Lời Chúa Mỗi Ngày : Ngày 11 tháng 1 GS (2)

Ngày 11 tháng 1 GS (2)
Bài đọc: 1 Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
1/ Bài đọc I: 14 Lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Thiên Chúa, đó là: Người nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người.
15 Nếu chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời chúng ta xin,
thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người.
16 Nếu ai biết anh em mình phạm thứ tội không đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin,
và Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy;
đó là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết.
Có một thứ tội đưa đến cái chết, tôi không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy.
17 Mọi điều bất chính đều là tội, nhưng có một thứ tội không đưa đến cái chết.
18 Chúng ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội;
nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.
19 Chúng ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,
còn tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.
20 Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật. Chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.
21 Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, hãy tránh xa các tà thần!
2/ Phúc Âm: 22 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa.23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.
25 Bấy giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người Do-thái về việc thanh tẩy.26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: “Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.”27 Ông Gio-an trả lời: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.28 Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người.29 Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn.30 Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tội và cách thức để được tha tội
Tội là nguyên nhân gây ra cái chết. Ngay từ đầu, tác giả Sách Sáng Thế đã thuật lại Tội Nguyên Tổ của Adam và Evà và cái chết thống trị con người từ đó. Nhưng Thiên Chúa cũng đã có kế hoạch ngay từ đầu để cứu thoát con người và không để cho con người chìm đắm trong tội bởi sự lôi cuốn của ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt. Kế hoạch đó được thi hành qua Đức Kitô. Ngài nhập thể và chịu chết trên Thập Giá để cất đi tất cả tội lỗi cho con người. Con người tuy vẫn có khuynh hướng phạm tội; nhưng con người đã được Thiên Chúa cho cách hiệu quả để thoát ra.
Hai bài đọc hôm nay tập trung trong cách để thoát ra đó. Trong bài đọc I, sau khi đã phân biệt giữa tội mang lại cái chết và tội không mang lại cái chết, tác giả trình bày cách chúng ta có thể thoát sự kiềm toả của tội là chạy đến với Đức Kitô: thú nhận tội lỗi và lãnh nhận ơn tha thứ. Trong Phúc Âm, một cuộc tranh luận xảy ra giữa một người Do-thái và các môn đệ của Gioan về sự khác biệt của hai phép rửa. Gioan đã trình bày cách rõ ràng phép rửa của ông không có quyền năng tha tội; nhưng chỉ là phép rửa bằng nước để tỏ lòng ăn năn xám hối. Chỉ phép rửa của Chúa Giêsu mới có quyền tha tội và ban những hồng ân của Thánh Thần.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Làm sao để được tha tội sau khi đã chịu phép rửa làm con Chúa?
1.1/ Phân biệt hai loại tội: Trước tiên chúng ta cần phân biệt tất cả các tội trọng mà không thú nhận đều đưa đến cái chết. Tác giả có ý gì khi phân biệt hai loại tội?
(1) Tội đưa đến cái chết: Như chúng ta cắt nghĩa trong phần sau: Người Kitô hữu được hưởng đặc quyền là có bí tích Giải-tội mà Chúa Giêsu đã thiếp lập để tha tội cho con người. Nhưng nếu người Kitô hữu, sau khi phạm tội trọng, từ chối không thèm lãnh nhận ơn tha thứ bằng cách lãnh nhận bí tích Giải-tội, anh ta sẽ lãnh nhận cái chết vì tội cứng lòng.
(2) Tội không đưa đến cái chết: là những tội con người có thể xúc phạm đến Chúa; nhưng sau khi phạm tội, con người nhận ra tội lỗi của mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân, vì yếu đuối hay vì bất cứ một lý do gì khác, biết ăn năn thống hối và chạy đến với bí tích Giải-tội để xưng thú, tội lỗi của anh sẽ được tha và không phải chết. Tác giả khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho tất cả những ai đã phạm tội biết chạy đến với Chúa nơi toà cáo giải. Còn những ai cố tình ở trong tội, chúng ta cũng vẫn cầu xin cho họ mềm lòng ra để trở về với Chúa, cho dẫu phải chịu tai nạn trăm bề! Chúa có nhiều cách để đưa những người cứng lòng trong tội được trở về.
