“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 22, 15-21)
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Đó là lời Chúa.
Mục lục:
SUY NIỆM TIN MỪNG
Của Thiên Chúa Trả Cho Thiên Chúa & Chúa Sai Tôi Đi ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trg 2
Của Thiên Chúa Trả Về Thiên Chúa & Truyền Giáo Hay Rao Giảng Tin Mừng? Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB Trg 6
Loay Hoay Con Thuyền Truyền Giáo Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Trg 10
Trách Nhiệm Loan Báo Tin Mừng Lm. Inhaxiô Trần Ngà Trg 12
THƠ TIN MỪNG
Đáp Tình Hạt Nắng Trg 14
Dâng Ngài Tất Cả Bâng Khuâng Chiều Tím Trg 15
Trả Nợ Đời – Trả Nợ Ngài M. Madalene Hoa Ngâu Trg 16
Qui Hướng Về Ngài Nắng Sài Gòn Trg 17
Dâng Về Thiên Chúa A.P Mặc Trầm Cung Trg 18
Của Thiên Chúa Trả Cho Thiên Chúa
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
– Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
– Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh hồn mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
– Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
– Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
– Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
– Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
– Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Sai Tôi Đi
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
– Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.
– Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
– Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
– Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên Chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác.
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2) Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3) Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không? Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Của Thiên Chúa Trả Về Thiên Chúa
Vẫn lồng trong bối cảnh cuộc tranh luận, hay đúng hơn, đối kháng giữa Đức Giêsu với các cấp thủ lãnh đạo đời của dân Do Thái thời đó (coi Mát-thêu chương 21-22), mà vấn đề nộp thuế hay không nộp được đặt ra. Câu trả lời khôn ngoan của Đức Giêsu dĩ nhiên đã bẻ gẫy được cái bẫy gài sẵn “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kể giả hình?”; nhưng không đơn thuần chỉ có thế. Giải đáp Người đưa ra là cả một khảng định rất quyết liệt về sự khác biệt sâu sắc giữa Cựu Ước (bao gồn cả hai lãnh vực đạo đời) và Tân Ước hay Tin Mừng Người đang muốn mạc khải. Trong tinh thần và truyền thống Do Thái thời đó, người ta không tách biệt rõ rệt hai lãnh vực đạo đời như lối suy nghĩ trần tục (secularism) của chúng ta thời nay. Do đó “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” mà Đức Giêsu khảng định cũng không được hiểu theo nghĩa chu toàn cả việc đời lẫn việc đạo, hay lưu tâm tới cả lãnh vực vật chất trần tục lẫn lãnh vực thiêng liêng đạo đức.
Nộp thuế, cho dầu có nhuốm mầu chính trị hay thường xuyên bị lạm dụng bất chính tới mấy đi nữa, thì nền tảng nguyên sơ của nó vẫn dựa trên định luật công bằng, và điều này có giá trị cho mọi thời đại. Người dân nộp thuế cho nhà cầm quyền để được hưởng các phúc lợi của công ích, và chính quyền có thu thuế cũng là để có ngân sách phục vụ ích chung. Dựa trên công bằng, thời xưa nhà cầm quyền buộc người dân nộp thuế theo luật định đồng thời nghiêm phạt những ai trốn thuế, thời nay người dân có quyền kiểm tra, tố cáo, thậm chí truất phế chính quyền, nếu tiền thuế không được chi tiêu cách chính đáng vào các chương trình phúc lợi lo cho dân. Nộp thuế do đó là biểu tượng của luật công bằng, không chỉ trong lãnh vực đời mà cả trong việc đạo. Mọi người Do Thái đều phải nộp thuế đền thờ, và vì thế Đức Giêsu cũng đã chấp hành nghiêm chỉnh (xem Mt 17:24-27).
