SUY NIỆM TIN MỪNG – Số 578, CHÚA NHẬT PHỤC SINH – B, 01/04/2018

phucsinh4“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi”. (Tv 119, 105)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Mc 16, 1-8)

Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: “Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”.

Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.

Đó là lời Chúa.

Mục lục:

SUY NIỆM TIN MỪNG
Rao Truyền Ơn Phục Sinh ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt Trg 2
Suy Niệm Tam Nhật Vượt Qua Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB Trg 4
Suy Niệm Tam Nhật Vượt Qua Lm. Jos Tạ Duy Tuyền Trg 11
Suy Niệm Tam Nhật Vượt Qua Lm. Inhaxiô Trần Ngà Trg 16
THƠ TIN MỪNG
Mộ Trống Hạt Nắng Trg 20
Mầu Nhiệm Mộ Trống Bâng Khuâng Chiều Tím Trg 21
Ánh Sáng Đức Kitô M. Madalena Hoa Ngâu Trg 22
Tình Ca Mộ Trống Nắng Sài Gòn Trg 23
Ánh Sáng Bừng Lên Mộ Trống & Tôi AP. Mặc Trầm Cung Trg 24

Rao Truyền Ơn Phục Sinh

Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.

Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.

Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.

Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.

Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.

Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.

Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.

Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.

Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.

Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.

Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.

Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.

Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Yêu Thương Đến Cùng

Tông đồ Gioan khẳng định: giờ Đức Giêsu ra đi chịu chết chính là đỉnh điểm (kairos) đời sống của Con Người (xem Ga 12:27-34). Đó là thời điểm và cách thức mà Giêsu – Cứu Chúa có thể diễn đạt tình yêu của Thiên Chúa cách trọn vẹn nhất: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng”. Tình yêu đó sẽ ôm ấp mọi con người, không loại trừ bất luận người nào, trong trường hợp cụ thể này, nó ôm lấy luôn cả Giuđa lẫn Phêrô, những kẻ đang rắp tâm phản bội hoặc đã yếu đuối bội phản Thầy. Tình yêu Thiên Chúa bao dung và rộng mở vượt qua mọi biên giới; nhưng vấn đề chính ở đây là: liệu người ta có sẵn lòng đón nhận tình yêu đó hay không. Vấn đề này về mặt lý thuyết xem ra rất đơn giản, nhưng trên thực tế lại không dễ dàng được chấp nhận đâu. Câu chuyện Gioan tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay là một minh họa rất sắc nét: trước khi lên đường đi chịu chết Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Điều xảy ra vào buổi chiều hôm đó, tuy nhiên nó cũng có thể tiếp tục xảy ra cho bất cứ ai, ở bất cứ đâu và vào bất luận thời đại nào!

Trong tấn kịch này, vai diễn Phêrô có phần nổi trội! Phản ứng của ông có thể là hoàn toàn riêng tư; nhưng chắc chắn nó cũng biểu lộ thái độ chung mà nhiều môn đệ khác (và cả chúng ta ngày nay) cùng chia sẻ: “Thầy mà lại rửa chân cho con sao? Không đời nào con chịu đâu!” Phản ứng này hoàn toàn hợp lý: vì làm sao người môn đệ có thể để cho ông thầy cúi xuống rửa chân cho mình? Nếu Đức Giêsu không hầu như ép buộc, “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy” thì có lẽ Phêrô sẽ chẳng bao giờ chịu chấp nhận, và các môn đệ khác cũng thế thôi.

Thế đấy, tin và chấp nhận một Thiên Chúa khiêm hạ tới độ hủy mình ra không không chỉ vì yêu thương tôi – một con người tội lỗi thấp hèn, là điều không dễ chút nào! Tôi dễ dàng chấp nhận một Thiên Chúa uy nghi cao cả đòi buộc tôi phải giữ, phải tránh điều này điều nọ; một Thiên Chúa phán truyền mệnh lệnh; một Thiên Chúa thưởng phạt công minh…, nói chung một Thiên Chúa bề trên, kẻ cả, nhưng tôi lại không thể chấp nhận nổi một Thiên Chúa đặt mình dưới cả tôi, trở nên thấp hèn hơn tôi, và sẵn sàng bị tước đoạt tất cả… một Thiên Chúa ngồi chiếu dưới chỉ để yêu thương tôi mà thôi! Tôi đã chẳng luôn sẵn có khuynh hướng tôn thờ kính sợ Thiên Chúa, nhưng lại rất ái ngại đi sâu hơn nữa vào ‘lòng thương xót đến cùng’ của Người hay sao? Xét cho cùng thì tôi vẫn thấy ‘thái độ kính sợ Đức Chúa’ của mọi tôn giáo nói chung và Cựu Ước nói riêng vẫn dễ chấp nhận, hơn là tinh thần tự hủy của Tân Ước, như Đức Kitô Giêsu đã từng thể hiện trên Thập Giá. Thiết tưởng, đây mới chính là ‘cớ vấp phạm’ lớn nhất của Thập Giá mà Phaolô đã đề cập tới, ngay cả đối với những người xưng mình là Kitô hữu (tức người có đạo) chứ không chỉ cho dân ngoại.

Thế nhưng, đối với Đức Kitô, thì ‘cớ vấp phạm” ấy lại là điều kiện tiên quyết của Tin Mừng (conditio sine qua non), “nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng được vào chung phần với Thầy”. Câu này là một khảng định chứ không phải một lời khuyên, lời mời chung chung! Và ‘chung phần với Thầy’ chính là tham gia vào cái thứ tình yêu độc nhất vô nhị mà chỉ một mình Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Thập Giá mới có: yêu thương đến cùng, yêu tới độ hủy bỏ mình ra như không, đặt mình vào chỗ rốt hết trong thiên hạ hầu có thể trao ban và phục vụ.

Thiết nghĩ: ít ai trong chúng ta (kể cả các linh mục, tu sĩ) đã không vấp phạm về điều này ít là một lần trong đời. Lấy một thí dụ nhỏ: có ai trong chúng ta đã từng nghĩ rằng: các việc bác ái mình làm nhiều khi thật nông cạn và chẳng Tin Mừng tí nào! Bao lâu ta còn chưa chịu để cho Chúa ‘rửa chân’ cho, bấy lâu ta còn thi hành một thứ bác ái trịch thượng của bậc kẻ cả, phục vụ đấy nhưng ta phải giữ thế thượng phong của kẻ ban phát. Riêng với các linh mục, cảm nghiệm này còn cụ thể hơn: chẳng hạn có bao giờ linh mục ngồi vào tòa giải tội mà mang lấy tư thế mình còn thấp hèn hơn cả các hối nhân tới xưng tội, hoặc tiến ra cử hành Thánh Lễ với cảm nghiệm Chúa lại cúi xuống rửa chân cho mình…, hoặc khi rước mình và máu thánh Chúa mà nghiệm thấy quá khủng khiếp vì được Chúa biến thành miếng ăn nuôi sống một con người tội lỗi và bất toàn như mình? Nhiều lần khi cho rước lễ tôi đã tận mắt chứng kiến việc Chúa đi vào các môi miệng, được trao vào các bàn tay mà đôi khi chính bản thân tôi còn thấy rờn rợn? Thế đấy, chính vì ‘để Thày rửa chân cho’ thường xuyên bị lãng quên mà bác ái rất ít khi thực sự là quên mình phục vụ, Thánh Lễ nặng về thờ phượng kính tôn hơn là “Người yêu thương họ đến cùng”, ‘Alter Christus’ mang nặng nội dung chức thánh địa vị hơn là ‘mục tử tự hiến’, “vào chung phần với Thầy” được cắt nghĩa là vào hưởng vinh quang thiên quốc hơn là tham dự vào tình yêu Thập Giá tự hủy của Đức Kitô; và còn nhiều điều khác nữa…