1.2/ Hiểu thế nào câu tác giả nói hôm nay: “Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra, người đó không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy, và Ác thần không đụng đến người ấy được.” Có phải một khi đã được Thiên Chúa sinh ra qua phép rửa tội là người Kitô hữu không bao giờ phạm tội nữa không? Thực tế chứng minh mọi Kitô hữu đều phạm tội và phạm tội nhiều lần sau khi chịu phép rửa tội.
(1) Chính tác giả đã xác quyết mọi Kitô hữu đều phạm tội ngay trong chương đầu tiên: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình,và sự thật không ở trong chúng ta. Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi,Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta,và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính. Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (I Jn 1:8-10). Vì thế, tác giả kết tội những người tuyên bố mình không phạm tội là người dối trá và coi Thiên Chúa là kẻ nói dối vì Thiên Chúa sai Con của Ngài xuống trần gian là để tha tội. Không có tội thì cũng sẽ không cần tha thứ! Và tác giả cũng kết tội mình nếu ông có ý muốn nói người sinh ra bởi Thiên Chúa không hề phạm tội. Trong những câu trích kế tiếp, ông soi sáng cho chúng ta hiểu ý của ông muốn nói.
(2) Làm sao để tội được tha: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính. Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (I Jn 2:1-2). Điều chính ông muốn nói ở đây là người Kitô hữu luôn có cách để tội được tha là chạy đến với Đức Kitô để xưng thú và lãnh nhận ơn tha thứ từ Ngài. Đây là một đặc quyền mà chỉ người Kitô hữu tin tưởng và nhận lãnh được. Người Do-thái không thể được tha tội vì họ không còn Đền thờ để dâng của lễ. Người Dân Ngoại cũng không biết cách nào để cho tội họ được tha. Chỉ người Kitô hữu, sau khi biết mình đã yếu đuối xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân, biết dục lòng ăn năn, thống hối và dùng bí tích giải tội để giao hoà với Thiên Chúa và tha nhân.
2/ Phúc Âm: Phân biệt hai phép rửa và hai sứ vụ khác nhau
Khi bắt đầu có hai sự kiện hay hai trường phái là bắt đầu có ngộ nhận và tranh luận. Trong Phúc Âm hôm nay, một người Do-thái đến tranh luận với môn đệ của Gioan về hai phép rửa. Các môn đệ của Gioan có lẽ không trả lời được, nên dẫn đến gặp thầy mình để hỏi: “Thưa thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.”
2.1/ Phép rửa và sứ vụ của Gioan Tẩy Giả:
(1) Phép rửa làm bởi Gioan Tẩy Giả: Như chúng ta đã nói trong bài trước: phép rửa của Gioan chỉ là phép rửa để tỏ lòng ăn năn xám hối, chứ không có năng lực để tha tội. Phép rửa của Gioan chuẩn bị cho mọi người đến với Chúa Giêsu để chịu phép rửa với Ngài.
(2) Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả: Chính Gioan đã thú nhận khi được hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô không?” Ông trả lời: “Ông không phải là Đấng Kitô; nhưng chỉ là người đi dọn đường cho Đức Kitô.” Trong trình thuật hôm nay, ông nói với các môn đệ của ông: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: ‘Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.’” Vai trò của Gioan được xác định rõ ràng: Ông chỉ là người đi dọn đường, là bạn của chàng rể, và niềm vui của ông là được nghe tiếng của chàng rể là Đức Kitô và khi được nhìn thấy mọi người tuôn đến với Ngài.
2.2/ Phép rửa và sứ vụ của Chúa Giêsu:
(1) Phép rửa làm bởi Chúa Giêsu: Phép rửa của Chúa Giêsu làm là phép rửa có năng lực để tha tội. Thời của Giáo Hội, phép rửa này được nâng lên là một trong bảy bí tích. Phép rửa này không những làm bằng nước để tha tội, nhưng người chịu còn lãnh nhận Chúa Thánh Thần, và chính thức được nhận làm con Thiên Chúa. Vì thế, không phải chỉ tội được tha; nhưng người chịu còn được lãnh nhận các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Đối với người lớn chịu phép rửa này, họ còn được lãnh nhận ba nhân đức đối thần: tin-cậy-mến nữa.
