Các bài suy niệm LỄ LÁ – Năm B
Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
MỤC LỤC
1. Thiên Chúa ẩn dấu 4
2. Phêrô 6
3. Vua Bình An – Mc 11,1-10. 8
4. Những chiếc lá phất phơ – ViKiNi 10
5. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 13
6. Nhiệt thành của thập giá. 16
7. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB 20
8. Vương quốc Tình yêu – Thiên Phúc 23
9. Đức Vua Tình Yêu – AM Trần Bình An 26
10. Lễ lá. 31
11. Đấng khiêm nhường chính là Ngài 33
12. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ. 36
13. Giờ chiến thắng vinh quang 39
14. Phần chìm của Thánh Lễ 42
15. Bệnh “hùa theo đám đông” 45
16. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng 48
17. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 53
18. Chúa Nhật Lễ Lá Năm B 64
19. Yêu thương đến cùng 68
20. Lòng người 71
21. Con đường nào Đức Kitô đã đi qua? 75
22. Thập giá, tình yêu cứu độ 78
23. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê 81
24. Ông này là ai vậy? 85
25. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10). 88
26. Sự Thương Khó và Thập Giá của Đức Giêsu 91
27. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung 94
28. Thế thái nhân tính là thế 97
29. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 100
30. Hoan hô! Vạn tuế! 103
31. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết 107
32. Cuối đời – Lm. Vũ Đình Tường 111
33. Niềm vui rực sáng – Lm. Vũ Đình Tường 113
34. Chúa Giêsu lên Giêrusalem 115
35. Tại làm sao Chúa chết? 119
36. Những im lặng sau tiếng hoan hô 123
37. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 128
38. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 133
39. Những ngã rẽ nguy hiểm 138
40. Ta là ai trong vụ án mang tên Giêsu 143
41. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 147
42. Vâng lời cách sáng suốt và tự nhiên. 150
43. Con đường vinh quang và thập giá – Lm Đan Vinh. 153
44. Baraba và Đức Giêsu. 156
45. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền 160
46. Suy niệm của Noel Quesson. 163
47. Những bất ngờ – Ga 12, 12-16. 165
48. Lễ lá. 167
49. Cuộc Thương Khó. 169
50. Cuộc Thương Khó 171
51. Hoan hô- Đả đảo. 174
52. Mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu 177
53. Suy Niệm của JKN. 178
54. Ơn cứu chuộc. 183
55. Thánh giá. 187
56. Trung thành với lời tung hô. 189
57. Cuộc khổ nạn. 191
58. Chết vì yêu 194
59. Chiêm ngắm cây Thập Giá 199
60. Chúa Nhật Lễ Lá 203
61. Tội lỗi của ta. 206
62. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang và đau khổ 208
63. Thái độ. 210
64. Vụ án. 212
65. Vào thành. 216
66. Chúa Nhật Lễ Lá B 220
67. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier 222
68. Qua đau khổ Thánh Giá tới vinh quang Phục Sinh 226
69. Tuần lễ mang lại ơn Cứu độ – Lm Trần Bình Trọng 232
70. Đừng phản bội Chúa bằng tội lỗi. 234
71. Thông phần đau khổ với Chúa trên Thập Giá 236
72. Tình yêu hiến tế 245
73. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa. 248
74. Tin tưởng hay thất vọng – Lm. Minh Nhiên. 251
75. Minh họa lời Chúa – Chúa Nhật Lễ Lá năm B 253
76. Con Đường Tình Yêu – Lm. Kiều Công Tùng. 261
77. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm 265
78. Một chứng nhân trực tiếp – Camille Gagnon. 272
79. Chú giải của Noel Quesson. 273
80. Chú giải của Fiches Dominicales 280
1. Thiên Chúa ẩn dấu
Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem giữa lúc dư luận đang xôn xao bàn tán về Ngài: Ngài có phải là Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ đến hay không? Dân chúng phần đông, vì những tình cảm nhất thời, chứ không phải vì lòng say mê, muốn tìm hiểu sự thật. Còn bọn Biệt phái thì tức giận, bởi vì họ không muốn để Ngài xóa bỏ mất niềm hy vọng vào một Đấng Thiên Sai. Và lần này, Chúa Giêsu chính thức lên tiếng tranh luận.
Lời của Ngài như một lưỡi dao sắc bén. Ta đã nói với các ngươi rằng Ta là Con Thiên Chúa, trước khi có Abraham, thì đã có Ta. Phải chăng đây là một lời nói phạm thượng, không thể nào tha thứ. Vì vậy họ đã lượm đá để ném Ngài, nhưng Ngài đã ẩn mình đi.
Bịt tai, hò hét, xách động và đập phá, phải chăng đó là cách thức con người thường hành động khi không muốn nghe. Đây không còn là một vấn đề thuần túy về hiểu biết, nhưng là vấn đề chọn lựa và yêu thương.
Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi. Đây cũng là điều thường xảy ra trong dòng thời gian, phản ảnh cho sự cứng lòng của con người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Chúng tôi không muốn ông ấy cai rị chúng tôi trong lãnh vực chính trị cũng như quân sự, trong lãnh vực kinh tế cũng như tài chánh, trên phim ảnh sách báo, cũng như trên truyền thanh và truyền hình.
Có người lại thầm nghĩ nếu như bây giờ Chúa Giêsu trở lại, hẵn Ngài sẽ dẹp tan những biến động của thời đại. Thiết tưởng lời ước mơ này chỉ lả một cái gì ấu trĩ, và thiếu nến tảng. Bởi vì Chúa Giêsu chỉ trở lại vào ngày tận cùng của trời và đất. Tuy nhiên, mặc dù bây giờ Ngài có trở lại chăng nữa, thì người ta vẫn cứ ném đá Ngài như thường. Lập trường của con người vẫn không có gì thay đổi: Chúng tôi không muốn ông ấy cai trị chúng tôi!
Chúa Giêsu đã ẩn mình đi không phải vì sợ hãi, nhưng vì giờ Ngài chưa đến. Thực ra, Ngài không cần phải ẩn mình đi, vì quyền năng của Ngài có thể lập tức vô hiệu hóa những viên đá của những kẻ phẫn nộ.
Chiến thuật của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với chiến thuật của chúng ta. Ngài không cưỡng bức, không ép buộc một ai. Ngài không xuồng khỏi thập giá để mọi người phải tin vào Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người. Và Ngài chỉ chấp nhận sự cho đi, sự dâng hiến một cách tự nguyện. Chiến thật ấy, ngày hôm nay Ngài vẫn còn áp dụng. Ngài mãi mãi vẫn là một vị Thiên Chúa ẩn dấu. Những sự dữ xảy ra và dường như Ngài đã chẳng can thiệp. Không phải là như vậy. Ngài muốn tôn trọng sự tự do của con người và mong ước con người phục vụ Ngài trong tin yêu.
Lạy Thiên Chúa ẩn dấu, Nếu Ngài còn thinh lặng, nếu Ngài còn là Đấng vô hình, xin hãy củng cố niềm tin nhỏ bé và yếu đuối của con, đừng để vì thế mà con tuyệt vọng và mất đi lòng cậy trông.
2. Phêrô
Bài tường thuật sự thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô, vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng ông nhất quyết trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa, nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông đã rút ra một kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường, thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận ngay mình có tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
3. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
Đâu là mục đích của việc Chúa vào thành Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để ứng nghiệm lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần chúng ta đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước thì chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói: Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để chúng ta thấy Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một việc nguy hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ ba là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị, đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho thấy điều quan trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị tan rã không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị suy đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày nay không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
4. Những chiếc lá phất phơ – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Tôi đang nhìn thấy những chiếc lá phất phơ trên tay những cụ già đầu tóc bạc phơ đến tay những bé thơ còn măng sữa, trên tay những mái đầu xanh cường tráng đến tay những mái tóc rủ liễu yếu đào tơ.
Những chiếc lá này bao nhiêu năm đã phất phơ, vật vờ, xơ xác, tung lên, nhào xuống, quay cuồng theo chiều gió bão táp, thật tội nghiệp !
Hôm nay, dân Do thái đã reo hò vang dậy: Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua David tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời với một rừng lá giương cao phất phơ, vùng vẫy như trên đỉnh gió hú.
Cơn lốc ầm ầm đó không do khí trời mà do khí người bị dồn ép bao nhiêu năm, nay được dịp bùng lên: Dịp Đức Giêsu vào thành Giêrusalem khác thường, Ngài ngồi trên lừa con, như Salomon ngồi trên lừa của cha là David để vào thành Sion làm vua (1V. 1, 33). Dân chúng tưởng triều đại David đã vùng dậy, vinh quang của Israel đã đến rồi, không còn nô lệ, không còn khổ dịch ô nhục nữa, không còn chết nữa. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho dòng dõi David lên ngai vương quyền kiên vững đến muôn đời (2Sm. 12). “Thiên Chúa ban quyền xét xử cho vua, và cho hoàng tử đức công minh … Ngài thống trị từ biển này qua biển khác, từ sông cả đến mút cùng cõi đất ! … Vua chúa Tarsis, Saba sẽ đem triều cống lại chầu, vua chúa hết thảy sẽ bái lậy Ngài, tất cả muôn dân sẽ làm tôi Ngài” (Tv. 72, 1. 8. 10-11).
Nhưng than ôi, giấc mộng vàng muôn thuở chóng tan như mây khói. Họ chẳng thấy Ngài ra tay thực hiện chi cả, chỉ thấy Ngài xua đuổi con buôn đang đem lại giàu sang phú quý cho đền thánh. Ngài lại bị các thượng tế, kinh sư, thủ lãnh tra hỏi. Ngài bảo của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, dân còn gì sống đây ! Đế quốc đã bóc lột hết, lấy đâu mà trả Thiên Chúa. Ngài lại loan báo những điều quái gở: Đền thờ sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào. Mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng, tinh tú sẽ rơi xuống kinh hoàng (Mc. 11, 13). Tận thế rồi ! Họ còn mong ở Ngài gì nữa ! Họ tuyệt vọng, xa tránh Ngài, Ngài xúc phạm đến đền thờ, xúc phạm đến trời đất. Ghê gớm hơn nữa Ngài là thứ gì, đã dám cho mình là có trước Abraham và xưng mình là Thiên Chúa. Tội tầy trời ! Không thể tha thứ. Toàn quyền Philatô chỉ treo hình hoàng đế Xêda trong khuôn viên đền thờ, dân đã nổi loạn chiến đấu với quân Rôma, dù phải đóng đinh họ vẫn bất chấp, huống chi thanh niên con bác thợ mộc dám xưng mình là Thiên Chúa tại đền thờ trong tuần đại lễ của toàn dân. Ghê gớm kinh khủng ! cho nên đành tha tướng cướp Baraba giết người còn hơn tha Giêsu. Thế là họ la hét: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Ôi lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết !
Họ như những chiếc lá phất phơ, vật vờ ray rứt, tung lên, nhào xuống giữa phong ba bão táp, những cơn cuồng phong dục vọng đam mê mù quáng đang bùng dậy trong lòng họ, trong lòng dân, trong lòng trần thế, xô đẩy vùi dập nhân thế xuống sâu trong lòng ham hố, giành giựt, mơ ước vinh quang bụi trần.