Bài học ‘rửa chân’ quả thật nghiêm trọng biết bao! thế nhưng thật đáng tiếc: nó thường bị coi là một biểu tượng cá biệt hơn là diễn tả hoàn hảo một mạc khải về tình yêu trao hiến phục vụ đích thực. Tệ hơn nữa nó còn bị chính cộng đoàn tín hữu thu hẹp vào nghi thức phụng vụ được cử hành trong Thánh Lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh… và rồi sau đó là kết thúc luôn, không còn được thực thi cách cụ thể trong cuộc sống đức tin của đời sống thường ngày!

Lạy Chúa Giêsu khiêm hạ vì yêu thương, xin cho con biết để cho chính con được Chúa rửa chân cho mỗi khi tiến ra cử hành Thánh Lễ, để con cũng được ‘chung phần’ với tình yêu đến cùng của Thập Giá. Vinh quang Thập Giá chính là vinh quang của tự hủy, và phải được tỏ rạng nơi mọi linh mục của Chúa, bây giờ và luôn mãi. Xin cho con, trước khi dám ‘cùng chết với Chúa’, biết khiêm tốn chấp nhận để Chúa chết và tự hủy ra như không vì con và cho con, chỉ vì ý thức được rằng: chính vì thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà Chúa đã làm điều đó. Amen

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Chảy Đến Giọt Máu Cùng Nước Cuối Cùng

Phụng vụ luôn dành trình thuật thương khó của Gioan cho ngày Thứ Sáu Tuần Thánh vì bài này thâm thúy hơn và có một số chi tiết khác với các Phúc âm Nhất lãm; tuy nhiên sự khác biệt lớn hơn hết mà phụng vụ thánh muốn chúng ta lưu tâm và chia sẻ có lẽ chính là giọng văn và tình cảm của một nhân chứng đã tận mắt chứng kiến biến cố trọng đại ấy. Chính tác giả Gioan đã công khai tuyên bố: “Người đã xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin”.

Tất cả các chi tiết Gioan mô tả trong bài thương khó của ông đều rất cụ thể và sống động, chẳng hạn như chi tiết “Tôi khát!” Được chính mình trải nghiệm trong giờ hấp hối lâm sàng, tôi thấy điều này thật cụ thể: cơn khát của một người sắp chết thật khủng khiếp! Nói gì thì nói, trong cơn khát cháy họng, hầu như cả mạng sống của một người lệ thuộc vào chỉ một vài giọt nước mát… Chi tiết cụ thể và xác thực biết bao!

Nhưng trong số các chi tiết ông ghi nhận về cuộc thương khó, Gioan đặc biệt quan tâm tới hành vi: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra”. Về sự kiện này, Gioan khẳng định chính mắt ông đã chứng kiến cảnh tượng đó, vì nó hầu như đã làm thay đổi sâu xa lối suy nghĩ, và có lẽ chính cuộc sống của ông; đồng thời đó cũng là cốt lõi sứ điệp mà ông đã dành trọn phần còn lại của đời mình để loan truyền cho mọi người: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến… chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa” (1 Ga 1:1.3) …“Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” (1 Ga 4:14)

Để trả lời cho vấn nạn ‘sự cứu độ đó là như thế nào?’ Gioan khẳng định: “- Thưa, đó là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn, yêu tới giọt máu cuối cùng, yêu bằng cả mạng sống mình”; còn đối tượng của tình yêu đó là ai? là con người đáng yêu, tốt lành và cao thượng chăng? – Thưa, không! Gioan tiếp tục: “Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một của Người đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4:8-10) Nếu Gioan được mệnh danh là Tông Đồ tình yêu, thì tại là vì ông đã được tận mắt chứng kiến cảnh tình yêu đó được biểu lộ cách huy hoàng và triệt để nhất trên Thập Giá, trên đó Giêsu đã đổ tới giọt máu cùng nước cuối cùng vì yêu thương.

Còn Phaolô: tuy không có dịp được chiêm ngắm Thập Giá trực tiếp như Gioan, nhưng tất cả những gì ông biết được về Đức Kitô Giêsu lại chính là ‘Đức Kitô Thập Giá’; ông luôn miệng khảng định: ‘tôi không biết một Đức Kitô nào khác’. Nhìn lên Thập Giá, Phaolô đã nhận ra: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Riêng với bản thân, Phaolô đã cảm nghiệm cách thâm sâu: “tôi đặt niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng yêu thương tôi và phó nộp mình cho tôi, ngay cả khi tôi phản nghịch cùng Người”.

Nếu thế thì: chính tôi trong tư cách linh mục, tôi đã nhận ra điều gì nơi Thập Giá? Hơn cả Gioan chỉ đứng nhìn, hàng ngày tôi còn được diễm phúc cử hành Thánh Lễ, tức là cử hành sự tự hiến Thập Giá. Mỗi khi uống cạn chén Máu Thánh, được trực tiếp chạm vào máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu chảy ra, tôi có nhận ra tình yêu tột cùng của Thiên Chúa dành cho một tội nhân như tôi không? Tôi phải tự hỏi: đối với tôi Thập Giá mang ý nghĩa sống còn, hay chỉ là một biểu tượng chung chung? Tôi có còn mơ ước hay khâm phục một Giê-su nào khác,như một Giêsu quyền phép hay làm phép lạ chẳng hạn, một Giêsu rộng lượng thi thố tài năng và ban phát ân huệ, một Giêsu thông thái nghiêm nghị ngồi trên bục giảng, một Giêsu uy nghi đến trong vinh quang để xét xử… hơn là một Giêsu chịu đóng đinh vì yêu thương tôi không? Tôi sẽ chưa phải là linh mục của Đức Kitô (alter Christus), bao lâu tôi còn chưa chịu đóng đinh, chịu hiến mình… tới giọt máu cuối cùng như Người; được gọi là Linh Mục của Đức Kitô, và hàng ngày được cử hành Thánh Lễ, thực tế tôi đang là gì và làm gì trong cuộc sống mình?

