TẬP SAN HIỆP SỐNG TIN MỪNG
Tháng 06.2018
LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU
Lưu hành nội bộ
NỘI DUNG
TẬP SAN HIỆP SỐNG TIN MỪNG THÁNG 06/2018
I. THƯ LM GIÁM HUẤN HHTM TH 06/2018: ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÂM CHÚA.
II. THỰC TẬP NHÂN BẢN TH 06/2018: SẴN SÀNG PHỤC VỤ THA NHÂN.
III. MỤC VỤ GĐÌNH TH 06/2018: YÊU THƯƠNG CHIA SẺ VIỆC NHÀ GIỮA HAI VỢ CHỒNG.
IV. TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TIN MỪNG THÁNG 06/2018: CN 9 TN B LỄ MÌNH MÁU CHÚA; LỄ THÁNH TÂM ; CN 10 TN B ; CN 11 TN B ; CN 12 TN B LỄ SINH NHẬT TH GIO-AN TG; LỄ TH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ TÔNG ĐỒ.
V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HTRƯỞNG TH 06/2018: YÊU MẾN CHÚA GIÊ-SU BẰNG TRÁI TIM CỦA MẸ MA-RI-A.
VI. THƯ GIÃN TH 06/2018: ĐẶT TÊN XẤU CHO CON.
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH TH 06/2018: PHÒNG TRÁNH NGUY HIỂM KHI UỐNG NƯỚC DỪA.
VIII. SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 06/2018:
1) THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM TH 06
2) SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM THÁNG 06
3) SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM THÁNG 06
4) SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM THÁNG 06
I. LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 06/2018
ĐÁP LẠI TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU
Anh chị em hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu thân mến
Mỗi năm Hội Thánh dành trọn tháng 06 để mời gọi các tín hữu ý thức về tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại chúng ta và của Chúa Giê-su để đáp lại thế nào cho cân xứng.
1. TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI LOÀI NGƯỜI :
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước không phải vì chúng ta tốt đẹp đáng yêu, nhưng chỉ vì “Người là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Thánh Phaolô viết :”Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì, vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,6-8). Tình Chúa thương ta thật mãnh liệt (Tv 116). Thánh Gio-an viết :“Tình yêu ấy được biểu lộ thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu của Thiên Chúa cốt ở điều này : Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội thay cho chúng ta” (1 Ga 4,9-10).
2. TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-SU ĐỐI VỚI CÁC TÍN HỮU CHÚNG TA :
Chúa Giê-su là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta. Người thể hiện tình yêu của Thiên Chúa bằng nhiều cách : Nhập thể làm người trở thành “Emma-nu-en – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23). Người hứa sẽ ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x Mt 28,20). Vì yêu nên Người sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của chúng ta; Tin tưởng và trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho chúng ta; Chịu đựng những khinh dể của người đời thay cho chúng ta. Người rửa chân hầu hạ các môn đệ để nêu gương khiêm nhường phục vụ cho chúng ta. Người ban ba quà tặng quý giá nhất là : Lời Hằng Sống, Mình Máu Thánh và Thánh Thần của Người cho chúng ta. Người là Mục Tử tốt lành sẵn sàng thí mạng mình, bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn và đổ màu ra để đền tội thay cho chúng ta (x Ga 19,34), rồi sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Tình yêu của Người luôn trung tín và bền vững đến muôn đời.
3. TÌNH YÊU ĐÁP LẠI TÌNH YÊU :
Trong tháng kính Thánh Tâm này, các hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu (HHTM) có bổn phận đáp đền tình yêu của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su bằng cách :
1) Sống Kết hiệp với Chúa Giê-su bằng việc năng dự lễ rước lễ và thực hành Lời Chúa dạy : Hội viên kết hiệp với Chúa Giê-su qua việc mỗi ngày tham dự Thánh lễ và rước lễ, Mỗi ngày đọc Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình, suy niệm và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
2) Gia tăng Tình Yêu mến Chúa : Năng nói lời nguyện tắt :”Lạy Chúa là Cha đầy tình yêu thương. Con xin làm việc này để cầu cho một tội nhân được ơn hồi tâm sám hối” (x Lc 22,42). Xin Chúa hãy đổ đầy ngọn lửa tình yêu vào lòng con và thôi thúc con hăng say làm sáng danh Chúa, hầu giúp cho nhiều người được hưởng ơn cứu độ với con”.
3) Yêu nhiều sẽ được tha nhiều : Khi ý thức về tội lỗi của mình, chúng ta hãy ăn năn sám hối bằng lời cầu nguyện như thánh Phê-rô xưa :”Lạy Thầy. Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,17), hoặc :“Lạy Chúa xin dạy con yêu mến Chúa”; “Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì ? xin tha thứ tội lỗi cho con”. Vì “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”.(Lc 7,47).
4) Thể hiện Tình Yêu giữa đời thường : Trong thực tế, hội viên phải thể hiện tình yêu tha nhân như yêu bản thân mình (x Mt 22,39) và như Chúa Giê-su đã yêu thương và phó nộp mình vì chúng ta (x Ga 15,12). Thánh Phao-lô cũng dạy :”Tình yêu tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13,7). Yêu thương là quảng đại cho đi (x Cv 20,30), chia sẻ tinh thần vật chất (Mt 25,40); Đi bước trước làm hòa với tha nhân đang có điều bất bình với mình (x Mt 5,24)…
Vậy để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa và đền tạ Thánh Tâm Chúa Giê-su, mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong tháng Sáu kính Thánh Tâm này ?
Nhà Thờ Thánh Mẫu ngày 19 tháng 05 năm 2018
LM GIÁM HUẤN HHTM
Dom ĐINH-VĂN-VÃNG
(ĐAN VINH)
II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN KI-TÔ GIÁO THÁNG 06/2018 :
SẴN SÀNG PHỤC VỤ THA NHÂN
1.LỜI CHÚA : Chúa phán :”Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).
2.CÂU CHUYỆN :
Cách đây ít lâu, một tờ tạp chí kia có đăng một câu chuyện về tình thương giúp đỡ đồng lọai như sau : “Trong một đêm kia, trời nổi cơn giông bão bất ngờ. Lúc đó vào khỏang nửa đêm. Trên đường phố A-la-ba-ma vắng xe đi lại, một bà cụ da đen đứng ở bên đường, mặc cho những giọt mưa lạnh thấu xương như những ngọn roi quất vào mặt theo từng cơn gió mạnh. Bà không ngừng đưa tay ra vẫy các chiếc xe đi ngang qua xin quá giang. Nhưng một chiếc, hai chiếc và thêm nhiều chiếc khác cứ lao vụt qua chỗ bà đứng mà không dừng lại giúp đỡ bà. Dù vậy, bà lão vẫn không nản lòng thất vọng, và cứ tiếp tục vẫy gọi những chiếc xe kế tiếp. Rất may sau nửa tiếng, khi đếm đến chiếc thứ hai mươi mốt thì xe dừng lại. Trên xe là một thanh niên da trắng cho bà lên xe, dù lúc đó đang xảy ra xung đột về sắc tộc màu da. Anh chở bà đến tận nơi và dừng lại theo yêu cầu của bà. Tuy dù rất vội vã, nhưng bà lão cũng không quên cám ơn chàng trai tốt bụng và kịp ghi lại địa chỉ của anh chàng.
Một tuần sau, một hôm nhà anh thanh niên tốt bụng chợt vang lên tiếng chuông gọi cửa. Anh ta hết sức ngạc nhiên khi thấy một cái thùng đựng ti-vi to đùng mới tinh được một nhân viên cửa hàng điện máy để ngay trước cửa nhà anh, kèm theo một lá thư viết như sau :”Cám ơn cháu đã cho bà đi nhờ xe vào cái đêm giông bão hôm trước. Cơn mưa ấy không những đã làm ướt sũng quần áo của bà, mà nó còn làm lạnh buốt trái tim và tinh thần của bà khi phải chờ tới nửa tiếng đồng hồ và có tới trên 20 chiếc xe cứ lao vụt qua. Rồi lúc đó cháu đã xuất hiện như một thiên thần đến trợ giúp bà. Nhờ cháu mà bà đã kịp gặp dược người chồng tội nghiệp của bà trước khi ông tắt thở vì căn bệnh ung thư trong thời kỳ cuối. Hôm nay, sau khi chôn cất người chồng quá cố, bà muốn bày tỏ lòng biết ơn cháu bằng việc gửi tặng cháu món quà nhỏ bé này. Mong cháu hãy vui lòng nhận để bà được yên tâm. Chân thành. Ký tên bà NATKING COLE”.
3.SUY NIỆM :
Để thành công trong cuộc sống xã hội thì ngòai việc trang bị cho mình những kiến thức do học vấn tại nhà trường đem lại, các bạn trẻ còn cần phải có thêm vốn liếng tinh thần là dành được sự cộng tác giúp đỡ của những người chung quanh. Người xưa dạy muốn thành công phải có ba yếu tố : một là thiên thời, hai là địa lợi và ba là nhân hòa. Yếu tố nhân hòa là một yếu tố rất quan trọng. Vì chúng ta không thể chỉ thành công trong việc lớn nhờ vào tài trí riêng cá nhân của mình, mà phải được nhiều người khác sẵn sàng cộng tác giúp đỡ. Tuy nhiên làm thế nào để được sự cộng tác giúp đỡ của người khác ?
-Gieo giống nào sẽ gặt giống đó : Ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặt bão” là quy luật của cuộc sống. Muốn được người khác giúp đỡ thì trước hết ta phải giúp đỡ người khác như lời Chúa Giê-su dạy :” Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).
-Phải sẵn sàng luôn : Sẵn sàng là thái độ các tín hữu phải có để chờ đón giờ Chúa Ki-tô tái lâm (x Mt 24,42.44). Nhiều lần do thiếu sẵn sàng, nên chúng ta đã bỏ qua những cơ hội có thể giúp đỡ người khác, rồi khi kịp nghĩ lại thì cơ hội đã đi qua không trở lại ! Việc quan tâm và sẵn sàng giúp đỡ nhu cầu của tha nhân là một phương cách giúp gây được thiện cảm của người khác hữu hiệu nhất.
-Mỗi ngày quyết tâm làm một việc tốt : Mỗi ngày khi quyết tâm làm một việc tốt giúp đỡ tha nhân, là chúng ta đang gieo những hạt giống tốt cho tương lai cuộc đời mình. Sau này những người được ta giúp đỡ hôm nay sẽ đền ơn đáp nghĩa giúp lại vào những lúc chúng ta không ngờ.
4.THẢO LUẬN : Đọc đọan Tin Mừng Người Sa-ma-ri-a tốt lành” (Lu-ca 10,29-37) và cho biết nếu ở trong hòan cảnh của chàng thanh niên trong câu chuyện trên, bạn sẽ phản ứng thế nào ?
5. LỜI CẦU: Hát bài Kinh Hòa Bình để quyết tâm phục vụ tha nhân.
LM ĐAN VINH
III. MỤC VỤ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH TÍN HỮU THÁNG 06.2018
CHIA SẺ VIỆC NHÀ GIỮA HAI VỢ CHỒNG
1.LỜI CHÚA: Thánh Phao-lô viết: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25).
2.CÂU CHUYỆN:
Gần đây đài truyền hình VCTV 2 có chiếu một bộ phim khá hay nhằm giáo dục các đôi vợ chồng cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Có một đôi vợ chồng kia đã có với nhau được một bé gái 5 tuổi rất đáng yêu. Có điều anh chồng nghĩ mình đi làm mang tiền về nên coi thường vợ. Mỗi lần đưa tiền lương cho vợ, anh lại nói coi thường việc nội trợ của vợ không đáng gì so với nỗi vất vả của anh. Được bạn bè cố vấn và hứa giúp đỡ tài trợ, một hôm chị vợ đã mạnh dạn đề nghị hai vợ chồng hoán đổi công việc cho nhau: vợ sẽ đi làm kiếm tiền về nuôi gia đình với số lương bằng với lương tháng của chồng, và đối lại chồng sẽ ở nhà thay vợ lo việc nội trợ. Hai bên đồng ý sẽ hoán đổi công việc cho nhau trong một tháng. Nếu vợ không đưa đủ tiền lương về nhà hoặc chồng không làm được việc nhà giống như vợ thì sẽ bị phạt. Anh chồng đã lập tức chấp nhận đề nghị của vợ. Sau khi được công ty cho nghỉ phép một tháng, anh bắt đầu hoán đổi công việc với vợ. Từ đó, mỗi buổi sáng chị vợ không phải làm gì khác ngoài việc thức dậy ăn sáng rồi đi đến shop bán quần áo may sẵn làm việc chung với mấy chị em bạn thân, và cả bọn cùng theo dõi anh chồng làm việc nhà thông qua cô cháu gái có nhà kế bên. Về phần anh chồng hằng ngày phải để đồng hồ báo thức thức dậy từ sáng sớm. Sau khi vội vã vệ sinh cá nhân, anh lao vào việc nhà: đun nước pha cà phê và sửa soạn bữa điểm tâm cho cả nhà. Rồi khi vợ đi làm, anh chở con gái đến trường cho kịp giờ học. Sau đó, anh đi chợ mua thực phẩm tươi sống về nhà làm bữa trưa. Cũng may nhờ cô cháu gái thường xuyên có mặt hướng dẫn nhắc bảo, nên công việc của anh trong tuần lễ đầu cũng tạm ổn. Có điều từ khi bắt tay vào việc anh mới thấy công việc nội trợ cũng không dễ dàng như anh đã tưởng. Ngoài ra, đến đầu giờ chiều anh còn phải dọn vệ sinh nhà cửa, giặt giũ quần áo đem phơi rồi ủi cho phẳng. Chẳng mấy lúc đã lại đến giờ làm bữa cơm chiều, rồi lại phải căn giờ đi đón con gái sau giờ tan học. Anh cứ lu bu với trăm thứ việc linh tinh và đã nhiều lần gặp phải thất bại: Có lần đang ủi đồ anh lơ đãng thế nào mà đã làm cháy hỏng bộ đồ đắt tiền của vợ mới mua. Lần khác anh quên không tắt máy bơm nước trước khi đi chợ khiến khi về nhà đã thấy nước chảy lai láng và bị hàng xóm chạy sang mắng vốn. Cũng có lần mải nhâm nhi với bạn bè, anh quên giờ đi đón con khiến bé bị lạc, làm cho cả nhà một phen hú vía phải chạy nhốn nháo đi kiếm con… Rồi số tiền lương anh mang về cuối tháng chẳng mấy lúc đã cạn do phải chi đủ thứ : nào là giấy báo tính tiền điện, nước, internet, truyền hình cáp, gạo, ga… Rồi còn phải chi “tiền cười ,tiền khóc” với hàng xóm và họ hàng đôi bên… Dần dần anh đã thấm thía và nể phục vợ đã khéo xoay sở suốt bao năm qua. Rồi tới một ngày gia đình nhà vợ có cô em vợ mang bầu phải đi nhà hộ sinh và mẹ vợ gọi điện nhờ vợ anh trông nom giúp đỡm giống như cô em đã từng giúp đỡ vợ anh đi sanh mấy năm về trước. Vợ anh đòi anh phải đi thay vì cũng là việc của người nội trợ. Nghĩ tới những việc phải giặt tã lót cho cháu bé sơ sinh, rồi việc giặt quần áo dơ cho cô em vợ… anh đành tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Cũng may chị vợ không bắt anh phải viết bài đăng báo đúng như đã giao ước. Nhưng anh đã “tâm phục khẩu phục” sau hai tuần lễ làm việc nhà. Từ đó anh đã biết thông cảm với nỗi vất vả của vợ và sẵn sàng phụ vợ làm việc nhà mỗi khi đi làm về. Nhờ biết quan tâm đến nhau, mà vợ chồng anh đã không còn cảnh tranh cãi hơn thua với nhau và tình cảm giữa hai vợ chồng lại ngày càng mặn mà thắm thiết và gia đình của hai người ngày một hạnh phúc hơn.
3.THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, bạn đánh giá ra sao giữa việc đi làm với việc nội trợ ở nhà? 2) Chồng đi làm về có cần phụ vợ làm việc nhà nữa không? Tại sao?
4. LỜI CẦU:
Hát bài “Đâu có tình yêu thương” để cầu cho các đôi vợ chồng biết quan tâm giúp đỡ lẫn nhau hầu gia tăng hạnh phúc gia đình.
LM ĐAN VINH
IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 06/2018
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ MÌNH MÁU CHÚA KITÔ (CN 09 THƯỜNG NIÊN B) –
Xh 24,3-8 ; Dt 9,11-15 ; Mc 14,12-16.22-26
HIỆP THÔNG VỚI CHÚA THÁNH THỂ
ĐỂ DỄ CẢM THÔNG VỚI ANH EM
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 14,12-16.22-26
(12) Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? (13) Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó”. (14) Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” (15) Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng. Và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta. (16) Hai môn đệ ra đi, vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua. (22) Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. (23) Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. (24) Người bảo các ông: “Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. (25) Thầy bảo thật anh em: Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”. (26) Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra đi lên núi Ô-liu.
2.Ý CHÍNH:
Đức Giê-su lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly là tiệc chiên Vượt Qua của đạo Do thái, trước khi Người hiến thân chịu tử nạn và phục sinh, hầu thiết lập một Giao ước Mới giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho loài người thay thế cho Giao ước Cũ thời Mô-sê.
