tin, mà còn để lại cho chúng ta một mẫu gương sống động về đời sống đạo. Qua các ngài chúng ta học được mẫu gương yêu thương, yêu thương Thiên Chúa và yêu thương con người. Vì yêu thương Thiên Chúa nên các ngài đã chọn cái chết trong đau đớn thay vì được sống trong an nhàn. Các ngài không chỉ yêu thương những người thân yêu trong gia đình và bạn hữu mà còn yêu thương và tha thứ cho kẻ làm hại mình. Sở dĩ các ngài đã can đảm lãnh nhận cái chết vì các ngài hoàn toàn tự do đối với thế gian, với các thế lực chính trị, trước đau khổ và thậm chí là cái chết. Vâng, các ngài đã trở nên tự do hoàn toàn để đáp trả lại tiếng mời gọi của Chúa. Vì tử đạo vốn là một ân phúc, nhưng để đón nhận ân phúc này, đòi hỏi các ngài phải tự do hoàn toàn với mọi ràng buộc của thế gian. Tự do chính là yếu tố giúp các vị sống yêu thương, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người.
Như hạt giống gieo vào lòng đất, chết đi và trổ sinh hoa trái, các vị anh hùng tử đạo đã chấp nhật chết đi, máu các ngài đã thấm vào lòng Đất Việt, chắc chắn sẽ trổ sinh hoa trái. Hoa trái phát sinh từ máu các anh hùng tử đạo chắn chắn không chỉ dừng lại ở chính các vị mà còn được lan toả tới chúng ta là con cháu các ngài. Là những hậu duệ chúng ta chắn chắn sẽ được hưởng ơn phúc của các ngài để lại. Nhờ máu các anh hùng tử đạo, Giáo Hội Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dẫu phải chịu biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu bách hại. Dù nhiều nước Ki-tô giáo truyền thống đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tục hoá và chủ nghĩa vô thần, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vẫn giữ được truyền thống đạo đức của mình. Các nhà thờ vẫn còn đầy ắp người, vẫn còn nhiều người muốn trở thành người công giáo. Hơn hết, Giáo Hội Việt Nam đang được một mùa bội thu về ơn gọi, nhiều thanh niên nam nữ muốn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa. Những ân huệ này có được là nhờ vào máu của các anh hùng tử đạo đổ ra cho chúng ta. Chúng ta biết ơn các ngài, chính nhờ sự quảng đại của các ngài, chúng đã được lãnh nhận những ân huệ lớn lao như ngày hôm nay.

42. “Đây Bài Ca Ngàn Trùng”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam. Một bầu khí đại lễ thật hào hùng. Phụng vụ trổi lên lời hoan ca chúc tụng: “Đây bài ca ngàn trùng. Dâng về Thiên Chúa. Bài ca thắm đượm máu hồng. Từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu”.
Vâng, cuộc đời các thánh tử đạo là một bài ca dâng về Thiên Chúa. Các ngài ca ngợi Thiên Chúa khi bình an, khi gian nan, khi dòng đời êm trôi và cả khi sóng gió ba đào. Các ngài ca ngợi Chúa trong bổn phận thường ngày, khi đầu hôm sớm mai nơi ruộng vườn, nơi phố xá chợ thị. Các ngài còn ca ngợi Chúa khi đối đầu với sự bách hại vì tin mừng. Các ngài ca ngợi Chúa trong mọi nơi, trong mọi lúc. Đỉnh cao của lời ca ngợi là bài ca vinh thắng thắm đượm máu đào. Các ngài đã chiến thắng gian nan, cùm gông, tù đầy. Các ngài đã vượt lên trên sự sợ hãi của đe doạ đến cả tính mạng để tôn vinh Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Các ngài đã dùng cả cuộc đời để ca ngợi Chúa. Cho dù cuộc sống có nổi trôi, bất định, các ngài vẫn trung kiên tin thờ Thiên Chúa.
Cuộc đời các ngài là một bài ca, thế nên các ngài cũng đáng được ca ngợi. Ca ngợi hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vì chưng các ngài là những người có phúc vì dám sống triệt để trang tin mừng yêu thương của Chúa trong cuộc sống của mình.
Các ngài dám nói lời tha thứ ngay trong những xúc phạm mà người đời đang tuôn đổ lên các ngài.
Các ngài đã có thể nhìn thấy hoa hồng nở rộ ngay trong đau đớn của cực hình.
Các ngài dám đi ngược lại với thế gian, vì phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta.
Nhìn vào cuộc đời các ngài, ta thấy, đó là một cuộc đời thật đẹp. Đẹp trong cuộc sống thường ngày luôn chu toan bổn phận của mình, luôn sống chan hoà tình bác ái với mọi người. Như bà thánh Đê là mẹ của sáu người con. Tất cả những người con, cô Nụ, cô Mận khi làm nhân chứng đều nói rằng: “Mẹ tôi rất đạo đức, luôn dạy con cái ăn ngay ở lành, tối sớm kinh nguyện…”.
Đẹp trong cả những gian nan khi bị người đời ghét bỏ, các ngài vẫn thương yêu, vẫn thứ tha, vẫn ôn hoà để làm chứng cho lời tin mừng yêu thương, đế nỗi mà những người hành quyết các ngài vẫn cảm phục yêu mến đức hạnh các ngài. Như trong vụ án linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan đạo đức thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quý cụ”.
Đẹp trong cả cái chết luôn một mực nói lời yêu thương. Như trường hợp ông Cai Tả thì yêu thương để xứng với tình Chúa yêu, ông thường châm chước cho những người mắc nợ và nói: “Mình quên nợ người, Chúa quên tội mình “. Với ông Năm Quỳnh thì bác ái rõ rệt là hoa quả của đức tin, ông từng nói với gia đình: “Bà và các con không đồng ý cho tôi lấy của nhà để giúp người nghèo, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê kiếm tiền giúp đỡ họ “. Vì ông nói: “Tôi chưa thấy ai hay giúp người nghèo khó lại túng bấn bao giờ. Kinh Thánh chẳng dạy chúng ta coi họ như chi thể của Chúa đó sao? Chúa đã cho chúng ta sống, tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng”.
Như vậy, tử đạo không chỉ là đổ máu. Tử đạo là dám chết đi con người ích kỷ của mình, chết đi cho thói đời tham sân si mù quáng. Chết đi những đam mê nhục dục để hèn. Tử đạo là dám sống vì tin mừng mà chịu thua thiệt, chịu mất mát. Tử đạo là yêu cho đến cùng và sống trọn vẹn những đòi hỏi của luật yêu thương.
Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, xin cho chúng ta là con cháu biết noi gương các ngài để tiếp tục là bài ca ca ngợi Thiên Chúa. Ca ngợi Ngài bằng cả cuộc sống thắm đượm tình Chúa tình người. Ca ngợi Ngài mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Nguyện xin các thánh Tử đạo Việt Nam dẫn dắt chúng ta luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.

43. Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858, ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới được tôn lên bậc chân phước.
Truyền thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh hùng khác của nhân loại.
Thật vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay Giáo Hội.
Nói cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết vì lòng yêu mến.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban phúc tử đạo cho các ngài.
Vua quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi, nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ quốc.
Thật vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc. Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.

44. Niềm tin
Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:
– Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.
Vị mục sư cười và trả lời:
– Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.
Viên sĩ quan hét lên:
– Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.
Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:
– Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.
Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:
– Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.
Cũng như vị mục sư kia, các thánh Tử Đạo đã kiên cường giữ vững đức tin trước mọi thử thách, mọi gian lao, mọi giông tố của cuộc đời. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Chúng ta có thể kể ra đây một vài khuôn mặt của những vị thánh giáo dân như những chứng từ cho điều chúng ta vừa nói:
– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.
– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.
– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giầu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng người luôn bình tĩnh vui tươi. Người nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt người bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.
– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.
– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.
– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.
– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 người con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con: Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên đàng”.
– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.
Chúng ta không thể kể ra đây hết những hình khổ các thánh Tử Đạo đã phải chịu. Chúng ta cũng không thể nói hết ở đây những lời di chúc quí báu của các ngài. Đối với các ngài, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Có lẽ ngày hôm nay chúng ta không còn được diễm phúc đổ máu và hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa nữa. Nhưng nếu phải hy sinh một món lợi vật chất, nếu phải đánh đổi một chức vụ trong xã hội, nếu phải từ bỏ một thú vui tội lỗi vì Chúa, vì luật lệ, và vì Tin Mừng của Người, chúng ta có dám không, thưa quí ông bà và anh chị em? Phải chăng lập trường của chúng ta vẫn là: “Thà bỏ đạo, bỏ Chúa chứ không bỏ những thứ đó”?

45. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
TỬ ĐẠO, MỘT CHỌN LỰA CỦA LÒNG TIN
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc, cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”
Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng, mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác, mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết, và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa, nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng đến. Đây là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.

46. Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”. Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ:
– Trong trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
– Hay như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
– Và các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và điều thứ ba khiến chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.

47. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam vui mừng mừng kính các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Trong bầu khí linh thiêng và cảm động này tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài tâm tình của tôi.
1. Tâm tình thứ nhất là tâm tình tự hào.
Các thánh Tử đạo Việt Nam của chúng ta làm cho chúng ta tự hào.
Chúng ta phải tự hào vì chúng ta đã có được những vị tổ tiên anh hùng thật xứng đáng. Các Ngài đã được sinh ra, đã làm việc, đã cùng sống với những người Việt Nam chúng ta ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu này. Các Ngài đã sống như biết bao nhiêu những con nguời khác đã sống, nhưng các Ngài đã sống hơn hẳn rất nhiều người khác ở chỗ các Ngài đã biết sống anh hùng, không để cho mình bị mua chuộc, không để cho mình bị khuất phục. Tiền bạc không làm cho các Ngài mù tối. Khổ đau không làm cho các ngài chùn bước, nhục hình không làm cho các ngài ngã qụy, và cả cái chết cũng không uốn cong được lòng trung tín của các Ngài.
Chúng ta hãy đọc lại sắc dụ cấm đạo được ban hành ngày 18-9-1855 để chúng ta thấy được một phần nào những hình khổ mà các Ngài phải chịu như thế nào: “Các quan theo đạo Giatô tại triều đình Huế hạn cho một tháng phải bỏ đạo. Các quan tỉnh thì ba tháng. Lính tráng và người dân thì sáu tháng, bằng không thì phải kể là trọng phạm.
Các người theo đạo Giatô không được thi cử, không được giữ chức tước gì. Ai đưa đường hay chứa chấp đạo trưởng thì bị xử tử. Đạo trưởng Tây phương thì chém đầu vất xác xuống sông. Các giáo đồ giúp các đạo trưởng thì phải chém đầu. Các cụ đạo bản quốc cũng phải chém đầu. Các giáo đồ theo các cụ đạo này thì phải thích chữ vào mặt và phát lưu. Phải đốt cho sạch các nhà thờ nhà xứ “
Lịch sử còn ghi lại những hình phạt mà người ta đã nghĩ ra và đã dùng để phạt những người theo đạo như sau:
– Nhẹ nhất là bị gông cùm. Bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói cho tới chết.
– Nặng hơn một chút thì bị voi dầy, bị trói ném xuống sông, bị chôn sống, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng.
– Quyết liệt hơn một chút thì bị xử trảm, xử giảo (thắt cổ) và thiêu sống.
– Ác liệt nhất là bị xử lăng trì (phân thây ra từng mảnh) hay bá đao (bị xẻo từng mảnh thịt cho tới chết)
Tôi xin trích ra đây một đoạn trong bản báo cáo về việc xử Cha cố Du tại Thợ Đức ngày 30-11-1835:
“Họ cột chân tay Ngài vào một cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Sau hồi chuông báo hiệu, tên lính cầm kìm đã được nung đỏ kẹp vào ngực kéo ra hai miếng thịt nơi vú liệng xuống đất. Tên khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông – rồi đến dùi thì chúng lấy kìm kéo thịt ra rồi dùng lưỡi dao xẻo đứt từng miếng. Cha ngất đi, đầu rũ xuống và Ngài tắt hơi về chầu Chúa lúc 17giờ.
Cha chết rồi, lính chặt đầu Ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi… đoạn họ cởi trói lật úp xác xuống, phân thây ra từng khúc bỏ vào thùng vôi. Tiếp theo họ lấy đầu đầu của ngài treo giữa chợ ba ngày… rồi lấy xuống nghiền nát ra bỏ vào thùng đựng xác rối vất tất cả xuống biển cho mất tích”
Vâng, kính thưa anh chị em,
Gian khổ có cao, hình phạt có nặng nhưng lòng thành của các Ngài còn cao hơn. Cái chết của các Ngài thật đáng làm cho chúng ta phải tự hào. Trong sắc phong chân phước cho 64 anh hùng tử đạo Việt Nam ngày 27-5-1900 Chính Đức Thánh Cha Léo XIII đã nói về các Ngài với tất cả lòng khâm phục như sau: “Đây là những chiến sĩ trung liệt và kiên cường không kém gì những chiến sĩ ngày xưa vào những thế kỷ khai nguyênh của Giáo Hội Chúa Kitô”.
2. Tâm tình thứ hai là lòng biết ơn.
Việc mừng lễ hôm nay làm tôi nhớ lại những lời rất cảm động sau đây của Chúa Giêsu: “Kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì chúng con không vất vả làm ra. Những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng công lao khó nhọc của họ” (Jn 4,36-37).
Sử gia Tertulianô ngày xưa khi nhìn lại những năm trời Giáo Hội bị bách hại và những cuộc trở lại đạo hàng loạt sau đó, ông đã phải viết lên những lởi rất rất đáng cho chúng ta suy nghĩ như thế này: “Những hạt máu của những vị tử đạo là những hạt giống làm nảy sinh ra những người Kitô hữu khác”
Hàng trăm ngàn các anh hùng Tử Đạo Việt Nam của chúng ta đã vất vả khó nhọc gieo vãi. Các Ngài đã gieo vãi không phải là những hạt giống thông thuờng nhưng bằng những giọt máu của các Ngài. Và chính nhờ những giọt máu này mà chúng ta mới được như ngày hôm nay.
Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta có được những con người anh hùng như thế. Đồng thời chúng ta cũng phải biết ơn các Ngài vì chính nhờ các Ngài mà hạt giống đức tin đã nảy mầm và lớn lên trong chúng ta.
3. Tâm tình thứ ba là bổn phận phải sống làm sao cho xứng đáng với danh nghĩa con cháu của những anh hùng.
Châm ngôn Việt Nam có câu rất hay: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh” Phải sống xứng đáng để những thế hệ mai sau khi nhìn vào thế hệ này, họ cũng cảm thấy tự hào.
Năm 1934 khi nhắn nhủ một số các em nhỏ đến mừng sinh nhật của mình nhà bác học bổi danh nhất của thế kỷ thứ 20, Albert Einstein đã nói với các cháu những lời cảm động như sau: “Các cháu nên nhớ rằng những điều kỳ diệu các cháu được học ở trường là do công lao của biết bao thế hệ trên khắp thế giới đã hăng hái gắng sức và cặm cụi làm việc không ngừng rồi truyền lại cho các cháu như một di sản để cho các cháu tiếp nhận, tôn trọng, tăng gia thêm và một ngày nào đó các cháu sẽ lại trung thành truyền lại cho con cháu các cháu. Nhờ vậy mà chúng ta, những con người hữu sinh hữu tử mới thành bất tử trong những vật trường tồn mà chúng ta tạo chung với nhau”
Chúng ta đang thừa hưởng một di sản vô cùng quí giá do cha ông chúng ta để lại. Cách trả ơn tốt nhất đối với các Ngài là tiếp nhận và trung thành truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Nhưng truyền lại bằng cách nào?
– Thưa bằng chính cuộc sống mà tổ tiên của chúng ta đã sống.
Văn hào Tagore khi bàn về cái chết của Thánh Gandhi, đã nói: “Có lẽ thánh Gandhi không thành công, có lẽ thánh sẽ thất bại như Đức Thích Ca đã thất bại, như Đức Giêsu đã thất bại vì chưa hủy diệt được lòng ác độc của loài người. Nhưng loài người luôn nhớ tới thánh vì thánh đã đem đời mình ra để làm bài học cho muôn thế hệ mai sau”
a- Bài học đầu tiên mà mỗi người chúng ta phải noi gương bắt chước đó là phải trung thành với niềm tin.
Đức tin là ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho chúng ta. Hãy bảo vệ lấy, đừng để cho nó bị hao mòn đi.
Phaolô Mợi bị bắt, bị giải đến quan. Quan dụ:
– Anh đạp ảnh đi, tôi sẽ cho anh một nén bạc.
-……………………..?
– Vậy một nén vàng!
– Bẩm quan chưa đủ.
– Vậy anh muốn bao nhiêu?
– Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ vàng để mua được một linh hồn khác.
Nguyễn văn Lựu: “Đạo đã nhập vào xương tủy tôi, làm sao tôi có thể bỏ được.”
b- Bài học thứ hai phải can đảm sống niềm tin đó.
Trong một bài diễn văn đọc cho binh lính trước khi họ lâm trạn. Hitler đã nói: “Thế giới này sẽ thuộc về những kẻ gan dạ” Victor Hugo: “Đồi Calvario ở đầu đường và hào quang cũng xuất hiện ở đó”
Chúa Giêsu: “Nước Trới phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy” Không có chiến thắng cho những kẻ chưa lâm trận đã đầu hàng. Không có vinh quang cho những kẻ hèn nhát. Phần thưởng càng lớn, vinh quang càng cao thì cái giá phải trả cho nó càng đắt.
Phải xử dụng sức mạnh mới chiếm hữu được Nước Trời.
Lời cuối cùng của tôi. Tôi xin mượn lời của Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Roma. Ngài gửi những lời này cho họ vào lúc cơn bắt bớ đạo giáo tại đó bắt đầu trở thành khốc liệt. Ngài muốn dùng những lời này để khích lệ họ, để họ can đảm, để họ tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng: “Ai có thế tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Ngài nói tiếp như một xác tín: “Trong mọi thử thách, chúng ta sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” Và Ngài kết luận: “Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô Chúa chúng ta” (Rom 8,35-39). Amen.

48. Người chứng thứ nhất
Suy niệm: Ga 12,24-26
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh. (theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh chị em thân mến,
Mỗi lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm, gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21, những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, – thường là âm thầm, họ như thể là “những chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862 tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846 Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét anh em vì họ đã ghét Thầy trước.
Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa anh chị em,
Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.

49. Tử đạo
“Tôi thấy một số đông người không thể đếm được thuộc đủ mọi dân tộc, mọi quốc gia và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước tòa Thiên Chúa và trước Chiên Con, mình mặc áo trắng và trên tay cầm cành lá chiến thắng”.
Đó là lời thánh Gioan diễn tả cảm tưởng đoàn người chiến thắng đứng trước Ngai Thiên Chúa trên trời mà thánh nhân được Chúa cho thị kiến. Tiếp theo thánh Gioan viết trong sách Khải Huyền như sau:
“Những người mặc áo trắng ấy là ai và họ từ đâu tới? Chính vị trưởng lão cho biết, đó là những người đã qua cơn đại họa, đã giặt áo họ trong Máu Chiên Con và nay trở về. Vì thế họ được hân hạnh đứng trước tòa Thiên Chúa và phụng thờ Ngài ngày đêm trong đền thờ. Đấng ngự trên tòa sẽ chở che và phù trợ họ, họ sẽ không còn phải đói khát nữa, không còn bị mặt trời và nóng bức làm khổ nữa. Vì Chiên Con đứng ở giữa tòa sẽ chăn dắt họ, sẽ đưa họ đến suối nước thiêng và Thiên Chúa sẽ lau khô nước mắt họ”.
Qua ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam được toàn thể anh chị em Công giáo khắp Năm Châu mừng hôm nay, Giáo Hội muốn khẳng định cho chúng ta và toàn thể Giáo Hội hoàn vũ. Trong số đoàn người đông đảo đứng trước ngai Thiên Chúa có cả những người thuộc dân tộc Việt Nam, có cả con cháu dòng giống lạc hồng, các ngài đã trải qua những cơn thử thách gian truân, lấy mạng sống của mình để minh chứng cho niềm tin và nay được trở về với Thiên Chúa.
Các vị tử đạo Việt Nam là ai? Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam gồm 37 linh mục, 16 thầy giảng, một chủng sinh và đặc biệt là rất nhiều giáo dân. Số đông đảo giáo dân Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin là điểm son thứ nhất tôi muốn nêu bật trong bài chia sẻ hôm nay.
Điểm son thứ hai tôi muốn lưu ý với anh chị em hôm nay, các thánh Tử Đạo là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: “Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay”.
Cuối cùng điểm son thứ ba tôi muốn nêu bật, là những thành tích vẻ vang để chứng tỏ niềm tin sắt đá các thánh Tử Đạo Việt Nam đã ghi vào những trang sử của Giáo Hội, là lòng tôn kính của các ngài đối với thập giá. Đối với các thánh Tử Đạo Việt Nam, chết tang thương, chết treo trên thập tự để minh chứng tình yêu tột đỉnh của mình đối với Thiên Chúa và đối với nhân loại, vì thế không một khổ hình nào có thể di chuyển đôi chân của các ngài tự ý bước qua thập giá. Không bước qua thập giá để không chối bỏ đạo dù phải đòn vọt, tra tấn, dù phải chịu tử hình, các vị Tử Đạo Việt Nam đã nêu gương yêu mến thập giá để đáp lại tình yêu của Đấng đã chết treo trên ấy bằng chính mạng sống của các ngài.
Cùng với anh chị em Công giáo khắp năm châu mừng kính lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải một lần nữa ý thức rằng, cuộc sống và cái chết của các ngài có thể nói được là những dòng chữ đầu trong các trang sử của Giáo Hội Việt Nam mà mỗi người chúng ta được kêu mời và thách đố. Hãy noi gương các vị tiền nhân anh dũng để chúng ta cùng nhau viết lên thành tích của lòng trung thành và can đảm sống đạo, sống cuộc sống chứng nhân cho tình yêu qua những hành động cụ thể, để tha thứ, hòa giải và chung tay xây dựng đất nước cũng như chứng nhân cho ý nghĩa thập giá qua nếp sống hằng ngày của mình, mỗi người trong địa vị, mỗi người trong môi trường sống của mình.
Nguyện xin các thánh Tử Đạo Việt Nam cầu bầu cho quê hương đất nước được quốc thái dân an, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành.

50. Anh hùng tử đạo
Vào một ngày mùa hè năm 1839, vua Minh Mạng “vi hành” đi quan sát dân tình thế thái tại kinh đô Huế. Mọi sinh hoat nơi phố phường đều phải ngưng lại. Ai nấy đều phải tránh sang một bên để xa giá của nhà vua đi qua, rồi sau đó mới được phép tiếp tục công việc.
Nhưng rồi bỗng từ đâu xuất hiện hai quân nhân không thuộc đội cận vệ của nhà vua. Họ quì rạp xuống. Hai tay nên cao lên trán một tờ sớ viết bằng chữ Hán. Quan hầu cận nhận tờ sớ và trình lên nhà vua. Tờ sớ mang chữ ký của ba người, đó là Phan Viết Huy, Bùi Đức Thể và Đinh Đạt. Riêng ông Đạt, vì bận việc nên vắng mặt.
Nội dung tờ sớ ấy như sau:
– Cha ông chúng tôi theo đạo Gia Tô. Năm ngoái các quan tra tấn, ép buộc chúng tôi phải bước qua thánh giá. Chúng tôi đã miễn cưỡng làm theo, chứ thực tâm chẳng hề muốn một chút nào cả. Nay chúng tôi xin được tiếp tục giữ đạo để làm trọn chữ hiếu với cha ông chúng tôi.
Tờ sớ mang lại một kết quả, đó là các ngài đã được diễm phúc tử đạo. Thánh Augustinô Huy và thánh Nicola Thể thì bị chém đầu và thân xác bị ném xuống biển làm mồi cho cá ở cửa Thuận An ngày 13.6.1839. Còn thánh Đa Minh Đạt thì bị xử giảo tại pháp trường Bảy Mẫu thuộc tỉnh Nam Định ngày 18.7.1839.
Tờ sớ này có một nội dung giống như lời cha Phêrô Tự đã nói với quan tòa:
– Tôi kính Thiên Chúa, như thượng phụ, kính nhà vua như trung phụ và kính song thân như hạ phụ. Nếu tôi không thể nghe theo cha mẹ ruột mà làm hại đến nhà vua, thì tôi cũng không thể vì nhà vua mà phạm đến thượng phụ của tôi là Thiên Chúa.
Hai mẩu chuyện nói trên tiêu biểu cho niềm tin của 117 vị thánh Tử đạo Việt Nam. Các ngài đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh ngày 19.6.1988 tại Rôma. Và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã ấn định mừng kính các ngài cách trọng thể vào Chúa nhận thứ 33 thường niên, Chúa nhật trước lễ Đức Kitô Vua, kết thúc năm phụng vụ, đồng thời cũng để mừng kỹ niệm ngày thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Trong số 117 vị, thì gồm có: 8 giám mục, 50 linh mục, 14 thầy giảng, 01 chủng sinh và 44 giáo dân. Những cực hình dã man các ngài đã phải chịu gồm nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như bá đao nghĩa là bị cắt ra cho đủ 100 miếng, lăng trì nghĩa là bị chặt tay chân trước rồi mới chém đầu sau, xử trảm nghĩa là bị chém đầu, xử giảo nghĩa là bị treo cổ, thiêu sinh nghĩa là bị đốt sống và rũ tù nghĩa là bị chết trong tù.
Các chết anh dũng của các thánh Tử đạo Việt Nam một lần nữa cho chúng ta thấy được rằng sự thù ghét đối với niềm tin không phải chỉ là một hiện tượng thoáng qua, mà còn là một sự kiện thuộc về bản chất của người đời, của thế gian.
Thực vậy, kẻ đau mắt nhức nhối trước ánh sáng thế nào, thì người đời và thế gian cũng nhức nhối trước tinh thần của Đức Kitô như vậy. Tinh thần của thế gian đối nghịch với tinh thần của Đức Kitô như bóng tối và ánh sáng, như lửa và nước.
Nếu như ngày hôm nay, chúng ta vẫn còn bị thế gian ghét bõ, thì đó cũng chỉ là một chuyện thường tình mà thôi, bởi vì chính Đức Kitô, trong suốt quãng đời công khai cũng đã gặp phải rất nhiều những chống đối và thù ghét, để rồi cuối cùng, mặc dù chẳng có tội lỗi gì, thế mà Ngài cũng đã phải lãnh nhận cái chết tủi nhục trên thập giá, một hình phạt chỉ được dành cho hạng nô lệ và phản loạn mà thôi.
Tuy nhiên, điều cần thiết đó là chúng ta phải giữ vững niềm tin của mình giữa những phong ba bão táp và những gian nan thử thách trong cuộc đời, như các thánh Tử đạo Việt Nam, là những bậc cha ông chúng ta thuở trước, bởi vì ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát.

51. Chứng nhân
Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Các con sẽ làm chứng về Thầy”. Và chứng ấy là “Người ta sẽ hành hạ và giết các con”. Dù không thuộc lịch sử Giáo Hội cho lắm, chúng ta đều biết rằng: Trong ba thế kỷ đầu, Giáo Hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê rợn, và không biết bao nhiêu người, từ Giáo hoàng trở xuống, đã đổ máu ra làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam cũng thế, dù chúng ta không hiểu biết nhiều lắm, nhưng ai cũng biết rằng: Đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi, và những cái chết anh hùng của tiền nhân chúng ta dưới đủ mọi hình thức tàn bạo, ghê gớm.
Quả thực, có thể nói: Đạo Công giáo đã được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bu-giơ-mi, dòng Tên, người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giờ. Vài chục năm sau, cuộc bắt đạo đầu tiên xảy ra thời chúa thượng Nguyễn Phúc, khiến hai thày Inhaxiô và Âu tinh chịu trảm quyết năm 1645 ở Huế. Kể từ năm 1665, việc cấm đạo xem ra liên tục hơn, lúc căng lúc dùng. Hầu hết các thánh đường bị triệt hạ, đất đai nhà chung bị tịch thu và hàng trăm người được phúc tử đạo vào thời Trịnh Cương và Trịnh Giang. Từ năm 1706 đến 1740. Cuộc bách hại kéo dài khốc liệt và đẫm máu hơn qua thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đến thời Văn Thân, khiến nhiều thừa sai ngoại quốc và không biết bao nhiêu linh mục và giáo dân Việt Nam đã phải đổ máu để gieo vãi hạt giống Tin Mừng.
Suốt ba thế kỷ cấm đạo, dưới sáu triều đại, khi thăng khi trầm, Giáo Hội Việt Nam có được khoảng 100.000 vị tử đạo. Trong số đó có 117 vị được phong thánh Tử Đạo vào ngày 19.6.1988 do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hiện nay cũng có mười vị được phong “đáng kính” và 1.000 vị được kể vào bậc “tôi tớ Chúa”. Cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì và dạy chúng ta điều gì?
Chúng ta không những nhìn nhận mà còn xác tín rằng: Những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo Hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng, nhưng là cho một việc. Chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng: Lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo: Trước cái chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục.Trước cái chết, các ngài không sợ hãi, khuyến khích nhau, tha thứ, cầu nguyện cho kẻ bách hại mình, và vui vẻ tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: Các ngài là những chứng nhân cho đạo Chúa. Vì thế, danh từ “Tử Đạo” có nghĩa là làm chứng, và dùng đau khổ, cái chết để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ cho người khác chém để làm chứng”.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Tử Đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho một số người, nhưng bổn phận làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng, và chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất là bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta. Chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả.
Người ta kể rằng: tại Trung Quốc trong những năm trước năm 1950, có nhiều giáo sĩ đã được gửi đến truyền giáo tại nước này. Người ta đã mở những lớp dạy tiếng Trung Hoa cho những giáo sĩ ngoại quốc để có thể tiếp xúc với dân chúng địa phương. tại một lớp nọ có khoảng 70 người theo học, trong buổi học đầu tiên, bà giám đốc của trường bước vào lớp học. Bà ta đi qua từng hàng ghế từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, tươi cười nhìn các học viên, rồi cuối cùng đi ra khỏi lớp mà không nói một lời nào. Các học viên đều ngạc nhiên về việc làm của bà giám đốc. Một lát sau, bà ta trở lại lớp và hỏi: “Quí vị đã tiếp thu được điều gì hôm nay chưa?”. Mọi người đều ngơ ngác vì bà đã dạy gì đâu? Có một người đứng lên nói: “Chúng tôi chưa nghe bà nói một lời nào. Nhưng chúng tôi chỉ để ý có một điều, khi bà đến lớp này, bà đã xức một loại nước hoa thơm quá”.
Cả lớp phá lên cười. Lúc đó, bà giám đốc tươi cười nói: “Tôi cố ý xức nước hoa thật nhiều để quí vị chú ý đấy. Nếu quí vị đã nhận ra được điều ấy là hôm nay quí vị đã học được một bài rồi. Qua điều ấy tôi muốn nói với quí vị rằng: Quí vị sẽ sống khoảng hai năm ở nước này như những người câm vì quí vị không nói chuyện được với những người Trung Hoa. Tuy nhiên, quí vị vẫn có thể để lại cho những người chung quanh quí vị một mùi thơm đặc biệt qua nếp sống của quí vị, để dầu không nói một lời nào, nhưng người khác cũng vẫn nhận ra được hương thơm của Chúa qua quí vị”.
Là con cái của Chúa, chúng ta có thể đem đến cho trần gian, cho những người chung quanh, hương thơm ngào ngạt của Chúa qua nếp sống hàng ngày của chúng ta mà không cần nói một lời nào. Xin các thánh Tử Đạo cầu bầu và trợ giúp để chúng ta luôn sống đúng và sống đầy đủ bổn phận làm chứng của chúng ta.

52. Chứng nhân.
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300 năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân chính của mình.
Trong số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường, nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.
Như vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta, những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo, những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi: cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ: chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo hữu hiệu nhất.

53. Chọn Đấng Chịu Đóng Đinh
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Hữu An)
Tin mừng Lc 21: 5-19: Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô.
Năm 1837, vua Minh Mạng triệu tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh về kinh và trao cho 40 cây Thánh Giá, rồi ra lệnh phải áp dụng gắt gao chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, tổng đốc Khanh trở thành “Hùm xám Nam định”.
40 cây Thánh Giá trở thành dụng cụ để thử thách niềm tin của người tín hữu. Người có đạo khi bị bắt, buộc phải “quá khoá” phải bước qua Thánh Giá. Nếu bước qua sẽ được sống, được trả lại tất cả những gì đã mất, và còn được tặng thêm phú qúi vinh hoa. Không bước qua phải bị tù đày, gông cùm đòn vọt và mất cả mạng sống.
Thánh Giá chính là cột mốc để phân định giữa sống và chết, giữa Thiên Chúa và thế gian. Khi đối diện với Đấng Chịu Đóng Đinh, người tín hữu luôn phải thực hiện một sự chọn lựa có tính quyết định.Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.
Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.
Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…
Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa dứt khoát: theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết: “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).
Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo…Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!
Thánh Giá luôn là điểm hẹn tình yêu, là nơi gặp gỡ của những người sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng Chịu Đóng Đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.
Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác. Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Đức Cha Lambert de la Motte sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đây là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các Ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.

54. Sức mạnh của đức tin
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nói đến sức mạnh, chúng ta tự nhiên sẽ nghĩ đến những chàng trai võ sĩ thân hình lực lưỡng, cân đối rắn chắc,với những bắp thịt vạm vỡ, với những quả đấm thôi sơn ngàn cân. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng nghĩ đến những trận cuồng phong, những cơn lũ lụt phá đổ cây cối nhà cửa làng mạc, đê điều, đường sá, cầu cống. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng thường nghĩ tới những đám cháy lớn thiêu rụi cả một khu rừng, thiêu huỷ các tầng lầu.
Nói đến sức mạnh, chúng ta nghĩ đến những trận động đất san bằng nhiều thành phố, giết hại hàng triệu người trong vài giây đồng hồ. Nói đến sức mạnh, chúng ta cũng liên tưởng đến những cuộc chiến tranh đã giết hại bao sinh mạng, tàn phá bình địa nhiều thành phố làng mạc nhà cửa dinh thự đền đài.
Nhưng còn có một sức mạnh vạn năng khác, mãnh liệt hơn cả, quyết thắng tất cả mà lại luôn luôn ở trong tầm tay con người. Đó chính là sức mạnh niềm tin tôn giáo.
Niềm tin tôn giáo không bao giờ bị bóp nghẹt do bất cứ quyền lực nào. Không có quyền lực nào có thể xoá bỏ được niềm tin tôn giáo. Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh xác tín đó.
1. Sức mạnh đức tin vượt thắng những thách đố.
Trong chuyến hành hương Rôma, tôi có dịp đi viếng những hang toại đạo. Đi trong hang như là tìm về cội nguồn đức tin. Nơi đây biểu lộ sức mạnh đức tin của bao thế hệ tiền nhân. Giáo hội giữ vững niềm tin trên nền tảng tử đạo của biết bao con người nằm dưới hang này trong 300 năm đầu bị bách hại. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang rất lạnh lẽo. Mùi tử khí vẫn còn thoang thoảng đâu đây. Đi trong hầm mộ lạnh lùng, hoang vắng, lối ngõ ngoằn ngoèo, tôi cảm nghiệm được ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết. Sự chết luôn luôn đe dọa rình rập cướp lấy mạng sống con người. Bước đi trong lòng tin và lòng cảm phục nên người hành hương lại cảm nhận sự ấm áp, thân tình gần gũi với các thế hệ tiền bối. Gia sản của Giáo Hội là đây.Tại nơi này, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong ba thế kỷ. Sức mạnh đức tin thật là kỳ diệu.
Suốt ba trăm năm bắt Đạo, trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn trăm ngàn Vị Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong số này, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân.
Trải qua ba trăm năm, với 53 sắc dụ cấm đạo dữ dội, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại và đã biểu lộ hào hùng sức mạnh đức tin qua dọc dài lịch sử.
Các Thánh Tử Đạo đã chịu đủ mọi cực hình: bị xiềng xích, lao tù, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị chém đầu, bị thắt cổ, bị bá đao, phanh thây, bị kìm kẹp, bị voi dày, bị thiêu sống, bị buộc đá thả trôi sông, bị tống cổ ra khỏi nhà cửa, làng mạc, sống vất vưởng trong rừng sâu nước độc. Các ngài đã bị chết đói, chết khát, chết bịnh và bị dã thú ăn thịt…Với sức mạnh đức tin, các ngài đã chiến thắng mọi thứ cực hình dã man. Cho dù là gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, voi giầy, trói ném xuống sông, đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng, chặt đầu, thắt cổ, thiêu sống, phân thây ra từng mảnh…các ngài chấp nhận tất cả nhờ đức tin mạnh mẽ. Trong 117 Thánh Tử Đạo được tuyên phong, có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.
Người ta nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác để buộc các tín hữu chối bỏ đức tin.
– Thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.
– Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.
– Cha Điểm và Cha Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.
Dù chịu mọi cực hình tàn bạo, bị hành hạ tra tấn khủng bố, các ngài vẫn không chối bỏ đức tin. Vua chúa, quan quyền, binh lính phải sững sờ kinh ngạc và kính phục lòng tin sắt son của các ngài.
Thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm Trọng Khảm. Nhờ sức mạnh đức tin, các ngài chấp nhận mất chức quyền, mất danh vọng thế gian và sẵn sàng hiến dâng mạng sống.
Thánh Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình, nhờ sức mạnh đức tin nên ngài đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức Giêsu Kitô.
Thánh Tôma Thiện, Phaolô Bột, đầu xanh tuổi trẻ, tương lai còn dài, nhiều hứa hẹn. Các ngài đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho Chúa nhờ sức mạnh đức tin.
Các Thánh Tử Đạo vui lòng đón chịu mọi cực hình đau đớn, chấp nhận mọi thua thiệt, vui lòng mất hết địa vị bổng bộc và hiên ngang tiến ra pháp trường đón nhận cái chết như một mối phúc, minh chứng lòng trung thành của mình đối với Đức Kitô. Cái chết của các ngài làm sáng lên sức mạnh đức tin.
2. Những thách đố Đức Tin thời nay.
Làm sao chúng ta có thể sống đức tin mạnh mẽ như các Thánh Tử Đạo. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời xưa.
Nhưng ngày nay có rất nhiều thách đố đức tin với tín hữu Việt Nam.
– Vô thần duy vật
Thách đố trước hết đối với Đức Tin chính là môi trường mà chúng ta đang sống và “hít thở”, đó là một xã hội vô thần duy vật. Đây một xã hội tự bản chất chối bỏ Thiên Chúa, đề cao vật chất và quyền lực. Sự chối bỏ Thiên Chúa sẽ là nguyên nhân đưa tới sự sa đọa của con người và xã hội. Khi một xã hội vắng bóng Thiên Chúa, người ta sẽ tạo ra những “thiên chúa khác” nơi một con người hoặc nơi vật chất như người Do Thái trong Cựu Ước đã đúc ‘bò vàng” để thờ như thờ Thiên Chúa. Xã hội chạy theo sức hấp dẫn của đồng tiền. Của cải và quyền lực lên ngôi. Thang giá trị đạo đức bị đảo lộn. Người ta tìm mọi cách kiếm tiền để có quyền. Khi có chức quyền thì càng kiếm được nhiều tiền. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Để có nhiều tiền, nhiều người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa, buôn bán ma túy, tham nhũng, hối lộ… Tiền bạc qủa là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá những gía trị, biến chất con người. Trong xã hội đó, nhiều người Công Giáo cũng bị cuốn hút vào ma lực của đồng tiền, nên dễ đánh mất Niềm Tin, xa rời Giáo Hội.
– Gian dối và lừa lọc lên ngôi
Thách đố thứ hai của Đức Tin, đó là xã hội Việt Nam đang báo động bởi đầy dẫy những bất công, lạm quyền và giả dối lan tràn. Đạo đức suy thoái, lương tâm và nhân phẩm bị xúc phạm. Mấy câu thơ sau đây có thể tóm tắt thực trạng xã hội:
“Nhân phẩm ngày nay giảm giá rồi,
Chỉ còn thực phẩm tăng giá thôi,
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực,
Chân lý chân giò một giá thôi.”
Sống trong môi trường như thế, nhiều người lập luận: người ta gian dối mà mình trung thực là mình thua thiệt! Có những người Công Giáo cũng hành xử như người không tin, cũng lừa lọc, gian lận đủ cách để làm sao mình có lợi.
– Sự đề cao hưởng thụ cá nhân
Chúng ta đang phải đối diện với một nền văn hóa bị thống trị bởi lối sống hưởng thụ ích kỷ. Trong đó, con người chạy theo lối sống hưởng thụ cá nhân, biến người khác thành một món hàng để chiếm đoạt và mua bán. Tương quan yêu thương và nhân bản bị xếp sau tương quan trao đổi và lợi ích kinh tế. Xã hội này đã sinh ra những đứa con “quái thai” trong cách sống: bằng mọi cách để kiếm tiền và hì hục hưởng thụ! Khi sống theo lối sống này, con người trở nên ích kỷ, quy ngã, hời hợt, và ít quan tâm đến người khác, thiếu khả năng liên vị, không biết tôn trọng và yêu thương người khác. Quan sát cách hành xử của người Việt Nam ở nơi công cộng và nhất là khi tham gia giao thông, sẽ thấy người ta tranh giành nhau, chụp giật và manh mún theo kiểu mạnh ai người ấy thắng, cá lớn nuốt cá bé. Cách sống nói lên não trạng và tâm tính con người. Đó là một tình trạng đáng buồn cho xã hội Việt Nam hôm nay!
– Chủ trương duy tương đối
Còn có một thách đố lớn hơn đối với Đức Tin mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI luôn cảnh báo, đó là chủ trương duy tương đối. Chủ trương này khiến cho con người hôm nay không còn muốn chấp nhận các chân lý tuyệt đối nữa, không quy chiếu và sống theo một chuẩn mực luân lý hay giá trị đạo đức khách quan nào nữa. Tất cả là tương đối và mỗi người có thể thay đổi các chân lý và sống theo những chọn lựa và chuẩn mực cá nhân. Đây là sai lầm căn bản dẫn đến những sai lầm khác của con người hôm nay. (x. Những thách đố đối với Đức Tin trong xã hội hôm nay; lamhong.org).
Những lối sống và não trạng trên đã và đang len lỏi vào các ngõ xóm, các xứ đạo của chúng ta.
3. Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô
Năm Đức Tin là thời gian và cơ hội quý báu giúp mọi Kitô hữu “tái khám phá hành trình Đức Tin để luôn làm nổi bật niềm vui và lòng hăng say mới của việc gặp gỡ Đức Kitô” đồng thời, “khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng” (Tự sắc Porta Fidei, số 2 và 9).
Đức Giáo Hoàng Biển Đức dạy: “Năm Đức Tin sẽ là một cơ hội thuận tiện để tăng cường việc cử hành Đức Tin”. Cử hành đức tin là tuyên xưng, sống và làm chứng cho Đức Tin. Tuyên xưng Đức Tin như Kinh Tin Kính dạy và như Hội Thánh công bố. Tuyên xưng Đức Tin trong mọi hoàn cảnh sống khi an vui, hạnh phúc và thành công, cũng như khi đau khổ, bệnh tật, thất bại hay khủng hoảng. Cử hành Đức Tin bằng việc nhiệt thành dấn thân thực hiện công cuộc truyền giáo với cách thức mới mẻ và hiệu năng hơn. Cử hành Đức Tin bằng sự chuyên cần cử hành và lãnh nhận các bí tích. Cử hành các bí tích là cử hành mầu nhiệm các đức tin, nhất là bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Đức Tin là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa đã ban tặng. Đức Tin là “cửa” mở ra, đưa chúng ta đi vào đời sống kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và bước vào Hội Thánh của Người. Đức Tin là bảo chứng mang lại ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
Đức Tin bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là dịp để học hỏi nơi cuộc đời chứng nhân của các ngài. Chúng ta được tiếp thêm sức mạnh Đức Tin để sống đạo giữa biết bao thách đố của thời đại hôm nay. “Hãy bén rễ sâu trong Đức Kitô, xây dựng trên nền tảng Đức Kitô và được củng cố trong đức tin” (Cl 2, 7), chúng ta sẽ được tràn đầy sức mạnh Đức Tin.

55. Tử đạo
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ:
– Người ta sẽ ghét bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày.
Lời tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm.
Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế nhưng như người ta vẫn thường bảo:
– Cái đe làm cho chiếc búa bị hỏng.
Thế gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công du.
Từ đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm, đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc, để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô đã nói:
– Những người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục vọng vào thập giá.
Chính những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục, thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.

56. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, thì đa số là giáo dân. Thánh Inê Đê là một phụ nữ chân quê, thánh Tô ma Thiện là một chủng sinh còn trẻ, thánh Âu-gút-tin Nguyễn văn Mới là một nông dân. Nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài khẳng khái làm chứng cho Tin Mừng Đức Kitô. Các thánh đã bền vững đến cùng trong lòng tin vào Chúa, nêu gương sáng cho cháu con hôm nay.
Kn 3: 1-9
“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Các thánh tử đạo là những người công chính đã được Thiên Chúa tôi luyện như vàng trong lò lửa và “thấy họ xứng đáng với Ngài”. Họ là những người làm chứng cho lòng tin ở Chúa. Lòng tin ấy sẽ “rực sáng như tia lửa bén nhanh giữa rừng sậy”.
1Cr 1: 17-25
Giáo Hội Việt Nam hôm nay hân hoan mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong hàng ngũ các ngài, ngoài các vị là giám mục, linh mục, đa số là giáo dân. Các ngài không phải là những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng các ngài là những chứng nhân cho “Đức Ki-tô bị đóng đinh vào Thập Giá”. Vì thế, Thiên Chúa đã chọn các ngài, những người mà thế gian coi như điên rồ, được hưởng phúc trên Nước Trời.
Mt 10: 17-22
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã lần lượt bị điệu đến quan quyền để làm chứng cho đức tin. Đa số các ngài là những dân quê hiền lành chất phát, nhưng ơn Chúa đã giúp các ngài đối diện với vua quan, đã dạy các ngài phải nói gì, và cuối cùng các ngài đã bền vững trong lòng tin vào Chúa, nên gương sáng cho cháu con hôm nay. Quả thật, như lời của thánh Âu-gút-tin: “Trên mảnh đất đã gieo nhiều hạt giống đẫm máu, mảnh đất đó càng phát sinh nhiều vị tử đạo, và rồi hạt giống đó sẽ kết thành mùa lúa vàng của Giáo Hội. Các thánh tử đạo chết đi càng là chứng nhân cho Chúa Ki-tô hơn là lúc còn bình sinh. Ngày nay các ngài vẫn còn đang nói, vẫn còn đang giảng thuyết. Miệng lưỡi tuy im bặt, nhưng bao nhiêu sự việc còn vang dội sâu xa”.
BÀI ĐỌC I (Kn 3: 1-9)
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan đánh dấu một khúc quanh quan trọng về cuộc sống mai sau của con người. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.
1. Quan niệm Cựu Ước về sự sống lại
Trong lịch sử dài này, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “nhân quả”: “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay từ cõi đờinàyphát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống mai hậu. Tất cả mọi người, dù thiện hay ác, khi từ giã cõi đời này đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trong thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế này. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 Tcn) xao xuyến nêu lên vấn đề “họa vô đơn chí” giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với bọn ác nhân ở bên kia nấm mồ. Các thánh vịnh gia công bố rằng người công chính sẽ được hưởng hạnh phúc vinh hiển trước Nhan Thiên Chúa muôn đời (Tv 16, 17, 49, 73).
Tiếp đó, niềm tin vào kẻ chết sống lại vào ngày chung thẩm xuất hiện. Vào thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái thật khủng khiếp, những người tử đạo chết trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống mai hậu (2Mcb 7: 1-38).
Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin của người Hy lạp vào sự bất tử của linh hồn như một sự củng cố cho niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu của dân Do thái, dù vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp này không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng Kinh Thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác được ví như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bĩ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
2. Quan niệm sai lầm về con người
Trong đoạn văn trước đó (ch. 2), tác giả sách Khôn Ngoan đã phản bác quan niệm duy vật sai lầm về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật này, không có chỗ nào được dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
Sách Khôn Ngoan được viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở A-lê-xan-ri-a cho những đồng bào của mình, họ đang bị những sức hấp dẫn của nền văn minh ngoại giáo chung quanh cám dỗ. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
3. Quan niệm đích thật về con người
Ở trung tâm tiến trình lập luận của mình, tác giả đã đặt Mặc Khải thiết yếu nhất liên quan đến con người: “Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23) như chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử. Từ đó, tác giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa; họ đang hưởng an bình”.
Tất cả những khai triển này mang đậm nét Kinh Thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết học nhị nguyên của Platon. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên triết thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
Từ nay, vấn đề sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách như “lửa thử vàng, gian nan thử đức” nhằm tôi luyện cuộc đời của các tôi trung của Thiên Chúa thành “của lễ toàn thiêu” .
4. Vinh quang chung cục
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”. “Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ kinh thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung. Những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo. Chính trong chiều hướng này mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26). Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định vị thế các môn đệ Ngài trong Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.
5. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm
Niềm hy vọng lớn laonàyđược đặt để vào tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính ở nơi tình yêu, ân phúc và từ tâmnàymà những người công chính sống. “Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật, và những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân huệ, và thương xót những ai được Người tuyển chọn”. Lời kết thúc của Bài Đọc Inàyđược viết trước các sách Tin Mừng một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một tiến trình liên tục từ Mặc Khải Cựu Ước đến Mặc Khải Tân Ước.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 17-25)
Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô vào Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, được cấu trúc rất chặc chẽ. Tuy nhiên, cần phải đặt nó vào trong văn mạch để hiểu rõ hơn tư tưởng của thánh nhân.
Xin nhắc lại ngắn gọn: cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô chia rẽ nhau về các vị rao giảng của họ, tạo nên các bè phái ở giữa họ. Cực lực chống lại việc chia năm xẻ bảy nầy, thánh Phao-lô lớn tiếng chỉ trích cách hành xửnàykhông phù hợp với tinh thần Tin Mừng.
1. Sự khôn ngoan của thế gian (1: 17-21)
Đáp lại những kẻ tự phụ mình “thông thái”, thánh nhân nhắc nhở rằng ngài đã rao giảng cho họ không phải bằng lời lẽ khôn khéo, nhưng sự điên rồ của thập giá trái với đòi hỏi điềm thiêng dấu lạ của người Do thái và tìm kiếm lẽ khôn ngoan của người Hy lạp.
Dân Do thái chờ đợi một Đấng Mê-si-a thực hiện những điềm thiêng dấu lạ, một Đấng Mê-si-a quyền năng và chiến thắng. Dân Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, tức là một cuộc sống quân bình, mực thước và điều độ, không có nó không một xã hội nào có thể bền vững được. Đó là điều mà tất cả mọi hệ thống triết học đều đề cao.
Hai quan niệm, Do thái và Hy lạp, rất khác biệt nhau, nhưng không có quan niệm nào phù hợp với hình ảnh Thập Giá được.
Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh Phao-lô đã gặp phải hai chướng ngại này. Biết bao người Do thái đã không thể chấp nhận Đấng Mê-si-a chịu khổ nhục trên thập giá. Ở An-ti-ô-ki-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và những nơi khác, thánh Phao-lô đã bị những người Do tháinàybách hại.
Còn đối với dân Hy lạp và sự khôn ngoan của họ, thánh Phao-lô đã chạm trán với họ ở A-thê-na. Thánh nhân cố gắng thuyết phục họ nhưng vô ích. Họ mong chờ những bài diễn từ lời hay ý đẹp, trong khi thánh nhân rao giảng một con người thập toàn bị đóng đinh trên thập giá. Quả thật, bản văn cho thấy rằng việc rao giảng Thập Giá khó lòng mà thuyết phục con người. Đối với người Hy lạp, ưu phẩm hàng đầu của một vị thần chính là Mỹ, vì thế Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng con người không thể nào sánh ví với hình ảnh của một vị thần linh.
2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1: 22-25)
Nhưng Thập Giá không là một bài diễn từ lời hay ý đẹp, nhưng là một sự kiện, một sự kiện lạ thường, ở đó ẩn dấu sự khôn ngoan của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những kỳ vọng của con người.
Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, một trong những bài học lớn lao đó là: “dạy mầu nhiệm đau khổ như một yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Chung chung, thần học của thánh Phao-lô không bao giờ tách rời biến cố Tử Nạn ra khỏi mầu nhiệm Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là trường hợp ngoại lệ và có chủ đích. Đối mặt với sự tự mãn của con người, thánh nhân nhấn mạnh hình ảnh độc nhất về “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”.
TIN MỪNG (Mt 10: 17-22)
Mặc dù đoạn Tin Mừng dành cho ngày đại lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được trích từ Mt 10: 17-22, nhưng để hiểu sâu xa đoạn Tin Mừng này chúng ta sẽ đặt nó vào trong toàn bộ phân đoạn của nó, nghĩa là từ 10: 17-25. Đây là phân đoạn thứ hai về những huấn thị bách hại (10: 17-25) được phân biệt rõ nét với phân đoạn thứ nhất về những huấn thị truyền giáo (10: 1-16).
Phân đoạn thứ nhất nêu bật chủ đề uy quyền hay quyền năng phi thường mà Đức Giê-su ban cho những ai mà Ngài sai đi loan báo Nước Trời. Trong phân đoạn nầy, không có bất kỳ ám chỉ chính xác nào về đau khổ. Thật ra, đoạn văn 10: 13b-16 ám chỉ đến việc người đời có thể không tiếp đón các môn đệ (10: 13b-15) và cảnh báo rồi những hiểm nguy đang rình rập chờ đón họ: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (10: 16). Tuy nhiên, những đối kháng này vẫn mơ hồ và một bầu khí chiến thắng xem ra phải ngự trị trên hoạt động truyền giáo.
Khởi đi từ 10: 17, những huấn thị được đặt trên một dấu nhấn hoàn toàn khác: những cuộc bách hại sắp đến. Các môn đệ không chỉ bị thù ghét, nhưng những thử thách sắp tới của họ được mô tả một cách chính xác đến nỗi chúng ta có thể định vị môi trường của chúng nữa. Chúng ta có thể phân chia phân đoạn thứ hainàythành: cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-20), cuộc bách hại trong gia đình (10: 21-22), thái độ cần phải có trong hoàn cảnh bách hại (10: 23) và phần kết luận (10: 24-25) cho toàn bộ phân đoạn thứ hai này (10: 17-25).
1. Cuộc bách hại ngoài xã hội (10: 17-21):
Phần mở đầu của câu 17: “Hãy coi chừng người đời” lập lại chủ đề về sự cẩn trọng của câu 16 nhưng với những thuật ngữ hoàn toàn khác. Động từ “coi chừng” mặc lấy hai nét nghĩa: hoặc bác bỏ, từ chối điều gì đó (như 7: 15; 16: 6) hay đề phòng cảnh giác trong hoàn cảnh khó khăn nào đó (như 6: 1). Văn mạch nhấn mạnh đến nét nghĩa thứ hai: Đức Giê-su không khuyên các môn đệ của Ngài nên trốn chạy khỏi “người đời” nhưng trong những gặp gỡ của họ với người đời, nên giữ mình khỏi mọi ảo tưởng. Họ đừng quên rằng Thầy của họ đã bị những người đời này tìm cách khai trừ, loại bỏ. Phần tiếp theo của câu 17 cho thấy rằng “người đời” này không ai khác là người Do thái: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ”.
Tuy nhiên, câu 18 cho thấy bối cảnh của cuộc bách hại có thể vừa ở trong xứ Pa-lét-tin nhưng cũng vừa ở bên ngoài xứ Pa-lét-tin. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, các Ki tô hữu đừng quên rằng những cách hành xử đầy bạo lực này có một ‎ ý nghĩa, đó là dịp là cơ hội “làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” về Đức Ki-tô và Nước Thiên Chúa. Lời chứng này nêu bật tính chất vừa công chúng vừa chính trị nữa. Các vua chúa và dân chúng có dịp nghe nói về Đức Giê-su và Nước Trời.
Câu 19-20 là lời hứa của Đức Giê-su cho các môn đệ trong hoàn cảnh bị bách hại. Chính vì làm chứng cho Thầy mình mà họ không cần lo nghĩ phải nói gì, vì trong giờ đó Thiên Chúa sẽ ban cho họ Thần Khí để giúp họ như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói gì” (Xh 4: 12).
Câu 20: “Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em”, mới nhìn thoáng qua, khiến nghĩ đến một sự gợi hứng máy móc loại bỏ tất cả sự dự phần của chứng nhân. Nhưng không phải như thế; trái lại hai cụm từ “anh em” và “trong anh em” nhấn mạnh rằng ân huệ này được ban cho các chứng nhân không như những khí cụ thụ động nhưng còn ở trong họ và bởi họ nữa.
2. Cuộc bách hại ngay trong gia đình (10: 21-22)
Song đối với 10: 17-20 ở trên, các câu 10: 21-22 bao gồm một lời cảnh báo về cuộc bách hại và một lời hứa. Câu 21 cảnh báo rằng ngay cả những người thân thuộc trong gia đình cũng sẽ tố cáo họ vì họ dám chấp nhận cái chết để tin vào Đức Giê-su. Còn câu 22 đề cập đến việc họ sẽ bị mọi người thù ghét vì Ngài nhưng hứa rằng những ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ.
3. Thái độ phải có trong hoàn cảnh bách hại (23)
Câu 23 diễn tả thái độ phải có trong hoàn cảnh bị bách hại. Người Ki tô hữu không phải đưa thân mình ra cho những kẻ bách hại mình, nhưng “khi người ta bách hại anh em trong thành nầy, thì hãy trốn chạy sang thành khác”, bởi vì nếu thành này xua đuổi họ đi thì có thành khác để loan báo Tin Mừng. Như vậy, sứ mạng loan báo Tin Mừng vẫn phải là bổn phận cho đến cùng.
4. Phần kết luận (10: 24-25)
Hai câu 24-25 là phần kết luận của phân đoạn này. Các môn đệ của Đức Giê-su không mong đợi một vận mệnh nào khác ngoài vận mệnh của Thầy mình, Đấng bị khinh bỉ, bị ruồng bỏ, bị khai trừ và cuối cùng bị án tử trên thập giá. Thầy và trò, chủ và tớ được đặt vào trong cùng một số phận: “Trò được như Thầy, tớ được như chủ”. Tuy nhiên, diễn ngữ này không giới thiệu một sự so sánh nhưng là căn tính về vận mệnh trần thế giữa Thầy và trò. Nếu cả hai đều chia sẽ cùng một vận mệnh: đau khổ, bị bách hại và bị án tử, điều đó không muốn nói rằng Thầy khai mở cho môn đệ của mình sống lại cuộc mạo hiểm mà chính Thầy đã kinh qua. Cả hai giống nhau trong những diễn biến bên ngoài nhưng lại khác nhau trong ý nghĩa và tầm mức. Đau khổ của Đức Giê-su là đau khổ của Đấng ở nơi Ngài Nước Thiên Chúa đã đến gần (10: 7) trong khi đau khổ của người môn đệ là đau khổ của một chứng nhân về Nước Thiên Chúa này (10: 18).

57. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
Bạn thân mến!
Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?
Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!
Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.
Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?
Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi! Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.
Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:
Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.
Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.
Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.
Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.
Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.
Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”
Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.
Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.
Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.
Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!
Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:
* Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?
* Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái, ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.
* Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!
* Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!
Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

58. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)
Chúng ta vui mừng vì hôm nay có một ngày lễ kính các thánh của quê hương đất nước chúng ta đó là lễ các thánh tử đạo Việt nam.
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhận xét: sau Giáo hội Roma thì Giáo hội VN cũng bị cấm đạo gay gắt và có con số tử đạo cũng đông không kém.
Kể từ sắc dụ cấm đạo năm 1625 đời Chúa Sãi đến thời Văn Thân năm 1886, trải qua hơn 300 năm đạo Chúa bị cấm cách ở Việt Nam, con số tử đạo lên tới 130.000 kitô hữu: sở dĩ con số lớn như vậy vì ngoài những vị chịu chết do án lệnh của các vua, còn có rất nhiều người công giáo bị đầy chết trên rừng thiêng nước độc hay bị phong trào Văn Thân tàn sát tập thể có khi tới hơn 400 người trong một lúc và trong số đông đảo các vị tử đạo đó, đã có 117 vị đã được phong thánh và 1 vị chân phước bao gồm 97 vị là Việt nam, 11 là Tây ban nha và 10 vị là Pháp trong đó có 8 giám mục, 50 linh nục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh và 44 giáo dân. Các thánh giáo dân này làm đủ nghành nghề trong xã hội Việt nam: có vị làm quan triều đình, có vị làm nghề thu thuế, làm binh lính, làm y sĩ, buôn bán và nông dân. Những vị này bị bắt và không có quá khóa tức là không bước qua Thánh giá để chối đạo, sau khi bị giam cầm xét xử rồi được án lệnh vua từ kinh đô cho đem đi xử tử. Khi đó tùy theo đánh giá tội trạng của Vua quan, các vị tử đạo phải chịu một trong các hình tội như sau:
1) Bá đao: bị xẻo da thịt làm 100 mảnh: có 1 vị
2) Lăng trì: chặt tay chân, mổ bụng rồi quăng xuống sông: 4 vị
3) Thiêu sinh: cho lên dàn thiêu sống: 6 vị
4) Xử giảo: Thắt cổ: 22 vị
5) Xử trảm: Chém đầu: 76 vị
6) Rũ tù: Giam cầm cho tới khi chết: 9 vị
Qua các triều Vua như sau:
– Triều Nguyễn: 1745 – 1774: 4 vị
– Đời Vua Cảnh Thịnh: 1788 – 1801: 2 vị
– Vua Minh Mạng: 1820 – 1840: 58 vị
– Thiệu Trị: 1841 – 1847: 3 vị
– Tự Đức: 1847 – 1883: 50 vị
Cha Anrê Dũng Lạc bị bắt tới lần thứ ba, 2 lần trước giáo dân đưa tiền tới quan để chuộc về, lần III ngài nhận ra ý Chúa muốn ngài chịu tử đạo nên khi giáo dân đưa tiền chuộc, ngài không chịu và xin cho mình được chịu chết vì Chúa. Cha Luca Vũ Bá Loan 84 tuổi: Có 2 tội phạm bàn với nhau bắt ngài nộp cho quan để lập công, nhưng khi họ giải tới quan huyện, quan không nhận; do đó họ đem giải ngài tới tận Thăng long và ngài bị chém đầu ngày 5/6/1840.
Thánh Anrê Kim Thông do có đứa cháu hoang đàng tố cáo nên ngài bị bắt và chấp nhận chịu khổ hình vì Chúa, được phúc tử đạo trên đường phát lưu khi tới Mỹ tho.
Bà Inê Đê bị bắt vì giúp đỡ các cha cố trú ẩn trong nhà bà ở làng Phúc Nhạc, Phát diệm; bà bị tra tấn tới kiệt sức và chết rũ tù ngày 12/7/1841. Chủng sinh Tôma Thiện tử đạo năm mới có 18t.
Thánh Marchand Du, vị linh mục thừa sai Pháp là người duy nhất chịu tử đạo bằng khổ hình bá đao; đầu tiên lí hình lóc da đầu để che mặt rồi sau cứ mỗi tiếng trống lại lóc thêm da thịt ở các phần khác trên thân thể cho tới khi đủ 100 miếng, nhưng khi lóc chưa tới 100 thì ngài đã tắt thở.
Ông Micae Hồ đình Hy giữ chức thái bộc trong triều đình Huế và quan án Đaminh Phạm trọng Khảm chịu mất chức và cả mạng sống mình chứ không chối Chúa. Đó là chưa kể có rất nhiều người Công giáo bị thích chữ tả đạo trên má.
Đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết”. Các vị tử đạo đã dùng chính cơ hội này để làm chứng cho Chúa rất ư là hữu hiệu!
Chứng từ trở nên hùng hồn và đầy thuyết phục qua lời tuyên xưng đức tin nhất là qua cái chết can đảm vì đạo Chúa. Ông Tertulianô đã nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống sinh ra nhiều kitô hữu”; một lời khác đáng ghi: “Hạt giống Phúc âm gieo vào mảnh đất đẫm máu tử đạo sẽ trổ sinh mùa lúa dồi dào”. Chúng ta thấy rõ Giáo hội Việt nam được như ngày nay là do dòng máu các thánh tử đạo đã đổ ra. Đức Giám mục Giuse Võ đức Minh giáo phận Nha trang thường nhấn mạnh mấy tiếng “Từ dòng máu tử đạo … “
Chúa Giêsu đã hứa phần thưởng cho những ai chịu bách hại: “Nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ”. Chết vì đạo là dấu chứng bền đỗ đến cùng rõ rệt nhất. Chính vì thế khi Giáo hội phong thánh đối với những người không chịu tử đạo thì đòi phải có phép lạ còn đối với các vị tử đạo thì không cần điều này.
Chúng ta là dòng dõi, là con cháu các thánh tử đạo Việt nam, chúng ta cảm tạ Chúa vì gương sáng đức tin và cuộc sống đạo tốt đẹp của các ngài. Như các vị tử đạo đã làm chứng cho Chúa, chúng ta nguyện sẽ là nhân chứng cho Chúa để mỗi người chúng ta cũng được ơn cứu độ vì đã bền đỗ đến cùng. Amen.

59. Các chứng nhân Kitô giáo
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ vào dịp đại lễ kính nhớ Tổ tiên ông bà Tử Đạo Việt Nam, đoàn tín hữu, con dân đất Việt lại thêm một lần được củng cố niềm tin. Ít ra, “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Để sống xứng danh là cháu con các anh hùng tử đạo, Kitô hữu Việt Nam cần hiên ngang, anh dũng một cách nào đó trong niềm tin, trong cách sống đạo của mình. Trong tâm tình ấy, xin phác họa đôi nét về chân dung các Thánh Tử đạo Việt Nam như là những chứng nhân Kitô giáo.
1. Chứng từ khả tín của các chứng nhân: Xin được gọi các Ngài bằng nghĩa gốc của từ “tử đạo” là “chứng nhân” (martyr).
Thiết tưởng cần trở về với nghĩa gốc là chứng nhân hơn là tử đạo, cho dù hai từ tử đạo đã quá phổ biến trong cách dùng. Bởi vì hai từ tử đạo có vẻ như đang bị méo mó ý nghĩa một cách nào đó khi mà vô tuyến truyền hình tường thuật những người ôm bom tự sát để giết hại nhiều người, trong đó có cả thường dân vô tội, và họ cũng tự cho là tử vì đạo. Hơn nữa một thánh tử đạo trong tôn giáo này chưa chắc được kính trọng bởi người của tôn giáo khác cho bằng các thánh hiển tu hay các thánh xả thân vì tình yêu đồng loại.
Nói đến chứng nhân là nói đến những người dùng chính cuộc sống của mình, dùng cả sự sống và sự chết của mình để làm chứng cho một lý tưởng cao đẹp như nền hòa bình của nhân loại hay sự độc lập tự do của dân tộc… hoặc cho một niềm tin tôn giáo. Khi có ai, có một tập thể nào hiến dâng cả cuộc sống, hiến dâng cả mạng sống để làm chứng về một chân lý nào đó thì chứng từ ấy có tính khả tín nghĩa là chân lý có tính thuyết phục và đáng tin theo. Tuy nhiên mức độ khả tín của các chứng từ còn tùy thuộc vào cách thế làm chứng của các chứng nhân.
Qua cuộc sống, nhất là sự hiến dâng mạng sống của các chứng nhân Kitô giáo, của cha ông anh hùng hy sinh vì đức tin, chúng ta nhận ra mức độ trỗi vượt của tính thuyết phục nơi cách làm chứng của các Ngài. Nếu xét về hình thức chịu cực hình cho đến chết như bị “rũ tù” (bị tra tấn và giam tù cho đến chết), “xữ giảo” (bị thắt cổ cho chết),”xữ trảm” (bị chém đầu), “lăng trì” (bị ném cho voi chà đạp, xé xác), hay “bá đao” (bị róc từng mãnh thịt cho đến chết), thì các bậc cha ông chúng ta tuy có bị khổ hình ghê rợn, thế nhưng các anh hùng dân tộc nhiều khi cũng đã can đảm đón nhận các cực hình tương tự không kém.
Nét trổi vượt và cũng là nét khác biệt nơi chứng từ của cha ông chúng ta đó là cách thế đón nhận khổ hình. Không một ai tự mình quyên sinh và nhất là khi bị khổ hình, không một ai căm phẩn, hận thù hay hô đả đảo những người bắt bớ, giết hại mình. Các Ngài khoan thai, an bình, có khi tỏ vẻ hân hoan và cầu nguyện cho cả người giết hại mình đến độ nhiều “đao phủ” đã phải thành khẩn xin tha thứ trước khi hành hình các Ngài. Một thái độ làm chứng nhân khó thấy, hiếm thấy và có thể nói là không thấy có nơi các anh hùng dân tộc khi chịu cực hình, chịu chết vì lý tưởng. Và đây chính là nét khả tín tuyệt vời của nhứng chứng nhân bỏ mình vì “danh Đức Kitô”.
2. Nội hàm chứng từ của các chứng nhân Kitô giáo: Nghĩa là các chứng nhân Kitô giáo, cách riêng tổ tiên anh hùng Việt Nam chúng ta đã hiến dâng cả cuộc sống, cả mạng sống để làm chứng về những điều gì? Xin thưa đó là về “chân lý đức tin” và “Tin Mừng cứu độ”.
– Chân lý đức tin: Chân lý đức tin Kitô giáo thì nhiều, nhưng có thể nói một chân lý nền tảng mà tổ tiên ta đã anh dũng làm chứng đó là: Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, ta phải tôn thờ và yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ta, vì ngoài Người ra thì không có đấng nào khác (x.Dnl 6,4-7; Mc 12,28-34).
Tôn thờ một ai đó, một Đấng nào đó là nói lên sự thần phục, sự lệ thuộc của mình với Đấng ấy, với người ấy. Môt trong những hình thức biểu lộ sự thần phục hay thờ phượng đó là sự phủ phục. Ta phủ phục trước một Đấng nào đó là ta nhìn nhận những gì ta đang là, ta đang có đều do Đấng ấy ban tặng. Kitô hữu chỉ dâng tâm tình thần phục, phượng thờ này lên một mình Thiên Chúa mà thôi. Và dĩ nhiên tâm tình, thái độ ấy kéo theo hệ quả tất yếu là xem các loài khác như mặt trời, mặt trăng, sông núi…chỉ là loài thọ tạo do Chúa dựng nên. Ngay cả loài thọ tạo cao trọng nhất trong các loài hữu hình là loài người thì dù là kẻ quyền thế, nhiều tiền, cao đức, trọng vị…cũng chỉ là loài phàm hèn không hơn không kém. Có thể có người, có vị đáng trọng, đáng kính vì tài đức cao dầy, nhưng không phải là người để ta phải lệ thuộc hay thần phục, nghĩa là bày tỏ sự tôn thờ.
Sự thường một ai đó, khi đã ở ngôi cao, khi đã nắm trong tay quyền lớn thì rất dễ bị cám dỗ muốn tuyệt đối hóa uy quyền của mình. Và một trong những cách thế để tuyệt đối hóa quyền lực và danh phận của mình thì phải tự phong thần, phong thánh cho mình bằng cách này cách khác. Các vua chúa ngày xưa đã từng tự xưng là thiên tử (con trời) và thế là bắt mọi người thần phục mình cách tuyệt đối. Nếu sống và hành xử như “con của trời” thì vẫn tốt, đằng này họ lại hành xử như là những“ông trời con”. Xưa vua Nabunôcônôdo của đế quốc Ba Tư ngày xưa đã cho tạc tượng mình để bắt thần dân thờ lạy. Và nay vẫn có người, có tập thể muốn kẻ khác lệ thuộc mình bằng việc “thần thánh” hóa bản thân hay luật pháp hóa cái thể chế, cái tổ chức, cơ cấu của mình.
Ngày nay người ta khi đã có quyền, có thế cũng có thể bắt kẻ khác suy tôn mình, suy tôn tập thể của mình…là muôn năm, là bất diệt… Và thế là hễ có ai không chịu thần phục, không chịu lệ thuộc thì tức khắc sẽ bị bắt bớ, đàn áp, thậm chí là loại trừ. Vác thập giá là thân phận của Kitô hữu mọi thời, mọi nơi. Tuy nhiên đó là niềm vinh dự cho đoàn con cái Chúa, vì là cách thế tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất hùng hồn và rõ nét.
– Tin Mừng cứu độ: Đây cũng là một điều chính yếu nữa mà các anh hùng “tử đạo” đã làm chứng bằng giá máu của mình. Tin mừng cứu độ là tình yêu của Thiên Chúa đuợc thể hiện cách hoàn hảo, trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô chính là Tin Vui, Tin bình an cho nhân loại và cho mọi loại. Cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Đức Kitô là Tin vui, tin an bình cho con người. “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).
Không phải chỉ yêu thương những người dễ yêu, yêu những người thân cận, người làm ơn làm phúc cho mình…mà còn yêu cả những người bé mọn, cô thế, cô thân, bất phân màu da, sắc tộc, ngôn ngữ hay chính kiến và yêu cả những người thù ghét mình, làm hại mình (x.Lc 6,27-35).
Tổ tiên ông bà “tử đạo” chúng ta đã mình chứng cho Tin vui cứu độ ấy bằng cuộc sống của mình cho dù phải bị hiểu lầm là bỏ ông, bỏ bà, bỏ tổ tiên, cho dù phải bị gán ghép là phản quốc, bán dân hại nước. Quả thật với một tình yêu không biên giới ấy, xưa kia Đức Giêsu đã từng bị nhiều người đồng hương Nagiarét căm phẩn tìm cách xô xuống vực thẳm (x.Lc 4,28-29). Người cũng đã từng bị nhiều người tự cho mình là công chính tố cáo là hay lui tới và cùng ăn uống với “quân thu thuế và phường tội lỗi” (x.Lc 15,1-2).
Trò không thể hơn thầy. Nếu người ta đã đối xử với Thầy Giêsu ra sao thì các môn đệ cũng sẽ chung số phận ấy nếu họ sống chứng nhân cho Chân lý đức tin và cho Tin Mừng tình thương (x.Ga 15,18-27). Chân dung các chứng nhân đã được một tác giả vô danh khoảng đầu thế kỷ thứ II mô tả cách sống động như sau:“ Họ sống trong xác thịt, nhưng không theo xác thịt. Họ sống ở trần gian, nhưng là công dân Nước Trời. Họ tuân hành luật pháp, nhưng cách sống của họ vượt lên trên những đòi hỏi của luật pháp. Họ yêu thương mọi người, nhưng mọi người lại ngược đãi họ. Họ không được nhìn nhận, nhưng lại còn bị kết án. Họ bị giết mà vẫn được sống. Họ là những người hành khất, nhưng lại làm cho nhiều người nên giàu. Họ thiếu thốn mọi sự, nhưng lạ dư dật mọi sự. Họ bị sỉ nhục, nhưng giữa những sỉ nhục họ lại được vinh quang. Danh thơm của họ bị chà đạp nhưng bằng chứng về đời sống công chính của họ lại được phô bày. Bị nguyền rủa, họ chúc lành; bị đối xử nhục nhã, họ tỏ lòng kính trọng. Khi làm điều thiên, họ lại bị trừng phạt như những kẻ bất lương. Khi bị trừng phạt, họ làm như được sống. Người Do Thái giao chiến với họ như những kẻ ngoại bang, còn dân ngoại thì ngược đãi họ, còn những kẻ ghét họ thì không thể nói lý do tại sao lại căm thù họ” (Trích thư gửi ông Điônhêtô – Bài đọc 2 – Kinh Sách Mùa Phục Sinh – Thứ Tư – Tuần V).

60. Các tôi trung kiên cường
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Từ ngữ “tử đạo” vốn dễ được mến mộ theo nguyên nghĩa của từ gốc. Tử đạo là làm chứng. Các Thánh Tử đạo là những vị đáng tôn kính cách đặc biệt. Trong Kitô giáo, các Ngài được xếp sau hàng các Thánh Tông đồ và một vài Đấng đặc biệt như Mẹ Maria, Thánh cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả. Thế nhưng, chúng ta cần chân nhận một thực tế đó là hàng Thánh Tử đạo thường mang tính cục bộ của từng tôn giáo. Một vị tử đạo trong tôn giáo này chưa hẳn được trân trọng bởi người tôn giáo khác so với các bậc Thánh hiển tu, nhất là những vi Thánh có đời sống nổi bật về đức ái. Hơn nữa hai từ tử đạo ngày nay xem ra đang bị lợi dụng và cả lạm dụng khiến người ta dễ nghi ngờ, khi mà đang có đó những người ôm bom tự sát làm thiệt hại mạng sống của nhiều người vô tội.
Nói rằng các Thánh Tử đạo là những người chịu chết vì đạo thật không sai. Tuy nhiên cái nhìn này còn hạn chế và mang dáng vẻ tiêu cực. Xin mạo muội gọi các Ngài là những vị “Thánh sống đạo bằng cả giá máu”. Các Ngài sống đạo kính mến Chúa và yêu thương tha nhân bằng cả mạng sống mình.
“Chúa Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9, 23-24). Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu ngõ những lời ấy với tất cả mọi người. Chính vì thế, đã là Kitô hữu thì chúng ta phải là những người sống đạo bằng cả giá máu. Dĩ nhiên là có người đổ máu ra cách hữu hình và có người đổ máu ra cách vô hình. Theo nội dung của bài Tin Mừng trong Thánh Lễ này, xin được gợi ý về một trong những cách thế sống đạo đến hy sinh bằng cả giá máu, đó là trung thành một cách hiên ngang với Chúa Kitô và Lời của Người. “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy…” (Lc 9 26).
Trung thành một cách hiên ngang với Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế: Theo Chúa Giêsu là phải trung thành với công cuộc cứu thế, độ nhân, phải thực thi đức bác ái với hết mọi người, bất phân chủng tộc, màu da hay chính kiến, phải sống yêu thương trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp nghịch cảnh. Quả thật cái tâm lý tìm kiếm hiệu năng trước mắt, đã khiến chúng ta tính toán quá nhiều theo cách nghĩ suy nhân loại. Một đôi khi ta cần biết khôn ngoan “đừng quẳng ngọc trai trước mặt heo”. Nhưng cũng đừng quên Thiên Chúa không ngần ngại gieo hạt giống trên các thửa đất, có khi rơi vãi trên cả vệ đường. Chỉ cần có hạt rơi vào đất tốt thì kết quả thu được sẽ lợi hơn nhiều so với phần xem như hoang phí. Hơn nữa, với ơn Chúa và sự cộng tác của con người thì dù là vệ đường, là đất cằn khô, đất gai góc đều có thể trở nên đất tốt. Khi trong tay đã đủ điều kiện vật chất lẫn tinh thần, khi điều kiện ngoại cảnh đang thuận lợi thì sẽ có đó nhiều người tuy khác niềm tin vẫn có thể thi hành việc độ thế cứu nhân. Khi điều kiện còn thiếu, hoàn cảnh còn khó khăn mà ta vẫn kiên trì trong đức ái thì đức ái của ta mới nên giống tình Chúa đã yêu thương ta. Vì khi ấy tình yêu ta dành cho tha nhân mới đậm nét vị tha.
Trung thành và hiên ngang với Lời cứu độ: Một trong những cơn cám dỗ tinh tế ma quỷ gieo vào lòng chúng ta đó là cải biến nội dung lời mạc khải cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài. Dù rằng Hội Thánh dạy ta cần học hỏi, nghiên cứu để phân biệt đâu là ý tác giả Thánh Kinh muốn trình bày theo hình thức văn chương, theo nền văn hóa của từng thời kỳ và đâu là Thánh ý Chúa muốn dạy. Có thể có sự không trùng khớp giữa những gì các tác giả nhân loại trình bày với Ý Chúa muốn dạy. Điều này ta dễ nhận ra trong Cựu Ước và cả trong Tân Ước. Tuy nhiên luôn có đó những lời mà các nhà nghiên cứu đã đồng thuận đúng là những lời đích thị từ miệng Đấng Cứu Thế (ipsisima verba). Lời Chúa, cách riêng lời của của Giêsu như lưỡi gươm sắc bén, phân rẽ tâm hồn. Chính vì thế tính thách đố luôn có trong Lời Chúa. Chúng ta nhận ra điều này nơi miệng các sứ ngôn thời Cựu Ước và cách rõ nét nơi Lời của Đấng Cứu độ. Tin Mừng tường thuật rằng khi nghe những lời của Chúa Giêsu, nhiều Biệt Phái và luật sĩ đã phải tím bầm ruột gan.
Không một ai được phép tự tiện uốn nắn nội dung Lời Chúa vì bất cứ lý do gì. Hãy để cho Lời Chúa trực diện với lòng ta, với tha nhân, với môi trường xã hội, với mọi thể chế, luật lệ của con người. Xin đừng nhân danh hiệu năng mà cắt xén hay cải biên lời Chúa. Xin chớ nhân danh đức ái mà uốn ép lời Chúa cho “mềm mại” và “dễ nghe”. Những điều “dễ nghe” và “mềm mại” thường là thiếu sự thật, ít trung thực và nếu có thì chỉ là phiếm diện. Ánh sáng thì chói chang. Sự thật thì mất lòng. Khi ta trung thành cách hiên với lời cứu độ thì thập giá luôn có đó.
Các tiên tổ anh hùng Tử đạo của chúng ta quả thực là những vị đã sống đạo yêu thương cho đến cùng. Martinô Thọ, Phanxicô Trung, Micae Hy, Emmanuel Triệu…không chỉ yêu thương vợ con, cha mẹ nhiệt tâm, nhiệt tình mà còn yêu thương bà con lối xóm, những người khốn khổ bất hạnh, yêu thương quê hương dân tộc, yêu cả vua quan, những người đang hành hạ mình. Và trên hết các Ngài yêu mến Đấng các Ngài tôn thờ, Thiên Chúa toàn năng, chí tôn, chí thiện. Các Ngài đã trung thành với Thầy Chí Thánh và lời của Người một cách dũng cảm, hiên ngang. “Tâu bệ hạ, đánh Tây thì hạ thần đánh hết mình, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ” (Thánh Phanxicô Trung) ” Chúng tôi không phạm tội ác, không chống lệnh vua, không lỗi luật nước, chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu” (thánh Phaolô Khoan). Dòng máu đào đổ ra chỉ là điểm đến của một cuộc đời sống đạo đến cùng mà thôi. Quả thật nếu như máu có đổ đến giọt cuối cùng mà không sống đạo yêu thương thì chỉ là tử nạn chứ không có tử đạo.

61. Làm chứng
Hôm nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần 300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm máu hơn.
Trong suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có 117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ, tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài.
Người ta thường nói: “An quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú, được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được. Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin nguyên vẹn.
Đàng khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết. Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để lại cho chúng ta.
Thứ hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân. Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì, bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.

62. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
THAM DỰ VÀO HY TẾ CỦA CHÚA GIÊSU
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa Giêsu tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.
Cách đây hơn 2.000 năm, Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.
Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.
Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giêsu vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.
Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giêsu không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giêsu) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”
Chúa Giêsu mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.
Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giêsu cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giêsu kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24)
Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giêsu, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt hơn 2.000 năm qua.
Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giêsu, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Chúa Giêsu mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.
Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu (giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giêsu, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giêsu là Đầu của toàn thân.” (sđd số 1368)
Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.
Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giêsu bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giêsu qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.
Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.
Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.

63. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
TỈNH THỨC TRƯỚC CƠN BÁCH ĐẠO MỚI
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.
Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc phạm vi trần thế.
Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.
Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.
Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.
Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..
Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.
Ở đấng bậc nào trong Giáo Hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.
Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.
Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.
Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.
Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay
Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.
Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.
Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa là một bức họa không hơn.
– Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.
– Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.
– Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.
– Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.
– Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.
– Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất, đến các thành phần ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)
Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.
Lạy Chúa, Giáo Hội lữ hành, và đặc biệt Giáo Hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.
Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.

64. Lửa yêu
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Lửa rất mềm mà cũng rất mạnh. Một đốm lửa có thể dập tắt bằng một hơi thổi nhẹ hoặc làn gió nhẹ, nhưng ngọn lửa lớn thì rất khó dập tắt. Lửa càng chia sẻ càng tăng thêm nhiều. Và “lửa yêu” cũng vậy!
Máu Thánh của Đức Kitô đã đổ ra vì thương xót và cứu độ nhân loại. Nhờ đó mà có nhiều người không “tham sanh, úy tử”, dám liều mạng sống vì Chúa. Đó là những nhân chứng đức tin, là các vị tử đạo. Chính máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống sinh các tín hữu. Việt Nam là quốc gia có hằng trăm ngàn nhân chứng đức tin đã xả thân vì đức tin Kitô giáo. Các ngài cũng là những người có cuộc sống bình thường như chúng ta, nhưng có cách sống khác thường, dù thời đó Việt Nam mới nhận biết đức tin Kitô giáo chưa được bao lâu.
Thánh Anrê Phú Yên (1625-1644) mới rửa tội được 4 năm, thế nhưng đức tin của ngài đã trưởng thành nên mới có thể thí mạng vì Đức Kitô khi mới 19 tuổi đời. Thánh Anê Lê Thị Thành (1781-1841), thường gọi bà Đê, là một bà mẹ Công giáo bình thường, nhưng lại có một đời sống đức tin khác thường, để rồi dám chết vì Đức Kitô. Biết tin vua Thiệu Trị ra lệnh xử trảm, Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847) vẫn thản nhiên nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.
Và còn hằng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam đã chết vì Đạo Chúa, điều mà Đức Kitô đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và đó cũng là một trong Bát Phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:10). Chúng ta quen đọc kinh Tám Mối Phúc Thật: “Phúc thay ai chịu khốn nạn vì đạo ngay ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy”.
Với người đời, những cái chết đó là dại dột, là ngu xuẩn; nhưng với Thiên Chúa lại là sự khôn ngoan. Chúa Giêsu đã giải thích: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục” (Mt 10:28). Thật vậy, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa” (Kn 3:1). Đối với những người yêu Chúa thì đau khổ chẳng nghĩa lý gì.
Như kiểu nói của người Việt là “gậy ông đập lưng ông”, tác giả sách Khôn Ngoan nói: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử” (Kn 3:2-4). Tất cả xem chừng là những nghịch lý, nhưng lại là nghịch-lý-thuận. Mọi khổ hình dã man nhất của loài người đối với các nhân chứng đức tin cũng chỉ là cách “chịu sửa dạy đôi chút”, và rồi “họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao” (Kn 3:5). Đó mới là mục đích của họ!
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Ngài: “Ngài đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3:6-7). Rồi họ sẽ được quyền “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, chính “Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời” (Kn 3:8). Thiên Chúa giúp họ lật lại thế cờ, chuyển bại thành thắng, đúng như lời Chúa hứa: “Những ai trông cậy vào Ngài, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Ngài yêu thương và cho ở gần Ngài, vì Ngài ban ân phúc và xót thương những ai Ngài tuyển chọn” (Kn 3:9).
Tác giả Thánh vịnh vui mừng trong niềm tín thác: “Chúc tụng Chúa là núi đá cho tôi nương ẩn, là Đấng dạy tôi nên người thiện chiến, luyện thành tay võ nghệ cao cường” (Tv 144:1). Tại sao? Vì “Chúa là đồng minh, là đồn luỹ che chở, là thành trì bảo vệ, là Đấng giải thoát tôi. Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp, Người bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 144:2). Chẳng có gì có thể làm cho người tôi trung phải khiếp sợ, họ vẫn thản nhiên tôn thờ Chúa và vững tin: “Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa một bài ca mới, thập huyền cầm, con gảy đôi cung. Chính Ngài cho các vua thắng trận, cứu mạng Đa-vít, kẻ trung thần, khỏi lưỡi gươm ác nghiệt” (Tv 144:9-10).
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?. Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8:31-32). Thánh nhân tiếp tục chất vấn một loạt: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8:33-35). Chính những câu hỏi đó đã ngầm chuyển tải những câu trả lời.
Có lời chép: “Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh”. Nhưng trong mọi thử thách ấy, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8:37). Thánh Phaolô tin chắc: “Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tất cả chỉ là “số không”, và chẳng gì cản bước hoặc ngăn cấm được người ta yêu mến Thiên Chúa. Lúc này “lửa yêu” đã bùng cháy, không gì có thể dập tắt!
Trong một lần rao giảng, Đức Giêsu nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Điều kiện “theo Chúa” vừa dễ, vừa khó. Lửa yêu của ai mạnh thì là dễ, nhưng lửa yêu của ai yếu thì là khó. Chính người đời cũng ví von: “Tình yêu trong cách xa như ngọn lửa trong gió: Gió thổi tắt ngọn lửa nhỏ, nhưng thổi bùng ngọn lửa lớn”.
Chúa Giêsu nói thêm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9:24). Đặc biệt là cách đặt vấn đề của Ngài: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?” (Lc 9:25). Cách nói “nghi vấn xác định” là cách xác định mạnh mẽ hơn.
Rồi Ngài kết luận: “Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần” (Lc 9:26). Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất dễ hiểu. Nhưng Ngài vẫn tôn trọng tự do của mỗi người, chứ Ngài không hề ép buộc bất kỳ ai.
Lạy Thiên Chúa, xin thêm đức tin-cậy-mến và lòng can đảm cho chúng con, và giúp chúng con biết noi gương sáng các nhân chứng đức tin là tiền nhân của chúng con. Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin nguyện giúp cầu thay chúng con hôm nay và mãi mãi, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

65. Những tên lý hình thời đại
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong Năm Đức Tin, chúng ta không chỉ tự hào về Đức Tin kiên cường của Cha ông chúng ta, không chỉ tự hào sống trong đất nước của các Thánh Tử Đạo, không chỉ hãnh diện vì được là con cháu của các Thánh Tử Đạo, không chỉ tri ân những giọt máu trổ sinh mầm sống mới Đức Tin nơi chúng ta, mà thiết thực hơn, chúng ta cần noi gương các Ngài: Sống Đức Tin là Tử Đạo hằng ngày.
Nếu cha ông ta đã sống trong một thời kỳ bách đạo cách tàn bạo, từ việc cấm cản, khủng bố đến việc bắt bớ, bỏ tù tra tấn dã man, cho đến những án tử hình ghê rợn nhất: xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sống, xử trảm, rũ tù…thì thời chúng ta, “những tên lý hình thời đại” với cách bức bách Đức Tin của ta còn kinh khủng hơn nữa: làm cho con người không còn yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài.
Những tên lý hình thời đại: Ngoài ta
Những người chủ trương không có Thiên Chúa đang cầm quyền sinh tử nơi đất nước của các Thánh Tử đạo, đưa Giáo Hội Việt Nam vào một thách đố mới, vào cuộc tử đạo mới: Truyền giáo cho người không tin có Thiên Chúa hay là để cho người không tin có Thiên Chúa truyền chủ thuyết của họ?
Tư tưởng “Tôn giáo là liều thuốc phiện” vẫn đã thấm trong máu thịt của họ và đã chỉ đạo cả cuộc đời họ, cả việc họ làm, đến nỗi khi con người gần đất xa trời, chờ phút “qui tiên”, họ cũng chẳng chấp nhận một cõi nào linh thánh. Một cuộc đời bồng bềnh theo năm tháng lơ lững không định hướng, vì chỉ tin được cái hiện hữu của thân xác mà không tin có linh hồn bất tử. Một cuộc đời không có chuẩn mực Chân, Thiện, Mỹ nào hơn là theo cái chuẩn mực mà mình tự đặt định. Đạo đức xã hội là làm sao đem lại lợi ích trần thế nhiều nhất cho xã hội mà chính mình là trước tiên!
Thời đại này, họ không đặt Thánh Giá trước mặt chúng ta và yêu cầu chúng ta bước qua để chứng minh cho họ là chúng ta chối bỏ Đức Tin, nhưng họ đã gieo vào lòng tín hữu bề bộn những chủ thuyết vật chất, và như thế là cuộc tử đạo mới, tử đạo hằng ngày, đã bắt đầu qua việc không đồng thuận với những chủ trương không Thiên Chúa:
– Các em học sinh ở nhà trường phải tử đạo khi không chấp nhận bài học nguồn gốc con người bởi khỉ, bài học không có Thiên Chúa nào. Không có Đấng Tạo Hóa tác sinh…như “Con chim hay nói, nó nói tào lao, không có đứa nào, dạy cho tao nói”.
– Các em thanh niên nam nữ vào đời phải tử đạo khi không theo cách sống thử tự nhiên được xã hội mặc nhiên cổ xúy, để giữ vững đức khiết tịnh vì biết rằng: sống thử – nhưng sinh con thật – giết người thật.
– Các gia đình công giáo phải tử đạo khi lao vào cuộc sống kinh tế. Biết rằng có thực mới vực được đạo, và để ổn định phát triển kinh tế, phải giảm sinh, nhưng cương quyết không giảm sinh theo kế hoạch không tự nhiên – vì chẳng khác nào giết con người từ trong trứng nước, và tự tẩy chay nhân phẩm quí giá của mình.
– Giá trị hôn nhân thời nay đặt trên căn bản là kinh tế, là của cải vật chất, là hưởng thụ…tạo điều kiện cho trào lưu ly thân ly dị cách dễ dàng, và tạo nên một sự hỗn độn về đời sống các gia đình không đáng có: chồng trước, vợ sau, con chung, con riêng, con bỏ, con nuôi… hỗn độn…. Biết như thế, vì bảo vệ Đức Tin Công Giáo, các gia đình công giáo phải tử đạo khi dứt khoát không bị cuốn vào trào lưu tục hóa giá trị hôn nhân.
– Khi có của ăn của để, thì việc hành đạo hầu như không cần thiết hơn việc giải trí tiêu khiển, và việc giữ lễ Chúa nhật có thể trở thành việc chiếu lệ, nhưng người công giáo đã tử đạo khi vẫn một lòng yêu mến Chúa Giêsu, khao khát kết hiệp cùng Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc tham dự Thánh lễ và việc rước lễ hằng ngày.
– Người ta muốn giam các tín hữu trong trại giam mới là chính cái biệt thự sang trọng, hay ít là căn phòng đầy đủ tiện nghi vật chất thơm phức nệm êm chăn ấm máy lạnh máy nóng …để mà hưởng thụ cuộc đời nầy, mà quên đi cái đời sau ảo tưởng… nhưng không, họ đã lầm, khi các tín hữu Việt Nam vẫn quí mến một cuộc vượt qua, và sẵn sàng cho cuộc vượt qua của chính mình…
– Giữa những băng hoại, suy đồi có nguy cơ làm phai mờ Đức Tin Công Giáo, các tông đồ của Chúa không đành lòng bó tay, nhưng tích cực gia tăng đời sống đạo đức gương mẫu, đời sống cầu nguyện, có sáng kiến phong phú để khắc phục, chận đứng, những trào lưu suy đồi của những tên lý hình thời đại làm tha hóa các phần tử trong giáo hội. Họ thiết thực trở nên những con người hướng dẫn thời đại đi vào đúng đường lối của Chúa. Họ thực sự đang ôm lấy Thánh Giá Chúa Giêsu với lòng quí mến thiết tha nhất. Họ đang tử đạo trên đất nước của các Thánh Tử Đạo, cùng với Đoàn Chiên Tử Đạo khắp nơi trên đất nước.
Chúng ta tin rằng các Thánh Tử Đạo Việt nam vẫn luôn phù hộ, tiếp sức cho các tín hữu Việt Nam chiến đấu trong cuộc bức bách mới của những tên lý hình thời đại mới đầy mưu ma chước quỉ của Satan luôn chủ trương chống lại Thiên Chúa.
Tên lý hình thời đại: Trong ta
Truyện rất ngắn “Lòi Cái Tôi Ra” của tác giả Anh-em-của-mọi-người, viết:
– Thưa cha khi chủng viện xây xong, người ta chặt cây cho lòi nhà ra nên chủng sinh phải chịu nắng nóng mấy năm nay. Bây giờ giáo xứ xây xong nhà giáo lý, lại chặt cây cho nhà giáo lý lòi ra làm thiếu nhi phải chịu nắng nóng!
– Không phải lòi nhà ra đâu mà lòi cái tôi ra đấy! Để lòi cái tôi ra nguời ta dám chặt bất cứ thứ gì kể cả cây thập giá nữa chứ cây xanh, bóng mát cho giáo dân là cái gì?
“ … Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10)
Chiến đấu với những tên lý hình thời đại ngoài ta có thể không khó khăn lắm, nhưng chiến đấu và chiến thắng với tên lý hình trong ta, có vẻ không dễ dàng tí nào!
Phải khiêm tốn mà nhận ra rằng, có nhiều người, trong đó có thể có tôi, có bạn, đã không bước qua thập giá của những tên lý hình thời đại ngoài ta, nhưng ngược lại, vì cái tôi, mà ta đã chặt và quăng cây thánh giá đi rồi. Khi đã chặt và quăng đi, thì còn đâu mà bước qua! Khi đề cao cái tôi một cách quá đáng, người ta chối bỏ Đức Giêsu Kitô và khổ đau của Ngài một cách không thương tiếc, và cũng không hay biết!
Sự nhàn hạ, thanh thản, phương tiện tiện nghi, hưởng thụ… đã “lấn sân” tâm linh, tạo cho người ta cái hạnh phúc thật êm dịu, không còn cảm giác khổ đau của cây thập giá nữa. Và vì thế, khó mà chấp nhận sự khốn khó gian nan. Sướng quen rồi. Đây mới thực sự là trại giam mới, trại giam của của danh vọng, của quyền lực, của sự an thân, an vị, an nhàn, và … rồi an nghĩ trong trại giam ấy tới ngàn thu.
Bỗng dưng, chính ta, đã trở nên những tên lý hình thời đại. Ta xử trảm chính ta và xử trảm mọi người khi cách sống “không Kitô”, “không Thập Giá” trở thành gương xấu cứ lan nhanh lan nhanh đến nhiều người.
Vâng, không ai bắt ta làm nô lệ, chỉ vì ta bằng lòng để mất tự do. Không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ! Nô lệ cho chính cái tôi của mình.
Yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá Chúa Giêsu
Thiết tưởng lòng yêu mến Chúa Giêsu và Thập Giá của Ngài, sẽ giúp tôi, giúp bạn vượt qua những cuộc bức bách ngoài ta, trong ta, sẽ giúp chúng ta vượt qua, giúp chúng ta được hồng phúc tử đạo hằng ngày, giúp chúng ta trung thành với Đức Tin Công Giáo.
Xin chia sẻ một phần câu chuyện về Thánh Tử Đạo Anrê Nguyễn Kim Thông (Anrê Năm Thuông) lý trưởng, thầy giảng; sanh 1790 tại Gò Thị, Bình Định; chết 15 tháng Bẩy, 1855, tại Mỹ Tho. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ-Tho.
“Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ được tha về. Ông nhất quyết không tuân.
Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.
Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa Giêsu và yêu mến Thập Giá của Ngài, để được hồng phúc tử đạo với Chúa mỗi phút giây trong cuộc đời chúng con. Amen.

66. Chết vì yêu
(Suy niệm của Huệ Minh)
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức!” Ông bà ta vẫn thường nói như thế trong cuộc sống thực tại. Đó thực tại trong cuộc sống và đúng với thực tại của cuộc sống. Còn đó, bên cạnh thực tại của đời sống con người chính là đời sống, sức sống của niềm tin. Để chứng minh niềm tin của mình, có khi người ta không phải chỉ minh chứng bằng lời nhưng có khi còn phải trả bằng một cái giá rất đắc đó chính là máu của mình, là mạng sống của mình nữa.
Trang sách Maccabêô quyển thứ hai khá quen thuộc với người Kitô hữu chúng ta, nhất là khi chúng ta kính nhớ đến các anh hùng tử đạo. Câu chuyện trong sách thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời.
Và, ta thấy không chỉ mình Êlêazarô mà còn nhiều nữa những người đã minh chứng niềm tin và tình yêu của mình với Thiên Chúa.
Có lẽ, vị tử đạo anh hùng nhất trong lịch sử Kitô giáo có lẽ là Đức Giêsu. Đức Giêsu đã minh chứng tình yêu, niềm tin của mình với Cha bằng cái chết và cái chết nhục hình trên thập giá.
Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá đã nảy sinh thêm nhiều hạt giống tử đạo khác nữa. Người được phúc tử đạo tiên khởi sau cái chết của Chúa Giêsu đó chính là anh chàng Stêphanô. Trong việc đổ máu của người vô tội này, có sự góp công của chàng trai trẻ là Phaolô.
Ta lại đi tiếp và ta thấy sau khi ngộ ra được Đấng Cứu Độ trần gian, chính Phaolô đã quay trở lại và đã hy sinh cả cuộc đời mình để minh chứng cho tình yêu Giêsu.
Và dần dần, dòng máu tử đạo cứ lan tràn để rồi hạt mầm của đức tin đã nảy nở khắp thế gian.
Hạt giống đức tin cũng đã được đưa vào đất nước Việt Nam. Và rồi, sự dữ, sức mạnh của thế gian muốn bóp nghẹt hạt giống đức tin để rồi có nhiều cuộc bách hại về đức tin. Thế nhưng, ta lại thấy các bậc cha ông của chúng ta đã can đảm chấp nhận chết để minh chứng cho niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa.
Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.
Niềm tin vào Chúa, đặc biệt ta thấy mãnh liệt nơi cuộc đời của Thánh Phaolô. Tâm tình của Thánh Phaolô trong trang thư của Ngài gửi tín hữu Roma ta thấy quá tuyệt vời. Dòng thư ấy cho ta thấy xác tín của thánh Phaolô. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức GiIêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?
Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Và, ta vẫn nghe đâu đó phảng phất trong Tin Mừng, Chúa Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức gIêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.
Lời mời gọi tử đạo vẫn còn vang vọng trên cuộc đời, trong cuộc đời của chúng ta. Không còn đổ máu đào như xưa nhưng chúng ta đổ máu cho những hy sinh, cho những từ bỏ của chúng ta để minh chứng tình yêu, niềm tin của chúng ta vào Chúa.
Nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa” xem ra rất dễ nhưng để sống tâm tình cũng như xác tín đó hoàn toàn không dễ. Ta lại chạy đến để xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta sống gần Chúa hơn, bám vào Chúa hơn, theo sát Chúa hơn để rồi tình yêu của ta và Chúa ngày mỗi ngày gắn kết hơn. Có như thế, ta mới mong được hưởng triều thiên tử đạo như các bậc tiền nhân của chúng ta.

67. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
DŨNG CẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33).
2. CÂU CHUYỆN: Cuộc tử đạo của Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên, cậu theo cha mẹ đến xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một Thầy giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu phép rửa tội và nhận tên thánh là AN-RÊ. Sau đó cậu đáp lại ơn gọi dâng mình cho Chúa và theo học tại chủng viện Vĩnh Trị. Thầy AN-RÊ Dũng được thụ phong linh mục vào năm 1823 khi mới có 28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha AN-RÊ được sai đi giúp xứ. Ở đâu cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài những ngày ăn chay theo luật định, Cha còn tự nguyện giữ chay thêm suốt cả Mùa Chay và các ngày thứ Sáu thứ Bảy hàng tuần. Nhờ đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên cha đã gây được thiện cảm của những người chung quanh và thành công trên bước đường tông đồ: Qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã tin theo Chúa và xin gia nhập đạo Công giáo.
Trong thời gian đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng, cha AN-RÊ Dũng đã phải trốn lánh nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi, khi vừa dâng lễ xong thì bị quan quân vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang xưng tội với cha Phêrô Thi. Hai cha bị quan quân đòi tiền chuộc tới 200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền nói trên, nên chỉ mình cha Lạc được thả. Rồi sau đó cha lại bị đám quân lính khác bắt mang về huyện giam chung với cha Phêrô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh Giá để bày tỏ ý định bỏ đạo. Nhưng thay vì làm theo lệnh quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã suốt đời hy sinh vất vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa!”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận sai lính đem nhốt các ngài vào ngục thất và làm thành án gửi về Kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy giáo dân được phép thăm nuôi hằng ngày, nhưng hai cha yêu cầu họ đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha đã chính thức nghe án lệnh xử trảm của nhà vua. Rồi các ngài bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các ngài cầu nguyện ít phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh Cha Lêô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng Chân Phước tử đạo vào ngày 27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã suy tôn hai ngài lên bậc hiển thánh.
3. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công giáo thường hay bị người đời thù ghét bách hại?
2) Tử đạo là sẵn sàng hy sinh chịu chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Vậy các tín hữu chúng ta sẽ phải dũng cảm làm chứng cho Chúa thế nào trong xã hội Việt Nam hôm nay?
4. SUY NIỆM:
1) Số liệu các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam: Ngay từ thời Giáo Hội Sơ Khai, các tín hữu đã phải chịu chung số phận với Thầy Giê-su là bị cấm cách, bắt bớ và giết hại. Thời nào và nơi nào đạo được truyền tới cũng đều có các vị anh hùng tử đạo. Tại Việt Nam, theo sử liệu, đạo Chúa đã được truyền giảng từ thế kỷ thứ 16. Và suốt thời gian gần 300 năm sau đó, luôn bị đàn áp bách hại với những cảnh đầu rơi máu chảy! Sau Hội Thánh Rô-ma thì có lẽ Hội Thánh Việt Nam đã dâng cho Chúa được nhiều thánh tử đạo hơn cả! Người ta ước tính có tới hằng trăm ngàn người Công giáo đã bị giết hại vì đức tin dưới các triều đại nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và bị các phong trào Cần Vương Văn Thân đàn áp bách hại. Trong số đó, 117 vị đã được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong lên bậc hiển thánh và được mừng chung trong niên lịch toàn thể Hội Thánh. Trong số này có: 8 Giám mục, 50 Linh mục, 16 Thầy giảng, 1 Chủng sinh và 42 Giáo dân. Các ngài đã chịu nhiều cực hình như: 79 vị bị trảm quyết (chém đầu): 16 vị bị xử giảo (treo cổ); 8 vị bị chết rũ rù do đói khát bệnh tật khi bị giam trong ngục; 6 vị bị thiêu sinh (chết thiêu trong hỏa lò).
2) Lý do các ngài bị vua quan bách hại:
Các thánh Tử Đạo bị vua quan và dân chúng thời đó thù ghét đàn áp giết hại không phải vì các ngài là những kẻ xấu làm điều gian ác, nhưng chỉ vì các ngài đã tin vào danh Đức Giê-su và đã dũng cảm tuyên xưng đức tin ấy, thể hiện qua thái độ bất khuất, không chịu bước qua thập giá theo lệnh vua quan, hầu ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thóat” (Mt 10,22).
Đàng khác, vua quan và dân chúng thù ghét và ra tay bách hại các tín hữu là do hiểu lầm về giáo lý của đạo khi cho rằng theo đạo là vọng ngọai, là bất hiếu vì phải bỏ việc thờ cúng ông bà tổ tiên, đang khi thực ra không phải như vậy: điều răn thứ tư trong mười điều răn của đạo Chúa đã truyền dạy: con cái phải “thảo kính cha mẹ” và người tín hữu vừa phải chu tòan bổn phận thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất lại vừa phải tôn kính và tưởng nhớ cầu nguyện và tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ khi các ngài còn sống cũng như khi đã qua đời.
Nhưng lý do chính yếu khiến vua quan và các phong trào Cần Vương Văn Thân thời đó thù ghét bách hại các tín hữu là do tự ái dân tộc và hiểu lầm về lòng yêu nước của các tín hữu: Họ sợ người theo đạo sẽ bị các thừa sai ngọai quốc xúi giục làm lọan, trong khi các vị thừa sai ngọai quốc đã dám bỏ quê hương và từ giã người thân đến vùng đất xa xôi và chấp nhận hy sinh ngay cả mạng sống là do đức tin và lòng mến Chúa thôi thúc. Các ngài chỉ muốn chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28,19-20); “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b). Và quả thật, lịch sử đã ghi nhận: các thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan kết án chỉ vì đức tin mà thôi chứ không do tội phản lọan theo giặc làm loạn chống phá triều đình.
3) Sống chứng nhân giữa đời thường:
Bí quyết khiến các anh hùng Tử Đạo vượt qua gian nan thử thách là do các ngài biết “sống sự sống của Chúa Giê-su trong thân xác yếu hèn của mình”. Đức Giê-su đã hứa sẽ ban Thánh Thần giúp các môn đệ phải nói gì và nói thế nào khi bị điệu ra trước quan quyền (x Mt 10,19-20). Để được như vậy, các ngải đã phải mỗi ngày “chết đi cho bản thân”, và sống trong ơn nghĩa của Đức Giê-su.
Ngày nay có lẽ chúng ta không có cơ hội làm chứng cho Chúa như các thánh Tử Đạo cha ông, nhưng chúng ta vẫn có thể trở thành chứng nhân của Chúa ngay giữa cuộc sống đời thường hằng ngày trong gia đình và ngoài xã hội:
– Để có thể sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đức tin khi cần, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải quyết tâm sống đức công bình bác ái trong các giao tiếp với hàng xóm và làm ăn buôn bán nơi phố chợ.
– Để có thể dũng cảm làm chứng cho Chúa trước mặt người đời khi có dịp, ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người chồng người vợ tốt lành, luôn chu tòan trách nhiệm lo cho gia đình, là những người con cháu có lòng hiếu thảo đối với các bậc tiền nhân ông bà;
– Để sau này có thể trở thành công dân của Nước Trời, thì ngay từ bây giờ chúng ta đã phải là những người công dân tốt, sẵn sàng chu tòan nghĩa vụ đối với quê hương và trở thành khí cụ bình an của Chúa bằng cách sống theo tinh thần của Kinh Hòa Bình… Nhờ đó chúng ta sẽ gây được thiện cảm đối với đồng bào lương dân cùng khu xóm với chúng ta.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dạy các môn đệ rằng: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không được theo thói thế gian”. Xin cho chúng con đừng bao giờ bỏ Chúa để chạy theo cám dỗ của thế gian, ma quỉ và chiều theo các đam mê xác thịt. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Con nhà tông không giống lông, cũng giống cánh”, để chúng con luôn xứng đáng là con cháu của các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con luôn chiếu ánh sáng tin yêu trước mặt người đời: Biết nở nụ cười khi tiếp xúc, sẵn sàng cởi mở đi bước trước để làm quen với những người mới gặp, mở miệng an ủi những ai đang gặp tai nạn rủi ro; biết khiêm hạ phục vụ tha nhân, đặc biệt phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang cần được cảm thông trợ giúp.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.

* CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
1. Thời kỳ cuối cùng
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm
Hai tuần lễ tới đây là những ngày cuối cùng của năm phụng vụ này. Thế nên không có gì ngạc nhiên, khi thấy Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về thời gian sau hết cũng gọi là cánh chung. Chúng ta thường nôm na gọi đó là thời tận thế.
Ước gì từ nay chúng ta bỏ hết mọi suy đoán của loài người, mọi điều thường được gọi là bí mật bà thánh này ông thánh kia, hoặc của nơi hành hương này chỗ thánh điện khác, để chỉ giữ lấy Lời Chúa và các mạc khải của Người. Khi ấy chúng ta sẽ thấy bình tĩnh hơn, sáng suốt hơn và sống chân thật hơn. Chúng ta sẽ sống bằng đức tin của Hội Thánh, chứ không nghe những chuyện nhảm nhí. Và chúng ta sẽ làm cho người khác kính trọng niềm tin của chúng ta hơn.
Vậy, phụng vụ hôm nay cho chúng ta biết những gì về cánh chung, hay là tận thế? Bài tiên tri Daniel, bài Tin Mừng Marcô, bài thư Hipri, tuy không bao gồm hết mọi lời trong Kinh Thánh về vấn đề, nhưng có thể nói đã nói lên hầu hết. Chúng ta hãy lần lượt đọc lại.
1. Bài Sách Daniel
Daniel là một trong bốn sách tiên tri lớn, tức là dài, và là tác phẩm khó. Người ta cứ tưởng nó giống như các sách Ysaia, Yêrêmia, Êzekiel, được viết vào thời lưu đày Babylonia và về hoàn cảnh đó. Nhưng ngày nay người ta đã thấy nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ nó được viết vào khoảng năm 164 trước kỷ nguyên. Phần đầu tác giả nói đến những biến cố xảy ra ở Cận Động và trong Dân Chúa sau thời gian lưu đày. Một số người đã được hồi hương, cố gắng dựng lại giang sơn tổ quốc cũ. Nhưng hết bị Batư cai trị, lại bị Hylạp thôn tính, Dân Chúa gặp một cơn bắt đạo khủng khiếp dưới thời Antiôchô. Đền thờ bị biến thành nơi thờ thần dân ngoại. Truyền thống Dothái bị ngăn cấm. Nhiều người bị bắt. Tiếng các Tử đạo vang lên tới Chúa.
Người mạc khải ý định của Người trong phần hai của sách Daniel. Đó là một viễn tượng đầy trông cậy. Nhưng đọc kỹ người ta dễ nhận ra ngay đó chỉ là niềm tin rất cổ điển: sự dữ còn gia tăng… cho đến lúc chín mùi. Lúc ấy Thiên Chúa sẽ can thiệp. Sứ thần của Người sẽ được sai đến giao tranh với thần dữ, cứu vớt những người lành, phục hồi các thánh nhân.
Đọc Daniel hôm nay nằm trong phần thứ hai này. Nhà tiên tri được báo cho biết: đến thời cứu độ, Mikael vị tướng cả của Thiên Chúa sẽ được sai đến biểu lộ sức mạnh của Người để gìn giữ con cái của Chúa. Vì lúc ấy sẽ là thời quẫn bách, thời thử thách xưa nay chưa từng thấy xảy ra. Chỉ những kẻ nào đã được tiền định mới thoát nguy. Họ đã có tên ghi trong cuốn sách hằng sống ở trên trời. Và điều an ủi nhất cho Daniel và trả lời trực tiếp cho thắc mắc của dân Chúa thời bấy giờ, là sẽ có sự sống lại. Người thánh sẽ được sống đời đời, bậc lãnh đạo dân Chúa sẽ chói sáng; và kẻ truyền đạo, đưa người khác trở về đàng công chính, sẽ như tinh sao muôn kiếp.
Với những lời lẽ này, Daniel đã an ủi Dân Chúa không ít. Họ đang trong cơn bắt đạo, thấy máu của nhiều người lành chảy ra. Họ tự hỏi về định mệnh của các thánh nhân; và đồng thời cũng nêu lên nghi vấn: có bõ công tiếp tục đi trong đàng ngay chính để có ngày bị bắt và bị giết hay không? Daniel chẳng có lời tiên tri nào nói với họ cả, theo nghĩa hứa hẹn cho người ta một tương lai sáng sủa nào ở trần gian này hết. Ông tuyên xưng niềm tin “chính thống” và cổ điển của mình: Thiên Chúa mới có tiếng nói cuối cùng; Người sẽ can thiệp, lúc đó người lành được gìn giữ, còn kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Rồi sẽ có sự sống lại cho người thánh đã chết; còn kẻ dữ cứ tiếp tục bị trừng phạt.
Như vậy Daniel cũng đã có góp thêm một phần mới mẻ vào kho tàng mạc khải. Trước ông, như trong Êzêkiel chẳng hạn, người ta đã được biết sẽ có sự sống lại. Nhưng dường như đó chỉ là việc phục sinh phục hồi của dân đang bị tiêu diệt và nghiền nát. Cánh đồng xương khô lấy lại gân cốt và da thịt để sống lại trong Êzêkiel là một hình ảnh về cuộc phục hưng dân Chúa sau thời gian tiêu điều, hơn là một phát biểu niềm tin về sự sống lại trong ngày sau hết.
Ở đây, Daniel rõ ràng nói đến sự sống lại không phải của hết thảy mọi người, nhưng riêng chỉ có những người lành. Cũng như ông đã khẳng định khi ngày của Chúa đến, chỉ những người thánh mới được gìn giữ, còn bao nhiêu kẻ dữ sẽ bị tiêu diệt. Nói đúng ra theo Daniel, kẻ lành sẽ được sống muôn đời, còn kẻ dữ sẽ phải chết. Trong ngày của Chúa, ai lành thánh sẽ không phải chết, và cho dù đã chết, cũng sẽ sống lại; còn kẻ tội lỗi cho dù đang sống cũng sẽ chết, huống nữa là khi những kẻ ấy đã chết rồi. Niềm tin của Daniel xác định công trạng của mỗi người, nhưng chưa nghĩ đến sự xác thịt sống lại như chúng ta đọc trong kinh Tin Kính. Ông cũng đã chú ý riêng đến những người có công với dân và so sánh vinh quang bất diệt của họ sau này như những tinh sao muôn đời muôn kiếp.
Ý kiến của Daniel nhất định đã thổi một luồng gió tin tưởng mạnh mẽ vào trong tâm hồn nhiều người. Họ sẽ cương quyết trung thành với đức tin hơn và hoàn toàn phó thác định mệnh cuối cùng của mình trong tay Chúa. Sách của ông được các thế hệ sau dùng rất nhiều, như bài Tin Mừng hôm nay sẽ cho chúng ta thấy; nhưng chẳng ai có thể lợi dụng tư tưởng của ông để thêu dệt những chuyện nhảm nhí về thời cánh chung.
2. Bài Tin Mừng Đức Yêsu
Trong đoạn sách Marcô hôm nay, cũng nói với chúng ta về thời kỳ cuối cùng này. Dường như Người đề cập tới sau khi nói về thời Yêrusalem bị tàn phá. Chúng ta biết hôm các môn đồ trỏ cho Người thấy cảnh huy hoàng của Đền thờ. Mà rực rỡ thật khi thánh điện Yêrusalem được ánh mặt trời chiếu vào! Nhưng cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào của Đền thờ hiện nay, vì Yêrusalem không biết đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm mình.
Đức Yêsu đã nhìn thấy trước ngày tàn phá đó. Người dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách tiên tri, để mô tả cảnh tàn phá của Yêrusalem. Rồi từ đó, Người nói sang thời kỳ cùng tận.
Nhưng lời của Người lại được các tác giả thánh diễn lại sau khi đã được chứng kiến ngày Đền thờ sụp đổ và đã từng sống những ngày thánh Hội Thánh bị bắt bớ vì danh Chúa. Do đó, bài sách Marcô hôm nay chẳng hạn, thu góp tất cả mọi nhân tố trên làm cho việc đọc trở nên phức tạp và khó hiểu. Ở đây chúng ta chỉ nói đến những tư tưởng trong bài đọc hôm nay.
Trước hết có những câu nói về sự suy sụp thay đổi trong trời đất: mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển. Có lẽ chính ý tưởng cuối cùng này lại phải để ý đến trước hết. Là vì theo các tác giả thánh, mỗi khi có hiển linh là trời đất rung chuyển. Vậy hiện tượng các thiên thể lay chuyển là điềm báo Chúa đến, là dấu hiệu của ngày cuối cùng. Còn việc mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, chẳng qua muốn nói rằng vũ trụ này sẽ qua đi và biến mất. Tất cả như lại trở về lúc khởi nguyên, lúc còn hỗn mang và chưa có ánh sáng gì cả. Và như thế, với nhiều hình ảnh mượn lại trong các sách tiên tri, ở đây thời sau hết được xác định như là thời thay đổi vũ trụ này, để rồi sẽ có một cảnh mới với trời mới và đất mới. Và người ta không phải chờ lâu. Sách Marcô đã viết ngay: bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây… Rõ ràng tác giả mượn lại chương 7 sách Daniel, câu 13. Nhưng ông đã đem vào một nội dung mới.
Trong tiên tri Daniel, Con Người chỉ đến sau, khi triều đình thiên quốc đã bày biện xong. Thiên Chúa đã ngự trên ngai rồi, thì bấy giờ Con Người mới tiến lại. Người là ai? Theo Daniel đó là dân thánh của Thiên Chúa đến lãnh phần thưởng đời đời của mình. Về sau nhiều người đã đồng hóa Người với Đấng Cứu thế Con Một Thiên Chúa. Ở đây, trong sách Marcô, Người là chính Đức Yêsu Kitô Cứu thế.
Như vậy, “ngày của Chúa” không còn phải là ngày của Thiên Chúa nữa sao? Vì ở đây, người ta không thấy Thiên Chúa hiện đến, mà chỉ có Đức Yêsu được mệnh danh là Con Người. Thật ra, khi nói Người đến trong mây, tác giả không có ý tưởng trong mây như là xa giá đưa Con Người đến. Nhưng cùng với công thức viết sau nói rằng: Người đến trong quyền năng cao cả và vinh quang, hình ảnh mây trời ở đây chỉ có ý nhấn mạnh đến tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy Con Người sẽ đến với Thần Tính và như là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa” khiến “ngày của Chúa” bây giờ trở thành “ngày của Thiên Chúa đến trong Con Người và nhờ Con Người”.
Rồi khác với nhiều tác giả, thánh Marcô không nhắc đến việc phán xét và trừng phạt kẻ dữ. Người chỉ mô tả diện tích cực của ngày Chúa đến. Người sai các Thiên Thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, dĩ nhiên là để đưa họ vào vinh quang của Người.
Và như vậy cái nhìn của Marcô về cánh chung rất bình an và đẹp đẽ. Nó đem tin tưởng lại cho lòng người ngay và tạo nên một cảm giác hạnh phúc.
Nhưng khi nào điều ấy xảy ra? Đó là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo thánh Marcô, thì Đức Yêsu trỏ tay bảo các môn đệ cứ xem cảnh vật thiên nhiên. Cây vả khi trổ lá thì báo tin mùa hè sắp đến sao? Cũng vậy, khi các điều kia xảy ra, thì phải biết Con Người đã gần bên cửa.
Trước hết, Người đã khéo léo gợi đến danh từ mùa hè. Đó là mùa gặt hái. Và hình ảnh mùa gặt hái vẫn được Kinh Thánh dùng để nói đến thời cánh chung và chung thẩm. Còn khi Người nói “các điều kia” thì phải hiểu như thế nào?
Trên đây, Người đã nói đến việc Đền thờ bị phá, chiến tranh nổi lên, Kitô giả xuất hiện, niềm tin trở nên lạnh lẽo… và các tầng trời bị lay chuyển v.v… Do đó mỗi khi thấy các điều trên xảy ra, người ta đã tưởng tận thế đến rồi. Hơn nữa sau đó, Đức Yêsu còn nói: “Thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi mọi điều ấy xảy đến”. Người ta càng tin những ngày tận cùng không còn xa.
Nhưng có lẽ người ta không để ý đủ đến lời cuối cùng của Người: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha”.
Dĩ nhiên có vấn đề: có phải chính Đức Yêsu đã nói tất cả những điều trên đây không và trong cùng một văn mạch không? Hay đó là những lời nói ở những hoàn cảnh khác nhau và đã được xếp gần lại để diễn tả ý kiến về một vấn đề? Nếu thế thì ở đây chúng ta có thể thấy tác giả vừa muốn khẳng định thời kỳ cánh chung đã gần, vừa không gần vì hiện nay đã có những dấu hiệu như cảnh chiến tranh tàn phá, lòng tin ra nguội lạnh, nhiều sự dữ lộng hành, nhiều người lành khổ sở… nhưng chưa chắc đã là điềm báo cuối cùng, vì dù sao cũng chẳng ai biết được giờ nào, ngày nào, vì đó là bí mật Chúa Cha không muốn tiết lộ cho ai… Vì thế thái độ chân thực là luôn luôn phải sẵn sàng và tỉnh thức.
Thánh Marcô đã kết luận như vậy. Và chúng ta, không nên thêm gì vào ý kiến của người. Chúng ta chỉ cần nhớ: vũ trụ này sẽ được biến đổi khi Con Người đến trong vinh quang. Người sẽ tập họp các kẻ được chọn lại. Người không muốn cho ai biết ngày nào giờ nào. Nhưng Người mong muốn ai nấy cũng hãy sẵn sàng và bền vững cho đến cùng.
Bài thư Hipri có thêm gì cho chúng ta không?
3. Đức Kitô Đang Chờ Đợi
Tác giả còn so sánh vị Thượng tế đạo mới với các tư tế đạo cũ. Những người này, như người ta thấy hằng ngày vẫn đứng nơi bàn thờ để dâng những của lễ không hoàn toàn. Họ tỏ ra rộn ràng; vì thế “đứng” là cung cách làm việc vất vả. Và công việc của họ không kết quả vì cứ phải làm mãi, không xóa bỏ được tội lỗi là điều họ mong muốn.
Trong khi đó, Đức Kitô chỉ dâng lễ một lần trong mầu nhiệm Vượt qua, và đã lên ngồi ngự bên hữu Thiên Chúa. Chứng tỏ lễ dâng của Người đã hoàn toàn và tẩy xóa được tội lỗi. Người không còn vất vả nữa và chỉ còn ngồi chờ đợi mọi người hàng phục để kết nạp họ vào sự thánh thiện của Người.
Tác giả không suy đoán. Thánh Kinh cũng nói rõ như vậy vì trong Thánh vịnh 110, Thiên Chúa đã đặt vị Kitô của Người làm Vua và làm Thượng tế theo kiểu Melkisedek, đợi ngày quân thù của Người quy phục dưới chân. Chúng ta chẳng nên hiểu quân thù nói đây là ai khác những sức mạnh tội lỗi mà Người đang muốn dẹp bỏ ở nơi mỗi người để tất cả chỉ còn ở trong sự thánh thiện của Người.
Như vậy, lời thư Hipri có thể bổ túc cho những điều chúng ta đa biết về thời cánh chung qua các bài sách Daniel và Tin Mừng theo thánh Marcô. Thời sau hết thực ra đã khởi sự từ khi Đức Yêsu tiến vào cung lòng Thiên Chúa. Sức mạnh của Thiên Chúa đã biểu lộ nơi sự phục sinh của Người. Ơn Thánh Thần mà Người gửi xuống cho môn đệ không thực tế hơn hình ảnh Đức Mikael đến bảo vệ những người được Chúa chọn sao? Các người thánh đang được thâu họp lại từ khắp mặt đất để được tham dự vào sự thánh thiện của thân thể mầu nhiệm Đức Kitô. Họ được lấy ra từ bao thử thách và gian khổ, khỏi những sự mê hoặc của các Kitô giả khác. Và cùng với Đức Kitô, họ đang chờ đợi ngày Nước Cha trị đến… Và như vậy quả thực thời cánh chung đã đến và chưa đến. Thế hệ nào cũng sẽ không qua đi trước khi những điều này xảy tới, kể cả thế hệ chúng ta.
Mầu nhiệm cánh chung giờ đây không những cũng được chúng ta tuyên xưng trong bản kinh Tin Kính. Nhất là nó sẽ được nổi lên trong mầu nhiệm Thánh Thể, trong đó chúng ta tuyên xưng Đức Yêsu đã chết và đã sống lại để rồi sẽ lại đến. Và trong khi chờ Người đến trong vinh quang, chúng ta tin Người đang đến trong Thánh Thể để thâu nạp chúng ta vào sự thánh thiện của Người. Một cảnh sống mới, làm ra một trời mới và một đất mới, tức là xây dựng một quê hương mới và một dân tộc mới, có theo sau thánh lễ này hay không? Điều đó còn tùy ở cố gắng của chúng ta hết thảy.

2. Ngày tận thế
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết”. Đó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Điều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: “Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng quả quyết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”. Nói khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Đấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Cha”. Amen.

3. Ngày Con Người ngự đến
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Chúng ta đã tới Chúa Nhật cuối năm Phụng vụ. Các Chúa Nhật trước chúng ta lần bước theo Đức Giêsu nói các dụ ngôn, chữa mọi bệnh tật, trừ khử quỷ ám, trả lời các kinh sĩ, đào tạo môn đệ. Chúng ta tưởng đã biết rõ về Đức Giêsu. Thực ra, chỉ có Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu mới mặc khải cho chúng ta thấy chân dung Ngôi Vị của Người rõ nét nhất.
“Khi Người ra khỏi đền thờ để không bao giờ trở lại đó nữa thì một môn đệ thưa Người rằng: Thưa Thầy, Thầy xem: những tảng đá đẹp tuyệt vời! Công trình kiến trúc vĩ đại chừng nào! Đức Giêsu đáp: Tại đây, sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, tất cả đều sẽ bị phá tan tành”.
Lúc Đức Giêsu đến ngồi trên núi Ôliu, đối diện với đền thờ, ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi riêng Người: Xin Thầy cho chúng con biết bao giờ các sự ấy xảy ra? Đức Giêsu đã trả lời bằng một bài giảng về ngày tàn phá Giêrusalem, ngày tận thế và ngày Con Người ngự đến trong vinh quang, cũng gọi là ngày Quang lâm. Đức Giêsu loan báo ba tai họa xảy đến trước ngày tàn phá đền thờ (Mc. 13, 5-13):
1. Những tiên tri giả và Kitô giả làm lung lạc nhiều người.
2. Những tai họa, chiến tranh, động đất, đói kém.
3. Các môn đệ bị bắt bớ.
Tiếp đến, những ngày cực khốn cho đền thờ. Lịch sử đã cho biết đền thờ Giêrusalem đã bị quân La mã dưới quyền tướng Titô phá hủy vào năm 70 và dân Do thái mất nước, đi tản mát khắp nơi, mãi tới 1945 một số người trở về lập quốc, nhưng vẫn bị chiến tranh tàn sát.
Về ngày tận thế, Đức Giêsu loan báo vũ trụ đều sụp đổ từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao đến các quyền lực trên trời. Đây là kiểu nói ám chỉ không thể diễn tả được sự biến đổi phi thường từ “trời cũ đất cũ sang trời mới đất mới” (Kh. 21, 1). “Cái cũ qua, cái mới đã tới” (2Cor. 5, 17). Ví như lúc chưa dựng nên trời đất, chỉ là đen tối mông lung: “Chaos” để biến sang một cuộc sáng tạo mới: Con Người ngự đến trong vinh quang.
Từ khi sinh ra khó nghèo trong máng cỏ bò lừa ở Belem đến ngày này, Đức Giêsu chưa bao giờ nói về mình như thế. Bỗng chốc, Ngài trở nên vĩ đại, vinh hiển trên nền trời bao la, cao xanh thăm thẳm! Ngài tuyên bố: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”.
Ngài tuyên bố mình là Chánh Án tối cao của ngày tận thế, ngày phán xét chung. Vai trò phán xét xử muôn dân đó chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, mà chính Đức Giêsu đang nắm quyền. Mấy ngày sau đó, Người lại tuyên bố y như thế trước những quan tòa của Thượng hội đồng Do thái (Mc. 14, 62).
Danh xưng Con Người đã quá quen tai chúng ta rồi, nhưng theo bản văn, danh xưng ấy luôn luôn tiên báo về cái chết của Đức Giêsu. Người đã dùng danh xưng ấy để nhắc nhở đến lời tiên tri thời danh của Daniel (7, 13-14). Sách tiên tri Daniel đã quả quyết sự chiến thắng của Thiên Chúa trong cuộc chống lại sự bách hại dưới thời Antiôkút 4 Êpiphan. Nay, Đức Giêsu muốn báo cho muôn thế hệ biết: các lực lượng sự dữ, những bọn bách hại dân lành, những quân dữ không thể có chiến thắng cuối cùng trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng sẽ về phía Thiên Chúa và kẻ lành.
Đó là niềm hy vọng làm vang lên lời cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến” của các tín hữu ban đầu, và ngày nay trong Thánh lễ, sau truyền phép, chúng ta đồng thanh dâng lên lời cầu xin tha thiết như thế: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Theo truyền thống Khải huyền, những thiên tai trong vũ trụ báo trước những hình phạt nặng nề của Thiên Chúa chống lại kẻ dữ nhưng với Đức Giêsu, thì không phải thế: Đó chỉ là lúc “Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người tập họp những kẻ được tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Đó là lúc Người ngự đến trong vinh quang, ngày đại hội quang lâm của muôn dân, ngày tôn vinh Đức Giêsu là Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc. Những ai theo Người thì cũng được chiến thắng tội lỗi và sự chết để sống lại vinh phúc với Người.
Chấm dứt mọi tai họa, chiến tranh, bách hại, kỳ thị, ghê tởm, thảm khốc và những tàn phá, tục hóa và bội giáo của kẻ dữ.
Đó là một phép lạ tuyệt diệu nhất. Vậy hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mc. 13, 37). Phúc cho kẻ bền chí đến cùng sẽ được cứu thoát (Mt. 24, 13).
Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến. Trong cơn gian nan, trong cơn khủng khiếp, tất cả đều qua đi, đều chết đi. Vâng, lạy Chúa, chúng con biết rằng mùa hè trong sáng tươi đẹp sẽ đến cho cây cối đâm bông kết trái. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến cho những người được tuyển chọn tập họp lại chung quanh Chúa. Amen. (Phỏng theo Parole de Dieu, Noel Quesson).

4. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Sean O’Brien – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
Nghe tiếng chuông báo từ lò vi sóng, tôi biết thức ăn của tôi đang hâm nóng đã xong. Rồi khi nghe một bài hát quyến rũ vọng lên từ chiếc xe chạy ngang dưới phố, tôi biết phải chạy nhanh vào nhà lấy tiền để mua thứ gì đó trước khi xe bán kem dạo chạy mất. Nhưng trên thực tế rất ít việc được báo trước và thật bất ngờ. Đây là điều Chúa Giêsu muốn nói đến khi Người dùng ví dụ cây vả: khi bạn sẽ thấy một số thay đổi trên cây là bạn biết ngay: Kìa! Mùa hè sắp đến rồi!
Chúa Giêsu nói điều đó không phải vì Người quan tâm đến mùa hè. Nhưng đó là một thí dụ để ám chỉ một thực tại quan trọng hơn. Chúa Giêsu tuyệt đối và dứt khoát sắp đến rồi. Trong khi đó Người lại nói: Không ai biết được khi nào việc ấy sẽ xảy ra, ngay cả các thiên thần hay Chúa Con cũng chẳng biết. Việc đó không phải là không được báo trước và bất ngờ. Giống như bài hát báo hiệu trước khi người bán kem đến, thì cũng có những dấu hiệu chắc chắn cho biết đây là lần cuối Chúa đến.
Chúng ta phải nhận biết những dấu hiệu này như một việc bác ái vĩ đại vì các dấu hiệu ấy thực sự nói lên một tình yêu bao la. Bản chất việc Chúa trở Lại là điều quan trọng nhất chúng ta cần phải thấu hiểu. Khi Người trở lại, Tổng Lãnh Sứ Thần Mi-ca-e sẽ xuất hiện như một sứ giả. Chúng ta nghe đọc trong sách ngôn sứ Đa-ni-en rằng “đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy” (Đa-ni-en 12:1). Đoạn sách ngôn sứ đề cập đến ngày sau hết, khi những người đã an giấc sẽ trỗi dậy. “Người thì để hưởng phúc trường sinh (có nghĩa là trong an bình và hạnh phúc trên trời), kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.” (Đa-ni-en 12:2). Phần sau của câu này có nghĩa là vào ngày tận thế, thân xác những kẻ xấu sẽ sống lại để vào hỏa ngục.
Thời gian khốn khổ được nhắc đến ở đây không hẳn có nghĩa là tất cả mọi người sẽ bị đau khổ, bởi vì đối với một số người, đó sẽ là thời khắc tuyệt vời và vinh quang nhất trong cuộc đời họ. Tuy nhiên, đối với những người khác thì đây là lúc họ bắt buộc phải mở mắt ra vì trước kia họ đã cố tình làm cho mình thành mù lòa, để rồi họ sẽ cảm nhận rõ ràng sự nặng nề của cả một đời sống xa Thiên Chúa. Đó là nỗi khốn khổ và kinh hãi không thắng vượt được – tức là nỗi khổ đau của những người thiếu khôn ngoan, những người đã không khuyên dạy người khác sống công chính, chứ đừng nói đến chính họ. Trong khi những người hiến thân cho sự công chính của Chúa Giêsu Kitô sẽ được sáng chói như những vì sao trên trời, thì những người bỏ lỡ việc này sẽ phải than khóc thống thiết và tuyệt vọng.
Trong thực tế, Kitô hữu chúng ta cần phải tỉnh thức: Tôi không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của tôi sẽ ra sao. Bạn cũng không biết ngày mai tình trạng thiêng liêng của bạn sẽ như thế nào. Có thể ngay lúc này và ngay tại đây mọi sự đều tuyệt vời, nhưng mỗi chúng ta đang chịu một cơn bão tố đích đáng mà ma quỷ có thể dùng để đánh chúng ta ngã quỵ và phải sa vào lưới của nó. Chúng ta có Thánh Mi-ca-e Tổng Lãnh Sứ Thần chiến đấu thay chúng ta, nhưng ý chí tự do của chúng ta lại dễ dàng lung lay. Cho nên điều ấy làm chúng ta lo sợ và khiến chúng ta phải nghiêm túc nghe theo lời khuyên của Thánh Phao-lô: “Anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (Phi-li-phê 2:12).
Vì lý do này, thật là một việc bác ái khi Thiên Chúa ban cho chúng ta các dấu hiệu về ngày tận thế. Cái chết là một thực tại. Chúng ta luôn ý thức một ngày nào đó mình sẽ chết, nhưng chẳng mấy khi chúng ta mong ngày đó sẽ đến. Tuy nhiên đối với ngày sau hết Đức Vua và Thẩm phán sẽ đến thì chúng ta nên mong đợi. Nếu chúng ta đang thấy những xáo trộn thời tiết chưa từng có, nếu chúng ta đang thấy những tai ương khủng khiếp, xung đột và chiến tranh giữa các quốc gia trên thế giới, nếu chúng ta đang thấy động đất và các thiên tai khác, thì chúng ta hãy biết chắc rằng giờ Chúa đến đang tới gần.
Ngày hôm nay những người khôn ngoan sẽ nhận ra những dấu hiệu này. Ngày hôm nay những ai khôn ngoan sẽ chuẩn bị sẵn sàng cho ngày tận thế. Và những người khôn ngoan ngày hôm nay sẽ sẵn sàng lãnh nhận vinh quang muôn đời vào ngày mai. Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến. Amen.
Nguồn: https://www.hprweb.com/

5. Khi Chúa thương gọi con về
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm rằng suy giảm trí nhớ là dấu hiệu tuổi già. Vì quan niệm này mà suy giảm trí nhớ ít được quan tâm tại các nước đang phát triển. Theo báo cáo tại hội thảo Sa sút trí tuệ trong thực hành y khoa của Trường Đại học Y Dược Sài gòn, kết hợp với Công ty Dược phẩm Janssen-Cilag tổ chức vừa qua, khoảng 50% người bị suy giảm trí nhớ sẽ chuyển sang thành bệnh sa sút trí tuệ 3 năm sau đó.
Sa sút trí tuệ là tình trạng suy giảm mức trí tuệ đã đạt được từ trước. Bệnh nhân sẽ bị suy giảm trí nhớ, khả năng xét đoán, định hướng không gian và thời gian, ngôn ngữ, tư duy nhận thức, hành động… ảnh hưởng nặng nề đến chức năng và chất lượng cuộc sống.
Quá trình phát triển của hệ thần kinh từ trong phôi thai đến năm 25 tuổi thì hoàn chỉnh. Sau lứa tuổi này, mỗi ngày khoảng 3.000 nơron thần kinh bị hủy đi mà không có sự sinh sản thêm. Càng lớn tuổi, cơ thể càng ít tạo ra các chất trung gian cần thiết cho não hoạt động. Vì vậy, bước vào tuổi trung niên bạn đã có thể phải đối mặt với tình trạng suy giảm trí nhớ. Nguyên nhân do tình trạng lão hóa nhanh của các tế bào thần kinh, môi trường sống, stress, thiếu một số chất quan trọng trong cơ thể… (Thanh Niên)
Tuy khoa học đã minh chứng sự lão hóa của cơ thể theo năm tháng, cụ thể như các nơ rôn, tế bào não chỉ mất dần đi theo tuổi tác, chứ không còn khả năng tái sinh. Nhưng mấy ai chịu tin rằng mình sắp chết dần, đang chết dần, chết mòn, mà hầu như ai cũng nghĩ mình còn sống mãi, sống dai, sống dài, sống hoài!
Dù vài chục năm ký cóp chút của cải, chút danh vọng, rồi cũng phải bỏ lại tất cả trên cõi trần. Dù tình yêu có mặn nồng cách mấy, thì cũng phai nhạt dần theo năm tháng với người quá cố. Như vậy, cái chết là dấu chấm hết cho đời người? Đúng với người vô thần. Nhưng sai với người Kitô hữu chúng ta, vì cái chết là khởi điểm cho cuộc đời mới, hoàn toàn tùy thuộc vào nhân quả của đời trước.
Chết đi để sống mãi
Chúa Giêsu còn nâng cao tầm quan trọng của cái chết. Không phải chỉ cái là chết thể lý đơn giản, mà còn là cái chết của các ham muốn, đam mê, dục vọng, bản năng, thú vui xác thịt, hy sinh, quên mình vì phục vụ tha nhân, vì Bát Phúc, vì Danh Cha Cả Sáng. Như thế, cái chết mới phát sinh sức sống mới, tràn trề hoa thơm trái ngọt, gặt hái mùa bội thu, như dòng máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo đã giúp cho Giáo Hội thêm bền vững, phát triển.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga 12, 24)
Thiên hạ nói: “Hổ chết để da, người ta chết để tiếng.” Nhưng cái danh để lại có khi chỉ là xú danh, chứ không phải thanh danh. Dẫu thế, tốt hay xấu thì cũng chẳng nghĩa lý gì với người quá cố, chỉ có chút ảnh hưởng nào đó đến thân bằng quyến thuộc.
Nhưng với lẽ đạo, Thiên Chúa bao giờ cũng công bằng chánh trực, thưởng phạt phân minh từng người theo công đức và tội lỗi vấp phạm.
Như thế chết đi để được sống viên mãn mãi, hay là trầm luân muôn kiếp, đều tùy thuộc cuộc đời dương thế. Một khi sống để hưởng thụ, góp nhặt, chiếm đoạt, say mê danh lợi, bon chen của cải phù vân, thì đâu còn hy vọng chi đời sau? Một nắm xương tàn kết thúc cuộc đời, chẳng mang gì theo, ngoài những tam độc, lục dục và thất tình chăng?
Do vậy Chúa Giê su khuyên bảo hãy chết đi cái tôi mau hư nát, hãy mau mắn đổi của hèn, cuộc sống phù du ngắn ngủi, lấy của của trọng, cuộc sống vinh hiển muôn đời:
Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)
Thánh Phaolô cũng tha thiết khuyên nhủ tín hữu Philipphê: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, nay vì Đức Kitô tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki tô, và được kết hợp với Người.” (Pl 3, 7-9)
Sống theo Thầy
Đề được hưởng phúc trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi sống theo Thầy, phục vụ Thầy mọi nơi, mọi lúc. Phục vụ Chúa cũng có nghĩa là phục vụ tha nhân đồng loại bất cứ khi nào và ở đâu.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. (Ga 12, 26)
Tuy nhiên, không phải dễ dàng sống theo Đấng Ki tô, một khi còn nặng tính xác thịt, nặng đam mê phù vân thế gian. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã phải khóc thét lên, cảnh báo về sự chọn lựa quan trọng và dứt khoát sống còn này.
“Bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người. (Pl 3, 18 -21)
Theo Thầy sống mãi
Phần thưởng cao quý vô ngần, đó chính là Đức Chúa Cha yêu quý, khen thưởng trên Nước Trời những ai quên mình, bỏ mình, phục vụ Chúa Giêsu Kitô, cùng tha nhân bất kể bạn hay thù.
“Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.” (Ga 12, 26)
Con người vốn bất toàn, thiếu sót và tội lỗi, nay được vinh hạnh diện kiến Thánh Nhan nhờ ơn Cứu Rỗi của Chúa Giêsu, thì còn hồng phúc nào dưới thế này có thể sánh nổi?
Đừng để lúc sắp bước chân vào ngưỡng cửa đời đời, con hối tiếc vì đã đồi”của thiệt” lấy toàn “đồ giả” (Đường Hy Vọng, 676)
Các Thánh Tử Vì Đạo chúng ta đã sáng suốt phó dâng mạng sống, từ bỏ bản thân và mọi cám dỗ xác thịt, để anh dũng tuẫn đạo, theo chân Chúa đến hơi thở cuối cùng. Các ngài đã được ân thưởng trên cõi phúc viên mãn muôn đời. Các ngài đã hiệp thông cùng Chúa Giêsu mà đồng thanh ”Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha!”
Lạy Chúa, con vẫn biết Chúa luôn mời gọi phục vụ, nhưng lòng dạ con còn nặng nề thế tục, xin cứu giúp con biết từ bỏ ý riêng, chết đi tà tâm, để trung thành và bên vững phục vụ Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đồng hành, che chở con thoát khỏi cạm bẫy danh lợi, quyền thế, dục vọng, để mãi vững tâm đi theo Chúa, Amen.

6. Chúa Nhật 33 Thường Niên
THỜI GIAN YÊU THƯƠNG VÀ THỜI GIAN CÔNG THẲNG
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Con người có sinh có tử. Vũ trụ này có ngày khởi đầu chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đó là chân lý. Hôm nay, Chúa nhật áp chót của năm phụng vụ, Giáo hội cho chúng ta suy niệm Lời Chúa liên quan đến ngày cánh chung. Chúng ta thấy được hai khung cảnh của ngày tận thế.
Khung cảnh thứ nhất ở bài đọc I, do sách Đanien diễn tả. Tác giả nói tới một thời gian kinh hoàng “Đó là thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ”. Trong ngày đó, có tổng lãnh sứ thần Micae can thiệp. Người lành sẻ được thưởng. Đó là những người được “Ghi trong sổ sách”, là “Những người thông minh” và “Những kẻ khuyên dạy sự công chính”. Còn kẻ dữ sẽ bị luật phạt. Họ “Phải tủi nhục muôn đời”.
Khung cảnh thứ hai do Tin mừng hôm nay diễn tả, tác giả Thánh Marcô cho biết: “Trời đất sẽ qua đi”. Nghĩa là có ngày cùng tận của vũ trụ. Nhưng ngày đó đến khi nào chúng ta không biết được: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi”. Tuy vậy, tác giả cho chúng chúng ta biết có những dấu hiệu báo cho biết ngày đó sắp đến: (1) “Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển”. (2) “Thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang”. (3) “Và bấy giờ Người sẽ sai các Thiên thần của Người đi qui tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất”.
Qua hai khung cảnh mà bài đọc I và bài Tin mừng diễn tả chúng ta xác tín hơn: Có ngày Tận Thế, Thiên Chúa sẽ phán xét nhân loại và kẻ lành được thưởng, kẻ dữ bị phạt. Đó cũng là tín điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Vậy, khi chúng ta tin chắc có sự chết, có ngày tận thế và ngày đó lại đến cách bất ngờ thì chúng ta cần phải làm gì?
Thứ nhất, phải sống tỉnh thức và sẵn sàng. Chính Chúa Giêsu đã từng nhắc nhở: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Tỉnh thức như chủ nhà canh phòng kẻ trộm (Mt 24, 43-44). Tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể chuẩn bị dầu đèn đầy đủ (Mt 25, 1-3). Tỉnh thức và sẵn sàng chính là biết chu toàn bổn phận: Bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với tha nhân, đó là thực thi trọn vẹn Mười điều răn của Chúa và các điều răn Hội thánh, tóm lại trong hai điều: Mến Chúa và Yêu Người. Đến ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta theo một tiêu chuẩn duy nhất đó là Tình Yêu (x. Mt 25, 31-46).
Thứ hai, phải tỉnh thức và sẵn sàng khi còn có thể. Trần gian chỉ là quán trọ. Thiên Đàng mới là ngôi nhà vĩnh cửu. Thời gian chúng ta đang sống trên trần gian này là thời gian của Ân Sủng. Thời gian của Thiên Chúa Yêu Thương chúng ta. Trong thời gian này, Thiên Chúa ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm lành lánh dữ: Ban thời gian, ban sức khoẻ, ban khả năng, ban phương tiện, như những nén bạc để chúng ta sử dụng mà lo phần rỗi. Thời gian này thật đáng quý. Quý đến nỗi có thể chỉ cần một tích tắc thôi cũng có thể biến tội nhân thành thánh nhân. Thời Gian tạm bợ quyết định cho số phận vĩnh cửu. Thánh Gioan Viannay đã nói với một phụ nữ có người chồng mới chết rằng: “Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội…”.
Chết là hết thời gian Yêu Thương, Thiên Chúa cứ Công Tội mà thưởng hay phạt chúng ta, đó là thời gian của Công Thẳng. Thiên Chúa chỉ dựa vào công để thưởng và dựa vào tội để phạt: “Những ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (x. Ga 5, 28-29). Vậy hãy sử dụng thời gian Yêu Thương để làm những gì có thể làm được “Việc gì làm hôm nay đừng để đến ngày mai”, để khi bước sang thời gian Công Thẳng sẽ không còn hối hận và nuối tiếc.
Câu chuyện sau đây phần nào giúp chúng ta hiểu hơn về chân lý trên: Một cô bá tước nọ rất xinh đẹp nhưng lại mồ côi cha mẹ lúc còn bé, nàng lớn lên trong một lâu đài tráng lệ và rất hãnh diễn về gia tộc quí phái của nàng. Một hôm có một cô bé, con của bác thợ gặt nghèo, hổn hển chạy đến lâu đài của cô bá tước và thưa: “Thưa cô, ba cháu sắp chết, và ba cháu xin cô tới ngay vì ba cháu có một điều rất quan trọng cần nói cho cô biết trước khi nhắm mắt”.
Cô bá tước kiêu căng đáp lại: “Ta không hiểu tại sao một bác thợ gặt nghèo hèn như ba của mày, lại có điều gì phải nói với ta”. Và cô bá tước tức giận, đóng cổng, đuổi đứa bé đi. Một lúc sau đứa bé lại hổn hển đến gõ cửa lâu đài và run sợ phân trần một lần nữa với cô bá tước kiêu hãnh: “Xin cô đến mau trước khi ba cháu chết. Ba cháu nói là trước khi má cô qua đời, trong trận chiến tranh cuối cùng, bà đã chôn dấu rất nhiều vàng bạc và một kho tàng lớn cho cô. Ba cháu định để tới khi cô đến tuổi trưởng thành sẽ tỏ cho cô biết má cô đã nhờ ba cháu chôn dấu ở đâu, nhưng bây giờ ba cháu sắp từ trần nên muốn trối lại cho cô kho tàng đó”.
Nghe vậy, cô bá tước vội vàng đi theo đứa bé, vừa đi vừa chạy, nhanh bao nhiêu có thể. Nhưng khi cô bá tước vừa bước chân đến cửa nhà người thợ gặt nghèo khổ, thì ông ta cũng vừa tắt thở không kịp nói cho cô biết kho tàng được cất dấu ở đâu. Kế đó, cô bá tước cho đục khoét nhiều lộ trong phòng, trong tường, nhưng đã quá trễ, không tìm thấy kho tàng chôn dấu ở đâu cả.
Cô bá tước trong câu chuyện trên đây vì kiêu hãnh nên bỏ lỡ cơ hội không lấy được kho tàng quí báu mà mẹ để lại. Nước Trời là kho tàng quí giá, nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội tức là nếu chúng ta không biết sử dụng Thời Gian Yêu Thương để lo phần rỗi thì chúng ta cũng có nguy cơ đánh mất kho tàng quý giá đó. Amen.

7. Tin và hy vọng vào Lời Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chu kỳ Năm Phụng vụ mở ra với ngày tháng dần trôi đang từ từ khép lại. Chúng ta đang ở Chúa nhật áp chót của năm, nhưng tâm điểm vẫn là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, chịu chết và sống lại, lên trời và sẽ trở lại như lời Người đã phán. Sống đời kitô hữu là sống niềm tin và hy vọng vào chính lời Chúa.
Chúa nhật thứ XXXIII thường niên B làm chúng ta nhớ lại, khởi đầu Năm Phụng Vụ, Giáo hội đã kêu gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Kitô đến lần thứ nhất mang ơn cứu độ là chính Người đến cho nhân loại. Và Chúa nhật hôm nay, Giáo hội lấy lại lời Chúa Giêsu loan báo về sự chung cuộc, mời gọi con cái mình chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến lần thứ hai (x. Mc 13,24-32).
Nghe đoạn Tin Mừng Marcô (13, 24-32), chúng ta có thể nghĩ rằng “Ngày ấy còn xa, chưa cần phải làm gì hết”, nhưng “hãy biết là Người đã tới gần ngoài cửa rồi” (Mc 13,29). Tuy nhiên, trong xã hội chúng ta đang sống, có những quan niệm lệch lạc về sự chung cuộc của thế giới. Quả thật, chúng ta không thể nói về sự sống lại mà không nghĩ rằng chúng ta phải chết. Ngày chung cuộc của thế giới bắt đầu với mỗi người chúng ta ngay ngày chúng ta chết, thời giờ thật cấp bách để chúng ta lựa chọn.
Nói đến Tin Mừng là nói đến Tin Vui, tự bản chất của Tin Mừng là Tin Vui, nên Tin Mừng luôn mang đến Tin Vui và Tin Vui ấy là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa hằng sống: Cớ gì chúng ta phải sợ? Có phải vì chúng ta thiếu niềm tin và hy vọng không?
Sống trong thời đại không thiếu những thiên tai và rất tiếc cả những nhân tai như chiến tranh và bạo lực, làm cho cuộc sống con người bị đảo lộn, cộng thêm sự xâm nhập của chủ nghĩa tương đối khiến lòng người khó tin và thất vọng. Nếu như thời Chúa Giêsu đã xảy ra việc làm cho người ta xao xuyến trước những biến động về thế giới và vũ trụ: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển” (Mc 13, 25), thì trước đó, tinh thần của dân Chúa thời tiên tri Đaniel cũng đã trải qua cuộc khủng hoảng tương tự, lúc ấy Thiên Chúa chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc của họ. Họ thưa cùng Chúa rằng: “Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa” (Tv 15,5).
Khi có khốn đốn kinh hoàng như Daniel loan báo: “Thời kỳ khốn khổ chưa từng xảy đến từ khi có các dân tộc cho tới bây giờ” (Dn 12, 1-3 ). Nhưng nếu họ tin tưởng và cậy trông vào Chúa, “khi ấy dân ngươi sẽ được cứu thoát”. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài là niềm vui và là chỗ dựa vững chắc của mỗi chúng ta. Vị Thiên Chúa ấy hiện thân nơi con người Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là Đấng nối liền hiện tại với tương lai; các lời tiên tri xưa kia sau cùng đã tìm thấy một trung tâm nơi con người của Đấng Cứu Thế người thành Nagiarét, chính Người là biến cố đích thật, là điểm chắc chắn và ổn định giữa các chao đảo của thế giới. Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng các lời của Ta sẽ không qua đi” (Mc 13, 31).
Thật thế, chúng ta biết rằng trong Thánh Kinh, Lời Chúa là nguồn gốc của việc tạo dựng; mọi tạo vật, bắt đầu từ các yếu tố vũ trụ, mặt trời, mặt trăng, bầu trời đều vâng phục Lời Thiên Chúa, hiện hữu trong tư cách “được gọi” bởi Lời Chúa. Quyền năng tạo dựng đó của Lời Chúa đã được tập trung nơi Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, và cũng qua các lời nói của Người mà “bầu trời” đích thật hướng dẫn tư tưởng và lộ trình của con người trên trái đất này.
Giáo hội tiếp tục loan báo cho chúng ta một Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Ít sợ hơn nhưng liên kết giữa cách sống với niềm tin của chúng ta hơn! Đức Hồng Y Newman JH nói: “Khi chúng ta đến trước tòa Chúa, chúng ta sẽ được hỏi về hai điều: nếu chúng ta là phần tử của Giáo hội và nếu chúng ta làm việc trong Giáo hội Chúa. Mọi thứ khác chẳng có giá trị gì”. Giáo hội không chỉ dạy chúng ta cách chết thế nào, mà còn dạy chúng ta về cách sống ra sao sau phục sinh. Bởi vì những gì Giáo hội dạy không phải là sứ điệp của riêng mình, nhưng sứ điệp của Đấng là nguồn mạch sự sống. Chỉ trong niềm hy vọng này mà chúng ta có thể thanh thản đối mặt với sự phán xét của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con tin cậy vào Lời Chúa, Lời Chúa là ngọn Đèn soi cho chúng con bước, là Ánh Sánh chỉ đường cho chúng con đi, Lời ấy tồn tại mãi cho dù mọi sự qua đi.

8. Quê Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Có 193 quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra có một số nhỏ các quốc gia độc lập như nước Vatican, Taiwan và Kosovo không là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Nói đúng hơn là có tất cả 196 nước trên thế giới. Có những Nước lớn, đất rộng người đông như Trung Hoa có trên 1 tỷ 341 triệu người, Ấn Độ có trên 1 tỷ 210 triệu và Hoa Kỳ có trên 314 triệu người. Tổng số dân trên thế giới khoảng trên 7 tỷ. Có những quốc gia nhỏ xíu như Nước Vatican rộng (0.2 square miles) với dân số 770 dân và Nước Monaco (0.7 square miles) có 32 ngàn dân. Số dân tăng dần mỗi năm. Số người qua đời ít hơn số trẻ sơ sinh. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia hướng đến cùng đích. Bước vào thế kỷ thứ 21, nhờ khoa học kỹ thuật siêu vượt, con người đã mở rộng tầm kiến thức và tạo mối liên hệ tới mọi quốc gia. Sự truyền thông đa chiều đã nối kết con người xích lại gần nhau hơn.
Sống trên trần gian là cuộc lữ hành đi về quê thật. Có biết bao con đường mở ra giúp dẫn đưa con người đi đến cùng đích. Con người mọi thời đã suy tư giác ngộ ra nhiều thứ đạo, nhiều tôn giáo và nhiều cách thế để đạt mục đích. Có 20 tôn giáo chính thức, đang là chỗ cậy dựa tinh thần cho nhiều người: Kitô giáo đông nhất có trên 2 tỷ tín đồ, Hồi Giáo khoảng trên 1 tỷ 570 triệu, Hinduism có khoảng 950 triệu, Buddhism (Phật giáo) số thống kê không chính xác (350-1,600 triệu tín đồ)…Ngoài ra còn rất nhiều các nhóm tôn giáo khác nhau. Tất cả các tôn giáo cùng đi tìm ý nghĩa và cùng đích cho cuộc sống hôm nay và ngày mai. Đa số các tôn giáo đều tin có cuộc sống hạnh phúc mai hậu nơi thiên đàng, niết bàn, cõi tây phương cực lạc, quê trời, cõi trời và nơi trường sinh bất tử.
Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta những dấu chỉ về ngày cánh chung. Nước Trời khởi đi từ trần thế và kết thúc trên quê trời. Chúa Giêsu chỉ dậy: Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần (Mc 13, 28). Chúa quan phòng cho chúng ta thấy những dấu chỉ của thời gian, không gian và vạn vật muôn loài. Mọi thứ đều có khởi đầu và có ngày cùng tận. Mọi loài thụ tạo được phát triển trong thời gian, đừng mong có những bước nhảy vọt. Cuộc sống của con người cũng như thiên nhiên cần phát triển theo những chặng đường rất tự nhiên, từ trẻ tới già, từ non nớt tới sự chín mùi, từ ngây thơ tới tuổi trưởng thành và từ khởi sinh đến cùng đích. Chúng ta được mời gọi bước tới trên con đường trọn lành để chiếm hữu quê thật.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm đối diện với những người tốt, kẻ xấu. Mỗi người đều có cơ hội thay đổi để nên tốt lành hơn. Sự thật ở đời, chúng ta khó tìm được một người hoàn toàn tốt hay một người toàn xấu. Trong tâm con người, có phần tốt và chút thói xấu lẫn lộn. Nghèo cùng tâm trí và không biết gieo duyên lành sẽ dễ bị cuốn lôi theo dòng chảy. Đôi khi vì qúa chủ quan, chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình. Mỗi người cần xét mình và biết mình để tìm cách sửa sai và thăng tiến mỗi ngày.
Trong thế giới ngày nay, xuất hiện rất nhiều tôn giáo dẫn đường cuộc sống. Mỗi tôn giáo với những linh đạo riêng có thể giúp các tín đồ của mình tu thân và tu tâm để thoát vòng loạn ly. Đời sống con người hiện đại đang dần bị tục hóa. Ảnh hưởng của chủ nghĩa hưởng thụ và tương đối đang bủa vây và kéo chìm con người trở về với bản năng hưởng thụ. Qua truyền thông nối mạng, hình như các tệ nạn và gương xấu đang tràn lan một cách mạnh mẽ như sóng triều. Sức mạnh của sự thỏa mãn vật chất mạnh hơn các lý tưởng tinh tuyền của tôn giáo. Nhiều người tìm kiếm thỏa mãn những đòi hỏi vật thể và vui hưởng cuộc sống trong hiện tại, thay vì hướng đến cuộc sống hạnh phúc tương lai. Chúng ta cần thức tỉnh cả trong ý tưởng, tâm linh và thân xác để nhận diện ý nghĩa thật của cuộc sống.
Nhiều bạn trẻ thả trôi cuộc đời lênh đênh không có đích điểm. Thật đáng thương cho kiếp phận con người. Hằng ngày tôi gặp gỡ nhiều người trẻ tự thắt nút cuộc đời qua những biến cố xảy ra. Đang trong tuổi đẹp trăng tròn, nhiều bạn trẻ đã bắt đầu tìm hưởng thụ tính dục, rồi sớm có con, không hôn nhân, không gia đình, thay bạn đổi bồ như thay áo. Qua năm tháng, những nút thắt cuộc đời đan kết chất chồng lên nhau như mối tơ vò. Nhìn một người mẹ trẻ có ba đứa con với hai hoặc ba người bạn tình. Tương lai tại thế của các bạn trẻ này thật mờ mịt khó đường giải quyết. Xảy một ly đi một dặm, làm lại cuộc đời thế nào bây giờ. Làm sao chúng ta có thể nói với họ về tương lai của ngày sau? Các bạn trẻ tự giới hạn viễn tượng sống để giải quyết vấn đề hiện tại với nhiều điều nan giải. Cứ thế cuộc đời bị luẩn cuẩn trong mạng lưới ràng buộc, cả nể cho nên sự dở dang.
Ngày cánh chung sẽ đến giống như dấu chỉ của cây vả xanh tươi, chúng ta biết mùa hè sắp đến. Mỗi người chúng ta nên nhìn dấu chỉ của thời đại để chuẩn bị cho đời sống mai hậu. Chúng ta biết rằng một việc tốt dù nhỏ cũng có thể sinh ra hoa trái tốt lành. Chúng ta phải gieo nhân tốt mới có thể sinh qủa tốt được. Giữa ngã ba cuộc đời, chúng ta phải biết chọn lựa và từ bỏ. Chọn lựa con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc. Từ bỏ đi những bận vướng của cuộc sống. Cuộc đời có nhiều vương vấn nên cần có thái độ dứt khoát. Ai cũng có thể làm lại cuộc đời. Không khi nào trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại. Chấp nhận thực tại, chúng ta tháo cởi từng những nút thắt để cuộc sống tâm linh được thanh thản và an vui. Những việc làm tốt nho nhỏ hằng ngày sẽ lớn dần và đâm bông kết trái.
Chúa Giêsu biết thân phận yếu đuối mỏng dòn và tội lỗi của con người, nên Ngài đã dâng hiến lễ đền tội để giao hòa. Thơ gởi tín hữu Do-thái viết: Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hoá được nên hoàn hảo (Dt 10, 14). Dù con người có sa phạm, lầm lạc và tội lỗi, Chúa vẫn có cách dẫn đưa họ trở về như mẫu gương của thánh Augustinô. Nếu chúng ta chỉ hối tiếc về sự sa ngã lầm lạc thì chưa đủ. Muốn làm lại cuộc đời, chúng ta cần thành tâm nhận lỗi, rồi hối lỗi, thật lòng sửa lỗi, chuộc lỗi, xin tha lỗi và tu luyện tâm tánh. Đây là một sự thách đố quyết tâm đổi đời. Hãy chạy đến với lòng Chúa thương xót xin ơn tha thứ. Chúa sẽ tẩy sạch tâm hồn, đổi mới trái tim yêu thương và thánh hóa trở nên con người mới trong ân sủng.
Niềm tin vào Thiên Chúa là niềm hy vọng viên mãn. Tiên tri Đaniel đã có thị kiến về ngày thế mạt: Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời (Dn 12, 2). Chúng ta không thể coi thường những chỉ thị, huấn lệnh và lời giảng dạy trong Giáo Hội. Niềm tin tôn giáo là cửa ngõ dẫn chúng ta vào Nước Trời. Chúng ta cần phải đi, phải bước tới và thực hành những điều Chúa truyền dạy. Nước Trời mở cửa đón nhận tất cả mọi người, nhưng chỉ những kẻ kiên trì phấn đấu đến cùng mới đáng hưởng phần phúc thiên đàng. Chúng ta không biết được ngày giờ Chúa đến, nên luôn phải sẵn sàng: Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi (Mc 13, 32).
Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho Nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin cho chúng con biết lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày để ngày sau được chung hưởng hạnh phúc đời đời.