Lạy Đấng chịu đóng đinh và phó nộp cả mạng sống mình vì con, xin làm cho con được như Gioan, tựa đầu vào lồng ngực đầy yêu thương, để rồi nhận ra trong đó đang thoi thóp một quả tim đã cạn kiệt tới giọt máu cuối cùng vì yêu thương con. Con cảm tạ Chúa vì hồng ân linh mục con đã được trao ban, trước hết là vì lợi ích của chính con: nhất là diễm phúc được cử hành hiến tế Thập Giá mỗi ngày. Xin cho con có cắp mắt và cõi lòng của Gioan; xin soi sáng và củng cố con để có được niềm xác tín và nhận thức của Phaolô, nhờ thế Thập Giá, phải, chính Thập Giá chứ không phải bất cứ gì khác, sẽ trở nên gia nghiệp và vinh quang lớn nhất của đời con. Amen

CANH THỨC VƯỢT QUA

Ngôi Mộ Trống vs Cuộc Sống Mới

Ấn tượng mạnh nhất mà tôi có khi đọc bài tường thuật biến cố Phục Sinh của Marcô là nỗi kinh hãi của các chứng nhân đầu tiên, tức nhóm phụ nữ ra thăm mồ từ sáng sớm. Không hề che đậy, tác giả Marcô đã hầu như cố tình lặp đi lặp lại mối hoảng sợ đó: ‘Các bà hoảng sợ… Người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!”… Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi…” Tại sao họ lại hoảng sợ, tôi tự hỏi: vì họ là phụ nữ chăng? – Không hẳn thế (Mt. 28:4), vì chàng thanh niên mặc áo trắng chăng? – Lời trấn an cho thấy chàng không phải là nguyên nhân; mối hoảng sợ tới chính từ ngôi mộ trống, từ ‘Người không còn đây nữa’. Nếu tảng đá cửa mộ chưa được lăn ra, và rồi các bà tự tìm được cách vào bên trong mộ để thấy xác Người vẫn còn đó, chắc hẳn họ sẽ mừng rỡ chứ không khiếp sợ đến thế. ‘Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ dùm ta đây?”’ Các bà hết hồn hết vía vì được loan báo: “Giêsu Nazareth bị đóng đinh… đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đặt Người đây này!”

Câu chuyện Đức Giêsu sống lại của Marcô kết thúc đột ngột với tường thuật việc các phụ nữ khám phá ra ngôi mộ trống, và tiếp đó là một bài ngắn gọn ghi nhận số lần, trong sức sống hoàn toàn mới, Người hiện ra với một số nhân chứng. Đối với tác giả, đây không còn là con người Giêsu mà người ta từng biết trước kia nữa, nhưng là một Giêsu được sinh lại trong Thần Khí để không bao giời chết nữa; “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2). Con người Giêsu Nazareth cũ đã kết thúc với “Người lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:37); sau đó là một khoảng trống vắng lạnh lùng: ngôi mộ nơi đã đặt xác Người hoàn toàn trống rỗng…; thế rồi một sức sống mới kỳ lạ xuất hiện và bắt đầu lan tỏa. Như vậy Phục sinh gồm cả hai phần: ‘ngôi mộ trống’ và ‘cuộc sống mới’ bởi Chúa Cha.

Ngôi mộ trống: Thoạt đầu tôi vẫn nghĩ ngôi mộ trống chỉ là một chi tiết nhỏ không có gì đáng lưu tâm cho lắm; tuy nhiên khi thấy cả bốn Phúc âm đều đề cập tới quang cảnh này cách rành rẽ tới từng chi tiết – đặc biệt Phúc âm Gioan – tôi nhận ra nó phải có một ý nghĩa nào khác sâu sắc hơn hẳn một sự kiện vật thể đơn thuần. Đúng vậy: Ngôi mộ trống tượng trưng cho cả một khoảng cách biệt lớn lao và sắc nét giữa một Giêsu đã chết và một Giêsu Kitô phục sinh với sức sống mới trong Thánh Thần. Ngôi mộ trống là biểu hiện sự khác biệt giữa một nhân loại chết trong tội và một nhân loại bừng sống trong tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Sự Vượt Qua của Đức Kitô không chỉ xóa tội, vượt qua tội lỗi (trong cách nói bình dân), mà là ban cho một sự sống hoàn toàn mới mẻ kỳ lạ; Kitô hữu chúng ta quen gọi sự sống mới này là: ‘sự sống của con cái Chúa’. Nếu hiểu đúng nội dung “được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên” (Ga 3:3), mà Đức Giêsu đề cập tới trong cuộc đối thoại với Nicôđêmô đêm nào, thì ta có thể coi ‘ngôi mộ trống’ như thời kỳ thai nghén chờ ngày cho chào đời một tạo vật hoàn toàn mới, như nhiều lần Phaolô đã ví von.

Cuộc sống mới: Phục sinh thường được hiểu là sống lại, là trở lại từ cõi chết. Không hẳn chỉ có thế, hay nói cách khác: còn hơn thế nữa! Phục sinh đúng hơn là sinh lại, là đón lấy sự sống mới trong tình yêu xót thương cứu độ của Thiên Chúa! Trong nội dung này, Giêsu Phục Sinh quả là một Ađam mới, là người đầu tiên ‘được sinh ra một lần nữa trong Thần Khí’ (Ga 3:3-8). Chắc chắn Phaolô đã luôn hiểu Phục sinh trong nội dung này: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:4). Ngắn gọn hơn Phaolô khảng định: “Nếu đã cùng chết với đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người” (Rm 6:8). Như thế, sống lại từ cõi chết chỉ là phụ, là nói theo tuần tự thời gian; điều chính yếu và quan trọng hơn là: cuộc sống mới trong Thần Khí. Phục Sinh không đơn thuần là chỗi dậy, là ra khỏi mồ vào ngày thế tận; mà Phục Sinh phải xảy ra trong đời Ki-tô hữu thường ngày, phải là tiến trình để mình chết đi (ngôi mộ trống rỗng) hầu được đổ đầy với sức sống thần linh mới. Sống Kitô hữu là sống Kitô Phục sinh, sau khi đã chết cùng Kitô thập giá: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1:21).

Trong tư cách linh mục – tu sĩ, tôi thấy sống Phục Sinh đối với riêng mình là cả một chương trình và đòi hỏi! Trong hai điều kiện để có thể sống Phục Sinh, điều kiện mà tôi phải chủ động làm chính là: làm rỗng con người mình; còn điều kia là công việc dành cho Thánh Linh. Công tác ‘làm rỗng mình’ là cả một thách đố, nhất là khi tôi đã có thói quen vun đắp cho mình bằng đủ mọi thứ: vật chất, tinh thần, kể cả thiêng liêng nhân đức nữa. Mục tiêu đời sống đạo của tôi và của các tín hữu tôi coi sóc không phải là sống phong phú, sống tốt, sống thánh thiện hơn, nhưng là sống mới hơn trong Thánh Thần; như Phaolô đã từng xác quyết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Người…” (Rm 6:3-11)

Lạy Chúa Phục Sinh, Chúa đã chết trên Thập Giá, đã tự hủy ra như không nơi ngôi mộ trống, nhưng đã được Chúa Cha sinh lại trong Thần Khí cho cuộc sống nghĩa tử. Một khi trở thành Kitô hữu, chính con cũng đang không ngừng thực hiện các bước đó cho riêng mình. Xin cho con thực thi được trọn vẹn hơn khẩu hiệu con chọn ngày nhận tác vụ linh mục: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”. Xin cho con không thấy sợ tình trạng ‘ngôi mộ trống’ của tội lỗ và yếu hèn, vì qua giai đoạn đó con mới có được sức sống Phục Sinh hoàn toàn mới trong Chúa Thánh Thần. Amen