3.CHÚ THÍCH:
-C 12-13: +Tuần lễ Bánh Không Men: Luật Mô-sê quy định về lễ Vượt Qua và tuần lễ Bánh Không Men như sau: Ngày 14 tháng Ni-xan (là tháng thứ nhất theo lịch Do Thái, tức vào khoảng tháng 3-4 dương lịch ngày nay), là đại lễ Vượt Qua mừng kính Đức Chúa. Vào ngày này người ta sát tế chiên lúc chập tối và sẽ ăn tiệc chiên Vượt Qua với bánh không men (x. Xh 12,1-14). Hôm sau, là bắt đầu tuần lễ Bánh Không Men kính Đức Chúa kéo dài bảy ngày. Trong tuần này, người Do Thái phải ăn bánh không pha men, để nhắc nhở họ về bữa tiệc trước cuộc xuất hành thời Mô-sê. Cũng từ ngày 15 tháng Ni-xan, họ phải họp nhau để thờ phụng Đức Chúa và kiêng việc xác. Trong 7 ngày, họ phải tiến hành dâng lễ vật hỏa tế lên Đức Chúa. Đến ngày thứ Bảy là ngày kết thúc, họ phải tập họp lại để thờ phượng Đức Chúa và kiêng các công việc lao động nặng (x. Lv 23,5-8). +Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua tại đâu?: Môn đệ hỏi Đức Giê-su như hỏi một người chủ gia đình có trách nhiệm cử hành lễ Vượt Qua. Vì là dân nhập cư từ nơi khác đến Giê-ru-sa-lem, nên Đức Giê-su và các môn đệ được quyền tổ chức ăn mừng lễ Vượt Qua trước một ngày, tức vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ Năm bắt đầu ngày thứ Sáu, thay vì lẽ ra phải mừng vào 6 giờ chiều thứ Sáu tức bắt đầu ngày thứ Bảy, mà năm ấy lễ Vượt Qua nhằm vào thứ Bảy (x. Ga 19,14.31.42). +Người sai hai môn đệ đi: Đây là Phê-rô và Gio-an (x. Lc 22,8). +Sẽ thấy một người mang vò nước…: Đức Giê-su làm chủ không gian và thời gian: Người nhìn thấy trước mọi sự việc đúng như nó sắp xảy ra, cũng như có lần Người thấy trước Na-tha-na-en lúc đang ngồi dưới gốc cây vả (x.Ga 1,48).
-C 14-16: +Các ông dọn tiệc Vượt Qua: Theo tục lệ cổ truyền, khi ăn thịt chiên tại nhà, mọi người phải đứng, lưng thắt gọn gàng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn cách vội vã (x. Xh 12,11). Nhưng đến thời Đức Giê-su, người Do Thái không còn giữ tục lệ ấy. Khi ăn tiệc, họ cũng theo cách thức ăn tiệc của văn hóa La-Hy (La-tinh Hy-Lạp) đương thời: Thực khách dự tiệc nằm trên một tấm thảm, đầu nghiêng về một bên và dựa vào cánh tay trái dùng làm gối. Còn tay mặt thì dùng để lấy đồ ăn.
+VỀ VỊ TRÍ TRONG BỮA TIỆC LY VƯỢT QUA: Người môn đệ được Đức Giê-su yêu quí là Gio-an nằm ở bên phải Đức Giê-su và có lúc đã tựa đầu vào ngực Thầy (x. Ga 13,25). Tiếp đến là Phê-rô nằm cạnh Gio-an. Chính ông Phê-rô đã làm hiệu và bảo Gio-an: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai vậy?” (Ga 13,24). Còn Giu-đa nằm ở bên trái Đức Giê-su. Điều này giải thích tại sao Đức Giê-su trả lời cho Giu-đa mà các môn đệ khác không nghe được (x. Mt 26,25), và việc Đức Giê-su dễ dàng “chấm một miếng bánh trao cho Giu-đa” (x. Ga 13,26). Ngoài ra, về vị trí của các môn đệ khác thì khó xác định.
-C 22: +Cũng đang bữa ăn: Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su lập Phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Vượt Qua. Đức Giê-su đã theo diễn tiến bữa tiệc Chiên Vượt Qua để truyền cho bánh rượu trở nên Mình Máu thánh của Người (x. Ga 6,51-58). +Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông: Đây là những cử chỉ Đức Giê-su đã làm nhiều lần trước đó như: Hai lần làm cho bánh nhân ra nhiều (x. Mc 6,41; 8,6); Một lần làm trong bữa Tiệc ly Vượt Qua (x. Lc 22,19); Một lần Chúa Phục sinh làm khi ngồi ăn tối với hai môn đệ làng Em-mau (x. Lc 24,30)… Cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng là cử chỉ mà gia trưởng phải làm trong nghi lễ tiệc Chiên Vượt Qua theo luật Mô-sê, sau khi các người đồng bàn hát kinh Ha-len phần I (gồm Thánh vịnh 112-113) và uống chén rượu thứ hai. “Bẻ bánh ra và trao cho các ông” là hai cử chỉ mang ý nghĩa hiệp thông và huynh đệ cộng đoàn. + Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy: Trong niềm tin Ki-tô giáo, Đức Giê-su đã dùng quyền năng để biến đổi bản chất của tấm bánh trở nên Thân Mình của Người, chứ không phải chỉ thành biểu tượng cho Mình Chúa mà thôi, như có người lầm tưởng (x. Ga 6,51-58; 1 Cr 11,23-25).
-C 23-25: +Và Người cầm chén rượu…: Chén rượu với lời tạ ơn ở đây là chén rượu thứ ba trong nghi lễ tiệc Chiên Vượt Qua. Đức Giê-su dùng chén rượu thứ ba này để thiết lập Giao ước Mới. + Đây là Máu Thầy, Máu Giao ước, đổ ra vì muôn người: Đây là Máu Giao ước Mới, khác với Giao ước Cũ thời Xuất hành, đã được ghi lại trong sách Xuất hành như sau: “Bấy giờ ông Mô-sê lấy máu rảy trên dân và nói: “Đây là máu Giao ước Đức Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời này” (Xh 24,8). Trong nghi lễ Giao ước Xi-nai được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Ít-ra-en, người ta giết bò, rồi vị tư tế lấy máu nó rảy trên bàn thờ và trên dân chúng. Máu đó là dấu chỉ mối tương quan mới và sự hiệp thông giữa Đức Chúa với dân Ít-ra-en. Trong thời Tân ước, Giao ước Mới được thiết lập bằng Máu Đức Giê-su Con chiên Thiên Chúa, là dấu chỉ sự hiệp thông mới giữa Thiên Chúa với Hội Thánh là dân Ít-ra-en Mới. Máu sắp đổ khi Đức Giê-su chịu khổ nạn thập giá. Cái chết của Người sẽ đền tội thay cho loài người, để ban ơn cứu độ cho muôn người. +Chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa: Đến ngày tận thế, sau khi lịch sử nhân loại chấm dứt và Nước Thiên Chúa xuất hiện, Đức Giê-su sẽ uống rượu mới với những người được cứu độ trong bữa tiệc cánh chung. Hình ảnh này diễn tả sự hiệp thông chia sẻ trọn vẹn và chung cuộc giữa các môn đệ với Đức Giê-su và với Thiên Chúa.
4.CÂU HỎI: 1)Đức Giê-su thiết lập phép Thánh Thể ở đâu, khi nào và lập để làm gì? 2)Luật Mô-sê qui định thế nào về lễ Vượt Qua và tuần lễ Bánh Không Men? 3)Tại sao Đức Giê-su và các môn đệ lại ăn lễ Vượt Qua vào tối thứ Năm thay vì vào tối thứ Sáu là lúc bắt đầu đại lễ Vượt Qua năm đó? 4)Hai môn đệ nào đã được Đức Giê-su sai đi dọn chỗ cho thầy trò ăn mừng lễ Vượt Qua? 5)Theo tục lệ, người Do thái phải ăn lễ Vượt Qua như thế nào? Tuy nhiên Đức Giê-su và các môn đệ lại ăn tiệc Vượt Qua theo cách nào? 6)Dựa vào Tin Mừng, hãy cho biết vị trí ngồi của các ông Gio-an, Phê-rô và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt trong bàn tiệc? 7)Đức Giê-su đã lập phép Thánh Thể, truyền cho bánh rượu trở nên Mình Máu Người theo thứ tự nào? 8) Những cử chỉ Đức Giê-su làm khi truyền phép giống với các cử chỉ Người đã làm trong các hoàn cảnh nào? 9)Bạn nhận định thế nào về ý kiến cho rằng: Sau khi truyền phép bánh không biến thể sang Mình Thánh Chúa, mà chỉ trở thành biểu tượng Mình Thánh Chúa thôi? 10)Chén rượu được truyền phép trở thành Máu Thánh Đức Giê-su là chén rượu thứ mấy trong bữa tiệc chiên Vượt Qua của đạo Do Thái? 11)Phân biệt Máu Giao Ước Mới mà Đức Giê-su sắp đổ ra trong cuộc khổ nạn có giá trị và hiệu quả khác với máu chiên bò sát tế trong Giao Ước Cũ thời Mô-sê như thế nào? 12)Đức Giê-su hứa sẽ hiệp thông và chia sẻ bằng việc uống rượu mới với các môn đệ trong Nước TC vào lúc nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA: “Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy” (Mc 14,22):
2.CÂU CHUYỆN:
1) NGUỒN GỐC LỄ MÌNH THÁNH CHÚA
Vào năm 1263, một linh mục người Đức đang cử hành Thánh lễ tại một nhà thờ kinh thánh KÍT-XI-A-NA (Christiana), lúc bẻ bánh trước khi rước lễ, vị linh mục này đã trông thấy Mình thánh hình bánh đã biến thành Thân Mình Đức GIÊ-SU tử nạn. Trên thân xác Chúa, máu đang rịn ra qua các vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. Máu chảy ra làm ướt tấm khăn thánh và mấy lớp khăn phủ trên bàn thờ. Vị linh mục vội gấp các tấm khăn bàn thờ lại. Nhưng gấp tới đâu thì máu vẫn thấm ra tới đó. Cuối cùng máu thấm qua tới 25 lần vải khăn. Vừa cảm động lại vừa sợ hãi đến nỗi vị linh mục không thể tiếp tục dâng hết thánh lễ được.
Sau đó, ngài đến xin yết kiến Đức Giáo hoàng UR-BA-NÔ và tường trình sự kiện lạ lùng ấy. Đức Giáo hoàng liền sai một phái đoàn, đứng đầu là một Giám mục đến điều tra thực hư. Sau khi xác định thực sự là phép lạ, vị Giám mục đã cho rước Mình Thánh Chúa cùng các khăn bàn thờ đã có thấm Máu Thánh kia về RÔ-MA, đặt tại một nhà thờ kính phép Mình Thánh, và mời gọi giáo dân đến chầu Mình Thánh Chúa liên tục 24/24. Sau đó, vào ngày mồng 8 thánh 9 năm 1264, Đức Urbanô đã ra sắc dụ truyền thiết lập lễ kính Mình Máu thánh Chúa GIÊ-SU và truyền mừng trọng thể lễ này trong toàn thể Hội thánh.
2) KỶ VẬT TÌNH YÊU
Có một đôi vợ chồng trẻ kia mới lấy nhau được mười năm và đã có với nhau một đứa con gái 4 tuổi. Trong thời gian đó họ đã sống rất hòa hợp hạnh phúc. Mỗi ngày trước khi rời nhà đi làm buổi sáng, và chiều tối khi về đến nhà, anh chồng không khi nào quên trao cho vợ và con gái cử chỉ âu yếm kèm theo một lời nói yêu thương. Nhờ đó tình yêu giữa hai vợ chồng và đứa con thơ ngày thêm bền chặt. Nhưng rồi hạnh phúc của họ đã bị đe dọa khi một hôm người chồng đi làm về bị trúng mưa và được đem đến bệnh viện điều trị. Sau khi khám bệnh, bác sĩ chẩn đoán anh đã bị bệnh ung thư màng phổi ác tính thời kỳ thứ ba. Một tuần sau thì anh qua đời. Trước khi chết, anh gọi vợ con lại gần và thều thào trăn trối: “Em và con yêu quí! Có lẽ sắp tới giờ Chúa gọi anh về. Anh đã chuẩn bị và sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Anh chỉ tiếc một điều là không còn được sống bên em và con nữa. Trước khi đi xa, anh không có gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn mà vợ chồng mình đã tặng nhau khi kết ước cách đây mười năm. Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn kỷ vật này cho em, để mỗi lần thấy nó, em biết rằng anh vẫn luôn ở bên em và hằng cầu Chúa cho em được hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc nhẫn đang đeo và âu yếm xỏ vào tay vợ, giống như trước đây anh đã từng làm trong lễ hôn phối. Rồi anh đã nhắm mắt lìa đời trong sự thương tiếc vô vàn của vợ con. Sau đó anh đã được an táng tại khu đất thánh gần nhà. Từ đó, mỗi ngày người ta đều thấy một phụ nữ còn rất trẻ, đầu đội khăn tang, tay cầm bó bông, dắt theo đứa con gái còn nhỏ dại đi vào trong nghĩa trang. Chị ta đã đứng hằng giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa xanh của người chồng quá cố để cầu nguyện cho anh. Trên tay chị có đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ vật của chồng tặng trước khi từ giã cuộc đời.
3. THẢO LUẬN:
1) Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể khi nào và ý nghĩa của bí tích này ra sao?
2) Ta phải hiệp thông với Chúa Thánh Thể thế nào để cảm thông và chia sẻ với tha nhân, hầu góp phần kiến tạo “Trời Mới Đất Mới” theo thánh ý Chúa?
4. SUY NIỆM:
Hơn hai ngàn năm trước đây, Đức Giê-su đã làm một việc tương tự: Biết rằng “Giờ đã đến, Giờ Con Người phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, và Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Người đã lập phép Thánh Thể, để lại cho Hội Thánh kỷ vật là dấu hiệu của một tình yêu lớn lao tột đỉnh. Kỷ vật đó chính là Mình Máu Người dưới hình bánh rượu, làm của ăn của uống thiêng liêng để các tín hữu được hiệp thông với Người. Tin Mừng Mác-cô đã tường thuật việc Đức Giê-su lập phép Thánh Thể trong khung cảnh bữa tiệc Chiên Vượt Qua (x Mc 14,22-24), như Người đã hứa trong bài giảng về Bánh Hằng Sống tại hội đường thành Ca-phác-na-um (x. Ga 6,51-58). Vậy Đức Giê-su thiết lập phép Thánh Thể khi nào? Ý nghĩa cũa bí tích này ra sao? Ngày nay, để đạt hiệu quả cao nhất, chúng ta phải cử hành bí tích Thánh Thể như thế nào?
1) THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Đức Giê-su đã thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc Chiên Vượt Qua cũng là bữa ăn cuối trước khi từ biệt các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Người sử dụng bánh không men và rượu nho dùng trong bữa tiệc Vượt Qua của đạo Do thái để biến nên Thịt Máu Người, hầu ban cho những kẻ ăn Thịt uống Máu ấy sẽ được sống đời đời. Thánh Mác-cô đã thuật lại câu chuyện Đức Giê-su lập phép Thánh Thể như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các ông và nói: Anh em hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy. Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: Đây là Máu Thầy, Máu Giao Ứớc, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,22-24).
2) Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Tin Mừng đã ghi nhận bốn sự kiện liên quan đến bí tích Thánh Thể như sau:
– Một là phép lạ Đức Giê-su biến nước lã thành rượu nho tại tiệc cưới thành Ca-na, tiên báo về việc biến rượu trở nên Máu Người trong bữa Tiệc Ly sau này (x Ga 2,1-11).
– Hai là phép lạ Đức Giê-su nhân bánh ra nhiều tại thành Ca-phác-na-um, sau đó Người cho biết sẽ ban Thịt Máu Người làm của ăn của uống thiêng liêng đem lại sự sống đời đời cho những ai lãnh nhận (x Ga 6,1-14.32-35.48-58).
– Ba là bữa Tiệc Ly, trong đó Người dùng bánh rượu dùng trong tiệc Chiên Vượt Qua của Do thái giáo để thiết lập bí tích Thánh Thể của Ki-tô giáo và đã truyền cho các môn đệ: ”Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,14-19).
– Bốn là Đức Giê-su Phục Sinh cử hành nghi thức Bẻ Bánh với hai môn đệ tại làng Em-mau: dọc đường Người đã dùng lời Thánh Kinh để nói về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đấng Thiên Sai khiến các ông nóng lên lòng yêu mến Chúa. Rồi trong lúc ăn tối, Người lặp lại các cử chỉ lời đọc trong bữa Tiệc Ly (x Lc 24,13-32) khiến mắt họ mở ra và nhận biết Người.
Như vậy, Mình Thánh Chúa chính là món quà quí giá nhất mà Chúa Giê-su tặng ban cho loài người. Người đã tự hiến để ban Thịt Máu Người làm của ăn thức uống nuôi dưỡng đức tin của chúng ta và để có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Mặc dù trí khôn chúng ta khó lòng hiểu thấu, dù giác quan của chúng ta không cảm thấy có sự khác biệt giữa tấm bánh ly rượu trước và sau khi truyền phép, nhưng đức tin dạy chúng ta rằng: Sau lời truyền phép của linh mục chủ tế trong thánh lễ thì bánh rượu liền biến hóa nên Mình Máu Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Vì Thịt Tôi thật là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,54-56). Quả thật, chỉ có trái tim của một người Cha, người Thầy yêu thương con cái và môn đệ đến cùng như Chúa Giê-su, mới nghĩ ra phương thế tuyệt hảo để tặng một món quà vừa thiết thực vừa kỳ diệu như vậy!