9. Chết trong tình yêu Thiên Chúa
Người ta thường hay nói: “Hổ chết để da người chết để tiếng”, muốn ám chỉ đến một cái chết có ý nghĩa, một cái chết hiển vinh, một cái chết biết lựa chọn. Nhưng trong thực tế chính vì bản thân và sự ích kỷ, con người chỉ muốn có một cuộc sống yên ổn, cho dù đó là sống nhục phải luồn cúi, miễn sao cuộc sống họ được an nhàn êm ấm, chẳng ai muốn gặp phải những tan tác đau thương. Vì thế lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải từ bỏ mình, vác thập giá, hy sinh mạng sống. Hay nói đúng hơn là biết chết đi để được sống. Thật là điều mà đa số những người trong chúg ta khó mà chấp nhận được. Nhưng với niềm tin và tình yêu. Chúng ta vẫn tin rằng nếu biết chết với Đức Kitô thì mình cũng được sống lai với Người. Đó chính là điều Ngài muốn và muốn chúng ta:
1. Chết bằng cách từ bỏ.
Hàng rào ngăn cản chúng ta đến với Chúa chíh là danh – lợi – thú, không phải bất cứ ai cũng có thể rũ bỏ được, vì nó như một loại ký sinh luôn bám vào cuộc sống ta, và ngày ngày sẽ lớn mãi nếu ta không bài trừ. Do dó, con người luôn phải chiến đấu mãi và phải biết lựa chọn cho mình. Vì khi bám víu vào điều gì thì cũng bị tan biến theo điều đó. Nếu bám víu vào cái bất toàn, ngày ngày chỉ biết lao đầu vào cuộc sống hơn thua, bon chen, gom góp cuộc sống cho mình…kết cuộc mình cũng đi vào hư vong.
Chúng ta nên biết cuộc sống mỗi người ở trần gian này chỉ là “phù vân”, như hoa huệ ngoài đồng sớm nở tối tàn rồi cũng qua đi. Nếu thật sự là người khôn ngoan thì không ai muốn bám víu vào của cải tạm bợ để làm gia nghiệp đời đời mà phải biết từ bỏ. Không phải ngày hôm nay chúng ta mới biết cách lựa chọn, mà từ ngàn xưa đã có những chứng nhân anh hùng quả cảm, các ngài đã chấp nhận từ bỏ, chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất là đã chịu từ bỏ chính bản thân để làm chứng cho chân lý, chịu mất mạg sống để làm chứng cho đức tin. Tiêu biểu như thánh Hồ Đình Hy làm quan lớn trong triều đình, hay chánh tổng phạm trọng Tả là nhửng vị có chức quyền trong xã hội, các ngài tha mất chức, mất danh vọng chứ không chịu mất đức tin.
2. Chết qua việc vác thập giá.
Khi nói đến hai từ “Thập Giá’ chúng ta nghĩ ngay đến dụng cụ hành hình mà trên đó Đức Kitô đã chết để cứu chuộc thế gian. Đó cũng là biểu tượng của mọi đau khổ mà một Kitô hữu phải chịu hay tự nguyện đón nhận để kết hiệp với Đức Kitô và cộng tác với Người trong việc cứu độ các linh hồn. Bởi đó thập Giá là một mầu nhiệm đã được mạc khải như Đức Kitô đã dạy:”Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập Giá mình hàng ngày mà theo”. Câu nói của Đức Kitô như một lời khẳng định chắc nịch đã được các thánh tử đạo Việt Nam hân hoan đón nhận như một đặc ân dành riêng cho mình. Các ngài không nề chông gai gian khó vác những thập giá Tin Mừng vào những nơi u mê. Các ngài đã gieo hạt giống Tin Mừng trong những hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Và cuối cùg đã can đảm vác cây Thánh Giá đến nơi pháp trường, chấp nhận hy sinh để hạt giống được gieo vào lòng đất, vì các ngài luôn ý thức rằng “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác”.
3. Chết vì tình yêu Đức Kitô.
Đối với người tín hữu chúng ta vẫn ý thức một cách chắn chắn về phần thưởng đời sau. Vì thế, cái chết không còn nặng nề, mà cái chết có ý nghĩa thì nhẹ tựa lông hồng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng là gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa tình yêu. Nơi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh đã hình thành một sự sống mới cho chúng ta, để chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng “Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ được cứu mạng sống ấy”. Để làm được điều này đòi hỏi mỗi người phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa dành cho mình thật mãnh liệt, không gì có thể chiến thắng, không gì có thể xóa nhòa. Như thánh Phaolô đã từng thách thức “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô” (Rm 8,35), Làm sao tôi có thể làm được điều thánh Phaolô đã làm nếu tôi thiếu tình yêu mến Chúa, làm sao tôi có thể hy sinh như các thánh tử đạo Việt Nam nếu tôi không phó thác vào tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi khi nghe đọc lại tiểu sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, tôi lại thấy một dòng máu nóng chảu cuồn cuộn trong huyết quản của mình, như một hơi nóng thúc đẩy tôi phải biết can đảm sống ở giữa pháp trường hôm nay. Pháp trường không còn sử dụng gươm đao, không còn lăng trì khổ nhục, vì ngày nay người ta sử dụng những thứ vũ khí tinh vi hơn, họ có thể “xử trảm” chân lý một cách vô tội va, họ có thể biến đen thành trắng, biến có thành không… đó là những cực hình cứ liên tục giàng xé cuộc sống làm cho ta đau đớn không khác gì những cực hình mà các thánh tử đạo Việt Nam phải chịu. Noi gương các thánh, chúng ta cũng xác tín “Ai liều mất mạng sống mình vì tôi thì sẽ được cứu mạng sống ấy”. Amen.

10. Ngày phán xét
Vũ trụ này đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần lưu ý, đó là nhân loại này luôn luôn được chia làm hai giới tuyến, tin và không tin. Đón nhận và từ chối lời Ngài. Hai giới tuyến này vẫn tồn tại và tồn tại mãi cho đến ngày tận cùng của trời đất. Đúng thế, trong ngày tận cùng của trời đất Đức Kitô sẽ xuất hiện, không phải với thân phận nô lệ, nhưng với tất cả quyền năng của Ngài để phân xử ngay cả những tư tưởng thầm kín nhất của chúng ta.
Chính lúc ấy, hai giới tuyến này mới thực là rõ rệt. Một bên thì sáng ngời và hạnh phúc vì họ là những người đã trung thành gắn bó với Chúa… Còn một bên thì khổ đau và tuyệt vọng, bởi vì họ đã từng là những kẻ thù, chống đối và phỉ báng Chúa.
Lúc bấy giờ, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Trong khi đó những người lành thì hân hoan vui sướng, bởi vì họ đã trung thành gắn bó với Chúa, không bao giờ họ bán rẻ đức tin của mình cho những đam mê và những khát vọng trần tục. Bấy giờ Chúa sẽ phán với họ: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã được chuẩn bị cho các ngươi từ trước muôn đời. Bấy giờ cánh cửa Nước Trời được mở rộng để họ tiến vào, ở đó họ sẽ được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời với Chúa, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xác tín rằng Nước Trời mới là quê hương đích thật, mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chúng ta. Còn trần gian thì chỉ là quán trọ mà chúng ta là những lữ khách. Bởi đó, không được từ khước một hy sinh, một gian khổ nào. Trái lại, bằng mọi giá phải chiếm cho được quê hương Nước Trời.
Hãy nghĩ đến Nước Trời mỗi khi chúng ta gặp phải những cám dỗ và thử thách. Hãy nghĩ đến Nước Trời giữa những vất vả và mệt mỏi, giữa những buồn phiền và cay đắng của cuộc sống thường ngày. Hãy nghĩ đến Nước Trời trong những lúc nghèo túng, bệnh tật và cô đơn. Bởi vì Nước Trời trổi vượt trên mọi thực tại trần gian.
Đừng bán quyền trưởng nam bằng một bát cháo. Đừng bán cuộc sống vĩnh cửu bằng một vài giây phút vui thú chóng qua. Đời sống thì ngắn ngủi. Danh vọng và vui thú thì chóng tàn. Việc quan trọng chúng ta cần phải làm trước tiên, đó là tìm kiếm Nước Trời như lời Chúa đã nói: Sau cuộc sống trần gian này, thì hạnh phúc Nước Trời đang chờ đón chúng ta, thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để chúng ta xứng đáng được Chúa đón nhận vào chốn quê hương vĩnh cửu?

11. Ngày cùng tận
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. Trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động. Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.”
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa.”
Phải chăng những điều ấy phù hợp với những gì Đức Mẹ đã nói với ba em thụ khải ở Fatima! Nhất là trong một số bí mật được trao phó? Có một bí mật Đức Mẹ dạy chỉ được tiết lộ năm 1960. Năm đó, Lucia đã viết lại và đệ trình Đức Gioan XXIII. Ngài coi xong, suy nghĩ và quyết định không tuyên bố. Phải chăng là những gì quan trọng sẽ xảy ra trong Giáo hội và thế giới, cách riêng về dấu chỉ lòng đạo đức sẽ sa sút! Một dấu tiên báo ngày thế mạt sắp đến.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (IITim. 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn.” Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt. 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh. 2,10).

12. Thế giới này sẽ qua đi
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Trong những Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc chúng ta nghĩ đến ngày cùng tận của thế giới. Chẳng có gì thuộc về thế gian mà tồn tại vĩnh viễn, trái lại tất cả sẽ sụp đổ. Chỉ có những gì thuộc về Chúa mới trường tồn.
Thực ra, chẳng ai biết lúc nào thì tận thế. Cho nên có lẽ chúng ta sẽ không gặp ngày đó. Tuy nhiên, ai cũng sẽ gặp phải ngày tận thế của đời mình, đó là ngày chúng ta chết. Vì thế ai cũng phải chuẩn bị cho ngày đó.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta quá bám víu vào thế gian này, tưởng như nó không bao giờ qua đi.
Chúng ta quá bám víu vào cuộc sống này, làm như chúng ta không bao giờ chết.
Chúng ta ít khi chuẩn bị cho cuộc sống đời sau.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Đn 12,1-3
Ngôn sứ Đanien nói về thời cùng tận: khi đó Thiên sứ Micae, Tổng lãnh đạo binh các thiên sứ, sẽ đứng lên chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực gian tà. Nhưng đó cũng chính là lúc những người công chính được giải thoát và ban thưởng phúc trường sinh.
Thực ra chúng ta không cần coi đoạn sách Đanien này là những lời tiên tri về ngày tận thế. Hãy coi đây là một việc thường xuyên diễn ra trong lịch sử chung và cuộc đời riêng của mỗi người: luôn có một cuộc giao tranh giữa cái xấu và cái tốt; khi cái xấu sụp đổ thì cũng là lúc cái tốt lên ngôi.
2. Đáp ca Tv 15
Bài ca bày tỏ lòng phó thác vào Chúa: “Số mạng con chính Ngài nắm giữ… được Ngài ở bên con chẳng nao núng bao giờ”
3. Bài đọc II Dt 10,11-15.18 (Chủ đề phụ)
Tiếp tục so sánh các thượng tế Do Thái với Đức Giêsu Thượng Tế: (1) Những thứ lễ tế mà thượng tế Do Thái dâng lên chẳng thể nào xóa bỏ được tội lỗi; còn hiến lễ của Đức Giêsu Thượng tế xóa sách mọi tội lỗi của loài người; (2) Do đó các thượng tế Do Thái phải mỗi ngày dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; còn Đức Giêsu Thượng tế chỉ dâng duy nhất một lần và sau đó lên ngự bên hữu Chúa Cha đến muôn đời.
4. Tin Mừng Mc 13,24-32
Đức Giêsu nói về ngày Ngài quang lâm trở lại. Ngài không mô tả ngày đó nhưng cho biết những nét chính:
Ngày Chúa quang lâm cũng là ngày bắt đầu một cuộc tạo dựng mới: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển” là đối ảnh của St 1,1.16 mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng: “Lúc khởi nguyên, Thiên Chúa dựng nên các tầng trời và trái đất. Ngài làm 2 chiếc đèn lớn, chiếc lớn hơn để cai ngày, chiếc nhỏ hơn để cai đêm, rồi các ngôi sao”.
“Lúc đó Ngài sẽ sai thiên sứ đi và tập họp những kẻ được Ngài tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất đến cuối chân trời: khi vũ trụ cũ đầy gian tà sụp đổ thì cũng là lúc quyền lực của Chúa lên ngôi. Những kẻ lành được Ngài tuyển chọn sẽ làm thành nhân loại mới.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Ngày cuối cùng – Ngày Chúa đến
– Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay là một trong những đoạn Thánh Kinh khó hiểu nhất. Nó thuộc văn thể Khải Huyền, là một loại văn thể bóng gió, nghĩa là không nói thẳng ý tưởng ra, nhưng diễn tả ý tưởng một cách gián tiếp qua trung gian những hình ảnh. Những hình ảnh này không quan trọng vì chỉ là phương tiện diễn tả, cái quan trọng chính là ý tưởng mà những hình ảnh ấy muốn diễn tả.
Vậy ý tưởng chính của bài Tin Mừng này là gì? Thưa là nói về ngày cùng tận.
Ngày cùng tận ấy sẽ đến vào lúc nào? Có nhiều người không biết đã học giáo lý kiểu nào, hoặc đã đọc ở những sách nào mà dám quả quyết rằng ngày ấy sẽ đến vào năm 2000. Quyết toán như vậy là hoàn toàn không có cơ sở. Bởi vì trong bài Tin Mừng này, chính Chúa Giêsu đã nói “Còn về ngày hay giờ đó thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả Chúa Con đi nữa cũng không ai biết được, trừ một mình Chúa Cha mà thôi”.
Ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay mô tả “Khi ấy mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống. và các tinh tú bầu trời bị lay chuyển”. Những hình ảnh ấy khiến cho nhiều người cho rằng ngày ấy sẽ là một ngày khủng khiếp. Có người còn tô vẽ thêm rằng ngày đó sẽ có nắng lửa mưa dầu. Có người khác lại giải nghĩa rõ hơn nữa, rằng mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao rung chuyển và nắng lửa mưa dầu ấy là hậu quả của một cuộc chiến tranh nguyên tử; rằng thế giới này sẽ tận diệt bằng một cuộc chiến tranh nguyên tử. Thế nhưng, như tôi đã lưu ý ngay từ đầu: đây là văn thể Khải Huyền, trong đó những hình ảnh không quan trọng vì chúng chỉ là phương tiện để diễn tả một ý tưởng. Thực ra ngay cả những hình ảnh được dùng trong bài Tin Mừng này cũng không phải là do chính Chúa Giêsu đưa ra, mà Chúa chỉ lấy lại những hình ảnh mà các tiên tri quen dùng để nói về ngày cùng tận. Mà theo các tiên tri thì những hình ảnh trên mang một ý nghĩa rõ ràng. Ý nghĩa đó là gì? Đây ta hãy nghe một đoạn trong sách tiên tri Isaia: Ngày ấy sẽ không cần mặt trời soi sáng ban ngày, cũng không cần mặt trăng soi sáng ban đêm, cũng không cần ánh sáng của các ngôi sao hoặc ánh sáng của đèn đuốc, vì chính Chúa Cứu Thế sẽ là Ánh Sáng soi chiếu khắp nơi. Nghĩa là các tiên tri và cả Đức Giêsu đều không quan tâm ngày cùng tận ấy sẽ xảy ra như thế nào, chỉ quan tâm đến sự kiện quan trọng nhất trong ngày ấy, đó là Chúa sẽ đến. Tới ngay cùng tận thì Chúa sẽ đến. Ngày Chúa đến có thể là một ngày khủng khiếp đối với những kẻ tội lỗi, mà cũng là một ngày hân hoan vui mừng cho những người công chính.
Tại sao Phụng vụ lại chọn bài Tin Mừng này để đọc trong ngày hôm nay? Hôm nay là Chúa nhật áp chót của năm Phụng vụ. Tuần tới sẽ là Chúa nhật cuối cùng. Sau đó là qua Mùa Vọng bắt đầu một năm Phụng vụ khác. Vậy trong ngày chúa nhật áp chót, Phụng vụ chọn đọc bài Tin Mừng nói về ngày cùng tận thì cũng là hợp lý.
Thời giờ thắm thoát thoi đưa, nói đi đi mãi có chờ chờ ai!
Thế giới này không phải là vô tận, thế nào rồi cũng có ngày tận cùng.
Cuộc đời con người cũng không phải là vĩnh cửu, thế nào rồi cũng có ngày chấm dứt. Một năm trôi qua là thế giới càng tiến gần đến ngày tận cùng của nó. Một năm trôi qua, đời người cũng càng tiến gần đến ngày cuối cùng của mình. Ngày cùng tận ấy sẽ đến lúc nào? Không ai biết. Nó sẽ diễn ra như thế nào? cũng chẳng ai biết trước được. Chỉ biết chắc là ngày đó Chúa sẽ đến. Chúa sẽ đến với mọi người để kiểm điểm đời sống mỗi người, để đánh giá xem mỗi người đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào.
Người ta thường ví cuộc đời như một chuyến đi, thời gian như một con đường, và con người như một kẻ lữ hành. Người lữ hành thực hiện chuyến đi cuộc đời trên con đường thời gian. Và cũng như con đường phải dẫn đến một đích điểm, thì người lữ hành phải biết tận dụng thời gian để nhanh chân tiến bước đến đích điểm ấy. Không thể là một người lữ khách lang thang, cứ vô tình bước những bước vô địch, không biết đã đi qua đâu mà cũng chẳng biết sẽ đi về đâu.
Hết một năm là hết một đoạn đường. Giáo Hội muốn chúng ta hôm nay tạm dừng chân lại để kiểm điểm cuộc hành trình của mình.
Một năm qua, thế giới đã có những bước tiến tốt đẹp: Nhiều nước thù nghịch nhau đã tiến gần tới nhau để hoà giải hoà hợp với nhau. Một năm qua, đất nước chúng ta cũng có nhiều bước tiến, có đổi mới nhiều mặt để hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Còn cuộc đời mỗi người chúng ta, một năm qua có tiến bước gì không?
Đối với bản thân: con người chúng ta có trở nên tốt hơn không.
Đối với tha nhân: liên hệ giữa chúng ta có công bình hơn, bác ái hơn?
Đối với Chúa: sau một năm chúng ta có đến gần Chúa hơn không? Có thuộc về Chúa, gắn bó với Chúa nhiều hơn không? Đức tin của chúng ta có vững vàng hơn không? Đức cậy chúng ta có chắc chắn hơn không? và đức mến của chúng ta có nồng nàn hơn không?
Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta tạm dừng chân để suy nghĩ về những điểm trên, để nếu cần thì điểu chỉnh lại cho cuộc hành trình của mình được vững bước hơn. Có như vậy chúng ta mới có thể sẵn sàng và vui mừng hân hoan đón Chúa khi Ngài đến.
2. Ngày tận thế (CN 33 TN-B)
Khi Ađam bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, ông phải khổ cực vất vả tìm kiếm miếng cơm manh áo.
Một lần kia, trên đường lao dịch, Ađam vấp phải cái xác bất động của Abel. Ông nâng con dậy, vác trên vai, đem về đặt trong lòng Eva. Ông bà lay gọi, nhưng Abel không đáp lại. Trước đây, Abel đâu có trầm lặng như vậy! Eva nâng tay đứa con yêu quý lên, bàn tay lại rơi xuống vô hồn. Trước đây không hề thấy như thế bao giờ! Ông bà nhìn vào đôi mắt trắng đã vô tư một cách bí mật. Trước đây đôi mắt của Abel có vô tình như thế đâu? Ông bà rất đỗi kinh ngạc. Nỗi kinh ngạc càng tăng dần cho đến lúc ông bà chợt nhớ lại lời Đức Chúa Trời: “Ngày nào ngươi ăn trái cây này, ngươi sẽ chết”. Đó là cái chết đầu tiên trên thế giới.
***
Cái chết của Abel là cái chết đầu tiên trên trái đất. Còn cái chết cuối cùng của nhân loại sẽ là ai? Ở đâu? Vào lúc nào? Điều đó không ai được biết, và cũng không cần biết. Sách Tông đồ Công Vụ có viết: “Anh em không cần phải biết thời gian và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv.1,7). Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng quả quyết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các Thiên sứ trên trời hay người Con cũng không hề biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13,32). Khi được hỏi bao giờ đến ngày tận thế? Thánh Augustinô đã trả lời dứt khoát: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”. Nói khác, ngài còn nói: “Đức Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người”.
Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ sống thích hợp nhất của chúng ta là: Vì thân phận con người mỏng dòn và yếu đuối, chúng ta hãy sống trong “tỉnh thức và cầu nguyện”, trong niềm mong chờ “ngày Chúa đến sẽ xảy ra bất cứ lúc nào”.
Chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới nhưng chúng ta biết chắc ngày ấy phải đến. Đó không phải là tai nạn trong chương trình của Thiên Chúa, nhưng đó là một ngày mà Thiên Chúa dọn sẵn chỗ ở mới, một thế giới mới cho nhân loại. Nơi đó, công bằng sẽ ngự trị, hạnh phúc sẽ ngập tràn, và niềm vui sẽ trọn vẹn cho những ai “bền đỗ đến cùng”. Với cái nhìn đầy tin tưởng, Seneca đã nói “Ngày mà bạn cho là cùng tận của mọi sự, lại là ngày khởi đầu của vĩnh cửu”.
Chúng ta không biết ngày nào Chúa sẽ đến trong vinh quang, nhưng chúng ta biết chắc: để được vào vương quốc ấy, con người phải nhìn lại chính mình, sắp xếp lại cuộc sống, và tích cực xây dựng một gia đình nhân loại đầy yêu thương, công lý và hòa bình. Cha Mark Link viết: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh thế nào. Nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”.
Vì tình yêu là ngôn ngữ của Thiên đàng, nên chỉ những ai biết yêu thương mới được bước vào. Chính lòng nhân ái là tấm thẻ căn cước không thể thiếu của những công dân Nước Trời.
***
Lạy Chúa,
Xin hãy đến, cho những người được tuyển chọn tập họp chung quanh Người.
Xin hãy đến, để trong mọi biến cố kinh hoàng, chúng con vẫn một niềm cậy tin: Chúa là Đấng cứu độ chúng con.
Trong giây phút định mệnh của mỗi người, xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Cha”. Amen.
(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
3. Ngày tận thế
Một bà kia vừa kết thúc một ngày làm việc chạy vội về nhà. Đêm nay bà sẽ đi đánh bài. Nhưng vừa chạy tới cửa nhà, bà gặp một thanh niên cầm một tấm bảng ghi dòng chữ “Ngày tận thế gần đến rồi”. Bà hỏi:
– Cậu nói là ngày tận thế gần đến rồi hả?
– Thưa bà đúng vậy.
– Nhưng cậu có chắc không?
– Thưa bà chắc chắn.
– Cậu nói nó gần đến?
– Đúng vậy.
– Gần như thế nào?
– Rất gần.
– Cậu có thể nói rõ hơn không?
– Thưa bà, ngay đêm nay.
Người đàn bà dừng lại suy nghĩ một lúc. Rồi với giọng lo lắng, bà hỏi tiếp: “Nó đến trước hay sau ván bài vậy?”.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới không ổn định. Hết cơn khủng hoảng này đến cơn khủng hoảng khác. Tình trạng không ổn định như thế khiến người ta sợ hãi lo âu. Và giữa cái thế giới không ổn định đầy lo âu sợ hãi như thế, người ta cần có một cái gì đó vững chắc để dựa vào.
Đối với kitô hữu, chỗ vững chắc nhất có thể dựa vào là Thiên Chúa. Bài đáp ca trong Thánh lễ hôm nay có câu: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ”. Còn trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tất cả những gì vững chắc mà chúng ta có, và tất cả những gì chúng ta cần là bấy nhiêu đó: ta an tâm vì biết rằng mọi sự đều nằm trong bàn tay Chúa, biết rằng chương trình Chúa vạch sẵn cho cuộc đời chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ thống trị. Thiên Chúa sẽ thống trị. Chúng ta sẽ cùng ngự trị với Thiên Chúa mãi mãi. (Viết theo Flor McCarthy)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dịp cuối năm phụng vụ, Hội thánh nhắc ta nhớ ngày Đức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để xét xử toàn thể nhân loại. Chúng ta hãy vui mừng và tin tưởng dâng lời cầu nguyện:
1. Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại để đem tất cả những người được cứu độ vào hưởng hạnh phúc Nước Trời với Người / Chúng ta hãy cầu xin cho Hòa Bình luôn vui mừng loan báo niềm hy vọng hạnh phúc ấy cho mọi người.
2. Trời đất và thế giới này sẽ qua đi như lời Chúa phán / Chúng ta hãy cầu xin cho các nhà lãnh đạo các dân tộc hiểu biết rằng quyền bính của họ cũng sẽ qua đi / để họ biết xây dựng công lý và hòa bình cho mọi người / là những việc sẽ không qua đi.
3. Thiên tai, chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói, đã làm cho biết bao người đau khổ và phải chết / Chúng ta hãy cầu xin cho mọi người biết tin tưởng và hy vọng vào ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến / để không tuyệt vọng với những tình trạng bi đát đó.
4. Không ai biết ngày giờ Đức Giêsu sẽ đến / chúng ta hãy cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta luôn tỉnh thức và cầu nguyện / để sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, chúng con không biết ngày giờ nào Chúa trở lại, xin cho mỗi người chúng con luôn chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa, bằng một đời sống thật tình mến Chúa yêu người. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị.

13. Tận Thế
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Về Ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa, trừ phi là Cha” (Mc 13:32).
Cách đây không lâu, một cuốn sách nhỏ do một người Việt tên TTĐ phát hành đã làm hoang mang không ít người. Cuốn sách nói về ngày tận thế sẽ xảy ra năm 2000. Tác giả trích dẫn nhiều tài liệu và nhiều sự kiện xảy ra trên thế giới như chiến tranh, giặc giã, lụt lội, và ngay cả điều bí mật Fatima thứ ba (lúc đó chưa được Toà Thánh công bố) để khẳng định tận thế sắp xảy ra.
Đi giúp cho giáo dân đó đây, tôi cứ được nghe những câu hỏi có cùng một nội dung: “TTĐ nói có đúng không? Tận thế sẽ xảy ra trong năm 2000 chăng?”
Trước những câu hỏi đó, tôi tự nhủ: ngày tận thế hay năm tháng cuối cùng của nhân loại, không ai biết được. Ngay Chúa Giêsu ngày xưa cũng phán: “Về ngày giờ đó thì các thiên thần trên trời và cả Con cũng không biết được.” Đức Giêsu không thể nói ra ngày nào tận thế xảy đến, ấy thế mà TTĐ lại nói được thì quả là ông ta hay hơn Chúa Giêsu mất rồi. Mà nếu thế thì tại sao người ta không thờ TTĐ cho rồi?
Thêm một suy tư khác: thường đi đâu mà đi một mình, lẻ loi đơn độc, thì mới buồn, mới sợ. Ra đi mà để lại vợ chồng con cái, hay những người thân yêu, mới là đau khổ vì bị chia ly. Nếu như có tận thế, mọi người cùng đi chung với nhau thì đáng lẽ ta phải vui chứ cần gì phải lo.
Cho nên, lắm khi mình cứ “lo bò trắng răng.” Điều đáng lo thì lại không để ý, còn chuyện không đáng quan tâm thì lại cứ ngay ngáy, sống chết với nó.
Thiết tưởng điều đáng lưu ý nhất hiện nay không phải là ngày cánh chung của thế giới, nhưng là ngày cuối cùng của mỗi người trên cõi đời này. Đó chính là ngày tận thế của mỗi người. Đây là điều chắc chắn hơn bất cứ một lời tiên đoán nào.
Thánh Augustino đã từng nói: Một đứa bé sinh ra, sau này nó giàu hay nó nghèo, khoẻ mạnh hay đau yếu, chết non hay chết già, chẳng ai biết được. Chỉ có một điều chắc nhất là nó sẽ chết. Dù sang hay hèn, vua chúa hay bần dân, đàn ông hay đàn bà, xấu hay đẹp, rồi cũng phải chết thôi.
Thánh Anphongsô cũng xác quyết: “Không biết ta có sống trên thế gian được 100 năm như lòng ước nguyện không. Nếu được thì cũng sẽ có một ngày, ngày đó sẽ có một giờ, giờ đó sẽ có một phút, phút đó sẽ có một giây. Đó là giây phút cuối cùng của đời ta.” Và từ lời xác quyết này thánh nhân đã nhắc nhở người ta hãy nhớ đến các bậc tiền nhân, dù họ có quyền cao chức trọng, tài giỏi thông thái, vợ đẹp con khôn đến đâu thì giờ đây cũng chỉ là nắm tro bụi trong lòng đất, trên đó được ghi dấu bởi một tấm bia mà thôi.
Cho nên thật là phù phiếm biết bao khi chỉ biết quan tâm đến sự sống ngắn ngủi của đời này mà quên mất rằng mình còn có một cuộc sống đời đời kiếp kiếp mai sau, cuộc sống bắt đầu ngay lúc chết. Dại dột biết bao khi chỉ nhắm đến cái có cùng mà quên đi cái vô cùng. Chỉ tìm cái tương đối mà quên đi cái tuyệt đối.
Trong cùng một ý nghĩa như thế mà kho tàng văn học của Ấn độ có kể về một ông vua được tiếng là thông minh khôn ngoan nhất thiên hạ nhưng cũng là người dại dột nhất trần gian.
Tại cung vua có một anh khờ chuyên làm trò cho nhà vua xem. Vua thích lắm vì thường có được những trận cười nắc nẻ do những lời nói ngớ ngẩn hay điệu bộ khờ khạo của chàng hề. Một hôm để pha thêm trò, vua gọi anh ta đến bên ngai vàng, trao cho một chiếc gậy và một vương miện rồi phán: “Ta phong cho ngươi làm thằng khờ hạng nhất. Ngươi sẽ giữ chức này cho đến khi có người khờ hơn ngươi. Lúc đó ngươi hãy trao gậy và vương miện lại cho nó.”
Ngày tháng trôi qua, nhà vua già cả và suy nhược theo tuổi tác. Lúc nằm trên giường hấp hối, cả gia đình, quần thần, vương hầu tề tựu chung quanh. Sau khi cố lấy chút hơi tàn, nhà vua thều thào: “Ta gọi các ngươi đến để nói lời từ biệt. Ta sắp xa các ngươi rồi. Ta sắp đi vào một cuộc hành trình mà không bao giờ có ngày gặp lại rồi.” Nghe vua nói thế, ai cũng sụt sùi. Bỗng thấy anh hề tiến đến bên long sàn và thưa: “Muôn tâu đức vua, tôi xin được hỏi ngài một câu trước lúc ngài ra đi… Hồi xưa mỗi lần đi đâu xa, dù đến các vùng hẻo lánh của nước nhà, hay đô thị phồn hoa của nước bạn, ngài đều cho sứ giả hoặc cảnh binh đi trước dọn đường. Còn cuộc hành trình xa xôi mà ngài sắp lên đường kia, thì xin hỏi, ngài đã chuẩn bị gì chưa?” Nghe hỏi thế, nhà vua mở mắt ra đáp: “Ừ, ta chẳng biết chuẩn bị gì cả.” “Thế thì xin nhà vua nhận lại chiếc gậy và chiếc vương miện này, vì tôi vừa tìm ra một kẻ khờ hơn tôi rồi.” Nói xong anh trả tất cả lại cho nhà vua.
Nếu chỉ biết vui chơi hưởng thụ hôm nay mà đánh mất tương lai cuộc đời, nếu chỉ nhìn đến những công danh, thế lực, tiền tài, quyền lợi của hôm nay mà quên đi hay không lo gì cho kiếp sống đời đời mai sau thì quả ta là những kẻ khờ dại vô cùng.
Trong Thánh kinh cũng có kể câu chuyện một phú ông kia, gặp năm may mắn được mùa, lúa thóc tràn trề. Ông suy tính làm cách nào để có thể cất giữ được thóc lúa. Thế rồi sau nhiều hôm suy nghĩ ông quyết định phá các kho cũ, xây một kho mới, to lớn hơn để chứa thóc. Khi hoàn tất công việc, ông ung dung sung sướng nói với lòng mình: “Hồn ta ơi, hãy ăn đi, uống đi, nghỉ ngơi đi, vì từ nay của cải đã dư tràn cho nhiều năm.” Nhưng Chúa phán với người ấy rằng: “Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi linh hồn của ngươi, vậy tất cả những thứ kia sẽ về tay ai đây?” (x. Lc 12:16-21)
Do đó, chớ gì ta biết tỉnh thức. Thức tỉnh lại giữa những lo toan, khao khát, kiếm tìm để hỏi lòng mình “Tôi đang làm gì và tôi đang tìm gì?” Có thể với sự chủ quan tôi nghĩ mình đang làm việc này công kia cho Chúa đấy, nhưng lại chẳng phải là công việc của Chúa. Có thể tôi đang tìm tự do, danh dự, quyền lợi, vật chất, tình cảm, nghề nghiệp…, nhưng thử hỏi tôi có tìm kiếm Chúa không? Có Chúa trong những gì tôi đang có không?
Nếu mục tiêu của mọi sự tôi trăn trở kiếm tìm là một thứ gì đó rất hay, rất có lý, nhưng không phải là Chúa, thì tôi quả là một kẻ khờ dại vô cùng.
Nếu tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì đời vẫn mãi thiếu vắng khát khao. Bởi như lời Thánh Augustino nói: Tôi đã tìm nhiều thứ nhưng “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.”
Và rồi nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui và nguồn hy vọng duy nhất của đời, thì thật đáng lo biết bao. Vì như thế ngày tận thế của đời tôi đã xảy ra rồi-tôi đang chết và tôi đã chết.
Còn nếu như có Chúa trong mọi tâm tư, ước muốn, kiếm tìm, và cuộc sống của tôi, thì ngại ngùng gì mà không hát vang lời Ca Vịnh:
“Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi ai. Có Chúa đi với tôi, tôi sẽ không lo thiếu gì.”

14. Tận thế
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.
Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này, nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.
Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Đn 12:1a). Đó là những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.
Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết, vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có người sợ hãi và có kẻ vui mừng.
Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm: “Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn” (Tv 16:8-9).
Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm hoan lạc được cận kề bên Chúa!
Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời” (Dt 10:12).
Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).
Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển” (Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó, “Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).
Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!
Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13:32).
Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá vô lý!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

15. Chúa Nhật 33 Thường Niên
NGÀY VÔ TẬN: CỬA KHÔNG ĐÓNG – ĐÊM KHÔNG VỀ
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Phụng niên của Giáo Hội bao giờ cũng được kết thúc với tuần lễ Chúa Kitô Vua. Nếu Phụng Niên được mở màn với Mùa Vọng, thời điểm Giáo Hội trông đợi Chúa Kitô đến, không phải đến lần thứ nhất, vì Người thực sự đã đến rồi, thì Lễ Chúa Kitô Vua ở Chúa Nhật kết thúc Phụng Niên của Giáo Hội hằng năm là mục tiêu ngưỡng vọng của Giáo Hội, là tột đỉnh của Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Đấng đã Nhập Thể, Vượt Qua, Thăng Thiên và chắc chắn sẽ Tái Giáng. Nếu Chúa Kitô không phục sinh, đức tin Kitô giáo là đồ bỏ, là mê tín dị đoan, là điên cuồng ngu xuẩn (x. 1Cor 15:13-15), thì nếu Chúa Kitô không tái giáng, việc Người phục sinh quả thực, đúng như tin đồn trong dân Do Thái, chỉ là một câu chuyện giả tạo do thành phần môn đệ của Người lấy xác của Người đi vậy thôi, cho ứng nghiệm những gì Người phán khi còn sống (x Mt 28:11-15). Tuy nhiên, biến cố Phục Sinh lịch sử của Đấng Tử Giá còn có thể chứng minh bằng chứng từ là ngôi mồ trống cộng với các lời tiên tri (nhất là của chính Đấng Phục Sinh), còn biến cố Người tái giáng sẽ xẩy ra của Người, cũng trong lịch sử của loài người, lại hoàn toàn không có gì chứng thực cả, chỉ hoàn toàn phát xuất từ lòng tin tưởng được căn cứ vào mạc khải thần linh là những gì được ghi lại trong Phúc Âm vậy thôi, như được thấy trong bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này, Chúa Nhật ngay trước Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua kết phụng niên tuần tới.
Thật vậy, bài Phúc Âm cho Chúa Nhật 33, dù ở chu kỳ phụng vụ nào, bình thường cũng đều là bài Phúc Âm nói tới ngày tận thế hay tả cảnh tận thế, tức những gì xẩy ra trước khi Con Người đến trong vinh quang, trừ chu kỳ năm A, vì chu kỳ này có bài Phúc Âm thuật lại cảnh phán xét chung ở Chúa Nhật Lễ Chúa Kitô Vua rồi. Tuy nhiên, nếu liên kết ba bài Phúc Âm của cả ba chu kỳ A, B, C cho Chúa Nhật 33 lại với nhau, chúng ta thấy ý nghĩa về ngày thế mạt xẩy ra hay diễn tiến rất ăn khớp với nhau như sau: Chúa Kitô sẽ trở lại sau một thời gian vắng bóng là để tính sổ với bày tôi của mình (Phúc Âm năm A), và khi Người trở lại sẽ có những biến động trên không trung, những gì xẩy ra ngay trước khi Người xuất hiện (Phúc Âm năm B), cùng với những biến loạn xẩy ra nơi xã hội loài người, nhất là cảnh thành phần môn đệ của Người bị thử thách về đức tin (Phúc Âm năm C), thành phần phải thanh toán trách nhiệm với Người và trình nộp lợi nhuận cho Người khi Người đến (Phúc Âm năm A).
Riêng về bài Phúc Âm của Thánh Ký Marcô cho Chúa Nhật 33 tuần này chúng ta thấy có bốn điểm chính theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, hiện tượng biến động trên không trung xẩy ra ngay trước khi Con Người đến; thứ hai, sự kiện Con Người tái xuất hiện là để triệu tập thành phần được tuyển chọn; thứ ba, biến cố thế mạt được Người khẳng định là chắc chắn sẽ xẩy ra; thứ bốn, biến cố này xẩy ra khi nào cũng được Người xác nhận là chỉ có một mình Cha biết mà thôi.
Bài suy niệm này vừa viết xong thì tin tức thiên văn cho biết Hiện Tượng Nguyệt Thực, Sao Băng và Nhật Thực trong Tháng 11/2003 như sau. Mỹ Châu, Âu Châu và Phi Châu sẽ được thấy vầng trăng rằm trở thành một bầu tối hồng vào cuối tuần này Thứ Bảy ngày 8/11/2003, khi mặt trăng lướt qua vùng tối của trái đất trong biến chuyển mới nhất của bầu trời năm nay. Hiện tượng nguyệt thực này sẽ kéo dài trong vòng 24 phút và lên tới hết cỡ của nó vào lúc 8 giờ 6 phút EST, lúc mặt trăng, trái đất và mặt trời chập vào nhau và mặt trăng băng ngang qua vùng tối nhất của Trái Đất. Hiện tượng nguyệt thực không gây tác hại cho mắt trần của người coi, không giống như hiện tượng nhật thực. Hiện tượng nguyệt thực diễn ra với nhiều mầu sắc, từ nâu đậm và đỏ đến mầu cam sáng, vàng và nâu, tùy theo nhiều ít mây và bụi trong không khí của trái đất lúc ấy. Vào cổ thời hiện tượng nguyệt thực này được cho rằng bị gây ra bởi con quái vật nào đó làm cho mặt trăng đẫm máu, dấu hiệu tai họa xẩy ra. Nếu mây mù che khuất biến cố Thứ Bảy này, người ta sẽ không phải đợi chờ lâu để thấy được một trận mưa sao băng Leonid xẩy ra hằng năm. Ở Tây Á, Nam Dương và Úc Đại Lợi sẽ thấy trận mưa sao băng này vào sáng sớm ngày 14/11/2003. Còn ở vùng Tây Phi, Tây Âu, Bắc Mỹ và những phần đất phía tây của Nam Mỹ sẽ được thấy trận mưa sao băng này vào ngày 19/11/2003. Cảnh mưa sao băng này xẩy ra rất ngoạn mục với cả hằng trăm ngôi sao chuyển chỗ trên bầu trời trong một tiếng đồng hồ. Ngày 23/11 cũng sẽ diễn ra hiện tượng nhật thực mà chỉ thấy được ở Nam Cực Cầu thôi.
Ở đây chúng ta không bàn đến vấn đề thiên văn mà là suy nghĩ và các vấn đề liên quan đến 4 câu của Lời Chúa phán trong bài Phúc Âm như sau: “Bấy giờ (tức sau biến động trên không trung), người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”; “Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”; “Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”; và “về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”. Nói chung, nếu hai lời đầu liên quan đến chính ngày tận thế thì hai lời sau liên quan đến đức tin đối với ngày tận thế này. Vậy chúng ta cần phải hiểu thế nào về 4 lời chân thật “sẽ không qua đi” này của Chúa Giêsu về ngày thế mạt.
“Bấy giờ, người ta sẽ thấy Con Người đầy quyền uy và vinh hiển đến trên mây trời”:
Qua câu lời Chúa này chúng ta biết được, trước hết, ngày tận thế xẩy ra rồi Con Người mới đến, chứ không phải khi Người xuất hiện thì bấy giờ là ngày tận thế. Ngày tận thế là ngày không trung xẩy ra biến động, ở chỗ “mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các tinh tú sẽ rơi rụng, và các cơ ngũ trên trời bị rung chuyển”. Và những biến động trên không trung đây, những biến động cuối cùng trong ngày tận thế và vào chính ngày tận thế đây, chỉ xẩy ra sau những biến loạn trên trái đất mà thôi: “Sau các cuộc thử thách đủ mọi thứ xẩy ra vào giai đoạn đó”, như được Thánh Ký Marcô thuật lại ở phần Phúc Âm, cùng đoạn 13, từ câu 5 đến câu 23 ngay trước bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, giai đoạn biến loạn trên trái đất, với hiện tượng tiên tri giả, chiến tranh loạn lạc, động đất đói khát và bách hại sát đạo. Cũng qua câu lời Chúa trên, chúng ta còn hiểu được rằng, sau ngày tận thế, thân xác con người ta sẽ được phục sinh, và bấy giờ, với con mắt của thân xác phục sinh, con người, dù lành hay dữ, mới có thể thấy được chính Đấng Phục Sinh đầy uy quyền và vinh hiển đến trên mây trời.
Vấn đề được đặt ra ở đây là cái gì đã khiến cho không trung bị biến loạn để thế gian phải đi đến ngày cùng tháng tận của mình vô cùng kinh hoàng như thế? Chính không trung chi phối trái đất, (trái đất xoay quanh mặt trời chứ không phải mặt trời quay quanh trái đất), chẳng lẽ lại bị tình trạng biến loạn trên trái đất xẩy ra trước đó chi phối đến bị biến động gây ra thế mạt hay sao? Thật ra, nếu tất cả mọi sự trên thế gian này được Thiên Chúa dựng nên vì loài người và cho loài người thì mọi sự quả thực lệ thuộc vào loài người, đến nỗi, như Thánh Phaolô nhận thức và diễn tả: “Tất cả mọi tạo vật ngong ngóng trông đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa. Tạo vật bị làm tôi cho hư hoại, không phải tự chúng, mà là bởi Đấng bắt chúng phải chịu như thế, song không phải là không có hy vọng, vì chính thế gian sẽ được giải thoát khỏi cảnh làm tôi cho hư hoại hầu được thông phần vào quyền tự do vinh hiển của con cái Thiên Chúa” (Rm 8:19-21). Vậy có thể suy ra rằng, một khi lòng người hay xã hội loài người hoàn toàn băng hoại hay băng hoại hết cỡ, đến nỗi, đối với văn minh vô thần duy vật của họ, mặt trời công chính là Chúa Kitô đã trở nên tối tăm, mặt trăng Giáo Hội không còn chiếu sáng được ảnh hưởng của mình nữa, các người lành thánh như những vì tinh tú cũng sẽ rơi rụng vào thời kỳ chưa từng có từ tạo thiên lập địa ấy, một thời kỳ nếu không được rút vắn lại thì kẻ lành cũng sẽ bị hư đi (x Mk 13:19-20), và các cơ ngũ trên trời là tất cả mọi thứ lề luật tự nhiên cùng với các nguyên lý luân lý phổ quát bị rung chuyển, thì cũng là ngày cùng tháng tận của thế gian này, hay nói theo đức tin Kitô giáo, cũng là ngày thế gian cần phải được hay đến lúc được canh tân biến đổi, để trở thành một trời đất mới, nơi công lý của Thiên Chúa ngự trị (x 2Pt 3:13).
“Người sẽ sai các sứ giả của Người đi triệu tập thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời”:
Câu lời Chúa này cho chúng ta thấy lời Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định quả là chí lý: “Người sẽ xuất hiện lần thứ hai không phải để xóa bỏ tội lỗi nữa mà là để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người” (Heb 9:28). “Những ai thiết tha trông đợi Người” đây không phải chỉ là những ai sống vào ngày cùng tháng tận, những ai bền đỗ đến cùng trong những ngày khủng khiếp vô tiền khoáng hậu ấy (x Mk 13:13), bởi vì, như trên đã nhận định, tận thế rồi Chúa Kitô mới xuất hiện, tức mọi người chết hết rồi và sống lại rồi bấy giờ Người mới tới, chứ không phải chỉ tới với những kẻ chưa chết nói chung, nhất là những kẻ thiết tha trông đợi Người nói riêng. Dụ ngôn 10 cô phù dâu đều thiếp ngủ như nhau, nhưng Chúa Kitô chỉ mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người là những cô phù dâu khôn ngoan mang dầu hy vọng theo với cây đèn đức tin để có thể thắp sáng đức mến để ra nghênh đón Đấng bất chợt đến vào lúc nửa đêm mà thôi (x Mt 25:1-13).
Đúng thế, Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người, thành phần được Người cứu độ qua phép rửa, từ lúc Người thăng thiên (đi xa) cho tới khi Người lại đến (trở về), như ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 chu kỳ năm A cho thấy. Tuy nhiên, vì ơn cứu độ của Người là một ơn cứu độ phổ quát, ơn cứu độ được Thiên Chúa Hóa Công hứa cho tất cả loài người ngay sau nguyên tội (x Gen 3:15), mà tất cả những ai, dù sinh ra trước khi Lời hóa thành nhục thể, hay sau khi Chúa Kitô Vượt Qua song chưa được tái sinh bởi Giáo Hội Người qua Phép Rửa cứu rỗi (x Mk 16:16), một khi biết thiết tha trông đợi Người, được tỏ ra qua việc họ sống chân chính hợp với lương tâm ngay lành và lề luật luân lý phổ quát, cũng sẽ được Người giải cứu (x Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16). “Thành phần Người tuyển chọn từ bốn phương trời, từ những nơi xa xôi nhất trên mặt đất và bầu trời” đây có thể được hiểu hay cần phải được hiểu theo nghĩa này.
“Thày nói thật với các con biết thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi những điều ấy xẩy ra. Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”:
Như trên vừa nhận định, chính vì Chúa Kitô xuất hiện lần thứ hai là để mang ơn cứu độ cho thành phần thiết tha trông đợi Người, từ tạo thiên lập địa cho tới tận thế, mà ba chữ “thế hệ này” ở đây không chỉ áp dụng cho những người đương thời với Chúa Kitô, với các tông đồ, thành phần dân Do Thái bấy giờ, mà là cho chung nhân loại. Qua lời Chúa Giêsu khẳng định trên đây, chúng ta thấy rằng tận thế là một sự thật chứ không phải chỉ là một lời đe dọa, một cái gì không thể nào xẩy ra hay không bao giờ xẩy ra. Triết lý và khoa học cũng không thể chối cãi được sự thật cùng tận này. Theo triết lý và luận lý, ai dám cho rằng tất cả mọi sự hữu hình và vật chất này sẽ kéo dài đến vô hạn, bằng không chính vật chất hữu hạn này là Thiên Chúa, là Hóa Công, vô thủy vô chung, vô cùng bất tận. Theo khoa học, ai có thể chứng minh được rằng mọi sự tự dưng mà có, hay chỉ có thể biết được, qua các giả thuyết, rằng thiên nhiên vạn vật ngay từ đầu từ từ được biến đổi mà thành hình; thế nhưng, không ai dám cả quyết một cách chắc chắn 100% như chân lý rằng trời đất này sẽ không bao giờ hoàn toàn qua đi, sẽ luân hồi không bao giờ cùng, tức sẽ muôn đời tồn tại thiên thu vạn đại, tức không có vĩnh hằng, không có đời sau, không có thiên đàng hỏa ngục…
Thực tế cho thấy, con người luôn khao khát và tìm kiếm chân thiện, tìm kiếm những gì vĩnh hằng bất biến. Kẻ gian dối nhất, đánh lừa cả thiên hạ, cũng vẫn không muốn bị đánh lừa, cũng vẫn muốn biết sự thật. Kẻ chán đời đến tự tử đi nữa, cũng vẫn, qua chính quyết định tử tử và việc tử tự của họ, cho thấy họ hết sức khao khát được sống hạnh phúc, một hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc thực sự, một thứ hạnh phúc họ không tìm được ở đời này. Vậy nếu con người chân nhận là có sự thật, và sự thật tối hậu là một thực tại bất biến, một thực tại toàn thiện, sự thật làm thỏa mãn tất cả mọi khát vọng của loài “nhân linh ư vạn vật”, một sự thật sẽ làm sáng tỏ tất cả mọi tranh chấp và phải trái của loài người, thì quả thực là thế gian này, vũ trụ này, lịch sử này sẽ có ngày cùng tháng tận, thời gian có thủy có chung tự nó không phải là vĩnh hằng và sẽ đi đến ngày cùng tháng tận. Chỉ có sự thật hay những gì là sự thật mới là thực tại duy nhất vĩnh hằng. Nếu tất cả những gì Chúa Giêsu đã truyền dạy về luân lý đều không bao giờ lỗi thời, đến nỗi những gì con người không làm theo như lời Người dạy sẽ không bao giờ được bằng an và phúc thật, thì những gì Người nói về ngày tận thế cũng là sự thật, chắc chắn sẽ xẩy ra. “Trời đất sẽ qua đi nhưng những lời Thày nói sẽ không qua đi”, vì lời Thày là sự thật, là thực tại, một sự thật bao gồm tất cả mọi sự, cho thấy tất cả mọi sự; và mọi sự được tỏ hiện theo lời của Người và như lời của Người, cho thấy rằng lời Người quả là sự thật, vì mọi sự từ từ được hiện thực trong thời gian, được lịch sử ghi nhận. Nếu thời gian là tiến trình sáng tỏ sự thật thì lịch sử chính là chứng nhân cho sự thật. Vì thời gian là tiến trình tỏ hiện sự thật mà một khi sự thật hoàn toàn được sáng tỏ thì cũng là lúc năm cùng tháng tận. Vì lịch sử là chứng nhân ghi nhận sự thật mà tận cùng thời gian phải là một cảnh chung thẩm cho thấy tất cả sự thật.
“Về ngày giờ đích xác thì không ai biết được, kể cả các thần trời lẫn Người Con ngoại trừ một mình Cha mà thôi”:
Nếu thực sự có ngày tận thế thì những gì Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta biết, như được các Phúc Âm Nhất Lãm ghi lại, không phải phát xuất từ sự suy đoán của Người, như chúng ta vừa suy diễn trên đây về vấn đề có ngày tận thế hay chăng. Bởi vì, Chúa Giêsu chẳng những đã mạc khải cho chúng ta biết có ngày tận thế, một sự thật hợp với lập luận của triết lý cũng như khoa học, mà còn cho chúng ta biết ngày tận thế ấy sẽ xẩy ra hay sẽ diễn tiến trước sau ra sao nữa. Như thế, chẳng lẽ chính Người, như Người đã khẳng định ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật 33 Thường Niên tuần này, cũng không biết rõ được ngày giờ dứt khoát và nhất định xẩy ra sự thật về ngày cùng tháng tận này hay sao? Nếu Cha đã ban cho Con tất cả mọi sự, kể cả sự sống là những gì cao quí nhất (x Jn 3:35, 5:26), thì chẳng lẽ chi tiết về ngày cùng tháng tận của thế gian này lại quan trọng đến nỗi giấu cả Con của mình hay sao, Đấng phải biết trước ngày giờ Người sẽ vinh hiển đến trên mây trời, chứ không phải tới ngày giờ mang ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người rồi mà Người vẫn không biết, vẫn phải đợi cho đến khi Cha Người công khai ra lệnh thì Người mới biết! Nếu Chúa Giêsu quả thực biết đích xác ngày giờ như Cha Người biết thì chẳng lẽ lời Người khẳng định ở cuối bài Phúc Âm về việc chính Người cũng không biết là giả dối, đánh lừa thiên hạ sao, hay ít là Người cố ý nói thế để tránh né những câu hỏi cặn kẽ đầy tò mò của các tông đồ bấy giờ? Phải chăng Người biết hết mọi sự về ngày giờ thế mạt như Cha, song không phải để tỏ lộ cho bất cứ con người nào biết, nên những gì Người biết cũng kể như không biết? Tương tự trường hợp tôi giữ một đồ vật của người khác, và khi có ai thấy món đồ ấy thì xin tôi, tôi nói với họ rằng tôi không có vậy.
Tuy nhiên, vấn đề ở đây, quan trọng không phải là biết được ngày cùng tháng tận, mà là biết sẵn sàng đón chờ ngày đó, thì ngày đó đến bất cứ lúc nào cũng được. Ngày đó ở ngay trong lòng của con người khao khát Chúa, luôn sống trước nhan Chúa, phó thác mọi sự trong tay Chúa. Ngày đó là chính sự thật họ đang sống. Những ai sống trong sự thật là sống một Ngày vô tận, cửa không đóng, đêm không về (x Rev 21:25).