CHÍNH NGÀY
Các Nhân Chứng Phục Sinh

Có ba nhân chứng về Tin Mừng Phục Sinh được nhắc tới trong bài trình thật phục sinh của cuốn Phúc Âm thứ tư, đó là Maria Mađalena, Phêrô và Gioan. Họ được coi như các nhân chứng diện F1 duy nhất của cái biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: một tử tội đã chết treo trên cây thập tự, đã được mai tang trong mồ, thì nay đã sống lại. Thế nhưng chứng cứ lịch sử khách quan, hay tất cả những gì họ có thể chưng ra làm bằng chứng cho cái biến cố trọng đại ấy thì lại quá giản dị: ‘lúc trời còn tối, bà Maria Mađalena đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ’, Gioan ‘tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó’, Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi, ‘ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi’… Chi tiết thật đấy, nhưng chỉ có thế; hầu như những chứng cứ họ đưa ra chẳng thuyết phục nổi ai! dầu vậy thì Gioan, một người trong số họ, vẫn đưa ra lời xác quyết hùng hồn; “Ông đã thấy và đã tin”. Chỉ với các tang chứng mơ hồ trên đã đủ để ông minh định, không phải chỉ một sự kiện mà còn cả một niềm tin có khả năng thay đổi cuộc sống của chính ông và của toàn thể nhân loại. Sau này ông còn dành trọn cuộc đời còn lại để loan truyền biến cố này, và sẵn sàng chết để minh chứng nó.

Tại sao lại như vậy?; chúng ta hãy cùng nhau đi vào tâm tình của các nhân chứng này, mong hiểu ra rằng: niềm tin Phục Sinh luôn gắn liền với các cảm nghiệm riêng tư sâu lắng nhất.

Phêrô: Khi chạy ra ngôi mộ, ông đang trải nghiệm một điều có thể coi là đáng xấu hổ nhất trong đời: phản bội Thầy mình. Qua kinh nghiệm sống, ông đã từng trải sự mỏng dòn của con người với bao tội lỗi và khiếm khuyết; vì thế mà ông rất chân thành khẩn khoản: “Lạy Thầy, xin xa con ra, vì con là người tội lỗi!” (Lc 5:8) Thế nhưng ông chưa bao giờ hình dung nổi sự yếu hèn của mình lại có thể rơi xuống tới mức hạ đẳng đến thế. Được chọn làm môn đệ tiêu biểu, ông đã từng quả quyết cách chắc nịch: “Cho dầu mọi người có bỏ Thầy, con quyết không bao giờ!” (Mt 26:33) giờ thì… ông đâu có ngờ mình lại như thế! Chính với cái trải nghiệm đáng xấu hổ này mà ông tiến vào ngôi mộ trống, quan sát đống vải liệm… để rồi tin. Niềm tin cho phép ông thoáng nhận biết, với các tang chứng vật chứng này, có một điều gì còn mạnh hơn cả cái chết, mạnh hơn cả sự đốn hèn của con người, mạnh hơn cả ‘chối bỏ Thầy’ mà ông đã phạm. Ngôi mộ trống đối với ông là cả một khám phá mới, một sức mạnh mới, một hy vọng mới: lòng nhân ái của Thiên Chúa (tỏ hiện nơi Đức Ki-tô) vượt trên tất cả, vượt xa hơn tất cả.

Gioan: là môn đệ được Đức Giêsu thương mến, ông đã cảm nhận được tình yêu đó trong bữa tiệc ly khi tựa đầu vào ngực Người, đã chứng kiến tình yêu đó khi nhìn thấy giọt máu hòa với nước cuối cùng vọt ra từ con tim bị đâm thủng của Người. Tuy nhiên, yêu bao nhiêu thì lại đau buồn thất vọng bấy nhiêu, nhất là khi ông phải chứng kiến: tình yêu nồng ấm đó đi tới hồi kết thúc, nó bị chôn vùi trong nấm mồ hoang lạnh. Khi tiến vào ngôi mộ mở toang, với các băng vải còn ở đó, Gioan lần đầu tiên nghiệm ra: tình yêu đó, không chỉ mãnh liệt, trọn vẹn, mà còn vĩnh cửu trường tồn. Tình yêu đó không những mạnh hơn cái chết hiểu theo nghĩa thông thường (đám chết vì yêu), mà còn chứa đựng một nội dung cho tới nay chưa từng được minh chứng: tình yêu đó vĩnh viễn toàn thắng sự chết, cả về thể lý cũng như trong diện tinh thần thiêng liêng, tới độ không gì ngăn cản nổi nó; bất cứ ai tin và chấp nhận tình yêu này sẽ không bao giờ phải thất vọng. Quả thật, ông được thuyết phục: Thầy Giêsu đích thực là sự sống lại, như chính Người đã từng tuyên bố, Người là sự sống vĩnh cửu trong tình yêu.

Maria Mađalena: nhân chứng số một của biến cố Phục Sinh trọng đại. Được đặc ân này có lẽ vì bà đã gộp được cả hai trải nghiệm của Phêrô lẫn của Gioan lại thành một. Trải nghiệm tội lỗi, đối với bà, là trải nghiệm của thân phận cả một kiếp người bị đầy đọa tới đáy vực thẳm, còn trải nghiệm yêu thương, là trải nghiệm gắn liền với việc gặp được lòng nhân lành thứ tha, đã nâng bà lên tới trởi. Cái cảm nghiệm được giải phóng đó do Thầy Giêsu mang lại đang thăng hoa thì đột nhiên rơi vào bế tắc cùng với cái chết Thập Giá của Người, đã bị chặn đứng sau hòn đá che lấp phần mộ. Chính vì thế mà bà khắc khoải muốn tìm lại Thầy cho bằng được: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”, đồng thời cũng nhận ra ngay cái chi tiết nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với bà: ‘hòn đá đã lăn khỏi mồ’. Thầy Giêsu đã sống lại và ra mồ…, hòn đá đã được lăn ra, có nghĩa là giải phóng sẽ là vĩnh viễn, và thăng hoa sẽ là bất tận!

Là Kitô hữu, tôi không chỉ mừng lễ Chúa Phục Sinh, mà còn phải làm chứng nhân việc Chúa đã sống lại, hay đúng hơn làm chứng về một tình yêu tha thứ trở nên bền vững. Vậy thì hãy để tâm lắng nghe cảm nghiệm sâu lắng nhất trong ta vào lúc này: phải chăng đó có thể là cảm nghiệm của Phêrô, hay của Gioan, hay của Maria Mađalena, hay của cả ba gộp lại?

