“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105)
Mục lục:
SUY NIỆM TIN MỪNG
Suy Niệm Những Ngày Đầu Xuân ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trg 2
Suy Niệm Những Ngày Đầu Xuân Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty Trg 5
Suy Niệm Những Ngày Đầu Xuân Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Trg 10
Suy Niệm Đầu Xuân Lm. Inhaxiô Trần Ngà Trg 16
THƠ TIN MỪNG
Thơ Xuân A.P Mặc Trầm Cung Trg 18
————————————–
Mùng Một Tết:
Phấn Đấu Tạo Mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau được thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phúc vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân.
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tự đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa xuân đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám Mối Phúc Thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ : Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn Chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho Nước Trời.
Mùng Hai Tết:
Mừng Xuân Với Những Liên Hệ
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối liên hệ. Nếu không có những liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em, Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để có mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia vui sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể nói tất cả những gì ta có được : từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo thành bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tự nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những trang đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà quý nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất. Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà chính là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
————————————
Tân Niên: Cầu Bình An Cho Năm Mới
Suy niệm Tin Mừng Mt 6:25-34
Hòa hợp với Thiên Chúa
(Thiên – Nhân giao hòa)
Đọc đoạn Tin Mừng Mt 6:25-34, vẫn thường được chúng ta gán cho cái tiêu đề‘Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng’, trong bầu khí linh thiêng của ngày Tân Niên, người Công Giáo Việt Nam sẽ nhận ra ngay một chân lý: Đức Giêsu rõ ràng đang nhắc nhở tới việc tái lập trở lại sự hòa hợp nguyên thủy giữa con người với Thiên Chúa, một sự hòa hợp tuyệt diệu mà sách Sáng Thế chương 3 đã cho thấy hiện hữu từ lâu, trước cả khi nó bị tội lỗi phá hủy tận căn.
Tuy nhiên bất chấp tội lỗi, sự hòa hợp này hình như vẫn còn tồn tại trong trời đất, vẫn là một qui luật mà vạn vật luôn tuân theo; chim đồng cỏ nội vẫn sống theo qui luật đó tự ngàn đời. Ngày nay người ta gọi đó là định luật thiên nhiên hay cân bằng sinh thái. Đức Giêsu đã chỉ cho thấy: cội nguồn của tình trạng hòa hợp này chính là Chúa Cha trên trời; “Cha anh em vẫn nuôi chim trời không gieo không gặt… mặc cho hoa huệ ngoài đồng không dệt tơ kéo sợi”. Điều này chứng tỏ: bon chen lo lắng của nhân tình thế thái chính là biểu hiện của mất hòa hợp sâu sắc giữa Nhân với Thiên, giữa con người và trời đất. Lúc khởi đầu sự hòa hợp này thật kỳ diệu: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1:27). Đó là tình trạng lý tưởng của thời khởi nguyên nơi vườn địa đàng: ‘Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen… và chúc lành cho họ’ (St 2:15). Tội nguyên tổ và tội lỗi con người, theo lối nhìn hòa hợp của người Á Đông (khác hẳn với lối nhìn nặng tính luật pháp của phương tây, nhất là của xã hội Rôma) không ngừng hủy hoại sự hòa hợp của trời đất; không riêng gì giữa Nhân với Thiên, mà cả giữa Nhân với Địa, thậm chí cả giữa Nhân với Nhân nữa. Như thế tin tưởng vào Chúa quan phòng – hay tiếp nhận ơn cứu độ – hay xây dựng niềm tin Kitô hữu sẽ được Hồn Việt chúng ta hiểu như một cuộc trở về với sự hòa hợp nguyên thủy: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì uống gì, hay mặc gì đây? Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”.
Hiểu như thế ta sẽ nhận ra đoạn Tin Mừng hàm chứa một nội dung thật sâu sắc: nhờ vào tình thương cứu độ của Đức Giêsu mà sự giao hòa (tức là tái lập sự hòa hợp hoàn hảo) giữa Thiên và Nhân được tái lập trở lại. Đức Giêsu – tác nhân của sự hòa hợp mới này chính là Adam mới, khai sinh một Nhân mới hoàn toàn hòa hợp với Thiên; sự hòa hợp lần này không dựa trên bản chất hoàn hảo của nhân, nhưng trên tình yêu nhân ái cứu độ của Thiên (Kitô). Phaolô diễn tả điều này trong ngôn ngữ và văn hóa Thánh Kinh như sau: “Nhờ đức tin chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta… mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa” (Rm 5:1-2).
Ngày đầu năm, người Công Giáo Việt Nam không chỉ cầu phúc xin Chúa chúc lành cho năm mới được an lành (cầu bình an cho năm mới), không chỉ phó thác tin tưởng nơi Chúa quan phòng để cuộc sống mình được bảo đảm ấm no, nhưng điều mà họ thực sự mong muốn là: làm sao mối tương quan Thiên – Nhân được hòa hợp hơn nữa; nói cách khác: điều họ ước nguyện và quyết tâm thực hiện trong năm mới là xây dựng cho bằng được mối tương quan hai chiều, và ra sức củng cố cho nó ngày càng thêm bền vững. Chúa Trời quan tâm và thuận với nhân hơn (điều này đã được bảo đảm qua mầu nhiệm Nhập Thể và Thập Giá của Đức Kitô), trong khi chính con người cũng phải ra sức quan tâm và thuận với Thiên hơn, qua việc ra sức đón lấy hồng ân cứu độ. Điều này được người Do Thái Cựu Ước diễn tả như thiết lập hay tái lập một giao ước hoàn hảo và bền chặt hơn với Đức Chúa Giavê, còn người Công Giáo Việt Nam chúng ta, trong văn hóa Thiên – Địa – Nhân, sẽ hướng hồn về một mối tương quan hòa hợp hơn nữa với Thiên Chúa là Cha, điều mà người Công Giáo chúng ta quen gọi là ‘thuận theo Thánh Ý Chúa’. Chúng ta muốn có thiên thời (hay đúng hơn ‘Thiên thời’) bằng bất cứ giá nào, trong bất cứ tình huống nào cho dầu thuận lợi hay nghịch cảnh, trong năm mới cũng như trong suốt cuộc sống chúng ta.