(2) Sứ vụ của Chúa Giêsu: Gioan là người đầu tiên nói lên sứ vụ tha tội của Chúa Giêsu khi ông giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng lấy đi tội của trần gian” (Jn 1:29). Ngoài sứ vụ chịu chết để lấy đi tội của trần gian, Chúa Giêsu còn nhiều sứ vụ khác như rao giảng Tin Mừng, mặc khải những sư thật từ Chúa Cha cho dân biết, gọi và huấn luyện các tông đồ để các ông tiếp tục sứ vụ sau khi Ngài về trời…
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Có nhiều những lẫn lộn và hiểu lầm từ Kinh Thánh và những giáo huấn của Giáo Hội.
– Chúng ta cần học hỏi và tìm hiểu kỹ càng để biết được sự thật đàng sau những lời Kinh Thánh và những giáo huấn đó.
– Một sự hiểu biết và giải thích mù mờ sẽ làm cho chúng ta và độc giả hoang mang và lìa xa sự thật.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP

Saturday after Epiphany
Viết bởi Lan Hương
SATURDAY AFTER EPIPHANY

Readings: I Jn 5:14-21; Jn 3:22-30.
1/ First Reading: NAB 1 John 5:14 And we have this confidence in him, that if we ask anything according to his will, he hears us. 15 And if we know that he hears us in regard to whatever we ask, we know that what we have asked him for is ours. 16 If anyone sees his brother sinning, if the sin is not deadly, he should pray to God and he will give him life. This is only for those whose sin is not deadly. There is such a thing as deadly sin, about which I do not say that you should pray. 17 All wrongdoing is sin, but there is sin that is not deadly. 18 We know that no one begotten by God sins; but the one begotten by God he protects, and the evil one cannot touch him. 19 We know that we belong to God, and the whole world is under the power of the evil one. 20 We also know that the Son of God has come and has given us discernment to know the one who is true. And we are in the one who is true, in his Son Jesus Christ. He is the true God and eternal life. 21 Children, be on your guard against idols.
2/ Gospel: NAB John 3:22 After this, Jesus and his disciples went into the region of Judea, where he spent some time with them baptizing. 23 John was also baptizing in Aenon near Salim, because there was an abundance of water there, and people came to be baptized, 24 for John had not yet been imprisoned. 25 Now a dispute arose between the disciples of John and a Jew about ceremonial washings. 26 So they came to John and said to him, “Rabbi, the one who was with you across the Jordan, to whom you testified, here he is baptizing and everyone is coming to him.” 27 John answered and said, “No one can receive anything except what has been given him from heaven. 28 You yourselves can testify that I said (that) I am not the Messiah, but that I was sent before him. 29 The one who has the bride is the bridegroom; the best man, who stands and listens for him, rejoices greatly at the bridegroom’s voice. So this joy of mine has been made complete. 30 He must increase; I must decrease.”
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Tien M. Dinh, O.P.
I. THEME: We must avoid sins.
Sin is the reason why Jesus came down from heaven to take away it and to liberate people from its power. Is it meant that people shall no longer be affected by sins? One heresy in the apostles’ time says that people shouldn’t worry about sin because St. Paul said, “The law entered in so that transgression might increase but, where sin increased, grace overflowed all the more, so that, as sin reigned in death, grace also might reign through justification for eternal life through Jesus Christ our Lord” (Rom 5:20-21).
Today readings concentrate on what relate to sins. In the first reading, St. John differentiated between the two sins: the sin that leads to death and the sin that doesn’t. People can only pray for those who committed sin that doesn’t lead to death. In the Gospel, John Baptist’s disciples committed the sin of jealousy when they saw people coming to Christ more than to their master. John Baptist explained for them that they shouldn’t be jealous because of three following reasons: first, all power come from God; secondly, they must know themselves and the others to have inner peace; and lastly, they should be joyful when they see that God is glorified.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: The sin that leads to death and the sin that doesn’t.
1.1/ The condition for God to hear our prayer:
(1) God listens to our prayer when we ask what pleases Him: God listens to all of our prayers but doesn’t grant all of them, but only those who please Him. This is easy to understand because there are some prayers which only aim to satisfy the petitioners; or some prayers which ask God to destroy others; or prayers which ask God to behave against His nature. What people need to do when they pray is to conclude their prayer as the leprosy who prayed to Jesus yesterday, “if you wish, you can heal me.” Only God knows what is good for people and He is ready to give what is good for His children.