3) NĂNG HIỆP THÔNG VỚI CHÚA THÁNH THỂ ĐỂ CHIA SẺ CHO ANH EM:
– Đức Giê-su là tấm bánh bẻ ra xây dựng một thế giới mới: Tin Mừng Gioan có đoạn như sau : “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Như hạt lúa được biến đổi nên tấm bánh mì, phải qua nhiều công đoạn: bị nghiền nát thành bột, nhào với nước và cho vào lò nướng rồi mới trở thành tấm bánh mì thơm ngon, thì Chúa Giê-su cũng tự nguyện trở nên bánh thánh cho nhân loại chúng ta trải qua nhiều công đoạn như: hạt lúa Giê-su đầu tiên được gieo trong lòng Đức Mẹ Đồng Trinh, đã lớn lên dưới ánh nắng mặt trời làng Na-da-rét, rồi Người đã bị gặt hái, bị nghiền nát trong cuộc tử nạn, bị nướng trong lò luyện đau khổ thập giá trước khi phục sinh rồi được bẻ ra và trao cho chúng ta hưởng dùng. Do đó, khi đón nhận Bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi trở nên giống như tấm bánh Giê-su, chịu đau khổ và được chia sẻ cho anh em để mang lại sự thật, bình an cho thế giới đang chìm trong tối tăm, gian ác, bất công, dối trá, hận thù.
– Hiệp thông với Chúa bằng việc năng dự lễ và cầu nguyện: Mỗi ngày chúng ta hãy năng tham dự Thánh lễ và dọn mình rước lễ sốt sắng, năng đến chầu Thánh Thể. Trong ngày hãy làm các việc bổn phận, các việc hãm mình, hy sinh và bác ái để dâng lên Chúa kèm theo lời nguyện tắt: “Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Con làm việc này như bông hoa dâng tiến Chúa, biểu lộ lòng con yêu mến Chúa. Xin Chúa vui nhận và ban cho một bệnh nhân sớm được ơn chữa lành, cho một tội nhân sớm được hồi tâm hoán cải, cho một người lương quen biết sớm tin yêu Chúa để họ cũng được chia sẻ niềm vui và hạnh phúc Nước Trời đời đời với con.”
– Hiệp nhất với nhau trong cộng đoàn: Bàn tiệc Thánh Thể do Chúa lập ra để giúp chúng ta thể hiện tình thương hiệp nhất với nhau. Do đó, chúng ta cần tránh những hành động ích kỷ gây chia rẽ nội bộ, như Tông đồ Phao-lô đã cáo trách một số người thuộc giáo đoàn Cô-rin-thô: “Trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước. Và như thế kẻ thì bị đói, người lại no say! Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của?… Cho nên thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án!” (1 Cr 11,18-22.33-34). Mỗi người chúng ta hãy thể hiện tình hiệp thông khi tham dự thánh lễ bằng cách: vào trong nhà thờ dự lễ thay vì đứng ngoài, mở miệng đối đáp với chủ tế và đọc kinh ca hát chung với cộng đoàn.
– Chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân: Sau khi rước lễ để đón Chúa Thánh Thể vào lòng, chúng ta hãy tâm sự với Chúa và sau lễ hãy mang Chúa đến chia sẻ với tha nhân, bằng vịệc chủ động bắt tay làm quen với những người có dịp tiếp xúc, nhẫn nhịn chịu đựng không chấp nhất những lời nói và cách ứng xử thiếu bác ái của tha nhân, không dửng dưng trước nỗi đau của người bên cạnh, nhưng quảng đại nhường cơm sẻ áo, nhường chỗ tốt cho người già cả, tật bệnh trên xe và ở nơi chung, năng xin điều lành cho những người đau khổ, khiêm tốn trình bày về Chúa cho người muốn tìm hiểu đức tin công giáo…
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Chúng con phải sống tinh thần của bí tích Thánh Thể”, nghĩa là trở nên “tấm bánh bẻ ra cho một thế giới mới”. Xin cho chúng con ý thức rằng: Chúa luôn đồng hành với chúng con và nhờ chúng con đến với tha nhân, để an ủi động viên những người nghèo khó lao nhọc, bênh vực những kẻ cô thế cô thân, mời gọi những tội nhân hồi tâm sám hối, chia sẻ cơm bánh vật chất cho những kẻ đói khát, khiêm tốn phục vụ những ngừơi bất hạnh … Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ được Chúa thương ban ơn cứu độ và đón nhận chúng con vào dự bàn tiệc Nước Trời với Chúa sau này.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ THÁNH TÂM NĂM B
Hs 11,1.3-4.8c-9; Ep 3,8-12.14-19; Ga 19,31-37
TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI
1. TIN MỪNG: Ga 19,31-37
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TỪ LỄ THÁNH TÂM ĐẾN LỄ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
– Lòng sùng kính Thánh Tâm là sự tôn kính đặc biệt đối với tình yêu của Chúa Giê-su, hiện thân tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Đức Giê-su cũng đã biểu lộ tình yêu tột cùng với các môn đệ nên trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến tấm bánh không men dùng trong bữa tiệc chiên trở thành Thân Mình của Người sắp bị nộp vì tội lỗi nhân loại. Rồi Ngừoi cũng đọc lời truyền phép để biến chén rượu nho trong bữa Tiêc Ly trở thành chén Máu thánh của Người sắp đổ ra để đền tội cho nhân loại. Bí tích Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa Giê-su, được diễn tả cách rõ nét khi trên cây thập giá, Đức Giê-su còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn trúng trái tim và Máu cùng Nước đã chảy ra từ vết thương này, như đồ đệ Gioan đã làm chứng đã nhìn thấy và ghi chép trong sách Tin Mừng (x. Ga 19,34-35). Máu và Nước đó đã tuôn trào để tẩy rửa tội lỗi của loài người và cũng để ban ơn cứu độ và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã có từ thế kỷ XI. Nhưng mãi đến thế kỷ XVI, lòng sùng kính này vẫn chỉ mang tính riêng tư, gắn với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh của Chúa. Mãi đến ngày 31-8-1670 Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mới được cử hành tại Rennes nước Pháp, nhờ công khó của Thánh Jean Eudes (1602-1680). Từ Rennes, lòng sùng kính Thánh Tâm đã lan truyền đi nhiều nơi, nhưng phải chờ đến thánh nữ Margarette Marie Alacoque, lòng sùng kính Thánh Tâm mới có điều kiện lan rộng đi khắp nơi trên thế giới.
Trong những lần được thị kiến thấy Chúa Giê-su, thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE đã được Người mặc khải về hình ảnh một Trái Tim của Chúa Giê-su có ngọn lửa và vòng gai quấn quanh. Lần hiện ra quan trọng xảy ra vào ngày 16-6-1675, Chúa Giê-su đã hiện ra yêu cầu Thánh nữ Margarette xin với giáo quyền cho cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, để đền bù sự vô ơn bạc nghĩa của loài người đối với tình yêu vô cùng và sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-su. Thánh Tâm không những là biểu hiệu của một trái tim thể lý mà còn biểu hiệu tình yêu thương vô biên của Chúa đối với nhân loại.
Lòng sùng kính Thánh Tâm đã được phổ biến từ sau khi Thánh nữ Margarette Marie Alacoque qua đời vào năm 1690, nhưng phải mãi đến năm 1765, lễ Thánh Tâm mới được cử hành chính thức tại nước Pháp. Gần 100 năm sau (1856), ĐGH Piô IX đã truyền mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa cho toàn thể Hội Thánh theo đề nghị của Hội đồng Giám mục Pháp. Thánh Thể và Thánh Tâm đều là Nguồn Tình Yêu vô biên của Chúa Giê-su, Đấng đã yêu thương nhân loại tội lỗi đến cùng, đến nỗi bằng lòng chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá để đền bù tội lỗi của họ và ban ơn cứu độ cho họ.
b) Ngày nay, Chúa Giê-su cũng đã mặc khải về Lòng Thương Xót của Người cho Thánh nữ FAUSTINA KOWALSKA người Ba Lan (1905-1938). Người cũng yêu cầu thánh nữ hãy xin với giáo quyền thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót bằng những lời sau: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót đã được đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II người Ba-lan chính thức thiết lập vào ngày 30/4/2000 và truyền mừng trọng thể lễ kính Lòng Chúa Thương Xót trong toàn thể Hội Thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm.
Gần đây, Đức thánh cha Phanxicô tyuyên bố sẽ chính thức mở Năm Thánh Kính Lòng Chúa Thương Xót (2016) để tạo cơ hội cho các con cái Hội Thánh khám phá những nét mới mẻ của Lòng Chúa Thương Xót, kín múc dồi dào những hồng ân đang tuôn trào từ nguồn suối vô tận là Trái Tim rất thánh của Chúa Giê-su. Trong Năm Thánh này, hãy để cho Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa thanh tẩy và nhào nắn chúng ta nên những tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, nhờ đó lòng tràn ngập niềm vui chúng ta sẽ đủ tự tin ra đi để chia sẻ tình thương của Chúa đến cho mọi người.
2) MƯỜI HAI LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Để khuyến khích mọi người hiểu biết lợi ích của việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Người đã hứa với Thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE sẽ ban những ơn ích thiêng liêng cho những ai sùng kính Thánh Tâm như sau:
1-Ta sẽ ban cho họ mọi ân sủng cần thiết trong đời sống.
2-Ta sẽ ban bình an cho gia đình họ và sẽ tái hợp các gia đình đã ly tan.
3-Ta sẽ an ủi họ trong mọi lúc khó khăn.
4-Ta sẽ là nơi họ trú ẩn khi sống và trước khi chết.
5-Ta sẽ ban Phép Lành Nước Trời trên công việc của họ.
6-Các tội nhân sẽ tìm được Nguồn Thương Xót vô hạn nơi Thánh Tâm Ta.
7-Các linh hồn lạnh nhạt sẽ trở nên nhiệt thành.
8-Các linh hồn nhiệt thành sẽ mau đạt tới sự trọn lành.
9-Ta sẽ chúc lành cho nơi nào trưng bày và tôn sùng linh ảnh Thánh Tâm Ta, và Ta sẽ ghi dấu tình yêu của Ta vào lòng những người đeo hình Thánh Tâm Ta. Ta cũng sẽ phá hủy mọi sự rối loạn nơi họ.
10-Các linh mục nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm Ta thì Ta sẽ ban cho họ ơn hoán cải các linh hồn chai cứng nhất.
11-Những người truyền bá lòng tôn sùng này sẽ được ghi tên trong Thánh Tâm Ta, không bao giờ phai nhòa.
12-Ta hứa với lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Ta rằng những người rước lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng trong 9 tháng liên tiếp, tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ ban cho ơn ăn năn trở lại trong cuối đời: Họ sẽ không chết trong tình trạng thất sủng hoặc không được lãnh nhận các bí tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong giờ sau hết.
Lời Chúa hứa luôn chắc chắn. Hãy tin tưởng và hãy dành 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, nghĩa là thực hành việc tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm Chúa Giê-su liên tục và rước lễ trong 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng.
3. THẢO LUẬN: 1) Thánh Tâm Chúa Giê-su đã biểu lộ tình yêu tột cùng đối với loài người chúng ta như thế nào ? 2) Mỗi người chúng ta cần làm gì thể hiện tình yêu đối với tha nhân để đáp lại tình yêu của Chúa Giê-su đối với chúng ta ?
4. SUY NIỆM:
1) Ngọn lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su đã nói về lửa yêu mến của Người: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Ngọn lửa yêu thương của Chúa cần được bùng cháy lên trong tâm hồn các tín hữu. Trên cây thập giá Người đã nói: “Ta khát” (Ga 19,28), Ngài khát tình yêu của chúng ta và Người đã yêu thương chúng ta. Ngôn sứ Hôsê tuyên sấm về tình yêu của Đức Chúa như sau: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (x. Hs 11,8). Chúa Giê-su đã chứng tỏ tình yêu tột cùng của Người đối với chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người yêu thương chúng ta vô điều kiện, yêu ta ngay khi chúng ta đang còn là tội nhân (Rm 5:8) và yêu đến tột cùng (ga 13:1). Người muốn chúng ta học nơi Người về phong cách yêu thương là đối xử dịu hiền và khiêm tốn phục vụ người mình yêu: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Chúng ta không thể không yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Ngày nay chúng ta không thể đến được với Thiên Chúa Cha nếu không đi con đường Giê-su là yêu thương chia sẻ hạnh phúc cho tha nhân: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Người đến để yêu thương là “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:9-10).
2) Sức mạnh của lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Lửa có đặc tính kỳ diệu: Lửa có vẻ mềm yếu nhưng cũng có sức mạnh to lớn– mạnh hơn mọi thứ sức mạnh. Một đốm lửa nhỏ có thể dập tắt dễ dàng bằng một làn gió nhẹ, nhưng một ngọn lửa lớn thì không dễ gì dập tắt được. Gió càng lớn lại càng làm cho ngọn lửa bùng cháy mạnh hơn. Lửa khi được chia sẻ ra nhiều không hề giảm bớt sức mạnh mà càng nhân sức mạnh thêm lên nhiều! Lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su cũng có sức mạnh như vậy. Ai yêu mến Chúa và kết hiệp với Chúa thì sẽ được Người thông ban ngọn lửa yêu mến có tác động kỳ diệu đến những tâm hồn khô khan nguội lạnh như vậy.
3) Thánh Thể gắn liền với Thánh Tâm: Trong tuần Chúa Nhật kính trọng Thể Thánh Thể Chúa Giê-su, Hội Thánh cũng mừng kính Thánh Tâm Chúa vào ngày thứ sáu trong tuần.
Khi diễn tả tình yêu, người ta thường dùng hình ảnh trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu. Qua đó cho thấy: Yêu là CHO nhiều hơn NHẬN! và mọi người đều muốn yêu và được yêu. Con tim có những lý lẽ riêng mà lý trí không thể hiểu biết được, như lời thánh Phaolô trong thư Rôma: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
4) Sống yêu thương bằng việc quảng đại chia sẻ cho đi:
Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta qua việc chậm giận và hay tha thứ, ở lại trong tình yêu của Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ điều răn của Chúa.
Tác giả thánh vịnh 103 diễn tả tình yêu của Chúa cụ thể như sau: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8 và 10).
Thánh Gioan cũng khuyên các tín hữu yêu thương nhau như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8).
Người mời gọi các tín hữu chúng ta phải yêu thương nhau: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau… Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16).
Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là tín thác mọi sự cho lòng thương xót của Người, tin Chúa bằng cả con người của chúng ta chứ không chỉ bằng môi miệng bề ngoài. Chúa Giê-su luôn mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Yêu ai thì tìm làm theo ý người đó, muốn làm cho người đó được vui và muốn nên giống người đó.
Tình yêu của Chúa Giê-su đã được Người diễn tả qua hình ảnh “TRÁI TIM BỊ ĐÂM THÂU”. Vì thế, Người đã bày tỏ cho thánh nữ Magarita, vào thế kỳ 15 bằng hình ảnh “TRÁI TIM CÓ LỬA VẤN VÒNG GAI” chung quanh và truyền cho thánh nữ Magarita truyền bá rộng rãi cho thế nhân.
Tóm lại: Chúa Giê-su muốn minh định tình yêu của Thiên Chúa qua hình ảnh “Thánh Tâm” của Người. Đồng thời, Người mời gọi thế nhân hãy năng sử dụng con tim. Thánh Phao-lô cũng cho biết, sau cùng mọi thứ sẽ tan biến , chỉ còn lại lòng bác ái là tình yêu thương.
Như vậy, tháng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su là tháng mà Gíao Hội nhắc nhở đến sứ điệp của Chúa Giê-su, đã mặc khải nhiều lần cho thánh nữ Magarita: Yêu như THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU là cho đi, “cho thì có phúc hơn là nhận”.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 10 TN B
St 3,9-15 ; 2 Cr 4,13-5,1 ; Mc 3,20-35
AI LÀ ANH EM CỦA TÔI
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 3,20-35
20 Hôm ấy, Ðức Giê-su trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí. 22 Còn các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ qủy. 23 Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?” 24 Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững. 26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. 27 Không ai vào nhà một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó. 28 “Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời”. 30 Ðó là vì họ đã nói “ông ấy bị thần ô uế ám ». 31 Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. 32 Lúc ấy, đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy !” 33 Nhưng Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi?” 34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
2. Ý CHÍNH:
Sau khi tuyển chọn Nhóm Mười Hai tông đồ, Đức Giê-su đã về thăm quê hương Na-da-rét. Tại đây Người đã phải ứng xử với ba nhóm người khác nhau: Một là đám đông dân chúng tin theo Người; Hai là các thân nhân không tin vai trò Thiên Sai của Người; Ba là các kinh sư Do thái từ Giê-ru-sa-lem đến để tìm cách ngăn cảm công việc của Người.
Người đã trả lời cho họ việc Người trừ được ma quỷ là nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Những ai dám nói Người bị quỷ ám là đã xúc phạm đến Thánh Thần. Người cũng cho biết thân nhân đích thực của Người là những ai lắng nghe Lời Người giảng và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Ðức Giê-su trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được: Đám đông kéo đến với Đức Giê-su, vì nghe biết những gì Người đã làm như chữa lành người bại tay trong hội đường vào ngày sa-bát và chữa lành nhiều bệnh nhân. Mặc dù Mác-cô không kể ra những gì Đức Giê-su làm cho họ, nhưng chúng ta có thể suy đoán Người tiếp tục chữa lành các bệnh nhân và giải thoát những người bị quỉ ám. Chính vì thế mà Người và các môn đệ không có giờ ăn uống và bị người thân và các kinh sư chống lại.