Trong khái niệm đó, công bằng (mà nộp thuế là biểu tượng) chính là định luật căn bản con người dùng để đối xử với nhau. Trong Cựu Ước, Đức Chúa Giavê cũng phần nào bị nhân cách hóa để ký kết một giao ước sòng phẳng với dân Người, trong đó giữ luật lệ tôn giáo là một thứ thuế vụ phải trả để được Đức Chúa bênh vực chở che. Các người Pharisêu biết rất rõ điều đó; họ hiểu hơn ai hết khi Đức Giêsu nói ‘của Xê-da, trả về Xê-da’ là để ám chỉ theo nghĩa này. Thế nhưng trước đó, cũng trong một đoạn phúc âm Mát-thêu (17:24-27), Người còn đưa ra một định luật hay một tương quan rất khác: “Anh Simon, anh nghĩ sao: vua chúa trần gian bắt ai nộp thuế, con cái mình hay người ngoài?” Tân Ước đã thoát ra khỏi tương quan vua – tôi hay tương quan với người ngoài để đưa vào tương quan con cái trong gia đình. Thiên Chúa không còn phải là một Đức Chúa oai hùng ngự trị trên đỉnh Sinai, mà đã trở thành ‘Cha chúng con ở trên trời’. Do đó không còn chỗ cho tương quan thuế vụ nữa, “vậy thì con cái được miễn”. Như thế “của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” không thuần túy đề cập tới lãnh vực nghiêm chỉnh ‘giữ đạo’ mà tới một tương quan, một giao ước hoàn toàn mới mẻ; Thiên Chúa của Đức Giêsu không còn lấy sự công bằng, sòng phẳng làm nền cho các bổn phận tôn giáo. Đức Giêsu, qua các lời rao giảng, qua thái độ, và nhất là qua cái chết thập giá của Người, đã không ngừng cất công khảng định rằng Thiên Chúa là Người Cha nhân ái giầu lòng xót thương. Người có trí nhớ rất kém và thậm chí không biết làm các phép tính đơn giản nhất, theo kiểu nói hóm hỉnh của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, thì làm sao giữ nổi cuốn sổ thuế mà thâu? Đối với một Thiên Chúa như thế, con cái hãy ‘trả về’ cho Cha mình niềm tin yêu phó thác trong mối tương quan phụ tử… của an bình và vui tươi, chứ không như thuế nộp cò kè thêm bớt, tính toán sòng phẳng. Tin Mừng phải là như thế! Chẳng trách gì các Pharisêu ‘nghe vậy, họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi’. Họ kinh ngạc vì điều Đức Giêsu vừa công bố quá xa lạ đối với quan niệm giữ luật lệ họ vốn có. Và vì không có cách gì hiểu nổi điều này nên lảng ra xa là thượng sách. Các môn đệ của Đức Giêsu thì khác; họ hiểu và phải hiểu điều này, vì toàn bộ việc ‘hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’ mà Đức Giêsu kêu gọi chính hệ tại ở điều này. Như vậy “của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” sẽ phải rất khác với “của Xê-da trả về Xê-da”; Kitô hữu chúng ta không thể đánh đồng hai bổn phận này cho dầu là trên hai bình diện khác nhau!
Và tôi, một Kitô hữu, hơn nữa một linh mục của Đức Kitô, tôi phải hiểu rõ điều này hơn ai hết. Trong mục vụ, thay vì nhấn mạnh trên tương quan vua tôi (thưởng phạt, xét xử công minh, công nghiệp), sứ mạng chính yếu của tôi sẽ phải là loan báo một tương quan cha con của lòng nhân ái và xót thương (phi thuế vụ) cho càng nhiều người được biết càng tốt, nhất là cho các giáo dân tôi có bổn phận hướng dẫn. Chỉ như thế tôi mới thật sự kêu gọi họ trả về cho Thiên Chúa nhân ái những gì của Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa nhân ái và giầu lòng xót thương, xin cho con tránh xa việc giữ đạo như một thứ nghĩa vụ, một bổn phận trả thuế cò kè tính toán. Xin gạt ra khỏi trí lòng con mối bận tâm thu tích công nghiệp để hơn thua với Chúa. Xin Thần Khí Chúa hãy đổ đầy tâm hồn con tâm tình con thảo để có thể kêu lên ‘Abba / Cha ơi’, và xin cho con được luôn sống trong niềm vui của Tin Mừng cứu độ, và loan báo Tin Mừng Nhà Cha cho mọi người được biết. Amen
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
Truyền Giáo Hay Rao Giảng Tin Mừng?