Lạy Chúa Phục Sinh, con vui mừng vì Chúa đã sống lại! Đời con đã không thiếu những trải nghiệm đớn hèn của Phêrô hay Mađalena; con cũng không phải là không có chút ít trải nghiệm của Gioan, nhất là trong ơn gọi Kitô hữu, tu sĩ Salêdiêng và linh mục của mình. Xin cho con hưởng trọn niềm vui Phục Sinh vĩ đại xuất phát từ chính những kinh nghiệm bản thân, để con có thể chân thành ca ngợi việc Chúa Sống Lại và loan truyền Tin Mừng Phục Sinh vẻ vang cho mọi người cách thâm tín và phấn khởi nhất. Amen

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty. SDB

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Cúi Đầu Khiêm Cung

Khi còn nhỏ có dịp cùng với ngoại ra thăm đồng lúa. Tôi hỏi ngoại: Ngoại ơi sao cây lúa mới trổ bông lại đứng thẳng mà lúc chín lại cúi rạp xuống nước? Ngoại trả lời: Khi hạt lúa mới phát triển nó đầy kiêu hãnh. Muốn khẳng định mình trước trời đất gió bão nên đứng thẳng, nhưng khi hạt đã đầy và chắc, chúng bắt đầu khiêm nhường cúi đầu xuống nhờ vậy mà nó mới bảo vệ được hạt lúa khỏi rơi rụng bởi gió bão hay chim trời. Ông ngoại nói tiếp: Trong đời, người cao nhân thực sự cần phải thấu hiểu đạo lý khiêm tốn, càng làm lớn càng phải biết “cúi đầu”.

Cúi xuống không đồng nghĩa với sự nhục nhã, luồn cúi thấp hèn. Cúi xuống ở đây chính là cung cách của những người có văn hóa, biết sống khiêm tốn để nương tựa vào nhau. Cúi xuống trong khiêm tốn mới sẵn lòng phục vụ mọi người. Kẻ không cúi mình sẽ không bao giờ biết phục vụ mà chỉ biết chỉ tay năm ngón hay ăn hại mà thôi!

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là một con người biết cúi đầu. Ngay ngày đầu tiên trên cương vị giáo hoàng khi gặp các tín hữu, ngài đã nói: Ta muốn xin các con một ân huệ, trước khi cha ban phép lành, cha xin các con đọc kinh thay cho lời chúc lành của cộng đoàn dân Chúa cho vị tân giám mục Roma. Ngài cúi đầu để nhận sự chúc lành của các tín hữu.

Hình ảnh một vị giáo hoàng cúi đầu nhận sự chúc lành của giáo dân là một cử chỉ đầy lòng khiêm tốn. Khiêm tốn phải thực sự là căn tính đời sống của ngài nên Đức Thánh cha mới có thể sáng kiến ra cách biểu lộ lòng khiêm tốn ấy.

Quả thực trong suốt cuộc đời ngài luôn sống khiêm tốn. Ngài không ở trong tòa lâu đài giáo phận. Không có người phục vụ nấu nướng mà tự mình nấu ăn. Ngài còn đi đến tận của khiêm tốn là quỳ gối rửa chân cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại thành Rô-ma.

Đây chính là cung cách mà ngài đã học nơi thầy Giêsu. Chúa Giêsu đến không để người khác hầu hạ mà chính Ngài cúi mình phục vụ mọi người. Ngài đã từng nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn loài” (Mt 20, 28). Tinh thần hi sinh và phục vụ của Chúa Giêsu được biểu lộ trong suốt hành trình công khai của Ngài. Chúa Giêsu luôn phục vụ mọi thiện ích cho tha nhân. Người biến nước thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana, Ngài chữa lành các bệnh tật, xua đuổi ma quỷ… Đức hi sinh và tinh thần phục vụ của Ngài không dừng lại ở một vài khoảnh khắc nhưng là suốt đời Ngài, cho đến hơi thở cuối cùng.

Trước khi bước vào con đường chịu nạn, Chúa Giêsu đã khiêm nhường quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc cuối cùng. Hành động này nói lên con người khiêm cung và phục vụ cao độ của Chúa Giêsu. Khi cúi xuống như thế, là Ngài đã cởi áo ra, rũ bỏ tước vị, rũ bỏ địa vị Thiên Chúa của mình. Ngài chấp nhận trở nên tôi tớ cho mọi người trong phục vụ và hiến dâng.

Hôm nay linh mục làm lại cử chỉ ấy như muốn nói người môn đệ Chúa phải thực sự biết cúi mình phục vụ. Linh mục nâng niu từng đôi chân đã lắm bụi đời của người anh em tín hữu như muốn nói lên sự đồng cảm những khổ đau của anh em. Linh mục đổ nước và rửa chân cho các tín hữu như muốn nói địa vị của mình là để phục vụ trong tinh thần khiêm nhu thẳm sâu. Linh mục cúi xuống hôn từng đôi chân như muốn nói từ nay không còn khoảng cách chủ tớ mà là của những tín hữu biết sống liên đới sẻ chia với nhau trong mọi vui buồn.

Mỗi người chúng ta cũng là một Kitô hữu nghĩa là một Kitô khác nên cũng được mời gọi cúi mình để sống phục vụ tha nhân. Vâng, là môn đệ theo Thầy Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi cởi bỏ tước vị, thế giá của mình để sống hòa nhập với mọi người, để trở nên mọi sự cho mọi người. Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi bỏ đi cái tôi chật hẹp, ích kỷ của mình để cúi xuống phục vụ anh em bệnh tật, nghèo khó, ở bên cạnh chúng ta. Là người môn đệ của Chúa chúng ta cũng phải tập cúi mình để nhận ra sự yếu đuối của mình mà cần đến sự cảm thông của mọi người, nhất là tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Ước gì những nghĩa cử cao đẹp mà Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm luôn tồn tại trong thế giới hôm nay, qua các nghĩa cử đầy yêu thương thắm đượm tình Chúa, tình người mà chúng ta trao tặng cho nhau. Ước gì lời nói “Hãy yêu thương nhau” không phải là khẩu hiệu hô cho vang trời dội đất mà là một lối sống đi sâu vào từng ngõ ngách cuộc đời khởi từ gia đình, xứ đạo và lan toả cho đến tận cùng trái đất. Xin cho chúng ta luôn biết cúi đầu để dấn thân mà không nề gian khó miễn sao danh Chúa được cả sáng. Amen

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Tôi Đang Đứng Đâu
Trong Cái Chết Của Chúa?

Thứ Sáu Tuần Thánh gợi lại cho ta khung cảnh đồi Calvê. Nơi ấy Chúa chịu bao đớn đau khổ sầu và cuối cùng là cái chết đơn côi. Nơi ấy ta cũng thấy sự thay lòng đổi dạ của những người đã từng nhận ân lộc Chúa. Nơi ấy ta cũng thấy dã tâm con người chỉ vì quyền lợi bản thân mà dám giết người công chính. Nơi ấy ta cũng thấy sự thiếu trung thành nơi các môn đệ là những người đã từng thốt lên sẽ “cùng chết với Người”. Chỉ còn lại một số ít rất nhỏ là Mẹ Maria và người môn đệ Chúa yêu luôn âm thầm đi bên cạnh Chúa.