Mồng Một đầu năm, Hồn Việt Công Giáo cùng nhau dành thời giờ để tận hưởng sự giao thoa tuyệt diệu giữa Thiên Chúa nhân lành và loài người tội lỗi chúng ta! Và chúng ta vui hưởng năm mới như thời gian mở rộng cánh cửa đón nhận hồng ân cứu độ.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Đức Giêsu làm người đã muốn luôn được thuận với Cha trong mọi sự và trong suốt cuộc đời. Ngay từ ngày đầu của năm mới này, chúng con mong muốn và quyết tâm đi vào mối tương quan Thiên – nhân hòa hợp với Cha. Về phần Cha thì đã quá rõ: qua Thập Giá Đức Kitô, chúng con biết rằng: mối tương quan Cha dành sẽ luôn là giao hòa bất chấp sự yếu hèn của con người. Về phần chúng con, chúng con quyết tâm xây dựng và củng cố sự hòa hợp với Cha nhân ái, cũng chính nhờ Thập Giá Đức Kitô, bất chấp những giới hạn và tội lỗi của mình. Xin giúp chúng con trong năm mới này biết gia tăng sự hòa hợp với Cha qua việc đón nhận và đi sâu vào lòng từ ái xót thương của Cha ngày càng sâu sắc và trọn vẹn hơn. Amen
Mồng Hai Tết
Kính Nhớ Tổ Tiên Và Ông Bà Cha Mẹ
Suy niệm Tin Mừng Mt 15:1-6
Hòa hợp với mọi người
(Nhân – Nhân giao hòa)
Ngày Mồng Hai Tết được Lịch Công Giáo Việt Nam được gọi là: ngày ‘Kính Nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ’; nhiều người, vì hiểu lầm ‘kính nhớ’ (như kính nhớ các đẳng linh hồn), nên đã biến ngày này thành ngày cầu nguyện cho vong hồn tổ tiên ông bà cha mẹ. Theo quan niệm Nhân Hòa trong văn hóa Việt, ‘nhân’ đây gồm cả người sống lẫn kẻ chết, người thân cận cũng như kẻ xa lạ, và kính nhớ hay tôn kính được hiểu như kiến tạo một tương quan hòa hợp với hết mọi người, bắt đầu từ cận nhân, điển hình là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, còn sống hay đã khuất núi. Đây là nền tảng của ‘đạo hiếu’, không chỉ được hiểu hạn hẹp như hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ (nhất là khi đã qua đời), nhưng còn là ‘hiếu’ cả với đồng bào, với dân nước, và xa hơn nữa là hiếu hay thuận thảo với toàn thể bàn dân thiên hạ (nhân hòa).
Văn hóa Do Thái thời xa xa còn khá xa lạ với khái niệm ‘nhân hiếu’ này! Trong cuộc tranh luận về truyền thống với nhóm Pharisêu và các kinh sư, Đức Giêsu chỉ mới đề cập tới và chỉnh sửa một phần nhỏ cái mối tương quan xã hội đa diện vốn có nơi các thính giả Do Thái. Lấy một thí dụ: giới luật Cựu Ước qui định: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ’ được hiểu là chỉ khi các ngài còn sống chứ không đề cập chi tới lúc các ngài đã khuất bóng. Ấy vậy mà các kinh sư luật sĩ vẫn viện lý lẽ này nọ để tránh né bộn phận này: “Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa”. Rõ ràng cái tối thiểu của chữ hiếu chữ nhân họ còn chưa có nữa là. Chẳng trách sự hiểu biết ‘nhân hiếu’ của họ thật quá hạn hẹp, hoặc nếu có mở rộng hơn ra đôi chút thì cùng lắm cũng chỉ tới bạn bè thân quen là cùng; “… yêu thương những kẻ yêu thương mình” (Mt 5:46).
Trong cái văn hóa nhân hòa, Hồn Việt có khả năng hiểu sâu hơn các điều mà Đức Giêsu đã dạy trong chương 5 Phúc Âm Thánh Mátthêu mà Người gọi là ‘kiện toàn Luật Môsê’, như đừng giận ghét, chớ ngoại tình, đừng thề thốt, chớ trả thù, và nhất là yêu thương kẻ thù. Thiết tưởng bác ái của Tin Mừng, nếu phải diễn tả trong văn hóa thuần Việt, sẽ là đưa nhân hòa lên tới tột đỉnh và mở rộng nó ra, thoát khỏi mọi biên cương giới hạn của lòng dạ con người. Tin Mừng đồng thời cũng cống hiến cho Hồn Việt phương thế để thực hiện được cái lý tưởng nhân hòa đầy thử thách và cam go, thay vì chỉ mãi mãi là một mơ ước thanh tao cao đẹp trong những ngày đầu năm mới. Cái ‘hòa’ mà Tin Mừng cống hiến không chỉ là: vắng bóng các đố kị căng thẳng tranh chấp chia rẽ, nhưng đúng là giao hòa dựa trên ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu Kitô Thập Giá chính là ‘Nhân Hòa’ đầu tiên và hoàn hảo của toàn thể lịch sử nhân loại khi Người không những giao hòa Trời với đất, mà còn giữa người với Người; “Lạy Cha, xin tha cho họ!” (Lc 35:34). Thánh Phaolô đã triển khai tư tưởng hòa giải này trong chương 5 thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, trong khi Thánh Gioan đã dùng nó làm nền cho lời kêu gọi xây dựng nhân hòa giữa các tín hữu và với hết mọi người, “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối…” (1 Ga 4:20…)
Như vậy, nếu trong ngày Mồng Hai Tết người Công Giáo Việt Nam có cử hành bất cứ nghi lễ hay tập tục nào để kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình (còn sống hay đã qua đời) thì cái tâm của họ phải mở rộng hướng tới hết mọi người; chính sự rộng mở này sẽ giúp họ trong năm mới càng chấp nhận và triển khai Tin Mừng bác ái yêu thương của Đức Kitô cách sâu sắc và triệt để hơn. Họ thâm tín rằng: nhờ niềm tin vào ơn cứu độ giao hòa của Đức Kitô, chính họ sẽ trở thành tác nhân có khả năng biến niềm mơ ước mãnh liệt nhất của Hồn Việt, và của toàn thể nhân loại, trở thành hiện thực: ‘Tứ hải giai huynh đệ”.