Dầu đã được trực tiếp tham gia vào công tác ‘truyền giáo’ trong thời gian gần 03 năm tại Mongolia, nhưng khi được nhiều bạn gửi ‘mail’ khuyến khích viết bài suy niệm nhân Khánh Nhật Truyền Giáo, tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng. Lý do là vì suy nghĩ của tôi sau thời gian ‘truyền giáo’ trở về đã bị thay đổi nhiều quá; tôi cảm thấy lạc lõng và cô đơn trong suy tư, cũng như hụt hẫng trong truyền đạt về đề tài này. Cuối cùng thì sáng nay trong thánh lễ, sau khi lắng nghe lời chia sẻ của các bạn tập sinh, tôi đã quyết định viết, nhưng không phải cho ai khác mà là cho chính mình.
Tôi nhớ là, vào năm 2003 sau khi kết thúc nhiệm kỳ giám tỉnh cuối cùng, tôi vẫn chưa có một định hướng rõ rệt nào cho tương lai phục vụ của mình. Vì Bề Trên trung ương rộng phép cho tôi được hưởng một năm bồi dưỡng tại bất cứ đâu, nên tôi quyết định xin có được một năm trau dồi thêm kiến thức về tu đức, và nghiên cứu các tôn giáo thế giới tại đại học Berkeley – California (Hoa Kỳ); chính trong thời gian này mà tôi đã đi tới quyết định, xin bề trên cho phép đi truyền giáo tại Mongolia (Mông Cổ), nơi mà tôi đã lui tới nhiều lần trong thời gian giữ chức vụ giám tỉnh; tôi đã thành lập các cơ sở truyền giáo cho anh em tỉnh dòng Don Bosco Việt Nam tại đó. Hơn nữa, trước khi lên đường đi truyền giáo tại Mongolia, tôi còn được tham dự một khóa học ba tháng chuyên đề về truyền giáo học tại đại học Universitá Pontificia Salesiana – Roma… Ấy thế mà khi thực sự tới làm việc trực tiếp tại một nơi truyền giáo ‘Ad Gentes’ thứ thiệt như Mongolia (chưa có ai được rửa tội), cái kinh nghiệm ‘truyền giáo’ tuy còn rất nông cạn và bé nhỏ, mà tôi đã thủ đắc được trong thời gian ngắn ngủi, đã đủ để làm đảo lộn (upside down) mọi suy nghĩ trước đó của tôi về lãnh vực này.
Trước hết, tôi thấy mình dị ứng ghê gớm với cái từ ‘truyền giáo’ thông dụng, vì thấy nó quá mập mờ dễ gây hiểu lầm. Nếu truyền giáo hàm ý làm cho một người ‘không có đạo’ được rửa tội để gia nhập đạo Công giáo theo nghĩa ‘cải đạo’ (proselytism), thì rõ ràng là ta đã hiểu sai ẩn ý của Đức Kitô mất rồi. May mắn thay nội dung này đã chính thức bị Công Đồng Vatican II phế bỏ! ‘Missio’ phải được hiểu là sứ vụ được sai đi (‘thừa sai’) để ‘rao giảng Tin Mừng’ (evangelizare), để loan báo Tin Mừng cứu độ, và để loan truyền tình yêu thương xót của Thiên Chúa, một Tin Mừng đã từng được Đức Kitô Giêsu thực hiện trong cuộc sống của Người, đặc biệt qua cái chết thập giá.
Quan niệm cho rằng: ai đó phải gia nhập đạo, phải được rửa tội thì mới được hưởng nhờ lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa là một sai lầm lớn. Lòng thương xót và ơn cứu độ đã được Chúa ban cho hết thảy mọi người cách vô điều kiện (xem thư Rô-ma chương 5). Như thế ‘Loan báo Tin Mừng’ không là gì khác hơn là mở mắt cho người ta nhận biết rằng: họ đã được hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót, nhờ vào cái chết và phục sinh của Đức Kitô Giêsu. Và một khi tin nhận điều đó, họ được mời gọi gia nhập cộng đoàn tín hữu để cùng chúng ta dâng lời cảm tạ tri ân lên Thiên Chúa về hồng ân vĩ đại đó.