Đức Giê-su đã đáp lại các nhu cầu của đám dông là rao giảng chữa lành bệnh tật và giải thoát người ta khỏi sự quấy phá của ma quỉ. + Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí: Tại sao người thân của Người lại cho rằng Người mất trí và muốn đi bắt Người về nhà? Đó là do họ đã không tin Người là Đấng Thiên Sai và họ sợ dân chúng các nơi kéo đến gây mất trật tự có thể liên lụy đến họ. Họ coi Người là kẻ bất bình thường, khi hăng hái làm việc quên cả ăn uống.
– C 23-30: + “Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?” : Đức Giê-su phản bác những người chống đối Người khi cho rằng Người chỉ là người bình thường. Sở dĩ Người trừ được quỷ là do đã dựa vào quyền lực của quỷ vương mà trừ quỷ đó thôi. + Ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời: Đức Giê-su đã phản bác lại họ khi Người cho biết Thiên Chúa là Đấng nhân từ và luôn tha thứ tội lỗi của loài người. Tuy nhiên cũng có thứ tội không được Chúa tha là tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Vậy tội phạm đến Thánh Thần là tội gì? Đây là tội cố tình chối bỏ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Do con người có quyền tự do tin hay không tin Thiên Chúa, đón nhận hay không đón nhận sự tha thứ của Người. Vì thế, dù Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người, nhưng vẫn có những người cố chấp nghe theo ma quỷ cám dỗ, cố tình không tin nhận và không đón nhân tình thương tha thứ của Thiên Chúa, thể hiện qua thái độ không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và không đón nhân ơn cứu độ của Người.
– C 31-35: + Mẹ và anh em Ðức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra… Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”: Nhân lúc đó có Mẹ Ma-ri-a và mấy anh em bà con đứng ngoài muốn được gặp mặt Người, Đức Giê-su liền dạy cho mọi người hiểu đúng thế nào là Mẹ và anh em thực sự của Người. Đó không những là những người có liên hệ huyết thống với Người, mà điều quan trọng hơn là họ phải tin nhận Người là Đấng Thiên Sai, vâng nghe Lời Người dạy để làm theo thánh ý Chúa Cha. Những người đó mới thực sự là Mẹ và là anh chị em của Chúa.
4. CÂU HỎI:
1) Đám đông đến với Đức Giê-su để làm gì ?
2) Tại sao thân nhân của Đức Giê-su lại đi bắt Người ?
3) Các Kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống đã làm gì để chống đối Đức Giê-su ?
4) Đức Giê-su đã phản bác lại lập luận của họ về việc Người trừ quỷ bằng câu nói gì ?
5) Theo Đức Giê-su thì ai là kẻ nói phạm đến Thánh Thần ? Tại sao tội của họ sẽ không bao giờ được tha ?
6) Mẹ và anh em thực sự theo ý của Đức Giê-su là những ai ? Tại sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Người đáp lại: “Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi?” 34 Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: “Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,33-35).
2. CÂU CHUYỆN:
1) THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Trong Chúa nhật đầu tiên tại một giáo xứ, vị linh mục vừa nhận chức đã giảng một bài giảng rất văn hoa, xúc tích sâu sắc, hùng hồn. Tất cả các tín hữu có mặt hôm ấy cảm thấy rất sốt sắng và phấn khởi. Có lẽ có nhiều người đã dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho họ một vị linh mục có tài ăn nói: “phun châu nhả ngọc”.
Tiếng đồn về cha xứ mới lan mau như lửa cháy, vì thế vào chúa nhật kế tiếp, nhà thờ bỗng trở nên đông đảo hơn các chúa nhật khác. Mọi người nóng lòng chờ đợi cho đến lúc cha giảng. Nhưng cha sở lại giảng một bài gần giống như bài giảng chúa nhật tuần trước đó. Rồi trong thánh lễ chúa nhật thứ 3, 4, kế tiếp đó cũng vẫn một bài giảng đó.
Hội đồng giáo xứ cử người đến hỏi cha xứ xem tại sao cha lại cứ giảng đi giảng lại 1 bài hoài như vậy? Cha ở trả lời:
– Tại sao anh chị vẫn cứ sống như cách đây 6 tuần. Khi nào anh chị em đem áp dụng những gì tôi đã trình bày tôi sẽ giảng bài mới.
2) LÀM VIỆC TÔNG ĐỒ VẮT ĐẦU TỪ TRONG GIA ĐÌNH CỦA MÌNH:
Gia đình bé XÊ-XI-LI-A ở mạn bắc nước Italia, trong một xóm lao động nghèo nàn. Từ sáng sớm ba em là một công nhân đã phải đến sở để làm việc, và mãi đến 8-9 giờ tối mới về lại nhà. Vì thế, chẳng mấy khi Xê-xi-li-a có dịp nói chuyện với ba. Còn mẹ em thì lo công việc nội trợ và làm thêm việc nhà hàng xóm để kiếm thêm cho ngân quĩ gia đình. Bà rất có lòng bác ái và đạo đức. Tuy gia đình không mấy sung túc, nhưng bà sẵn sàng san sẻ với bà con lối xóm, nên ai cũng quí mến bà, khen bà hiền lành, phúc hậu. Bé Xê-xi-li-a mới 6 tuổi mà đã được lên cấp I. Em rất hãnh diện về cha mẹ và cảm thấy hạnh phúc được sống trong gia đình có cha mẹ hòa thuận yêu thương nhau
Từ 2 năm nay, Xê-xi-li-a được huấn luyện sống theo lời Chúa, nhìn thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi nơi những người đau khổ bất hạnh. Một hôm, Xê-xi-li-a cảm thấy bất ngờ khi nghe một đứa bạn nói về nối khổ của mẹ em hằng ngày bị ba em đánh đập hành hạ!” Em không tin và quyết tâm tìm hiểu thực hư. Tối hôm ấy, em không ngũ sớm để xem câu chuyện thế nào.
Khi tiếng chuông gọi cửa vang lên. Xê-xi-li-a nghe tiếng mẹ ra mở cửa. Em bước xuống thang núp sau tấm màn để theo dõi. . .
Ba em đầu tóc rối bù, người sặc mùi rựơu. Ong ném mạnh chiếc mũ và áo xuống nền nhà; Mẹ em nhẹ nhàng cầm lấy cất vào tủ, dọn bàn ăn rồi mời chồng ăn bữa tối. Đôi mắt đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà và chê lui chê tới, rồi tuôn ra những lời mắng chửi. Mẹ em chỉ biết cúi mặt làm thinh, vừa ăn vừa khóc. Lát sau, ba em đã vất nguyên cả mâm cơm xuống nền nhà và tặng vợ những cú đấm đá tàn nhẫn.
Sau bức màn, Xêxi-li-a như bị chết lịm: “ thôi đúng rồi, tụi bạn nói đâu có sai. Cả lối xóm đều biết chuyện gia đình nhà mình”. Gượng đứng dậy, Xê-xi-li-a rón rén leo lên gác. Các ngày sau đó sự thể vẫn xảy ra như vậy. Xê-xi-li-a chẳng biết mình nên làm gì. Cuối cùng, em đã đến gặp cha xứ trình bày mọi sự và được ngài khuyên việc em nên làm.
Sau đó tối nào Xê-xi-li-a cũng thức đợi ba về và khi ông về là em chạy ra đón ba, ôm hôn ba, cất áo mũ cho ba. Rồi em còn giúp mẹ dọn bàn ăn. Trong suốt bữa ăn, em ngồi kề bên ba kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở làm. Thoạt đầu, ba em lấy làm lạ, càu nhàu, nhưng dần dần ông lại cảm thấy vui vui. . . Bầu khí gia đình em ngày càng dễ chịu.
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã không còn. Một hôm, khi nghe ba bảo: “Đi ngủ đi, mai con còn phải dậy sớm đi học mà con“. Xê-xi-li-a âu yếm ôm lấy ba và nói: “ Ba ơi, ba có biết tại sao con không đi ngủ sớm không?” Rồi khi được phép ba, em đã thuật lại tâm trạng của em khi nghe chúng bạn phê bình nhà mình. Em thấy Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi trong ba, nên em muốn mang Chúa cho ba má, yêu thương ba má. . . Càng nghe hai ông bà càng mừng mừng tủi tủi, không ngờ con bé lại khôn ngoan và đạo đức đến vậy. Ba má Xê-xi-li-a đã ôm siết lấy con, nghẹn ngào nhìn nhau. . . Lát sau ông mới thốt nên lời: “Từ nay con phải đi ngủ sớm nghe không! Ba hứa với con là ba với má sẽ hòa thuận thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ quyết tâm sống Lời Chúa dạy như con. Ba má yêu thương con lắm!
3. SUY NIỆM:
1) Bấy giờ Đức Giê-su đang giảng đạo cho một đám đông dân chúng, thì có mẹ và anh em bà con của Người đến thăm Người. Những người này muốn được gặp gỡ để nói chuyện với Đức Giê-su, nhưng họ không thể tiếp xúc được với Người được vì dân chúng vây quanh quá đông. Họ đành phải đứng ở phía bên ngoài để chờ đợi người.
2) Biết được điều này, có người đã giúp đỡ bằng việc len vào giữa đám đông để báo tin cho Đức Giê-su. Họ nghĩ rằng có lẽ Đức Giê-su sẽ lập tức ngừng công việc giảng dạy để ra ngoài gặp mẹ và anh em bà con này, vì Mẹ Người chắc đã phải đi một đoạn đường khá xa để tìm gặp Người. Nhưng sau khi nghe họ báo tin, Đức Giê-su vẫn tiếp tục việc giảng dạy như không có gì xảy ra. Qua đó cho thấy Người đã coi trọng đám đông đang nghe Người giảng hơn các thân nhân bên ngoài. Rồi Người còn đặt ra một câu hỏi như sau: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (c. 33).
3) Theo lẽ thường: mẹ và anh em của Người không ai khác hơn là nhóm người đang đứng bên ngoài kia chờ gặp gỡ nói chuyện với Người. Nhưng thật bất ngờ khi Người đã đưa tay ra chỉ vào đám đông đang đứng ngồi chung quanh nghe giảng và trả lời: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi” (c. 34). Thực ra Đức Giê-su không coi thường mẹ và các người họ hàng bà con. Nhưng Người muốn nhân cơ hội để dạy cho mọi người nghe một sự thật là Người đã có thêm các người thân mới là các môn đệ và đám đông đang nghe Người giảng. Những người này đã trở thành người thân của Người khi họ sẵn sàng lắng nghe Lời Người dạy và thi hành theo Ý muốn của Chúa Cha, giống như Người luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người ” (Ga 4,34).
Như vậy những ai thi hành ý muốn của Chúa Cha sẽ trở nên nghĩa thiết với Đức Giê-su. Chúng ta hôm nay sẽ trở nên thân nhân của Đức Giê-su nếu chúng ta năng đọc kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10) .
4) Hiện nay trên thế giới các tôn giáo có số tín hữu nhiều nhất như sau: Kitô giáo có 2,3 tỷ người; Hồi giáo có 1,5 tỷ người; Ấn Độ giáo có 900 triệu người; Đạo giáo có 400 triệu người, Phật giáo có 365 triệu tín đồ chính thức, Nho giáo có 150 triệu người, các tôn giáo truyền thống châu Phi có 100 triệu người; Thần đạo Nhật Bản có 30 triệu người…
Trong số 2,3 tỷ tín hữu Ki-tô gồm Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống, Anh giáo… Những người này đều tin thờ Thiên Chúa và hiệp nhất trong một đức tin vào Đức Giê-su. Nhưng vẫn chưa hiệp nhất nên một trong đại gia đình của Thiên Chúa. Bổn phận của chúng ta là phải cầu nguyện cho sự hiệp nhất này. Mỗi người cần hợp tác xây dựng cho môi trường mình đang sống ngày một an bình trật tự hơn, công bình nhân ái hơn, để thế giới này sớm trở thành đại gia đình có cùng một Cha Chung là Thiên Chúa và mọi người sống yêu thương hòa hợp với nhau như anh chị em và sớm trở thành “Trời Mới Đất Mới” như lòng Chúa mong muốn (x. Kh 21,1).
4. THẢO LUẬN: Trong những ngày này bạn sẽ làm gì để góp phần xây dựng một xã hội công bình nhân ái hơn, mọi người yêu thương nhau để ánh sáng Chúa Ki-tô chiếu tỏa trên mọi người cùng khu xóm, cùng môi trường sống và làm việc?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho các cộng đoàn tín hữu chúng con được hiệp nhất và yêu thương, để làm chứng cho Chúa, giữa một thế giới đang còn nhiều hận thù và chia rẽ. Ước gì Hội Thánh của Chúa trên hoàn cầu sớm trở thành cây cải cao lớn, đón nhận được chim trời là các dân tộc từ muôn phương rủ nhau đến làm tổ. Ước gì khi thấy các tín hữu yêu thương hiệp nhất, anh em lương dân sẽ nhận ra dấu chỉ của Nước Trời hiện diện và hăng hái gia nhập. – Amen.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 11 TN B
Ed 17,22-24; 2 Cr 5,6-10; Mc 4,26-34
SỨC SỐNG CỦA MẦU NHIỆM NƯỚC THIÊN CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 4,26-34
26 Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.”
30 Rồi Người lại nói: “Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.”
33 Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
2. Ý CHÍNH:
Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giảng dạy cho dân chúng về Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập. Cụ thể trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đưa ra hai dụ ngôn để diễn tả về sự hình thành và phát triển của Nước Thiên Chúa: Một là dụ ngôn về hạt lúa. Ban đầu hạt lúa được người nông dân gieo trên ruộng đất rồi sau đó, hạt lúa tự mọc lên thành cây lúa và tới mùa ra bông kết trái được nhiều bông hạt. Hai là dụ ngôn về hạt cải: hạt cải tuy nhỏ bé nhất trong các hạt, nhưng sau một thời gian nó sẽ trở thành một cây cải cao lớn nhất, đến nối chim trời có thể đến làm tổ dưới bóng của nó.
3. CHÚ THÍCH:
– C 26-29: + Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện của một người vãi hạt giống xuống đất: Dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa với người nông dân, mà muốn so sánh việc gieo hạt lúa của người nông dân để diễn tả về sức tăng trưởng của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập cũng có sức tăng trưởng âm thầm giống như những gì xảy ra cho cây lúa được sinh hoa kết quả khi đến mùa gặt.
** Ý nghĩa dụ ngôn hạt giống Lời Chúa: Đức Giê-su công bố Nước Thiên Chúa đã đến gần bên. Người ví Hạt lúa giống như Lời Chúa. Hạt giống vốn có sức mạnh vô địch, mà khi đã được gieo vào lòng người thì sẽ vào trong tâm trí và con tim để biến đổi họ. Hoa trái không lệ thuộc vào người gieo giống hay việc rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống tự có trong mình nó. Chúng ta chỉ cần gieo Lời Chúa trên mảnh đất là những người được Chúa giao phó cho chúng ta, rồi kiên nhẫn chờ đợi tới lúc hạt giống đó sẽ phát sinh ra hoa quả dồi dào.
– C 30-32: + Hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”: Dụ ngôn thứ hai là hạt cải, cho thấy sức mạnh vô song của Nước Thiên Chúa và đề cao kết quả cuối cùng. Tác giả diến tả hai giai đoạn của hạt cải: Ban đầu khi Tin Mừng mới được rao giảng thì Nước Thiên Chúa bé như một hạt cải nhỏ nhất, nhưng sau đó nó sẽ dần lớn lên trở thành một cây cải to lớn, có khả năng đón nhận các dân tộc là chim chóc đến làm tổ trên cành của nó. Mặc dầu giai đoạn đầu của Nước Thiên Chúa nhỏ bé, nhưng Tin Mừng vẫn phải được loan báo đến mọi dân tộc. Trước khi Con Người quang lâm, có nhiều cuộc bách hại và những cơn gian nan thử thách sẽ xảy ra cho các tín hữu. Trong cơn hoạn nạn đó, dụ ngôn hạt cải này sẽ giúp các tín hữu thêm lòng tin cậy vào quyền năng của Chúa và tin vào chiến thắng cuối cùng của Nước Thiên Chúa.
– C 33-34: + Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ: Cả hai dụ ngôn Hạt Lúa và Hạt Cải đều mời gọi các tín hữu chúng ta ý thức nhiệm vụ phải góp phần vào sứ vụ cứu rối nhân loại của Đức Giê-su để Nước Thiên Chúa mau hiển trị.
4. CÂU HỎI: 1) Hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa được trình bày trong bài Tin Mừng là hai dụ ngôn nào? 2) Hai dụ ngôn ấy giống và khác nhau ra sao ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải […] khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,31-32).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VỀ SỨC TĂNG TRƯỞNG CỦA HỘI THÁNH:
Theo bản nghiên cứu thường niên về “Tình trạng Truyền giáo Toàn cầu” ngày 25/11/2011 được đăng trên Viet-ca-tho-lic News cho biết số lương các Kitô hữu như sau: Tổng số Kitô hữu (gồm cả Công giáo, Chính thống giáo và Tin lành) hiện nay có khoảng 2,3 tỉ người và là tôn giáo có sức phát triển mạnh mẽ nhất. Cho đến đầu thế kỷ 20, Kitô giáo mới chỉ có 1.600 giáo đoàn khác nhau. Nhưng đến nay, sau một thế kỷ đã tăng lên 42.000 giáo đoàn.