Lạy Đức Kitô – đấng giao hòa, trên Thập Giá Chúa không chỉ giao hòa nhân loại với Thiên Chúa (Thiên – Nhân) và còn giao hòa nhân loại với nhau (Nhân – Nhân). Trong ngày đầu xuân này, xin giúp con khởi động trở lại tiến trình giao hòa với mọi người, bắt đầu từ những người gần gũi với con hơn hết là Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, còn sống hoặc đã qua đời. Xin cho việc kính nhớ các ngài càng thôi thúc con sống Tin Mừng cứu độ của Chúa cách trọn vẹn và quảng đại hơn trong mối tương quan với hết thảy mọi người trong suốt năm mới. Amen
Mồng Ba Tết
Thánh Hóa Công Việc Làm Ăn
Suy niệm Tin Mừng Mt 25:14-30
Hòa hợp với thiên nhiên
(Nhân – Địa giao hòa)
Sách Sáng Thế mô tả thời khai nguyên hoàng kim như một không gian – thời gian trong đó con người và thiên nhiên hòa hợp với nhau cách hoàn hảo: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen, để cày cấy và vun trồng đất đai hoa màu…” (St 2:15). Khát vọng này vẫn là ước mơ của con người trải qua các thời đại, chỉ vì cái thực tế phũ phàng của tội mà sự hòa hợp nhân – địa đã và đang bị hủy hoại từng ngày, “…đất đai bị nguyền rủa vì ngươi, ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra” (St 3:17). Trong những ngày đầu năm mới Hồn Việt Công Giáo càng cảm thấy khát vọng tái lập ‘địa lợi’ nơi mình trỗi dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Đối với mọi con người, nhưng nhất là với người Việt giầu tính nông nghiệp, được gần gũi với thiên nhiên là điều họ hằng khao khát, nhất là vào những ngày tân niên: họ đi hái lộc xuân, trưng bày cây trái bông kiểng trong nhà, và thắp nhang khấn vái để cầu được mưa thuận gió hòa. Hội Thánh Công Giáo Việt Nam (dựa trên ‘Lễ ngoại lịch’ của sách phụng vụ) tạm gọi ngày Mồng Ba Tết là ngày ‘thánh hóa công việc làm ăn’ hay dâng công ăn việc làm của mình cho Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng Mát-thêu 25:14-30 được trích dẫn ở đây thì cho ý tưởng làm sinh lời các yến bạc mỗi người nhận được thông qua việc chu toàn các chức phận được trao. Dù thế nào đi nữa thì ước vọng phổ quát vẫn là: làm sao cho Nhân và Địa được hòa hợp hơn. ‘Địa’ ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, đó là tất cả những gì liên quan tới sự sinh tồn của con người.
Trong môi trường khắc khổ của dân Do Thái thời cổ đại, có lẽ tương quan nhân – địa là lãnh vực không được mấy lưu tâm; một vài nét đơn sơ được phác họa trong Cựu Ước như ‘đất hứa’ phải là nơi ‘chảy sữa và mật’, và có ‘đất đai mầu mỡ và mưa thuận gió hòa’, chẳng qua đó là những mộng ước mà mọi người đều mong muốn cách khá thụ động. Họ chỉ nhận được nhờ phép lành Đức Chúa ban cho thông qua lời chúc phúc của các bậc tổ phụ (xem St 27:27-29); còn Tân Ước thì hình như lại càng ít quan tâm tới diện này, vì dành quan tâm chính cho chiều kích nội tâm.
Trong nếp văn hóa của người Á Đông nói chung và người Việt cách riêng, vấn đề sống hòa hợp với thiên nhiên luôn là một mảng đề tài khá đặc sắc và phong phú; chính vì thế mà phong thủy trở thành mối quan tâm phổ biến nơi rất nhiều người. Ngày nay con người thời đại phải đối diện với tình trạng ô nhiễm trầm trọng, đã bắt đầu quan tâm hơn tới việc sống hòa hợp với thiên nhiên dưới khẩu hiệu ‘bảo vệ môi trường sinh thái’. Gần đây hơn, trong giới Công Giáo và Tin Lành đã thấy xuất hiện thao thức đi tìm một linh đạo mới cho phù hợp với khuynh hướng chung này. Trong hội nghị quốc tế tháng 11/ 2012 tổ chức tại Vatican bàn về đề tài Apostolatus Maris (Tông đồ Đại dương), một số tham dự viên đã đề cập tới một nét linh đạo mới dành cho mục vụ giữa các thủy thủ hay ngư dân viễn dương. Có nên chăng hội nhập tư tưởng của Lão Giáo coi biển cả như người mẹ hiền (thần Nam Hải) dưỡng nuôi con người bằng các sản phẩm đại dương phong phú mà ta đón nhận với lòng tri ân thành kính …, thay vì chỉ nhìn đại dương cách thực dụng như chốn hiểm nguy đầy sóng gió cầu mong sao sớm được về tới bến an bình, hay một môi trường hữu dụng cần được khai thác hữu hiệu và lâu dài bằng một sách lược chung được mệnh danh là ‘bảo vệ môi trường sinh thái’?
Trong triền tư tưởng trên, việc soạn ra một Thánh Lễ với bài Tin Mừng thích hợp cho ngày Mồng Ba Tết luôn là một thách đố, thay vì chỉ đơn thuần cử hành Thánh Lễ ngoại lịch sẵn có về thánh hóa công việc làm ăn (hay như Lịch Công Giáo đề nghị sử dụng đoạn Tin Mừng Mác-cô 7:1-13 có cùng một nội dung tương tự như Mt 6:25-34 dùng trong ngày Mồng Một Tết). Dẫu thế nào đi nữa thì khái niệm nhân – địa giao hòa này vẫn mang một nội dung đầy sắc thái Á Đông, nó có thể giúp người Công Giáo Việt Nam chúng ta có cái nhìn toàn diện và lạc quan hơn về Tin Mừng cứu rỗi, như Thánh Phaolô khi đề cập tới ‘trời mới đất mới’ hay “muôn loài thụ tạo lâm vào cảnh hư ảo… những ngong ngóng đợi chờ… và cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở…chờ đợi ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang” (Rm 8:18-23).