Xem ra trong nỗi đau của một người luôn có những bàn tay toa rập với nhau để làm hại anh em. Trong nỗi đau của bản thân lòng ta cũng tan nát bởi sự vô ơn, vô tâm của người thân như toa rập nhau nhận chìm ta trong cô đơn khổ đau.

Nhìn vào xã hội hôm nay ta thấy có quá nhiều con người đang quằn quại trong nỗi đau bị người thân hãm hại, bỏ rơi, hành hạ, loại trừ. . . Mỗi ngày trên trang mạng ta cảm thấy sao xã hội hôm nay tình người đang mất dần khi vì cái tôi họ sẵn sàng làm hại đến nhau! Con cái bất hiếu là nỗi đau lớn nhất của những người làm cha, làm mẹ. Vậy mà vẫn còn đó những đứa con “trời đánh” sẵn sàng hắt hủi, chửi mắng, đánh đập, thậm chí sát hại những người từng sinh ra mình cũng không hiếm! Ông Môn ở Lạng Sơn thấy đứa con tên Nghĩa ăn chơi lêu lổng đã lên tiếng nhắc nhở liền bị đứa con cãi lại, rồi nổi cơn điên loạn lấy dao đâm cả cha mẹ khiến người mẹ tử vong.

Điều đáng buồn trong xã hội hôm nay người ta còn dùng cả phương tiện truyền thông để người thân có dịp tố cáo nhau, hay “vạch áo cho người xem lưng” như trong chương trình “Sau ánh hòa quang”. Điển hình là nghệ sĩ Lê Giang đã công khai tố cáo chồng cũ là Duy Phương đánh đập, bị tẩy chay, từng phải uống thuốc tự tử. . .

Duy Phương cũng phải lên mạng đính chính là không hề có. Con cái chung của hai người cũng cho rằng mẹ là người nói không đúng sự thật. Không biết chương trình làm với mục đích gì nhưng điều chắc chắn là vết thương nơi từng người trong gia đình lại càng hằn sâu thêm. Và nỗi đau của những con người từng sống chung một mái nhà càng đau khổ hơn. . .

Cuộc đời chúng ta ai cũng sợ cô đơn. Vì cô đơn làm cho chúng ta hụt hẫng giữa biển người bao la mà chẳng tìm được ai yêu thương, cảm thông với chúng ta. Sự cô đơn đưa chúng ta đến ngõ cụt cuộc đời, đến ngõ vắng đơn côi khiến chúng ta thất vọng, buông xuôi. Những lúc như thế chúng ta cần lắm một bàn tay chìa ra nâng đỡ. Cần lắm một lời an ủi, động viên của đồng loại. Cần lắm sự quan tâm khích lệ từ những người thân trong gia đình.

Cảm nhận sự cô đơn làm tê tái cõi lòng để chúng ta đồng cảm với Chúa Giêsu trong tuần thương khó. Đồng cảm với Ngài trong sự cô đơn bị bỏ rơi, bị khước từ của đồng loại. Chúa Giêsu đã trải qua những cay đắng tủi nhục khi bị người đời bỏ rơi. Ngài cô đơn giữa biển người, vì dường như ai cũng quay lưng lại với Ngài.

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn có thể cô đơn khi chúng ta sống thiếu hiệp thông với Ngài bởi tội lỗi, bởi đam mê. Chúng ta vẫn đẩy Ngài ra khỏi cuộc đời bởi tranh dành danh lợi thú trần gian. Chúng ta vẫn có thể gào thét đóng đinh Chúa khi chúng ta không dành cho Ngài quyền tối thượng được tôn thờ trên hết mọi sự.

Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào những ngày thánh này trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giêsu. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ đẩy anh em mình vào đường cùng của sự cô đơn khước từ. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ Chúa yêu đi bên cạnh Chúa trên đường thương khó khi vì Chúa mà từ khước những phù vân tội lỗi. Amen

PHỤC SINH

Trần Gian Tạm Bợ
Thiên Đàng Vĩnh Cửu

Con người thời nào cũng băn khoăn thắc mắc về mục đích của cuộc sống: sinh ra để làm gì và chết rồi đi đâu? Nhưng rồi cũng bế tắc. Không tìm được lời giải thích thỏa đáng. Chỉ biết rằng “có sinh có tử”. Con người sinh ra ắt có ngày chết.

Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt :”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ: loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.

Cái chết đó là điều tất yếu của đời người. Nó là con đường mà ai cũng phải tới. Đây là điều mà trong bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn cũng từng viết: “…người chết nối linh thiêng vào đời… …biển xanh sông gấm nối liền một vòng tử sinh…”

Thời gian thì trôi nhanh. Con người thì chẳng kìm được thời gian. Khiến cuộc đời trôi qua thật nhanh như cụ Nguyễn Khuyến từng nói:
“Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận,
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
thoát chốc mà già đã tới ngay”

Nhưng trong thời đại hôm nay ta thấy cái chết chẳng đợi tuổi nữa. Lứa tuổi nào cũng có thể ra đi. Hằng ngày ta vẫn thấy hàng vạn cái chết khiến có người bảo rằng: “Thế giới như đang bước vào thời đại của những bữa tiệc về cái chết”.

Mỗi ngày, người ta nhìn thấy sự chết xuất hiện ở phía Đông, hướng Bắc, đâu đó trên hành tinh này và cũng xảy ra ngay chính ở nơi cư trú của mình. Ở Việt Nam trung bình một ngày có 33 người chết vì tai nạn giao thông. Mỗi năm có 200 ngàn người mắc bệnh ung thư. Mỗi năm có hơn 2 triệu thai nhi bị giết chết. Mỗi ngày trên thế giới có 25.000 người chết vì đói đặc biệt là Châu Phi. . .

Chết rồi sẽ đi đâu trong cõi linh thiêng này. Chẳng một triết gia nào tìm được câu trả lời thỏa đáng. Nhưng có một Đấng đã tự mình chết rồi sống lại. Sự phục sinh của Ngài đã trả lời cho mọi vấn nạn về kiếp sống con người. Như Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền”.

Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi.

Như vậy sự phục sinh của Đức Kitô là câu trả lời đầy đủ cho vấn nạn sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giêrusalem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Ngài sẽ lau khô nước mắt của nhân sinh; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.

Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.

Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tùy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa chịu mục nát thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong vinh quang với Chúa muôn đời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau sẽ cũng được sống lại với Người trong vương quốc trường sinh. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

THỨ NĂM TUẦN THÁNH

Yêu Là Trao Ban

“Để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu”(Hàn Mặc Tử)

Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, nhưng có lẽ không mấy ai hiểu cho đúng tình yêu là gì.

Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là thi sĩ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
“Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.”

Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa công giáo, khuyên chúng ta – qua bài “Đà Lạt trăng mờ” – như sau:
“Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
để nghe dưới đáy, nước hồ reo
để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu.”

“Và để xem Trời giải nghĩa yêu!” Đúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là bản chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để “giải nghĩa yêu.”

Chúa Giê-su “giải nghĩa yêu” khi bày tỏ cho ông Nicôđêmô biết: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16).