16. Sống sót
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ trên một nhịp cầu. Người ta thòng sợi dây từ đỉnh cầu xuống và quấn vào cổ anh. Khi mọi sự đã sẵn sàng, viên chỉ huy ra lệnh, người ta sẽ kéo lên và sợi dây xiết vào cổ anh. Thế nhưng, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và anh rớt xuống dòng sông. Anh bắt đầu lặn, rồi bơi vào một đám lục bình. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những chiếc lá xanh và của những bông hoa tim tím. Một lúc sau, anh nhìn thấy chú nhện giăng tơ. Và một lần nữa, anh lại xúc động trước vẻ đẹp của chiếc màng nhện và những giọt nước bám vào đó, lấp lánh như những hạt kim cương. Bỗng nhiên, đám lính đứng trên cầu bắn xối xả. Anh cố gắng lướt tới dưới làn mưa đạn. Cuối cùng anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Khẽ mở mắt, anh trông thấy một cánh hoa dại. Anh thầm nghĩ: Mọi sự sao mà đẹp thế. Nhưng liền sau đó, anh nghe thấy tiếng đạn rít qua bụi rậm. Thế là anh đứng lên, cắm cổ chạy một mạch về đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ và nàng vội vã mở cởng và dang tay đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, thì nhà đạo diễn mang chúng ta trở lại với nhịp cầu. Và chúng ta không thể nào tin được vào mắt mình khi thấy xác anh ta đang đong đưa với sợi dây xiết chặt vào cổ. Thì ra anh đã chết. Chi tiết này làm cho mọi người sững sờ. Thế là mọi nỗ lực trốn chạy và mọi cơ may được sống sót của anh chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng mà thôi. Anh mơ thấy mình được sống lần thứ hai và anh cảm nhận sự sống ấy bằng đôi mắt hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên anh cảm thấy thế gới này quả là tuyệt hảo. Lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống là một món quà quý giá. Phải chi anh được sống sót thì chắc hẳn anh đã sống cuộc đời mới này một cách khác thường biết bao.
Thế nhưng đâu là chủ đích của nhà đạo diễn. Ông muốn nhắn gởi gì với chúng ta? Theo tôi nghĩ, người tử tội trong câu chuyện chính là mỗi người chúng ta, bởi vì một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên chúng ta lại không biết mình sẽ chết lúc nào? Cái chết thì chắc chắn nhưng giờ chết thì bấp bênh vô định, nhưng rồi một lúc nào đó nó sẽ đến với chúng ta, như đã đến với người tử tội.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.

17. Hiện thực
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Mừng lễ kính Đức Kitô xuống thế lần thứ hai nhắc nhở cho Kitô hữu nhớ món quà hằng sống Đức Kitô hứa ban cho những ai trung tín trong đức tin. Món quà hiện thực này Đức Kitô hứa ban khi Kitô hữu hoàn thành viên mãn cuộc lữ hành trần thế. Hoàn thành viên mãn khi Kitô hữu sống trung thành với đức tin, giữ trọn lời hứa khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Món quà hằng sống có được không phải do sự khôn ngoan hay cố gắng của con người mà chính là kết quả của đời sống yêu Thiên Chúa, mến tha nhân và thiết tha với lời Đức Kitô giảng dậy. Thánh Mark cho biết món quà hằng sống được trao ban nhưng khi nào được lãnh nhận là điều không ai biết. Bởi không biết ngày giờ được trao ban nên Kitô hữu cần chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đón nhận. Thái độ đón nhận rất khác nhau nơi tâm hồn con người. Có người chuẩn bị hàng ngày đợi đến khi gọi thì đáp lại ngay. Kẻ khác thì lơ là, lúc sốt sắng, lúc thờ ơ. Họ cần thay đổi lối sống, thái độ sống đón nhận Lời Chúa với tất cả tâm tình, nếu không sẽ gặp rắc rối khi giờ chết ập đến. Kẻ khác đã không đón nhận còn chối bỏ món quà hằng sống. Bởi từ chối đón nhận quà hằng sống nên khi thời gian đến họ sống trong kinh hoàng, sợ hãi. Từ chối tin vào lời Đức Kitô khi gặp khốn khó không có nơi nương tựa, đau khổ. Khi biết sự khôn ngoan của con người bị giới hạn, con người không thể giúp hơn được nữa, lúc đó họ không còn lối thoát và sợ hãi xâm chiếm tâm hồn họ, đau khổ đè nén tâm can họ. Thất vọng ào tới tấn công tinh thần. Đau khổ, bất hạnh ào đến tứ phía. Họ phải trả giá rất đắt cho việc từ chối niềm tin. Tin vào Đức Kitô mất rất ít, lợi rất nhiều. Mất vì phải từ bỏ í riêng, mất vì phải tiêu diệt cái tôi. Lợi đầu tiên và quan trọng nhất chính là ơn cứu độ. Khi giờ chết đến có nơi nương tựa, không phải ra đi trong cô đơn nhưng có Đức Kitô đồng hành đó là điều lợi thứ hai. Đến giờ phán xét tránh được sợ hãi ngàn trùng vì có Chúa ở cùng ta, ai hãm hại được. Đó là điều lợi thứ ba. Được mọi người yêu mến khi còn sống đó là điều lợi thứ tư. Hàng năm có cả tháng cầu nguyện cho các linh hồn đó là điều lợi thứ năm. Quan trọng hơn cả là không phải sống mồ côi nhưng có Thiên Chúa là Cha hằng sống, yêu thương, bao bọc.
Bởi không biết ngày giờ phán xét nên Kitô hữu sống tinh thần chuẩn bị đón chào ngày Chúa đến và sống trong hy vọng. Đức Kitô còn cho biết trước khi ngày Chúa xuất hiện sẽ có dấu chỉ, làm rung chuyển tấm lòng con người và cả vũ trụ rên xiết. Cùng dấu chỉ nhưng điều đó gây kinh hoàng cho người không có niềm tin, cũng dấu chỉ đó lại mang lại an ủi, niềm hy vọng cho Kitô hữu vì họ nhận biết ngày giờ Đức Kitô đến đón họ vào thiên quốc. Sợ hãi, kinh hoàng thường đi chung với thần dữ vì thế có thể coi đây là sự vùng vẫy cuối cùng của thần dữ trước khi chúng buông tay đầu hàng để chui vào ngục tối của chúng. Đức Kitô sai thiên thần đón nhận kẻ trung tín trong đức tin và chân thành trong bác ái. Sợ hãi, lo lắng biến mất và Kitô hữu sống trong hào quang chiến thắng huy hoàng của Đức Kitô. Thánh Mark nhắc nhở chúng ta mỗi ngày luôn nhớ đến ơn hằng sống và coi đó là ưu tiên hàng đầu trong ngày. Kitô hữu sống trong hiện tại nhưng hướng về tương lai bởi món quà hằng sống được trao ban nhưng chưa lãnh nhận.
Kitô hữu tin vào sự chết thân xác và sự chết tâm linh. Người ta không thể chứng minh được tình yêu nhưng nhìn vào kết quả tình cảm con người dành cho nhau để nhận biết tình yêu. Qua hành động bác ái, yêu thương và sự hiện hữu của chính mình mà ta nhận biết tình yêu Chúa. Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa tạo dựng nên ta và cuối đời ta thuộc về Chúa bởi Ngài hứa không bỏ chúng ta mồ côi. Kẻ không tin vào Thiên Chúa không có câu trả lời đích thực về đời người. Với họ chết là hết, ngay cả câu trả lời này họ cũng bán tín, bán nghi, không hoàn toàn tin là sự thật.

18. Dấu chỉ
(Suy niệm của Lm Vũ Đình Tường)
Căn cứ vào Phúc Âm Mc 13, 24-32 chúng ta biết rõ Thiên Chúa yêu thương cho biết có những dấu chỉ báo hiệu việc trọng đại xảy đến cho cả nhân loại lẫn Con Người.
‘Khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi’.
Dấu chỉ đó bao gồm:
‘mặt trời ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trởi bị lay chuyển’.
Thiên Chúa yêu thương còn cho biết ngoại trừ Chúa Cha ra, không một ai dưới trần và không một ai trên thiên quốc biết rõ năm tháng ngày giờ các dấu chỉ kia sẽ xảy đến.
‘Còn về ngày hay giờ thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi’.
Chúng ta đã chứng kiến nhiều tiên đoán vô căn cứ. Bản nhạc với câu năm hai ngàn năm tôi còn lại gì đã sai. Dự đoán đệ tam thiên niên kỉ bắt đầu tận thế đã đi vào dĩ vãng. Những người tiên tri về ngày Cánh Chung và những người tin về những tiên đoán đó cho thấy họ đều hoặc là không đọc Phúc âm. Nếu đọc họ không tin điều Chúa Jesu dậy. Không tin Chúa Giêsu nhưng muốn làm công ciệc của Chúa Cha khi đưa ra lời tiên đoán. Kinh Thánh ghi rõ không ai biết trừ Chúa Cha.
Ngày cánh chung có dấu chỉ riêng, khác thường. Vũ trụ chúng ta sống có dấu chỉ riêng và mỗi người có dấu chỉ cá biệt. Mục đích của dấu chỉ là thông tri sự việc đang đến. Dấu chỉ mặt trời, mặt trăng ra tối tăm, các vì sao di chuyển bỏ quỹ đạo. Mục đích điềm lạ báo ngày Chúa quang lâm.
Dấu chỉ thuộc về vũ trụ
Không thể căn cứ vào chiến tranh, loạn lạc, hay thiên tai mà tiên đoán là ngày cánh chung gần kề. Những điều đó xảy ra đó đây liên tục. Lịch sử nhân loại mấy khi vắng bóng chiến tranh. Lịch sử vũ trụ năm nào thiếu thiên tai, động đất, cháy rừng, lũ lụt và bão gió. Những điều đó cho biết chúng ta đang sống trong một vũ trụ sống động, không phải một vũ trụ chết, nằm yên, bất động. Động đất, núi lửa, bão táp là bằng chứng cho thấy vũ trụ đang chuyển mình, đang lớn lên và rất có thể đang tự chữa những vết thương do bàn tay con người tàn phá. Cũng có thể là dấu chỉ báo nguy cho biết con người lạm dung thiên nhiên thái quá. Cần xét lại cách khai thác và bảo vệ môi trường thiên nhiên. Thay đổi thời tiết theo mùa, mưa to, gió lớn với mây đen, sấm chớp cũng là những dấu chỉ bình thường của vũ trụ.
Dấu chỉ thuộc cá nhân
Cuộc sống cá nhân bao gồm những chuỗi dấu chỉ liên tục. Ăn không phải vì đến giờ nhưng vì đói. Uống không phải trời nắng mà là khát; không phải tối trời đi ngủ mà là báo hiệu của mắt. Cản thấy đói, khát, buồn ngủ, mệt mỏi là dấu chỉ cơ thể báo cho biết cần nhu cầu đó. Con người có bản năng nhận biết dấu chỉ cần thiết của cơ thể để sống còn. Ngoài ra còn những dấu chỉ tiềm ẩn, kín đáo hơn con người cần để ý mới nhận ra. Dấu chỉ về thể chất dễ nhận. Dấu chỉ tinh thần tiềm ẩn khó nhận hơn và dấu chỉ về tâm linh khó nhận nhất vì chìm sâu nhất nhưng cũng quan trọng nhất vì nó liên kết ta với Chúa.
Khi một người không đọc được dấu chỉ cho chính mình Thiên Chúa yêu thương ban những dấu chỉ khác rõ ràng hơn, lộ diện trên da thịt cho thân nhân, chuyên gia cảnh tỉnh giúp. Nhìn vẻ mệt mỏi trên mặt, vàng vọt xanh xao của da, bạc nhược, bơ phờ râu tóc, thần sắc xấu trên người là những dấu chỉ bên ngoài cảnh giác sức khỏe, tình cảm nội tâm bên trong. Dấu chỉ phục vụ như lời mời gọi con người quan tâm đến nhau, hỗ trợ nâng đỡ, khuyến khích về ba phương diện: thể chất, tinh thần và tâm linh.
Dấu chỉ về tâm linh
Trong tôn giáo có nhiều dấu chỉ cho biết con người đó gần Chúa, thuộc về Chúa hay lưỡng lự trong chọn lựa yêu mến Chúa và ngay cả xa lánh Chúa. Dấu chỉ rõ ràng nhất là mức độ thánh thiện. Không thể đo lường mức độ thánh thiện nhưng cứ nhìn vào cách đối xử với tha nhân để biết mức độ thánh thiện một người.
Người có lòng đạo thật sự luôn cố gắng trở nên thánh thiện trong lời ăn, tiếng nói. Họ không dựa vào sức riêng nhưng dựa vào ơn thánh múc được nơi bí tích thánh, Lời Chúa và nhận ra Chúa nơi anh chị em khác. Dấu chỉ tâm linh chính là tiếng nói của lương tâm khuyến khích ta làm điều tốt lành mang bình an nội tâm. Ngăn cản ta làm điều thất đức tạo cho nội tâm bất an. Đay nghiến tâm hồn, tạo nên sợ sệt khi tiếng nói lương tâm bị chèn ép, đè bẹp. Dấu chỉ này thực hiện qua tiếp xúc, đón nhận và phục vụ anh chị em đồng loại.
Nhờ vào dấu chỉ tâm linh để tự sửa sai con đường đang đi, đổi hướng, xoay chiều hay tiến thêm trên đàng nhân đức. Sửa sai thứ nhất cần ơnChúa. Thứ hai cần thời gian. Thứ ba quan trọng nhất là nghị lực vì thiếu nghi lực người đó chối bỏ ơn thánh nên không thể nào sửa sai. Nghị lực đây không phải là sức mạnh cá nhân, hay sức mạnh của ý chí mà chính là sức mạnh nội tâm để nhận ơn Chúa hầu thay đổi hoàn cảnh.
Tóm lại dấu chỉ thể lí cho biết nhu cầu cần thiết để sống còn và sống hạnh phúc. Dấu chỉ tâm lí thỏa mãn tình cảm cần có trong cuộc sống và là vùng đất giúp chúng ta chu tòan luật yêu tha nhân. Dấu chỉ tâm linh giúp chúng ta chu toàn luật mến Chúa.

19. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters)
CHUẨN BỊ CHO MÙA PHỤNG VỤ SẮP TỚI
Tin mừng Chúa nhật 33 thường niên cho chúng ta cái nhìn thấu đáo cách thức khéo léo mà các thánh sử đã viết nên những trình thuật về Đức Giêsu. Đoạn Tin mừng ngắn theo thánh Máccô thể hiện lối viết và nhãn quan của tác giả, giúp cho độc giả có sự hiểu biết Đức Giêsu cách đúng đắn. Quyền lực, sự hợp thời và mong đợi là những chủ đề nổi bật mà chúng ta muốn nghe khi đến gần Lễ Chúa Kitô Vua, mùa Vọng và Lễ Chúa Giáng Sinh.
Khi gần kết thúc sứ vụ của mình, Đức Giêsu nhấn mạnh với các môn đệ về đau khổ, cái chết và phục sinh sắp đến của Ngài. Bài Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh ngay trước những sự kiện xung quanh bữa tiệc ly của Đức Giêsu với các môn đệ và việc Ngài bị bắt giữ. Đức Giêsu nói rằng Con Người sẽ ngự giá mây trời mà đến trong quyền năng và vinh quang. Hình ảnh này dựa vào Đanien chương 7 của Bài đọc một Chúa nhật tới (Lễ Chúa Kitô Vua). Ngôn sứ Đanien mô tả một thị kiến: “tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời”. Đấng ấy có quyền năng thống trị đến muôn đời, và thánh sử Máccô thường đồng hóa Đức Giêsu chính là Con Người để khẳng định quyền năng và vương quyền của Ngài.
Phần thứ hai của bài Tin mừng đề cập đến một sự kiện trước đó: Đức Giêsu chúc dữ cây vả không có trái. Sau khi vinh thắng tiến vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu thấy đói và kiếm trái vả trên cây. Không tìm được gì, Ngài liền phán: “muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa” (Mc 11,14). Ngày hôm sau, Đức Giêsu và các môn đệ đi ngang qua cây vả, nó đã chết khô tận rễ, đúng như lời Ngài đã chúc dữ. Đức Giêsu đã biến sự việc đó thành cơ hội để dạy dỗ khi nhắc nhở các môn đệ về việc sử dụng uy quyền khi hành động và cầu nguyện nhân danh Ngài.
Qua việc Đức Giêsu gợi lại câu chuyện cây vả, Máccô muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sinh hoa trái đúng thời vụ. Đức Giêsu đã chúc dữ cây vả vì nó không sinh hoa trái. Mặt khác, khi cây vả đâm chồi thì có nghĩa là mùa hè đang tới gần. Cả hai thực tế này nhắc nhở các môn đệ phải năng động trong sứ vụ, tiếp tục phát triển cộng đoàn cả sau khi Đức Giêsu chết. Gợi lại tình tiết cây vả cũng nhắc nhở các môn đệ về quyền năng và thẩm quyền mà Đức Giêsu trao cho các ông. Hơn thế nữa, việc nhấn mạnh đến thời gian các mùa trong năm cũng nhắc các môn đệ hãy sẵn sàng cho thời kỳ mới sắp đến.
Vào những ngày cuối đời, Đức Giêsu dựa vào Kinh Thánh Do Thái cũng như những giáo huấn trong suốt sứ vụ của mình để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận điều sắp xảy đến. Cách thức thánh Máccô xây dựng Tin mừng làm nổi bật lời tiên báo về thập giá, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Khi gần kết thúc năm phụng vụ và chuẩn bị bước vào mùa Vọng, chúng ta nên lượng giá những hoạt động và sự dấn thân của mình đối với thế giới trong một năm vừa qua, cũng như suy ngẫm về những cách thức chuẩn bị cho một năm mới sắp đến.
————
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine

20. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Jean Yves Garneau)
“CHÚNG CON CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN TRONG VINH QUANG”
Bí mật của Chúa Cha.
Chúa Kitô đã đến ở giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy và vinh quang lớn lao”. Biến cố đặc biệt này sẽ được đánh dấu bởi những hiện tượng trong vũ trụ. Nó sẽ trùng hợp với một cuộc biến đổi vũ trụ. “Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng nữa, tinh tú sẽ rơi xuống…”. Những hiện tượng này –không nên hiểu theo mặt chữ- Không muốn ám chỉ về một thiên tai, nhưng là một thời điểm quyết định trong lịch sử nhân loại.
Khi nào chuyện đó sẽ xẩy ra? Người ta luôn luôn tự đặt câu hỏi này. Chúa Giêsu gạt qua tất cả các giả thiết. Không người nào biết được ngày đó! Bản thân Ngài cũng không biết! Chỉ mình Chúa Cha biết. Và đây là bí mật của Ngài.
Ngày của sự thật và công bình.
Vả lại điều quan trọng không phải biết lúc nào Chúa Giêsu quang lâm, nhưng là chú ý đến những gì sẽ xẩy ra lúc đó. Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Sự phong phú của thời gian đang trôi qua.
Không phải để làm cho người ta sợ mà Chúa Giêsu loan báo ngày Ngài quang lâm sẽ là ngày phán xét, nhưng để giúp mỗi người ý thức về tầm quan trọng của thời gian đang trôi qua.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Giá trị của sự trung thành.
Do đó những gì chúng ta làm hoặc không làm, những câu xin vâng hoặc những lời từ chối đối với Thiên Chúa hàng ngày đều có một tầm quan trọng lớn lao. Những sự trung thành của chúng ta –lớn và nhỏ, những cố gắng của chúng ta để sống lương thiện, công chính và ngay thẳng trong một thế giới thường bất công và gian tà, lòng kiên trì của chúng ta để giáo dục con cái cách tốt nhất có thể được, những khi chúng ta tha thứ cho những kẻ đã làm chúng ta bị tổn thương, những lần chúng ta đọc kinh sốt sắng, những khi chúng ta bố thí, khi chúng ta cố gắng chu toàn công việc hằng ngày, những khi chúng ta sẵn sàng quan tâm đến tha nhân, đón tiếp họ. Tất cả đều chuẩn bị chúng ta cho ngày Thiên Chúa phán xét.
“Chúng con mong chờ Chúa quang lâm…”.
Hơn chúng ta, các Kitô hữu sơ khởi đã biết sống hướng mắt và hướng lòng về ngày quang lâm của Chúa Kitô. Vì họ xác tín rằng ngày ấy sẽ đến nhanh, nên họ đã cố gắng sống mỗi giây phút trong sự trung thành tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Ý thức về ngày Chúa quang lâm và tâm quan trọng của nó đã mai một đi với thời gian. Bây giờ người ta sống ngày qua ngày mà không bận tâm lắm về ngày cuối cùng. Uổng thật! Nếu sống nhiều hơn trong sự mong chờ Chúa, người ta sẽ sống mãnh liệt hơn. Mỗi ngày sẽ có giá trị hơn đối với chúng ta.
Trong mỗi Thánh lễ, sau khi bánh và rượu được thánh hiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chúng con mong chờ Chúa trở lại. Ước gì đây không chỉ là những lời nói, nhưng là một thái độ sâu xa quyết định cách sống của chúng ta và mang ý nghĩa cho tất cả cuộc đời chúng ta.

21. Chúa Nhật 33 Thường Niên
CHÚNG TA SẼ NGHE VÀ NHÌN TRÊN THIÊN ĐÀNG.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình. Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình. Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa. Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi chết sống lại.
Shakespeare sẽ không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết được.
Trong lúc chúng ta không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương: khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội, chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.

22. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Giêsu: Đấng cứu độ duy nhất quyền năng
Kính thưa quý anh chị em,
Ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa rộng, là sự giải phóng khỏi tình trạng nguy hiểm đang đe dọa sự an toàn của một người, một cộng đoàn, cũng như, hoàn thành mục đích cuộc đời họ. Hiểu như vậy, bất cứ ai làm điều tích cực cho tha nhân, đều là người cứu độ.
Còn ơn cứu độ, hiểu theo nghĩa chặt, là sự giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết, là ơn phục hồi phẩm giá con Thiên Chúa, là ơn công chính hóa và sự sống đời đời, thì chỉ một mình Chúa Giê-su, Đấng cứu độ duy nhất, mới thực hiện được mà thôi.
Sự phục sinh biểu lộ cách hùng hồn quyền năng duy nhất, tuyệt đối của Chúa, không chỉ trên thế lực sự dữ, mà còn ban tặng thế gian tình yêu và sự sống muôn đời.
Bài sách Daniel nhắc tên tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en, mà tên của ngài có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, như một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa quyền năng, xuyên suốt chiều dài lịch sử cứu độ.
Mạc khải thường nhắc cụm từ “Thiên Chúa quyền năng” như một điệp khúc, nhằm nuôi dưỡng lòng tin, cậy, mến cho dân Chúa lúc ngặt nghèo, bách hại, thất vọng. Chúa Giê-su cũng thường giáo huấn các môn đệ: “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn ; hãy sợ Đấng có thể giết cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10, 28).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mạc khải Thiên Chúa, Đấng quyền năng tuyệt đối hành động cốt vì ơn cứu độ và vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Daniel, nhắc tên thiên thần Mi-ca-en, có ý gợi lại cuộc chiến chống lại Lucifer, đầu mục quỷ dữ. Tên Mi-ca-en có nghĩa là: “Ai bằng Thiên Chúa”, mặc nhiên tuyên xưng quyền tối thượng tuyệt đối của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, cứu chuộc và thần hóa thế gian.
Nội dung lời sách thánh nhấn mạnh trên chiến thắng trung cục của Thiên Chúa, cho dù hiện tại có vẻ như sự dữ đang thắng thế, bất công, bạo tàn, bách hại và mọi thứ hình khổ vây bủa người công chính, nhưng họ sẽ chiến thắng nhờ bàn tay uy quyền đầy dũng lực của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi dân Người.
Thiên Chúa sẽ định đoạt số phận của mỗi người tùy theo việc họ đã làm: người hiền sẽ sống lại để hưởng phúc trường sinh, còn kẻ gian ác cũng sẽ trỗi dậy để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.
Như vậy, lời sách thánh hướng chúng ta tới ngày cánh chung khi mọi sự đều phơi bày trước nhan Thiên Chúa đúng theo bản chất của loài đó. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như mặt trời rực rỡ và sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao.
Lời khải huyền của sách Daniel được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su, Đấng là chính quyền năng của lòng thương xót Chúa Cha.
Bài Tin Mừng vừa tuyên đọc là lối văn khải huyền nói về ngày tận thế, vua Kitô đầy quyền uy, ngự xuống trên mây trời, thực hiện cuộc xét xử công minh, muôn dân sẽ được tập họp, được tách biệt thành hai nhóm người lành/kẻ dữ. Người lành được hưởng hạnh phúc Nước Trời, kẻ dữ phải chịu luận phạt.
Quyền năng cứu độ của Giê-su đặt nền tảng trên tình yêu và sự sống, chắc chắc, Người không nhắm luận phạt thế gian, nhưng để muôn người được hưởng ơn cứu độ.
Giê-su, với tư cách là người mang và đầy tràn Thánh Thần, luôn tỏ ra dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn thật, luôn chạnh lòng xót thương hết thảy mọi người, nhất là những ai bé mọn, nghèo hèn: “Cây sậy dập gẫy, Ngài không nỡ bẻ, tim đèn còn khói, Ngài không nỡ tắt” (Mt 12, 20).
Giê-su sử dụng một thứ “quyền lực mềm”, nên khi ngự xuống trên mây trời, Người đã thiết lập một nền hòa bình viên mãn, bền lâu sáng ngang cùng tuế/nguyệt.
Bởi vậy, trong khi chờ đợi ngày trở lại của Chúa Giê-su, chúng ta phải dẫy tràn niềm vui tươi, phấn khởi. Chờ đợi Chúa đến trong niềm vui là tích cực sống Tin Mừng, là chu toàn bổn phận, là tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ trung tín, tốt lành và khôn ngoan.
Tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đề cao vai trò thượng tế của Chúa Giê-su, như là cách thức Thiên Chúa biểu lộ quyền năng yêu thương để cứu độ muôn dân. Chúa Giê-su là thượng tế, là của lễ và là bàn thờ. Ngài không dùng lễ vật tượng trưng là máu con vật bị sát tế, nhưng là chính thân xác Người bị trao nộp vì tất cả chúng ta, máu ấy đổ ra do sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha, rửa sạch lương tâm chúng ta khỏi hành vi sự chết, mà phụng thờ Thiên Chúa hằng sống.
Sau khi vâng phục tự hiến chính mình làm của lễ thơm tho tinh tuyền đẹp lòng Cha mọi đàng, nên được Cha tôn vinh, ngự bên hữu mình trên trời, làm Đấng trung gian cứu độ giữa Thiên Chúa và loài người.
Quyền năng của Đấng chịu đóng đinh đã làm nên một nhân loại mới được thần hóa, nên một trời mới đất mới luôn có công lý ngự trị.
Thật là, dưới gầm trời này, không thể có một danh nào khác có sức cứu độ trọn hảo như thế, ngoài danh Giê-su Kitô, Chúa chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy mạnh dạn, tin tưởng, cậy trông chạy đến với Chúa, mở rộng tâm hồn, để Chúa vào cư ngụ dưới mái nhà ta, để được dùng bữa tối hiệp thông với Ngài, nhờ đó chúng ta được cứu độ và được giải thoát.
Kitô hữu cần tin tưởng vào quyền năng yêu thương của Chúa Giê-su, nhất là hành động nhân danh Ngài, để Chúa thực hiện công trình cứu độ thế gian qua chính con người chúng ta.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen!

23. Chúa Nhật 33 Thường Niên
HY VỌNG CÓ GIÚP CHÚNG TA THẤY ĐỨC KITÔ KHÔNG?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thời kỳ thánh Marco chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được những giới Do Thái nào đó ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những tập sách được lưu huỳnh, thường gồm những đoạn mô tả những tai họa thảm khốc, nhắm mục đích mạc thị về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc: Ngay chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải đó không trong những bài giảng về ngày tận thế? Trong chừng mực nào thánh Marco đã sử dụng loại văn thể đó? Điều ấy không quan hệ lắm ở đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những đoạn trong bài giảng của Chúa theo nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền nghĩ rằng Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng quan trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước một vấn đề. Thật vậy, nếu bài đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một thảm họa sẽ xảy đến lúc chung cục trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ Lời Chúa trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con Người quang lâm có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện với một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, các tinh tú từ trời sa xuống, tất cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung trong lĩnh vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán tương lai Giáo Hội như là một sự tiến dần của nhân loại đến ánh sáng. Như vậy, vào ngày tận cùng, tương lai đó sẽ kết liễu trong một thảm họa mịt mùng ư? Trong viễn tượng đó, làm thế nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt câu hỏi rõ hơn. Hy vọng của chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta phải có thái độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về sự hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con Người đến với quyền năng cao cả và vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra tối tăm sẽ bị khai trừ, không được hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại, những ai thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ được thu họp từ bốn phương, từ tận cùng mặt đất đến tận cùng chân trời, để được hiển trị với Chúa. Do đó, bất kể những thăng trầm trong lịch sử loài người, và cả trong lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta trên sự kiện Đức Giêsu Kitô, Chúa tể vũ trụ. Người tác động để nhân loại nhìn nhận Người là tâm điểm vũ trụ. Ngày tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ hiển hiện trong khải hoàn, và sẽ là niềm hân hoan của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm chắc được phần nào của sự hy vọng? Chúng ta có trách nhiệm xây dựng tương lai nào? Chúng ta xây dựng tương lai chúng ta và tham dự tương lai Giáo Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên điều sau. Trong con người chúng ta, một thế giới phải cáo chung để Chúa hiện đến. Thế giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm nhiều lầm lạc, những ảo tưởng, những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta. Điều chúng ta cần quan tâm không phải là những việc lành phúc đức, những nhân đức, những chiến thắng trong việc tông đồ của chúng ta, nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện Chúa sẽ hiển hiện trong chúng ta, xuyên qua chúng ta, nhờ vào sức cường nhiệt của đức tin và đức ái chúng ta lúc này.

24. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Theo truyền thống, Giáo Hội dành thời gian kết thúc Năm Phụng Vụ để nhắc nhở các tín hữu thời Cánh Chung, thời kết thúc vận mệnh con người, nhưng cũng là thời con người hội ngộ với Thiên Chúa của mình trong cuộc sống đời đời.
Đn 12: 1-3
Bài Đọc I, trích từ sách Đa-ni-en, khẳng định rõ nét cuộc phục sinh các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người được sống lại.
Dt 10: 11-14, 18
Thư gởi tín hữu Do thái nêu bật tính hiệu quả hy tế độc nhất của Đức Giê-su qua đó Ngài thông truyền cho nhân loại sự thánh thiện của Ngài. Trong vinh quang bên cạnh Chúa Cha, Ngài chờ đợi việc thiết lập Nước Trời vào lúc cuộc chiến thắng vĩnh viễn trên các thế lực của sự ác.
Mc 13: 24-32
Tin Mừng Mác-cô gợi lên thời gian nan, nhưng đó cũng là thời cứu độ, thời chuẩn bị cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô và cuộc tập hợp những người ưu tuyển vào thời chung cục.
BÀI ĐỌC I (Đn 12: 1-3)
Bản văn Cựu Ước này thuộc thế kỷ II trước Công Nguyên khẳng định cách rõ nét nhất cuộc phục sinh của các vong nhân và sự biến đổi hình dạng của những người ưu tuyển trong cuộc sống đầy ánh sáng. Đây là lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh diễn ngữ: “phúc trường sinh”.
Thật ra, bản văn Đa-ni-en này rất gần với sấm ngôn của I-sai-a:
“Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên.
Này những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy chỗi dậy, hãy reo mừng!
Vì lạy Chúa, sương Ngài ban là sương ánh sáng,
và đất sẽ cho các âm hồn được hồi sinh” (Is 26: 19).
Tuy nhiên, như sấm ngôn của Ê-dê-ki-en về cuộc hồi sinh các bộ xương khô (37: 1-11), người ta không loại trừ sấm ngôn của I-sai-a này có liên hệ đến những người lưu đày tại Ba-by-lon, họ gởi nấm xương tàn của mình ở nơi đất khách quê người. Qua đó, vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát của họ và cuộc tái thiết đất nước của họ.
1. Niềm hy vọng lớn lao:
Dù thế nào, sấm ngôn của I-sai-a và sấm ngôn của Ê-dê-ki-en đã góp phần hướng tầm nhìn của con người về viễn cảnh cánh chung. Nhưng để Mặc Khải được phát triển và niềm hy vọng được rộng mở phải có một chấn động tâm lý sâu xa. Đó là cuộc bách hại mà người Do thái tại Pa-lét-tin phải chịu do vua Xy-ri-a là An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê tiến hành. Làm thế nào người ta có thể tưởng tượng rằng những người phải đối mặt với những nỗi khốn khổ cùng cực, ngay cả cái chết để nhất mực trung thành với Thiên Chúa, cũng vào cõi Âm Ty là nơi cư ngụ đời đời như bao người khác được chứ? Thánh vịnh gia đã hát ca rồi niềm hy vọng mà những người công chính được vui sống bên cạnh Thiên Chúa, trong khi bọn ác nhân bị ném vào nơi tối tăm, hay bị tiêu diệt.
Tác giả sách Đa-ni-en biên soạn tác phẩm của mình, trong những năm bách hại. Mục đích của ông là củng cố lòng trung tín của các tín hữu và đem lại cho họ, khi phải đối mặt với cuộc bách hại, những động lực cho sự can đảm và hy vọng. Ông mượn tên Đa-ni-el, một thiếu niên Do thái anh hùng xưa kia bị lưu đày tại Ba-by-lon đã dám cưỡng kháng lại vua ngoại giáo là Na-bu-cô-đô-nô-so. Trong phần thứ nhất của sách Đa-ni-en, tác giả xây dựng câu chuyện khuyến thiện và mẫu mực, đôi khi được phóng đại đến mức không thực: tác giả biến Đa-ni-en không chỉ một người Do thái trung thành cách mẫu mực, nhưng còn một nhà thấu thị giải mã lịch sử và phát hiện những ý định của Thiên Chúa trong lịch sử đó.
2. Thời chung cục:
Phần thứ hai của sách thuộc loại văn chương khải huyền mà tác giả khai mạc. Thể loại văn chương khải huyền sẽ nở rộ sau này (được vài bản văn của I-sai-a, Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a chuẩn bị trước). Bản văn hôm nay được trích dẫn từ đoạn cuối của phần thứ hai này. Nhà thấu thị vừa mới báo trước cái chết gần kề của kẻ bách hại là vua An-ti-ô-khô, đồng lúc cuộc giải thoát của Ít-ra-en. Từ cuộc giải thoát này, tác giả hình dung ơn cứu độ của Dân Thiên Chúa vào thời chung cục.
Đây là thời ngặt nghèo nhưng cũng là thời chan chứa hy vọng dưới quyền bảo trợ của “Mi-ca-en, ngài là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường hằng che chở dân Người” (12: 1). Vào thế kỷ II trước Công Nguyên, khoa thiên thần học rất phát triển trong Do thái giáo. Văn chương khải huyền ban cho mỗi quốc gia một thiên thần làm đấng bảo trợ. Có bốn tổng lãnh thiên thần: Mi-ca-en có nghĩa “ai sánh bằng Thiên Chúa”, Gáp-ri-en có nghĩa “người của Thiên Chúa”, Ra-pha-en có nghĩa “Thiên Chúa cứu chữa” và Ou-ri-en có nghĩa “ánh sáng của Thiên Chúa”. Tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en là đấng bảo trợ đặc biệt của Ít-ra-en, chính ngài, trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, chiến đấu chống lại Con Rồng.
Một đàng, vào lúc tiên báo cuộc phục sinh của các vong nhân, các người công chính Ít-ra-en đang chờ đợi hưởng phúc trường sinh. Xem ra, thị kiến của vị ngôn sứ chưa dự kiến toàn thể nhân loại, nhưng chỉ những người tử đạo thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, cũng như “các hiền sĩ”, tức những người đã hiểu sứ điệp tôn giáo của Ít-ra-en và đã trung thành với Đức Chúa, và “những thầy dạy đàng công chính”, tức là “những ai làm cho người người nên công chính”. Qua biểu tượng ánh sáng, ngôn sứ loan báo cuộc thay hình đổi dạng của những người hưởng phúc trường sinh.
Đàng khác, đây là lần đầu tiên Kinh Thánh gợi lên cuộc phục sinh của những kẻ tội lỗi để chịu xử án. Trước đây các ngôn sứ hay các hiền nhân nhắm đến việc tiêu diệt bọn ác nhân, chẳng hạn như lời cầu nguyện này:
“Lạy Đức Chúa, tay Ngài giơ lên, chúng chẳng thấy,
nhưng sẽ thấy Ngài yêu thương nồng nhiệt dân này,
khiến chúng phải thẹn thùng xấu hổ;
lửa dành cho thù địch của Ngài sẽ thiêu đốt chúng” (Is 26: 11).
Trong Tin Mừng Mác-cô hôm nay, khi tiên báo thời chung cục, Đức Giê-su định vị mình vào hàng của những lời tiên báo Cựu Ước: thời ngặt nghèo báo hiệu thời cứu độ. Tuy nhiên có những khác biệt lớn lao. Thời chung cục được đánh dấu bởi cuộc Quang Lâm của Đức Ki-tô. Vì thế, công trình cứu độ và cuộc phục sinh của Đức Ki-tô đã mở ra đến vô tận những viễn cảnh chan chứa hy vọng.
BÀI ĐỌC II (Dt 10: 11-14, 18)
Cùng với đoạn trích hôm nay, chúng ta đọc hết các đoạn trích dẫn quan trọng trong Thư gởi tín hữu Do thái suốt bảy tuần qua.
1. Tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su:
Chương 10 được định vị vào phần kết của phân đoạn trung tâm được dâng hiến cho chức tư tế của Đức Giê-su. Tác giả tóm lược đề tài đã được khai triển dài: tính vô hiệu chức tư tế và các hy tế của Cựu Ước, các lễ tế này “chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi”, và tính hữu hiệu hy tế duy nhất của Đức Giê-su, Người vừa là tư tế vừa là tế vật, lễ tế này “vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”.
Trong sự gợi ý sau cùng này, tác giả nhắm đến không còn chỉ vị Thượng Tế, nhưng tất cả các tư tế trong việc phục vụ hằng ngày của họ, để bao gồm tính vô hiệu của tất cả hệ thống lễ tế và nghi lễ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Còn Đức Ki-tô, sau khi đã tự hiến để đền tội cho nhân loại, Người đã vào trong vinh quang, vinh quang này sẽ viên mãn khi mà thế lực của sự ác bị đánh bại vĩnh viễn vào thời chung cục. “Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân Người”, câu này xuất xứ từ Tv 110, thánh vịnh Mê-si-a vương đế mà tác giả đã nhiều lần trích dẫn.
Ở lòng vinh quang này, Đức Ki-tô theo đuổi công trình cứu độ của Người, vì lễ tế của Người luôn luôn hữu hiệu bên cạnh các tín hữu để thánh hóa họ và dẫn họ đến cùng một vinh quang này.
2. Thánh Lễ tái hiện hiến lễ của Đức Giê-su:
“Quả thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã thánh hóa được nên hoàn hảo”. Câu nói nổi tiếng này đã gây nên những tranh luận. Anh em Tin Lành dựa trên bản văn này để từ chối Thánh Lễ là hy tế, nhưng chỉ là tưởng niệm. Các tín hữu Công Giáo cho rằng Thánh Lễ là tái diễn hy tế duy nhất, hy tế Thập Giá, chứ không một hy tế mới; vì thế, Thánh Lễ không đơn thuần tưởng niệm, nhưng tái hiện hiến lễ duy nhất của Đức Giê-su trên đồi Sọ. Không ai chối cãi hy tế mà Đức Giê-su đã thực hiện trên Thập Giá một lần là đủ, nhưng hy tế ấy phải được tái hiện để đem ơn cứu độ đến với mọi người ở mọi thời cho đến ngày Người trở lại, chứ không chỉ dành riêng cho một nhóm người vào một thời gian nhất định.
TIN MỪNG (Mc 13: 24-32)
Thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu đều định vị diễn từ này của Đức Giê-su vào giờ phút được xác định đem lại ý nghĩa phong phú cho bài diễn từ: Đức Giê-su giảng dạy lần cuối cùng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem; Ngài sẽ không còn quay lại chỗ này nữa và Ngài báo cho các môn đệ biết Đền Thờ sẽ bị phá đổ thành bình địa “sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (13: 2). Các môn đệ sửng sốt. Lúc đó, Đức Giê-su cho các ông biết rằng phải biết đọc ra trong những biến cố này một dấu chỉ: dấu chỉ của một thế giới mới mà Ngài đã đến thiết lập, và Ngài sẽ trở lại, vào thời chung cuộc, để hoàn tất công trình này. Cũng vậy, trước khi từ giả các ông, Đấng Phục Sinh đã long trọng hứa với các ông là Ngài sẽ trở lại.
Cuộc trở lại sẽ xảy ra chỉ khi thế giới đã trải qua thời gian nan. Đoạn, Đức Giê-su đề cập đến viễn cảnh chung cục; Ngài sử dụng những kiểu nói Kinh Thánh và từ vựng khải huyền, kiểu nói này dễ hiểu đối với các môn đệ của Ngài và các Ki-tô hữu tiên khởi, nhưng thật khó hiểu đối với chúng ta. Vì thế, bài diễn từ chứa đựng nhiều điều khó hiểu này.
1. Khúc dạo đầu cho một thế giới mới:
Trong Cựu Ước, những đảo lộn của vũ trụ là những hình ảnh ước lệ được dùng để giới thiệu cuộc can thiệp vĩnh viễn của Thiên Chúa, bày tỏ sự siêu việt của Ngài: quyền năng của Thiên Chúa trên các yếu tố là dấu chỉ quyền năng của Ngài trên mọi biến cố. Chính qua hình ảnh như vậy mà các ngôn sứ loan báo cuộc sụp đổ của các đế quốc, sự trừng phạt của các quốc gia ngoại giáo hay của dân bất trung. Giờ chung cục, giờ Thiên Chúa xử án, “ngày của Thiên Chúa” được mô tả theo cùng một cách thức như vậy: “Ngày của Đức Chúa đến rồi, ngày ấy đã kề bên. Ngày tối tăm u ám, ngày mây mù tối đen…Mặt trời mặt trăng tối sầm lại, tinh tú không còn chiếu sáng nữa…Bấy giờ, hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được ơn cứu độ” (2: 2, 10; 3: 5). Bởi lẽ đó sẽ là ngày thịnh nộ.
Phải lưu ý rằng trong diễn từ của Đức Giê-su, như thánh Mác-cô trình thuật, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa cũng như cuộc xử án không được nhắc đến, nhưng chỉ gợi lên viễn cảnh bình an và vinh quang của những người ưu tuyển tụ tập chung quanh Con Người. Từ những hình ảnh hoàn vũ truyền thống, thánh ký chỉ giữ lại ý nghĩa của chúng như khúc dạo đầu cho một thế giới mới sắp được khai sinh, sánh ví với một mùa hè sắp đến gần khi thấy cây vả đâm chồi nẩy lộc. Vì thế, những hình ảnh này xuất hiện như một thị kiến đảo ngược về một cuộc tạo dựng đầu tiên. Chuyện tích của sách Sáng Thế đã nhấn mạnh ánh sáng. Thiên Chúa đã sáng tạo ánh sáng trước mọi thụ tạo, đoạn những tinh tú được chỉ định vai trò của chúng. Nếu trật tự sáng tạo này bị đảo lộn, đó không phải là cuộc sáng tạo đang qua đi sao? (“Trời đất sẽ qua đi…”.
Thánh Mát-thêu sử dụng những ẩn dụ này trong bài trình thuật của mình về cuộc Tử Nạn, để nói rằng cuộc Tử Nạn của Đức Giê-su thiết lập một sự thay đổi tận căn: “Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín…Đất rung đá vỡ” (Mt 27: 45-52).
Mặt khác, chúng ta nên nhớ rằng trong từ vựng của các sách khải huyền kiểu nói “các tinh tú từ trời rơi xuống” là cách diễn tả cuộc sụp đổ của Xa-tan. Chắc chắn Đức Giê-su đã ám chỉ đến điều này khi nói: “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống” (Lc 10: 18). Nhưng phải chăng chúng ta có thể đưa thêm một lời giải thích tổng quát hơn về sự rung chuyển của những thế lực thiên giới báo hiệu một trật tự mới? Đây là một trong những khó khăn của bản văn. Dù thế nào, cuộc khải hoàn chung cục của Đức Ki-tô giả sử cuộc sụp đổ này của Xa-tan.
2. Cuộc tụ tập đoàn người ưu tuyển:
“Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời”. Chắc chắn đoàn người ưu tuyển này thì rất đông, bởi vì không nói chi đến những người khác. Khi ngự đến lần thứ nhất, Đức Giê-su tự hạ mình thành một người giữa mọi người; khi ngự đến lần thứ hai, ngược lại, Người nâng con người lên cho đến Người để dẫn đưa nhân loại vào trong vinh quang của Người.
3. Ngày và giờ:
Ngay ở đầu câu chuyện, các môn đệ đã hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục, thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13: 4). Họ hỏi Ngài về ngày giờ và điềm báo cuộc sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Trong câu trả lời của Đức Giê-su, Ngài lập lại từ ngữ của họ: “Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra”, nhưng bao hàm ở đó văn mạch diễn từ của Ngài, nghĩa là cuộc Quang Lâm tương lai của Ngài: “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa”. Vả lại, trong hậu ý của các môn đệ, cuộc tàn phá Đền Thờ – Đền Thờ này quá thân thiết với các ông và các ông sẽ còn đến đó để cầu nguyện và rao giảng hằng ngày vào đầu sứ vụ tông đồ của mình – cuộc tàn phá này có thể được trộn lẫn với thời chung cục của thế giới, điều này xem ra khá nhạy cảm tại thánh Mát-thêu.
“Thế hệ này chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra”. Theo nghĩa hẹp, chúng ta có thể hiểu rằng chính các môn đệ và những người đương thời sẽ chứng kiến cuộc sụp đổ Đền Thờ; nhưng theo nghĩa rộng, cả toàn thể nhân loại. Ở đây chúng ta còn cảm thấy ảnh hưởng kiểu nói khải huyền. Những viễn cảnh được lồng vào nhau đến mức kỷ nguyên thiên sai và kỷ nguyên cánh chung trộn lẫn vào nhau.
“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi”. Câu nói này làm tốn biết bao giấy mực. Trước tiên, chúng ta hãy nêu lên rằng từ “Con” được dùng ở đây cách tuyệt đối, điều này họa hiếm tại các Tin Mừng Nhất Lãm (hai lần tại Tin Mừng Mát-thêu trong bài trình thuật song đối ở 24: 30 và một lần khác ở 11: 27; một lần duy nhất tại Tin Mừng Lu-ca ở 10: 22): câu này bao gồm một lời Đức Giê-su khẳng định tính siêu việt của Ngài và mối liên hệ tròn đầy với Chúa Cha. Ấy vậy, lời khẳng định này xem ra mâu thuẫn khi Ngài thú nhận rằng chính Ngài cũng không biết ngày và giờ về thời chung cục của thế giới.
Về sự hiểu biết giới hạn của người Con, người ta đưa ra hai lời giải thích: lời giải thích thứ nhất cho rằng nhân tính mà Đức Giê-su đã đảm nhận giới hạn tầm nhìn của Ngài, chính nhân tính hữu hạn này đã có thể che khuất vài điểm về kế hoạch của Chúa Cha. Lời giải thích thứ hai đối chiếu với những lời công bố khác của Đức Giê-su theo cùng ý nghĩa. Đức Giê-su trả lời cho lời cầu xin của hai người con ông Dê-bê-đê được ngồi ở bên hữu bên tả của Ngài trong vương quốc: “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được” (Mt 20: 23).
Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1: 7). Câu trả lời này rất gần với câu nói trong bài diễn từ cánh chung của Đức Giê-su và soi sáng cho chúng ta hiểu câu nói đó. Vả lại, trong suốt sứ vụ công khai của mình, Đức Giê-su đã không ngừng nhấn mạnh sự phụ thuộc của Ngài đối với Chúa Cha: chính từ nơi Chúa Cha mà Đức Giê-su đã đón nhận mọi sự, chính Chúa Cha đã thông truyền trọn vẹn tình yêu của mình cho Ngài, chính Chúa Cha là nguồn mạch của mọi ân phúc: Đức Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện bằng cách thân thưa: “Lạy Cha chúng con”. Tuy vậy, với vai trò là Con, Chúa Giê-su không thể truyền đạt cho con người những bí mật của Chúa Cha về thời chung cuộc.
Bản văn này của thánh Mác-cô dâng hiến một trong những bức tranh tích cực nhất của sách Tin Mừng. Thị kiến sáng tỏ về thời chung cục này, trong đó công trình của Đức Giê-su được hoàn tất và vận mệnh của con người được hoàn thành, được định vị trong hàng Mặc Khải: Đức Ki-tô đã đến, không để xử án thế giới, nhưng để cứu độ thế giới (Ga 3: 17). Thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại điều đó.

25. Với uy quyền và vinh quang
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niên trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường. Làm em trượt té trên sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng dọa đánh em, đâm em bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo: “Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”. Ít ngày sau, đám du côn thấy Jim đi trên phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao một mét tám trong bộ đồng phục nhà binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob. Bất thần Bob ra lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao”. Chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả tiền ăn cắp còn lại.
Chợt nhớ câu chuyện khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói về Người trong bài Phán Xét Chung: “Họ sẽ thấy Con Người đến trong mây trời với uy quyền và vinh quang”.
Thường thường ý tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay, tôi nghĩ rằng: “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa: một hy vọng lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của Jim: Anh của Jim sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Với chúng ta, những người theo Chúa Kitô: ý tưởng về ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh phúc, vui mừng.
Đó là đề tài của lời cầu nguyện sau kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ: “Trong lòng nhân từ của Cha, xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con”.
Rồi linh mục và giáo dân hô to: “Vì Nước Trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và mãi mãi”.
Lời kinh nguyện thứ ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.
Cũng trong lời kinh nguyện ấy, trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người trong vinh quang… Chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi nước mắt của chúng con được lau sạch”.
Chúng ta trông đợi trong niềm cậy tin và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: Đức Giêsu đầy quyền uy và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với các em nhỏ của Người là bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người; Những kẻ coi nhẹ Người và các kẻ theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và ngày mai.
Xin Chúa chúc lành bạn.