Thánh Lễ Mồng Ba Tết Nguyên Đán vì thế phải phác ra cho Hồn Việt Công Giáo một hướng linh đạo sống cho cả năm, chứ không chỉ đơn thuần cầu Chúa phúc phúc cho công việc làm ăn trong năm mới được thịnh đạt!
Lạy Cha là Chúa tể trời đất, khi giao hòa với con người, Cha cũng muốn cho con người giao hòa với nhau và hòa hơp hơn nữa với thiên nhiên. Trong việc đón nhận hồng ân cứu độ của Cha thông qua Thập Giá Đức Kitô, con bảo đảm được cho mình một ‘Thiên thời, Địa lợi và Nhân hòa’ mới, không chỉ trong năm mới này, mà còn suốt cả đời Kitô hữu nữa; bất chấp các yếu hèn và phản nghịch của con đối với Cha, những bất trắc của thiên nhiên hay lòng dạ đảo điên của con người. Xin cho con sống những ngày đầu năm này trong niềm tin tuyệt đối vào tình yêu cứu độ vô bờ bến của Cha. Amen
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
——————————————–
Giao Thừa
Nén Hương Trầm Trong Đạo Hiếu Việt Nam
Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp với gió xuân nhè nhẹ của ngày Tết, ta lại nhớ về mái nhà xưa, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Người Việt có thói quen đốt lên một nén hương gợi nhớ về biết bao kỷ niệm thân thương như câu thơ xưa đã viết:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
‘Nhớ quê’, quê nào đây? Có phải khu vườn quanh nhà có cây ổi, cây xoài hay cụm chuối sau nhà? Có phải cánh đồng lúa cho ta mùi thơm bông lúa mới? Có phải mái nhà tranh đơn sơmà nay chỉ còn là một hoài niệm? Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong phút giờ tĩnh mịch, ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư? Có phải ông bà tổ tiên đã mất? Có phải là cha mẹ, anh em hiện nay không còn hoặc đang xa cách? Có thể là như thế, nhưng nếu chỉ là thế thôi thì cũng chẳng phải đợi vào đêm, phải đốt hương trầm lên mới nhớ đến quê nhà.
Hình như nỗi nhớ này nó còn vượt lên trên những tình cảm ruột thịt ấy, vì khi đốt lên nén hương, hoà trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng ta như muốn bay về cội nguồn, mong tìm về quê hương thời tuổi thơ, nơi chứa đựng vùng trời kỷ niệm thân thương, mà khi đi xa ta cũng chạnh lòng vấn vương: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều” .
Như thế, nhớ quê ở đây là nhớ về cội nguồn, nhớ về nguồn gốc tổ tiên: “vì chim có tổ, nước có nguồn, con người có cha mẹ sinh ra”. Đây là nỗi nhớ trong tiềm thức nay trỗi dậy trong ta nhớ như in về tình yêu của cha, của mẹ, của anh chị em trong nhà.
Người Việt Nam với đạo hiếu làm đầu nên con cháu dù giầu hay nghèo vẫn không bao giờ quên ơn tổ tiên. Đây là lý do trong gia đình người Việt luôn có bàn thờ tổ tiên với khói hương trầm nghi ngút toả lan như hương hồn ông bà vẫn bao bọc con cháu. Sự thờ kính tổ tiên, có khi được thu gọn rất nhỏ, mà gia đình nghèo đến cỡ nào cũng có thể có. Một chiếc chén ăn cơm còn nguyên lành, chứa trong đó lưng bát gạo, và có thể trở thành bát hương, để rồi trầm tư cắm trên đó vài nén nhang tỏ lòng thành kính.
Hành vi này cao đẹp biết bao, nó diễn tả bao điều suy tư trầm mặc trong cuộc sống: Chẳng phải vì nghèo mà oán trách tổ tiên, chẳng vì nghèo mà quên tiên tổ. Nhớ về tổ tiên là nét đẹp văn hoá Việt Nam. Nó đẹp bởi vì tấm lòng của con cháu hiếu nghĩa với tiên tổ, nó đẹp bởi vì dẫu cho nghèo vẫn giữ được sạch, dẫu cơ hàn vẫn giữ lòng thờ kính mẹ cha.
Mỗi khi thắp nén hương, lòng trí ta vẫn vang lên một lời khuyên, vẫn gợi nhớ biết bao điều ngày xưa ông, bà, cha, mẹ dạy bảo, nhớ bao ngày ấu thơ được nghe chuyện cổ tích bắt đầu bằng câu: “ngày xưa có mẹ”, “ngày xưa có ba”.
Như vậy, văn hoá bát hương- nén nhang còn là cách để con cháu nhắc nhở nhau nhớ giữ lấy lề thói tổ tiên và dòng tộc. Đồng thời, nhắc nhở nhau tiếp nối truyền thống đạo hiếu thờ kính tổ tiên của cha ông bao đời để lại.
Chiếc bát hương của một thời đang được thay thế bằng những chiếc lư đồng, bằng những bình lắc xông hương trong nghi thức phụng tự, nhưng dù sao vẫn không thể xoá nhoà chiếc bát hương của lòng thành kính thưở nào.
Giáo Hội Công Giáo sau Công Đồng Vat II đã mở ra con đường hội nhập văn hoá địa phương, từ đó Giáo Hội đã thích nghi những nền văn hoá cốt lõi của Người Việt là “đạo thờ cúng tổ tiên” và hoàn chỉnh việc thờ kính tổ tiên theo tinh thần Kitô giáo.
Giáo hội khuyến khích làm bàn thờ gia tiên trong gia đình. Đây là một cách làm cho người Kitô hữu không quên cội nguồn và sống phúc âm giữa lòng dân tộc. Trên bình diện quốc gia thì Giáo Hội cũng khuyến khích bày tỏ lòng biết ơn đối với tiền nhân. Chúng ta vẫn có thói quen dành ngày Mồng Hai Tết để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên của dòng tộc mình, có lẽ phải vượt xa hơn nữa là hướng về tổ tiên của dân tộc Việt Nam. Các ngài là những người mở bờ cõi đất nước và gìn giữ, bảo vệ để chúng ta có được nét đẹp quê hương hôm nay.