Chúa Giêsu cũng đã “giải nghĩa yêu” khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13)
Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi…

Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giêsu đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
Nhưng Chúa Giêsu không chỉ giải nghĩa yêu bằng những lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: “Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng.. Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Đức Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.” (Ga 13, 1.4-5).

Thế mới hiểu rằng:
Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là “đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.”
Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: “Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con.”
Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: “Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.”
Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).

Lạy Chúa Giêsu. Thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu.
Chúng con tưởng rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến.
Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy, chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh, là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc; và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là câu tỏ tình của Chúa trong bữa tiệc ly:
“Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con… Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội.”

Và hôm nay, khi mời gọi “các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”, Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy yêu nhau theo cách yêu của Chúa; Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là:
Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn.
Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi, xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân.”

THỨ SÁU TUẦN THÁNH

Yêu Cho Đến Cùng

Hôm nay, trong giờ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hãy dành ít thời gian để ngắm nhìn Chúa Giêsu chịu khổ hình và lắng nghe sứ điệp vang lên từ thánh giá Chúa.

Trước hết, chúng ta hãy nhìn xem Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Chúa tể trời đất, đồng hàng đồng phận với Đức Chúa Cha, là Đấng cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần tạo dựng nên vũ trụ càn khôn, dựng nên muôn loài muôn vật trên trời dưới đất… giờ đây lại bị những con người hèn hạ chỉ đáng là rơm rác trước mặt Chúa, đưa ra tòa xét xử như xử tội một tên côn đồ, đánh đấm Ngài túi bụi, khạc nhổ vào mặt Ngài, hành hạ Ngài như một tên tử tội khốn nạn nhất thế gian, khiến Ngài phải oằn mình đớn đau quằn quại vì hứng chịu những lằn roi hung bạo vun vút quất xuống thân mình và rồi Ngài bị tuyên án chết…

Xin hãy nhìn xem: Không có vương miện nào trên thế gian này dù được nạm bằng kim cương hay ngọc quý xứng đáng cho Chúa Giêsu đội lên đầu vinh hiển của Ngài; Vậy mà giờ đây, Ngài lại phải chịu đội vòng gai, với nhiều mũi gai nhọn sắc cắm ngập vào trán, vào đầu… khiến máu châu báu của Ngài rỉ ra đầm đìa trên khuôn mặt.

Ngài là Chúa tể trời đất uy nghi cao cả, là bá chủ cả vũ trụ càn khôn, là Vua của toàn thể vũ trụ… thế mà giờ đây lại để cho quân hèn hạ, là thứ sâu bọ thấp hèn, bắt Ngài vác thập giá, lảo đảo tiến lên đồi Canvê, và vì không còn hơi sức nên Ngài đã phải ngã xuống nhiều lần, rồi bị lột trần chẳng còn áo che thân…

Hãy nhìn xem, Ngài là Chúa tể trời đất, chỉ phán một lời là trời đất được tạo thành, truyền một câu là sóng biển phải yên lặng… lại để cho con người hèn hạ, là thứ cát bụi thấp hèn… đóng đinh hai tay, rồi hai chân Ngài vào thập tự giá, bằng những nhát búa tàn bạo, khiến máu Ngài phun ra cuồn cuộn, khiến Ngài phải quằn quại, phải oằn người lên vì đau đớn!

Rồi khi bị treo thân lên thập tự giá, Chúa tể trời đất lại để cho quân lính nhạo cười phỉ báng, để cho bao người qua lại nhiếc móc: “Hắn cứu được kẻ khác, mà chẳng cứu nổi mình!” (Mt 27,42)… “Nếu mày là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40).

Cuối cùng, Ngài đã nhắm mắt tắt hơi, sau cơn hấp hối đau đớn kéo dài…
Thế là, Chúa tể trời đất, dựng nên vũ trụ càn khôn bao la hùng vĩ, giờ đây trở thành một thây ma thảm hại, không còn hơi thở, không còn sự sống, như một hạt bụi giữa vô vàn hạt bụi khác, rồi bị chôn vào lòng đất!

Giờ đây, chiêm ngắm tấm thân mang đầy thương tích và bê bết máu của Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, chúng ta nghe được lời tâm huyết của Ngài: “Nầy là Mình Thầy bị nộp vì anh em… Nầy là Máu Thầy đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội” (Mt 26,26).

Nhìn trái tim bị đâm thủng và cái chết thê thảm của Ngài trên thập tự giá, chúng ta nghe vọng lại sứ điệp yêu thương của Ngài: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Và qua đó, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha dành cho chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” chịu chết đền tội cho thế gian (Ga 3,16).

Tại sao Thiên Chúa Ngôi Hai lại hạ mình thấp hèn và chịu đựng những điều oan trái nghiệt ngã đến thế? Thưa, chỉ vì để đền tội thay, chết thay cho muôn người, để cho họ được tha tội và được phúc trường sinh.
Như thế, để cứu độ chúng ta, để cho ta được sống đời đời, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải trả giá rất cao, phải chịu đựng những cực hình và đau thương dường ấy!

Lạy Thiên Chúa từ nhân. Chúa là tình yêu, vì nơi Chúa chỉ có yêu thương và yêu thương. Lòng thương xót Chúa bao la, cả biển trời không chứa hết.
Chúa không tiếc gì với chúng con thì xin cho chúng con đừng tiếc gì với Chúa.
Chúa đã yêu thương chúng con hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự… thì xin cho chúng con cũng biết đền đáp tình yêu của Chúa với tất cả tấm lòng yêu mến của chúng con.

Sống Lại Với Chúa Phục Sinh

Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)

Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.

Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Ngài biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Ngài khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Ngài đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.

Huỷ diệt con người cũ để được tái sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta cần phải cùng chết với Chúa Giêsu để sống lại với Ngài trong đời sống mới như lời Thánh Phaolô dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6,8).
Chết với Chúa Giêsu là hủy diệt con người cũ của ta đang nằm dưới ách thống trị của tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để cho người mới được tái sinh trong Chúa Kitô, không còn hận thù, ích kỷ, tham lam, ghen ghét …
Sống lại với Chúa Giêsu là chúng ta hãy mặc lấy Chúa Giêsu như lời thánh Phaolô kêu gọi: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).

Mặc lấy Chúa Giêsu là mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giêsu, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giêsu, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu.

Thực hành được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Giêsu phục sinh.

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Mộ Trống
CN Phục Sinh – (Ga 20, 1 – 9)

Mộ trống sáng ngời một đức tin

Tâm hồn yêu mến thụ anh minh

Màn đêm ghen ghét gieo hờn oán

Ánh sáng yêu thương tặng nghĩa tình

Sự chết đầu hàng run khiếp sợ

Phục Sinh chiến thắng tỏ uy linh

Hồng ân cứu chuộc ban Thần Khí

Sự Sống khải hoàn ơn tái sinh.

Hạt Nắng

Mầu Nhiệm Mộ Trống
CN Phục Sinh – (Ga 20, 1 – 9)

Lòng hoang mang đứng nhìn một trống,
phút bàng hoàng rung động tim yêu.
Chói lòa ánh sáng huyền siêu,
trấn an nỗi sợ báo điều Thánh Kinh.