Ôi lạy Chúa, xin thương xót con. Đời là bể khổ, giòng đời cuồn cuộn trôi dạt, không biết trôi về đâu. Bao nhiêu thuyết … duy tâm, duy vật, duy dân, duy tân … tương đối, biến dịch, biến hóa chẳng bao giờ thấy chỗ thủy chung. Chẳng thấy cùng đích, chẳng bao giờ thấy nền tảng vững vàng, rõ ràng, luôn luôn là giả thuyết mơ hồ, mò mẫm, tối tăm, tịch diệt cuộc đời, thật khủng khiếp sống trong cảnh bể khổ trần ai như thế. Chẳng lạ gì, họ đã giải quyết, đã xử lý Ngài bằng đóng đinh thập giá, treo Ngài trên đỉnh gió hú: “Trong bóng tối bao phủ, mặt trời tối đi” (Lc. 23, 44-45) “Đất rung đá vỡ, mồ mả lật tung” (Mt. 27, 52).
Ôi lạy Ngài, ai bảo Ngài không ở lại thiên đường, nơi ánh sáng vinh quang, nơi chân lý ngàn đời, nơi hằng hữu trường tồn, nơi bất biến, bất diệt, nơi thỏa mãn mọi giấc mơ. Ai xui Ngài xuống cõi u minh trần tục, cõi tịch diệt đắng cay, mang thân phận nô lệ phàm nhân. Ai xui Ngài tự hạ sống giữa sói rừng, chúng cấu xé Ngài, bắt Ngài phải tùng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl. 2, 6-11).
Lạy Ngài, xin thương xót chúng con, xin muôn vàn thương xót ! Chúng con chỉ còn trông cậy vào lòng thương xót vô lượng vô biên của Ngài. Chính vì lòng thương xót vô lượng vô biên mà Ngài đến thế gian, dầu bất cứ giá nào, dầu phải thí mạng sống Ngài cũng đến cứu sống chúng con. Cho chúng con được hằng sống, được tồn tại bền vững trong ánh sáng phục sinh vinh phúc của Ngài. Chúng con xin trọn đời cảm tạ Ngài. Amen.
5. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế? Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các bạn trẻ:
“Các bạn trẻ sẽ là chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này” (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu. Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ, bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh thế nào mới có kết quả?
6. Nhiệt thành của thập giá.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua, được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa mà tôi đây phải thiệt thân” (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ “nhiệt thành” ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị được gọi là “Nhiệt Thành-zelos” thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô: “Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê” (Ga 19,12). Tất cả để dẫn đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có tên gọi “Nhiệt Thành” được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: “Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái” (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: “Ông Mattathias bừng lửa nhiệt thành… ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần, rồi ông phá đổ bàn thờ”. Sau đó sách Macabê kết luận: “Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của Xalu” (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ “nhiệt thành-zelos” trở thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin, bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu, không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: “Không. Làm cách mạng bằng bạo lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa. Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng cách thức hoàn toàn khác”.
Trong ngày Lễ Lá, hình ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri Zacaria: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn ý nghĩa của “sự nhiệt thành”, không phải thứ nhiệt thành của bạo lực nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá, nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội Thánh của Chúa. “Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô, cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi nhân” (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
“Chúa Giêsu đã thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời sống Kitô hữu”. Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn của Chúa chúng ta.
7. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
THIÊN CHÚA MANG DIỆN MẠO CỦA MỘT THỦ LÃNH HIỀN HÒA
Sự kiện Đức Giêsu long trọng tiến vào Giê-ru-sa-lem được các Phúc Âm nhất lãm, kể cả Phúc Âm Gio-an, đồng loạt thuật lại; và sự kiện này luôn được phụng vụ gắn liền với cuộc tử nạn mà Người sẽ phải chịu tại đó. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà kinh thánh học, thì các chi tiết của cuộc đón rước Chúa vào thành thánh, như được mô tả, lại phù hợp với lễ Lều cử hành vào tháng 09 dương lịch, hơn là những ngày trước lễ Vượt Qua (xem bình giải Mt 21 trong Lời Chúa cho mọi người). Điều này cho thấy, đối với các tác giả sách Tin Mừng, diện mạo Đức Giêsu trong sự kiện này có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc thương khó và cái chết mà Người sẽ phải chịu sau này.
“Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. Tôi không rõ, trong văn hóa Do Thái, hình ảnh một thủ lãnh cưỡi trên lưng lừa con nói lên điều gì đặc biệt. Căn cứ vào trích đoạn từ ngôn sứ Da-ca-ri-a (Dcr 9,9-10), thì rõ ràng hai thuộc tính hiền hậu và khiêm tốn được đề cao, đối kháng với hình ảnh cao ngạo, chinh phục và thống trị của các danh tướng trên lưng chiến mã. Mỗi khi đọc các bài tường thuật thương khó, tôi vẫn thấy khó chịu khi Phi-la-tô diễu cợt cái diện mạo nực cười của phạm nhân ‘vua’ đứng trước mặt ông: “Vậy ông là vua sao?.. Đây là vua các người… Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các ngươi sao?.. tấm bảng đó ghi: ‘Giêsu Na-da-rét, vua dân Do Thái” (Ga 18,37; 19,14.15.19). Đối với một quan chức Rô-ma đầy quyền lực như ông thì suy nghĩ như vậy cũng phải thôi: đã là vua thì phải khác, không thể chấp nhận cái diện mạo kỳ cục này: thủ lãnh cưỡi lừa! Trước những người Do Thái hay cao ngạo về diện mạo đấng Ki-tô vẻ vang mà họ mong đợi, quan tổng trấn không ngừng hạ nhục: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các người đây: Ba-ra-ba hay Giêsu, cũng gọi là Ki-tô?” (Mt 27,17.22) Thế nhưng xem ra cái hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ này lại thích hợp với câu tung hô ‘Hô-san-na!’ theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’ hơn (xem bình giải: idem): đương nhiên ‘cứu chúng tôi’ có thể bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, hay ‘cứu chúng tôi’ bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa”.
Quyền lực của thập giá chính là quyền lực của lòng từ bi thương xót! Nếu ai ai cũng đều, tự nguyên hay bị ép buộc, cúi rạp trước quyền lực thống trị và tung hô “Hô-san-na” (vạn vạn tuế), thì chỉ Ki-tô hữu mới biết nhảy mừng hô vang “Hô-san-na” (hãy cứu chúng tôi) trước thập giá cứu độ. Đối với họ, Đấng cưỡi trên ‘lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” chắc chắn còn vẻ vang hơn các anh hùng cái thế chễm chệ cưỡi trên lưng chiến mã bách chiến bách thắng, là vì chỉ mình Ngài mới là niềm vui mừng và hy vọng cho thân phận yếu hèn triền miên của họ. Căn bản là vì Thiên Chúa họ tôn thờ, bây giờ và mãi mãi, vẫn luôn là vị Thiên Chúa của từ nhân và xót thương, một Thiên Chúa cứu độ gánh lấy tội lỗi của gian trần.
Người Do Thái thời đó, kể cả các môn đệ thâm tín nhất của Đức Giêsu, khi đối diện với cuộc khổ nạn Người chịu, đã không thể đứng vững (chứ chưa nói là tiếp tục hò reo mừng rỡ) vì sự hiền hậu quá mực khiêm hạ của khổ nạn và thập giá Người chịu. Tín hữu mọi thời cũng sẽ như thế thôi nếu chỉ tung hô “hô-san-na – vạn vạn tuế!” mà không biết đến “hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!” phát đi từ đáy lòng, trong ý thức con người tội lỗi và yếu hèn tột cùng của mình. Tự bản thân, Phê-rô đã phải học biết “Hô-san-na” qua nhận thức đó; chính ông, bất chấp bao nhiệt tình và thiện chí, cũng vẫn chỉ là một người mỏng giòn dễ sa ngã. Ngược lại Giu-đa thì không, anh không thể chấp nhận tội lỗi của mình nên đã ‘ném số bạc vào đền thờ và ra đi thắt cổ’ (Mt 27,5).
Từ suy tư trên, tôi nghiệm ra một điều thật quan trọng; trong suốt mùa chay, Hội Thánh kêu gọi Ki-tô hữu chúng ta nhìn vào thân phận tro bụi của mình (cả về thể chất lẫn tinh thần) là hoàn toàn có lý. Tình trạng sa ngã và phạm tội, mà ta đã phát hiện ra cách rất cụ thể nơi mình trong suốt thời gian này, không được làm ta ngắt tiếng hò reo “Hô-san-na – hãy cứu chúng tôi!”, nhưng phải giúp ta phát hiện ra nội dung Tin Mừng hơn của lời tung hô ấy trong vui sướng nhảy mừng. Chỉ lúc đó, phải, chỉ khi ấy đối với mỗi chúng ta Đức Giêsu quả thực là “Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa”, một Thiên Chúa đầy thương xót và cứu độ. Chính hôm nay ta phải nghe được lời giới thiệu: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” thật tràn trề hy vọng và an ủi biết bao!
Lạy Thiên Chúa từ nhân, xin cho cặp mắt con không ngừng chiêm ngưỡng diện mạo ‘Con Người hiền hậu ngồi trên lưng lừa’. Xin cho cuộc sống Ki-tô hữu – tu sĩ – linh mục của con, nhất là trong những ngày tháng còn lại, sẽ chỉ là một nhảy mừng hy vọng với lời hô vang ‘Hô-san-na – cứu chúng con!’ kéo dài. Xin cho các lỗi lầm con đã phạm trong suốt quá khứ cuộc đời càng thúc giục con đi đón Người cách phấn khởi và hân hoan hơn. Amen.
8. Vương quốc Tình yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.
****
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
****
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen.
9. Đức Vua Tình Yêu – AM Trần Bình An
Buổi sáng một ngày nọ, Chúa Giêsu lên đường về Giê rusalem, có rất đông thiên thần tháp tùng ca ngợi tình thương của Chúa đối với nhân loại. Các thánh ký đã thuật lại cuộc đón tiếp tưng bừng, mà hết mọi người đều say sưa hoan hô Chúa: “Vạn tuế Đức Hoàng Đế, nhân danh Chúa đến với chúng ta! Hoan hô Thái Tử của Đavít.” Tuy bề ngoài chẳng có gì tỏ ra xứng với một cuộc tung hô khải hoàn như thế. Chúa đến, cưỡi trên một con lừa nhỏ. Chẳng có gì lộng lẫy. Nhưng chính Thánh ý Thiên Chúa đã muốn rằng, trong ngày hôm đó, tất cả các tâm hồn đều phải dâng cho Chúa Con một niềm tin kính huy hoàng.
Tại Bêtania, nơi Mẹ lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe tiếng Thiên Chúa nói tỏ cho mọi người tham dự đều nghe hiểu được: “Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha sẽ còn tôn vinh Con nữa.”
Thiên Chúa cũng muốn cuộc khải hoàn này có một tầm mức rộng rãi khác thường. Chúa sai Đức Tổng Thần Micae đem tin đó xuống u ngục. Tại đây, các thánh được xem thấy những gì diễn biến tại Giêrusalem, và các ngài hát lên nhiều ca vịnh, mừng Chúa Cứu Chuộc chiến thắng tội lỗi, sự chết và hỏa ngục. Ngoài ra, tất cả những người đã biết Chúa Giêsu bất cứ cách nào, không những ở Palestina, mà cả ở Ai Cập hay các nơi khác, đều được Thiên Chúa ban cho một ánh sáng, làm họ hân hoan và tăng thêm niềm tin và nhân đức của họ. Chúa cũng không để cho ngày vui đó phải nhuốm màu tăm tối cái chết: không một ai chết trong ngày đó. Chúa cũng không cho phép ma quỷ, thu được một lợi lộc nào trong suốt thời gian khải hoàn ấy: Chúng bị xô xuống vực sâu hỏa ngục hết thảy. (Văn Hải, Maria Agrêđa, Từ Tabôrê đến rước lá, Thần Đô Huyền Nhiệm)
Giây phút đăng quang tưng bừng, rộn ràng niềm vui quá ngắn ngùi, Bài Tin Mừng thứ nhất diễn tả một thoáng huy hoàng Đức Vua Tình Yêu lên ngôi, chỉ sôi nổi diễn ra vài giờ rồi chấm hết. Rồi bài Thương Khó tiếp theo sau, Đức Vua Tình Yêu lẻ loi, cô đơn, chịu khổ hình, đau đớn và chết nhục nhã trên cây thập tự, diễn tả sứ vụ đã hoàn thành, cũng là thời điểm Đức Vua Tình Yêu chiến thắng sự dữ, hận thù, tội lỗi và cái chết.