Những năm gần đây, chúng ta thấy nhiều giáo xứ cũng lập bàn thờ tổ tiên của dân tộc trong các nhà thờ. Bàn thờ tổ tiên hình chữ S với mâm ngũ quả để nhắc nhở nhau “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và nguyện cầu tổ tiên phù hộ cho con cháu bình an.
Khởi đầu năm mới, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn sự sống, là Đấng ban phát mọi ơn lành để thờ lạy, tôn vinh và chúc tụng vì những ơn lành Ngài đã ban xuống trên cuộc đời ta. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã xây dựng giang sơn, mở rộng bờ cõi quê hương, cũng như những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta.
Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Giáp Thìn và nhớ về cội nguồn. Chúng ta cùng thắp nén hương trầm để cầu nguyện cho tổ tiên và xin các ngài mãi luôn phù hộ cho con cháu hôm nay, cho quê hương Việt Nam luôn thanh bình, cho con người luôn gần nhau hơn trong tình nghĩa anh em một nhà, một dân tội, một cội nguồn từ chính Thiên Chúa tác sinh muôn loài.
Mùng Một Tết
Mời Chúa Xông Nhà Năm Mới
Người Việt Nam có tục lệ Xông nhà ngày Tết. Người được chọn xông nhà phải là người mà chủ nhân hy vọng sẽ mang lại may mắn, thuận lợi trong công việc và bình yên cho gia đình trong năm mới. Ngày tôi còn là một thầy giáo nhà quê hàng năm vẫn được mời đi xông nhà. Cứ tới 30 Tết là chủ nhà lại bảo : sáng mai lễ Mồng Một chú đi qua nhà gọi anh đi lễ kẻo ngủ quên. Thực ra anh ấy muốn tôi xông nhà. Và bây giờ là linh mục, tôi vẫn được mời đi khai trương cửa hàng , khai trương công ty với hình thức rảy nước thánh xin ơn thánh hoá người, dụng cụ, công việc để xin Chúa chúc lành cho công việc của họ được bình an thuận lợi.
Nhiều người nghèo lại hay trách phận mình nghèo nên đâu dám mời người xông đất, xông nhà ngày Tết. Thực ra, tự mình xông đất cho mình cũng được đâu cần kiếm người hợp tuổi, như câu thơ viết rằng:
“Tự mình xông đất cho mình
Tự tay đốt pháo, tự mình đón xuân”
Người Việt có thói quen lúc giao thừa cả nhà gọi nhau bước ra đường ngắm pháo giao thừa, và khi bước vào nhà sẽ nhường cho người người lớn nhất xông nhà rồi mới đến mọi thành viên khác. Người chủ nhà sẽ chúc phúc và lì xì may mắn cho mọi người khiến ai cũng vui, cũng hạnh phúc.
Giáo Hội đang sống tinh thần hiệp hành. Sự hiệp hành của Giáo Hội chỉ nên một nhờ Lời Chúa và Thánh Thể. “Lời” chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và ở giữa chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta qua Lời và Bí Tích Thánh Thể . Do đó, khi dự lễ đầu năm về, thay vì đóng cửa chờ người xông nhà thì hãy mở rộng cửa để đón lộc Chúa vào nhà. Cả gia đình hãy quây quần trước bàn thờ và cùng nhau trân trọng công bố lời Chúa và đọc kinh Lạy Cha xin ơn Chúa chúc lành cho gia đình năm mới no đủ và bình an.
Đây là dịp chúng ta trao gởi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: “Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì tất cả những điều nầy các dân ngoại vẫn tìm kiếm, và Cha các con ở trên trời đã biết mọi nhu cầu của các con”.(Mt 6: 28-32)
Thật tuyệt vời làm sao! Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên bạn, nên tôi và vạn vật, đã sẵn lòng yêu thương lo lắng, chu cấp . Giống như những bông hoa huệ ngoài đồng, tất cả chúng ta chỉ cần sống đúng như mục đích mà Chúa đã tạo dựng và tận hưởng sự sống phong phú từ Chúa.
Tạ ơn về một năm Chúa luôn tuôn đổ hồng ân xuống trên cuộc đời chúng ta. Xin Chúa lì xì cho chúng ta một năm mới bình an. Ước gì mỗi người luôn biết trân quý sự sống Chúa ban, luôn an vui trong sự quan phòng của Chúa, nhất là biết sống đúng theo mục đích Ngài tạo dựng, để dâng sự vinh hiển lên Thiên Chúa Cha. Xin cho danh Chúa Cha luôn cả sáng trong Chúa Giêsu, Ngôi Con, Đấng Cứu Chuộc trần gian. Amen.
Mùng Hai Tết
Biết Ơn
Người xưa có câu : “Ơn ai một chút chớ quên” để nhắc nhở con cháu đừng quên, đừng phụ người giúp mình mà phải luôn trân trọng và biết ơn những ai đã giúp đỡ mình. Từ đó, cha ông ta đã nhắc nhở: “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Bởi lẽ, tất cả mọi sự đều có nguồn, có gốc nên làm người phải có lòng tri ân.
Thánh Phaolo trong thơ gửi tín hữu Conrinto 9,15 cũng viết: “Hãy tạ ơn Đức Chúa, vì những ân ban của Ngài vô xiết kể”. Người có đức tin luôn xác tin rằng “tất cả là hồng ân”. Mọi sự đều do Thiên Chúa tác thành. Mọi sự chúng ta có đều là ân ban của Thiên Chúa. Thế nên, lòng biết ơn Thiên Chúa là lẽ đương nhiên của những người tin có Thiên Chúa. Chính Ngài là suối nguồn ân phúc ban xuống cho nhân loại.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa nên Ngài cũng làm gương cho chúng ta về tâm tình tạ ơn Thiên Chúa Cha. Ngài đã từng cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đệ, đặng phát cho đoàn dân.
Lòng biết ơn là nét đẹp trong nhân cách con người. Qua cử chỉ, lời nói thể hiện lòng biết ơn sẽ làm cho nhân cách thêm đáng yêu, đáng quý và thái độ đó luôn làm vui lòng mọi người. Biết ơn người khác, cho dù chỉ là sự giúp đỡ mình nhỏ nhặt trong cơn khốn khó, hoặc sự thăm viếng, an ủi, trong những lúc gia đình gặp tang chế, tai nạn, ốm đau, vv… Dù sự giúp đỡ trong hoàn cảnh nào đi nữa, là con người biết đạo nghĩa, chúng ta không thể quên ơn. Ngược lại, kẻ vô ơn luôn bị xã hội lên án, khinh rẻ.