Riêng Hội thánh Công giáo có khoảng 1,16 tỉ tín hữu, và mỗi ngày thêm được 34 nghìn tín hữu. Việc tăng trưởng có thể do sinh sản và giáo dục con cái theo truyền thống đức tin. Cũng có thể do cải đạo từ các đạo khác sang Kitô giáo. Mặc dù sự cải đạo này không nhiều, nhưng đã có hàng triệu người mỗi năm qua việc hôn nhân: một người thuộc tôn giáo khác quyết định đón nhận đức tin từ người bạn đời Công giáo của mình khi kêt hôn.
Niên giám cũng cho thấy, số lượng các giám mục và linh mục đã tăng theo tỷ lệ thuận với số người Công giáo trên toàn thế giới vào khoảng 1,3% trong giai đoạn từ 2008 – 2009. Trong năm 2009, đã có 5.065 giám mục và 410.593 linh mục.
2) GIẢI ĐÁP BA THẮC MẮC
Một hôm, cha PE-TIT-JEAN đến giảng đạo tại NA-GA-SA-KI cho một số người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi họ :
– Anh em có thắc mắc gì không ?
Một người đưa tay đặt câu hỏi :
– Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không ? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không ?
– Có.
Câu hỏi thứ hai : các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không ?
– Có.
Câu hỏi thứ ba : Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không ?
– Có.
– Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi :
– Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không ?
– Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi ! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ : Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật bản đã tái sinh.
3) THẾ GIỚI CHƯA HOÀN CHỈNH
Có một phiên bản của câu chuyện sáng thế như sau : Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo ra cây cối, cỏ hoa, sinh vật, chim cá… Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần liền hỏi :”Thưa Chúa, vậy thế giới đã xong chưa” ? Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra con người và nói với họ :”Ta mệt rồi. Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con”. Họ đồng ý. Sau đó, bất cứ lúc nào các thiên thần hỏi Thiên Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn là :”Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của ta”.
Có những điều mà chúng ta có thể làm và phải làm, Thiên Chúa sẽ không làm điều đó thay chúng ta. Không phải vì Ngài không thể làm chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Chúng ta phải gieo hạt giống, đó là phần việc của chúng ta. Nhưng khi làm điều ấy, chúng ta phải hiểu rằng, chúng ta không thể làm mọi việc. Chúng ta không thể làm cho hạt giống mọc lên. Đó là phần việc của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa làm phần việc của Ngài. Không một chủ nông trại hoặc người làm vườn nào sẽ nói với bạn điều ấy.
Chúng ta có nhiệm vụ truyền bá Nước Thiên Chúa trong hoàn cảnh thuận tiện cũng như không thuận tiện. Chúng ta cứ việc gieo Lời Chúa và để cho Lời Chúa âm thầm mọc lên.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về Nước Thiên Chúa giống như hạt lúa được gieo xuống đất, rồi âm thầm mọc lên theo luật thiên nhiên, và như một hạt cải ban đầu nhỏ bé nhưng sau đó mọc lên thành cây cải to lớn đến nỗi “chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
1) Nước Thiên Chúa giống như hạt giống: Các tín hữu cần biết kiên nhẫn. Ðừng đòi thấy sự tăng trưởng trước mắt, nhưng phải làm hết sức rồi chờ tới mùa gặt là ngày tận thế. Bấy giờ Thiên Chúa sẽ sai các thiên thần đi gặt hái: Lúa thóc ám chỉ các người lành thánh sẽ được hưởng hạnh phúc trong kho lẫm là Thiên đàng. Còn cỏ dại ám chỉ các kẻ làm điều gian ác sẽ bị thiêu cháy trong lửa hỏa ngục muôn đời. Trong thời gian chờ đợi này, mỗi người chúng ta cần chu toàn bổn phận của mình là góp phần xây dựng Nước Thiên Chúa bằng việc sống giới răn yêu thương và thực thi công bình bác ái theo gương sáng và lời dạy của Đức Giê-su.
2) Nước Thiên Chúa giống như hạt cải: Các tín hữu chúng ta cần góp phần vào sự tăng trưởng của Nước Thiên Chúa bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa mỗi ngày, năng cầu nguyện và thực hành bác ái phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ Chúa đang hiện thân trong những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi… Những hạt giống nhỏ bé là các việc lành ấy sẽ góp phần làm tăng trưởng Hội thánh ngày một lớn mạnh theo thánh ý Chúa.
Như những hạt cải nhỏ bé, phải biết tự hủy mới mọc thành cây và lớn lên, các tín hữu cũng phải tập mỗi ngày chết đi cho các ý riêng ích kỷ và tự mãn, cho các đam mê nhục dục thấp hèn, cho các thói hư tật xấu của mình… Mỗi khi gặp sự chống đối hay thất bại, thay vì nản lòng thoái lui, chúng ta cần xác tín rằng: Nếu chúng ta biết sống khiêm tốn nhỏ bé, âm thầm cầu nguyện và can đảm dấn thân kèm theo sự tín thác cậy trông vào ơn Chúa giúp… chắc chắn việc tông đồ của chúng ta sẽ đạt kết quả đúng theo chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3) Góp phần làm Nước Thiên Chúa ngày một phát triển:
– Chúng ta hãy năng đọc Kinh Lạy Cha với sự ý thức cao và tâm tình sốt sắng, để cầu xin cho Nước Cha mau trị đến nơi những anh chị em đang sống gần bên chúng ta.
– Nước Thiên Chúa vẫn có thể trị đến nơi các người lương, dù chưa được nghe rao giảng Tin Mừng của Chúa để tin thờ Thiên Chúa, nhưng họ đã theo lương tâm ăn ở ngay lành, vũng như do đã nhìn thấy các gương lành bác ái của các tín hữu chúng ta. Vậy chúng ta sẽ làm gì để chiếu ánh sáng của Chúa Giê-su như lời Người dạy: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN: 1) Muốn đưa được nhiều người về làm con Chúa trong Hội thánh, ngay từ bây giờ các tín hữu chúng ta cần phải làm gì? 2) Khi làm việc tông đồ mà gặp trở lực chống đối hay thất bại, chúng ta cần phải làm gì noi gương Đức Giê-su?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Cha Toàn Năng, xin cho chúng con biết tin tưởng và phó thác vào quyền năng yêu thương và quan phòng của Cha trong công cuộc tông đồ. Dù chúng con chỉ làm được các việc nhỏ bé tầm thường, nhưng chúng con tin rằng: Chính Chúa Cha sẽ làm cho các việc nhỏ bé tầm thường ấy phát sinh hiệu quả lớn lao cho Hội Thánh. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì gieo Lời Chúa khi tiếp xúc với tha nhân dù có gặp thuận lợi hay không thuận lợi, vì tin vào quyền năng và tình thương của Chúa sẽ hoàn tất những gì còn thiếu sót, như lời thánh Phao-lô: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
SINH NHẬT THÁNH GIO-AN TẨY GIẢ (24/06)
Is 49,1-6; Cv 13,22-26; Lc 1,57-66.80
CHU TÒAN SỨ VỤ TIỀN HÔ NOI GƯƠNG GIO-AN TẨY GIẢ:
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,57-66.80:
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà. (59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: “Không, phải đặt tên cháu là Gio-an. (61) Họ bảo bà: “Trong họ hàng của bà, chẳng có ai có tên như vậy cả”. (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ong xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”. Ai nấy đều rất bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi của ông lại mở ra. Ong nói được và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: “Đứa trẻ này rồi sẽ ra thế nào đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em. (80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay tập trung vào mặc khải diệu kỳ của cái tên Gio-an khi làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Bà con láng giềng tụ tập trong ngày này đã được chứng kiến sự lạ lùng ấy. Rồi việc ông Da-ca-ri-a được khỏi bệnh câm khiến cho mọi người có mặt đều bở ngỡ và đặt dấu hỏi về sứ mệnh của con trẻ sau này. Sau đó Gio-an đã vào sống trong hoang địa cho đến khi thi hành sứ mệnh tiền hô giúp dân Do thái nhận biết Đấng Cứu Thế là Đức Giê-su thành Na-da-rét.
3. CHÚ THÍCH:
-C 57-59: +Láng giềng và thân thích đều chia vui với bà: Bài tường thuật tập trung vào việc mặc khải diệu kỳ của tên Gio-an và biến cố cắt bì đặt tên. Bà con láng giềng tụ tập lại trong sự chia sẻ niềm vui với đôi vợ chồng già. Nhờ đó tiếng đồn sự lạ về con trẻ lại càng lan rộng. +Khi con trẻ được tám ngày: Tám ngày là thời gian Luật định để làm phép cắt bì (x St 17,12; Lv 12,3; Pl 3,5). +Và tính lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho em: Người ta ít khi lấy tên cha mà thường lấy tên ông nội mà đặt cho cháu. Ở đây người ta lấy tên cha là Da-ca-ri-a mà đặt cho con, có thể do ông Da-ca-ri-a đã cao niên.
-C 62-63: +Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: “Tên cháu là Gio-an”: Dù hai ông bà đã đã không hội ý trước đặt tên cho con là gì, vì ông vừa bị câm và bị điếc trước đó. Nhưng hai ông bà lại thống nhất cùng chọn tên Gio-an mà đặt cho con, như sứ thần đã truyền cho Gia-ca-ri-a khi truyền tin cho ông trong Đền thờ (x Lc 1,13). +Ai nấy đều rất bỡ ngỡ: Phải chăng sự thống nhất ý kiến của hai ông bà về việc đặt cho con một cái tên xa lạ chính là một dấu lạ khiến mọi người ngạc nhiên.
-C 65-66: +Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ: Trong Kinh Thánh, chữ “tâm” hay “lòng”chỉ nơi phát xuất ra tư tưởng, tình cảm, hòai niệm, quyết định và ước muốn của con người giống như Đức Maria “suy đi nghĩ lại trong lòng” (x Lc 2,19), nghĩa là để tâm tìm hiểu ý nghĩa của lời sấm hay sự việc xảy ra. +Có bàn tay Chúa phù hộ em: Kiểu nói “bàn tay Chúa” mô phỏng Cựu ước, cho thấy Thiên Chúa bảo vệ những ai tin cậy vào Người, mà Gio-an là một trong số những người đó (x Tv 80,18; 139,5).
4. CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả liên hệ họ hàng thế nào với Đức Giê-su? 2) Tại sao láng giềng bà con lại phải đến nhà thăm hỏi chia vui khi nghe tin bà Ê-li-sa-bét sinh con? 3) Phép cắt bì là gì? Được cử hành thế nào? 4) Tại sao hai ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét lại thống nhất ý kiến đặt tên cho con trai là Gio-an?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Đức Ki-tô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CUỘC ĐỜI VỊ TIỀN HÔ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Gio-an là vị tiền hô của Chúa Giê-su (x.Mt 3,3), là con của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Cả hai ông bà thuộc dòng tộc tư tế. Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, nên Gio-an là anh bà con của Đức Giê-su. Cha mẹ của Gio-an cư ngụ tại miền núi xứ Giu-đê (x.Lc 1,39). Từ nhỏ, Gio-an đã vào trong sa mạc sống đời tu hành nhiệm nhặt. Đến năm thừ 15 thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô, Gio-an bắt đầu xuất hiện tại vùng ven sông Gio-đan miền Giu-đê rao giảng và làm phép rửa sám hối (x.Lc 3,1). Phép rửa của ông là nghi thức thống hối kèm theo sự xưng thú tội lỗi (x. Mt 3,6). Gio-an công nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai khi giới thiệu Người là “chiên Thiên Chúa” với hai môn đệ (Ga 1,35). Có lần Đức Giê-su gọi Gio-an là Ngôn sứ Ê-li-a khác, là người lớn nhất thời Cựu ước, là sứ giả đi trước dọn đường cho Người (x. Mt 11,9-19; Lc 7,24-30).
Cuộc đời của Gio-an kết thúc với cái chết bị chém đầu trong nhà ngục, do ông đã đảm lên tiếng ngăn cản vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu là Hê-rô-đi-a-đê làm vợ,. nên bị Hê-rô-đê bắt giam và cuối cùng đã bị bà này thù ghét hãm hại (x.Lc 9,7-9).
2) TRÁNH THÓI XẤU KIÊU NGẠO ĐỂ KHỎI BỊ CHẾT THẢM THƯƠNG:
Tác giả La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về con ếch và con bò để dạy chúng ta đừng quá tự cao như sau:
Ngày kia có một con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao cho mình cũng được to lớn vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động, con ếch liền xuống ao để uống nước cho bụng phình ra bằng con bò kia. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con bò. Nó lại uống thêm cho đến khi một tiếng “Bốp” nổ vang lên và con ếch đã bị chết banh xác.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu cõi lòng, ai cũng muốn được người khác ca tụng. Ai cũng muốn nâng mình lên chứ chẳng ai lại thích hạ mình xuống. Nhưng cần ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện, để việc tông đồ bác ái được thành công tốt đẹp.
3. SUY NIỆM:
1) So sánh giữa Gio-an Tẩy Giả và Vua Hê-rô-đê:
Đây là hai khuôn mặt hoàn toàn đối lập nhau: Gio-an là người có chí khí mạnh mẽ đang khi Hê-rô-đê lại yếu đuối nhu nhược. Gio-an có lối sống khắc khổ giản dị, đang khi Hê-rô-đê lại có lối sống xa hoa và ham hưởng thụ. Hê-rô-đê đã tống giam Gio-an vì dám lên tiếng tố cáo ông và đòi ông không được lấy bà chị dâu Hê-rô-đi-a-đê làm vợ mình. Thật ra vua Hê-rô-đê cũng có lòng kính trọng Gio-an và coi ông là một nhà tiên tri. Nhưng ông lại nhu nhược và thiếu ý chí, dễ bị khuất phục trước đam mê dục vọng bản thân. Do áp lực của bà Hê-rô-đi-a-đê, nên Hê-rô-đê đã sai quân lính đến bắt Gio-an và tống giam vào ngục. Rồi trong một bữa tiệc, do vui vẻ hài lòng về điệu múa của Sa-lô-mê là con gái của bà kia, nên ông đã cao hứng hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin. Đứa con gái do mẹ xúi giục đã xin vua cho cái đầu của Gio-an Tẩy Giả, Vua Hê-rô-đê tuy không muốn, nhưng đành giữ lời hứa sai lính vào ngục chém đầu Gio-an.
Vua Hê-rô-đê tiêu biểu cho những người để cho thú tính nơi bản thân lấn lướt. Mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn kêu gọi vươn lên, nhưng tiếng nói ấy vẫn không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn tội lỗi, vì họ đã quen lối sống chạy theo lạc thú thấp hèn. Còn thánh Gio-an Tẩy Giả là một người sống có lý tưởng, luôn ý thức và quyết tâm chu toàn trách nhiệm, chống lại sự lôi cuốn của bản năng thấp hèn vẫn có nơi bản thân.
2) Đức Giê-su đã đề cao con người và sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả như sau: “Đây còn hơn ngôn sứ nữa! Chính ông là người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Lc 7,24-27). Gio-an chính là vị ngôn sứ, được Thiên Chúa sai đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên Sai Với sứ mệnh đó, thánh Gio-an đã trở nên một nhân vật lớn nhất trong lịch sử cứu độ như Đức Giê-su đã khẳng định: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả…” (Mt 11,11).
3) Cần chu toàn sứ mệnh chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời:
Ngày sinh của Thánh Gio-an Tẩy giả mời gọi chúng ta nhớ lại ngày chúng ta được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa. Nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đã trở thành ngôn sứ của Chúa Ki-tô và phải chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Người. Ngọn nến Hội Thánh trao cho chúng ta trong lúc chịu bí tích rửa tội tượng trưng cho đức bác ái mà chúng ta phải chiếu tỏa trước mặt người đời. Dù sống trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải làm các việc lành để người đời khi nhìn thấy các việc lành chúng ta làm sẽ ngợi khen Cha chúng ta trên trời (x. Mt 5,16).
4) Chúng ta cần làm gì để chiếu sáng các nhân đức noi gương thánh Gio-an ?
+ Đức khiêm tốn: Khiêm hạ trong cách ăn nói như: Nói năng nhỏ nhẹ, tôn trọng tha nhân, năng khen các ưu điểm để khích lệ hơn là phê phán chỉ trích những ai hơn mình. Tránh tự cao nhưng luôn làm mọi việc để tôn vinh Thiên Chúa như thánh Gio-an đã làm đối với Đức Giê-su: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30).
+ Đức khó nghèo: Tránh đua đòi mua sắm quần này áo nọ, nhưng luôn sống đơn sơ khó nghèo trong cách ăn ở noi gương thánh Gio-an: “mặc áo bằng lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và uống mật ong rừng” (x Mc 1,6-8).
+ Đức vâng phục: Luôn bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa, noi gương thánh Gio-an xưa đã vâng lời Đức Giê-su khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan (x Mt 3,13-15).
+ Đức trung tín: Luôn chu tòan sứ vụ tiền hô giúp người đời tin nhận Đức Giê-su, noi gương thánh Gio-an xưa đã giới thiệu và khích lệ hai môn đồ ưu tú bỏ mình để theo làm môn đệ Đức Giê-su (x Ga 1,35-37).
+ Đức trung thực: Luôn trung thực nhìn nhận khuyết điểm của mình và tu sửa, noi gương thánh Gio-an xưa đã tự nhận mình chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: ”Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” như lời ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm. Gio-an thừa nhận phép rửa của ông chỉ giúp người ta sám hối, còn Đấng đến sau ông lại quyền thế hơn ông, mà ông không đáng xách dép cho Người. Đấng ấy sẽ “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3,11; Ga 1,20-27).
+ Đức can đảm: Luôn can đảm làm chứng cho Chúa noi gương thánh Gio-an đã mạnh dạn lên tiếng can ngăn vua Hê-rô-đê không được lấy chị dâu là bà Hê-rô-đi-a làm vợ mình (x Mt 14,3-4; Lc 3,7-9). Dù vì thế mà ngài đã bị vua Hê-rô-đê hãm hại.