Đức Vua bị bỏ rơi
Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai, Đức Vua hoàn toàn cô đơn, lẻ loi trước cuộc khổ nạn khốc liệt. Hàng vạn người đã tưng bừng chào đón Đức Vua cưỡi lừa vào Thành Thánh, hàng ngàn người đã được ăn bánh no nê, hàng trăm người được chữa lành bệnh, tật nguyền, hàng chục người chết sống lại, nay đang ở đâu, khi Đức Vua khủng hoảng trước sự dữ?
Dân chúng bạc bẽo bày đàn chạy theo thói thực dụng đã đành, còn ba môn đệ thân tín thì lại thản nhiên chiều theo bản năng, vô tư ngù vùi, mặc cho Thầy Giêsu kịch liệt chống trả cám dỗ, đến nỗi máu và mồ hôi toát ra giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. Phải chăng vì xác thịt quá nặng nề, vì tình nghĩa dành cho Thầy còn quá hời hợt, nông cạn, xốc nổi, nên trò mới dửng dưng bỏ rơi Thầy lúc ngặt nghèo? Mặc lời mời gọi khẩn khoản của Đức Giêsu với ba mộn đệ như rơi vào hư vô, không một tiếng hồi âm. “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” Lần hai, rồi lần ba cũng hoài công, vô vọng.
Đức Giêsu càng thấm thía nỗi cô đơn sầu não hơn nữa, khi quân dữ xông đến bắt Người, các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy chạy trốn, hoặc sau đó, ba lần Phêrô công khai chối Thầy. Còn gì đau đớn hơn khi bị người thân cận yêu thương nhất phản bội? “Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Lc 22, 61) Cái nhìn độ lượng, nhân từ, xót xa, lẫn khiển trách, đã thức tỉnh Phêrô quay về.
Thân bằng quyến thuộc đều bỏ rơi Người trong cơn nguy khó. Chính vì Vâng phục, Đức Giêsu phải chịu đựng nỗi cô đơn, sự bỏ rơi lạnh lùng đến vô cảm của thế gian. Người chỉ còn duy nhất trông cậy, cầu nguyện, tha thiết khấn xin Thiên Chúa Cha: “Abba Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.”
Nỗi cô đơn dày vò lên đến đỉnh điểm, khi Đức Giêsu hấp hối trên thập giá đã thảng thốt: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Thánh Phaolô vô cùng ca ngợi và vinh danh nhân đức Vâng Lời của Đức Giêsu. Nhờ vậy, mà nhân loại mới được trở nên công chính và được cứu rỗi khỏi sự chết: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thanh người công chính.” (Rm 5, 19)
“Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là chết cho ý riêng.” (Đườnmg Hy Vọng, số 402)
Đức Vua chịu nhục hình
Không chỉ chịu đòn roi, khổ hình hành hạ thể xác, Đức Vua Tình Yêu còn chịu đựng những lời phỉ báng, khinh miệt, những lời vu oan cáo vạ tày trời! Nhưng đau đớn hơn cả là hành vi ác ý bẻ cong, cắt xén, chụp mũ, xuyên tạc Lời Hằng Sống: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” (Mc 14, 58) “Hãy nói tiên tri đi!”
Chịu nhiều cực hình tra tấn nhục nhã ê chề vẫn chưa hết, Đức Vua còn bị liệt vào hạng người còn hèn mạt, tồi tệ, đáng khinh hơn cả phạm nhân Barbara cướp của giết người. Đáng đóng đinh vào thập giá. Nhưng gương mặt mới hôm nào hân hoan rạng rỡ chào đón Đức Giêsu vào Thành Giêrusalem, nay bừng bừng sát khí, đồng thanh phản bội lập đi lập lại: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
Gánh hết tội lỗi thế gian, Đức Giêsu cam chịu khổ hình, đền thay cho tội nhân mọi thời, mọi nơi. Thánh Phaolô khẳng định một sự thật kinh thiên động địa:“Chẳng vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành. Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình.” (Dt 9, 26)
“Thương tích của Chúa Kitô dạy ta cái gì? Những thương tích đó dạy rằng: Đời là một cuộc chiến, ngày cánh chung, chúng ta cũng được sống lại như Ngài đã sống lại. Nếu đời ta không có thập giá, tất cũng không có mồ táng trống không. Nếu không có ngày Thứ Sáu thụ nạn, tất không có Chúa Nhật Phục Sinh. Không có vành gai, tất không có hào quang ánh sáng. Nếu ta không cùng khổ với Ngài, tất ta không được cùng Ngài sống lại.” (ĐHY Fulton Sheen, Trên Đỉnh Cao Thập Giá)
“Trong giờ tử nạn, Chúa đem theo những Tông đồ Ngài yêu thương riêng: Phêrô, Gioan, Giacôbê. Con sợ Chúa thương không?” (Đường Hy Vọng, số 699)
Đức Vua chịu đóng đinh
Cơn cuồng nộ của dân chúng vẫn còn chưa chịu chấm dứt, khi Đức Giêsu đã bị đóng đinh vào thập giá. Kẻ qua người lại tiếp tục ra rả chửi rủa, khinh miệt, nhục mạ phỉ nhổ, xỏ xiên, khích bác, dè bửu, mạt sát Đức Vua.
Sự dữ tưởng như chiến thắng. Ma quỷ hả hê, hí hửng, tưởng chừng tiêu diệt được đạo lý, sự thật và sự sống. Nhưng không phải vậy, Tình Yêu đã khải hoàn, Đức Vua Tình Yêu đã hoàn toàn chiến thắng thế gian, ma quỷ và xác thịt, khi Người toàn tâm toàn ý vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha. Sẵn lòng làm hạt lúa chết đi, để trổ sinh hoa trái cứu độ cả nhân loại.
Hướng về Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh, Thánh Phaolô khuyên nhủ hãy cởi bỏ gánh nặng trần thế, lo toan sự đời, ham hố vinh hoa, phú quý và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho tín hữu: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Dt 12, 2)
“Đau khổ không những giúp con can đảm, nhẫn nại, nhưng còn có giá trị cứu chuộc rất lớn lao, nếu con hiệp với sự thương khó Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, số 706)
Lạy Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh, xin cảm hóa chúng con, biết ăn ăn, sám hối, canh tân, trở nên khiêm hạ, vâng phục Thánh Ý Chúa, dẫu có chịu cô đơn, hành hạ, nhục hình và thậm chí chịu tử nạn vì sáng danh Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria Sầu Bi, khấn xin Mẹ dẫn dắt chúng con đồng hành với Mẹ trong cuộc thương khó tới tận đỉnh đồi Canvê. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con biết bỏ mọi lưu luyến thế gian, từ bỏ cả bản thân, mà vác Thánh Giá theo Chúa cho trọn. Amen.
10. Lễ lá.
Tại một ngôi nhà thờ nọ ở Tây Ban Nha có một cây thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng chịu nạn tha tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
– Tôi ban bí tích Giải tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ, nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải. Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
– Tôi ban bí tích Giải tội cho ông lần này là lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:
– Con thực lòng ăn năn, xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
– Đừng đùa giỡn với Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và Ngài nói với vị linh mục:
– Chính Ta đổ máu ra để cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để cứu chuộc con. Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong tuần thánh này. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất bại, là hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa đã biến đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ. Khi tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã viết:
– Đức Kitô đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con đường của đau khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy không đưa chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
– Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
11. Đấng khiêm nhường chính là Ngài
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại Đại học St. Thomas, Thánh Phaolo, Minnesota)
“Ngài đã khiêm nhường tự hạ – vâng phục cho đến chết, và chết trên Thập giá” (Pl 2,8)
Tin Mừng Mát-thêu giới thiệu Chúa Nhật lễ Lá với bài Tin Mừng chứa nhiều trình thuật mang đậm những lời tiên báo của các Ngôn sứ thời Cựu Ước. Những trình thuật đó mô tả Đức Giêsu như là người được Thiên Chúa hứa ban, Đấng sẽ đến để thiết lập Vương Quốc Nước Trời. Mát-thêu trình bày lời Ngôn sứ trong Dacaria 9,9 để mô tả việc Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem: “Nào Thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ. Hỡi Thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng, Khiêm Tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ”. Mát-thêu đã không nói về dáng vẻ oai phong của một vị tướng quân theo phong cách Do Thái hay Hy Lạp, nhưng ngài chỉ nêu lên 2 phẩm tính căn bản nơi Đức Giêsu, và đó cũng là tâm điểm của lời Ngôn sứ “Vị Vua khiêm tốn và vị vua tiến vào Thành Thánh trên lưng của một con lừa.
Đây là lời tiên tri xem ra có vẻ khập khiễng, bởi vì khiêm tốn không phải là bản chất của các vua chúa. Các ông vua thường tiến vào thành bằng những chiến xa có ngựa kéo với long bào lộng lẫy và đầy uy lực. Sự khiêm tốn của Đức Giêsu không phải để trình diễn, nhưng đây là chính ý định của Ngài khi tiến vào Giêrusalem, và hiểu rộng hơn, khi Ngài đến trần gian mang lấy kiếp người. Một con ngựa chiến biểu thị cho chiến tranh, ngược lại một con lừa gợi đến viễn ảnh hòa bình. Dẫu sao, Dacaria cũng tiên báo về một vị vua “oai hùng và chiến thắng”.
“Oai hùng và chiến thắng” dường như là những lời xưng tụng trên môi miệng đám đông khi Chúa vào Giêrusalem. Người ta hoan hô Ngài, gào lớn tiếng “Hosanna con Vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa ngự đến, hoan hô trên các tầng trời”. Chúa Giêsu biết rằng lời tung hô từ đám đông không đem lại chiến thắng và vinh quang. Ngài biết mình là ai, và Ngài phải thực hiện sứ mạng cứu thế như thế nào. Vì thế, Ngài nhận ra rằng: việc cưỡi lừa vào Giêrusalem, thực hiện lời Ngôn Sứ Dacaria đòi phải có một phong thái khiêm tốn, không màng quyền lực, không gây tàn phá, hận thù hay chiến tranh để cho hoạch định cứu chuộc của Chúa Cha được thực hiện qua đau khổ của chính Ngài. Cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, với đám đông tung hô bên đường, phải thấm đượm cay đắng, đan xen ngọt ngào. Ngài biết những gì đang xảy ra, và Ngài biết con đường trước mắt sẽ như thế nào?