Ngày Mồng Một Tết ta hướng về Đấng tạo thành để tạ ơn và cầu xin bình an. Ngày Mồng Hai ta lại hướng về tổ tiên, về các đấng sinh thành để tri ân và cầu nguyện cho ông bà cha mẹ . Đối với văn hoá Việt Nam thì đạo làm người phải khởi đi từ lòng biết ơn ông bà cha mẹ, vì:
“Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu, mới là đạo con”.
“Đạo Hiếu” là Đạo mà tất cả những người làm con phải sống, phải lo giữ tròn. Đạo không ở xa, Đạo không ở trên cao, nhưng Đạo là lời mời gọi đáp lại những nhọc nhằn của cha, của mẹ. Có những nỗi nhọc nhằn đi suốt chiều dài tháng ngày của mẹ cha. Từ khi con còn thơ ấu đã bao là hy sinh:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời,
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa,
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.
Con người dù vất vả truân chuyên nhưng vẫn phải lo giữ sao cho vuông tròn chữ hiếu, vì “đạo hiếu” là một con đường tất yếu của kiếp người mà ta đi sai, đi lệch lạc thì chúng ta đang dẫn thế hệ sau đi vào con đường sai lệch ấy.
“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công”.
Hôm nay hầu hết các gia đình đều quây quần bên nhau để chúc xuân ông bà cha mẹ. Đồng thời con cháu lại được ông bà cha mẹ lì xì lấy hên đầu năm. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:
“Anh em sum họp một nhà
Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống hiếu thuận trong trách nhiệm và bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân.
Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen
Mùng BaTết
Năm Mới Sống Chia Sẻ
Một lần nọ, khi dừng xe lại ở ngã tư vì đèn đỏ, tôi bất chợt thấy hai đứa trẻ nghèo ngồi bên vệ đường, bẻ đôi chiếc bánh cho nhau và cùng ăn cách ngon lành. Bỗng dưng tôi cảm thấy xúc động. Nhìn lại bản thân, tôi mới nhận ra rằng lâu này mình vẫn sống trong “tháp ngà” và bàng quan với mọi chuyện của “thiên hạ”. Chỉ tích lũy và thu vén cho bản thân hơn là cảm thông và chia xẻ với mọi người.
Tôi thực sự là kẻ nghèo và vẫn nghèo vì bao lâu nay tôi chưa cho đi mà chỉ lo vun quén, lo tích luỹ cho mình. Dầu tôi vẫn ao ước một ngày nào đó có tiền, có dư giả tiền sẽ giúp đỡ, chia sẻ cho người nghèo, nhưng lòng tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ mình đã giầu có dư gỉa để cho đi.
Sự dư giả và giầu có theo kiểu chẳng phải lo làm mà tiền vẫn có “tiền dư, bạc để”, vẫn có ăn, có mặc trong nhung lụa, giầu sang, chỉ khi đó chúng ta mới nghĩ đến việc cho đi.
Có lẽ, đây là hoài niệm trong vô thức của vườn địa đàng năm xưa. Thiên Chúa tạo dựng con người và cho con người hưởng dùng toàn bộ vạn vật trong vườn địa đàng. Họ không cần làm lụng nhưng những trái cây có hạt vẫn tiếp tục sinh sôi nẩy nở để mang lại lương thực cho họ. Đó là những ngày xuân vườn địa đàng. Mùa Xuân của vườn địa đàng đã bị khép lại khi con người quay lưng lại với Chúa của Mùa Xuân. Họ đã bị đuổi ra khỏi vườn xuân địa đàng vì phạm tội chống lại Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa của mùa xuân nên từ nay họ phải vất vả mới có cái để ăn.
Sau khi phạm tội, Thiên Chúa đã phán bảo với Ađam rằng: “Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái Ta cấm, nên đất bị nguyền rủa vì tội của ngươi. Trọn đời, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn. Đất sẽ mọc cho ngươi đủ thứ gai góc, và ngươi sẽ ăn rau cỏ ngoài đồng. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về đất, vì ngươi từ đó mà ra.
Ra khỏi vườn địa đàng con người phải đối diện với mặt đất nắng mưa, gió bụi, đất đai khô cằn, gai góc và phải: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”.
Từ ngày ấy, con người muốn có của ăn của để phải chấp nhận cuộc sống mưu sinh vất vả, phải biết vượt ra khỏi sự an nhàn để dấn thân vào cuộc sống mưu sinh đầy vất vả truân chuyên. Bên cạnh sự nỗ lực bản thân, niềm tin Kitô giáo còn mời gọi chúng ta tin vào sự quan phòng của Chúa. Vì “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Bởi lẽ: “Nếu Chúa chẳng xây nhà , thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Thế nên, ngày đầu năm mới chúng ta hướng về Đấng tạo thành để tạ ơn về một năm “mưa trời ân phúc” đã ban xuống cho trần gian. Chúng ta cũng phó dâng một năm mới cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa là Đấng đầy quyền năng và đầy lòng thương xót chúc lành cho một năm mới với bao dự định, công việc được toàn vẹn như ý. Xin Chúa Xuân ở lại nơi từng gia đình để niềm vui được kéo dài vô tận trong suốt ngày sống. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
——————————————–
Những Bông Hoa Của Tâm Hồn
(Suy niệm đầu xuân)
Hoa làm cho lòng người vui thích hoan hỉ. Trong những ngày lễ, ngày tết, dù không sẵn tiền bạc, người ta vẫn cố dành dụm để mua một vài chậu hoa, ít nữa là mấy bình hoa tươi. Tết mà không có hoa là không ra tết.
Những festival về hoa đã lôi cuốn được rất nhiều du khách thưởng ngoạn. Nhiều vườn hoa đẹp đã làm ngây ngất nhiều người chiêm quan.