4. THẢO LUẬN:
1) Thánh Gio-an Tẩy Giả đã nêu gương sống thế nào để chu tòan sứ vụ tiền hô của Đức Giê-su? 2) Mỗi người chúng ta hôm nay cần phải làm gì cụ thể để sống khiêm hạ như thánh Gio-an?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con hôm nay biết noi gương thánh Gio-an làm chứng cho Chúa bằng các việc làm cụ thể: không khoe khoang thành tích ưu điểm của mình, sống đơn giản điều độ trong cách ăn mặc, tránh chè chén say sưa, can đảm bênh vực những người thân yếu thế cô, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt vì danh Chúa… Xin cho chúng con trở thành những người tiền hô hầu giúp người đời nhận biết và tin yêu Chúa noi gương thánh Gio-an.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ (29/06)
Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
SỐNG ĐỨC TIN VÀ ĐỨC MẾN NOI GƯƠNG HAI TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ PHAO-LÔ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG:
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai ?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ”. (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, Anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ.
Sau khi Si-mon đại diện cho Nhóm Mười Hai khẳng định Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (15-16), ông đã được khen là có phúc (17), được đổi tên thành Phê-rô và được hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng, tiên báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá (18). Sau cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc và tháo cởi (19).
3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa hằng sống”, phải chăng Tông đồ Si-mon Phê-rô có ý nói về bản tính Thiên Chúa của Đức Giê-su ?
ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của tước hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu Đấng Ki-tô, theo lời ngôn sứ Na-than tuyên sấm về người con sẽ nối nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha. Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm nơi Sa-lô-mon, con vua Đa-vít. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cũng được dân chúng ca tụng bằng tước hiệu “Con Vua Đa-vít” này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng tước hiệu “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô chưa hiểu ý nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giê-su đã cho biết ý nghĩa tước hiệu này là nói về bản tính Thiên Chúa, qua lời khen ông có phúc vì đã được Chúa Cha thương mặc khải cho biết sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su đổi tên Si-mon thành Phê-rô ? Việc đổi tên chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt (x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phê-rô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Cũng có thể Đức Giê-su đã đặt tên Phê-rô cho Si-mon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin của Si-mon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau khi đổi tên, Đức Giê-su đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông trong Hội Thánh: Đức tin của Phê-rô vào Đức Giê-su chính là tảng đá vững chắc mà trên đó, Người xây dựng Hội Thánh của Người. Ngoài ra Đức Giê-su còn trao tối thượng quyền cho ông để ông cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Người cũng cho Phê-rô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu chu tòan sứ mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Người còn trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông nữa (x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một số người cho rằng: Si-mon Phê-rô là một người đầy khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền cầm buộc và tháo cởi được ?
ĐÁP:
Từ ngày được Đức Giê-su gọi theo làm môn đệ, Si-mon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy quở trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt 16,23); Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31); Bị Thầy cảnh báo không được dự phần với Thầy, vì đã từ chối không cho Thầy rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất là vì quá tự tin vào sức mình nên ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc 14,30.66-72).
Nhưng Si-mon Phê-rô cũng có những ưu điểm xứng đáng được Đức Giê-su tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được Chúa đổi tên thành Phê-rô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giê-su hứa sẽ cầu nguyện cho để luôn kiên vững đức tin, và trao thêm sứ mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh em trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin vào lời dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông đã được Đức Giê-su đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được đi trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn đệ thân tín nhất chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ bé gái mới chết được Người cho sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là chứng kiến lúc Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm tội, nhưng Phê-rô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn anh em, nên ông đã được Người tha thứ và trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giê-su đã thúc bách Phê-rô chạy thi với Gio-an ra mồ và đã sớm đạt được đức tin vào mầu nhiệm phục sinh của Thầy (x. Ga 20,1-9). Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), có khả năng chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giê-ru-sa-lem năm 49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm quay vào thành Rô-ma để bị bắt và chịu khổ hình thập giá, dưới thời hoàng đế Nê-rô (năm 64-67). Cái chết của Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa cao độ, và nêu gương đức tin vững như đá tảng, để các tín hữu chúng ta học tập noi theo.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU TRONG VIỆC BIẾN ĐỔI LÒNG NGƯỜI :
Nữ tu Antoinette được bề trên sai đến phục vụ tại một bệnh viện lớn. Tại đây có một ông già cực kỳ khó tính. Tiếp xúc với ai ông cũng nạt nộ la mắng. nhất là khi gặp chuyện trái ý, ông lại to tiếng ầm ĩ khiến mọi người chung quanh đều khó chịu xa lánh.
Ngày nọ, khi đang mải mê làm việc giúp các bệnh nhân khác, nữ tu Antoinette nghe thấy tiếng hét lớn của ông già khó tính: “Mau mau mang ra đây cho tôi một quả trứng luộc”. Các y tá khác đều lảng tránh sang phòng bên, riêng nữ tu Antoinette đã mau mắn đến nhà bếp đem quả trứng đến cho ông già này.
– Sao trứng chưa chín mà đã đem cho tôi hả? Bộ muốn tôi đau bụng chết sao? Ông lão khó tính cau có trách mắng. Nữ tu Antoinette không đáp lại mà đem trứng xuống bếp luộc lại.
– Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Sao lại làm ăn vô ý vô tứ như vậy hả ?
Antoinette chẳng biết phải làm gì để chiều ý ông lão. Chị liền đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho ông già khó tính một trái trứng để luộc cho vừa ý. Thấy thế ông ta liền nổi nóng đạp đổ bếp lò, quăng quả trứng kia xuống nền gạch và lớn tiếng: “Cô không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà lại phải tự luộc trứng hả?”
Nữ tu Antoinette không nói nửa lời. Chị im lặng đi lấy chổi và cây lau nhà đến quét dọn và lau sạch sàn nhà… Lát sau, chị đem đến cho lão già khó tính một trái trứng khác và nói: “Ông cố gắng dùng thử trứng này, tôi đã luộc vừa chín tới thôi?” Bất giác, ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: “Tôi thật có lỗi vì đã vô lý quát mắng cô. Giờ đây tôi sẽ ăn quả trứng này cũng để cám ơn lòng tốt của cô !”
Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn bất cứ một sự biến đổi lạ kỳ nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng những con người độc ác nữa. Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giê-su luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu biến đổi cảm hoá họ.
2) PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU ?
Ngày xưa, một ông vua nước Hy Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng hoặc làm tranh tượng về chân dung của nhà vua. Vua hứa sẽ ban phần thưởng lớn cho những tác phẩm giống ngài nhất. Nghe thông báo, các nghệ nhân từ khắp các nước chung quanh đã ùn ùn kép đến Hy Lạp xin vào hoàng cung ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối đá cẩm thạch rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành được giải thưởng của nhà vua. Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi được ban tổ chức bố trí chỗ ở và làm việc tại một phòng trong khu hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm trong thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung nhà vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua truyền đem các tác phẩm đến trưng bày tại đại sảnh lớn trong hoàng cung để nhà vua và bá quan trong triều đến chấm điểm. Nhà vua hết sức hài lòng, khi chiêm ngưỡng các tác phẩm dự thi họa lại chân dung của mình, do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Mỗi bức tượng, tranh tượng hay phù điêu đều có những đường nét tinh vi sắc sảo, nhìn giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày của các nghệ nhân Hy Lạp thì nhà vua và bá quan rất ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh tượng nào được trưng bày, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng, được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi tác phẩm đâu, thì một người đã đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân dung của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của mình, nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống động và trung thực bằng hình ảnh được phản chiếu từ chính con người thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ nhân Hy Lạp hạng nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các tác phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân chúng tự do đến chiêm ngưỡng.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay, Hội Thánh mừng kính 2 vị Tông đồ là Phêrô và Phaolô chung trong một ngày lễ. Chúng ta cùng suy nghĩ về cuộc đời của hai Tông đồ trụ cột này của Hội Thánh để thấy được sức mạnh tình thương của Thiên Chúa trong việc biến đổi lòng người.
1) Về ơn kêu gọi của hai Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
– Phê-rô làm nghề đánh cá tại làng Bet-sai-đa, gần hồ Ga-li-lê. Phê-rô tên thật là Si-mon, có em là An-rê. Khi An-rê được thầy mình là Gio-an Bao-ti-xi-ta giới thiệu về Đức Giê-su thì”Trước hết ông gặp anh mình là Si-mon và nói : Chúng tôi đã gặp được Đấng Mê-si-a. Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Phê-rô và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-na, anh sẽ được gọi là Kê-pha nghĩa là Đá” (Ga 1,41-42). Sau đó ít ngày, đang lúc Đức Giê-su đi trên bờ hồ Gê-nê-sa-rét, có đám đông dân chúng đi theo. Người thấy ông Si-mon đang giặt lưới dưới thuyền, nên Người đã xuống thuyền ấy mà giảng dạy dân chúng ngồi trên bờ hồ. Giảng xong, Người bảo Si-mon chèo thuyền ra giữa hồ đánh cá. Mặc dù suốt đêm vất vả mà không bắt được con nào, nhưng Si-mon vẫn vâng lời Thầy: Ông chèo thuyền ra khơi thả lưới và đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Trước sự lạ ấy, Si-mon tỏ vẻ kính sợ, nhưng Người bảo ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới người ta. Thế là ông đưa thuyền vào bờ rồi đi theo làm môn đệ Người” (Lc.5,10-11).
– Phao-lô tên thật là Sao-lê quê thành Tác-sô, miền Ki-li-ki-a. Theo học với ông thầy nổi tiếng là Ga-ma-li-en. Sao-lê giữ luật Mô-sê nghiêm chỉnh. Tuy là người Do Thái nhưng ông cũng có quốc tịch Ro-ma. Sao-lê rất sùng đạo Do thái nên rất ghét đạo mới của Đức Giê-su. Nghe tin ở Đa-mát có nhiều tín hữu Ki-tô, Sao-lê đã xin lệnh của thượng tế, đem quân đến thành Đa-mát bắt các tín hữu mang về Giê-ru-sa-lem trị tội. Nhưng khi đến cửa thành, Sao-lê đã bị một làn chớp sáng đánh trúng bị té xuống ngựa, mắt ông bị loà không nhìn thấy gì. Ông nghe thấy tiếng Chúa Giê-su hiện ra hạch hỏi và ông đã khuất phuc Người. Rồi ông được một người trong thành là A-na-ni-a đón vào thành và dạy đạo. Sau khi được chịu phép rửa tội, Sao-lê lại được sáng mắt và được đổi tên thành Phao-lô. Ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra dạy dỗ cách riêng và trao cho sứ mệnh làm tông đồ rao giảng Tin Mừng (x. TĐCV 22,3-21). Thế là từ một người cuồng tín đi bắt đạo, Phao-lô đã được ơn Chúa biến đổi thành một Tông đồ dân ngoại.
2) Tính cách của hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
– Tông đồ Phê-rô khi đi theo Đức Giê-su gần ba năm, thường đại diện Nhóm 12 trả lời Thầy. Khi Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?” Phê-rô đã đại diện anh em thưa rằng: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống”. Có lần Phê-rô ngăn cản Thầy đừng đi Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn, và ông đã bị Thầy nặng lời quở trách. Phê-rô đã được các tác giả Tân Ước đề cập tới 195 lần. Ông có tính tình nóng nảy và yêu mến Thầy. Khi nghe Đức Giê-su cho biết các môn đệ sắp hèn nhát bỏ Thầy chạy trốn, Ông đã hứa với Thầy: “Dù moi người bỏ thầy, còn Phê-rô sẽ không bao giờ”. Tuy nhiên, ông cũng là một người yếu đuối, nên ông đã phạm tội chối Thầy 3 lần: “Tôi không biết ông Giê-su là ai”. Đến khi nghe tiếng gà gáy và Đức Giê-su bị trói đi ngang qua chỗ ông và Người nhìn ông, thì ông đã xúc động ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Đức Giê-su sau khi sống lại, đã hiện ra hỏi Phê-rô ba lần có mến Thầy hơn những người này không, thì cả ba lầm ông đều tuyên xưng lòng mến: “Thưa Thầy, có. Thầy biết con mến Thầy”. Mỗi lần như thế, Chúa đều trao cho ông trách nhiệm chăn dắt đàn chiên của Người (x. Ga 21,15-19)
b) Tông đồ Phao-lô sau khi trở lại với Chúa, đã hết lòng loan báo Tin Mừng. Ông đã đi khắp vùng Đế Quốc Rô-ma rao giảng cho dân ngoại tin theo Chúa, chấp nhận mọi gian nan chống đối gặp phải: bị bắt bớ xét xử, bị đánh đòn, đắm tầu, đói rét, ở trần… vì Danh Chúa. Nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, Phao-lô đã viết nhiều bức thư để tiếp tục giáo huấn về cách ăn nết ở cho các tín hữu trong các giáo đoàn đã nghe ngài giảng mà tin theo Chúa Giê-su, nhằn răn dạy họ bỏ các tội lỗi mà sống tốt lành theo Chúa Giê-su. Ông cũng dạy họ đào sâu về nhiều mặt như: Kinh Thánh, tín lý, luân lý, phụng vụ… Phao-lô còn nêu gương sẵn sàng chịu mọi đau khổ hơn mọi người vì danh Chúa Giê-su như ông đã viết: “Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: Tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một. Ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đã, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi… (2 Cr 11,23-25…)
3) Về lòng mến Chúa của hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
– Tông đồ Phê-rô: Theo sách Công vụ Tông đồ, vào lễ Ngũ Tuần, sau khi đón nhận đầy ơn Thánh Thần, Phê-rô đã cùng các Tông đồ bắt đầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ông đã giảng một bài đầu tiên tại Giê-ru-sa-lem. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, đã có 3 ngàn người xin tòng giáo. Sau đó Phê-rô cùng Nhóm 11 chọn ông Mat-thi-a thế chỗ cho Giu-đa phản bội. Ông cũng được Thánh Thần ban ơn làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế kèm theo lời giảng. Ông đã chữa cho một người què tại cửa Đền thờ, và đón nhận dân ngoại vào Hội Thánh. Người ta tin rằng chỉ cần cái bóng của ông lướt qua bệnh nhân cũng đủ chữa lành cho họ. Phê-rô và các Tông đồ trong Nhóm 12 ưu tiên loan báo Tin Mừng cho dân Do thái. Ông đã bị các đầu mục dân Do thái bắt bớ xét hỏi nhiều lần và cấm rao giảng Danh Đức Giê-su. Nhưng ông đã tuyên bố trước Thượng Hội Đồng rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm… Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần” (Cv 5,29-32). Vào lúc cuối đời, khi đang ở Rô-ma và có nguy cơ bị bắt, Phê-rô đã nghe lời các tín hữu để cải trang và đã trốn thoát ra ngoài thành Rô-ma để tiếp tục lãnh đạo Hội Thánh. Nhưng sau đó ông đã gặp Đức Giê-su đang vác thánh giá đi về thành. Ông hỏi Người: “Quo vadis ?” (Thầy đi đâu?). Chúa trả lời: “Ta vào thành Rô-ma để chịu đóng đanh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Phê-rô hiểu ý Chúa muốn ông ở lại Rô-ma để làm chứng cho Chúa giữa các tín hữu, nên ông lại đi vào thành. Sau đó Phê-rô bị bắt và bị kết án tử hình thập giá vào năm 65 dưới thời hoàng đế Nê-rông. Khi chịu đóng đinh, để tỏ lòng tôn kính Chúa Giê-su, ông xin lính đóng đinh và quay ngược đầu xuống đất. Ngày nay một ngôi Đền thờ Thánh Phêrô to lớn trong thành Rô-ma, có chứa mộ phần của thánh Phê-rô. Trong thời gian giảng đạo ở Rô-ma, thánh Phê-rô đã viết 2 bức thư cho các tín hữu miền Tiểu Á đang chịu bách hại, khuyên dạy họ hãy can đảm sống đức tin bằng việc thực thi sự hiệp nhất yêu thương nhau, vâng phục các mục tử, đoạn tuyệt tội lỗi và chờ đợi ngày Chúa quang lâm sắp đến.
– Tông đồ Phao-lô: Phao-lô thực là dụng cụ Chúa dùng để đưa nhiều người về với Chúa. Ông là một người trung thành, can đảm, thẳng thắn… Là cầu nối kết giữa dân Do thái và dân ngoại, giữa Cựu ước và Tân ước. Nhờ Phao-lô mà dân ngoại trong đó có chúng ta không phải chịu nghi thức cắt bì của đạo Do Thái và không phải mang “ách Luật Mô-sê” như dân Do thái xưa. Từ khi gặp Chúa và theo làm Tông đồ của Chúa, Phao-lô có lòng yêu mên Chúa cách đặc biệt. Ông đã nêu gương sáng về lòng tin yêu Chúa Giê-su để các tín hữu noi theo. Chẳng hạn: “Đối với tôi sống là Đức Kitô” (Pl 1,21) “Tôi coi mọi sự như phân tro, để chỉ mong được lời lãi Tình yêu Chúa Kitô” (Pl 3,8).- “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? … Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Cuối cùng, trong thời kỳ người Rô-ma bách hại đạo Công giáo, Phao-lô đã bị bắt tù, và sau cùng ngài đã bị án chém đầu ở ngoài thành Rôma vào năm 67.