Một suy nghĩ khác mà tôi cảm thấy rất ‘dội’ đó là: nếu không có ai đi truyền giáo thì các dân ngoại sẽ mất linh hồn hết…, rằng: nhà truyền giáo là những người mang ơn cứu độ tới cho kẻ ngoại…, rằng: ơn cứu độ lệ thuộc vào một lối sống được xây dựng trên nền ‘luân lý Kitô giáo’ mà ta sẽ mở mắt cho họ được biết, để rồi nhờ nắm giữ cặn kẽ các qui định luật lệ đó, họ sẽ được vào hưởng nước thiên đàng. Thiết tưởng, khi Đức Kitô sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Người đâu có ám chỉ điều này: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”. Ngay câu nói: ‘Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ” đâu có nghĩa là, chính phép rửa sẽ ban ơn cứu độ! Nhìn vào chính Đức Giêsu ta sẽ thấy: Tin Mừng của lòng thương xót cứu độ vẫn có thể được rao giảng và mời gọi ngay cả một người nữ Samari đang sống chung chạ sau năm đời chồng… Khi còn ở Mongolia, cha sở nhà thờ chính tòa Ulaanbataar, một nhà truyền giáo người Camơrun, xin tôi dạy giáo lý cho một nhóm sinh viên. Ngài muốn tôi dạy theo chương trình giáo lý tân tòng mà ngài đã soạn sẵn, khởi đầu bằng nội dung thập giới của Chúa và lục giới của Hội Thánh… Ngài căn dặn: đó là các điều kiện tiên quyết để gia nhập đạo hầu được rỗi linh hồn… Tôi đã quyết định không áp dụng chương trình đó, xác tín rằng ‘truyền giáo’ tiên quyết phải là rao giảng Tin Mừng, mà Tin Mừng chính là làm cho người ta nhận biết Thiên Chúa xót thương và cứu độ toàn thể nhân loại.
Tôi dọn một chương trình riêng, trong đó tôi phân tích cho các sinh viên Mongolia hiểu ra rằng: Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô yêu thương họ, không như các thần linh đạo Shaman của người du mục, luôn gieo rắc sợ hãi kinh hoàng khắp nơi. Thế đấy, cái kinh nghiệm rất cụ thể của tôi về sự khác biệt quá lớn giữa ‘truyền giáo’ và ‘loan báo Tin Mừng’ đại loại là như thế.
Từ cái kinh nghiệm ‘thừa sai’ còn rất thô thiển tại Mongolia tôi đã học được bài học cơ bản: Thiên Chúa không biết từ thuở nào, đã yêu mến và cứu chuộc các người Mông Cổ du mục sinh sống trên vùng thảo nguyên lạnh giá mênh mông tại Trung Á. Cuộc sống du mục nay đây mai đó của họ, với văn hóa và các truyền thống từ bao đời, cho dầu có nhiều điểm khác với nền ‘luân lý Kitô giáo’ mang tính định canh định cư của cựu lục địa, vẫn không hề tách họ ra khỏi lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã và đang chủ động thực hiện nơi họ nhờ Đức Kitô Giêsu.
Công việc của một ‘thừa sai’ như tôi đích thị phải là rao giảng Tin Mừng, là loan báo cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương họ trong chính lối sống và văn hóa của họ…, đồng thời mời gọi họ tin vào Đức Kitô Giêsu Cứu Chúa…, mời gọi họ lãnh nhận phép thánh tẩy… và gia nhập vào Hội Thánh là cộng đoàn những người nhận biết Thiên Chúa từ ái và yêu thương để không ngừng cất cao lời cảm tạ.
Và cũng từ đó tôi nghiệm ra một điều còn quan trọng hơn nữa là: một ‘người loan báo Tin Mừng’ trước hết phải chính mình có cảm nghiệm sâu sắc về lòng thương xót cứu độ của Chúa. Cảm nghiệm này chính là nền tảng của việc được sai đi, là sức mạnh trong khiêm tốn phục vụ, là hy vọng không hề suy chuyển trước các khác biệt và thách đố, và là chương trình và hành động trong sứ vụ được thừa sai.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con được tham gia chút ít vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa đối với dân tộc Mongolia. Cảm tạ Chúa đã mở lòng cho con nhận biết Chúa yêu thương họ vô cùng, trước cả khi con được sai tới với họ để nói cho họ biết điều đó. Qua tâm tình tri ân này, xin cho con tiếp tục không ngừng khao khát tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ, và tìm cách làm chứng cũng như loan truyền điều đó cho mọi người con gặp gỡ và tiếp xúc. Con coi đó chính là công việc ‘truyền giáo = thừa sai’ Chúa đang dành cho con lúc này và trong điều kiện sống cụ thể hôm nay. Amen
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB
Loay Hoay Con Thuyền Truyền Giáo
Có người bạn già nói với tôi: nghe nói muốn truyền giáo phải thành lập Giáo hội cơ bản.