(2) The sin that leads to death and the sin that doesn’t: Though John mentioned these two sins; but he didn’t clearly explain them. He said, “If anyone sees his brother sinning, if the sin is not deadly, he should pray to God and he will give him life. This is only for those whose sin is not deadly. There is such a thing as deadly sin, about which I do not say that you should pray.All wrongdoing is sin, but there is sin that is not deadly.”
According to the Church’s teaching, there are only two sins that commit against the Holy Spirit and are unforgivable- they are sins of despair and of presumption. The sin of despair is committed by the one who doesn’t believe God shall forgive his sins. The sin of presumption is commited by the one who believes that God shall forgive all of his sins without his contrition, confession and compensation. If one prays that God should save people who committed these two sins, one asks God to violate His justice. He can’t save those who don’t want to be saved. People can pray for them to repent when they are living.
1.2/ Two cases of people in the world: The next passage is difficult to understand; we must understand it in the context of his whole Letter. First of all, John isn’t meant that all faithful can’t commit sins because in the first few verses, he already differentiate two kinds of sins, the sin that leads to death and the sin that doesn’t. What he wanted to do here is to differentiate between two kinds of people: those who belong to God and those who belong to the world.
St. John explained: “We know that no one begotten by God sins; but the one begotten by God he protects, and the evil one cannot touch him.We know that we belong to God, and the whole world is under the power of the evil one.” To John, the world is the battlefield between good and evil; there are both those who belong to God and those who belong to evil in it. Those who belong to God can still sin due to the weakness of their flesh, but they are always conscious of their sins and want to reconcile with God through the sacrament of Reconciliation. The devil can’t touch these people. Those who belong to the devil lost all their consciousness of sins; they don’t consider anything is sinful. These people belong to the devil.
2/ Gospel: Sin comes from human jealousy.
2.1/ The jealousy of John Baptist’s disciples: John reported this event as following: “After this, Jesus and his disciples went into the region of Judea, where he spent some time with them baptizing.John was also baptizing in Aenon near Salim, because there was an abundance of water there, and people came to be baptized,for John had not yet been imprisoned.Now a dispute arose between the disciples of John and a Jew about ceremonial washings.So they came to John and said to him, “Rabbi, the one who was with you across the Jordan, to whom you testified, here he is baptizing and everyone is coming to him.”” John Baptist clearly explained the difference between his and Jesus’ baptism at other place. His baptism is for the repentance of sins; while Jesus’ baptism is for the forgiveness of sins and for sanctification by the Holy Spirit. His explannation should help his disciples to recognize that Jesus’ baptism is much more importance than his baptism; but his disciples were still jealous when they saw Jesus attracted more people than their master.
2.2/ Medicine for jealousy: John Baptist gave us three reasons to heal jealousy.
(1) All blessings come from God: John Baptist said, “No one can receive anything except what has been given him from heaven.” St. Paul also said that all gifts come from the same source which is the Holy Spirit, for serving, not for boasting.
(2) Know oneself is the condition to have joy and peace: John Baptist was very peaceful because he knew himself and who Christ is, when he said: “You yourselves can testify that I said (that) I am not the Messiah, but that I was sent before him.” He felt joyful when people came to Christ because it proves his mission is successful. John compared Christ as the bridegroom, people as the bride and him as the best man, “The one who has the bride is the bridegroom; the best man, who stands and listens for him, rejoices greatly at the bridegroom’s voice. So this joy of mine has been made complete.”
(3) “He must increase; I must decrease:” This must be John Baptist’s way of life and should be for all who sincerely serve God. Our duty, like John Baptist, is to prepare and to show the way for people to come to God; not using God’s service to find power, fame or material gains for individual satisfaction. When people came to God, we should be joyful because we completed our duty and ready to withdraw to ourselves.
III. APPLICATION IN LIFE:
– Jesus came to the world to set us free from the power of sin and death. He established the sacrament of Reconciliation to forgive all of our sins.
– We can still sin because of the weakness of our flesh. Everytime we sinned, we should use the sacrament of Reconciliation to be forgiven.
– The most danger sin in our life is losing the consciousness of sin or believing that God shall save us without repentance. This is the sin that leads to death.