26. Con Người sẽ đến trên đám mây
(Suy niệm của Noel Quesson)
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng người biết khó sống và thường nói: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Vào ngày cuối cùng, vị thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài biến chuyển ra sao. Đức Gioan trả lời: – Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: – Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: – Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: – Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời. Kết thúc cuộc sống trần gian, cũng như ngày tận thế mà Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay, chính là lúc Chúa đến trong vinh quang. Dĩ nhiên diện kiến Chúa bao giờ cũng là một phần thưởng và muốn được thuởng thì phải qua thử thách, và cũng chắc chắn nếu ta cầu xin và cố gắng. Chúa sẽ ban ơn để ta thắng vượt cơn thử thách này.
Những thử thách trước tận thế thuộc ba loại: Trước hết là các ngôn sứ giả hiệu và cả Mêsia giả nữa, họ tìm cách lừa dối, lung lạc niềm tin các tín hữu. Rồi đến các tai nạn tự nhiên: đói khát, chiến tranh, thiên tai động đất… Sau cùng các Kitô hữu sẽ bị bách hại.
Những thử thách này cốt thanh luyện niềm tin các tín đồ, người nào trung kiên sẽ được vui mừng đón Chúa trong vinh quang. Đây là lần đầu tiên Chúa nói tới uy quyền của Người: Chúa sẽ ngự trên mây cao xét xử trần gian. Kiểu nói này vốn dành cho Thiên Chúa, và như vậy Chúa Giêsu đã xưng mình là Thiên Chúa.
Trong bài giảng này Chúa nói về hai biến cố một lúc: biến cố phá hủy thành đô Giêrusalem và việc tận thế. Người Do Thái coi việc phá hủy Giêrusalem là hình ảnh ngày thế mạt. Khi thánh Marcô viết Tin Mừng thì việc đó đã xảy ra rồi. Nhưng trong tư tưởng người Do Thái lúc đó, thì ngày thế mạt cũng sắp tới, và trong kinh nguyện các tín hữu, ta thường nghe nhắc lại lời cầu: Xin Chúa đến! Mọi người nóng lòng chờ ngày Chúa quang lâm như lịch sử đã ghi nhận Chúa xuống trần. Chúa đến lại lần thứ hai như người cha đi vắng trở về nhà, như ông chủ đã gieo vãi hạt giống Tin Mừng, bây giờ tới thu hoạch hoa lợi.
Chúng ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Lạy Cha, xin giúp chúng con sẵn sàng chờ đón Chúa, với tâm hồn trong sạch và cuộc sống bác ái, như người tôi trung, như người con thảo, mong được Cha đón nhận vào vinh quang Chúa muôn đời.

27. Thế giới này sẽ qua đi
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist)
1. Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 12, 1- 3
Bài đọc 1 cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc 2: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.

28. Ngày cùng tận
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
“Con Người đã gần đến…”
Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. trong những ngày ấy, sẽ có hai dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn: Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động, Có những nhà khoa học cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó, giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa. Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa “không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào”.
Tương lai xa là ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện; những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và Chúa nói: “Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã gần đến, đã đến ngoài cửa”.
Tuy nhiên, Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2,13).
“Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10).

29. Thế giới này sẽ qua đi
(Suy niệm của Montfort Nguyễn Xuân Pháp. OCist)
1. Tóm Lược Ý Chính
Bài Đọc 1: Đn 12, 1- 3
Bài đọc một cho ta ba điểm chính:
Thứ nhất: Vào ngày của Chúa, Tổng lãnh Thiên thần Micael sẽ đứng lên chỉ huy và che chở dân người. Thứ hai: Kẻ làm điều bất chính sẽ bị ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Thứ ba: Người công chính sẽ được chỗi dậy để hưởng phúc trường sinh.
Bài Đọc 2: Dt 10, 11- 14
Lời Chúa trong thư Do thái hôm nay đưa ra cho chúng ta hai hình ảnh:
Hình ảnh thứ nhất là tư tế: Họ ở trong đền thờ lo việc phụng tự mỗi ngày, dâng gần ấy thứ lễ tế mà chẳng bao giờ xóa bỏ được tội lỗi. Hình ảnh thứ hai là Đức Giêsu: Người chỉ dâng hiến lễ một duy nhất để đền tội cho nhân loại, làm cho những kẻ người đã thánh hóa trở nên hoàn hảo.
Bài Đọc Tin Mừng: Mc 13, 24- 32
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Marco nêu lên cho ta bốn ý chính về ngày Chúa quang lâm. Thứ nhất: Mặt trời tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao sa xuống, các quyền lực lay chuyển. Thứ hai: Con Người sẽ đến đầy quyền năng. Lúc đó các thiên sứ được sai đi để tập họp những kẻ Người tuyển chọn từ bốn phương trời. Thứ ba: Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Người nói sẽ tồn tại mãi mãi. Thứ tư: Về ngày chấm dứt của thế gian thì không ai biết, ngoại trừ Chúa Cha biết mà thôi.
2. Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay thuộc thể văn Khải huyền, nên rất khó hiểu. Ý chính của Lời Chúa hôm nay nói về ngày tận cùng của thế giới. Có lẽ, Giáo hội muốn nhắc nhớ con cái mình biết tính tạm bợ của thế gian và sự mỏng dòn của kiếp người; cho nên, đã đặt đoạn Tin Mừng này vào Chúa nhật áp chót của Năm Phụng Vụ.
Vậy qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta rút ra hai ý chính.
a. Thế Giới Này Không Phải Là Vô Tận
Có nhiều tin đồn rằng ngày tận thế sẽ đến vào năm 2000. Sau đó, lại có tin đồn rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào ngày 21/12/2012 và rồi vào ngày 22/2/2014, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở tin đồn. Mới đây, một tờ báo quốc tế loan tin rằng, ngày tận thế sẽ xảy ra vào năm 2015. Lý giải dự báo này, người ta cho rằng trước đó, họ đã tín nhầm ngày kết thúc theo lịch của người Maya. Kết hợp với nhiều lời tiên tri, ngày tận thế được xác định sẽ rơi vào ngày 15/5/2015. Những lời đồn đoán này đã gây ra hoang mang cho biết bao người. Cảnh sát Brazil đã phải đối phó với nguy cơ tự tử tập thể sau khi hơn một trăm tín đồ của một giáo phái cố thủ trong một ngôi nhà để chờ ngày tận thế.
Những tin đồn này đã đi vào dĩ vãng. Tuy nhiên, dựa vào Kinh Thánh và Huấn quyền của Hội Thánh, chúng ta tin rằng thế giới này sẽ có ngày đặt dấu chấm hết. Ngày giờ chấm dứt thế giới thì không ai biết, và cũng không cần biết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã nói: “Anh em không cần phải biết ngày giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1, 7). Tin Mừng hôm nay cũng đã nói lên điều đó: “Về ngày giờ đó thì không ai biết được ngay cả Thiên sứ trên trời, và Người Con cũng không thể biết, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc 13, 32). Thánh Augustine còn xác quyết: “Việc này hoàn toàn nằm trong quyền năng của Chúa Cha”.
Như vậy, chúng ta không biết ngày tận cùng của thế giới, nhưng điều đó chắc chắn sẽ đến. Biến cố này không phải là một cơn thịnh nộ của Thiên Chúa muốn giáng xuống con người, mà đó là một ngày Ngài đã dọn sẵn một thế giới mới cho một nhân loại mới. Nơi thế giới này, công bằng sẽ ngự trị, niềm vui ngập tràn và hạnh phúc viên mãn dành cho ai bền đỗ đến cùng. Vì thế, chúng cần phải sống trong thái độ “tĩnh thức và cầu nguyện” để sẵn sàng chờ ngày của Chúa đến.
b. Con Người Không Phải Là Vĩnh Cửu
Mỗi bước đi của con người là một bước tiến gần đến cái chết. Không ai biết được ngày chấm dứt đời mình, nhưng cũng không ai có thể bước qua được cái hố định mệnh này. Ngày đó, Chúa sẽ đến với mỗi người để kiểm điểm và đánh giá xem chúng ta đã sử dụng thời gian Chúa ban như thế nào: chúng ta là tên đầy tớ bất trung chỉ biết phung phí gia sản vào những cuộc ăn chơi và những thú vui hạ đẳng, hay là tên đầy tớ tài giỏi biết làm sinh lợi những nén bạc Chúa trao.
Dầu biết rằng thời gian trôi đi không chờ đợi ai, nhưng nhiều người vẫn cứ ngủ mê trong sự ươn lười, an phận và tội lỗi. Như vậy, chúng ta đang tự đào cái hố giệt vong để chôn mình. Trái lại, với những ai thức tĩnh chờ ngày Chúa đến qua đời sống cầu nguyện, trong sạch và bác ái, thì ngày đó sẽ mang lại hy vong chứ không phải âu lo, ngày khởi đầu chứ không phải kết thúc. Cha Mark Link nói: “Khi Chúa đến, Người không cân đo trí khôn chúng ta thông minh như thế nào, nhưng Người sẽ cân đo trái tim chúng ta yêu thương ra sao”. Chúng ta không biết ngày chúa đến trong vinh quang, nhưng để được vào vương quốc ấy, mỗi người cần phải canh tân đời sống, nối kết sự hiệp thông, nuôi dưỡng tình bác ái, xây dựng nền công lý và hòa bình; đó là hành trang, là gia sản mà Thiên Chúa muốn mỗi người phải có để bước vào hạnh phúc trường sinh.
Xin Chúa thức tỉnh tâm hồn mỗi người chúng con, để chúng con biết cải biến mỗi ngày, nhận ra Chúa nơi những dấu chỉ thời đại và nơi anh chị em. Nhờ đó, khi ngày của Chúa đến, chúng con vẫn luôn bình an và hy vọng, vì biết rằng Ngài sẽ mang lại những gì tốt lành cho những ai yêu mến và phó thác nơi Ngài.

30. Phán xét chung
Bấy giờ Con Người sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541, người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi. Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300 hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế, lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong, ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không? Trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ hỏi chúng ta đã sống như thế nào?
Lúc bấy giờ sứ thần Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc về tôi?
Bởi đó, hãy thuộc về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử chúng ta.

31. An tâm
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử bây giờ chỉ còn ít phút nữa bạn sẽ chết, bạn sẽ làm gì?” Thánh Louis dừng lại một chút rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Nhiều người ngày nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những điều đã được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn sứ giả (Mt 24:4…) Đó là những dấu chỉ của những ngày sau cùng và chúng liên hệ đến các biến cố trong thời đại của chúng ta. Đây không phải là một giả định. Với tư cách là những Kitô hữu, theo quan điểm của Giáo hội, niềm tin của chúng ta là chúng ta đã và đang sống những ngày sau cùng từ hai ngàn năm nay rồi. Bắt đầu từ ngày Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh, cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang, thời gian này được gọi là những ngày sau cùng.
Đối với những người Kitô hữu chúng ta, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất mà chúng ta đang sống, như một số nhà khoa học tin như thế, nhưng là việc Chúa Giêsu Kitô đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải trình diện trước Chúa Kitô để chịu phán xét. Chúng ta gọi biến cố này là ngày của Chúa, bởi vì ngày đó chấm dứt sự hoành hành của Thần Dữ. Nó đã bị đánh bại.
Vì thế, bạn đừng lo lắng chuyện tận thế, nhưng vấn đề là ở chỗ bạn có giữ vững đức tin của mình không? Bạn có sống đúng là một Kitô hữu hay không? Thay vì phí mất thời giờ quí báu để lo lắng về chuyện tận thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô khuyên chúng ta hãy sống đúng tư cách là người Kitô hữu trong hiện tại. Vấn đề là ở chỗ này.
Theo Kinh Thánh, ngày phán xét chúng ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh chị em nhỏ mọn nhất của Ta?”
Lạy Chúa, xin cho con sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết của đời con.

32. Làm gì khi trông chờ?
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Lời Chúa trong những tuần cuối năm Phụng vụ thường đề cập đến Ngày cánh chung, ngày Chúa quang lâm. Khi được nghe về các dấu lạ, dấu chỉ như thế này, con người nói chung, người Công giáo nói riêng cũng không khỏi bồn chồn, lo âu! Tuy nhiên, nếu nhìn với đôi mắt đức tin, sống theo Chúa dạy mỗi ngày, thì chắc hẳn chưa đáng phải sợ!
Chuyện kể rằng: Một lần nọ, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô cùng với các bạn đang chơi đá banh trong khuôn viên cư xá, Thánh Gio-an Bos-cô bèn đến hỏi mỗi bạn khi giải lao: “Nếu bây giờ, Chúa ‘gọi’ các con về với Ngài, thì các con sẽ làm gì?”. Hầu hết, câu trả lời từ chúng bạn Sa-vi-ô đều giống nhau, người thì chạy về xin lỗi bố mẹ, người thì vội vã đi trả chiếc bút đã lấy cắp của bạn, người thì nhanh chóng làm hết những dự định của mình… Sau cùng, đến lượt Sa-vi-ô, cậu chỉ mỉm cười và đơn sơ thưa với Thánh nhân: “Nếu Chúa gọi con về với Ngài ngay bây giờ, thì con vẫn vui chơi đá banh với các bạn thôi ạ!”
Nghe câu trả lời ấy, Thánh Gio-an Bos-cô rất đỗi ngạc nhiên, nhưng lòng ngài cảm thấy hạnh phúc. Và như chúng ta biết, sau này, Đô-mi-ni-cô Sa-vi-ô đã được Chúa gọi khi còn quá trẻ (14-15 tuổi) khi mang trong mình căn bệnh viêm màng phổi. Ngài được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII phong hiển Thánh vào ngày 12 tháng 6 năm 1954. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đều thắc mắc: vì sao cậu bé Sa-vi-ô ấy lại không chút sợ hãi, chẳng chút hoảng hốt khi nói đến cái chết, khi nói đến giây phút được Chúa cất về? Chắc hẳn, vì ngài luôn tâm niệm nỗ lực sống tốt, sống trọn vẹn từng ngày, cho nên dù phải lìa đời đi chăng nữa, ngài cũng không nuối tiếc điều gì hoặc không phải vội vã như các bạn khác cùng lứa tuổi với ngài!
Đành rằng, ngày phán xét chung, ngày ân thưởng công minh ra sao đã được sách Tiên tri Đa-ni-en mô tả: “Nhiều kẻ an giấc trong bụi đất sẽ trỗi dậy; có người sẽ được hưởng phúc trường sinh, có kẻ phải tủi nhục muôn đời” (Đn 12, 2), nhưng ít nhiều lòng chúng ta vẫn còn lo lắng, bồn chồn vì phải chờ đợi. Tuy nhiên, trước ngày đó, các dấu lạ sẽ xuất hiện: “…mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng sẽ mất sáng, các ngôi sao sẽ từ trời rơi xuống và các sức mạnh trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người ngự đến trên đám mây với đầy quyền năng và vinh quang. Và bấy giờ Người sẽ sai các thiên thần của Người đi quy tụ những kẻ đã được tuyển chọn từ khắp bốn phương, từ chân trời cho đến cùng kiệt trái đất…” (x. Mc 13, 24-27). Ngày Chúa Giê-su quang lâm chắc chắn sẽ đến, nhưng trong khi trông chờ ngày ấy, thì không một ai biết ngoài Chúa Cha, và “trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Do đó, khi chờ đợi ngày quang lâm, ngày cánh chung, chúng ta phải làm gì? Phải chăng đây là vấn đề căn bản cốt lõi?
Bất kể nơi đâu, mỗi người mỗi ý khác nhau, vì thế, nhiều người cho rằng: ngày đó còn lâu mới tới, nên cứ hưởng thụ như câu nói của triết gia A-ris-tốt-tô: “Ăn uống no nê, rồi ngày mai vui vẻ vĩnh viễn chia ly”. Trong khi đó, người người nghĩ tưởng: ngày này đang cận kề, nên cuốn theo cách sống vội, sống nhanh, hòng thực hiện hết những dự định, kế hoạch của riêng mình…Ngoài ra, số đông khác theo tư tưởng: làm gì có cánh cánh chung, làm gì có ngày Chúa quang lâm, cứ sống và làm những điều mình nghĩ và mình muốn!!!! Còn chúng ta, là con cái Chúa, là người Công giáo, chúng ta nên thế nào để đẹp lòng Chúa đây?
Quả thật, chúng ta phải bám chặt vào Đức Giê-su, tiến lại gần Ngài, học nơi Ngài cách sống trọn vẹn từng ngày. Vì chưng, nhờ lễ dâng duy nhất và một lần của Đức Giê-su Ki-tô, mà chúng ta được cứu độ, được thánh hoá (x. Dt 10, 11-12.14) Ngài hằng chuyển cầu, đồng hành, nâng đỡ chúng ta liên lỉ từng giây phút trong cuộc sống. Còn chúng ta, “nhìn vào cây vả khi nó đâm chồi nảy lộc, các con biết rằng mùa hè gần đến” (x. Mc 13, 28). Qua các dấu chỉ thời đại mà nhận biết Thánh ý Chúa; qua giáo huấn của Giáo hội mà đón nhận chương trình của Ngài. Qua mọi biến cố vui buồn, thành công hay thất bại, hân hoan hay khổ đau, v.v…luôn tìm ra Thánh ý Chúa và nhanh nhẹn đón nhận, sống trọn vẹn mỗi ngày với Lời Chúa là kim chỉ nam cuộc đời, với Thánh Thể là của ăn nuôi dưỡng linh hồn và thân xác, với ân sủng và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (“Đấng Bầu Cử khác”, mà Đức Giê-su đã hứa ban), đồng thời, hiệp hành với nhau trên cùng hành trình đức tin, với gia đình, với cộng đoàn, với Giáo hội và xã hội. Tất cả những điều trên sẽ là hành trang vững chắc cho chúng ta trong lúc chờ đợi ngày Chúa quang lâm. Mọi thứ có thể thay hình đổi dạng, sẽ đổi thay, biến chuyển hoặc mất đi, nhưng những gì Đức Giê-su giảng dạy-hành động sẽ tồn tại mãi, như thể chiếc la bàn tuyệt hảo chỉ đường dẫn lối cho chúng ta khỏi lạc hướng giữa đại dương rộng lớn bao la, khỏi bị lạc bước trên chặng đường dài thế gian xa tắp, khỏi bị lạc lối trong đêm tăm tối mịt mờ nơi trần gian: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đi” (Mc 13, 31). Ngoài ra, chúng ta luôn biết sống tín thác, cậy trông, đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, vào Giáo hội của Ngài, chứ đừng như ‘cây cỏ lung lay đổi chiều theo gió’; cũng đừng chạy theo trào lưu, triết thuyết tận thế, trở thành fan cuồng của những kẻ tự cho mình biết ngày tận cùng. Vì chưng, lời Đức Giê-su đã chứng thực: “Còn về ngày đó hay giờ đó, thì không một ai biết được, dù các thiên thần trên trời, dù Con Người cũng chẳng biết, chỉ có mình Cha biết thôi” (Mc 13, 32). Vậy mà, trên thực tế, không ít người vẫn nghi ngờ, vẫn mau chóng tin theo, hoặc chạy theo những gì trái ngược với lời khẳng định của Đức Giê-su! Chúng ta vẫn dồn hết sức lực, tâm trí cho điều đó khi tiếp xúc-đọc-xem trên mạng, rồi nhắm mắt tin theo hơn là tin vào Lời Chúa, và tin vào giáo huấn của Giáo hội Chúa!
Ước gì mỗi người Công giáo chúng ta luôn biết sống trọn vẹn từng ngày như Lời Chúa dạy và như lòng Chúa mong, qua các giáo huấn của Giáo hội, trong khi chờ đợi ngày Chúa quang lâm, với cả lòng tín thác – cậy trông – yêu mến!
Ngày Chúa lại đến trong vinh quang
Chẳng phải xa, cũng không phải gần
Nào ai biết ngoài mình Chúa Cha
Xin cho con sống trọn Lời Ngài
Hằng ngày kiên vững, cậy – mến – tin. Amen!

33. Hãy chuẩn bị
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi thì các hành khách được báo là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.
Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài mấy hàng chữ vội vàng trong giây phút cuối cùng trước khi chết. Thí dụ như, “Chúng tôi không thể thoát được rồi… tôi buồn quá!”
Hàng chữ khác thì cho gia đình của ông ta, “Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau.”
Hàng chữ khác ghi cho ba người con của ông, “Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con.”
Những hàng chữ viết vội vàng là những hàng chữ của một người sắp chết. Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả ngày để báo trước cho ông biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt giống như tên trộm cắp trong đêm.
Bài Phúc Âm hôm nay diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người về những tin tức xấu. Ngài nói với họ rằng một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ. Hơn nữa, nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.
Theo như lịch sử thì cái tai ương mà Chúa Giêsu nói đến đây là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra sau 40 năm từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.
Điều này cũng nhắc nhở cho chúng ta đến cái ngày mà toàn thể thế giới phải đến: đó là ngày tận thế. Cái ngày này là cái ngày mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.
Không một ai trên thế gian này có thể biết được ngày nào hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có Chúa Cha.
Tuy nhiên, sẽ có những điềm báo trước ngày tận thế. Một số người cho rằng những điềm báo trước đã xảy ra cho nên ngày tận thế sắp đến.
Một trong những điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một số quốc gia đang gặp chiến tranh. Thí dụ như trên thế giới ngày nay có đến cả hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ nguyên tử có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm. Chỉ cần một lầm lỗi hoặc một người nào đó tức giận thì cả hàng triệu người, thậm chí cả thế giới, có thể sẽ biến mất. Không một người khôn ngoan nào có thể gây ra những điều điên khùng như vậy.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề. Thứ nhất, cuộc sống của chúng ta có thể kết thúc bất chợt, và thứ hai, sự chuẩn bị cho kết cuộc đó.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này vào cuối năm Phụng Vụ.
Hai chủ đề trên nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài trước khi Ngài rời bỏ thế gian, rằng cuộc sống ngắn ngủi ở thế gian này chỉ là một sự chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu sau này.
Vì thế, chúng ta không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này mà đánh mất đi cái nhìn về cuộc sống mai sau.
Không một ai biết được lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh thức chuẩn bị để đón chờ giây phút tận cùng đó. Nó sẽ đến khi chúng ta không ngờ. Nó sẽ đến cách bất chợt mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không có thời gian để chuẩn bị.
Đây là điều mà chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Không một ai trong chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.

34. Chúa sẽ đến
Trong những ngày cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem và ngày Con Người trở lại trong vinh quang.
Trước hết là về sự tàn phá Giêrusalem.
Thành phố này đã giết Đấng Cứu Thế để chạy theo những thần tượng giả trá cũng như có những lời nói lộng ngôn phạm thượng. Thảm cảnh bắt đầu từ việc họ chống lại binh đội La mã, để rồi tướng Titus đã đem quân vây hãm thành vào năm 70. Cùng với cuộc vây hãm này là một nạn đói thê thảm xảy ra trong thành vì mọi con đường tiếp tế đều bị cắt đứt khiến cho những người mẹ có khi phải ăn thịt chính đứa con của mình.
Khi đoàn quân của Titus đã làm chủ tình hình và thành phố hoàn toàn thất thủ thì có đến gần một triệu người bị giết, hơn một trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ, đến nỗi một sử gia đã ghi lại: Không có đủ thập giá để hành quyết và không có đủ chỗ để dựng thập giá lên.
Tiếp đến là ngày tận cùng của vũ tru, ngày Con người ngự đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đưa ra hai loại dấu chỉ. Loại thứ nhất là những dấu chỉ trong phạm vi luân lý: Sẽ có những tiên tri giả, họ là những dụng cụ của ma quỉ nhưng lên tiếng nói về Thiên Chúa. Sẽ có những Kitô giả, nhờ quyền phép ma quỉ để làm những việc lạ lùng hầu lung lạc đức tin của những môn đệ Chúa. Họ là loài lang sói mặc lốt chiên để rồi cắn xé đoàn chiên.
Loại thứ hai là những dấu chỉ trong phạm vi vật chất: Mặt trời sẽ trở nên tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng. Các vì sao sẽ rơi xuống và sức mạnh của trời đất sẽ rung chuyển.
Bấy giờ Chúa Giêsu sẽ ngự đến trên đám mây với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài. Những người chết sẽ sống lại để chịu phán xét. Cuộc phán xét này bổ túc cho cuộc phán xét riêng tư khi cùng với cái chết chúng ta giã từ cuộc sống. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ đứng bên trái. Tất cả đều lắng nghe phán quyết của Đấng Tối Cao. Hạnh phúc muôn đời hay khổ đau mãi mãi. Tại sao lại có cuộc phán xét chung xảy ra như thế?
Lý do thứ nhất là để Chúa Giêsu tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã khiêm nhường chịu đựng mọi khổ đau, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhiều người tưởng rằng Ngài đã thất bại. Rồi từ đó đến nay, Ngài không ngừng bị xua đuổi, bị bách hại và cấm cách, thì giờ đây Ngài xuất hiện trước mặt mọi người như là vua muôn vua với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài.
Lý do thứ hai là để vạch mặt những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, sống trên trần gian họ đã khéo léo che dấu những tội lỗi của mình và không chừng còn được người đời tung hô. Giờ đây những chiếc mặt nạ ấy sẽ bị rơi xuống, để con người thực của họ được phô bày. Họ sẽ xấu hổ và tuyệt vọng mà kêu lên:
– Tôi đã lạc đường và ánh sáng công lý không còn chiếu tỏa cho tôi. Tiền bạc và địa vị trần gian ích gì cho tôi trong giây phút đớn đau này.
Và sau cùng là để ân thưởng vinh quang cho những người lành thánh.
Rất có thể trong cuộc sống họ đã bị khinh bỉ, bị chèn ép, bị bóc lột. Tội ác đã chiến thắng, những chiến thắng của nó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Giờ đây họ được vinh hiển trước mặt những kẻ mà xưa kia đã từng khinh bỉ, chn ép và bóc lột họ. Họ sẽ chiến thắng cho đến muôn ngàn đời vì Chúa Giêsu đã phán với họ:
– Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thưở đời đời…
Đừng để đến ngày mai vì e rằng ngày mai thì đã quá muộn nhưng ngay từ hôm nay, hãy chọn cho mình con đường dẫn tới Chúa và hãy can đảm bước theo Ngài.

35. Chúa sẽ đến
Theo lịch phụng vụ, Chúa nhật hôm nay là Chúa nhật 33 Thường niên. Chúa nhật tới là Chúa nhật 34 Thường niên, là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, được dành đặc biệt để mừng kính Chúa Kitô Vua. Vì thế, phụng vụ lời Chúa hôm nay, được coi như là Chúa nhật cuối cùng, nên Giáo Hội muốn hướng tâm trí chúng ta về ngày cuối cùng, ngày tận thế, ngày cánh chung, ngày chấm dứt lịch sử nhân loại.
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng: bất cứ cái gì ở trần gian, nếu đã có lúc khởi đầu thì chắc chắn sẽ có lúc chấm dứt, và như vậy tức là có lịch sử. Đối với chúng ta là những người sống trong trần gian và là những người tin theo Chúa Kitô, chúng ta có hai lịch sử: lịch sử trần thế và lịch sử cứu rỗi. Hai lịch sử này song hành với nhau. Hay nói đúng hơn, lịch sử có hai mặt chìm và nổi khác nhau. Lịch sử trần thế là lịch sử các dân tộc, các triều đại, các nền văn minh với các định chế xã hội, các biến cố chính trị, các hoạt động kinh tế, các tiến bộ khoa học kỹ thuật… Đây là mặt nổi ai cũng có thể thấy được hay quan sát được. Còn lịch sử cứu rỗi là lịch sử sinh hoạt siêu nhiên, thánh hóa các tâm hồn nhờ ân sủng và tác động của Thánh Thần, xây dựng nước Thiên Chúa trong lòng người. Lịch sử này đang khai triển âm thầm dưới chiều sâu, trong các tâm hồn, theo nhịp của ân sủng. Đây là mặt chìm mà chỉ những ai có đức tin mới nhận ra.
Đức tin giúp chúng ta nhận ra rằng: có một lịch sử thánh xuyên qua lịch sử trần thế. Nhờ đó lịch sử loài người có ý nghĩa. Lịch sử loài người có giới hạn. Chúng ta không thể biết bao giờ lịch sử sẽ chấm dứt, nhưng chắc chắn sẽ có ngày kết thúc. Đúng vậy, theo Kinh Thánh, cục diện trái đất này sẽ qua đi, nghĩa là thế giới vật chất này sẽ tan biến đi để nhường chỗ cho một thế giới mới. Và khi lịch sử chấm dứt là lúc Chúa Giêsu trở lại thu hợp toàn thể loài người và toàn thể vũ trụ, để mọi người và mọi sự được hoàn tất trong Ngài.
Chúng ta nói “Chúa Giêsu trở lại”. Đó chỉ là một kiểu nói mà thôi. Thực ra Ngài không trở lại, vì Ngài luôn hiện diện trong trần thế và trong lịch sử. Tuy nhiên, hiện nay Ngài hiện diện một cách vô hình, che giấu, chúng ta không thể thấy Ngài bằng giác quan. Ngài chưa bộc lộ quyền năng và vinh quang của Ngài. Vương quyền của Ngài còn âm thầm kín đáo. Vì thế, Chúa Giêsu trở lại có nghĩa là Chúa Giêsu biểu dương quyền năng và vinh quang của Ngài. Tình trạng ẩn danh của Ngài trong lịch sử chấm dứt.
Ngày Chúa Giêsu trở lại hay quang lâm, tái lâm được gọi bằng nhiều cách: ngày cuối cùng, ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày của Đức Kitô, ngày viếng thăm, ngày xét xử…Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến ngày tái lâm này. Ngày đó được mô tả như ngày đổ vỡ của thế giới vật chất. Tuy nhiên, không ai biết bao giờ sẽ đến ngày đó, kể cả Chúa Giêsu về mặt nhân tính, tức là với tư cách là người, Chúa Giêsu cũng không biết được. Ngày đó sẽ xảy đến bất ngờ. Theo nhiều dụ ngôn, Thiên Chúa sẽ đến giữa lúc không ai nghĩ tới, đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn thể nhân loại. Dầu vậy, chúng ta có thể nói rằng: ngày cánh chung đối với cả nhân loại có lẽ còn lâu mới tới. Trong khi chờ đợi, mỗi người phải nỗ lực xây dựng nước Thiên Chúa dưới trần. Mặt khác, đối với riêng mình, mỗi người phải coi như ngày của Chúa đang tới gần.
Như vậy, để trả lời câu hỏi của các môn đệ cũng là câu hỏi của mọi thế hệ, Chúa Giêsu đã chẳng làm thỏa mãn sự tò mò của con người sống trong lịch sử, nhưng Ngài chỉ muốn dạy một thái độ sống trong lịch sử. Nghĩa là thay vì tò mò băn khoăn vô ích về ngày lịch sử kết thúc, hãy sống cho tròn đầy tất cả những gì lịch sử cho mình. Nói khác đi, đứng trước những vấn đề tương lai, con người tò mò muốn biết trước, Chúa Giêsu đã khước từ không cho biết trước, nhưng bảo cho biết thái độ phải có, đó là đừng bận tâm khi nào tận thế, nhưng hãy lo sống cho đàng hoàng trong hiện tại và hãy kiên trì. Cũng đừng tin những lời đồn đại xuyên tạc trước những biến cố khủng khiếp của lịch sử. Điều quan trọng duy nhất là trung thành làm chứng cho Chúa, và làm thế nào để mỗi ngày sống, mỗi hành động của chúng ta đều chuẩn bị sẵn sàng cho ngày Chúa quang lâm.
Tóm lại, tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc bảo cho chúng ta biết: lịch sử luôn đưa chúng ta về phía trước. Nhưng nó không phải là một khoảng không, nó là con đường chúng ta phải đi để tiến về phía trước. Vì thế, chúng ta luôn hướng về tương lai, chờ đợi lời hứa cứu rỗi đã được thực hiện trong lịch sử sẽ được hoàn tất. Chờ đợi, hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng là yếu tố giúp cho chúng ta sống và phấn đấu trong tin tưởng. Hy vọng luôn gắn liền với niềm tin. Hy vọng là phần thưởng của lòng tin. Lòng tin là nền tảng cho hy vọng. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi. Ai thấy trước tương lai tốt đẹp đang chờ đợi mình, thì càng nóng lòng góp phần làm cho thế giới này chóng tốt đẹp hơn. Con đường ấy chúng ta phải bước đi bằng cách sống cho thật tích cực, sống cho thật tròn đầy mọi trách nhiệm của mình đối với Thiên Chúa, đối với anh em, đối với loài người, đối với thế giới vật chất đãđược Thiên Chúa trao vào tay chúng ta.

36. Qua đi
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là những lời của Đức Giêsu mà chúng ta nghe trong Tin Mừng hôm nay.
Trong một cuộc đời, chúng ta nghe rất nhiều lời, và cũng nói nhiều lời. Dù chúng ta có thể quên phần lớn những lời chúng ta nghe, có những lời chúng ta cần giữ lại mãi. Thật vậy, một số lời tan biến trong ký ức của chúng ta, mà cho đến ngày chúng ta chết, chúng ta chưa chắc đã nhớ lại. Có những lời làm chúng ta bị tổn thương vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Những lời khác là những lời an ủi vẫn tạo cảm hứng cho chúng ta.
Lời nói có thể rất xúc phạm, và làm đau buồn sâu sắc, vết thương đó còn nhức nhối lâu dài. Tuy nhiên, đôi khi không phải chính lời nói, mà là cách chúng được nói ra gây thương tổn.
Một phụ nữ nhớ lại: “Khi chúng tôi còn trẻ, có những lúc mẹ chúng tôi nói những lời rất xúc phạm đến chúng tôi, những lời mỉa mai, phê bình, lên án. Và bà cũng không bao giờ xin lỗi vì những lời đó. Nhiều năm sau, khi chúng tôi nêu vấn đề ấy ra, bà xin lỗi và nói: “Nhưng mẹ không bao giờ muốn nói những lời ấy”. Và chúng tôi kinh ngạc: “Thôi được, nếu mẹ không muốn nói những lời ấy, vậy tại sao mẹ đã nói ra?”
Những lời nói có thể luôn tạo cảm hứng cho chúng ta. Một nữ tu đã tham dự một lớp học thần học nhớ lại:
“Trong suốt khóa học về các bài giảng thần học, tôi đã nghe được nhiều điều. Với thời gian tôi đã quên phần lớn những lời ấy. Dĩ nhiên, tôi đã quên nhiều điều. Nhưng có một lời mà một giáo sư đã nói tôi sẽ không bao giờ quên. Ông nói: “Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp. Tôi biết rằng điều này có vẻ là một điều đơn giản, tuy nhiên nó đi thẳng vào tâm hồn tôi và từ đó ở lại mãi mãi”. Tình yêu thương có khuôn mặt nhìn nghiêng và thấp.
Lời nói rất quan trọng và rất mạnh mẽ. Một khi được nói ra, nó có một đời sống của riêng nó, tốt hoặc xấu. Chúng có thể đem lại một lời chúc lành hoặc một lời nguyền rủa, một sự chữa lành hay làm tổn thương, sự sống hay sự chết. Lời nói có thể tiếp tục làm hại chúng ta hoặc giúp đỡ chúng ta trong nhiều năm sau khi đã được nói ra. Vì thế chúng ta phải cẩn thận trong cách sử dụng lời nói.
Khi chúng ta tức giận, tốt hơn nên giữ im lặng. Lời được nói ra là sự giận dữ có thể gây ra thương tổn sâu xa và làm cho sự hòa giải rất khó khăn. Khi chọn sự sống thay vì cái chết, sự chúc lành thay vì nguyền rủa – thường người ta phải bắt đầu bằng việc giữ im lặng, hoặc bằng việc lựa lời để mở ra con đường chữa lành. Như có người đã nói: “Đôi khi yêu thương người khác có nghĩa là giữ im lặng và để họ là họ”.
Đức Giêsu nói: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Những lời của Đức Giêsu được duy trì đến ngày nay, an ủi, hướng dẫn và thách đố chúng ta. Lời Chúa làm đảo lộn những giá trị của chúng ta. Một khi đã nghe, thì người ta sẽ không bao giờ quên được.
Nhưng vì thế, nếu chúng ta hành động theo Lời Chúa, thì Lời Chúa sẽ sinh lợi ích cho chúng ta. Lời Chúa là những hạt giống quí giá. Nếu cất giữ ở trong kho, lời ấy vẫn cứ thế như bao nhiêu hạt giống khác. Nhưng được đưa ra ngoài để gieo trồng, chúng sẽ trổ sinh mùa gặt bội thu.
Không có gì chắc chắn hay trường tồn trong thế gian này khi so sánh với đức tin. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những vẻ bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không thay đổi và qua đi. Chúng ta phải xây dựng ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.

37. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ NGÀY SAU HẾT MÀ KHÔNG AI BIẾT
Vào cuối năm Phụng vụ, Giáo hội chọn những bài đọc Thánh kinh đề cập đến những tai hoạ xẩy ra trong vũ trụ, khiến người nghe liên tưởng đến ngày tận thế. Hôm nay là Chúa nhật áp cuối cùng của năm phụng vụ. Chúa nhật tới là lễ Chúa Kitô Vua. Chúa nhật sau nữa là Chúa nhật thứ nhất mùa vọng, đánh dấu ngày đầu năm của Giáo hội trong niên lịch phụng vụ mới. Tuy nhiên chủ đề của ba Chúa nhật này đều có những điểm tương đồng: Chúa Kitô là trung tâm điểm của lịch sử loài người. Chúa đến để khởi sự kỷ nguyên Kitô giáo và người sẽ trở lại để kết thúc lịch sử loài người, để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Khi dùng ngày sinh nhật của Chúa cứu thế đẻ tính niên hiệu, người ta nói năm nọ trước Chúa giáng sinh hay năm kia sau Chúa giáng sinh.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay dùng ngôn ngữ khải huyền, một loại ngôn ngữ biểu tượng đặc biệt. Đó là loại ngôn ngữ mà ngôn sứ Đanien dùng để nói về thời gian thử thách sẽ qua, và Thiên Chúa sẽ đến cho người công chính được chiếu sáng muôn đời như những vì sao (Đn 12:3). Phúc âm thánh Mác-cô hôm nay cũng dùng ngôn ngữ và tư tưởng khải huyền trong sách Đanien. Bài Phúc âm cũng bàn bàn về ngày sau hết: Trong những ngày ấy sau cơn gian nan lớn lao, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các vì sao không còn chiếu sáng, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển (Mc 13:24-25). Rồi bài Phúc âm kết luận: Còn về ngày đó và giờ đó, thì không ai biết được (c. 32).
Khi bàn về ngày sau hết, tác gỉả Thánh kinh thường nại đến loại ngôn ngữ khải huyền, nghĩa là ngôn ngữ hay mẫu tư tưởng biểu tượng khó hiểu về ngày sau hết, gợi lại những tai hoạ với những hình ảnh tàn phá xẩy ra trong vũ trụ như chiến tranh, động đất, bão tố, lụt lội và chết chóc. Những hình ảnh tàn phá mà tác giả Thánh kinh dùng để nói về ngày sau hết đã có thể xẩy ra trong quá khứ ở đâu đó trên thế giới rồi, chứ không hẳn được tiên đoán sẽ xẩy ra trong tương lai. Văn chương khải huyền được giả sử viết vào thời quá khứ trước khi tai hoạ xẩy ra, nhưng thực sự được viết sau khi tai hoạ đã xảy ra để cảnh giác người đọc. Như vậy những hình ảnh tàn phá trong ngôn ngữ khải huyền, không hẳn nói về những biến cố sẽ xẩy ra trong tương lai. Ý nghĩa của ngôn ngữ khải huyền chỉ có dụng ý là cảnh giác người đọc rằng sẽ có ngày sau hết và Thiên Chúa sẽ toàn thắng. Đó là điều ngày sau hết sẽ xẩy ra và là điều người tín hữu phải tin. Còn ngày sau hết xẩy ra như thế nào thì không hẳn xẩy ra như được diễn ta trong ngôn ngữ khải huyển. Việc dùng ngôn ngữ khải huyền chỉ nhằm mục đích để cảnh tỉnh những tâm hồn lơ là hay ham mê sự đời mà thôi..
Do đó không phải hễ có chiến tranh, động đất và tai hoạ xẩy ra là ngày sau hết sắp đến. Tuy nhiên nếu hiểu cái chết của cá nhân mỗi người là ngày sau hết của người đó thì khi những thiên tai hoặc tai hoạ xẩy ra có thể giúp cảnh tỉnh, báo hiệu cho cá nhân liệu mà sửa soạn tâm hồn. Như vậy ngày sau hết được hiểu theo nghĩa của ngày kết thúc đời sống cá nhân của mỗi người tại thế, hoặc ngày kết thúc lịch sử loài người nói chung. Việc phán xét trong ngày tận thế dựa trên căn bản là người ta có chấp nhận và sống lời Chúa không? Theo khuynh hướng tự nhiên của loài người, người ta thường sống thờ ơ, lãnh đạm, nghĩ rằng người ta có nhiều giờ để sửa soạn tâm hồn. Sự thực thì người ta không biết ngày nào, giờ nào Thiên Chúa sẽ gọi họ ra khỏi thế gian, lại càng không biết ngày kết thúc lịch sử loài người, quen gọi là ngày tận thế.
Đối với người Kitô giáo, khi nào ngày giờ đó đến và đến như thế nào, thì không phải là điều quan trọng. Người ta không thể làm gì được về thời giờ và cách thế xẩy ra trong ngày tận thế, hay ngày người ta lìa bỏ thế gian. Điều quan trọng là người ta phải kiên nhẫn chờ đợi ngày đó. Việc kiên nhẫn chờ đợi này sẽ giúp người tín hữu khỏi nản lòng thoái chí trước những cám dỗ thử thách.
Vậy thì ta phải có thái độ nào đối với ngày sau hết? Có những người nghĩ rằng ngày sau hết sẽ đến nay mai. Họ nghĩ rằng ngày tận thế sắp xẩy đến cho nên lúc nào họ cũng lo âu, sợ hãi, yếm thế. Một số giáo phái Kitô giáo cũng chủ trương như vậy. Có một vài giáo phái kia tiên đoán ngày tận thế đến vào năm nọ năm kia trong đời họ. Và khi năm đó qua đi mà không có gì xẩy ra, họ lại đề nghị thời điểm khác cho ngày tận thế. Việc tiên đoán ngày tận thế mà người ta đồn gần đây là vào năm hai ngàn, ngay trước khi bước sang thiên niên kỉ thứ ba. Trước ngưỡng cửa năm hai ngàn, có những người tích trữ nhiều đèn nến để sửa soạn đốt cho những ngày đen tối. Những người khác lại xin nước thánh, nhiều nước thánh để rảy, sợ rằng qủi dữ sẽ xuất hiện trong ngày sau hết. Lại có những người nghĩ rằng ngày sau hết không bao giờ đến, và đời sống họ sẽ kéo dài mãi mãi. Vì thế họ cứ ăn uống, vui chơi buông thả. Dĩ nhiên cả hai quan điểm này đều vô trách nhiệm và không thực tế.
Như vậy ý tưởng hàm chứa trong Phúc âm là mỗi người sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa. Và nếu là người khôn ngoan, ta phải hoà giải tâm hồn với Chúa vì mỗi ngày tháng trôi qua là mỗi lúc ta tới gần cuối đời. Nghề bói toán đã xuất hiện trên địa cầu hàng chục thế kỉ – một nghề khá ăn khách bởi vì khuynh hướng loài người là tò mò, muốn biết về tương lai thế nào, duyên số và sự nghiệp ra sao? Tuy nhiên xét về phương diện gặp gỡ Chúa trong ngày sau hết thì không ai biết được ngày giờ nào thiên thần Chúa sẽ đến gõ cửa nhà linh hồn. Vì thế mà có những người tập thành thói quen như mỗi khi đi máy bay đều xin hoà giải với Chúa qua bí tích giải tội.
Tư tưởng cũng như văn chương của loài người chứa đầy những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc. Thời giờ thấm thoát thoi đưa. Không nên bỏ phí thời giờ. Đùng đợi tới ngày mai điều mà bạn có thể làm hôm nay. Thường khi ta nhìn đi thì thấy lâu, nhất là khi ta đang mong đợi một điều gì đó. Khi nhìn lại, ta lại cảm thất thời giờ đi rất mau lẹ, nhất là khi phải gò bó vào công việc làm trong xã hội kỹ nghệ hoá. Ta không thể đi trước thời gian, cũng không thể kéo dài thời giờ vì thời giờ là của Chúa. Do đó kiên nhẫn đợi chờ trong niềm tin tưởng, hi vọng và cậy trông phải là tâm niệm của mỗi người tín hữu.
Lời cầu nguyện xin cho được ơn kiên nhẫn chờ đợi ngày sau hết:
Lạy Thiên Chúa là Đấng con thờ!
Chúa là hi vọng, là cùng đích
và là lẽ sống của mọi loài, mọi vật.
Con xin phó tác toàn thân trong tay Chúa:
thân xác, trí khôn, linh hồn cùng các quan năng.
Xin dạy con biết sống mỗi ngày
như là ngày cuối hết của đời con
để con sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa. Amen.

38. Chỉ nam
Mỗi ngày Chúa nhật, trong ngôi nhà thờ này, chúng ta lắng nghe Lời của Đức Giêsu, những lời mà các Kitô hữu tiên khởi đã ghi chép lại và được Hội thánh giữ gìn cho chúng ta trải qua bao thế kỷ. Vậy, lời hứa của Đức Kitô đã trở thành sự thật: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”.
Tin Mừng bao gồm một loạt các câu chuyện, tất cả được liên kết lại để tạo thành một câu chuyện lớn – câu chuyện của Đức Giêsu. Chúng ta thích nghe những câu chuyện nhưng chúng ta sẽ chán nếu nghe kể đi, kể lại cùng một câu chuyện. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ tắt đài ngay. Sự việc như thế có thể xảy ra với câu chuyện Tin Mừng. Nó có thể trở nên cũ kỹ, nhạt nhẽo và không sự sống.
Chúng ta làm thế nào để cho sự quen thuộc không còn mang ý nghĩa cũ kỹ, chán ngắt? Chúng ta phải cố gắng nghe câu chuyện cao cả nhất được kể lại qua mọi thời đại. Và chúng ta cần nắm bắt lại sự kỳ diệu của nó. Chúng ta cần giải phóng năng lượng chứa trong đó, nếu chúng ta muốn cảm nghiệm sức mạnh lôi cuốn, làm ngạc nhiên, gây xúc cảm, thách đố và tạo cảm hứng của Tin Mừng.
Chúng ta cần lắng nghe Tin Mừng theo cách chúng ta được chiếu sáng và như nghe chính câu chuyện của chúng ta khi điều đó xảy ra, những câu chuyện của chúng ta kết hợp với câu chuyện của Tin Mừng và được Tin Mừng chiếu sáng.
Mọi việc chúng ta cần đều chứa đựng trong Tin Mừng. Ở đó, chúng ta có lời của chính Đức Giêsu. Những người chép lại cuốn sách này của Thầy xác nhận những điều họ viết không bao giờ lầm lạc.
Trở lại Tin Mừng trong những khi bất hạnh chưa đủ. Trở lại Tin Mừng như một đối tượng để tôn thờ (như cuốn sách của Kells) cũng chưa đủ. Chúng ta phải xem xét đời sống chúng ta đối chiếu với những lời trong cuốn sách ấy. Những lời này thắp lên một ngọn lửa trong tâm hồn chúng ta và người khác cũng cảm thấy sự ấm cúng của ngọn lửa đó.
Tin Mừng chỉ chứa đựng những điều tốt nhất và sâu xa nhất trong đời sống. “Những người khác băn khoăn lo lắng những phần Kinh Thánh mà họ không hiểu được. Còn tôi băn khoăn lo lắng về những phần mà tôi hiểu được” (Mark Twain).
Có một vị thánh luôn tự hỏi mình bất cứ lúc nào ông đối diện với một quyết định khó khăn: Sách thánh sẽ khuyên bảo điều gì? Lời đáp đến từ nội tâm sâu thẳm của ông: bạn phải làm điều gì đúng và tốt nhất. Vì thế Sách thánh có một ảnh hưởng to lớn trên ông. Nó làm cho ông mạnh mẽ trong những lúc yếu đuối. Nó tạo cảm hứng cho ông trong những lúc quảng đại. Nó làm cho ông hổ thẹn trong những lúc hèn nhát. Nhưng qua mọi việc ấy, ông đã nắm chắc điều chủ yếu là Tin Mừng phải được sống.
Tin Mừng là sách chỉ nam cho mỗi người Kitô hữu. Những quan điểm của con người cắm rễ trong những cái bề ngoài và thay đổi từ ngày này qua ngày khác, những lời của Đức Giêsu không qua đi. Chúng ta sẽ xây dựng vững chắc ngôi nhà đời sống chúng ta trên Lời Người.

39. Ngày tận thế
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát hiện một anh chàng giương cao một tấm bảng có ghi: Ngày Tận Thế Đã Đến Gần. Cô đến gặp anh chàng và nói: “Anh nói ngày tận thế đã đến gần”. – “Đúng thế, thưa cô”, anh ta đáp.
“Nhưng anh có chắc chắn không?” – “Hoàn toàn chắc chắn, thưa cô”
Và anh nói: “đã gần rồi” – “Vâng, thưa cô”
“Gần làm sao?” – “Ồ, rất gần”
“Anh có thể nói chính xác hơn không?” – “Ngay đêm nay, thưa cô”
Cô ngừng lại một lúc để suy nghĩ về điều đó. Rồi với một giọng đầy lo lắng, cô hỏi: “Này cậu, hãy nói cho tôi rõ. Tận thế sẽ xảy ra trước hay sau bữa dạ tiệc?”
Chúng ta đang sống trong một thế giới rất bất ổn. Dường như nó chao đảo từ khủng hoảng này sang khủng hoảng khác. Một cách mơ hồ, điều này có thể gây ra những nỗi sợ hãi và lo lắng to lớn. Ở giữa thế giới bất ổn và thay đổi ấy, chúng ta cần có một sự gì vững chắc để trông cậy phó thác. Đối với người Kitô hữu, điều đó chỉ có nghĩa là tin vào Thiên Chúa. Thánh vịnh trong thánh lễ hôm nay cũng nói về điều đó: “Tôi luôn luôn nhìn lên Đức Chúa còn Người ở bên tay phải của tôi. Tôi sẽ đứng vững vàng”. Và dĩ nhiên chúng ta có Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta cần. Sự bảo đảm là tất cả những điều ấy đều ở trong bàn tay Thiên Chúa. Vả lại kế hoạch của Người cho chúng ta và cho thế giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ trị vì. Thiên Chúa sẽ trị vì. Chúng ta sẽ trị vì với Người trong đời sống vĩnh cửu. Nhiều người đã yêu cầu muốn biết khi nào tận thế sẽ đến. (Yêu cầu này xem ra đã trở nên liều lĩnh khi chúng ta vừa kết thúc một thiên niên kỷ để bắt đầu một thiên niên kỷ mới). Một số người yêu cầu Thiên Chúa hoặc Đức Maria ban cho họ một mạc khải đặc biệt, một số người khác lấy Kinh Thánh ra để tính toán ngày tận thế. Tất cả những yêu cầu ấy quả là dốt nát. Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta một sứ điệp đúng lúc về ngày tận thế. Đức Giêsu nói với chúng ta rằng không một ai biết được khi nào tận thế trừ Chúa Cha trên trời. Và hướng về ngày tận thế, chúng ta phải hy vọng mà đừng sợ hãi. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để cứu chuộc chứ không phải để kết án chúng ta. Đức tin cho chúng ta niềm xác tín rằng thế giới này không hướng về sự chấm dứt, một tai họa không thể thay đổi được. Nó cũng không hướng về một chung cuộc nào đó, mà nó hướng về một sự thành tựu viên mãn. Bởi vinh quang Phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Chúng ta nên lo lắng nhiều hơn về chung cuộc đời mình khi chết đó là một điều chắc chắn thay vì lo lắng về ngày tận thế là một điều ở ngoài tầm tay.