Giáo hội cơ bản là gì? – Tôi hỏi.
Là giáo hộ sơ khai họ quy tụ nhau để hằng tuần nghe Lời Chúa và chia sẻ bữa ăn huynh đệ với nhau. – người bạn trả lời.
Oh, tưởng gì chứ giáo hội cơ bản ấy Giáo phận đã làm từ khi thành lập rồi. Lúc dầu di cư năm 1954 vào đây các cha cũng phải quy tụ họ lại rồi lo cho họ ăn, rồi tổ chức thành cộng đoàn giáo xứ với vài chục hộ cho tới nay có nhiều giáo xứ đã đông đúc trên 20 – 30 ngàn giáo dân rồi – tôi nói.
Truyền giáo theo đúng tinh thần của Chúa Giêsu là quy tụ và sai đi. Chúa Giêsu đã đến trần gian và quy tụ các tông đồ thành một cộng đoàn huynh đệ. Sau khi ban Chúa Thánh Thần cho các ông, Chúa Giêsu đã sai các ngài ra đi loan báo Tin mừng. Trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 28 các câu 16 và 18 tới 20 viết rằng: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến… Đức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,16.18-20).
Do đó, truyền giáo là quy tụ và sai đi như một tiếp nối giữa thế hệ này với thế hệ khác để Tin Mừng được lan tỏa khắp mọi nơi. Riêng Giáo phận Xuân Lộc không có những vùng ngoại biên để sai đi, nhưng vẫn có hơn 60 phần trăm anh chị em lương dân sống chung trong các xứ đạo. (người Công giáo chiếm 35 % tổng số dân trong tỉnh Đồng Nai). Việc truyền giáo đòi hỏi cấp bách của Giáo phận lúc này là đời sống chứng nhân của cộng đoàn. Một cộng đoàn xứ đạo hiệp nhất yêu thương sẽ là lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng.
Nhiều người tới giờ vẫn còn ao ước thành lập những Giáo hội cơ bản như thời giáo hội sơ khai. Đây là cái nhìn non kém của người truyền giáo. Cộng đoàn giáo hội sơ khai là cộng đoàn quy tụ và sống bác ái. Thế nên, Giáo phận Xuân Lộc đã quy tụ thành rất nhiều hội đoàn, và tổ chức thành 5 giới bàn bạc trong các cộng đoàn giáo xứ. Điều quan trọng của các nhà truyền giáo là tổ chức để các cộng đoàn đã quy tụ này từ giáo xứ, các giới đến các đoàn thể biết sống yêu thương và lan tỏa tình yêu thương ấy để muôn dân thấy Kitô giáo là đạo của yêu thương.
Cộng đoàn giáo hội sơ khai cũng chỉ là quy tụ với nhau trong hội trường để nghe lời Chúa và chia sẻ của ăn với nhau để không ai đói khổ trong cộng đoàn. Và như thế, chúng ta đã qua được thời kỳ quy tụ thành cộng đoàn, và chúng ta còn quy tụ thành nhiều cộng đoàn lớn nhỏ với nhiều đặc sủng khác nhau. Điều này cũng mang lại nhiều thành quả cho việc loan báo Tin Mừng trong môi trường sống của các xứ đạo. Rất nhiều anh em lương dân được sống đùm bọc trong một xứ đạo hay một đoàn thể đầy yêu thương đã khiến họ cảm động và tin theo Chúa. Rất nhiều xứ đạo khi dựng lều cư ngụ trên mảnh đất Xuân Lộc này vào năm 1954 chỉ vài chục hộ gia đình Công Giáo mà nay hầu như chỉ tăng chứ không có chỗ nào giảm, có xứ đạo tăng đến vài chục ngàn tín hữu.