Câu hỏi được đặt ra là có khi nào Đức Giêsu thực hiện trọn vẹn lời Ngôn Sứ nói về sự khiêm hạ và tự nguyện nơi Ngài khi Ngài không còn một chọn lựa nào khác để xây dựng Vương Quốc Nước Trời? Có khi nào việc Ngài biết trước những biến cố sẽ xảy ra, làm giảm đi giá trị của việc tự hiến nơi Ngài? Như Thánh Phaolo đã nói trong thư gửi Giáo đoàn Philipphê, Đức Giêsu “đã tự hạ” bằng cách mang lấy thân phận loài người, bằng việc Ngài đã “biến mình ra không” và chọn cuộc sống làm người rất thấp hèn. Hơn nữa, trong tư cách là một phàm nhân, Ngài đã “trở nên vâng phục cho đến chết – và chết trên Thập giá”. Khi tiến vào Giêrusalem và đón nhận cái chết, Đức Giêsu đã thể hiện sự khiêm tốn, sự vâng phục một cách tự nguyện.
Lẽ dĩ nhiên, chúng ta có thể lý giải rằng cuộc thương khó của Đức Giêsu là do sự trở mặt của đám đông. Dân chúng thay đổi thái độ hoàn toàn, từ việc tung hô chào đón một con người mà họ kỳ vọng sẽ là một ông vua, biến trở thành thái độ chống đối, đòi kết án và loại trừ Ngài. Tuy nhiên, chính Đức Giêsu biết những điều đã, đang và sẽ xảy ra. Ngài cũng nắm bắt được những gì xảy đến cho dân chúng và cả những người lính hành quyết Roma, để cả họ cũng được cứu độ. Đó là lý do Ngài đã trở nên tự hạ, và tự hạ để thương xót cả những con người đã mỉa mai và kình chống Ngài.
Một điều cũng quan trọng, không phải mọi người đã quay lại phản bội Chúa Giêsu, cho dù nhiều người không thể hiểu được nguyên do tại sao Ngài tự nguyện hiến mình cho đến chết. Nhiều người vẫn theo Chúa đến tận chân Thập giá, cho dù những người khác lại bội phản và chối từ Ngài. Sự khiêm hạ và vâng phục nơi Đức Giêsu là quà tặng được trao ban cho chúng ta, cho mọi người và cho cả những ai không chấp nhận, lúc đó hay ngay bây giờ.
Dấu ấn đậm nét nhất khi nhìn vào bản tính Thiên Chúa, chính là Vương Quốc Ngài được xây dựng trên thân xác mong manh của Người Con. Vương quốc đó được trao hiến cho kiếp người, và vinh quang từ Vương Quốc đó đã bị cất giấu đi nơi chính Người Con này. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng sự khiêm hạ, không bằng sức mạnh, để dạy chúng ta biết rằng tình yêu vị kỷ là chính bản tính của Thiên Chúa. Một Đức Giêsu uy quyền và chiến thắng không phải là một Đức Kitô dương oai thị võ, nhưng là một Đấng rất khiêm hạ. Khiêm hạ không phải là con đường Đức Giêsu muốn một mình dấn bước đến Giệtsêmani, nhưng là con đường Ngài đã chọn để vác Thập giá trong vâng phục đến nơi mà chúng ta cần Ngài đi đến.
12. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Luca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao giờ’. Hình ảnh Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân” (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức Giêsu tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18,36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’ và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’ này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
13. Giờ chiến thắng vinh quang
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn là giờ Người được tôn vinh: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh” (Ga 13, 31).
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Canvê!
Vậy vinh quang của Chúa Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo… Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân… Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường.
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người không bị khuất phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Người đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.
* * *
Qua cách thức Chúa Giêsu đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Người…
Người thắng được bản năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác… Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn vinh quang như Chúa.
14. Phần chìm của Thánh Lễ
(Suy niệm Chúa nhật Lễ Lá của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có dịp đi thuyền ra giữa biển khơi, thỉnh thoảng người ta có thể bắt gặp những chú cá voi hiền hòa dễ thương bơi lội trong làn nước biếc mênh mông. Tiếc một điều là người ta chỉ có thể nhìn thấy những tia nước biển do chúng phun lên, hoặc thấy một phần rất nhỏ của tấm lưng chúng trồi lên mặt nước, còn phần lớn thân thể chúng chìm trong làn nước biển xanh không ai thấy được. Họa hoằn mới có một vài chú cá voi cao hứng búng mình lên cao, vượt lên khỏi mặt nước, phô bày cho người ta thấy cả tấm thân đồ sộ và rực rỡ của chúng dưới ánh nắng mặt trời. Thấy vậy mọi người rất khoan khoái.
Tôi xin mượn hình ảnh những chú cá voi nầy để minh họa về Thánh Lễ.
Thánh Lễ chính là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu kéo dài trong lịch sử cho đến ngày tận thế (giáo lý công giáo số 1323, 1366,1367). Tuy nhiên, khi đến tham dự Thánh Lễ, giáo dân không thể nhìn thấy toàn bộ Thánh lễ mà chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà thôi, còn phần chìm của Thánh Lễ, là phần đặc biệt quan trọng, thì không ai nhìn thấy.
Phần nổi của Thánh Lễ là phần ta có thể nghe và nhìn thấy khi linh mục cử hành Thánh Lễ trên bàn thờ: giang tay cầu nguyện, đọc các bài sách thánh, dâng bánh rượu, truyền phép, cho rước lễ… vân vân….
Vì lần nào tham dự Thánh Lễ cũng chỉ thấy có bấy nhiêu chuyện nên ta cảm thấy Thánh Lễ sao mà nhạt nhẽo, nhàm chán quá! Sở dĩ như thế một phần là vì ta chỉ thấy phần nổi của Thánh Lễ mà chưa thấy phần chìm hết sức thiêng liêng, cao cả, cảm động và đầy ấn tượng của Thánh Lễ.
Nên nhớ rằng: phần chìm và phần nổi của chú cá voi là hai phần không thể tách lìa của cùng một thân thể, thì phần nổi và phần chìm của Thánh Lễ là hai phần không thể tách lìa của một hiến tế duy nhất của Đức Ki-tô.
Làm sao thấy được, hiểu được phần chìm của Thánh Lễ?
Qua bài thương khó hôm nay, thánh sử Mác-cô phác họa cho chúng ta thấy tường tận diễn tiến của Thánh Lễ, tức là của hy tế thập giá của Chúa Giêsu. Đây chính là phần chìm của Thánh Lễ mà không mấy người để ý đến.
Tôi xin dựa vào tường thuật của thánh Mác-cô để tóm lược những giai đoạn chính của Thánh Lễ như sau:
Khởi đầu, Chúa Giêsu và các môn đệ ăn bữa tối trước ngày chịu nạn. Đây cũng chính là lúc Chúa Giêsu thiết lập Thánh Lễ trong phòng tiệc ly. (Mác-cô 14,22-25)
Sau đó, Chúa Giêsu vào cầu nguyện thống thiết trong vườn Dầu, chấp nhận uống chén đắng theo ý Chúa Cha. Tiếp đó, quân lính đến bắt Chúa Giêsu (Mc 14, 46), áp giải Người ra trước Thượng Hội Đồng để chịu vu cáo, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đánh đấm túi bụi (Mác cô 14, 65) rồi bị đưa ra trước tòa Phi-la-tô (15,2). Bị dân Do-thái kết án dữ dội, Phi-la-tô cho đánh đòn rồi trao Chúa Giêsu cho họ đem đi đóng đinh. (15, 15) Thế rồi, dù sức tàn lực kiệt, Chúa Giêsu phải vác thập giá lên đồi Gôn-gô-ta, chịu đóng đinh vào thập giá, chịu chế giễu nhạo cười và cuối cùng tắt thở trên thập giá.
Thánh Lễ là thế đó! Phần chìm của Thánh Lễ là thế đó! Nếu chúng ta hiểu rằng chính lúc phần nổi của Thánh Lễ được cử hành trên bàn thờ bởi các linh mục của Hội Thánh thì cũng là lúc phần chìm của Thánh Lễ là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đang diễn tiến song hành để đem lại ơn tha tội cho nhân loại, thì chúng ta sẽ quý trọng Thánh Lễ biết bao, sẽ siêng năng và sốt sắng tham dự Thánh Lễ biết chừng nào!
Nào, mời cộng đoàn chứng kiến cách thiêng liêng Thánh Lễ của Chúa Giêsu qua bài thương khó được công bố trong ngày Lễ Lá hôm nay. Đó là bài Thương Khó trích từ Tin Mừng Mác-cô, chương 14 và 15).
15. Bệnh “hùa theo đám đông”
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Khi làm sai một điều gì đó, người ta thường biện minh rằng: “Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người ta làm bậy, tôi làm theo”.
Câu nói này không hẳn là lời nói cho vui mà dường như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách đơn giản, mỗi khi dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như rằng sẽ có rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn chỉ dẫn mà chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: “Ủa! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu sao?”.
Đây là căn bệnh “hùa theo đám đông”. Đám đông làm mình cũng làm. Sự làm theo đám đông đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ đám đông mà dảm bớt tội, hay giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh “hùa theo đám đông này”, ta có thể thấy nhan nhản qua các tội: nam nữ sống “góp gạo thổi cơm chung” nơi khá đông tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà; chuyện phá thai nơi những bà mẹ mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận để có đồng lời trong thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng “không gian làm sao có lời”; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được ghế lâu dài…; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho tội trở thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo đám đông mà không còn ý thức về căn tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và tẩy chảy cũng chỉ một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã từng tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi qua. Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với người mà họ đã từng tung hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi triệt hạ Chúa Giêsu. Những lời tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân nghĩa của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác để đòi đóng đinh người vô tội trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ tai nhau bỏ vạ, cáo gian, nói hành, nói xấu…
Dòng đòi hôm nay vẫn còn đó những người bị tước mất tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà không biết thanh minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những bất công khi đám đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm hại người công chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người công chính dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ nghĩa đồng cảm chứ không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi vẫn lan tràn, khi mà đám đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại. Nhưng lại hùa theo nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem đã toa rập với nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối hận sau cái chết của Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ cõi chết sống lại. Nhưng đã muộn. Giu-đa đã tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội trưởng chỉ thở não nề mà nói “Người này thật là Con Thiên Chúa”. Đám đông xôn xao lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã bị kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống yêu thương. Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có lỗi với lương tâm. Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận để đừng hùa theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình yêu đòi buộc chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự thật và can đảm bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn, sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng ta luôn tỉnh thức trước sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống. Xin đừng vì nhát đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ chân lý và sự thật. Amen.
16. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
Vào Tuần Thánh với Lễ Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn, đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết thật.
Đó là cái giá phải trả để chuộc lại tội bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao chúng ta có thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng: chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha mà thôi”.
Những chủ chiên ấy, không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ Đức Tin cho những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay, đành cắn răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót “ăn cơm trước kẻng”: có thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục, những chủ chiên đang “lựa chiều bẻ lái” cho con chiên của mình một cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu, không thấy những vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn, không thấy Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp nơi nơi đấy chứ? Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây thương tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như chớp, làm sao mà lấy “thúng úp voi được”? Ấy vậy, những chuyện “quả tang”, “công khai” tra tấn những người theo Chúa Kitô trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai giống ai…
Đang viết bài này, tôi nhận được cú điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô đã thưa: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người”. Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy. Amen.
17. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Người Tôi Tớ của Thiên Chúa đi vào con đường chịu nạn
I. Dẫn vào Thánh lễ
(Như lời dẫn nhập in trong sách lễ Rôma)
Anh chị em thân mến. Từ đầu mùa chay chúng ta đã dùng việc hãm mình đền tội và công việc bác ái chuẩn bị tâm hồn chúng ta, thì hôm nay chúng ta tụ họp để cùng với toàn thể Hội Thánh khai mạc mầu nhiệm vượt qua của Chúa chúng ta, nghĩa là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người. Để thực hiện điều đó, chính Người đã tiến vào thành Giêrusalem. Bởi vậy, với tất cả lòng tôn kính sùng mộ tưởng nhó đến việc Người vào thành mang lại ơn cứu độ, chúng ta hãy bước theo Chúa, để nhờ ơn thánh, chúng ta được tham dự vào thập giá, chúng ta cũng được dự phần vào sự phục sinh và sự sống.
II. Lời Chúa
1. Bài Tin Mừng lúc kiệu lá: Mc 11,1-10
Việc Đức Giêsu vào thành Giêrusalem tuy có phần long trọng (dân chúng đón rước, tung hô…) nhưng không phải là một cuộc biểu dương chính trị, trái lại nhằm cho biết Đức Giêsu là người như thế nào:
Đức Giêsu rất coi trọng việc này, cho nên đích thân Ngài thu xếp từng chi tiết cho cuộc vào thành (thu xếp trước với chủ lừa, dặn dò kỹ hai môn đệ về đường đi nước bước và lời ăn tiếng nói).
Nhưng mọi sự chuẩn bị đều được tiến hành trong âm thầm kín đáo (những lời đối đáp giữa môn đệ với chủ lừa giống như trao đổi mật hiệu với nhau).
Đức Giêsu chọn cởi lừa chứ không cởi ngựa.
Lời chúc tụng của dân chúng có tính cách tôn giáo hơn là chính trị (“Hoan hô Đấng nhân danh Chúa mà đến”, “Hoan hô trên các tầng trời”)
Như thế, Đức Giêsu muốn cho người ta biết Ngài là vua nhưng là một vị vua cứu nhân độ thế, hiền hòa, khiêm tốn.
2. Bài đọc Cựu Ước: Is 50,4-7
Đây là bài ca thư ba về Người Tôi Tớ trong sách Isaia.
Người Tôi Tớ nâng đỡ kẻ nhọc nhằn.
Người Tôi Tớ luôn thức tỉnh đón nghe và thi hành ý Chúa.
Người Tôi Tớ nhẫn nhục chịu đựng những đau khổ hành hạ.
3. Đáp ca: Tv 21
Tâm tình của người công chính bị bách hại:
Than thở với Chúa về những sự hành hạ mình phải chịu
Đồng thời bày tỏ lòng trông cậy vững vàng vào Chúa và vẫn chúc tụng Ngài.
4. Bài Thánh Thư: Pl 2,6-11
Thánh Phaolô vẽ 2 con đường của Đức Giêsu:
Con đường hạ mình: dù là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu đã tự ý hạ mình đến mức tột cùng (làm thân tôi đòi, chết, chết trên thập giá)
Con đường được tôn vinh: Ngài càng hạ mình thì Thiên Chúa càng nâng Ngài lên cao đến tột cùng (danh Ngài trổi vượt mọi danh hiệu, mọi loài trên trời, dưới đất và trong địa ngục đều phải tôn thờ Ngài).
5. Bài Thương khó: Mc 14,1-15, 47
Diễn tiến cuộc chịu nạn của Đức Giêsu đều giống nhau trong 4 quyển Tin Mừng. Nhưng Mác cô nhấn mạnh một số ý lớn:
a/ Đức Giêsu “bị trao nộp”: Động từ này được dùng 9 lần trong bài tường thuật. Tác nhân trao nộp Đức Giêsu là: Giuđa (nộp Đức Giêsu cho các thượng tế), các Thượng tế (nộp Đức Giêsu cho Philatô), Philatô (nộp Ngài cho quân lính). Nhưng đàng sau và chủ động nhất là chính Thiên Chúa đã trao nộp Con mình cho loài người. Phần Đức Giêsu, Ngài cũng tự trao nộp mình.
Lý do trao nộp cũng khác nhau: vì tiền (Giuđa), vì lòng ganh ghét (các Thượng tế), vì mị dân (Philatô), và vì yêu thương (Chúa Cha, Đức Giêsu).
b/ Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa”: Tin Mừng Mc diễn tiến theo sơ đồ từ từ hé lộ về con người Đức Giêsu: Ngài là người – là Kitô (Messia) – Con Thiên Chúa (Câu đầu tiên của tác phẩm vạch rõ sơ đồ này. Mc 1,1: “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa”. Mặc khải cao nhất về Đức Giêsu là tư cách Con Thiên Chúa của Ngài. Mặc khải này được thốt ra khi Ngài tắt thở: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15,39).
III. Gợi ý giảng
* 1. Chúa chọn con lừa
Nhiều độc giả Tin Mừng rất ngạc nhiên trước những lời căn dặn của Đức Giêsu với hai môn đệ mà Ngài sai vào thành trước: “Các anh vào làng trước mặt kia. Tới noi sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cởi bao giờ đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo tại sao các anh làm như vậy thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay” (các câu 2-3). Mọi việc đã diễn ra đúng lời Chúa dặn. Tưởng như một phép lạ. Thực ra không phải là phép lạ gì cả, mà là chính Đức Giêsu đã kín đáo thu xếp trước với người thân của Ngài trong làng: đến ngày đó, tại địa điểm đó, họ hãy để sẵn hai con lừa, sẽ có hai môn đệ của Ngài đến dắt đi, mật khẩu để nhận ra nhau là một câu hỏi và một câu trả lời đã quy ước sẵn.
Tại sao Đức Giêsu phải đích thân thu xếp các chi tiết cho chuyến vào thành Giêrusalem lần này? Thưa có hai lý do:
1/ Sự việc diễn ra “mấy ngày trước lễ Vượt Qua” (c 1). Lễ này kỷ niệm việc dân Do Thái được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, cho nên mỗi lần mừng lễ này, ý tưởng giải phóng luôn hiện lên trong đầu dân chúng, nhất là khi đất nước đang nằm dưới ách thống trị của ngoại bang. Chính vì thế, viên Tổng trấn Rôma bình thường vẫn an tâm ở tổng hành dinh của ông tại Syria, nhưng gần đến lễ Vượt Qua thì phải đến Giêrusalem để có thể trực tiếp chỉ đạo nếu có xảy ra nổi loạn. Trong bầu khí nhạy cảm đó, Đức Giêsu phải kín đáo thu xếp để đừng ai biết trước chuyến vào thành của Ngài.
2/ Mọi chi tiết mà Đức Giêsu đích thân thu xếp đều liên hệ đến con lừa. Tại sao? Vì Ngài không muốn người ta hiểu lầm Ngài là một nhà giải phóng quân sự hay chính trị. Ngài muốn người ta hiểu rằng Ngài là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Vua chinh chiến thì cỡi ngựa, còn vua hòa bình thì cỡi lừa.
Tuy nhiên xem ra không ai hiểu đúng ý Chúa: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó”, dân chúng thì cũng “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy” (các câu 7-9). Sự hồ hỡi của họ có lẽ xuất phát từ ý tưởng giải phóng: Hôm nay ngày giải phóng đã đến rồi, vị Anh hùng đã xuất hiện! Tóm lại mọi người đều nghĩ rằng hôm nay Đức Giêsu bắt đầu cuộc khởi nghĩa.
***
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay bắt đầu Tuần Thánh. Chúng ta có thể dùng đoạn Tin Mừng này để soi sáng ý nghĩa những sự việc sẽ xảy ra trong Tuần Thánh:
Tại sao các Thượng Tế Do Thái tìm bắt Đức Giêsu? Thưa vì họ tưởng rằng Ngài là một chính khách nguy hiểm. Tin Mừng thứ tư ghi nhận rằng ngay cả trước biến cố này, các vị lãnh đạo ấy đã tính đến khả năng sức thu hút quần chúng của Đức Giêsu sẽ dẫn đến sự đàn áp của quân Rôma: “Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rôma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta” (Ga 11,48).
Tại sao Giuđa nộp Đức Giêsu cho các Thượng Tế? Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động.
Tại sao dân chúng hùa theo các Thượng Tế đòi giết Đức Giêsu? Đó là phản ứng thất vọng của những người đã từng hy vọng quá nhiều: Họ hy vọng Đức Giêsu giải phóng đất nước nhưng khi Ngài không làm vậy thì họ thất vọng và trừng trị Ngài.
***
Hôm nay chúng ta cũng tay cầm lá, miệng tung hô Đức Giêsu. Nhưng chúng ta coi Ngài là ai và mong gì nơi Ngài?
Nếu chúng ta coi Đức Giêsu là một vị vua uy quyền, chúng ta sẽ như các lãnh tụ Do Thái tìm cách trừ khử Ngài khi cảm thấy uy quyền ấy đe dọa đến quyền tự do của chúng ta.
Nếu chúng ta coi Ngài là một vị vua giúp chúng ta chiến thắng thù địch, chúng ta sẽ như quần chúng hôm ấy chán bỏ Ngài khi Ngài không giúp chúng ta đạt được mục đích ấy.
Nếu chúng ta coi Ngài là một thứ ô dù cho chúng ta núp bóng, chúng ta sẽ như các môn đệ bỏ Ngài mà chạy trốn khi ước vọng của chúng ta không thành.
Đức Giêsu là một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm tốn. Đi theo Ngài có lẽ chúng ta sẽ không được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng tâm hồn chúng ta sẽ luôn được bình an.
* 2. Con đường dẫn đến vinh quang
Trong bài Thánh Thư, Thánh Phaolô ngầm so sánh Ađam và Đức Giêsu.
Ađam đã muốn “dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa”. Nhưng kết quả chỉ là thấy mình trần truồng xấu hổ và bị đuổi khỏi hạnh phúc địa đàng.
Còn Đức Giêsu thì vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống đến mức tột cùng. Kết quả là được nâng lên tới mức tột cùng.
Tự nhiên, chúng ta theo con đường của Ađam: tìm cách khẳng định mình, tưởng rằng làm thế thì giá trị của mình sẽ được nâng cao. Nhưng chúng ta quên rằng chúng ta là do Thiên Chúa tạo dựng, vì thế chúng ta có giá trị hay không, được nâng cao hay không là do Thiên Chúa chứ không do chúng ta. Con đường tốt nhất là vâng lời Thiên Chúa, đi theo sự chỉ dẫn của Ngài, rồi Ngài sẽ nâng chúng ta lên đúng theo ý Ngài muốn.
* 3. Trao nộp Đức Giêsu
Bài Tin Mừng theo thánh Mác cô cho thấy mọi người đều trao nộp Đức Giêsu, nhưng vì những động cơ khác nhau (xin xem lại phần giải thích phía trên).
Suy nghĩ thêm, ta còn thấy có những cách trao khác nhau:
Trao cái này để đổi lấy cái kia (như Giuđa, Philatô): cách trao vụ lợi
Trao cho người khác cái mình muốn bỏ (các Thượng tế): cách trao ác độc.
Trao cho người khác cái mình rất quý (Chúa Cha): cách trao yêu thương.
Trao chính mình (Đức Giêsu): yêu thương tột cùng.
Chúng ta hãy suy gẫm về những cách trao của mình và về cách mình trao Đức Giêsu cho người khác.
* 4. Cách chịu đau khổ là thước đo nhân phẩm
Một điều hiển nhiên là cuộc đời ngập tràn đau khổ. Giáo lý đạo Phật dạy “Đời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng có lẽ cái khổ sẽ không bao giờ tránh hết và diệt hết được.