Hoa tô điểm trái đất, hoa làm đẹp phố phường làng mạc, hoa làm đẹp mọi ngôi nhà…
Thiếu hoa, đời mất đẹp, mất vui, mất ý nghĩa. Thế giới nầy buồn tẻ biết bao nếu thiếu vắng các loài hoa.
Thế nhưng, dù đẹp bao nhiêu, hoa cũng chỉ là thứ sớm nở tối tàn. Hương của hoa có thơm lừng đi nữa, cũng chỉ toả ra trong một thời gian ngắn.
Vậy thì tìm đâu cho được một thứ hoa vừa đẹp vừa lâu tàn, vừa toả ngát hương nhưng không úa tàn theo năm tháng?
Làm gì có thứ hoa đó trên đời!
Có đấy, thưa quý vị.
Tôi đã thấy, đã gặp rất nhiều bông hoa rất đẹp, đẹp tuyệt vời, lại toả hương rất thơm và đặc biệt là vẻ đẹp của những hoa nầy rất bền lâu, hương thơm của những bông hoa nầy quyện mãi trong thời gian và không gian…
Đến đây chắc có người muốn hỏi: Hãy chỉ cho chúng tôi xem đó là thứ hoa gì?
Thưa, đó là những bông hoa của tâm hồn!
Vô vàn vô số những bông hoa tâm hồn rất đẹp, rất xinh và đang toả hương chung quanh chúng ta nhưng nhiều khi vì vô tình chúng ta không để ý.
Xin hãy nhìn xem bông hoa của những lời nói lịch sự. Hãy ngắm bông hoa của lòng đạo đức. Hãy chiêm ngưỡng vẻ đẹp của lòng hy sinh phục vụ. Hãy thưởng thức hương thơm của hoa nhân ái… Những bông hoa này làm gia tăng giá trị của chủ nó lên rất cao. Ai mà chẳng mến phục những người đạo đức; Ai mà chẳng yêu quý những tâm hồn thánh thiện, vị tha, quên mình hy sinh cho người khác; Ai mà chẳng tôn trọng những người nói năng lịch sự, lễ phép…
Vô vàn bông hoa của tâm hồn như thế đã tô điểm cuộc sống của chúng ta, làm ấm lòng chúng ta. Biết bao bông hoa của tâm hồn thơm tho như thế vẫn toả hương khắp thôn xóm chúng ta và đem lại hạnh phúc cho mọi nhà.
Bông hoa của trời đất sớm nở tối tàn, nhưng những bông hoa của tâm hồn vẫn thắm tươi qua rất nhiều năm tháng. Hương hoa của thế giới thực vật chỉ toả lan trong phạm vi nhỏ hẹp chỉ trong nay mai, nhưng hương thơm của những bông hoa tâm hồn ngan ngát suốt hàng trăm năm và hơn thế nữa.
Khi có dịp tiếp xúc với người chung quanh, tôi gặp thấy nhiều bông hoa rất đẹp, rất cao quý, rất thơm tho của tâm hồn họ. Tôi vô cùng yêu quý, trân trọng những bông hoa như thế. Tôi cảm thấy hạnh phúc vì được sống gần những bông hoa như thế.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là bên cạnh những bông hoa tâm hồn tươi đẹp, thơm ngát, đáng yêu, đáng quý, đáng trọng đó… lại có những thứ gai góc của tâm hồn, đó là những tâm hồn đầy gai góc.
Những ai có tâm hồn đầy gai góc?
Đó là những người hung dữ, độc ác, ích kỷ, tham lam, vô cảm, thô lỗ và nhiều loại tính xấu khác. Những thứ gai góc của tâm hồn này làm cho những người tiếp xúc với họ cảm thấy nhức nhối, khó chịu… Thế là người đời khinh dể và xa lánh họ. Người ta cảm thấy bất hạnh, và thậm chí là vô phúc, khi phải sống chung với những những con người như thế.
Hôm nay, ngày đầu năm, ngày mọi người nô nức tìm hoa, chưng hoa, thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa, xin Chúa giúp chúng ta biết đua nhau vun trồng nhiều hoa đẹp trong khu vườn tâm hồn mình.
Ai chưa có những bông hoa tâm hồn, thì xin Chúa giúp họ biết trồng thêm hoa.
Ai đã có nhiều hoa thơm, hoa đẹp rồi thì xin Chúa giúp họ biết trân trọng, gìn giữ chăm sóc chúng và đừng để chúng lụi tàn…
Nhờ đó, làng xóm chúng ta trở thành một vườn hoa trăm sắc muôn hương, tô điểm trần gian, làm ấm lòng người, đem lại hoan lạc cho bao người và làm vinh danh Thiên Chúa.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
———————————
XUÂN REO CA
Nắng ấm sáng nay thật rộn ràng,
tưng bừng rộn rã khúc ca vang.
Lòng đang mê ngủ chợt tỉnh giấc,
giật mình ngơ ngác. Ồ! Xuân sang.
Thẹn thùng hé nụ một nhành mai,
hồng thắm reo vui nét trang đài.
Cúc vàng lay nhẹ bên huệ trắng,
vườn hoa lạc bước chốn thiên thai.
Xuân đi xuân đến vẫn là xuân,
sao thấy xuân nay khác bội phần.
Hồng Ân Thiên Quốc tuôn tràn đổ,
ban nguồn Thánh sủng, vạn hồng ân.
Chấp tay con lạy Chúa thiên đình,
đoái nhìn phận mọn kiếp sinh linh.
Cung chúc Tình Xuân tươi đẹp mãi,
Tình Chúa, tình người vui phúc vinh.
PHÚT GIAO DUYÊN
(Giao Thừa)
Linh thiêng. Ôi! Linh thiêng.
Huyền mơ. Ôi! Huyền mơ.
Trời – Đất đang mong chờ,
Phút giao duyên linh thánh.
Muôn vì sao lấp lánh,
Múa hát cùng trăng thanh,
Ngân vang lời chúc lành,
Cho rừng xanh, muôn thú.
Hào quang ngàn tinh tú,
Hòa quyện với làn mây,
Nguyện xin phước tuôn đầy,
Ngập tràn nơi dương thế.
Phút giao hòa tinh tế,
Giữa Thiên Chúa Tình Yêu,
Trong thời khắc huyền siêu,
Với con người yếu đuối.