4) Sống “hiệp nhất” để làm chứng cho Chúa như hai Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô:
– Hiệp nhất trong đức tin: Hai vị Tông đồ đã hiệp nhất một lòng một ý trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Mặc dù còn có nhiều khác biệt về bản thân, tính tình, về ơn gọi theo Chúa, về xu hướng truyền giáo… nhưng cả hai đã tạo nên một sự hiệp nhất trong đa dạng, qua việc cùng trở thành nền tảng xây dựng toà nhà Hội Thánh, sẵn sàng chết vì Danh Chúa. Hai vị đã được Hội Thánh tôn vinh trong một ngày đại lễ. Các ngài đã trở nên biểu tượng của sự hiệp nhất trong đa dạng của Hội Thánh: “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”. Đó chính là khuôn vàng thước ngọc cho các tín hữu noi theo.
– Hiệp nhất trong lòng mến: Ngày nay muốn trở nên tông đồ của Chúa Giê-su, các tín hữu chúng ta phải có lòng mến Chúa noi gương hai vị Tông đồ. Nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng ta sẽ được ơn Chúa thanh luyện khỏi những đam mê, thói hư, các vết nhơ tội lỗi. Nhờ siêng năng nghe Lời Chúa và tham dự thánh lễ rước lễ mỗi ngày, xét mình mỗi tối trước khi đi ngủ, học tập theo Chúa Giê-su… chúng ta cũng sẽ có thể nhìn tha nhân bằng ánh mắt bao dung nhân hậu, sẽ ăn nói điềm đạm, vui vẻ chân thành, ứng xử hiền hòa và khiêm tốn phục vụ … Nhờ đó chúng ta sẽ nên tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Chúa, noi gương hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô.
4. THẢO LUẬN:
Đối với bạn, Đức Giê-su là ai ? (Là một ngôn sứ, để xin Người cầu bầu với Chúa Cha cho ta; hay là một thần tượng để ta chiêm ngưỡng thán phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin theo và sẵn sàng bỏ mọi sự theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là đón nhận các đau khổ gặp phải, kết hiệp với sự đau khổ của Người trên cây thập giá để góp phần cứu rỗi tha nhân ?)
5. NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con cũng muốn được góp phần xây dựng Hội Thánh. Nhưng muốn làm được như vậy, chúng con phải có đức tin mạnh như thánh Phê-rô. Xin Chúa cho chúng con trở thành những viên đá đức tin sống động vững chắc, làm thành nền móng xây nên tòa nhà Hội Thánh. Xin Chúa hãy giúp chúng con tránh những lời nói xúc phạm khó ưa, những hành động vụ lợi ích kỷ, để sống hòa hợp với tha nhân. Xin giúp chúng con loại bỏ những đam mê bất chính và các thói hư tật xấu, loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm chọc chỉ trích kẻ khác, loại bỏ tư tưởng tự mãn và hẹp hòi… Nhờ đó, chúng con trở thành những chứng nhân cho tình yêu bao dung nhân hậu của Chúa noi gương hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô.
– LẠY CHÚA. Tòa nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn đang tiếp tục được xây dựng những chỗ còn dang dở. Xin Chúa giúp mỗi tín hữu chúng con tích cực góp phần xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh sớm hoàn thành. Xin cho chúng con luôn sống yêu thương hòa thuận để gia đình và Giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết tin thờ Chúa và sau này cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM
V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 06/2018
HỘI VIÊN HIỆP HỘI THÁNH MẪU YÊU MẾN CHÚA GIÊ-SU
BẰNG TRÁI TIM MẸ MA-RI-A
HIỆP HỘI THÁNH MẪU do một linh mục dòng Tên là cha Giăng Lơ-ni (Jean Leunis) sáng lập tại Rô-ma từ thế kỷ thứ 16. Đây là con đường giúp hội viên nên thánh theo gương Chúa Giê-su như Thánh Mẫu Ma-ri-a xưa, và là phương thế giúp Hội viên tích cực góp phần vào sứ mệnh loan Tin mừng được Chúa Giê-su trao cho Hội Thánh :”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” (Mt 28,19), “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Từ năm 1967 Liên Hội Quốc Tế Hiệp Hội Thánh Mẫu đã đổi danh hiệu HIỆP HỘI THÁNH MẪU (HHTM) thành : “NHỮNG CỘNG ĐỒNG SỐNG KI-TÔ” (Christian Life Communities), nhằm xác định rõ nét hơn về vai trò quan trọng tuyệt đối của Đức Giê-su và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a trong các sinh hoạt và huấn luyện của hội đoàn mình như sau :
1) HHTM nhận Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x Mt 16,17-20) và hội viên có bổn phận phải tôn thờ, yêu mến và phụng sự Người. Quyết tâm sống như con yêu dấu của Chúa Cha trên trời giống như Người (x Mt 3,17).
2) HHTM cũng xác định Đức Giê-su là vị Tôn Sư tối cao và duy nhất (x Mt 23,8; Ga 13,13-15). Hội viên có bổn phận học sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su, để từng bước trở nên một con người trưởng thành về nhân cách, rồi một tín hữu có nếp sống đạo đức vững chắc, tiếp đến thành một môn đệ đích thực của Đức Giê-su qua việc yêu thương lẫn nhau, và cuối cùng thành một tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Người bắt đầu từ môi trường sống và làm việc của mình.
3) HHTM nhận Đức Giê-su là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x Cv 4,11-12), mà không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Người (x Ga 14,6). Hội viên đặt trọn niềm tin cậy vào Người (x Ga 14,12), kết hiệp mật thiết và cầu xin Chúa Cha nhân danh Người (x Ga 14,13-14).
4) HHTM luôn sống và hành động theo châm ngôn “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a”. Thánh Mẫu Ma-ri-a đã được Đức Giê-su trối lại làm Mẹ của Gio-an là đại diện của Hội thánh (x Ga 19,26-27). Hội viên có bổn phận yêu mến Đức Giê-su bằng trái tim của Mẹ Ma-ri-a. Hội viên quyết tâm lắng nghe và thực hành Lời Chúa Giê-su như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại tiệc cưới thành Ca-na :”Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Như vậy, linh đạo hay con đường nên thánh của HHTM được tóm gọn như sau :
*Một là noi gương Chúa Giê-su : sống nên con thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha bằng việc bỏ đi ý riêng để XIN VÂNG ý Cha: Hội viên tích cực học sống Lời Chúa hằng tuần và siêng năng xưng tội, năng tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng.
*Hai là hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a : Hội viên luôn hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a khi cầu nguyện cũng như trong các công tác PHỤC VỤ Nhà Chúa và cộng đòan. Tích cực góp phần cải thiện môi trường sống ngày một an tòan sạch đẹp và công bình nhân ái hơn.
*Ba là cảm thông yêu mến Hội Thánh: Hội viên luôn kính trọng các vị chủ chăn, tích cực cộng tác với cha chính xứ, cha Giám Huấn bằng cách tích cực làm các việc được các ngài tín nhiệm nhờ cậy.
*Bốn là nhiệt thành với việc truyền giáo : Hội viên năng nhớ cầu nguyện cho việc truyền giáo và mỗi tháng dành thời giờ làm công tác thăm viếng để đem Chúa đến với lương dân, đặc biệt đến với những người đau khổ bệnh tật và bất hạnh.
Nếu trung thành sống theo con đường và lời dạy của Chúa Giê-su như Mẹ Ma-ri-a thì nhờ ơn Chúa giúp và nhờ sự phù trợ của Mẹ, chắc chắn Hội Viên chúng ta sẽ ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn, Trước hết nên một người trưởng thành về nhân cách, rồi nên một tín hữu đạo đức và cuối cùng trở nên một tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Tin mừng.
LM ĐAN VINH – HHTM
VI. THƯ GIÃN THÁNG 06.2018
1. TÊN XẤU
Theo tục lệ ngày xưa, cha mẹ hay đặt tên xấu cho con cái để dễ nuôi. Nhà kia có 3 đứa con trai được đặt tên là Cút, Cu và Đớp. Một hôm khi ông bố vắng nhà thì có một ông bạn thân đến chơi. Bà vợ đã thay mặt chồng ra tiếp đón ân cần khiến ông ta rất vui. Đến trưa, bà vợ liền bảo thằng con út :
-Mau đi dọn cơm cho bác….. ĐỚP !
Người bạn kia hơi phật lòng, chỉ ăn qua loa vài ba chén rồi đứng dậy. Bà vợ bảo thằng con thứ hai :
-Sao không mau múc nước cho bác rửa…. CU !
Lần này thì ông bạn kia giận tím mặt, liền gật đầu chào ra về. Khi ấy bà vợ cứ ngớ người ra chẳng hiểu sao ông ta lại vội bỏ về như vậy. Bà liền bảo thằng con cả rằng :
-Mau ra dắt xe cho bác…. CÚT !
2. CON RỂ CỦA BILL GATES
Một hôm, ông bố nói với con trai rằng :”Con à, bố muốn con phải mau cưới vợ theo sự sắp xếp của Bố”. Anh con trai liền nói :”Con sẽ chọn lấy vợ theo sở thích của con!” .
“Nhưng cô gái bố nhắm là con của Bill Gates đó”
“Ồ, nếu thế thì con đồng ý”.
Sau đó, ông bố liền đi gặp Bill Gates và nói :”Tôi muốn giúp ông chọn được một chàng rể tương lai rồi đó”.
“Nhưng con gái của tôi còn quá nhỏ, chưa thể nghĩ đến chuyện chồng con bây giờ được đâu”.
“Nhưng cậu con trai ấy chính là Phó Chủ Tịch Ngân hàng Thế Giới đó”.
“Ồ, vậy hả ? Vụ này nghe được lắm đó”.
Cuối cùng ông bố đến gặp Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới và nói :”Tôi sẽ tiến cử cho ngài một chàng trai xuất sắc vào ghế Phó Chủ Tịch để làm phụ tá cho ngài”.
“Nhưng hiện giờ tôi đã có quá nhiều Phó Chủ Tịch rồi”.
“Nhưng chàng trai trẻ này là con rể tương lai của Bill Gates đấy”.
“Ồ, ô… Thế thì OK !”
SƯU TẦM
VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 06/2018
PHÒNG TRÁNH NGUY HIỂM KHI UỐNG NƯỚC DỪA
LIKE VOV
Nguy hiểm ít người tiêu dùng biết khi uống nước dừa khiến nhiều người lạm dụng quá mức gây hại cho sức khỏe thậm chí là tính mạng con người.
Uống nước dừa cũng tiềm ẩn nhiều hiểm nguy, mặc dù nước dừa được xem là loại nước uống giải nhiệt tuyệt vời vào mùa hè vì chứa nhiều vitamin, khoáng chất, chất dinh dưỡng. Chính vì vậy, người tiêu dùng cần biết lượng uống vừa phải để giải nhiệt cho cơ thể mà không gây hại.
Nước dừa có tính mát, thuộc âm
1. Tránh uống nước dừa vào buổi tối:
Buổi tối là thời điểm cơ thể bạn cần được thư giãn, nghỉ ngơi sau một ngày hoạt động mệt mỏi. Nếu bạn uống nước dừa vào buổi tối dễ khiến cơ thể bị lạnh (đặc biệt là với nước đá).
Ba yếu tố âm cộng lại (nước dừa, nước đá, ban đêm) khiến bạn dễ bị bệnh. Đặc biệt, người tập võ hay đá bóng cũng kỵ dùng nước dừa trước khi thi đấu vì làm cho gân cơ rã rời, không thể chạy nhanh và có sức bền được.
Nên uống nước dừa vào buổi sáng hoặc buổi trưa để phát huy tác dụng (vì buổi sáng và buổi trưa thuộc dương).
2. Uống nước dừa sau khi đi ngoài nắng sẽ dễ bị bệnh:
Đông y cho biết, nước dừa thuộc âm, có tính giải nhiệt, làm mát, nếu uống với lượng nhiều nhất định sẽ làm giảm huyết áp, mềm yếu gân cơ. Vì thế, nếu lạm dụng quá nhiều nước dừa hàng ngày sẽ làm sức khỏe suy yếu đi, huyết áp tụt xuống thấp, vô cùng nguy hiểm. Do vậy, bạn không nên thấy nước dừa ngon mà uống nhiều.
Theo kinh nghiệm dân gian, nước dừa không phải loại nước có thể dùng để uống khi đi nắng về, vì dễ gây “trúng gió”. Các triệu chứng thường gặp trong trường hợp này là ớn lạnh, đầy bụng, hâm hấp sốt, thậm chí sốt cao. Đặc biệt, nếu vừa thi đấu thể thao hoặc làm những công việc nặng nhọc, mất sức, không nên vội vã uống nước dừa, vì sẽ làm cho chân tay buồn rũ, giảm sức dẻo dai và phản xạ nhanh nhẹn. Nếu có dùng, cần phải uống từ từ từng chút một.
3. Trẻ từ 6 tháng tuổi mới được uống nước dừa:
Mặc dù nước dừa có nhiều công dụng tốt cho em bé. Tuy nhiên do hệ tiêu hóa của bé còn non nớt nên trẻ trên 6 tháng tuổi mới được uống nước dừa. Bắt đầu từ số lượng nhỏ sau đó tăng lên dần. Tuyệt đối không cho bé uống quá nhiều và quá nhanh, trẻ dễ bị đầy hơi, khó tiêu và không tốt hệ tiêu hóa của bé.
4. Phụ nữ mới mang thai không nên uống nước dừa:
Thông thường, phụ nữ mang bầu thích uống nước dừa để con trắng trẻo. Nhưng thực tế, nước dừa chứa nhiều chất béo nên khó tiêu hóa, sẽ làm trầm trọng thêm các triệu chứng ốm nghén của phụ nữ có thai 3 tháng đầu.
Thêm vào đó, nước dừa nhất là dừa xiêm thuộc âm, tức là có tính giải nhiệt, làm mát, làm mềm yếu gân cơ, hạ huyết áp vì vậy nó không tốt cho mẹ bầu những tháng đầu, có thể gây sảy thai. Tuy nhiên, sau 3 tháng đầu, bà bầu có thể thoải mái uống nước dừa và loại nước này còn được coi là đồ uống rất bổ dưỡng. Một lưu ý nhỏ đó là chị em chỉ nên uống 1 quả/ngày và không nên uống buổi tối.
Bên cạnh đó, những người mắc các bệnh suy nhược, huyết áp thấp, người hay lạnh, người mới ốm dậy, người bị bệnh trĩ, cảm lạnh, thấp khớp, … không nên uống nước dừa và các sản phẩm từ dừa vì có thể gặp những tai hại khôn cùng.
5. Dễ bị tăng cân:
Rất nhiều phụ nữ không biết rằng uống nước dừa rất dễ tăng cân bởi nước dừa chứa carbohydrates cùng với chất điện giải.
Nếu không tập luyện thể thao, bạn sẽ bị thừa lượng chất điện giải vô cùng lớn khi uống nó, kết quả là bạn bị tăng cân nhanh chóng./.
Theo Người tiêu dùng
THÔNG TIN HIỆP SỐNG THÁNG 06.2018
A. TIN CHUNG LIÊN HỘI HHTM/TGP
I . MỪNG BỔN MẠNG THÁNG 06/2018:
1) Ngày 13/06 kính thánh ANTÔN, Bổn mạng quý cha:
– Cha Ant Nguyễn Thanh DANH – Phụ tá GX Trung Chánh.
Và một số quý ông quý anh:
– Ông Ant Nguyễn Đình LÂM – Cố vấn BCH Liên Hội – HHTM TGP SG.
– Ông Ant Hồng Thái Y – Bảo trợ Mái Ấm Caritas.
– Anh Ant Trần Bảo HOÀNG – Trưởng Xứ Đoàn GT/HHTM Tân Hưng (XM).
– Anh Ant Phạm Xuân VƯỢNG – Nguyên Trưởng Xứ Đoàn GĐ/HHTM Mẫu Tâm.
Kính chúc quí Cha, quí Ông, Quý anh em Huynh Trưởng nhận thánh Antôn làm bổn mạng thêm lòng yêu mến Chúa noi gương ngài.
2) Ngày 24/06 kính thánh GIOAN BAOTIXITA, Bổn mạng:
– Đức Hồng Y GB PHẠM MINH MẪN: Nguyên Tổng Giám Mục TGP Sai-gòn TP HCM.
– Cha GB Nguyễn Văn LUYẾN: Chính Xứ, Giám Huấn XĐ Bác Ái HHTM Lạng Sơn.
– Cha GB Nguyễn Xuân ĐỨC: Chính Xứ, Giám Huấn XĐ Giới Trẻ HHTM Thạch Đà.
– Cha GB Nguyễn Văn HIẾU: Chính Xứ GX Hàng Sao, nguyên GH XĐ BA/HHTM Bình Thái
– Cha GB Nguyễn Hoàn Phú: Giám Huấn XĐ Bác Ái HHTM Vị Hưng (GP Cần Thơ).
– Cha Gioan B Nguyễn Ngọc Tân: Giám huấn Xứ đoàn Bác ái HHTM Hợp An
Ngoài ra còn có quý ông, quý anh Huynh Trưởng trong ba Liên đoàn như:
– Ông GB Trần Quang MINH: Nguyên ĐT XĐ Bác Ái HHTM Châu Bình (TĐ).
– Nhạc Sĩ GB Quang MINH: LHP Thường Trực kiêm Trưởng Tập Huấn HHTM TGP Sai-gon. – Anh GB Vũ Đình THỊNH: UV Truyền Thông BCH LĐ Gia Đình HHTM TGP Sai-gon.
– Anh GB Trần Gia TRANG: Xứ Đoàn Trưởng XĐ Giới Trẻ HHTM Bình Thái và một số Hội viên các Xứ Đoàn.