Người đang sống Phục Sinh vinh hiển,
tiếng “Xin Vâng” chiến thắng tử thần.
Mộ hoang gởi tạm xác thân,
chấp nhận tự hủy dự phần vinh quang.

Đưa nhân loại sang trang sử mới,
trở về nguồn diệu vợi Tình Cha.
Sống trong hạnh phúc bao la,
nét đẹp nguyên thủy chan hòa yêu thương.

Ơn Thần Khí soi đường dẫn lối,
sống canh tân đổi mới xác hồn.
Loại trừ ích kỷ tự tôn,
khiêm nhường vâng phục tâm hồn vị tha.

Đường Thập Giá vượt qua sự chết,
đưa nhân trần nối kết thần linh.
Rạng ngời Ánh Sáng Phục Sinh,
Mộ trống dấu hiệu chứng minh năng quyền.

Trời mới – Đất mới giao duyên,
con xin nhập cuộc lên thuyền ra khơi.
Cùng sống cùng chết với Người …

Bâng Khuâng Chiều Tím

Ánh Sáng Đức Kitô
(Lễ Đêm Phục Sinh)

Ánh sáng bừng lên xé tan màn đêm,
ánh sáng xua tan giá băng gian trần.
Ánh sáng cứu chuộc soi đường chân lý,
ánh sáng diệu kỳ dẫn lối muôn dân.

Ánh sáng tình yêu quét tan khổ đau,
nối kết yêu thương sáng soi nhiệm mầu.
Dẫn lối nhân loại thấy nguồn Sự Sống,
ánh sáng giao hòa suối nguồn Tình Cha.

Ánh sáng Đức Kitô Tình yêu ơn cứu độ,
Ánh sáng Đức Kitô muôn dân hằng mong chờ.
Phá tan vùng tăm tối giải thoát người tội lỗi,
ban hồng ân cứu rỗi ban sự sống trường sinh.
*
Máu Thánh Chúa hy sinh đồi cao Người hiến mình,
Máu Thánh Đức Kitô trào tuôn nguồn cứu độ.
Ban hồng ân Thần Khí đưa ta vào nguồn sống,
cuộc sống nguồn thần linh ánh sáng Chúa Phục Sinh.

ALPHA – OMEGA – NGÀI LÀ TẤT CẢ
ALPHA – OMEGA – NGÀI LÀ TÌNH YÊU.

Ánh sáng tình yêu sáng soi đời con,
giữa những lo toan bước chân mỏi mòn.
Yêu – Mến – Trông Cậy theo đường chân lý,
ánh sáng Tin Mừng soi đường con đi.

M. Madalena Hoa Ngâu

Tình Ca Mộ Trống
CN Phục Sinh – B- (Ga 20, 1 – 9)

Nôn nao con kiếm tìm – Mộ Trống – Chúa nơi đâu?
Xôn xao con đứng nhìn – Mộ Trống – Chúa đâu rồi?
Lòng con nôn nao – Tình con xôn xao!
Mộ Trống – Chúa ơi!
Khăn liệm còn đây – Dây băng còn đây!
Chúa ở nơi nao? – Chúa ở nơi đâu?

Hân hoan trong tĩnh lặng – Mộ Trống – Dấu tin yêu.
Bâng khuâng con nhớ lại – Đền thánh – Sau ba ngày.
Lòng con bâng khuâng – Tình con hân hoan!
Mộ Trống – Chúa ơi!
Tín hiệu tình yêu – uy linh huyền siêu,
cho con niềm tin – Chúa đã Phục Sinh.

Mộ Trống – Ánh sáng bừng lên,
xua tan màn đêm – phá tan ngục tù.
Tình yêu – Chúa đã hiến dâng,
cứu chuộc trần gian – ban nguồn sống mới.
Mồ Trống – Sức sống hồi sinh,
trả cho trần gian – nét đẹp tinh tuyền.
Vườn xưa – Bức họa Tình Yêu,
từ thưở ban đầu – trong trắng, đơn sơ.

Tin yêu con đón nhận – Mộ Trống – sống hy sinh.
Yêu thương chịu chôn vùi – Hạt Giống – quên thân mình.
Lòng con tin yêu – tình con yêu thương!
Thần Khí – Cha ban!
Sống lại từ đây – ca vang nồng say,
tôn vinh Tình Yêu – tâm hồn đổi thay.

Nắng Sài Gòn

Ánh Sáng Bừng Lên
(Lễ Đêm Phục Sinh)

Tan vỡ mộng đời con Chúa ơi!
mộng ước tan theo khói mây trời.
Emmaus cất bước về quê cũ,
huyệt lạnh chôn vùi, mặc đời trôi.

Tội lỗi chặn đường con vươn lên,
đam mê dục vọng sống ươn hèn.
Tham lam ích kỷ mờ tâm trí,
ghen ghét hận thù mây bay đen.

Thất bại lụi tàn con khổ đau,
lặng lẽ tuôn rơi giọt lệ sầu.
Đâu nguồn sinh lực cho con sống?
nức nở nghẹn ngào trong đêm thâu.

Ánh sáng bừng lên xua bóng đêm,
sự sống tỏa lan thật êm đềm.
Tuyệt vọng đã chuyển màu hy vọng,
nhẹ lướt cung đàn gió ru êm.

Ánh sáng tuôn tràn đêm Phục Sinh ,
quét sạch bợn nhơ dọn lòng mình.
Dòng suối thần thiêng ơn biến đổi,
đời sống huy hoàng, ơn tái sinh.

AP. Mặc Trầm Cung

Mộ Trống & Tôi
CN Phục Sinh – (Ga 20, 1 – 9)
Vội vã chạy vội vã,
nôn nao dạ nôn nao,
hơi thở gấp thì thào,
con đứng nhìn mộ trống,
tâm hồn nghe lao xao.

Cúi nhìn vào mộ trống,
niềm hy vọng xôn xao,
một niềm tin dâng cao,
con bước vào mộ trống.
Càng nhìn tim càng nóng,
tận đáy lòng thôi thúc,
niềm bình an hạnh phúc,
Chúa Phục Sinh vinh quang.

Còn đó vải liệm quàng,
khăn che mặt xếp riêng,
như có bàn tay thiêng,
xếp gọn gàng thẳng tắp.

Sạch sẽ và ngăn nắp,
dấu chỉ Chúa yêu ta,
sự chết Ngài vượt qua,
trao ban nguồn sự sống.

Ban niềm tin hy vọng,
ban ánh mắt tin yêu,
tình mến thiết tha nhiều,
biến con thành người mới.

Tâm hồn con phơi phới,
sức sống Chúa Phục Sinh,
kết hiệp trong ân tình,
xin qui hướng về Chúa.

Tình Ngài luôn chan chứa,
luôn theo sát bên con,
dù sóng gió dập dồn,
luôn bình an vững chí.

Ngài thương ban Thần Khí,
hăng hái con lên đường,
đi loan báo muôn phương,
tình thương nơi mộ trống.
AP. Mặc Trầm Cung