Đức Giêsu không tránh khổ, không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.
Nino Salveneschi có suy nghĩ này: “Thật lạ khi người ta có thể tính toán chính xác về sức nặng có thể chất lên một chiếc xe, một chiếc tàu hay một chiếc máy bay… nhưng không tính nổi sức nặng có thể chất lên vai con người. Xét cho cùng, càng có thể vác nặng bao nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu” (Savoir souffrir)
* 5. Phêrô chối Thầy
Việc ông Phêrô chối Thầy gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ:
– Ông là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hơn nữa, Phêrô sa ngã vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh.
– Lý do khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn.
Phêrô đã dám theo Đức Giêsu suốt 3 năm khi Ngài đi rao giảng, khi Ngài làm phép lạ… Trong thời gian đó không phải là Phêrô không cực khổ, nhưng ông có thể chịu được. Nhưng hôm nay ông chối vì chuyện hôm nay không chỉ là vấn đề cực khổ, mà là vấn đề an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ từ bỏ và hy sinh đến một giới hạn nào đó thôi.
Có lẽ cũng có những giới hạn mà chúng ta đặt ra – tuy một cách vô ý thức – cho việc chúng ta theo Chúa, việc chúng ta từ bỏ, việc chúng ta hy sinh.
* 6. Vương quốc Tình yêu
Ngày 15-4-1996, linh mục George Parker, giám quản xứ thánh Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Connecticut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đôla của nghị sĩ Christopher J.Dodd giúp cho trường học của giáo xứ. Cha Parker làm thế để phản đối nghị sĩ Dodd mang danh Công giáo, nhưng lại liên tục bỏ phiếu ủng hộ các dự luật phá thai. Cha Parker gọi số tiền của Dodd là “số tiền vấy máu hài nhi vô tội”. Người không ngần ngại gọi Dodd là “môn đệ của thần chết”.
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng đã gởi về giúp trường học 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống, và nhiều cơ quan truyền thông bày tỏ sự ngưỡng mộ ngài.
Trớ trêu thay không một linh mục nào trong giáo phận Norwich bênh vực hành động kiên cường ấy. Không ai dám công khai phê phán việc làm của nghị sĩ Dodd. Đau đớn hơn nữa, chính đức cha Daniel A. Hart vì áp lực của nghị sĩ Dodd đã cho ngài ngưng việc coi xứ. Đến nước này ngài chỉ biết xin về hưu. Đức Cha Hart viết thư cho ngài như sau: “Tôi rất tiếc là cha đã xin về hưu với tâm trạng bị xử bất công. Tôi cầu nguyện cho sự đau khổ này sẽ kết hợp cha với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, nhờ Người mà cha tìm được niềm vui”.
***
Câu chuyện trên đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ tâm trạng của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Thánh Gioan viết: “Sắp đến lễ Vượt Qua, rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm Đức Giêsu và hỏi han nhau: “Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ đâu!” Còn bọn tư tế và Biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga.11,55-57). Vậy Đức Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng của một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không một chút sợ hãi. Người cỡi trên lưng lừa con để thực hiện lời tiên tri Dacaria: “Này Vua ngươi đến, đầy vẻ dịu dàng, cỡi lừa, lừa con của lừa mẹ” (Dcr.9,9). Đức Giêsu muốn chứng tỏ Người là Đấng Mêsia, Vị cứu tinh, Vua hiền từ: Một Vị vua chiến thắng bằng cái chết trên thập giá, khác với chiến thắng bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên lưng ngựa.
Dân chúng trải áo, lấy lá lót đường, hoan hô chúc tụng Người như một vị vua chiến thắng, Đấng cứu tinh của dân tộc, đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestina, xô nhào chúng ra biển, tái lập vương quyền vua Đavít. Trái lại, Đức Giêsu đã cưỡi con vật hiền lành, tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại quan niệm của họ, nên không lạ gì họ đã hùa theo nhóm Biệt phái, kết án tử hình cho Người chỉ vài ngày sau đó.
Cha Parker đã không chấp nhận thỏa hiệp với thế gian, với tội lỗi. Người đã giữ đúng vai trò tiên tri, chấp nhận lội ngược dòng, cho dù phải chịu khổ đau và bị bỏ rơi để nên giống Thầy Giêsu.
Đức Giêsu không xua quân đi giao chiến với các dân tộc. Nhưng đã qui tụ mọi người chiến đấu với nghèo đói, bất công và thù hận.
Đức Giêsu không đến để kết án và hủy diệt kẻ khác. Nhưng đã thứ tha và băng bó những vết thương tâm hồn.
Đức Giêsu không ngồi trên ngai vàng để dân chúng hầu hạ. Nhưng đã quì xuống rửa chân cho các thần dân.
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc trần gian tạm bợ, Người đến để xây dựng một vương quốc vĩnh hằng, vương quốc tình yêu ngay trong lòng mọi người.
***
Lạy Chúa, người đời đón rước Chúa vào thành Giêrusalem, để rồi lại kết án Chúa ngay trong thành thánh. Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp với thế gian, nhưng cho chúng con can đảm theo Chúa đến chiều thứ Sáu Tuần Thánh, để được sống lại với Chúa trong đêm Phục Sinh khải hoàn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
IV. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay bước vào Tuần Thánh, Hội thánh mời gọi các Kitô hữu bước theo Đức Giêsu trên đường thập giá, để được phục sinh với Người trong cuộc sống mới. Chúng ta hãy tha thiết nguyện xin:
Đức Giêsu đã khải hoàn vào thành Giêrusalem không phải để biểu dương uy quyền / mà là để bày tỏ lòng yêu thương và nhân lành / Xin cho các vị chủ chăn trong Hội thánh / biết noi gương Người để phục vụ mọi người trong khiêm tốn và hiền lành.
Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để thống trị / nhưng để phục vụ mọi người / Xin cho các vị có chức quyền trong xã hội / biết lo cho công ích và quan tâm giúp đỡ mọi người.
Đức Giêsu đã phục vụ mọi người cho đến chết và chết trên thập giá / Xin cho tất cả những ai đang phải đau khổ trong tâm hồn hay thể xác / vì đã phục vụ mọi người / được luôn can đảm và vững tin nơi tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại để đem hạnh phúc thật cho mọi người / Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta đừng bao giờ trở nên gánh nặng và thập giá cho anh chị em mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Đức Giêsu Con Chúa phải đi qua đường thập giá mới vào được vinh quang. Xin cho mỗi người chúng con luôn noi theo đường lối của Người, để làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
V. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu đã hiến mình làm lễ vật tình yêu nên đã thiết lập Nước Thiên Chúa. Xin cho Nước Thiên Chúa mau trị đến nhờ những hy sinh của chúng ta.
VI. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu tuần lễ trọng đại nhất của năm phụng vụ. Chúng ta hãy sống tuần này một cách hết sức sốt sắng trong tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, với Đức Mẹ và với toàn thể Hội Thánh. Hãy cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
18. Chúa Nhật Lễ Lá Năm B
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi qua các chặng đường của mùa chay. Hôm nay, chúng ta hãy theo Chúa vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài.
Chúa nhật lễ lá, kỷ niệm việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng kéo nhau nghênh đón Chúa Giêsu cách long trọng. Hôm nay, họ làm cử chỉ rất đẹp đối với Chúa nhưng thứ sáu tới đây chính họ là người đòi giết Chúa, hô hào đòi đóng đinh Chúa. Hôm nay họ tung hô nhưng thứ sáu họ lại chế nhạo, kết án Chúa. Vào thành Giêrusalem lần này, dân chúng trải áo choàng trên đường, trải những nhánh lá cây trên đường để Chúa đi qua. Tay cầm cành lá, miệng họ tung hô Chúa: “Hoan hô con vua Đavit, chúc tụng Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu thinh lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị Vua nhưng khiêm hạ ngồi trên lưng lừa con. Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, không như họ nghĩ là vua phần xác, chỉ đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ Rôma. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình yêu thương và hòa bình.
Đi vào bầu khí cầu nguyện trong cử hành phụng vụ ngày lễ hôm nay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu khi nghe các bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Ngài. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật Lễ Lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án, bị vác thập giá và cuối cùng bị treo chết trên núi Sọ như một tên trọng tội.
Suy gẫm về cảnh tượng này, chúng ta có thể tự vấn lòng mình, nếu chúng ta là người đương thời thì chúng ta không tham gia hay không liên quan gì đến vụ án cái chết của Chúa Giêsu không? Chắc gì chúng ta như ông Simon Kyrênê vác đỡ thập giá Chúa Giêsu?! Chắc gì chúng ta không đứng về phía dân chúng hô hào tham gia đòi giết Chúa Giêsu, không là Phêrô hay nhóm các môn đệ trốn chạy hay là Philatô kết án người vô tội hoặc là toán quân lính đánh đòn Chúa Giêsu. Kinh nghiệm con người cũng cho thấy, chúng ta dễ dàng đứng về phe mạnh thế, không dám lên tiếng bênh vực cho kẻ yếu thế, can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng nhưng lại dễ dàng phản bội Chúa khi gặp nghịch cảnh.
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu là một hành động tội ác của những người Do Thái và Rôma thời bấy giờ. Những người Do Thái này đã từng kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các quân lính Rôma đã đánh đập, tra tấn và giết Chúa Giêsu trên cây thập giá. Nhưng dưới cái nhìn của những người có đức tin thì quả thật cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Không mầu nhiệm sao được vì một cách nào đó người có niềm tin cũng tự thấy mình có tham gia vào việc đóng đinh Chúa Giêsu. Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng rằng “Chúa Giêsu đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu độ chúng ta”. Thế nên cho dù sống trong thời đại này thì tội lỗi, tật xấu của chúng ta cũng là nguyên nhân tham gia vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Thế nên, bước vào tuần thương khó là dịp chúng ta suy niệm về thập giá của Chúa Giêsu. Nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó, nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của chúng ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của chúng ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của con người và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Việc suy niệm này còn giúp chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống của mình. Khi chúng ta đón nhận những đau khổ trong cuộc sống như là thập giá của Chúa Giêsu trao cho thì đó là cách chúng ta đang đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi qua và đã làm nên chiến thắng. Con đường thập giá là đau khổ nhưng khi cùng với Chúa ta bước đi thì đau khổ sẽ thành thánh giá và nó sẽ dẫn chúng ta vào vinh quang với Người. Chắc chắn Chúa Giêsu sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Chúng ta hãy kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức”(Cl 1, 24). Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con người. Xin giúp chúng con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
19. Yêu thương đến cùng
“Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra vì muôn người” (Mc 14, 24).
Một trong những cảnh làm tôi khó quên trong phim phem Titanic là cảnh Rose và Jack cùng đeo một tấm ván lênh đênh trên mặt biển, nhưng vì tấm ván quá nhỏ không thể “cõng” nỗi sức nặng của hai người. Nên Jack chấp nhận hy sinh để cho người yêu được sống. Anh buông tay khỏi tấm ván và chìm nhanh vào trong biển lạnh trong sự đau đớn của Rose. Jack đã làm một nghĩa cử rất anh hùng mà đến chết Rose cũng thể quên được.
Đó là một chuyện tình rất đẹp, vượt trên mọi ngăn cản của thế lực, của bạc tiền.
Phải chăng đây chính là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại – một tình yêu cao cả đến hy sinh mạng sống vì người mình yêu?