Và như thế, việc truyền giáo của chúng ta đã và đang thành công và làm cho vùng đất Đồng Nai trở thành một vùng đất người Công Giáo chiếm tỉ lệ cao nhất trong cả nước. Đây là thành quả truyền giáo đáng tự hào của Giáo phận. Chính trong thập niên 1980 đầy khó khăn của thế sự, nhưng với ơn Chúa soi dẫn Giáo phận Xuân Lộc đã nhanh chóng quy tụ thành các giới để sống Tin Mừng yêu thương. Và nhờ sự quy tụ này mà các thành phần trong Giáo Hội được củng cố đức tin và trở thành nam châm lôi kéo nhiều người trở thành Kitô hữu. Chúng ta hãy cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho cánh đồng truyền giáo Giáo phận Xuân Lộc luôn được bội thu vì con số tín hữu mỗi ngày một gia tăng. Chúng ta không cần băn khoăn thành lập những cộng đoàn giáo hội sơ khai mà hãy duy trì những cộng đoàn đầy yêu thương sẵn có để mang lửa yêu thương thắp sáng cho trần gian. Hãy cùng nhau làm cho cộng đoàn xứ đạo, cộng đoàn các giới, các đoàn thể luôn là dấu chỉ tình yêu thương và hiệp nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất chính là hiệu kỳ quy tụ muôn dân nên một trong tình yêu Chúa.
Thế nên, điều cần nơi Giáo phận Xuân lộc chính là duy trì và làm thăng tiến những cộng đoàn các giới, các đoàn thể sẵn có để chính nơi đây họ làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng đời sống hiệp nhất yêu thương, và qua họ muôn dân sẽ thấy và ngợi khen Thiên Chúa. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Trách Nhiệm Loan Báo Tin Mừng
Tất cả những ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều được tháp nhập vào thân mình Chúa Giêsu, trở thành chi thể Chúa Giêsu. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta ghi nhớ điều này: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Chúa Giêsu sao?” (IC 6,15).
Một khi đã trở thành một chi thể trong thân mình Chúa Giêsu, chúng ta được Ngài sử dụng để làm những công việc của Ngài, cũng như ta sử dụng tay chân của mình để hoạt động.
Thế là từ đây, Chúa Giêsu tiếp tục đến với mọi người, đặc biệt là những người bất hạnh qua chúng ta là đôi chân của Ngài, tiếp tục săn sóc những người đau khổ, dìu dắt những người lầm lạc qua chúng ta là đôi tay của Ngài, tiếp tục yêu thương mọi người qua chúng ta là con tim của Ngài, tiếp tục rao giảng lời ban sự sống qua chúng ta là môi miệng của Ngài.
Những nỗi đau của Chúa Giêsu.
– Khi chân không cất bước được.
Một người mẹ khao khát đi thăm viếng ủi an đứa con lâm bệnh hiểm nghèo đang nằm viện suốt cả tuần qua nhưng bà không cất bước nổi vì đôi chân bà bị tê bại. Đôi chân tê bại khiến bà không thể đến với con làm cho lòng bà thêm đau xót.
Chúa Giêsu rất mong muốn nhờ chúng ta là đôi chân của Ngài để đến với những anh chị em bất hạnh chung quanh, thế mà chúng ta không chịu cất bước, thì Ngài buồn khổ xiết bao!
– Khi tay không nhấc lên được.
Khi khát nước khô cổ, cháy họng, tôi giơ tay ra để bưng ly nước lên môi nhưng tay tôi bại xụi, không giơ ra được, không cầm nắm được. Khát lắm, nước sẵn đó, ngay trong tầm tay mà không với tới để uống được… thì thật là khốn đốn cho tôi!
Chúa Giêsu cũng đang khát, khát mong đoàn con lưu lạc tìm về bên Ngài, vui sống với Ngài. Ngài mong muốn chúng ta là đôi tay của Ngài hãy vươn ra để dẫn đưa các anh chị em lưu lạc này về nhà Cha, nhưng chúng ta cứ im lìm bất động, y như những cánh tay tê liệt, cứ để cho Ngài tiếp tục bị cơn khát dày vò… thì Ngài đau khổ xiết bao!