Kính chúc Đức Hồng Y, quí Cha Giám Huấn, quí Huynh Trưởng và Hội viên nhận thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta được dồi dào hồng ân Thiên Chúa qua lời bầu cử của ngài.
3) Ngày 29/06 : Kính Thánh Phê-rô và Phao-lô, Bổn mạng:
– Cha Phao-lô Nguyễn Hữu Thiện, Phụ tá Giám Huấn Hiệp Hội Thánh Mẫu.
– Cha Phê-rô Nguyễn Văn Thiềm, Giám huấn Xứ đoàn Bác ái Tân Hưng
– Cha Phê-rô Nguyễn Ngọc Vượng, Quản Hạt, chính Xứ Ghuấn XĐ Bác ái HHTM Bùi Môn.
– Cha Phê-rô Nguyễn Văn TÂM: Chính xứ, GH HHTM Giáo xứ Mẫu Tâm (CH).
– Cha Phao-lô Nguyễn Quốc DUY: Phụ Tá, Giám Huấn HHTM Bình Thái (BA).
Ngoài ra còn có quý ông, quý anh Huynh Trưởng trong ba Liên đoàn như:
– Ông Phao-lô Lê Văn HẠNH: Ủy viên Tập huấn LĐ BA HHTM-TGP-SG.
– Ông Phê-rô Nguyễn Viết PHẤN: Cố Vấn BCH Xứ đoàn BA HHTM Bùi Phát (Tân Định).
– Anh Phê-rô Nguyễn Văn HUYỀN: Nguyên Liên Đoàn Trưởng GT/HHTM/SG.
– Anh Phê-rô Phan Huy ĐOÀN: Uỷ viên Truyền Thông Liên Hội HHTM.
– Anh Phê-rô Đinh Như HẢI HÀ: Nguyên Trưởng Hiệp đoànGTHHTM Bình An.
– Anh Phao-lô Nguyễn Đức TIẾN: Nguyên UVPV LĐGT HHTM.
– Anh Phê-rô Phạm Chi HUYNH: Đoàn GT HHTM Bình An.
– Anh Phê-rô Nguyễn DUY: Đoàn Trưởng XĐ Giới Trẻ HHTM Châu Bình.
– Anh Phê-rô Phạm Văn THÀNH: XĐ GĐ HHTM Lạc Quang.
Kính chúc quý Đức Cha, Cha Phụ Tá HHTM, quí Cha Giám Huấn, quý Huynh Trưởng và Hội viên HHTM dồi dào hồng ân Chúa ban qua lời bầu cử của hai thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô.
II. THĂM VIẾNG XỨ ĐOÀN HHTM TÂN PHÚ:
Ông Liên hội truỏng và Liên hội phó BCH Liên Hội HHTM đã tói thăm ca đoàn HHTM GX Tân phú vào hai ngày 8 và 15-5-2018. Hai ông đã dự buổi sinh hoạt theo Linh Đạo HHTM với ca đoàn, đồng thời tập các bài hát về HHTM và tặng ca đoàn huy hiệu mới cho 52 thành viên ca đoàn. Đây là ca đoàn của HHTM GX Tân-phú đã được thành lập từ lâu, vì hoàn cảnh tạm ngưng liên lạc với HHTM. Đến nay đã sẵn sàng sinh hoạt lại với Liên Hội HHTM.
B. TIN LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM TGP SAIGON TH 06/2018
I. Công tác Thăm viếng Bác Ái:
1) Đoàn Học Sống Lời Chúa NT Thánh Mẫu:
– Thăm bệnh nhân : 2 người
– Viếng xác : 4 người
– Quét dọn nhà thờ : 8 lần / 4 người
– Thăm gia đình lương giáo : 2 người
– Đỡ đầu Tân Tòng : 1 người
– Thăm Tu Sĩ : 1.700.000 đ
Tổng chi Bác ái – Xã hội : 7.750.000 đ
2) Đoàn Bác Ái Bùi Phát:
– Viếng xác : 6 người
– Đọc kinh gia đình : 8 gia đình
– Thăm viếng hội viên : 2 người
– Quét dọn nhà thờ : 30 lần / 2 người
Tổng chi Bác Ái : 900.000 đ
3) Công tác Bác Ái tại Giáo xứ Phước Đồng ( Nha Trang ) và Tham quan Đà Lạt.
Liên đoàn Bác ái HHTM TGP SG tổ chức chuyến đi từ thiện bác ái tai giáo xứ Phuóc đồng Nha trang. Đồng hành có cha TGH và BCH Liên Hội HHTM vào ngày 12/5/2018 vừa qua. Quà tặng gồm 100 phần gồm: gạo, sũa, đuòng, mì gói, dầu ăn… trị giá mỗi phần 250 ngàn. Số quà được trao cho đồng bào nghèo cả lương và giáo. Sau khi trao quà đoàn đã đi Đalat và trở về Saigon vào chiêu Chúa nhật 13/5/2018.
4) Đóng góp của các XĐ trong chuyến đi công tác GX Phước Đồng tháng 05/2018.
Trong thời gian từ 11/5/2018 đến 13/5/2018 Ban Chấp Hành Liên Đoàn Bác Ái đã cùng với các Xứ Đoàn thực hiện như sau:
– BCH Liên Hội đã hỗ trợ: 5.000.000 ( trong đó có cả tiền chi phí xe )
– Xứ Đoàn Nam Hòa : 2.300.000
– Xứ Đoàn Lộc Hưng : 1.500.000
– Xứ Đoàn Sao Mai : 1.500.000
– Xứ Đoàn HSLC : 2.000.000
– Xứ Đoàn Bắc Dũng : 2.200.000
– Xứ Đoàn Châu Bình : 1.500.000
– Xứ Đoàn Trung Chánh : 2.000.000
– Xứ Đoàn Lạng Sơn : 2.000.000
– Xứ Đoàn Hợp An : 1.500.000
– Xứ Đoàn Tân Hưng: 10.500.000 ( trong đó các cá nhân sau đã ủng hộ :
Bà Ngọc : 1.200.000 Bà Nhẫn : 1.100.000 Bà Mai : 500.000
Bà Sang : 500.000 Bà Qui : 500.000 Bà Soi : 500.000
Bà Cố Thảo : 500.000 Bà Hoàng Thị Kim Dung : 300.000
Bà Điệp : 200.000 Bà Vở : 200.000 Bà Hồng : 200.000
Bà Kim Dung : 200.000 Bà Mỹ Hóa : 200.000
– Một người thân của ông Liên ( Hội Trưởng ) ủng hộ : 200.000 đ
– Bà Vở ( Đoàn phó Xứ Tân Hưng ) ủng hộ 150 chiếc mũ vải.
– Bà Chiến ( Trưởng ban Bảo Trợ Bác Ái BCH/LH) đã ủng hộ: 90 kg đường, 192 hộp sữa, 900 gói mì.
Riêng về tiền mua Gạo + Dầu ăn + 100 thùng mì , Ban Chấp Hành đã gởi Cha Giáo Xứ Phước Đồng 20.000.000 và ủng hộ công tác tông đồ truyền giáo 1.000.000
II. TIN BUỒN : Trong tháng qua Chúa đã gọi về một số người như sau:
– Cụ bà Maria Đỗ Thị Lưu – Ân nhân Đoàn Bác Ái thuộc Giáo xứ Nam Hòa.
– Linh hồn Giuse và 2 Maria – Đoàn Bác Ái Giáo xứ Bùi Phát.
Xin Thiên Chúa sớm đưa các linh hồn này về hưởng tôn nhan Thiên Chúa.
III. THƯ MỜI HỌP :
Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các xứ đoàn thuộc LĐBA / HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 06 / 2018 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương : Số 3 – 5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình, vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 25/6/2018.
C. TIN LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM – TGP SAI-GON TH 06/ 2018
I. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN tháng qua:
1) Giỗ 15 năm Cha Cố Giacobê Đỗ Minh Lý, Nguyên Giám đốc HHTM/VN (2003-2018)
Nhân dịp lễ giỗ 15 năm của cha Gia-cô-bê, 9g00 sáng ngày 03/05/2018 một số đại diện Liên đoàn gia đình HHTM GP đã đến Nghĩa Trang Lararo viếng phần mộ cầu nguyện cho Cha Cố. Tại đây Đại diện LĐ đã gặp một số Hội Viên đoàn HHTM Tân Phú, Hai đơn vị đã cùng hiệp dâng lời kinh cầu nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa cho Cha Cố Giacobe sớm hưởng vinh phúc nơi Thiên Đàng .
2) Xứ Đoàn Gia đình HHTM Mẫu Tâm – Hạt Chí Hòa:
Nhân dịp mừng lễ Bổn Mạng Giu-se Laom Động (01/05/2018) lần thứ 18, XĐ Gia đinh HHM Mẫu Tâm đã xin lễ Tạ ơn cầu nguyện cho ân nhân, đi thăm viếng cầu nguyện cho Chị Lucia đã về cùng Chúa. Ngoài ra anh chị em còn làm công tác đi thăm phát quà cho bệnh nhân tại làng Phong thuộc xứ Tân Mai Biên Hòa.
3) Xứ Đoàn Gia đình HHTM Hà Nội – Hạt Xóm Mới:
Tháng qua, chị em đã thăm viếng cầu nguyện 2 người trong giáo xứ Hà-nội mới qua đời.
Ngày 21/05/2018 XĐ Gia đình HHTM Hà Nội đã dự Thánh lễ phong chức phó tế cho tu sĩ Gioan Baotixita Trần văn phấn SP con Cha Giám huấn Giuse Phùng Văn Thông Minh, do Đức cha AN-TÔN Vũ Huy Chương Đà Lạt chủ sự…
4) Xứ Đoàn Gia đình HHTM Lạc Quang – Hạt Hóc Môn:
Tháng qua XĐ đã tham gia rước kiệu hoa kính Đức Mẹ.
– Tham gia giờ kính Đức Mẹ Fatima vào trưa 13/05/2018.
– Tham gia các buổi đọc kinh kính Đức Mẹ tại các khu giáo của giáo xứ.
– Thăm chị Trần Thị Nguyệt bị đau nặng phải nằm bệnh viện lâu ngày.
5) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Châu Bình- Hạt Thủ Đức:
– Làm kiệu hoa và tham gia rước kiệu hoa xung quanh nhà thờ trong tháng kính Đức Mẹ.
6) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Caritas Sao Mai – Hạt Chí Hòa:
– Tham gia khiêng kiệu Đức Mẹ và rước kiệu chung giáo xứ xung quanh nhà Thờ Sao Mai.
– Góp tiền hoa nến giúp đội hoa giáo xứ.
– Phụ trách nấu cơm 8 ngày trong tháng 05 cho bịnh nhân Mái ấm – Chí Hòa.
– Ngày 13/05 Hành hương Đức Mẹ Hồng Ngọc
– Thăm các Cha Hưu dưỡng tại gp Đà Lạt
7) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Phụng Hiệp – GP Cần Thơ:
– Tổ chức thăm các gia đinh đã bỏ đạo lâu ngày để giúp họ trở lại tham dự lễ nhà thờ.
– Làm giờ kính Đức Mẹ Fa-ti-ma 12g trưa ngày 13/05/2018.
8) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Sao Mai – Hạt Chí Hòa:
– Học và Thảo luận 4 bài Hiệp Sống Tin Mừng chủ nhật trong tháng vào các tối thứ Năm và hát lễ chiều Thứ bảy hằng tuần.
9) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Matthêu – Hạt Chí Hòa:
– Chia sẻ và học Tin Mừng vào các tối thứ hai hằng tuần.
– Đến tư gia đọc kinh cho Mẹ chị Thu mới qua đời .
10) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Tân Hưng Q12 – Hạt Hóc Môn:
– Làm giờ kính Đức Mẹ Fatima vào trưa 13/05/2018.
– Đọc kinh luân phiên gia đình trong tháng.
– Thăm và tặng quà 2 Hội Viên đau bệnh và 1 bệnh nhân ngoại đạo.
– Viếng tang và đọc kinh cho linh hồn cụ Antôn mới qua đời (Thân phụ chị Hằng).
11) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Bắc Hà – Củ Chi:
– Ngày 05/05 Giáo xứ Bắc Hà khai mạc Tháng Hoa kính Đức Mẹ, chị em XĐ Gia đình HHTM Bắc Hà đã tích cực cộng tác giúp đội hoa của giáo xứ .
– Đi hành hương Đức Mẹ Tà Pao.
II. TIN VUI:
Theo đề nghị của Ban Giám Đốc Đại Chủng Viện Thánh Giuse, Đức Giám Mục Giám quản Giuse đã quyết định truyền chức phó tế cho 17 đại chủng sinh vào lúc 8 giờ 30 ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại nhà thờ Chính Toà, số 1 Công xã Paris, phường Bến Nghé, thành phố Hồ Chí Minh. Trong số đó có Thày Phê-rô Nguyễn Quốc Phong là con chị Lucia Hà Thị Đào, Phó XĐ Gia Đình HHTM Hà Nội – Xóm mới
Xin chúc mừng Ông Bà cố là Đoàn Phó XĐ Gia đình HHTM Hà Nội – Xóm Mới. Xin Chúa ban tràn đầy hồng ân cho Thày Phó Tế Phê-rô Nguyễn Quốc Phong.
III. TIN BUỒN:
Trong tháng 05 Chúa đã gọi về một số thân nhân Hội Viên như sau:
– Ngày 15/05/2018 Bà Maria thân mẫu chị Lan – nguyên thư ký Gia đình Caritas Sao Mai
– Ngày 18/05/2018 Ông Giuse Nguyễn Tất Cường thân sinh chị Kim Thoa, Thành viên Caritas Sao Mai
– Ngày 21/05/2018 , Ông An-tôn Nguyễn Văn Min thân sinh của chị Nguyễn Thị Hằng hội viên Gia đình HHTM Tân Hưng Q 12
Xin cầu nguyện cho Linh Hồn Maria, Giuse và An-tôn được sớm về Thiên Đàng.
IV. KẾ HOẠCH THÁNG 06/2018:
1) Hiệp Thông Cầu Nguyện cho các Hội viên :
– Anh Valentine Phạm Văn Ngọc, BCH liên hội HHTM Gp nằm bệnh viện Q 12 do bị nám phổi.
– Chị Toàn và Chị Tâm, nguyên trưởng của gia đình HHTM Bắc Hà bịnh lâu ngày.
– Hai chị thuộc gia đình Tân Hưng là Hoàng Thị Phương đang chữa binh trong bịnh viện , và chị Nguyễn Thị Liêm bị bó bột do gẫy tay.
– Chị Trần Nguyệt Hội viên gia đinh HHTM Lạc Quang bị đau nằm binh viện lâu ngày.
Xin hiệp ý cầu cho các anh chị: Anh Ngọc , chị Toàn , Chị Tâm , Chị Phương , Chị Liêm và chị Trần Nguyệt sớm khỏi bịnh .
2 ) Thông tin về lễ hằng tháng của Liên Đoàn Gia Đình:
Trong buổi họp ngày 09/04/2018 tại Đan Viện Xito Thánh Mẫu Phước Hải 54/3/2 Trần Phú, F.5, Bãi dâu, cha Đa Minh Tổng Giám huấn, Cha Phao-kô phụ tá HHTM GP và BCH Liên Hội đã cho phép Liên đoàn gia đình sinh hoạt thường xuyên vào chiều thứ bảy tuần hai mỗi tháng.
3 ) MỜI HỌP :
Mời Quý anh chị Hội Viên thuộc LĐ GĐ HHTM tham dự buổi sinh hoạt tháng 06/2018 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương : Số 3 – 5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình, vào lúc 14g30 Thứ bảy, ngày 9/6/2018. Sinh hoạt 15g00 Thánh hồi 15g30.
CHUẨN BỊ CHO BUỔI SINH HOẠT:
– Nước uống: Chị Hiền và Châu
– Hát : Chị Nguyệt và Caritas Sao Mai
– Ghi ý Lễ : Chị Lành
– Phụng Vụ Thánh Lễ :
Dẫn Lễ : Chị Trung
Chúc Mừng Bổn mạng : Chi Châu
Bài Đọc 1 : XĐ Sao Mai
Bài Đọc 2 : XĐ Hồng ân
Bốn lời nguyện : Đại Diện các XĐ: Tân Hưng – Mattheu- Bắc Hà – Hà Nội
Tâm tình sau Rước Lễ : Lạc Quang
V. HÌNH ẢNH THÁNG 05/2018
Đoàn công tác của LĐ Bác ái thăm người nghèo gx Vĩnh Đồng (Nha Trang) từ 12/05-13/05/18
BCH Liên đoàn Gia đình HHTM GP TP HCM và Hội Viên HHTM Tân Phú viếng Cha Cố Giacobe
Gia đình HHTM Mẫu Tâm đi hành hương
Liên đoàn gia đình thăm Cha chính xứ Mẫu Tâm
D. TIN LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP
Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon đến nay gồm 6 Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM đang hoạt động như sau:
Xứ Đoàn Giới Trẻ Sao Mai,
Xứ Đoàn Giới Trẻ Thạch Đà,
Xứ Đoàn Giới Trẻ Châu Bình,
Xứ Đoàn Giới Trẻ Thái Bình,
Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình Thái,
Xứ Đoàn Giới Trẻ Bình An.
Hiện nay Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM đang trong thời gian củng cố sinh hoạt bằng việc BCH Liên Đoàn sẽ đi thăm các Xứ Đoàn,
TRUYỀN THÔNG HHTM
XIN TẢI TẬP SAN HIỆP SỐNG TIN MỪNG THÁNG 04.2018 TẠI DƯỚI.