Ngày nay người ta thích nói về tình yêu, nhưng ít ai dám hành động cho tình yêu. Nếu đó là một nhận xét đúng thì thật sự chúng ta đã đến gần sự chết hơn là sự sống. Nhưng may thay đó là chuyện của con người. Thiên Chúa không bao giờ làm như vậy. Ngài đã nói về tình yêu và Ngài cũng dám hành động cho điều mình nói. Mà hành động của Ngài chẳng tầm thường nếu không nói là vượt xa những gì con người có thể hiểu được. Ngài đã chọn cái chết đau thương để cho nhân loại được sống. Chỉ có Ngài dám làm như vậy và dầu chỉ một lần thì đủ có giá trị ngàn đời.
Chúng ta đừng nghỉ rằng Đức Giêsu dùng quyền năng Thiên Chúa của mình đề trong cuộc khổ nạn Người không phải đau đớn. Giả Đức Giêsu làm như thế thì Ngài chỉ là tên lừa bịp và việc Ngài làm chẳng có giá trị. Mà nếu nại đến quyền năng Thiên Chúa thì hà tất phải sử dụng cuộc khổ nạn này để bị mang tiếng là dối gian. Còn nhiều cách khác vẹn toàn kỳ mỹ hơn, và cũng chẳng cần phải đổ máu dù là máu giả. Nơi Thiên Chúa không bao giờ có sự gian dối, nơi Ngài luôn luôn là có. Điều duy nhất của Ngài trong tất cả mọi hành động là để chứng tỏ lòng yêu thương của Ngài dành cho nhân loại. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu không phải là một thước phim với những kỷ xảo nhưng là một sự thật. sự thật của một Thiên Chúa yêu thương đến cùng.
Hình ảnh của tiên tri Isaia chính là tiên trưng của Đức Giêsu chịu đau khổ – một sự thật đã được báo trước từ rất lâu trong Cựư Ước. “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ, trơ mặt như đá và không phải thẹn thùng” (Is 50,6-7). Đó là những hình khổ mà Đức Giêsu đã không được bọn lính bỏ xót một một chi tiết nào. Thế nhưng chính trên thập giá Ngài lại van nài Chúa Cha tha tội cho những kẽ đã giết mình. Vậy, “hãy xem đó thì rõ biết Chúa yêu thương ta là dường nào. Hãy xem đó thì rõ biết tội ta gớm ghiết là dường nào” (Chặng Đàng Thánh Giá). Trong suốt cuộc hành trình khổ nạn ta không hề thấy bất cứ một thái độ thù hằn, hay chống đối, hoặc chỉ là một lời bào chữa, với những người làm khổ mình. Một mực chấp nhận như chính Ngài là một tội nhân. “Nước tôi không thuộc thế gian này, bởi nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì những người của tôi đã đến chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái. Nhưng thực ra nước tôi không thuộc chốn này” (x. Ga 18,36 ). Như vậy, ngài đã khẳng định mục đích của việc Ngài làm không nhằm cuộc sống vinh hoa thế tục nhưng nhằm chuộc về cho Thiên Chúa những linh hồn. Ngài yêu thương ngay cả kẻ giết mình. Một tình yêu chẳng còn tình yêu nào lớn hơn.
Có thể chúng ta thấy Thiên Chúa rất dạy khờ. Đâu cần phải dùng đến con đường quá đau đớn để cứu con người? Nhưng chính khi Ngài được treo lên là lúc tình yêu của Ngài được tỏ lộ rõ ràng nhất. Chính lúc Ngài chết là chính lúc sự sống của những tội nhân chúng ta được bắt đầu.
20. Lòng người
Truyện kể rằng: có hai người thổ dân Nam phi rất ghét nhau. Ngày kia một trong hai người gặp đứa con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Tên ấy liền bắt cô bé, lấy dao chặt hai ngón tay rồi thả ra. Cô bé vừa chạy về vừa khóc, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn: “Trả được thù rồi”.
Ngày qua tháng lụn, thấm thoát mười mấy năm, cô gái đã có chồng con. Một hôm có một tên ăn mày tới xin ăn. Người đàn bà nhận ra đó là kẻ chặt tay mình, vội vàng trở vào nhà biểu đầy tớ đem sữa bánh ra cho ăn. Khi kẻ kia ăn no rồi, người đàn bà đưa bàn tay cụt ra cho hắn coi và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”. Tên ăn mày xúc động khóc ngất.
Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, người đàn bà, nạn nhân của sự trả thù đã dùng tình thương để xoá bỏ hận thù. Không những tha thứ mà bà con lấy lòng bao dung để thương xót người đã hại mình. Nhìn vào người đàn bà ta dễ dàng nhận ra một tấm lòng thật vĩ đại về thái độ đối xử với kẻ thù. Nhưng so với thái độ của Chúa Giêsu thi không bằng hạt cát ngoài sa mạc, như giọt nước giữa biển đông. Vì bà này bị chính kẻ thù của mình ra tay bắt hại. Còn Chúa Giêsu bị chính những người thân yêu nhất phản bội. Người học trò nhiệt tình được coi như trưởng nhóm lại phản bội ngay trong lúc Thầy mình buồn rầu nhất. Người môn đệ chính mình lựa chon lại đem bán mình với 30 đồng, chỉ bằng một phần mười giá trị chai dầu thơm lúc bấy giờ. Thật đau khổ và xót xa khi người ta vừa mới tung hô mình như một vị vua thì lại nhiệt liệt ủng hộ những người bắt bớ mình. Trước khi bước vào tuần khổ nạn Đức Giêsu đã gặp phải những thái độ làm cho Ngài rất đau buồn:
1. Thái độ của Phêrô
Khi nói đến việc chay trốn, thì không ai trong chúng ta lại nghĩ đến Phêrô, môn đệ được Chúa chọn lên đứng đầu trong các môn đệ và làm đầu Hội Thánh. Mới ngày nào ông tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Rồi ông còn xác tín: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Mạnh hơn nữa, ông còn vỗ ngực xưng tên: “Dù tất cả anh mọi người bỏ Thầy, nhưng “thằng này” dứt khoát không bỏ thầy”. Vả lại, ông lại thể hiện là người nhiệt tình nhất với Đức Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Chúa. Nghĩa là bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Hay nói đúng hơn không ai trong chúng ta là người cho mình là mạnh mẽ được, vì ai cũng có thẻ sa ngã. Chính Phêrô cũng đã bị vấp vào lỗi này vì ông không biết ông yếu, ông luôn tưởng mình mạnh, nên ông đã sa ngã
Lý do thứ hai khiến Phêrô chối Chúa là vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Đức Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo với Thượng tế rồi Thượng Tế cũng bắt ông luôn. Chứng tỏ Phêrô dám hy sinh theo Chúa, nhưng ông không hoàn toàn từ bỏ hết, mà ông chỉ đi theo với một giới hạn nào đó. Vì vậy khi cần đền mạng sống thì ông quá lo sợ, sợ đến nỗi quên mất thầy mình, chỉ còn biết chối để chạy thoát thân.
2. Thái độ của dân chúng
CG đã tiên đoán trước số phận của mình khi nhiều lần nói cho các môn đệ hay, đặc biệt qua dụ ngôn ” Ông chủ vườn nho và các tá điền”. Các tá điền đã giết và hành hạ các gia nhân của chủ, khi họ được sai đến để thu hoa lợi cho chủ. Cuối cùng, chủ đích thân sai con một của mình đến và nghĩ rằng các tá điền sẽ nể. Nhưng chẳng những họ không nể, mà còn giết luôn. Ý nói về số phận của các ngôn sứ và của Chúa Giêsu. Kết cục quả là bi thảm. Buồn thay cho Chúa. Buồn thay nhân tình thế thái, lòng người hiểm độc.
Hãy nhìn ngắm lại những gì mà con người đã đối xử với Chúa:Mới hôm nào, dân chúng hoan hô, rải áo xuống đường, cầm cành lá tung hô vạn tuế con vua Đa- vít ( Giống như hình ảnh chúng ta rước lá vào nhà thờ hôm nay). Vậy mà hôm nay họ lại trở mặt cách đột ngột: Một hai đòi giết, đòi đóng đinh Chúa cho bằng được.
3. Thái độ của Giuđa
Buồn hơn hết, chính là hành hộng trơ trẽn của Giuđa, môn đệ được Chúa chọn và theo Chúa những 3 năm, cùng Chúa chia sẻ vui buồn với Chúa. Vậy mà nhẫn tâm bán Chúa chỉ với 30 đồng bạc. Nham nhở hơn, hắn còn muốn lừa Chúa bằng một cái hốn giả dối nhằm chỉ điểm cho bọn lính bắt Chúa.Nhiều chuyên gia Thánh Kinh cho rằng đó là do một tính toán chính trị: Hắn vẫn nghĩ Đức Giêsu là một người có khả năng làm một cuộc đảo chánh. Nhưng Giuđa chờ mãi mà không thấy Đức Giêsu làm gì nên hắn nộp Đức Giêsu như dồn Ngài vào chân tường: hy vọng khi đã bị bắt thì Đức Giêsu bó buộc phải ra tay hành động. Cho dù như thế nào đi nữa thì Đức Giêsu cũng rất đau khổ vì thái độ của người học trò mình coi danh vọng là điểm tựa, coi vật chất lớn hơn tình thầy trò.
4. Thái độ của chúng ta trong tuần Thánh này
Cũng là môn đệ của Thầy Giêsu, đòi hỏi của thánh giá đã và sẽ tiếp tục không khước từ chúng ta. Theo Chúa giữa lúc Chúa được tung hô, chẳng khó gì. Nhưng tiếp tục theo Chúa, ở lại với Chúa giữa lúc Chúa bị loại trừ, bị bách hại là một thách thức lớn. Càng dấn bước theo Chúa bao nhiêu, đòi hỏi sự hy sinh càng dữ dội bấy nhiêu. Ta hãy nhìn lên Đức Maria, nhìn mẫu gương của tông đồ Gioan, mà hiến dâng tình yêu, hiến dâng lòng trung thành của mình.
Nếu đã có lần nào ta va vấp trong cuộc đời, thì hãy nhìn mẫu gương của mười tông đồ còn lại, là những người đã từng khiếp đảm trốn chạy, nhưng cũng đã lấy lại niềm tin để tiếp tục sống trung thành. Những tấm gương ấy sẽ tạo thêm nghị lực để ta đủ sức đứng lên làm lại những gì đã mất. Mẫu gương trung thành của Đức Mẹ, của các thánh tông đồ, của nhiều chứng nhân khác trong Hội Thánh… sẽ là động lực để chúng ta hoàn thành những đòi hỏi của thập giá suốt cuộc đời mình cách trọn vẹn.
Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết can đảm phó thác cuộc sống cũng như những đau khổ khó khăn trong cuộc sống, để Chúa nâng đỡ, và để chúng con thanh thản hầu có thể bước vào tuần thánh này một cách sốt sắng. Amen.
21. Con đường nào Đức Kitô đã đi qua?
Anh chị em thân mến,
Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla sinh năm 1922, qua đời năm 1962, được ĐTC Gioan Phaolô 2, tôn phong chân phước năm 1994. Khi mang thai đứa con thứ tư, bác sĩ Molla khám phá ra mình mang chứng bệnh ác tính đe dọa mạng sống cả hai mẹ con; bà không do dự một giây. Luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa Quan Phòng, bà sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu đứa con đang ở trong dạ. Bà nói với bác sĩ: – Nếu phải chọn lựa giữa tôi và đứa bé, xin đừng do dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi muốn như thế! Sáng ngày 21-4-1962, bà sinh một bé gái đặt tên là Gianna Emanuela. Chỉ một tuần sau, dù được chữa trị khẩn cấp và đau đớn vô bờ, bác sĩ Gianna đã êm ái trút hơi thở cuối cùng sau khi tha thiết lập đi lập lại: “Lạy Đức Giêsu, con yêu mến Ngài”, ngày 28-4-1962, hưởng thọ 40 tuổi. Ngày 16-5-2004 bà được nâng lên hàng hiển thánh. Lễ kính ngày 28. 04 hàng năm.