– Khi miệng bị câm
Sáng hôm nay thức dậy, ông A mở miệng gọi người giúp việc mà không hiểu vì sao chỉ ú ớ trong cổ họng mà không thể phát ra lời. Ông cố gắng thêm lần nữa, rồi lần nữa… nhưng cũng không thốt được lời nào. Bấy giờ, sự kinh hoàng đột nhập vào ông. Ông kinh hãi, buồn phiền vô cùng, đau khổ tột độ vì không ngờ mình trở nên câm đặc.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng truyền lệnh cho chúng ta là miệng lưỡi của Ngài hãy mở ra để loan Tin Mừng cho bao người chung quanh, nhưng chúng ta vẫn cứ lặng im. Ngài thúc giục hoài, Ngài truyền dạy mãi… nhưng chúng ta là miệng lưỡi của Ngài vẫn câm nín, vẫn lặng im. Thế là, Ngài đau khổ, buồn phiền khôn xiết!
Nhiều người không muốn loan Tin Mừng vì nghĩ rằng, việc đó không phải là việc của mình.
Nghĩ như thế không đúng vì bất cứ ai đã được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều là chi thể của Chúa Giêsu, là một thành phần trong thân mình Chúa, do đó phải tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng, vì đây là công việc chính yếu của Chúa Giêsu là Đầu và của Hội Thánh là Thân mình của Chúa.
Vì thế, chúng ta phải tích cực tham gia vào sứ mạng này mà không được thoái thác với bất cứ lý do gì. Chỉ khi nào chúng ta bị cắt lìa ra khỏi Chúa Giêsu, không còn là chi thể của Chúa Giêsu nữa, bấy giờ ta mới có thể ngừng loan báo Tin Mừng mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu. Không ai có thể trao ban điều mình không có. Nếu chúng con không có lời Chúa trong tâm hồn thì không thể ban phát cho ai được. Xin Chúa giúp chúng con siêng năng học hỏi và suy niệm lời Chúa hằng ngày, nhờ đó tâm hồn chúng con có dồi dào lời Chúa để có thể chia sẻ cho anh chị em chung quanh.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Đáp Tình
CN XXIX TNA – (Mt 22, 15 – 21)
Công bằng xử thế kiếp nhân sinh
Phức tạp trái ngang giữ trọn tình
Thế trần bổn phận luôn sáng tỏ
Nước Trời nhiệm vụ phải phân minh
Lương tâm phân biệt điều xung khắc
Thánh ý ưu tiên chiến thắng mình
Qui phục thần quyền luôn tối thượng
Thánh Danh Thiên Chúa tỏa quang vinh.
Hạt Nắng
Dâng Ngài Tất Cả
CN XXIX – TNA – (Mt 22, 15 – 21)
Sinh ra đời, giữa lòng dân tộc,
nhưng linh hồn nguồn gốc thần linh.
Quê hương, đất nước nặng tình,
tình yêu Thiên Chúa trung trinh tôn thờ.
Thiện ích chung, ước mơ hạnh phúc,
cùng chung tay phục vụ giang san.
Nhiệm vụ, bổn phận chu toàn,
công bằng, bác ái trao ban cho người.
Là tín hữu sống đời con Chúa,
giữa đường trần lời hứa tín trung.
Phụng sự Thiên Chúa cửu trùng,
dẫu lâm nghịch cảnh khốn cùng chẳng lay.
Cảnh dối gian bày mưu xung khắc,
luôn kiên cường vững chắc niềm tin.
Qui phục thánh ý anh minh,
tâm hồn thiện hảo an bình lương tâm.
Đời nhân chứng lặng thầm dâng hiến,
nhận tình yêu dâng tiến tình yêu.
Đáp đền tình Chúa huyền siêu,
Dâng Ngài tất cả dẫu nhiều gian nan.
Sự sống con, Chúa tặng ban …
Bâng Khuâng Chiều Tím
Trả Nợ Đời – Trả Nợ Ngài
CN XXIX – TNA – (Mt 22, 15 – 21)
“Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê,
và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.
Con nợ cuộc đời bao năm dài quên lãng,
con nợ tình người lời dối gian vong ân.
Giữa cuộc đường trần phiêu du cùng mây gió,
cơn lốc bạc tiền hoen úa tình tha nhân.