40. Cuộc quang lâm của Con Người
(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
1.- Ngữ cảnh
Giữa các chương nói về hoạt động công khai của Đức Giêsu (Mc 1–12) và những chương tường thuật cuộc Khổ Nạn (Mc 14–16), chúng ta gặp bài Diễn từ cánh chung (Mc 13). Bài này khởi đi từ lời Đức Giêsu loan báo rằng Đền Thờ Giêrusalem huy hoàng tráng lệ như thế đó sẽ bị tàn phá và từ câu hỏi bao giờ sẽ xảy ra chuyện ấy. Bài Diễn từ này được ngỏ với bốn môn đệ Đức Giêsu đã gọi đầu tiên (x. 13,3 và 1,16-20), nhưng có một giá trị tổng quát (13,37). Bài không chỉ liên hệ đến cuộc tàn phá Giêrusalem, nhưng còn nhìn tổng quát về tương lai. Đức Giêsu phác ra những đường nét lớn cho các môn đệ thấy tương lai sẽ mang lại cho họ điều gì (13,5-27) và họ sẽ phải ứng xử thế nào (13,5.21-23.28-37). Chúng ta có thể chia bài diễn từ này thành ba phần:
1) Khi nào (cc. 5b-8.9-13.14-23);
2) Dấu chỉ: Cuộc quang lâm (cc. 24-27);
3) Giờ chính xác (cc. 28-32.33-37).
2.- Bố cục
Bản văn đọc hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc Quang Lâm (13,24-27);
2) Thời gian (13,28-32).
3.- Vài điểm chú giải
– Nhưng trong những ngày đó, … các ngôi sao từ trời sa xuống (24-25): Với liên từ “nhưng”, tác giả đưa độc giả tới khúc quanh quan trọng. Ngài mở ra một viễn tượng phổ quát bằng cách dùng những hình ảnh thuộc Cựu Ước nói về Ngày của Yhwh (Đức Chúa) (Is 13,10; 34,4; Ge 2,10–3,4; 4,15t.). Trong Cựu Ước, các hiện tượng này là những hoàn cảnh đi theo cuộc xét xử trong thịnh nộ, “ngày của Yhwh”. Theo những bản văn Isaia, việc phán xét nhắm đến Babylon và Êđôm. Trên cái nền Kinh Thánh này, các hình ảnh được vận dụng để minh họa cuộc phán xét trên các kẻ gian ác.
– Con Người (26): Trên tấm phông là một vũ trụ bị rung chuyển, Con Người xuất hiện, được mô tả bằng những từ ngữ của Đn 7,13tt. Các đám mây cho hiểu là Người thuộc về thiên giới, thuộc về Thiên Chúa. Khi Đức Kitô tỏ bày năng và vinh quang của Người ra, mọi người sẽ được thấy: không mơ hồ như những tiếng đồn được lưu ý ở 13,22 (x. Mt 24,27t). Quyền lực lớn lao và vinh quang của Người bao quanh Người, nêu bật vẻ uy nghiêm của Người, khiến Người nổi lên rõ ràng trên bóng tối và tình trạng hỗn độn của vũ trụ. Mục tiêu Người nhắm khi đến thì chưa rõ. Hình thái của bài Diễn từ không liên quan đến ai rõ ràng khiến phải kết luận rằng ở chỗ này, bài được ngỏ với các đối thủ, các kẻ gian ác và tội lỗi. Đối với họ, Con Người đến là để phán xét.
– tập họp của những kẻ được tuyển chọn (c. 27): Trong Cựu Ước, chính Thiên Chúa quy tụ (Đnl 30,3-4 [LXX]; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) nhờ các thiên thần (Tv 17/18,11; 103/104,4; Đn 7,10): Ngài quy tụ về Thánh Địa tất cả những người Do Thái đang bị phân tán, đưa về cho hiệp thông với Ngài. Ở đây, Con Người được giới thiệu là Đấng thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa cho dân Do Thái (x. Ga 14,3).
– từ bốn phương, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: dịch sát: “từ bốn gió, từ mút cùng đất đến mút cùng trời”. Các hình ảnh này là cách cổ điển mà Kinh Thánh và người Hy Lạp dùng để nói về thế giới.
– thí dụ cây vả (28): Trong Cựu Ước, mùa hè và cuộc thu hoạch là những hình ảnh diễn tả sự cùng tận, cuộc giải phóng và phán xét chung cuộc (x. Ge 4,17; Am 8,1tt; Is 28,4; Gr 8,20). Những gì xảy ra với cây vả được dùng để ví những dấu chỉ xảy ra nhằm báo cho biết Đức Kitô đã đến gần (c. 29).
– thế hệ này (30): “Thế hệ này”, dù là “thế hệ gian ác” (Mc 8,38; 9,19; Mt 12,39.45) gồm những người không tin Đức Kitô hoặc sứ điệp của Giáo Hội, thì cũng là thế hệ đương thời với tác giả Mc. Khi nghe đọc đoạn văn này, các tín hữu càng được củng cố trong nỗi niềm chờ mong Đức Chúa của mình ngự đến.
– mọi điều ấy: Dựa trên câu hỏi của các môn đệ ở c. 4b và cùng với tauta (“các điều ấy”) được lấy lại từ c. 29, có thể quy về toàn thể các biến cố được mô tả trong bài Diễn từ cho đến điểm này, tức cũng quy về cuộc Quang Lâm của Con Người. Dựa theo câu nói này, ta nhận ra một sự chờ đợi nôn nóng trong một thời gian ngắn.
– những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu (31): Đức Giêsu xác định những lời Người nói có cùng một sự chắc chắn và một uy tín như những lời của Yhwh trong Cựu Ước (Is 40,8; 51,6; 54,10; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
– không ai biết được, ngay cả Người Con …, chỉ có Chúa Cha mới biết (32): Câu này là một crux interpretum (thập giá của các nhà chú giải). Lời này dường như mâu thuẫn minh nhiên với Mt 11,27: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con…”. Người ta thường giải quyết bản văn khó này như sau. Mt 11 nói về sứ mạng mạc khải của Đức Giêsu để cứu độ thế gian: để đạt được mục tiêu này, Người đã được Thiên Chúa ban cho toàn quyền mạc khải và mọi hiểu biết cần thiết. “Nhưng Người đã có thể không biết một số điểm thuộc về chương trình sau này của Thiên Chúa, như Ngài khẳng định ở đây một cách rõ ràng” (P. Benoît). Phải hiểu Đức Giêsu không biết đây là không biết trong bối cảnh mầu nhiệm nhập thể, khi đó Chúa Con đã từ khước nhiều đặc quyền thần linh của mình (x. 2 Cr 8,9; Pl 2,6tt) để chia sẻ thân phận con người sâu xa hơn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc Quang Lâm (24-27)
Tiếng nói cuối cùng trên toàn thể lịch sử nhân loại và trên tất cả các tình huống là biến cố Con Người ngự đến trong vinh quang Thiên Chúa (Mc 13,26; x. 8,38; 14,62). Người đã đi qua đau khổ và cái chết; sau khi sống lại, Người đã chỉ tỏ mình ra với các môn đệ tuyển chọn; nhưng trong tương lai, Người sẽ xuất hiện trước mắt tất cả mọi người trong phẩm tước đích thực của Người. Cuộc tỏ mình của Người cũng như quyền chúa tể hữu hình của Người, duy nhất và vô biên, là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại.
* Thời gian (28-32)
Cho câu hỏi “khi nào?”, Đức Giêsu trả lời trước tiên bằng một dụ ngôn rõ ràng. Cần phải học bài học từ việc quan sát cây vả. “Khi nó trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần” (cc. 28-29). Tác giả muốn nói đến các biến cố ở cc. 6-13, cc. 6-23 hay cc. 14-23? Bởi vì công thức “khi anh em thấy” (hotan idête) nhắc lại c. 14, chúng ta nên coi các biến cố thuộc phân đoạn cc. 14-23.
Cuối cùng, có ba câu nói về thời gian (cc. 30-32): “thế hệ này”; “những lời Thầy nói”; “chỉ có Chúa Cha biết”. Tất cả được mở đầu bằng giọng long trọng: “Thầy bảo thật (amên) anh em”. Sự hiểu biết về lịch sử loài người và mọi câu hỏi liên quan đến tương lai dường như dễ đưa tới sự lừa dối và sai lầm: đây là vùng hoạt động của các ngôn sứ giả. Lời khuyến cáo của Đức Giêsu vẫn còn có giá trị cho mọi thời đại: “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Các lời Người nói sẽ có giá trị mãi mãi (c. 31). Và với giọng rõ ràng chắc chắn, Người khẳng định rằng chỉ có Thiên Chúa biết ngày hoàn tất những điều đã được loan báo (c. 32).
+ Kết luận
Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ: khi nào xảy ra những điều ấy? Câu trả lời của Đức Giêsu vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Người ta sẽ không còn coi Đền Thờ là nơi quy tụ nữa. Đền Thờ sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền Thờ, Người sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi tà thần: Người là Đức Chúa phục sinh quang vinh.
Toàn bài Diễn từ cánh chung muốn thổi một làn gió lạc quan trên thế giới. Đồng ý là có những thời trong đó sự dữ thắng thế, nhưng nó không thể khai sinh một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Đức Kitô và nhờ Thánh Thần, một mầm sống mãnh liệt mới khai sinh một vũ trụ mới. Với lại, kiểu hành văn “cánh chung” bao giờ cũng chất chồng các hình ảnh tai hoạ u ám để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước mong người tín hữu không bối rối khi đọc thấy sự dữ lan tràn, nhưng nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang được triển khai.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tương lai của nhân loại có đen tối đến đâu và nhìn bề ngoài thì dường như đang đi đến chỗ hoàn toàn diệt vong, nhưng cuối cùng, vẫn còn có Con Người, Đấng đã chia sẻ tất cả định mệnh con người, nay đang ở trong sự hiệp thông xán lạn và vinh hiển với Chúa Cha toàn năng. Các môn đệ của Đức Giêsu có bị bách hại, bị ghét bỏ và bị giết tàn bạo đến mức nào đi nữa, Đấng mà họ bước theo sau và cũng là Đấng mà họ đã chia sẻ cùng một số phận, đang chờ họ và sẽ bênh vực họ (x. 8,34-38). Đức Giêsu là Đấng trung thành và quyền năng. Người sẽ tìm được họ dù họ lang bạt đến tận đâu và sẽ quy tụ họ lại.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu phải tránh những ý tưởng sai lạc về tương lai. Họ không được trông mong vào một thiên đàng hạ giới chan hòa bình an. Trái đất vẫn là một thung lũng đầy nước mắt, nên họ phải sẵn sàng chấp nhận gian lao vất vả, bị từ khước và bị bách hại. Họ không được chạy theo ảo tưởng và cũng không được buông theo thất vọng. Họ phải tin cậy vững vàng vào lời nói của Đức Giêsu và tương lai mà Người phác họa ra.
3. Điều nói trên không có nghĩa là các môn đệ không được bận tâm đến tương lai và không được để cho tương lai ảnh hưởng trên lối sống hiện tại của mình. Như khi thấy các lá non của cây vả, chúng ta biết mùa hè đã đến gần, chúng ta cũng không được bám cứng vào những gì đang xảy ra, nhưng phải quay hướng về biến cố kết thúc đang đến (13,28t).
4. “Anh em hãy coi chừng đừng để người ta lừa gạt!” (c. 5; x. cc. 21-23). Đức Giêsu như đang nói: Anh em đừng để cho mình bị lạc đường vì tò mò và sợ hãi! Thầy đã chỉ cho anh em thấy rõ ràng thực tại chung kết. Hãy bám vững vào đó và hãy bằng lòng với điều đó! Điều đó hoàn toàn đủ cho anh em rồi! Vì về ngày đó, chỉ Chúa Cha biết; tất cả mọi tính toán về ngày cuối cùng đó chỉ là chuyện tưởng tượng bừa bãi, đi ngược lại với lời nói rõ ràng của Đức Giêsu.

41. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Suy niệm của JKN.)
NGÀY CÙNG TẬN CỦA MỖI CÁ NHÂN VÀ CỦA TOÀN THẾ GIỚI
Câu hỏi gợi ý:
1. Chết có phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm hết hoàn toàn không? Nếu không thì có gì đáng ta lo ngại?
2. Đời ta chắc chắn có ngày tận cùng. Còn đời sống của thế giới thì sao? Có tận cùng không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày tận cùng đó?
3. Thiên Chúa có thường xuyên nhắc nhở để ta ý thức và chuẩn bị cho cái chết của mình không? Ngài nhắc nhở ta thế nào? bằng những dấu hiệu nào?
4. Cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Chúa là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Một chân lý chắc chắn nhất trong cuộc đời: ta sẽ chết
Có một điều mà ta có thể quả quyết chắc chắn hơn tất cả mọi điều, đó là sẽ có ngày ta phải chết, phải từ giã cõi đời, lìa bỏ mọi người kể cả những người thân yêu nhất mà ta không bao giờ muốn rời xa. Đây là một chân lý mà ta vẫn thường xuyên chứng nghiệm mỗi khi gặp đám ma hay dự lễ an táng của một ai đó. Đó là một chân lý chắc chắn nhất trên đời, nhưng nhiều khi ta sống như thể không hề có chân lý ấy, như thể chúng ta sẽ không bao giờ chết, mà cứ sống mãi sống hoài cùng với trời đất. Mỗi lần thấy có ai qua đời, thiết tưởng ta nên nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ tới phiên chúng ta. Và ngày ấy không ai có thể xác định được: có thể là 30,40 năm nữa, nhưng cũng có thể là 10,5 hay 1 năm nữa, và cũng rất có thể là tháng sau, tuần sau, ngày mai, hay chút xíu nữa. Nhiều người đã chết bất đắc kỳ tử, những người này thường không ngờ được mình lại chết sớm và nhanh như vậy! Còn ta, ta không thể quả quyết rằng mình không thuộc số những người này! Và ngày ta chết chính là ngày cùng tận của riêng ta!
Nếu cá nhân mỗi người đều có ngày cùng tận, thì toàn thế giới hay toàn nhân loại này cũng có ngày cùng tận của nó. Và đó cũng là một chân lý chắc chắn không kém gì sự chết cá nhân. Vì trong thế giới hiện tượng, cái gì có sinh thì cũng có diệt theo định luật “thành, trụ, hoại, không”. Và bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở ta về chân lý bất di dịch này, đồng thời cho ta biết những dấu hiệu báo trước ngày tận diệt ấy.
2. Những dấu hiệu báo trước
a) Ngày tận cùng của cá nhân
Theo niềm tin Kitô giáo, chết là bắt đầu một đời sống khác, và đời sống mai hậu ấy là một đời sống vĩnh cửu. Điều hết sức nghiêm trọng là đời sống mai hậu ấy nếu hạnh phúc thì là hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu đau khổ thì cũng là đau khổ vĩnh cửu. Mà hạnh phúc hay đau khổ trong đời sống ấy hoàn toàn tùy thuộc vào cách ta sống, cách ta tin, cách ta hành xử trong đời sống hiện tại. Vì thế, cách ta sống trong đời sống hiện tại này thật quan trọng, nó quyết định số phận vĩnh cửu của ta. Chính vì đời sống hiện tại có tính quyết định vĩnh cửu như thế, nên vì yêu thương ta, Thiên Chúa thường xuyên gửi đến ta những sứ điệp cảnh báo ngày chết của ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta coi thường những sứ điệp ấy để rồi cuối cùng phải lâm vào tình trạng đau khổ vĩnh cửu.
Sau đây là những sứ điệp của Thiên Chúa nhắc nhở ngày tận số của ta:
a) Những đám ma, những lễ an táng mà ta gặp hay tham dự là những dấu hiệu nhắc nhở ta rằng chắc chắn một ngày nào đó sẽ tới phiên ta từ giã cuộc đời như người trong đám ma ấy.
b) Những dấu hiệu của cơ thể suy thoái như tóc bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay những biến cố đến từ bên ngoài như tai nạn, dịch tễ… đến với chính ta hay người khác đều là những sứ điệp của Thiên Chúa gửi đến để cảnh báo ta.
Liệu khi Thiên Chúa gọi ta ra khỏi cuộc đời, ta sẽ xuất hiện trước Thiên Chúa trong tình trạng nào? tốt lành thánh thiện hay xấu xa tội lỗi? đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay đáng chịu trầm luân mãi mãi? Tự hỏi như thế thì còn quá xa vời. Hãy tự hỏi: nếu ngay bây giờ Chúa gọi tôi đi thì tôi sẽ ra đi trong tình trạng nào? tôi đã sẵn sàng mọi sự để xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu chưa? Cách tốt nhất để bảo đảm là ta sẽ ra đi trong tình trạng tốt đẹp là luôn tỉnh thức để luôn luôn trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Mc 13,33; Lc 21,36). Hãy luôn luôn tự nhủ: bất kỳ một tư tưởng xấu, một hành động xấu nào trong đời ta cũng đều ảnh hưởng tai hại đến tình trạng cuối cùng của cuộc đời ta, là tình trạng lúc ta ra khỏi thế gian này. Tình trạng này quyết định số phận cuộc đời mai hậu của ta. Người ta vẫn nói: “Cây xiêu đằng nào, đổ đằng nấy”. Vết mực một khi đã dính vào áo thì dù có giặt kỹ đến đâu cũng không tránh khỏi làm áo bị cũ, bị hoen ố, bị kém giá trị đi.
b) Ngày tận cùng của thế giới
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, “các quyền lực trên trời bị lay chuyển”… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Điều đáng lo ngại cho thế giới này chính là sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực, của thú vui xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo – kể cả Kitô giáo – có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà quên đi tinh thần phải có ở bên trong. Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ bị tục hóa đến nỗi nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp để sinh sống… Đó là những điều khiến Đức Giêsu đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).
3. Thái độ cần phải có
Trước sự chắc chắn và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện “chân lý, công lý và tình thương” (x. Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, “những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ai cũng chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai chắc chắn được chút nào về ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, thậm chí không mấy ai ngờ trước được. Vì thế, con muốn chuẩn bị thật chu đáo ngày con ra trước tòa Cha. Con muốn ngày ấy phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn sàng trở về với Cha bất cứ giây phút nào. Xin giúp con sống thật sự tinh thần chuẩn bị đó.

42. Đi tìm sự vĩnh cửu
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Công Chúa Touwan bên Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 trước Thiên Chúa Giáng sinh, nhưng người sinh sống cùng thời với bà có một niềm tin là xác bà sẽ nguyên vẹn trường cửu vì bà được liệm xác trong một quan tài bằng Ngọc Thạch. Chồng bà cũng đã lìa đời 9 năm trước đó và cũng được liệm xác trong một quan tài tương tự như của bà.
Hai vợ chồng đều được an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong một vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969, người ta mới khám phá ra và cả thế giới đều ngạc nhiên về sự giầu sang của thời đại ấy được biểu lộ bằng 2800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng. Đặc biệt hơn nữa là hai cỗ quan tài, mỗi cái gồm 2000 hạt Ngọc Thạch nhỏ dát quang quan tài và kết chung với nhau bằng một sợi chỉ vàng ròng 24 cà rá.
Những người sống đồng thời trong thời đại của Công Chúa đều tin rằng Vàng và Ngọc Thạch là hai loại quí nhất vì không bị thời gian làm hư hại. Vì thế chúng được coi là bảo chứng an toàn giữ cho thân xác được nguyên vẹn trường cửu, không bao giờ bị phải rữa và như thế bà sẽ sống muôn kiếp sau cái chết ở trần gian.
Không phải chỉ có con người ngày xưa mới khiếp cái chết, mà con người ngày nay cũng không thích gì chết. Họ không thích quan niệm “sinh ký tử qui – sống gửi thác về”. Họ không muốn nghe đến tiếng “chết chóc, bệnh nạn, yếu đau”. Họ muốn có liều thuốc tiên “sống khỏe không già” và nếu có chết người ta phải trang điểm cho khác hẳn sự chết, để người nhìn vào khỏi sợ sự thật của chính mình… Bởi thế Thiên Chúa luôn phải nhắc nhở chúng ta về “cái chết của chúng ta” để sửa soạn và canh chừng cuộc sống.
Trên ba vòng hoa bán nguyệt của khung cửa sổ nhà thờ Milanô bên nước Ý có khắc ba dòng chữ: – Phía dươi vòng bán nguyệt của vòng hoa hồng có chử “Mọi hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát”. – Bên vòng bán nguyệt của cửa thứ hai, dưới hình thánh giá có khác chữ “Mọi đau khổ, cực hình trần gian, chẳng mấy chốc sẽ qua”. – Vòng thứ ba của khung cửa giữa dẫn vào Vương cung Thánh đường có khắc chữ:”Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng”.
Người thời xưa quan niệm dùng ngọc thạch để ướp cho được trường sinh.
Người sống vật chất ngày nay quan niệm cuộc đời chấm dựt bằng cái chết. Còn người theo Chúa Trời quan niệm chết là ngưỡng cửa đi về cuộc sống vĩnh cửu và chính cuộc sống này mới thật sự quan trọng. Bởi thế chúng ta xây dựng cuộc sống vĩnh cử ấy bằng những giây phút sống tốt, sống thật ở hiện tại. Bằng cách áp dụng hai đạo luật vàng: “Phụng sự Chúa hết tâm hồn và yêu thương mọi người như yêu chính mình”. Thực thế, chỉ có những gì được làm bằng tình yêu thương mới có giá trị vĩnh cửu mà thôi.
Hạnh phúc trần gian chỉ kéo dài trong chốc lát. Đau khổ, cực hình trần gian chẳng mấy chốc sẽ qua. Và chỉ có hy sinh vì Chúa và phục vụ vì yêu thương mới trường tồn vĩnh cửu. (11.2003).

43. Cuộc quang lâm của Con Người
(Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Xét trên hình thức, phải chăng đây là bản lược tóm một trần thuật của Chúa Giêsu? Thử tìm văn mạch của nó?
2. Phải hiểu ra sao cái cảnh tượng được mô tả ở cc. 24-25? Cảnh tượng muốn nói lên điều gì?
3. Hình ảnh Con người với các hình ảnh đi theo được vay mượn từ đâu?
4. Dụ ngôn cây vả muốn trả lời cho câu hỏi nào trước đó?
5. Trong ba lời tuyên phán (cc.3ó-32), chữ “thế hệ này” chỉ ai? Tại sao Chúa Con cũng chẳng biết ngày giờ cùng tận?
6. Bản văn này là giáo huấn của Chúa Giê-su hay của thánh sử ?
7. Phải chăng Mc đã lầm lẫn, vì cùng tận chưa đến như ông đã dự đoán?
Khi chú giải chương 13 của Mát-cô, nhà chú giải công giáo J.Schmid có viết: “Cái mà người ta gọi là “Diễn từ về Quang lâm” hay “Khải huyền Nhất lãm” là một trong những đoạn khó hiểu nhất của Tân ước, và vì thế là một trong những đoạn bị tranh luận nhiều nhất của truyền thống, Nhất lãm”. Các bản văn nói về sự ghê tởm hoang tàn và việc con Người đến trong mây xem ra chất chứa một nội dung khó hiểu. Điều đó không chỉ do sự kiện Ki-tô hữu thời nay cảm thấy xa lạ với thế giới các ý tưởng mà những bản văn này sử dụng, nhưng còn do chỗ khó đặt vào trong vũ trụ tâm trí của ta hình ảnh Con Người được một triều đình thiên thần bao quanh hay hình ảnh những hiện tượng vũ trụ và thiên giải đi theo cuộc quang lâm của Người.
Vì thế, các nhà chú giải chuyên môn về Tân ước do dự trong cách hiểu các bản văn ấy. Vì nhiều lý do. Trước tiên ngôn ngữ Khải huyền luôn luôn khó quán triệt. Rồi người ta đôi lúc cũng thấy là không chắc hòa hợp được Mc 13 với phần còn lại của giáo huấn Chúa Giê-su; Chúa Giêsu đã chẳng thốt lên diễn từ này, nhưng là Mátcô đã phóng tác một bản văn Khải huyền nào đó của Do thái để đặt trên miệng của Thầy, đồng thời bổ túc bằng một vài lời của chính Chúa Giê-su. Dù sao, toàn chương mang nhiều dấu vết rõ rệt cho thấy nhiều học giả của Giáo Hội sơ khai đã lưu tâm đến đề tài. Điều này cũng lộ ra nơi cách thức Mt và Lc sử dụng các chất liệu. Các thánh sử này cũng như nhiều học giả khác, hình như đã nghĩ rằng những truyền thống của Chúa khá phong phú, còn có thể tiết lộ thêm nhiều kho tàng dấu ẩn, và đặc biệt là có thể giải quyết những vấn đề riêng của họ. Các ý tưởng này đã để lại khá nhiều dấu vết trong chi tiết của các bản văn, nên cho phép chúng ta đoán rằng truyền thống đã được thích nghi với hoàn cảnh lúc ấy.
Hình thức bản văn
Theo hình thức hiện nay của nó, bản văn không phải là toát yếu của một trần thuật của Chúa Giêsu. Đa số các nhà thần học Thánh Kinh đồng ý như vậy, dù họ có nhiều ý kiến rất khác nhau về nguồn gốc các yếu tố của bản văn. Chúng tôi thiết nghĩ người ta có lý để công nhận rằng bản văn căn cứ trên giáo huấn về cánh chung của chính Chúa Giêsu, một giáo huấn muốn cảnh giác các môn đồ về những nguy hiểm sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (Xin xem tiểu luận của chúng tôi: Prophecy interproted (The formation of so me Jewish Apocalyptic Lexts and of the Eschatologica Discourse Mark 13. par. Conjectanea Biblica, NT series 1, Lund 1966): Tuy nhiên, dù “nền tảng” của bản văn phải được tìm trong một huấn lệnh của Chúa Giê-su, thì Mc 13, dưới hình thức hiện thời, vẫn phản ảnh hoàn cảnh của Giáo Hội sơ khai, với những vấn đề mà Giáo Hội đã đặt ra cho truyền thống của Chúa Giê-su vàđã giải quyết bằng cách giải thích và tái giải thích truyền thống này.
Như bao học giả Do thái khác đương thời. Chúa Giê-su xem ra đi từ Cựu ước để triển khai giáo huấn của Người cùng tận. Thật thế, các đoạn của Đanien về cánh chung chiếm một chỗ đứng trung tâm trong chương 13 của chúng ta. Chúng ta cũng thấy trong chương này nhiều âm hưởng của nhiều bản văn Cựu ước khác mà nội dung cũng là về cánh chung.
Người ta đã chứng minh rằng vào thời đó, khi trích dẫn các câu Cựu ước, người ta đã hiểu ngầm luôn toàn thể văn mạch của chúng, và nhờ liên tưởng, người ta đi từ một bản văn sang một bản văn khác có cùng một nội dung. Các văn mạch và các đoạn được liên kết này, cùng với những lời giải thích về chúng, đã làm giàu ý nghĩa cho các bản văn được đặt trong tương quan với Cựu ước như thế. Thành thử khi tìm cách quán triệt ý nghĩa này, chúng ta phải cố tái dựng lại các dây liên kết nói trên.
Văn mạch.
Bài Tin Mừng hôm nay là thành phần của Diễn từ cánh chung. Diễn từ này bắt đầu từ c.5, nhưng được liên kết trực tiếp với một lời tuyên phán về sự phá hủy Đền thờ. Trong cách kết cấu của thánh sử, diễn từ làm lành lời Chúa Giê-su giải đáp cho vấn nạn ở c.4: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy (sự phá hủy) sẽ xảy ra và sự gì sẽ là điềm báo mọi điều ấy sắp hoàn tất”. Mối liên lạc giữa câu hỏi này với Diễn từ đã được một tác giả xưa chú giải như sau: “Họ hỏi một điều và người đáp lại một điều khác”.
Các câu 5-13 bàn đến các nguy hiểm khác nhau: kẻ rao giảng có khả năng mê hoặc, chiến tranh và thảm họa trong toàn thế giới, ngược đãi và phân ly trong gia đình. Chúng kết thúc bằng một lời khích lệ: “Ai kiên nhẫn tới cùng (hoặc: cho đến tận cùng) kẻ ấy sẽ được cứu”.
Các câu 14-23 mô tả một thử thách tột đỉnh của các kẻ tin. Câu 19 nói lên ý nghĩa cuộc thử thách này: những ngày ấy sẽ là một sự khốn quẫn như chưa từng thấy xảy ra và sẽ không hề xảy ra nữa. Đây là nỗi khổ mà Đanien 12,1 đã tiên báo sẽ xảy ra trong thời gian đi trước cùng tận. Nỗi khốn quẫn này sẽ tỏ hiện không chợt qua sự “ghê tởm hoang tàn” mà người ta phải chạy trốn cho mau, nhưng còn qua sự xuất hiện của nhiều Kitô giả và ngôn sứ giả. Các quyền lực của Satan sẽ tấn công tín hữu một cách hung tợn đến nỗi Thiên Chúa phải can thiệp kẻo tất cả gục ngã trong cuộc thử thách này.
Trên cái nền u tối đó, nổi bật lên đoạn văn của chúng ta, đoạn văn diễn tả cuộc chiến thắng cuối cùng và trở lại câu hỏi đã đặt ở c.4: khi nào điều đó sẽ xảy ra?”. Cách đáp câu hỏi này tự nhiên khiến thánh sử kết thúc đoạn văn bằng những lời khích lệ được lặp lại: “Coi chừng, hãy tỉnh thức” (cc.33-36). Một chủ đề đã có mặt trong tất cả phần nhất của những từ (cc 5 .6.9.21 .23).
I. CUỘC QUANG LÂM (13, 24-27)
Tiếp theo sau những biến động khủng khiếp của các câu trước, bài Tin Mừng chúng ta mô tả biến cố vượt lên trên tất cả chương. Bức tranh này vay mượn màu sắc của Cựu ước mà nó cắt nghĩa theo một cách thức rất là Kitô giáo. Thật vậy, chính từ Đanien mà người ta rút ra câu trích dẫn trung tâm của đoạn văn. Thế mà lời tiên tri của ông về các nỗi ưu phiền trực tiếp nhảy qua vấn đề tôn vinh các tín hữu, ở 12,1-2 cũng như ở 7,8tt, nơi “Con người” được đồng hóa với “các thánh của Đấng tối cao đang chiếm hữu vương quốc” (7,8.22.27). Ngược lại, đối với Mc, Con người không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu sẽ đến. Hơn nữa, ông diễn tả việc mặc khải Chúa Kitô con Người, với nhiều nét mà trong Cựu ước vẫn thường đặc trưng mặc khải thần linh về “Ngày của Giavê”. Đây là một bằng chứng mới cho thấy có lối giải thích Kitô giáo.
1. Cảnh tượng (cc.24-25)
Thành thử trong các câu này, người ta khai mở một diễn ảnh phổ quát, bằng cách dùng những hình ảnh của các bản văn Cựu ước nói về Ngày Giavê (Is 13,10; 3-4 ; Ge 2, 10; 15). Trước uy nghiêm của Chúa Giêsu, cũng chính là uy nghiêm của Gia-vê, vũ trụ rung chuyển, cuộc sáng tạo xưa (x. St 2,1) và các thời đại cũ bị tiêu diệt, Vương quốc của Thiên Chúa tỏ hiện trong tất cả vẻ vinh quang. Chắc chắn trình bày “tinh tú từ trời sa xuống” giả thiết quan niệm cổ điển về vũ trụ; trong ngôn ngữ thánh kinh, “các quyền năng tầng trời” xem ra chỉ những thiên thể (x. St 1 ,17tt).
Có lẽ như một số nhà chú giải đã nghĩ chúng ta cũng phải nhớ tới sự kiện là trong các cuộc Khải huyền theo Do thái và Kitô giáo, khởi nguyên tương ứng với tận cùng. Thành thử toàn văn này đưa chúng ta về lại bóng tối và cảnh hỗn mang đã từng thống trị trước khi sáng tạo, cảnh hỗn mang mà lần này sẽ đi trước cuộc sáng tạo mới (x. Kh 21,1).
Ngoài ra, cảnh tượng cũng được đặt trong tương quan nơi sự khốn quẫn tột cùng của các tín hữu, sự khốn quẫn đã được diễn từ nói đến trong phần trước. Về vấn đề này, xem ra đọạn văn vừa nói “đúng” vừa nói “không”. “Đúng” cho câu
nói “Thời gian khốn quẫn đó phải chăng có nghĩa là Cùng tận gần kề?”. Nhưng những ai cứ hỏi: ngày mà chúng tôi chịu cảnh khốn quẫn đó, chúng tôi có thể ngóng đợi Tận cùng lập tức không?” thì sẽ được trả lời là “Không, còn lâu nữa”. Có lẽ tiếng “đúng” và tiếng “không” này ngỏ cho Giáo Hội sơ khai vốn đã cảm thấy sự khốn quẫn và đã tự hỏi bao giờ Chúa lại đến. Cũng có thể là Mc đã phối hợp nỗi khốn quẫn này với các biến cố liên hệ đến việc phá hủy Giêrusalem năm 70. Các nhận xét này gây nên nhiều vấn đề quan trọng. Phải nghĩ thế nào về tương quan giữa giáo huấn của Thầy và cách thức Giáo Hội sơ khởi giải thích giáo huấn dù bản văn đây còn có giá trị đối với chúng ta không? Chúng ta sẽ trở lại với những vấn nạn này khi bàn đến các câu 30-31
2. Con Người (c.26)
Trên bối cảnh một vũ trụ rung chuyển như thế, nổi lên khuôn mặt Con Người, được mô tả với những hạn từ Đn 7.13tt. Những đám “mây” không chỉ một phương tiện di chuyển cho bằng chỉ sự hiện diện thần linh giữa loài người, như Kinh Thánh vẫn thường biểu thị (ví dụ Xh 13,21 ; 19,9; 2Sk 5, 13; 17,5): Khi Chúa Giê-su tỏ hiện sức mạnh và vinh quang của Người thì tất cả thế gian sẽ trông thấy. Việc Người đến một cách hiển nhiên tương phản với nhúng tiếng đồn sai lạc được nói ở 13,22 (x. Mt 24,27tt).
Hình ảnh Con Người, với các hình ảnh đi theo vay mượn từ Đn và nhiều đoạn khác của Cựu ước, xem ra gói ghém hai dữ kiện nền tảng đối với Kitô học. Trước tiên, khi những đường nét của các trình thuật trước về Ngày Giavê được áp dụng để mô tả việc Con Người đến, thì điều đó những muốn nói rằng Thiên Chúa chẳng còn hiện diện trong bức tranh về Cùng tận, nhưng đúng hơn có nghĩa là việc Chúa Kitô đến nói lên chính sự can thiệp của Thiên Chúa trong Ngày Giavê. Chính Vương Quốc Thiên Chúa xuất hiện, quyền lực Thiên Chúa tỏ ra và công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện bởi Con Người. Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật.
Mặt khác trong Đn 7, Con Người tượng trưng cho dân thánh. Trái lại, theo Chúa Giêsu giải thích, thì Con người đúng là một cá nhân (chính Chúa Giêsu). Nhưng Người thí mạng sống làm giá chuộc nhiều kẻ (Mt 10,45) và tự đồng hóa với những kẻ bé mọn nhất trong anh em Người (Mt 25,40.45). Thành ra quan niệm này về Con Người phù hợp với các kiểu diễn tả của Gio-an “hãy ở lại trong Ta như Ta trong các ngươi” (Ga 15,4) và “Con trong chúng” (Ga 17,23) cũng như với thành ngữ của Phaolô “trong Chúa Ki-tô”. Vị Thiên Chúa mà không gì dưới trần gian có thể chống lại được, sẽ chẳng phải là một Thiên Chúa trừu tượng, một Thiên Chúa tự tại, nhưng là Đấng hưởng về chúng ta như Ngài đã tự mặc khải trong Con người, Chúa Giêsu Nadarét” (E.Schweiser “Trong Người”, cây cầu đã được bắc qua vực thẳm phân cách nhân loại với Thiên Chúa. Người xuất hiện như là nhân vật chính của cảnh này.
3. Thâu họp những kẻ được chọn (c.27)
Theo ý kiến chúng tôi, chính để tôn trọng chiều hướng và mục đích của diễn từ cánh chung mà Mátcô ở đây không nói đến việc hủy diệt sự ác và cuộc phán xét thế gian, mặc dầu những đoạn Cựu ước được dùng trong cc.24-25 để mô tả cảnh Quang lâm đều nói đến cuộc phán xét của Thiên Chúa. Giọng điệu đầy khuyến khích và an ủi đặc trưng giáo huấn này cũng cho thấy việc thâu họp những kẻ được chọn như là chính mục đích của cuộc Quang lâm.
Trong Cựu ước, chính Thiên Chúa thâu họp họ (Đnl 30,3t; Dcr 2,10; Is 27,12; 43,5tt) và điều khiển các thiên thần Tv 18, 11 ; 104,4; đến 7, 10). Nhưng trong khi theo sự mong chờ của người Do thái, Thiên Chúa sẽ thu họp tại thánh địa mọi người Do thái tha hương, thì ở đây chính các Ki-tô hữu phần tử của Israel mới, thấy mình được thu họp từ muôn nơi để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Và chính Chúa của họ là Con Người, hoàn thành điều đã hứa với họ: “Ta sẽ đến lại mà đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi cũng ở đó (Ga 14,3).
4. Một ngôn ngữ bóng bẩy
Chúng ta đã bảo rằng khi đọc một bản văn như đây, Kitô hữu ngày nay cảm thấy rất lúng lúng. Các tinh tú sẽ rơi rụng thế nào? Con người có thực sự đến với chúng ta trên mây chăng? Phải chăng người sẽ quy tụ các tín hữu từ khắp nơi và từ mọi thời đại?
Tưởng nên nhắc lại rằng vào thời Tân ước, các chủ đề và bản văn Cựu ước, thuộc loại mà đoạn văn của chúng ta trích dẫn, không được giải thích theo bản nghĩa cho bằng theo nghĩa “thần học” và thiêng liêng của chúng. Vì vậy rất có thể là Mátcô và các độc giả đầu tiên của ông đã không hiểu các chi tiết này theo mặt chữ. Thành ra vấn đề thực sự là chọc thủng ý nghĩa biểu tượng của những hình ảnh đó. nhưng chúng ta đừng hy vọng phá ra những ý nghĩa hoàn toàn dứt khoát và rõ ràng; trái lại ta thì có, vì đây là một lãnh vực thuộc trực giác hơn là thuộc ý niệm.
Với tính cách chỉ dẫn, chúng ta đã cố gắng diễn tả trên kia những biến động của vũ trụ trong ngôn ngữ của việc mặc khải Vương Quốc Thiên Chúa và tận sáng tạo: Quang lâm là biểu lộ quyền lực và vinh quang thần linh của Chúa Kitô cho loài người và là sự tháp nhập trong Người” nhũng ai được cứu; việc thâu họp các kẻ được chọn là sự hiệp thông tràn đầy là vĩnh cứu với Thiên Chúa “trong Chúa Ki-tô”.
II. KHI NÀO? (13,28-32)
Trong câu hỏi của bốn môn đồ dẫn nhập cho diễn từ này: “Xin nói cho chúng tôi biết bao giờ điều ấy sẽ xảy ra và sẽ là điềm báo tất cả các điều ấy sắp hoàn tất”. (c.4), tiếng “tất cả các điều ấy” trước tiên chỉ ngày tàn của Đền thờ là Chúa Giêsu đã loan báo (c.2), nhưng cũng quy về Thế mạt là cuộc Quang lâm, như chính nội dung của diễn từ và âm vang của Đn 12,65 trong câu hỏi biểu lộ. Trong kết cấu của Mátcô rõ ràng là cc.28-32 tương ứng với câu hỏi đầu tiên ấy. Nhưng chúng ta chỉ nên chú ý đến cách chọn lựa các từ ngữ, đặc biệt nơi c.30 (“cho đến khi mọi điều ấy xảy tới”).
Chúng ta sẽ khảo sát một cách riêng rẽ dụ ngôn cây vả (cc 28-29) và ba lời tuyên phán tiếp theo sau (cc.30.31.32). Tuy nhiên, hãy lưu ý kỹ sự liên kết trong toàn bộ nhỏ bé này. Câu 30 được nối kết với c.29 bằng thành ngữ “điều ấy xảy đến” là tiếng được dùng trong cả hai câu. Cũng vậy, c.31 lấy lại hai lần động từ “qua đi” của c.30. Cái kiểu lặp lại những hạn từ như thế cho thấy nội dung của các câu đó không phải là không tưởng quan với nhau. Thành thử không nên gán nhiều ý nghĩa quá khác nhau cho tiếng “tất cả điều đó” của c.30 là “điều đó, của c.29 (x. câu 4).
1. Dụ ngôn cây vả (cc.28-29)
Việc lựa chọn hình ảnh dùng trong dụ ngôn nhỏ bé này không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ngay từ Cựu ước, các hình ảnh mùa hè và mùa gặt đã được liên kết với lời loan báo sự tận cùng, sự giải thoát chung cục và sự phán xét (vd Ge 4,17;
Am 8,1; Is 28,4; Gr 8,20). Cái xảy đến nơi cây vả từ mùa xuân được so sánh vai những dấu chỉ liệt kê trong phần dầu của diễn từ. Khi các tín hữu thấy xuất hiện những ngôn sứ giả, nạn đói sự ghê tởm hoang tàn v.v… thì họ phải biết rằng Tận cùng gần bên.
Câu 29 không nói là biến cố nhưng là Con người đang ở bên. Thật vậy, bản văn phải được dịch sát chữ như thế này “Hãy biết rằng Người đã kề bên cửa”. Hình ảnh Chúa đứng bên cửa như thế cũng gặp lại trong Ge 5,9 và Kh 3,20, chỗ bàn về cuộc Quang lâm.
Như đã nói, có thể tin rằng bản văn chúng ta đã được chính thánh sử biên soạn. Thành thử chính ông giải thích ở ở đây truyền thống ông đã nhận lãnh, chính ông liên kết định mệnh của Giêrusalem (cc. 1 .2. 14tt) với Tận cùng, chính ông đặt trên miệng các sứ đồ câu hỏi “khi nào” và trên miệng Chúa Giêsu lời giải đáp. Nhưng để làm thế, ông đã sử dụng các chất liệu do truyền thống cung cấp cho. Ông đã muốn nói với các Kitô hữu thời ông rằng: hãy phòng bị, vì ngay từ bây giờ chúng ta đã cảm nhận được các dấu chỉ cho thấy Chúa đang kề bên”. Do đấy, chúng ta đương nhiên phải tự hỏi mình một lần nữa: Vậy đâu là tương quan giữa Thầy và thánh sử? Chúa Giêsu đã muốn nói gì? Chúng ta sẽ trở lại những vấn đề này xa hơn.
2. Ba lời tuyên phán về vấn đề “Khi nào” (cc.30-32)
a) Lời tuyên phán về “thế hệ này” (c.30). Câu này đã gây nên nhiều cuộc tranh luận gây cấn và phức tạp giữa các nhà chú giải. Người ta đã bàn cãi về nguồn gốc của nó: Nó phát xuất từ thánh sử, từ cộng đoàn sơ khai hay từ Chúa Giêsu? Nếu là từ Chúa Giêsu thì đâu là bối cảnh nguyên thủy của nó? Theo ý kiến chúng tôi, chính thánh sử đã soạn thảo câu này trong hoàn cảnh ông đang trước tác, nhưng bằng cách dùng nhiều truyền thống mà nguồn gốc lên đến Chúa Giêsu (x Mc 9, 1; Mt 23,36).
Tuy nhiên, người ta đã đặc biệt tranh luận về nội dung của câu nói. Tiếng “tất cả điều ấy” có nghĩa là gì? và chữ “thế hệ này” phải giải thích ra sao? chúng tôi thấy hình như phải chấp nhận rằng tiếng “‘tất cả điều ấy”: chỉ sự kiện Đền thờ bị phá hủy và những tai họa sẽ đi trước đó, cũng như chỉ cùng tận, nếu người ta lưu ý đến câu dẫn nhập của diễn từ (cc.2-4) và chính diễn từ. Thánh sử công bố: trong “thế hệ này”, tất cả điều ấy sẽ xảy ra.
Một vài nhà chú giải đã bênh vực ý kiến cho rằng từ ngữ “thế hệ này” chỉ mang một ý nghĩa thuần túy định hình (“thế hệ xấu xa và bất trung”: Mt 12,38.45; 17,17; Mc 8,38; Lc 9,41 ; Cv.2,40; Pl 2, 15). Nhưng nếu “thế hệ này” hàm chứa một nghĩa xấu xét như vì gồm những người Do thái không tin vào Chúa Kitô hay vào sứ điệp của Người, thì xem ra ở đây cần phải cho nó một ý nghĩa thời gian hơn: chính là thế hệ đương thời với thánh sử.
Khi đọc chương Mc đây, các Kitô hữu của Giáo Hội sơ khai có thể cảm thấy mình đương thời với “thế hệ này” và như thế cảm thấy được kiên vững trong sự chờ mong Chúa đến. Nhưng cùng lúc, bản văn dừng lại ở hạn từ khá mơ hồ “thế hệ”, một ý niệm được liên kết với Do thái giáo mà người ta nghĩ là bị phán xét trong việc Đền thờ bị phá hủy. Như thế, câu 30 vừa cổ vũ nỗi mong chờ cánh chung, nhưng đồng thời cũng kiềm giữ nỗi mong chờ đó, vì ngăn cấm mọi toan tính xác định rõ rệt ngày giờ Cùng tận. Chúng ta sẽ gặp lại cùng nhị tính này nơi câu 32.
b) Sự chắc chắn của những lời Chúa Giêsu (c.31). Để nhấn mạnh tầm quan trọng của toàn thể bản văn, thánh sử chèn vào đây một lời tuyên phán lấy lại từ truyền thống, theo đó Chúa Giêsu mặc cho những lời nói của Ngài cùng một uy tín như uy tín mà Cựu ước đã mặc cho các lời của Giavê (Is 40,8; 51,6; Gr 33,25t; x. Kh 22,6; Mt 5,18).
Thiên Chúa đã dùng lời Ngài để tạo dựng trời đất, nghĩa là toàn thể vũ trụ (St 1; Tv 33,6; Ga 1,3…) và nhờ chính lời đó mà mang và nâng đỡ vũ trụ. Đối với các tác giả Thánh Kinh, trong thế gian này không có gì vững chắc hơn các nền móng của trái đất (Tv 93,1; 104,5). Nếu có một vài kẻ trong số họ tiên báo sự rung chuyển và tan biến của chúng (Tv 102,27; Is 24, l8tt), thì họ cũng xác quyết rằng lời Thiên Chúa luôn vững bền qua tất cả. Cũng vậy, bản văn chúng ta loan báo sự tan biến của vũ trụ (cc.24-25) nhưng các lời của Chúa tỏ ra càng vững bền hơn (c.31); vì chúng đặt nền tảng trên uy quyền không hề lay chuyển của Thiên Chúa.
Qua sự xếp đặt bản văn của ông, thánh sử nhấn mạnh rằng sự chắc chắn ấy gắn chặt với giáo huấn của Chúa Giêsu về Cùng tận, với lời Người tuyên bố Cùng tận này gần bên (c 30) và với lời tuyên phán của c.32, lời bảo rằng chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ chính xác của Cùng tận.
c) “Chẳng ai biết được… trừ phi là Cha” (c.32). Trong kết cấu của Mátcô, câu này đóng một vai trò rõ rệt. Vì một trong những vấn đề mà diễn từ chúng ta khơi lên là câu hỏi “khi nào”. Khi nào Cùng tận sẽ đến? Khi nào sự giải thoát sẽ hiện ra? Bao giờ Chúa sẽ trở lại Những ai muốn tìm biết chính xác hơn giờ giấc của những chuyện này thì sẽ không được thỏa mãn, vì ở đây từ chối mọi xác định về vấn đề đó. Mách bảo với họ: chính Chúa Giê-su cũng không biết cả ngày lẫn giờ, thế mà anh em lại muốn tính toán trước sao.
Cần lưu ý một vài chi tiết trong câu này. các thành ngữ “giờ” và “ngày ấy” song song với nhau, nghĩa là ước chừng có cùng một ý nghĩa (x. Mt 24, 50 ; 25, 13). “Ngày ấy” là tiếng chuyển vị của hạn từ “Ngày Giavê” (vd Dcr 14,6; Is 2,1 1-17), mà nay trở nên “Ngày của Con Người” (x . 2Tx 1 , 10). Giờ giấc của Ngày này, các thiên thần cũng không biết. Chắc hẳn người ta vẫn công nhận rằng các vị này làm nên hội đồng của Đấng Tối Cao, và như danh nghĩa đó mà được hưởng một nhận thức đặc biệt về các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng Do thái giáo và các tác giả Kitô giáo đương thời nghĩ rằng dẫu sao Thiên Chúa cũng dành riêng cho Ngài một vài bí mật quan trọng (x. Ep 3,10; 1Pr 1,12). Theo bản văn chúng la, ngày giờ của Cùng tận thuộc về loại bí ẩn đó.
Tuy nhiên câu 32 này đã tỏ ra là một crux intèrpretum thật sự, vì nó bảo Con của Thiên Chúa cũng không hay biết ngày giờ Cùng tận: ngày giờ này vẫn là bí mật của Chúa Cha. Mâu thuẫn xem ra hiển nhiên giữa bản văn chúng ta với Mt 11,27 trong đó Chúa Giêsu xác quyết rằng: “Mọi sự đều đã được Cha Ta trao phó cho Ta… không ai biết được Cha trừ phi có Con”. Vậy thì Cha đã không trao phó cho Người tất cả sao? người ta thường giải quyết khó khăn Kitô học này cách như sau: Mt 11 nói đến sứ mệnh mặc khải của Chúa Giêsu nhằm cứu độ thế gian: trong mục đích này, Người đã nhận nơi Thiên Chúa trọn vẹn uy quyền và toàn thể mặc khải cần thiết. “Nhưng Người đã có thể vô tri một vài điểm trong chương trình hậu lai của Thiên Chúa, như Người quả quyết ở đây một cách rõ rệt” (P. Benoi). Sự vô tận này phải dược hiểu trong bối cảnh Nhập thể, mầu nhiệm mà vì đó Chúa Giêsu đã khước từ nhiều đặc quyền thần linh của Người (x. 2Cr 8, 9 ; Pl 2, 6tt) hầu chia sẻ phận con người một cách sâu xa hơn.
3. Giáo huấn của Chúa Giêsu hay của thánh sử?
Chúng ta đã hơn một lần phân biệt truyền thống của Chúa Giêsu và bản soạn thảo mới của thánh sử. Tựu trung chúng ta nên tự hỏi: đâu là tương quan giữa giáo huấn Chúa Giêsu và lời giải thích của thánh sử phải chăng thánh sử đã bóp méo sứ điệp của Chúa Giêsu?
Trước tiên hãy lưu ý rằng các nhà chú giải thường gặp rất nhiều khó khăn khi muốn xác quyết chắc chắn về lịch sử tính của những lời Chúa Giêsu nói: các chất liệu, trong hình thức thấu đến chúng ta, không cho phép đưa ra nhiều các quyết vững chãi.
Như đã nói, theo thiển ý chúng tôi, diễn từ cánh chung đặt nền tảng trên một giáo huấn của Chúa Giêsu mà các học giả của Giáo Hội sơ khai và Mátcô đã giải thích, sửa chữa cùng thích ứng với các nhu cầu của Giáo Hội (Nhưng nhiều nhà chú giải, trong đó có cả công giáo, nghĩ rằng phần lớn diễn từ không hề phát xuất từ Chúa Giêsu). Nền tảng này của diễn từ, bắt nguồn từ Chúa Giêsu, gồm có nhiều lời tiên tri về các mối ưu phiền và bách hại, về chuyện phạm thánh cũng như về Quang lâm. Giáo huấn này mỗi lần cũng bao gồm nhiều lời cảnh giác và khuyến khích nhằm chuẩn bị tín hữu đối đầu với những nguy hiểm sẽ đe dọa họ trong trận chiến cuối cùng và để củng cố họ cho cái lúc nhà các mãnh lực Satan tấn công Vương Quốc Thiên Chúa một cách dữ đội hơn bao giờ hết.
Thành ra cái “nền tảng” này đã được các học giả của Giáo Hội, và nhất là Mátcô sửa đổi (chúng tôi nghĩ rằng Phao- lô cũng đã dùng các truyền thống này trong 1Tx 4,13-5,4 và 2Tx 2,1-17). Chúng ta có thể quan niệm các lối tái giải thích và thích ứng truyền thống này như sau. Trong Giáo Hội sơ khai, người ta đã tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đấng Mặc khải thần linh và chung quyết, đến nỗi giáo huấn của Người và những truyền thống của Người đầy sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà một số người, được ban Thần khí khôn ngoan, cũng có thể tìm ra trong đó nhiều ý nghĩa mới áp dụng được cho nhiều vấn đề hiệu tại.
Chúng tôi thấy một lối giải thích như thế đã hướng dẫn bản văn chúng ta đến chỗ phối hợp hai yếu tố: sự hủy diệt của Đền thờ Giêrusalem và cánh chung. Chắc chắn Chúa Giêsu đã tiên báo sự hủy diệt này, và đã giải thích nó như là một sự phán xét của Thiên Chúa. Nhưng dường như việc phối hợp minh nhiên với cánh chung là công trình của thánh sử (hay có thể là của một truyền thống từ trước). Ông đã muốn áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu cho những người đương thời để khuyến cáo và chuẩn bị họ theo cách của Chúa Giêsu. Ông đã thấy hai mối nguy hiểm. Thật vậy, một đàng ông xem ra ngỏ lời với những hạng người, vì nản lòng mong đợi, không còn sống trong viễn cảnh cánh chung nữa và có lẽ quá chìu theo thế gian. Đàng khác, ông chống đối những kẻ xem ra tưởng rằng Cùng tận-đã đến. Đối với hạng thứ nhất, ông bảo: “Hãy tỉnh thức, hãy coi chừng! Vì các biến cố và các thái độ đương thời cho thấy là các biến chuyển cánh chung đang xảy tới”. Nhưng ông cũng bảo hạng người thứ hai: “Chưa đến Cùng tận đâu Chính Chúa Con cũng không biết ngày giờ của nó”.
Thành thử ta dám bảo rằng bài Tin Mừng của chúng ta minh họa rất đúng cách thức mà Mc đã dùng để giải thích giáo huấn của Chúa Giêsu “theo hoàn cảnh của các Giáo Hội”
(Vat. II, Verbum Dei, số 19).
4. Phải chăng Mc đã lầm lẫn
Trên đây chúng ta đã giả thiết là thánh sử đã đưa về cùng tận nhiều thái độ và nhiều biến cố đương thời. Thế mà Giêrusalem đã bị chiếm năm 70 và trong thực tế, cùng tận vẫn chưa xảy đến? Vậy phải chăng nên bản rằng Mc đã thực sự lầm lẫn? hình như là thế, vì qua lời giải thích và lối trình bày của ông, ông đã xác quyết là Cùng tận của thế gian đã gần kề rồi.
Tuy nhiên sự việc không đơn giản như mới thoạt nhìn đâu, chúng ta đã nhận xét rằng chương này dùng một ngôn ngữ bóng bẩy mà ý nghĩa thường ít chính xác. Vì thế Mc 13. Cũng như nhiều bản văn Khải huyền khác củal thời Tân ước có thể mặc nhiều ý nghĩa.
Ngôn ngữ biểu tượng này lưu ý đến tính chất của một thời đại hơn là sự kéo đài của thời đại đó. Mátcô đã muốn đặc trưng thời ông sống như là thời cánh chung: Đền thờ Giêrusalem bị phá hủy là một dấu chỉ, các cuộc bách hại là một dấu chỉ khác của thời này. Vào thời đó, ông nghĩ là nên khuyến khích các cá nhân: “Anh em đang sống ở biên giới của vĩnh cửu. Đừng quên điều này, mặc dầu đang bị áp bức hay bị cám dỗ đồng hóa với thế gian. Hãy biết rằng anh em chẳng có an ninh ở trần thế và cũng chẳng chắc chắn được về ngày giờ mà anh em sẽ đối chất dứt khoát với vĩuh cửu”. Những lời khuyến khích này, vốn ngỏ cho Ki-tô hữu xưa, vẫn luôn thích thời trong Giáo Hội.
Nhưng sứ điệp của bài Tin Mừng chúng ta không chỉ liên hệ tới cánh chung cá nhân đâu; nó cũng nhắm đến các đặc tính chung của lịch sử nhân loại. Có thể nói lịch sử này luôn mở ra vĩnh cửu, mở ra Thiên Chúa, Chúa của lịch sử. Thiên Chúa hằng lưu tâm đến nó. Tuy nhiên, lịch sử không phải là vĩnh cửu, và so sánh với cùng đích của nó, nó chỉ mang một tầm quan trọng tương đối thôi. Ngày mà nó đạt tới chung cuộc, đích điểm của nó, lịch sử này sẽ gặp gỡ cách dứt khoát con người, Đấng hiện đã sống trong nó.
Lars Hartman, Assemblées du Seigneur 64, tr.47~57.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Kitô đã không bóp méo những vấn đề đích thực. Người biết rằng các nỗi bận tâm nhân loại về định mệnh riêng của chúng ta cũng như định mệnh của thế giới, trước hết và trên hết nhắm vào chuyện (khi nào?” và “ra sao?”. Người không khinh bỉ các câu hỏi này, nhưng kêu mời chúng ta hãy chú tâm vào điển cốt yếu. Khi đề cập đến cái chết cá nhân, Người sẽ nói ở chỗ khác: “đối với kẻ sẵn sàng, thì đó luôn luôn là giây phút thuận tiện”. Cái chết, xét như biến cố. Được kẻ này người nọ sống cách khác nhau, những “người tôi tớ tốt lành, trung thực và khôn ngoan không sợ sự trở về của Chủ…”
2. Khi nói về tận cùng của thế giới vũ trụ, Chúa Ki-tô đề cập đến vấn đề trong tất cả chiều sâu của nó? Đâu là ý nghĩa của tất cả những cái chúng ta làm? Những cái này dẫn chúng ta tới đâu? Đâu là mục đích, cứu cánh của thế giới “Cùng đích” của thế giới là việc quy tụ tất cả nhân loại làm một. Trong mức độ có tình yêu giữa mọi người, thì nỗi sợ hãi bị xua đuổi, và đó luôn luôn là giây phút tận thế!
3. Chúng ta đang ở trong cái “đã” và “chưa”. Chúa Ki-tô đã đến quy tụ mọi người. Giáo Hội là dấu chỉ của sự tập hợp đó Vương Quốc đang xây dựng. Người sẽ trở lại để đưa công cuộc đã khởi sự đến chỗ hoàn tất. Người đã ban cho chúng ta sự sống và, như sự sống lại của Người, ban cho chúng ta, trong hy vọng, một sự sống triển nở hoàn toàn mà trong đó mọi giới hạn sau cùng sẽ bị hủy bỏ.
4. Người đã quy tụ nhân loại. Người để cho chúng ta thoáng thấy cuộc tập họp vĩ đại mà trong đó sự duy nhất, rất khó xây dựng, sau cùng sẽ được thực hiện hoàn toàn. Khi chúng ta yêu trong sự thật, thì vương Quốc đã phần nào có đó “Nó” đang ở gần ý nghĩa sau cùng của cuộc đời tôi, ý nghĩa cuối cùng của vũ trụ, nằm trong niềm tin vào Chúa Kitô Người nói chỗ khác: “Ta là sự thật và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ Sống”. Ở đây người nhấn mạnh: “Tất cả sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói sẽ chẳng qua đi”.
5. Chúng ta có chấp nhận tin tưởng vào Người không Chúng ta có chấp nhận theo Người cho đến cùng, nghĩa là đến chỗ tự hiến hoàn toàn và cách quảng đại không? Đoạn Tin Mừng này, ngỏ cho các môn đồ, không xa đoạn nói về việc bắt giết Chúa Giêsu mấy. Nó có mục đích khơi lại đức tin các ông nhưng cũng là để chất vấn các ông.
6. Và nó cũng chất vấn chúng ta hôm nay nữa. Nhìn các dấu chỉ thời đại, không phải là nhận ra trong vũ trụ, trong lịch sử loài người các lời kêu gọi hướng về vĩnh cửu ư. Người ta có thể nhìn các tai họa và đọc chúng như là những lời tiên báo một thế giới có thể bị hủy diệt. Nhưng đó chẳng phải là một tôn giáo của sợ hãi ư? Tại sao không nhìn chúng như là cái chết cần thiết để đưa vào một sự sống viên mãn?

44. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
CON NGƯỜI SẼ ĐẾN (13,24-37)
“Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn…” (c.24a), những chữ này đánh dấu sự liên tục cũng như đứt đoạn với những điều đã nói trước đó. Từ trước tới đây, diễn từ của Chúa Giêsu chỉ chú tâm nhiều nhất đến các dấu chỉ phải xảy tới “trước khi” tận thế. Ngài lưu ý đến “Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại” sẽ đến. Và nếu muốn, ta có thể gọi nó là “phản Kitô” (13,14-24). Bây giờ vấn đề là: điều gì sẽ xảy ra “sau” các biến cố đó? Từ ngữ “bấy giờ”, dù mơ hồ, vẫn chỉ về những ngày giờ cuối hết: thời giờ đã hết rồi. Ta cũng không ngỡ ngàng khi thấy thời ấy khởi đầu bằng một loại tai họa (c. 24b-25). Đó chính là một cuộc đảo lộn mang tính vũ trụ. Mặt trăng và mặt trời tắt lụi đi. Tinh tú quay cuồng rối loạn. Nhưng độc giả ngày nay phải đặt mình vào tâm trạng người Do Thái sống ở thế kỷ 1 mới hiểu thấu đáo được các điều ấy.
Vào thời đó, trong các vững bền đề cập đến tận thế, sự hỗn loạn như thế trong thiên nhiên không có gì đáng ngạc nhiên cả. Đấy là thứ ngôn ngữ truyền thống thường dùng để loan báo rằng Con Thiên Chúa sẽ can thiệp, Ngài sẽ chiến thắng các thế lực sự dữ (x. Is 13,10; 34,4). Thực vậy, chớ quên rằng đối với các dân tộc cổ đại Đông phương (trừ dân Israel) thì tinh tú là các vị thần chủ chốt của vũ trụ. Do đó nếu cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng tắt lụi đi, các tinh tú bị sa xuống có nghĩa là xác nhận sự chiến thắng của Thiên Chúa độc tôn đối với các ngẫu thần ngoại giáo. Thế giới cũ kỹ phải biến đi hầu nhường chỗ cho thế giới mới. Tin Mừng loan báo việc “Con Người” đến trong vinh quang, sau khi thế giới tội lỗi đã bị triệt hạ. Hình ảnh này được lấy từ sách tiên tri Daniel, ở đó ta thấy hình ảnh bí ẩn của “Con Người” –một người-vinh quang tiến gần Thiên Chúa (Đnl 7,13-14). Đặc tính huyền nhiệm của vị này khiến ta phải nghĩ đến lối nhìn theo sách khải huyền. “Con Người” được mây trời che phủ và xuất hiện trong khung cảnh thiên giới. Thiên Chúa đã ban cho Ngài một uy quyền tối thượng hầu đánh bại hoàn toàn các thế lực gian tà. Ở bước ngoặt thời đại chúng ta, hình ảnh con người được phác họa thành Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã giao phó nhiệm vụ phải thiết lập Vương Quốc của Ngài trên thế gian này. Ta thấy rằng Chúa Giêsu đã tự nhận tước hiệu này hơn mọi tước hiệu khác (2, 10.28; 8,31; 9,31; 10,33,45). Ở đây Ngài công bố việc Ngài sẽ đến trong khải hoàn để xét xử và cứu chuộc vào thời cuối cùng. Trong thực tế, hành động cứu độ của Ngài được vạch ra tức khắc (c. 27). Sự cứu chuộc thường được coi là sự quy tụ các tín hữu trên toàn trên toàn thế giới quanh Đấng Mêsia quang vinh. Đó chính là sự thực hiện cách triệt để lời đã hứa với dân Israel trong Cựu ước, sau khi họ bị phân tán đi khắp nơi (x, Dt 30,3-5; Dcr 2,10-17).
Lời công bố Con Người sẽ đến trong khải hoàn để cứu chuộc vũ trụ chính là một nốt nhạc chủ đạo của bài ca bắt đầu từ câu 5 chương 13. Cho dù các tín hữu có chịu thử thách nặng nề tới đâu chăng nữa – kể cả bị đem ra trước Tòa án Tối cao (14-20) – thì tất cả những điều tệ hại đó đều phải quy hướng hoàn toàn về mục đích hạnh phúc này là: Chúa Kitô sẽ đến trong vinh quang để cứu độ loài người. Nhưng “khi nào” thì việc đó xảy ra? Câu hỏi này vẫn hằng ám ảnh mọi người. Và đây là lần đầu tiên các bài diễn từ Chúa mới trả lời họ (c. 28-37).
Dụ ngôn ngắn gọn về cây vả nói lên nhiều điều (c. 28). Cây vả này ra trái trễ (11,13). Nhưng không ai có thể lầm nó cả, chồi lá xuất hiện là dấu chỉ chắc chắn rằng mùa hè đã đến gần. Mùa hè là mùa nóng bức và là mùa hoa trái. Dụ ngôn này như thế là quá rõ ràng: thời gian tiếp tục trôi đi, tiến về phía chung cuộc. Nhưng thật khó mà áp dụng (c. 29). Những chữ “những điều đó” rất mơ hồ. Trong tiếng Hy Lạp, chúng ở hình thức số nhiều. Có thể nó thay cho “những biến cố” vừa kể đến trên đây. Hoặc là về sự phá hủy đền thờ? Hoặc những đảo lộn khác nhau mà cốt đinh là sự bắt bớ khốc liệt? (c. 14-23). Tất cả những biến cố đó đều có thể so sánh được với sự đâm chồi của cây và trong mùa xuân. Dưới vẻ lộn xộn bề ngoài, chúng hẳn loan báo một thời kỳ mới.
Một lần nữa, ta thấy văn bản Phúc Âm này gạt bỏ lối chú giải “về các tai họa” dành cho Tin Mừng loan báo. Con Người đang đến, sự cứu độ của Ngài đã “gần kề, trong tầm tay”. Ngay đến Chúa Giêsu cũng trịnh trọng xác nhận điều này (c. 30). Sự gần kề của ơn cứu độ còn được quả quyết chính xác hơn: sẽ xảy ra ngay trong “thế hệ này” đã qua rồi mà vẫn chưa có gì xảy đến. Người ta cũng đã thấy có một lần khác (x. 9,1). Chúa Giêsu nói như thể là thời buổi tận cùng sắp xảy đến tới nơi rồi. Có lẽ Chúa Giêsu nói thêm công thức khái quát này để xua tan sự mong chờ đó (c. 31).
Ý niệm về trời đất phải qua đi là một ý niệm chung cho mọi văn bản nói về “tận thế” (x. Kh 21,1). Nhưng niềm mong chờ một thế giới mới, Nước Chúa, được dựa trên lời Chúa Giêsu: ở đây Ngài đã nói nhân danh uy quyền của Thiên Chúa chí thánh (Is 40,8). Tuy có xác định thời điểm cận kề của việc kết thúc lịch sử nhưng Chúa Giêsu không bỏ quên thời điểm lúc bấy giờ (c. 32). Luca đã bỏ câu gây nhiều rắc rối này đi, còn Mathêu lại xóa đi. Chỉ riêng Maccô giữ lại. Nó nói rõ ràng không ai biết chính xác được ngày giờ tận thế. Ngay cả “Chúa Con” cũng không biết. Chính sự “bất tri” của “Con” làm các nhà thần học cũng phải lúng túng. Đó là xét về mặt nhân tính của Chúa Giêsu. Theo Maccô thì đó chính là lý lẽ hỗ trợ cho việc chấm dứt các tính toán vô bổ, các thắc mắc vô ích về “thời điểm tận thế”. Ngày giờ tận thế mãi mãi là một bí mật tuyệt đối của Chúa Cha, còn người phàm trần không thể biết trước được.
Đó chính là lý do Chúa Giêsu kêu gọi, phải tỉnh thức (c. 33). Không nên vì sự trễ nải mà bỏ qua việc này. Trái lại càng phải tỉnh táo hơn. Kiểu nói “coi chừng” trong tiếng Hy Lạp mang một ý nghĩa cụ thể hơn: “Hãy mở mắt ra” (13,5.9.23). Chính vì không có sự xác định chính xác thời điểm mà ta càng phải tỉnh thức hơn. Chúa Giêsu kể thêm một dụ ngôn ngắn để nói rõ hơn về việc tỉnh thức ấy (c. 34). Lối so sánh này của Maccô rất gần gũi với Luca (12,36-40). “Hãy bắt chước những tôi tớ đợi chờ chủ đi dự tiệc cưới về hầu ra mở cửa ngay khi nghe tiếng gõ cửa… bởi vì Con Người sẽ đến vào ngày giờ không ngờ”. Còn Tin Mừng Maccô thì lại nói ông chủ trẩy đi xa (chắc là đi ra nước ngoài). Người ta hiểu trước rằng ông sẽ vắng mặt lâu dài. Nhưng không nên lơ là tỉnh thức. Bởi lẽ ông có thể trở về thình lình, không báo trước. Dụ ngôn vừa mới được kể sơ sơ, lại bị ngắt quãng một lúc để nhắn nhủ độc giả (c. 35-36). Phải tỉnh thức luôn, bởi vì ông chủ sẽ trở về vào lúc không ngờ đến. Maccô nhắc đến bốn thời điểm: chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, tảng sáng. Như thế đêm đó người ta chẳng chợp mắt được tí nào. Người ta phải thức trắng đêm không phải để chờ đợi một biến cố đơn giản, mà chờ đợi một Đấng nào đó, kể từ 13,24-25, Đấng ấy ám chỉ cho chính Chúa Giêsu, Ngài là Con Người chắc chắn sẽ quang lâm.
Thánh sử kết luận bằng cách trích dẫn lời khuyến dụ của Chúa Giêsu “Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là phải canh thức!” (c. 37). Diễn từ trước đó là dành riêng cho các môn đệ (13,3-4), Ngài muốn thông tri cho một ít người thôi. Đó là cách thức hoàn toàn mang tính “cánh chung”, được mã hóa và cố tình sử dụng kiểu nói bí ẩn. Chỉ những người bị bắt bớ mới hiểu được, còn kẻ ra tay áp bức thì không! Nhưng ở đây, lúc kết thúc, lời khẩn cấp kêu gọi phải tỉnh thức lại nói với “tất cả mọi người”, bởi vì nó liên quan đến nhiều thế hệ sau nữa.
Đã đến lúc phải kết thúc chương 13 của Maccô. Khi nhìn lại một lượt, ta sẽ thấy rõ hơn những điểm chính trong bài diễn từ của Chúa Giêsu. Trong thực tế, hầu như ta không thể nào không lẫn lộn giữa lời do Chúa Giêsu đã nói với những suy tư nảy sinh trong cộng đoàn Kitô hữu của Maccô. Câu hỏi đầu tiên của các môn đệ về sự phá hủy đền thờ: khi nào xảy ra chuyện đó? Câu trả lời vượt quá câu hỏi đó nhiều lắm. Tóm lại, người ta không còn xem Đền thờ là nơi quy tụ nữa. Nó sẽ bị sụp đổ cùng với thế giới. Mọi người phải hướng về Đấng cao trọng hơn Đền thờ, Ngài sẽ quy tụ nhân loại đã được cứu thoát khỏi sự Ác: Ngài là Chúa Kitô Quang Vinh Phục SInh.
Cách nhìn đầy hạnh phúc này không cho phép người ta loại đi được mối ám ảnh về ngày “tận thế”, là một đại họa cho vũ trụ, cho toàn thể thế giới. Bí nhiệm của sự dữ và những tai họa xấu xa do nó đem lại đã là một phần không thể tách khỏi lịch sử. Nếu đọc “các dấu chỉ thời đại” và xem chúng là những biến cố “tiên báo” cho ngày tận thế thì thật là vô bổ. Rất nhiều người đã phạm sai lầm này trong những lúc lịch sử khủng hoảng trầm trọng (sự hoảng sợ năm 1000 chẳng hạn). Và rất có thể nó lại sắp sửa xảy ra khi nhân loại đang tiến gần đến thiên niên kỷ thứ 3 này. Tuy nhiên ta thấy đó, việc Chúa Kitô quang lâm là hoàn toàn nằm trong bàn tay Thiên Chúa, chỉ phụ thuộc độc nhất vào quyền tự do của Ngài. Thiên Chúa là chủ tể tuyệt đối của lịch sử. Chỉ duy một mình Ngài biết được ngày giờ.
Toàn bộ diễn từ về ngày tận thế nói lên một cách dứt khoát bản chất lạc quan của nó. Dĩ nhiên có những thời lỳ sự Ác thắng thế. Nhưng nó không thể tạo mầm mống khai sinh ra một thế giới mới. Chỉ nhờ sự sống lại của Chúa Kitô và nhờ Thánh Thần ban cho, một mầm mống mãnh liệt sẽ khai sinh một vũ trụ mới. Ta cũng đừng quên rằng kiểu văn chương “cánh chung” bao giờ cũng kể về các tai họa u ám chồng chất để làm nổi bật lên ánh sáng cứu độ của Thiên Chúa. Ước gì độc giả đừng bối rối khi đọc thấy sự Ác lan tràn dữ dội. Mà nên nhớ rằng một sứ điệp tràn đầy hạnh phúc đang triển nở.

45. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Chú giải của Noel Quesson)
Chúng ta sắp kết thúc năm Phụng vụ. Từng Chúa nhật một ta đã đi theo Đức Giêsu, dựa theo Tin Mừng Thánh Máccô. Chúa đã nói qua dụ ngôn, đã chữa lành nhiều người bệnh, giải thoát những người bị quy ám, trả lời những kinh sư, huấn luyện các môn đệ. Chúng ta có thể có cảm thông biết rõ người. Nhưng chỉ hôm nay, Người mới mạc khải cho ta biết tất cả tầm vóc con người của Chúa. Chỉ còn vài ngày nữa là Người sẽ chết. Người ra khỏi Đền Thánh Giêrusalem, để không bao giờ trở lại đó nữa. Một trong các môn đệ của Người đã lưu ý Người về vẻ đẹp của tòa nhà này, “Thưa Thầy, xin Thầy nhìn xem, những phiến đá đẹp làm sao! Kiến trúc lộng lẫy biết bao” (Mc 13, 1). Để trả lời Chúa chỉ nói; Tất cả sẽ bị phá hủy sẽ không còn viên đá nào trên viên đá nào “. Lúc bấy giờ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi Người khi nào thì chuyện ấy sẽ xảy đến. Để trả lời câu hỏi đó, Đức Giêsu, đã công bố một diễn từ cuối cùng rất quan trọng thường gọi là diễn từ cánh chung” hay là diễn từ về thời gian cuối cùng”
Bài đọc hôm nay là phần giữa của diễn từ đó.
Trong những ngày ấy, sau một cơn khốn quẫn.
Phải đọc phần trước để hiểu chữ “tai họa”. Trước khi Đền Thánh bị phá hủy, Đức Giêsu đã tiên báo ba tai họa như những điềm báo trước.
1. Những ngôn sứ giả, những Mêsia giả sẽ phỉnh gạt nhiều người (Mc 13,5-6).
2. Những tai ương, chiến tranh động đất, đói kém (Mc 13,7-8).
3. Những cuộc bách hại chống lại các môn đệ của Đức Giêsu (Mc 13,9-13). Lúc bấy giờ sẽ xảy ra tai họa ghê gớm là sự tàn phá Đền Thánh, nỗi đau buồn kinh khủng (Mc 13,14) đã được các ngôn sứ báo trước (Đn 9,27). Theo lịch sử chúng ta biết rằng Đền Thánh đã bị tục hóa và phá hủy, bởi những đoàn quân ngoại đạo của Titus, vào năm 70. Chúng ta đừng quên rằng Máccô đã viết trình thuật này gần thời gian đó, lúc mà mọi sự đều có vẻ sụp đổ. Sự bách hại của Hoàng đế Nêron suýt làm tan biến Giáo Hội phôi thai: Vị giáo hoàng đầu tiên, tông đồ Phêrô đã bị đóng đinh đầu ngược xuống đất… Phao lô cũng bị chặt đầu… Các Kitô hữu ở Rôma đã bị thiêu sống trong vườn Vatican. Và cũng chính đế quốc La Mã phá hủy nơi linh thiêng Thiên Chúa luôn hiện diện, đó là Đền Thánh Giêrusalem. Sự lo âu của các tín hữu lên đến tột độ: Đức tin của chúng ta không phải là vô ích sao? Những lời hứa của Thiên Chúa phải chăng chỉ là một giấc mộng đẹp những không hiện thực? Có phải đó là nước Thiên Chúa không?
Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng các ngôi sao từ trời sa xuống và các tinh tứ bầu trời bị lay chuyển.
Đức Giêsu dùng kiểu nói “khải huyền” theo truyền thống, những hình ảnh phóng đại được khuôn đúc sắn, kiểu nói biểu tượng rất thông dụng trong Kinh thánh (Is 13,10 – 34,4; Ge 2,10 – 4,15; Ed 32,1- v.v…).
Trong những khải huyền của thời đó, những hình ảnh còn mạnh bạo hơn: “Mặt trời sẽ chiếu sáng ban đêm, mặt trăng chiếu sáng ban ngày, máu sẽ từ cây cối chảy ra và những hòn đá sẽ kêu la” (Esdras 5,4).
Ta không nên hiểu những miêu tả trên theo nghĩa vật chất, chúng chỉ muốn nói lên một thực trạng không thể tả được. Đó là sự trở về với tình trạng “hỗn mang” nguyên thủy: Sẽ có một sáng’ tạo mới, một khai sinh mới, một thế giới mới. “Thế giới cũ đã qua đi, và một thế giới mới đã được hình thành”. Thánh Phaolô đã nói thế (2 Cr 5, 17).
Quả thực, những hình ảnh trên rất ý nghĩa. Con người luôn có khuynh hướng “tự biến mình thành thượng đế”, và thích dùng những từ vĩ đại: “xây dựng thế giới”, “thống trị vũ trụ chinh phục không gian”… nhưng một ngày nào đó tất cả những gì chúng ta cho là vững chắc sẽ trở nên vô nghĩa. Trước những sự xáo trộn của vũ trụ hay các nền văn minh, chúng ta mới khám phá ra rằng chúng ta là những cá nhân nhỏ tí. Nên chúng ta ngước cao hơn chân trời trái đất chúng ta một chút, chúng ta sẽ trở lại đúng chiều kích của mình. Chúng ta là gì với mặt trời và các tinh tú? Với một vài câu nói, Đức Giêsu đã mở rộng chân trời của chúng ta. Có biết bao điều không tùy thuộc chúng ta, ở ngoài tầm tay chúng ta. Có hàng tỷ mặt trời trên kia, mà ở đó chúng ta đâu có chút quyền lực nào, đang nói cho ta biết sự nhỏ bé của mình. Chỉ có Chúa mới có thể lay chuyển vũ trụ tinh tú! Các bạn cứ thử xem!
Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến.
Chưa bao giờ, từ lúc Người sinh ra một cách nghèo nàn trong chuồng bò ở Bê lem cho đến hôm nay, Đức Giêsu đã nói về Người như thế. Bỗng nhiên, Người trở nên cao cả vĩ đại, vinh hiển, từ trên cõi trời! Người tự nói Người là thẩm phán ngày cánh chung, mà vai trò này chỉ dành cho Thiên Chúa. Rõ ràng là thế, Người sẽ lặp lại điều này trước Thượng Hội đồng, vài ngày nứa (Mc 14,62).
Cho đến đây, Người đã làm chúng ta quen dần với tước vị Con Người nhưng luôn luôn trong bối cảnh loan báo cái chết của Người (Mc 8,31 – 9,31 – 10,33-35). Qua tước vị này, Đức Giêsu ứng dụng cho mình lời sấm nổi tiếng của Đanien (7,13-14). Đây là tác phẩm của một người “kháng chiến” dưới thời bách hại của Vua Antiochus 4 Ephiphane sách này khẳng định sự chiến thắng của Thiên Chúa, nhờ một “con người từ trên mây trời xuống”. Vâng những lực lượng của sự ác, những kẻ áp bức người nghèo, những kẻ dữ sẽ không thể chiến thắng được trong lịch sử.
Tất cả ngôn ngữ khải huyền mà chúng ta vừa nghe chỉ được dùng để làm nổi bật tiếng kêu hy vọng này: Đức Giêsu đến… Như một Đấng chiến thắng, những giáo phái đủ loại những kẻ “cuồng tưởng” trong những thời kỳ có khủng hoảng lớn, cứ lảm nhảm bên tai chúng ta những lời ngăm đe”, những “lời sấm giáng họa” và những “câu lên án” của họ. Đối với Đức Giêsu, sự phá hủy Đền Thánh biểu tượng cho sự phá hủy thế giới, là một “Tin mừng” nghịch lý như trong bài tụng ca ngày nay.
Bầu trời đối với chúng con đã tối sầm lại, không còn một ngôi sao nào trong đêm nhưng chúng con biết rằng ngày đã đến nó rất gần.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến Maranatha! Xin hãy đến!”
Những Kitô hữu đầu tiên đã mong ước mãnh liệt ngày “trở lại của Chúa” tiếng Hý Lạp là “parousie”. Trong Tân ước người ta gặp nhiều lần từ huyền nhiệm này. Maranatha (I Cr 16,22; Kh 22,20). Đó là một kiểu nói Aramên, tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu, đã được đưa vào phụng vụ ban đầu, và có nghĩa là “Lạy Chúa, xin hãy đến”. Từ Công đồng Vatican II, mỗi Thánh lễ của chúng ta đã lặp lại lời cầu xin, mong đợi trên, trong câu tung hô sau phần truyền phép: “Chúng con mong đợi ngày Chúa lại đến trong vinh quang. Chúng con mong đợi Chúa đến.”
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa hãy đến! Tại sao chúng ta lại không hát với những Kitô hữu đầu tiên trong cùng một âm tiếng của Đức Giêsu “Maranatha!”
Người sẽ sai các thiên sứ tập hợp những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn từ bốn phương về từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Có một vài tác giả hiện nay muốn giảm thiểu Đức Giêsu Na-za-rét chỉ còn là một người Na-za-rét bình thường mà thôi! Chúa có những “thiên thần” những kẻ thuộc về người, sẵn sàng phục vụ Người. Người muốn tập hợp tất cả mọi người trên toàn trái đất lại. Thế mà nhân vật nhỏ bé này lại chưa hề rời khỏi đất nước Palettin. Trong những khải huyền cổ truyền mà Đức Giêsu đã dùng lại những hình ảnh thì những xáo trộn vũ trụ báo trước cho sự trừng phạt vĩ đại của Thiên Chúa giáng trên những kẻ phản đạo. Nhưng ở đây, không có những lời như thế trên môi miệng Đức Giêsu. Người chỉ nói đến việc tập họp những người được tuyển chọn. Việc tái lâm của Chúa Giêsu trong vinh quang, vào ngày thế mạt, đó là để tập họp những người thuộc về Chúa từ bốn phương trời, đó sẽ là một đại lễ thế giới, toàn vũ. Đức Giêsu nhìn thấy Người thật cao cả vĩ đại, thần thánh, thế mà Người sẽ phải chịu chết trong vài hôm nữa.
Ở cùng với Đức Giêsu.
Đó là tận thế, những chiến tranh tai ương, bách hại, diệt chủng, sự tàn phá ghê gớm, sự phá hủy đền thánh, sự phạm thường những nơi thánh bởi bọn phản đạo vô luân… tất cả những điều đó chỉ chuẩn bị cho việc tập hợp kể trên. Đây là tiếng kêu hy vọng kỳ diệu nhất mà con người có thể nghe được, ngay cả khi mọi sự sụp đổ quanh mình, ngay cả khi cái chết đến gần kề và có vẻ chiến thắng.
Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà tìm hiểu. Khi nó đâm chồi nảy lộc thì anh- em biết là gần đến mùa hè. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần.
Người ta thực sự không hiểu gì về tư tưởng của Đức Giêsu, khi người ta tỏ ra mình là “ngôn sứ báo động tai họa”. Rõ ràng, Đức Giêsu muốn mở ra cho nhân loại niềm trông cậy vào một thế giới mới.
Đó là mùa hè đang đến. Đó là “mùa tươi đẹp” tới gần khi cây cỏ xanh tươi trở lại. ÔI, đó là một dụ ngôn thật đẹp dụ ngôn cuối cùng trước khi Người chết. Trong cơn nguy nan và sợ hãi, vâng, tất cả mọi sự đều qua đi và chết hết. Nhưng chúng con biết mùa hè sắp đến, trên những cành lá xanh tươi của cây vả.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến! Maranatha!
Thầy bảo thật anh em; thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Chân dung Đức Giêsu thật là vĩ đại! Đây là một cao vọng quá cỡ đối với một người hay chết như chúng ta. Chúng ta chớ quên, vài ngày nữa Người sẽ chết. “Tất cả đều qua đi” Người đã nói thế… Chúng Ta vẫn tồn tại, Ta hiện hữu; và các ngươi sẽ ở với Ta. Bên kia cái chết của Người, sự Phục sinh đang ló dạng, như bình mình sau đêm mù tối.
Còn về ngày hay giờ đó, thì dù các thiên sứ trên trời, hay cả người Con đi nữa, cũng không ai biết được trừ một mình Chúa Cha mà thôi.
Người vẫn là một “con người”. Người không biết bí mật của Chúa Cha, Đấng vượt lên trên tất cả. Đáng kinh ngạc thay! Thế mà cũng con người đó quả quyết sẽ đến từ mây trời để “tập hợp tất cả những người được tuyển chọn”. Đây là một nhân vật phi thường, ngoài quan niệm thường tình của chúng ta.

46. Chúa Nhật 33 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của William Barclay)
SỰ TÁI LÂM (13,7-8.24-27)
Tại đây chắc chắn là Chúa Giêsu đang đề cập sự tái lâm của Ngài. Điểm quan trọng là Ngài khoác lên ý niệm của Ngài ba hình ảnh vốn là những phần của cơ cấu liên hệ với Ngày Của Chúa.
1/ Ngày của Chúa sẽ đến sau một thời gian chiến tranh. Trước ngày của Chúa sẽ có: “Động đất nhiều nơi, các dân tộc náo loạn. Các nước mưu đồ, các lãnh tụ bối rối, các vua chúa lo âu”.
“Vào giữa số dân chúng sống trên mặt đất, sẽ có sự kinh ngạc sửng sốt. Họ âm mưu gây chiến tranh với nhau, thành phố này chống lại thành phố nọ, địa điểm này chống địa điểm khác, dân nọ chống dân kia, vương quốc chống với vương quốc”.
Sách Các Sấm ký của Sybille thấy trước: “vua này cướp đất và bắt vua kia làm tù binh, dân tộc này cướp phá dân tộc khác và áp bức nhân dân, các nhà cầm quyền trên đất xông vào xứ của nhau, và đất nước biến thành người và một đế quốc dã man sẽ tàn phá Hellas và lấy đi sự giàu có của vùng đất phì nhiêu của nó, và người ta sẽ đối mặt để tranh chiến nhau” (3,633-647).
Sách Barúc 27,5-13 kể ra 12 việc sẽ đến trước kỷ nguyên mới “Trước hết sẽ có sự náo động khởi đầu, thứ hai sẽ có các nhân vật quan trọng bị giết. Thứ ba sẽ có nhiều người chết và thứ tư, gươm sẽ được gửi đi khắp nơi. Thứ năm sẽ có đói kém, hạn hán. Thứ sáu sẽ có động đất và nhiều chuyện kinh hoàng (trong bản thảo có một khoảng để trống), thứ tám sẽ có một đám đông vô số những bóng ma và sự tấn công của ma quỷ. Thứ chín, sẽ có lửa sa xuống. Thứ mười sẽ có cướp bóc và nhiều áp bức. Thứ mười một sẽ có sự gian ác và loạn dâm. Thứ mười hai sẽ có hỗn loạn vì tất cả những gì đã được nói trên đây đều hòa lẫn vào nhau”.
“Toàn dân trên đất đều bị thúc đẩy để chống nghịch lẫn nhau” (48,31). Và họ sẽ thù ghét nhau, gây chiến với nhau… Và ai thoát được chiến tranh thì lại chết vì động đất. Ai thoát khỏi động đất sẽ bị lửa thiêu rụi. Và ai thoát được lửa sẽ bị đói kém tiêu diệt”.
Rõ ràng khi Chúa Giêsu đề cập chiến tranh và tiếng ồn ào của chiến tranh là Ngài dùng các hình ảnh từng là những phần về các viễn ảnh tương lai của dân Do Thái.
2/ Trước ngày của Chúa, mặt trời, mặt trăng sẽ tối tăm. Chính Cựu Ước cũng đầy dẫy những câu như thế (Am 8,9; 2,10; 3,15; Is 13,10; 34,4).
Một lần nữa rõ ràng Chúa Giêsu đã sử dụng phần ngôn ngữ phổ thông mà ai cũng biết.
3/ Một phần của hình ảnh vẫn thường xuất hiện, là dân Do Thái từ bốn phương trời sẽ được thâu gọn về Palestine. Cựu Ước vốn đầy những ý niệm như vậy (Is 27,13; 35,8-10; Mk 7,10; Dcr 10,6-11). Nền văn chương đại chúng cũng rất thích ý niệm đó “Hãy thổi kèn trong Siđôn để kêu gọi các thánh, hãy làm cho trong cả Siđôn, người ta đều nghe tiếng Đấng đem Tin Mừng đến, bởi Thiên Chúa đã thương xót dân Israel và thăm viếng họ. Hãy đứng trên đỉnh núi, hỡi Giêrusalem và nhìn xem con cái Người từ phương Đông và phương Tây được Đức Chúa tập họp lại (Tv 11,1-3).
Khi đọc những lời lẽ đầy hình ảnh của Chúa Giêsu về sự tái lâm, chúng ta phải nhớ Ngài không hề ban cho chúng ta một bản đồ về cõi đời đời hay một thời biểu cho tương lai, nhưng Ngài chỉ dùng ngôn ngữ và các hình ảnh người Do Thái đã từng biết và sử dụng từ nhiều thế kỷ trước Ngài.
Nhưng điều vô cùng lý thú là những điều Chúa Giêsu tiên báo đã thật sự xảy ra. Ngài nói tiên tri về chiến tranh và trên thực tế, đạo quân đáng sợ của dân Batthê đang gây áp lực tại các biên giới của đế quốc Roma. Ngài đã nói tiên tri về động đất thì trong vòng bốn mươi năm, thế giới thuộc đế quốc Roma đã phải kinh hoàng vì cơn động đất tàn phá Laodikia và vụ núi Vesuvius phun lửa và phun thạch chôn vùi thành phố Pompeii. Ngài nói tiên tri về đói kém, thì dưới thời Claudius, thành phố Roma đã bị nạn đói. Thật đó là một thời kỳ đầy kinh hoàng, đến nỗi lúc Tacitus bắt đầu viết sử, ông đã bảo dường như mọi chuyện sắp xảy ra đều chứng tỏ các thần đang tìm cách báo thù chứ không phải cứu vớt đế quốc Roma.
Trong đoạn này, điều duy nhất chúng ta phải giữ là sự kiện Chúa Giêsu đã nói trước rằng Ngài sẽ tái lâm.
HÃY TỈNH THỨC (13,28-37)
Trong đoạn này có hai điểm cần đặc biệt cần ghi nhận.
1/ Thỉnh thoảng có người nghĩ rằng Chúa Giêsu bảo các việc này xảy ra trong vòng một thế hệ là Ngài nói sai. Nhưng Chúa nói đúng, vì câu này không hề ám chỉ tái lâm. Câu này không thể nói như thế vì ngay câu tiếp theo đó, Ngài bảo không có ai biết ngày giờ nào việc ấy sẽ xảy ra. Nó ám chỉ về những lời tiên tri của Chúa Giêsu và việc thành Giêrusalem thất thủ và Đền Thờ sẽ bị tàn phá, là những việc đã ứng nghiệm.
2/ Chúa Giêsu bảo rằng Ngài không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ tái lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không thắc mắc. Không có lời cảnh cáo và quở trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chúa tái lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tìm, tra vấn cho ra điều mà chính Chúa bằng lòng không tìm biết, thì tội đó quả là tội phạm thượng.
3/ Cho nên Chúa Giêsu rút ra một kết luận thực tiễn. Chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Chúng ta đang sống trong bóng tối của cõi đời đời. Không có lý do gì để sợ hãi hoặc suốt ruột chờ trông. Điều có ý nghĩa nhất là hàng ngày chúng ta chu toàn bổn phận của mình, chúng ta phải sống, coi việc Ngài tái lâm lúc nào là việc rất bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc để Ngài sẽ xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp Vua!
Khi mở Phúc Âm Maccô 13, chúng tôi nói ngay đây là chương sách khó hiểu, nhưng cuối cùng một chân lý để lại cho chúng ta, vài điểm của chân lý đó là:
1/ Nó cho chúng ta biết chỉ có người của Chúa mới nhìn vào những bí mật của lịch sử. Chúa Giêsu đã thấy số phận của Giêrusalem mặc dù những người khác mù quáng, chẳng thấy gì. Một chính khách thật sự phải là người của Chúa. Một người muốn hướng dẫn xứ sở thì chính mình phải được Chúa hướng dẫn. Chỉ có người biết Chúa, mới có thể tham gia phần nào trong kế hoạch của Chúa.
2/ Nó cho ta biết hai điều về giáo lý Chúa tái lâm. (a) Đoạn này cho biết nó hàm chứa một sự kiện mà nếu ta quên hoặc xem thường, sẽ vô cùng nguy hiểm. (b) Nó cho biết bức tranh chứa đựng là hình ảnh của thời Chúa Giêsu, cho nên suy đoán về nó là điều vô ích, khi chính Chúa Giêsu cũng bằng lòng với sự không biết. Điều ta có thể chắc chắn là lịch sử phải đi về một điểm nào đó, phải có một kết thúc xảy ra.
3/ Nó cho ta biết trong mọi sự, việc làm điên dại hơn hết là quên Chúa mà đắm chìm trong thế gian. Người khôn ngoan không bao giờ quên rằng mình phải sẵn sàng để nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cục sẽ không kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời.

47. Chuẩn bị Ngày Phán Xét
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 13:24-32: Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này.
Trái đất này một ngày nào đó cũng phải kết thúc vì đã có một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc chấm hết. Con người ta có sinh thì cũng phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng. Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những người Chúa đã tuyển chọn.
Ngày ấy, tất cả sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây, hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người, mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Ngày tận cùng của thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, «các quyền lực trên trời bị lay chuyển»… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải) xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế giới đã gần kề.
Ngày phán xét sẽ là ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta. Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tm 4, 8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2, 13).
Ta là môn đệ Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta, nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn.
Chúa dạy chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: “Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được sự an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu Kitô” (Tt 2,13).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy, chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội, chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
Vào ngày Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: «Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện «chân lý, công lý và tình thương» (Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (Mt 25, 31-46). Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, «những ai làm cho người người nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao» (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.

48. Sẵn sàng đón Chúa lại đến
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
Tin mừng Mc 13:24-32: Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su”. Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế.
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong diễn từ về “Cuộc quang lâm của Đức Giê-su” (x. Mc 13,1-37). Bằng những hình ảnh tượng trưng về sự sụp đổ của Đền Thờ kèm theo những điềm báo trước, Đức Giê-su nhắc nhở các tín hữu về “Ngày của Chúa” tức là ngày tận thế. Khi đó sẽ có những cơn bách hại xảy ra, trời đất cũ sẽ bị rung chuyển và biến đổi thành “Trời Mới Đất Mới” (x Kh 21,1), trước khi Con Người đến trong đám mây.
CHÚ THÍCH:
– C 24-25:
+ Trong những ngày đó: Ngày nói đây là ngày Đền Thờ Giêrusalem nguy nga tráng lệ bị tàn phá bình địa.
+ sau cơn gian nan ấy: Cơn gian nan như một điềm báo trước về Ngày Tận Thế.
+ Mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, các quyền lực trên trời bị lay chuyển: Những hình ảnh trong các sách Cựu Ước này nói về “Ngày của Đức Giavê”. Ở đây các hình ảnh này nhằm đề cao sự uy nghiêm của Đức Ki-tô trong Ngày Tận Thế: bấy giờ các tầng trời sẽ bị rung chuyển, công trình sáng tạo xưa kia sẽ biến mất và một Trời Đất Mới sẽ xuất hiện.
– C 26-27:
+ Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến: Con Người là hình ảnh một nhân vật trong sách Đanien, trổi vượt hơn hình ảnh “Đấng Mê-si-a Con Vua Đavít”. Ngài đến trong đám mây trời, tiến lên trước toà Thiên Chúa và nhận lãnh một vương quyền phổ quát (x Đn 7,13). Trong các sách Tin Mừng, Đức Giê-su đã xưng mình là Con Người tới 70 lần (x. Mt 8,20; Ga 3,13…): Người tự xưng là Con Người với 2 ý nghĩa. Một là Người Tôi Tớ của Đức Giavê: “Tôi, Người Tôi Tớ bị loại bỏ, bị giết chết nhưng sẽ được tôn vinh và sẽ cứu độ muôn người” (x. Mc 8,31). Hai là Chúa Con, được đưa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Tv 110,1) và đến ngày tận thế, sẽ lại đến (x. Đn 7,13).
+ “Đến trong đám mây”: Mây không phải là một phương tiện di chuyển, nhưng chỉ là một biểu tượng về sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Xh 13,21; Mt 17,5) + Người sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời: Từ khắp nơi, Đấng Ki-tô sẽ ra lệnh cho các thiên thần qui tụ tất cả những người lành thánh được tuyển chọn tập trung lại.
– C 28-29:
+ Lấy thí dụ cây vả… khi thấy những điều đó xảy ra: Các ngôn sứ thường dùng hình ảnh mùa hè và mùa gặt để diễn tả ngày cánh chung hay ngày tận thế. Ở đây Đức Giê-su dùng hình ảnh cây vả báo trước mùa hè sắp tới, để ám chỉ về ngày cùng tận của Đền Thờ Giêrusalem là hình ảnh tiên báo về ngày tận thế (x Mc 13,4-19).
– C 30-31:
+ Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra: Việc tàn phá Đền Thờ Giêrusalem xảy ra vào năm 70, là thời điểm những ai nghe lời Đức Giê-su giảng vẫn còn sống và chứng kiến những điều Người tiên báo được ứng nghiệm.
+ Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu: Vũ trụ vật chất sẽ có ngày tan biến (x Is 24,19.23), nhưng Lời Đức Giê-su sẽ luôn tồn tại nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
– C 32:
+ Về Ngày Giờ đó: câu này nói về ngày tận thế sẽ xảy ra.
+ chỉ có Chúa Cha biết mà thôi: Ngày Giờ cánh chung hay tận thế thuộc quyền Chúa Cha định liệu. Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (x. Pl 2,6), với tư cách là Ngôi Lời, đồng bản tính vơi Chúa Cha nên dĩ nhiên Người biết mọi sự giống như Chúa Cha. Nhưng với tư cách là Đấng Thiên Sai (x. Pl 2,8), Người “nên giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ không có tội” (x. Gl 4,4), nên Người không biết được Ngày Giờ ấy, hầu mọi người phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị cho ngày ấy (x. Mc 13,33).
CÂU HỎI:
1) Trong Tin Mừng, Đức Giê-su đã tự xưng là “Con Người” mấy lần? Đức Giê-su muốn mặc khải mình là ai khi tự xưng mình là Con Người?
2) “Con Người ngự trong đám mây mà đến”: Phải chăng đám mây là phương tiện Đức Giê-su dùng để di chưyển?
3) Đức Giê-su có biết rõ ngày cùng tận của thế giới là ngày nào không? Tại sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến (Mc 14,26).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Dọn mình chết lành:
Khi Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII ngã bệnh nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình của ngài, nhưng ngài biết mình khó sống thêm nên thường nói với những người chung quanh: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Đến ngày cuối cùng khi giờ chết sắp đến, thư ký riêng tới bên giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài cảm thấy trong mình thế nào. Đức Gio-an trả lời: – Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: – Cha không phải lo. Nhưng chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: – Họ nói với con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: – Thưa Đức Thánh Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
– Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói: Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời.
2) Tránh nghe những tin đồn nhảm về ngày tận thế:
Vào cuối năm 1992, hàng chục ngàn tín đồ của một giáo phái tại Hàn quốc đã tụ tập nhau trong hơn 150 nhà thờ để đón chờ ngày tận thế, đón Đức Giê-su tái lâm trong vinh quang để phán xét chung. Theo những người lãnh đạo của giáo phái này thì chính xác ngày tận thế là vào lúc nửa đêm ngày 28/10/1992. Các tín đồ của giáo phái trương lên biểu ngữ: ”Chúng ta sẽ gặp nhau trên trời”. Đồng thời hàng ngàn cảnh sát Hàn quốc cũng được đặt trong tình trạng báo động cao trên toàn quốc để phòng ngừa một cuộc tự sát tập thể, nếu ngày tận thế không xẩy ra. Bởi vì, rất nhiều người do quá tin tưởng đã bán hết nhà cửa và phát tán mọi tài sản gia đình… để chuẩn bị cho ngày tận thế này. Nhưng cuối cùng ngày tận thế đã không xẩy ra, nên sau đó giáo phái này đã tự giải thể.
Đây chỉ là một trong nhiều tiên báo không chính xác về ngày tận thế trên thế giới. Sở dĩ người ta đóan sai là do đã hiểu lời Chúa cách lệch lạc và không đúng theo Lời Chúa Giê-su dạy. Đối với các tín hữu chúng ta: nhân dịp cuối năm phụng vụ, Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta ý thức về ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không xác định cụ thể ngày giờ. Việc đề cập đến ngày này nhằm giúp chúng ta canh tân đời sống và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến viếng thăm trong giờ chết của mỗi người.
3. THẢO LUẬN:
1) Bạn hiểu thế nào về ngày tận thế?
2) Chết là gì?
3) Bạn làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến trong giờ chết mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai?
4. SUY NIỆM:
1) Ngày tận thế chắc chắn sẽ đến:
Tin mừng Mác-cô hôm nay nói về ngày tận thế: Hôm ấy các môn đồ chỉ cho Đức Giê-su thấy cảnh huy hoàng của Đền Thờ khi được ánh sáng mặt trời chiếu vào! Nhưng Đức Giê-su đã tiên báo cảnh ấy có ngày sẽ không còn nữa và Đền Thờ sẽ bị phá hủy không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, vì dân Giêrusalem đã từ chối đón nhận ngày Thiên Chúa đến viếng thăm.
Đức Giê-su đã dùng những hình ảnh về thời kỳ chiến tranh, cũng như các công thức về thời cánh chung trong các sách ngôn sứ để diễn tả cảnh tàn phá của Giêrusalem. Từ đó, Người đề cập đến ngày cùng tận của thế giới. Nhưng lời của Đức Giê-su được các thánh sử ghi lại sau khi Đền Thờ đã bị sụp đổ và Hội Thánh bị bách hại khắp nơi. Qua Lời Chúa hôm nay, Mác-cô muốn trình bày các điều sau: Một là các hiện tượng trời đất như mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống và các thiên thể lay chuyển… là điềm báo Chúa đến trong ngày tận thế. Hai là mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống… cho thấy vũ trụ này sẽ quay trở lại lúc khởi nguyên hỗn mang khi chưa có ánh sáng. Và như thế, ngày tận thế là lúc vũ trụ sẽ biến mất để cho “trời mới và đất mới” xuất hiện. Ba là người ta sẽ thấy “Con Người đến trong đám mây”. Con Người chính là Đức Giê-su Cứu thế. Hình ảnh mây trời nhấn mạnh tính cách “hiển linh” của việc Người đến. Và như vậy “ngày của Chúa” sẽ trở thành ngày của Thiên Chúa đến “trong” và “nhờ” Con Người là Đức Giê-su. Bốn là Vua Ki-tô sẽ sai các thiên thần đi khắp cùng mặt đất thâu họp những kẻ được chọn lại, để đưa họ vào hưởng vinh quang của Người trên trời.
2) khi nào điều ấy xảy ra?
Đây là thắc mắc của mọi thế hệ loài người. Theo Tin mừng Mác-cô: Đức Giê-su dạy các môn đệ phải tiên liệu: Khi thấy các điềm kia xảy ra, thì hãy biết rằng “Con Người đã đến gần bên cửa” (x Mc 13: 28-29).
Các điềm báo về ngày tận thế như: Mùa hè ám chỉ thời kỳ tận thế, các chi tiết khác như: Đền thờ bị tàn phá, chiến tranh lọan lạc, các Ki-tô giả xuất hiện, niềm tin trở nên nguội lạnh, các tầng trời bị lay chuyển v.v… cho thấy tính không bền vững của vũ trụ vật chất.
Nghe lời Chúa hôm nay, nhiều người đã lầm tưởng ngày tận thế sắp đến. Nhưng ngay sau đó Đức Giê-su đã khẳng định: “Về ngày ấy hay giờ ấy, thì chẳng ai biết được… cả Con Người nữa, trừ phi là Chúa Cha” (Mc 13,32).
Thực ra, với bản tính Thiên Chúa, Đức Giê-su ngang hàng với Chúa Cha, nên cũng biết rõ ngày tận thế. Nhưng với bản tính lòai người thì cũng như chúng ta, Người không biết rõ đó là ngày nào.
3) Chúng ta phải làm gì?
– Không nên hỏang sợ nhưng hãy hy vọng chờ đón Chúa đến:
Đức Giê-su báo trước sẽ có ngày tận thế, nhưng lại dạy môn đệ không nên hoảng sợ. Người đến để phán xét mọi người, nhưng “đối với những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến” (2 Tm 4,8), thì Người sẽ là Đấng Cứu Độ và là vinh quang của họ: ”Người sẽ sai các thiên thần đi quy tụ từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn”. Giáo hội bị bắt bớ nhưng cũng được an ủi vì “sẽ thấy vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô” (Tt 2,13). Đứng trước các tin đồn về ngày tận thế, thái độ đúng đắn nhất của các môn đệ là: ”tỉnh thức và cầu nguyện luôn”, trong niềm mong chờ, vì Chúa sẽ đến bất ngờ như Người đã nói: ”Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
– Chuẩn bị cho giờ chết của mỗi người và ngày tận thế chung tòan nhân lọai:
Người Ki-tô hữu chỉ có thể “đứng vững trước mặt Con Người” khi biết thanh luyện tội lỗi, tránh xa sự dữ và các thói hư, nhất là thói ích kỷ, tham lam…, và góp phần xây dựng một thế giới mới yêu thương, trong đó mọi người luôn quan tâm, cảm thông và chia sẻ phục vụ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng cho gia đình, cộng đòan và môi trường sống ngày một tốt đẹp hơn.
– Cần ý thức tính tập thể của ơn cứu độ:
Đường về trời không dành riêng cho từng người, nhưng là con đường chung cho hết mọi người. Trong ngày phán xét, Đức Ki-tô sẽ tái lâm xét xử nhân lọai dựa trên tiêu chuẩn thực thi bác ái chia sẻ và phục vụ tha nhân. Ai sống trong yêu thương, người đó sẽ được sống lại và hưởng hạnh phúc trường sinh, còn kẻ “ghét anh em chính là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15) cũng sống lại để chịu hình phạt “khóc lóc và nghiến răng” (x Mt 25,31-46). Còn “Ai làm cho người ta nên công chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao”(Đn 12,3).
– Ma-ra-na-tha: Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến:
Các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai đã mong ước ngày trở lại của Chúa qua lời cầu nguyện: “Ma-ra-na-tha – Lay Chúa Giê-su, xin ngự đến” (Kh 22,20). Trong Thánh lễ, sau khi truyền phép, các tín hữu chúng ta cũng dâng lời xin: ”Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”. Mỗi tín hữu chúng ta cần năng hồi tâm sám hối và tích cực chuẩn bị cho ngày Chúa đến bằng việc làm các việc bác ái chia sẻ phục vụ cho tha nhân nhằm “Làm vinh danh cho Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”, kèm theo một lời nguyện như sau: “Lạy Chúa Ki-tô, xin hãy đến“.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một quả tim mới và một thần trí mới để chúng con sẵn sàng góp phần xây dựng Hội Thánh và phục vụ Chúa trong mọi người chung quanh ngay từ hôm nay. Xin cho chúng con sẵn lòng chấp nhận các đau khổ trái ý xảy đến để thành tâm sám hối tội lỗi, khử trừ thói hư và tích cực góp phần làm cho gia đình, cộng đòan, xã hội… trở nên công bình yêu thương và bình an hoan lạc hơn, hầu đón chờ Chúa sẽ tái lâm và biến trần gian trở thành một “Trời Mới Đất Mới” vào ngày tận thế.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.