Thiên nhiên thay áo mới,
Vạn vật trổ mầm xanh,
Nhân loại hướng lòng thành,
Khấn cầu cùng Thiên Chúa.
Xuân hồng ân chan chứa,
Giáng phúc cho muôn nhà,
Tình xuân thật bao la,
Xuân an bình, cảm tạ.
XUÂN NGUYỆN CẦU
Giáo đường vang vọng tiếng chuông ngân,
Gió xuân mơn nhẹ, ấm tinh thần.
Lễ xuân trầm lặng lời nguyện ước,
Lộc, Phước ơn lành cho muôn dân.
Nguyện nắng xuân tươi đến muôn nhà,
Rộn rã bên thềm tiếng chim ca.
Mai, Đào đua nở Hồng khoe sắc,
Trẻ thơ tíu tít múa vui ca.
Nguyện cầu đất nước được bình an,
Xóa bỏ bất công, diệt bạo tàn.
Tay bắt mặt mừng, tình tỏa sáng,
Nụ cười rạng rỡ, phúc khang an.
Nguyện ước mọi người yêu thương nhau,
Chia cơm sẻ áo, hiệp thông cầu.
An ủi thăm viếng người cô quạnh,
Nâng đỡ chân tình kẻ ốm đau.
Khát vọng xuân về hạnh phúc reo,
An cư lạc nghiệp kiếp dân nghèo.
Hòa bình, công lý luôn ngời sáng,
Nhân loại thái bình xuân vũ reo.
XUÂN TẠ ƠN
Một năm sóng gió đã trôi qua,
Nay nắng xuân tươi đến muôn nhà.
Thiết tha dâng Chúa lời chúc tụng,
Ngoài vườn hoa nở, yến – oanh ca.
Tạ ơn ân sủng Chúa thương ban,
Mưa nắng, thời gian phước ngập tràn.
Lao nhọc quên mình vui bổn phận,
Vui – buồn – sướng – khổ sống bình an.
Tạ ơn tình Chúa luôn bên con,
Gìn giữ đời con được vuông tròn.
Thăng trầm, gian khó ơn vượt thắng,
Đức tin, tín thác luôn sắt son.
Gió xuân lại về trên quê hương,
Tình xuân gieo rắc khắp nẻo đường.
Ơn xuân tuôn đổ, xuân hồng phước,
Mừng Chúa xuân về, xuân yêu thương.
ĐOẢN XUÂN CA
Ai bảo xuân về hoa mới nở
Hương hoa vẫn thơm ngát lạ thường
Hoa nở bốn mùa Hoa Nhân Ái
Hoa thắm tình người Hoa Yêu Thương.
Hồng ân Thiên Chúa thật khôn lường
Ban hoa ân sủng muôn sắc hương
Bác ái, yêu thương, tình chia sẻ
Với người nghèo khổ nét thương thương.
Cúi đầu con Lạy Chúa uy linh
Thương ban giáng phúc chút ân tình
Tình người ấp ủ luôn tươi sáng
Tình Chúa tôn thờ hoa thắm xinh.
Nguyện xin ơn thánh Chúa thương ban
Chúc phúc tình xuân sống thanh nhàn
Dù bao công việc luôn chồng chất
Tâm hồn thư thái phúc bình an.
Trôi nổi dòng đời kiếp phong ba
Chúa xuân khuyên dạy sống thật thà
Dù bao cám dỗ luôn mời gọi
Lời Chúa ghi lòng luôn thiết tha.
Chúa ơi! Xin Chúa hãy giữ gìn
Thương đàn con Việt Nam khấn xin
Luôn được sống trong mùa xuân thánh
Tình Chúa ôm đầy ơn Thánh Linh
Lòng con vui hát khúc xuân ca
Xuân đến tình xuân vẫn mặn mà
Xuân nay nồng ấm xuân ân phúc
Xuân thắm ân tình Xuân bao la.
XUÂN TÂM HỒN
Chúa yêu ơi! Giữa giòng đời oan nghiệt,
con lang thang chẳng biết hướng về đâu.
Tâm hồn con nặng trĩu nỗi u sầu,
bị miệt khinh, bị người đời xa lánh.
Cuộc đời con là mùa đông giá lạnh,
nỗi cô đơn, lạnh lẽo những chiều về.
Trái tim sầu, buồn tủi lẫn tái tê,
trong đêm vắng,
lời nguyện cầu con vươn tới.
Dâng lên Chúa lời tâm tình thống hối,
bao năm qua con đã trót lỗi lầm.
Mê tiền tài, ham lợi lộc, tiếng tăm,
đã lỗi phạm đến tha nhân nhiều quá.
Như chiên lạc sống giữa trời băng giá,
đang rét run mò mẫm suốt đêm trường.
Mong nắng tình sưởi ấm chút yêu thương,
mong trời sáng tìm đường về với chủ.
Chúa tìm con rộng vòng tay ấp ủ,
lửa tình thương truyền từ trái tim Ngài.
Trái tim hồng đau nhói bởi mão gai,
vẫn rỉ máu từ khi con lạc mất.
Tình yêu Chúa làm hồn con ngây ngất,
ánh mắt Ngài đã xuyên thấu hồn con.
Lời yêu thương Ngài nắn sửa, kiện toàn
say tình mến, niềm vui Ơn Cứu Rỗi.
Ngài là nắng hồng tươi soi đường lối,
con nhận ra Người Mục Tử Nhân lành.
Ngài là Đường, là Suối mát trong xanh,
là Sự Sống, là Mùa Xuân êm dịu.
Tình yêu Chúa ! Ôi! chứa chan kỳ diệu,
biến đổi con, lòng sám hối chân thành.
Xin giã từ những chụp giựt đua tranh,
nguyện theo Chúa, quyết canh tân đời sống.
Tình yêu Chúa cho con niềm hy vọng,
biết sẻ chia tình mến với tha nhân.
Sống yêu thương, tình bác ái thấm nhuần,
vui cuộc sống ánh mắt trao trìu mến.
Tình yêu Chúa là Mùa Xuân miên viễn,
ánh nắng hồng rạo rực chút tình thơ.
Trái tim con đang thao thức mong chờ,
reo khúc hát:
“Chào Bình Minh – Xuân Cứu Độ”.
A.P Mặc Trầm Cung