Con nợ tình Ngài cho con nguồn sự sống,
con nợ tình Ngài vầng sáng soi hừng đông.
Dưới mặt trời hồng vô ơn làn gió mát,
bạc nghĩa vong tình tình Chúa ban nhưng không.
Trả lại cho đời lời tri ân tha thiết
Trả lại cho người tình nghĩa nhân đầy vơi.
Trả lại cho Ngài thưở ban đầu trong sáng
Trả lại cho Ngài họa ảnh của tình yêu.
Con trả nợ đời sống công bình, nhân ái,
con trả nợ người tình thẳm sâu nặng mang.
Đáp lại tình Ngài tin yêu tìm chân lý,
thiên ý thiện toàn qui hướng dầu đa đoan.
M. Madalena Hoa Ngâu
Qui Hướng Về Ngài
CN XXIX TNA – (Mt 22, 15 – 21)
Con chẳng còn gì, nếu Chúa ngừng ban phát hồng ân,
con chẳng là gì, mà Chúa lại lưu ý quan tâm.
Nắng hồng ban mai, mưa chiều tưới mát,
ánh trăng diệu hiền, hoa tươi thơm ngát,
dòng sữa ngọt ngào, từ lúc con hoài thai.
Con phụ tình Ngài, mê thế trần lãng phí hồng ân,
tôn thờ bạc tiền, theo thế quyền, phú quí vinh thân.
chức quyền cao sang, che mờ đôi mắt,
trái tim khô cằn, tình yêu đánh mất,
nhân ái, công bằng, đường chân lý … như mù sương.
Trả lại cho Chúa, Chúa ơi! Con tim dại khờ,
trả lại cho Ngài, bản thiện từ lúc ban sơ.
Hồn con ngu ngơ, xa rời tình Chúa,
Ngài là tình yêu, hồng ân chan chứa,
xin qui hướng về Ngài, tất cả là hồng ân.
Dâng trọn cuộc đời, xin hướng về Thiên Chúa từ nhân,
trí tuệ, thời giờ, phụng sự Ngài trọn hết tài năng.
Báo đền hồng ân, chu toàn thánh ý,
chúc khen, cảm tạ, tình yêu viên mãn,
nhân ái, công bằng, đường chân lý … con thực thi.
Nắng Sài Gòn
Dâng Về Thiên Chúa
CN XXIX TN.A – (Mt 22, 15 – 21)
Được sinh ra giữa lòng dân tộc,
đất nước đượm tình ấp ủ tiếng quê hương.
Luật pháp, kỷ cương, đạo nghĩa cương thường,
thi hành luật lệ,
là bổn phận con phải chu toàn nơi trần thế.
Xây dựng quốc gia, chấp hành chính thể,
không ích kỷ, dối lừa,
không được sống gian tham.
Sống thẳng ngay, công chính việc mình làm,
bởi con được tạo dựng theo hình ảnh,
Thiên Chúa Tình Yêu – Công Bình và Nhân Ái.
Mở rộng tâm hồn, yêu thương quảng đại,
sống với tha nhân chính trực, công minh.
Bác ái, khoan dung là của lễ chân tình,
dâng lên Thiên Chúa,
đáp trả tình yêu Ngài ban tặng.
Ơn Chúa sáng soi trong nguyện cầu, thinh lặng,
nhận thức rạch ròi các giá trị biệt phân.
Giữa vật chất trần gian và lãnh vực tinh thần,
Nhận thức tối hậu,
Thiên Chúa chính là chủ nhân trên toàn vũ trụ.
Vật chất trần gian không làm con mê ngủ,
cơn ác mộng bạc tiền, không còn đau khổ, long đong.
Thanh thản sống bình an trong tay Chúa quan phòng,
vì: “của César hãy trả cho César”
Những gì “của Thiên Chúa hãy trả về Thiên Chúa”.
Hạnh phúc nào hơn được sống làm con Chúa,
Ân sủng nhiệm mầu luôn ấp ủ đời con.
Con hãnh diện,
vui phó thác,
vẹn nghĩa sắt son,
cuộc đời con là do Chúa tặng ban,
nguyện trọn đời hiến dâng về Thiên Chúa.
AP. Mặc Trầm Cung