Bác sĩ Gianna đã đi qua con đường hẹp, con đường hi sinh mạng sống để cứu lấy chính sự sống của đứa con mình. Qua việc làm đó, bác sĩ Gianna đã đi chính con đường Đức Kitô lên Giêrusalem để cứu chuộc nhân loại, nhưng kết thúc buồn thảm trên Núi Sọ. Đây chính là đề tài mà hội thánh muốn chúng ta cùng suy niệm trong ngày chúa nhật hôm nay….
a/. Con đường Đức Kitô đi qua, đã được báo trước:
– Các tiên tri đã loan báo trong Cựu Ước: ” Đây là Người Tôi tớ đau khổ của Ta. Người sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, được suy tôn đến tột cùng.. Nhiều kẻ sẽ sửng sốt khi nhìn thấy mặt mày Người tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ con người nữa…Chính Người đã gánh lấy tội lỗi chúng ta. Còn chúng ta lại tưởng Người bị Thiên Chúa đánh phạt…” (Is. 52, 13 + 53, 4)
– Chính Đức Kitô đã ba lần báo trước cho các môn đệ: “Chúng ta sẽ lên Giêrusalem; những gì các tiên tri đã báo trước về Con Người sẽ được hoàn tất. Con Người sẽ bị nộp vào tay dân ngoại, bị nhục mạ, bị khạc nhổ. Sau khi bị đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại…” (Lc 18, 31-33)
– Chính Chúa Giêsu long trọng quả quyết: “đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không hư đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó hư đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác…” (Gn 12, 23-24). Chúa nói tiếp: “Như Môisen đã treo con rắn lên trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người sẽ được sống muôn đời.” (Gn 3, 14-15).
Con đường Đức Kitô đi qua, Người đã ý thức và đã sẵn sàng đi theo vì vâng theo Ý Chúa Cha, nhất là vì yêu thương nhân loại.
b/. Nhìn lại con đường Đức Kitô đã đi quamà suy niệm:
Đức Kitô đã khởi đầu con đuờng cứu chuộc nhân loại bằng con đường vinh quang vào thành Giêrusalem, nhưng lại kết thúc bằng con đường bi thảm là con đường lên Núi Sọ và chết ở đó. Đây thật là một con đường đầy gian khổ, không dễ gì thực hiện, nếu Con Thiên Chúa không vâng lời Chúa Cha và không yêu thương nhân loại…
Ngày hôm nay, Hội thánh cử hành Lễ Lá cùng với Nghi thức đón rước long trọng, chính là mời gọi chúng ta cùng bước theo Đức Kitô, để thấy rằng hành trình theo Chúa không dừng lại ở cổng thành Giêrusalem, với cành lá dừa, áo trải làm thảm lót đường cùng với những tiếng hoan hô long trời lở đất, nhưng phải kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những hình khổ, lời nhục mạ và hai tử tội hai bên.
Chúng ta cùng theo Chúa Kitô, để chứng kiến lòng con người nhanh chóng thay đổi. Mới hôm chúa nhật, mọi người giơ tay hoan hô nhiệt liệt; vậy mà mấy ngày sau, chính họ lại giơ tay reo hò, để kết tội Chúa, để treo Chúa cho được trên thập giá.
Theo Chúa vào thành thì dễ dàng vui vẻ, nhưng theo Chúa trên đường Núi Sọ thật là buồn thảm. Mỗi người chúng ta phải chọn lựa con đường theo Chúa. Chính thánh Nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla đã lựa chọn cho mình con đường theo Chúa, và hôm nay trên bàn thờ Bà là mẫu gương để mọi người kitô hữu cùng soi chung…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Nhân ngày lễ Lá hôm nay, mỗi người chúng ta tự đặt cho mình câu hỏi: Nếu tôi có mặt trong đoàn kiệu Chúa vào thành Giêrusalem hôm đó, tôi sẽ là hạng người nào? Tôi có phải là người sẵn sàng cầm nhành lá hoan hô đón rước Chúa? Hay tôi là người sẽ cùng Chúa đi lên Núi Sọ? Tôi sẽ là người chối Chúa như Phêrô? Hay tôi là người phản bội Chúa như Giuda? Tôi có phải là người khi thấy quân lính Lamã hung dữ, đã bỏ Thầy mà chạy bán mạng? Hay tôi là người hùa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi là những lý hình đánh đập và sĩ nhục Chúa trên đồi Golgotha? Cuối cùng tôi là hạng người nào trong số các người đó đã đi theo Chúa?
22. Thập giá, tình yêu cứu độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng tung hô Chúa Giêsu “Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá, tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là phạm thượng “tự xưng mình là Thiên Chúa” và tội phản động chống lại hoàng đế Rôma “Người này nói dân nổi loạn”. Nhưng trước mắt toàn dân, quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ, biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu “đóng đinh nó vào thập giá”. Sau cùng Philatô đã viết bản án “đóng đinh ông Giêsu” và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh Phêrô đã nói: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm tin:
“Ôi Thập giá, phước lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan”
(Thánh thi kinh trưa Thứ sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái chết của Đức Giêsu Kitô: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa Giêsu chết trên thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu sống: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chỉ khi Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô “Ngài là ai”? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được “Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người”, “Đấng Messia cứu độ”. Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại như lời Ngài đã nói trước: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi”. Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm tin vào Đức Giêsu: “Ông này quả thật là con Thiên Chúa”. Người trộm bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Ông Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi… Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu “Ông này quả thật là Con Thiên Chúa”.
Cái chết đầy yêu thương và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết. Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: “Không có thập giá, không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
23. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Chúa Giêsu, Người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe, Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến trước mặt tên quản trại: “Tôi muốn chết thay cho người này”. Hắn hết sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: “Mày là ai?” “Là linh mục công giáo”. “Không cần biết danh tính địa vị, ngu thì chết, vào hàng”. Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm 1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một người đã chết vì sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: “Ta đến để cho chiên được sống và được sống dồi dào” (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
• Là Người được Chúa huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
• Là Người ngoan ngoãn dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn: cây lau bị dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
• Là Người can đảm cứ đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ không phải là hạng người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm kê khai những tội trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái, Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta, máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa Cha: “Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ” (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi thập giá là phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an, của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống: “Phần tôi, khi nào được giương cao lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12, 32). Do vậy, trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh: “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta” (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể: “Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa…”. Trong sự tự hủy “trở nên người”, Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc chắn sẽ có con người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
24. Ông này là ai vậy?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
25. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát. Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là ai?
Bạn có nhận ra thập giá của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không? Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
26. Sự Thương Khó và Thập Giá của Đức Giêsu
Nếu dừng lại ở thương khó và thập giá thì là ngõ cụt đáng sợ hãi và trốn lánh. Nhưng thực tế Đức Giêsu đã vượt qua và đã mở ra con đường tới sự sống và vinh quang. Bề ngoài xem ra là thất bại thê thảm nhưng thật sự là chiến thắng vẻ vang.(les plus grandes défaites sont des plus grandes victoires).
Ai có thể làm được như Đức Giêsu? Vậy không phải là Người đã chiến thắng sao? Trốn tránh hoặc nhờ bạo lực hoặc nhờ sự can đảm anh hùng? Bỏ trốn là hèn nhát. Than van, khóc lóc là yếu hèn. Đương đầu và vượt qua, không khuất phục, vẩn giữ được sự công chính, không làm hại đối phương, vẫn dịu dàng yêu thương và cuối cùng còn cầu nguyện xin Thiên Chúa tha thứ cho họ và hứa nếu họ sám hối thì sẽ được sống. Có phải tuyệt vời không? Ai làm được như Ngưới? Chiến thắng vẻ vang: yêu kẻ thù.
Người Do thái coi thập giá là gương mù. Người Hy lạp coi là điên rồ. Thiên Chúa lại dùng làm khôn ngoan và sức mạnh. Đừng chỉ thấy nơi thương khó và thập giá khốn khổ và sỉ nhục. Hãy suy tư tìm ý nghĩa tiềm ẩn mà Thiên Chúa thực hiện và muốn chúng ta nhìn thấy: sự đương đầu can đảm và vượt thắng tất cả.
Động lực là Tình yêu. Tình yêu mới phi thường.
Tin chắc “tà không thắng chính”. Công chính cho đến cùng sẽ chiến thắng dù có bị giết chết cũng sẽ sống lại vinh quang. Thắng vượt mọi cám dỗ bên trong cũng như bên ngoài là chiến thắng toàn diện.
Thắng nhân giả hữu lực. Tự thắng giả cường. Thắng thiên binh vạn mã, nhiều người làm được. Tự thắng thì mấy ai?
Bị khổ và chết vì có tội là ác giả ác báo. Chấp nhận vì yêu thương là anh dũng. Chỉ tình yêu mới làm nổi. Đức Giêsu đã chống lại mọi cám dổ cho tới cơn cám dỗ cuối cùng “không làm cứu độ nữa, vất vả quá, xuống khỏi thập giá làm mỗt nguời bình thường” thôi! ĐG không sa chước cám dỗ. Người vượt qua trung kiên đến cùng.
Chiến thắng của Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của việc cứu chuộc. Cứu chuộc là lật lại, đổi lại. Loài người từ thuở ban sơ không vâng phục Thiên Chúa, chóng lại, phản nghịch cùng Thiên Chúa. Bây giờ Đức Giêsu đại diện dâng lên Thiên Chúa việc tôn thờ xứng đáng nhất là hiến tế chính mình làm lễ vật tinh tuyền, không tì ố, không nhiễm một chút nào tội của loài người, làm con chiên vô nhiễm, Cung kính không bằng vâng phuc. Vâng lời trọng hơn của lễ. Người đã vâng lời cho đến chết và chết thập tự. Là con chiên hiền lành bị đem đi giết mà không mở miệng.
Tất cả mọi khốn khổ Người chịu là tự nguyện để dâng lên Thiên Chúa sự vâng phục tột đỉnh, chuộc lại sự không vâng phục của loài người qua mọi thế hệ. Sự vâng phục chuộc sự không vâng phục để ai theo Người thì chuộc được mạng mình bằng đời sống vâng phục.
Chiến thắng của Đức Giêsu là không thua cuộc truớc cái xấu nhờ tình yêu, yêu cả kẻ thù. Kể chuyện.
Một người nhờ một tu sĩ cao thâm dẫn đi tìm một vị thần có thể chỉ cho bí quyết “khỏi đau khổ”. Gặp vị thần nầy rồi vị thần nọ, nghe bí quyết nầy bí quyết nọ chỉ con đường “không đau khổ”. Nhưng chưa chịu. Tới vị thần chịu treo thập giá thì ông nói “‘tôi chịu ông nầy, tôi theo ông nây” vì ông nầy không tránh né mà đương đầu, vuợt qua và chiến thắng. Chỉ có cách nầy là thực hiện được và hiệu quả. Có chịu đau khổ mới cảm thông được với người đau khổ, mới giúp được người đau khổ vượt qua đau khổ. Đau khổ chỉ có thể vượt qua, chiến thắng chứ không thể tránh khỏi. Không có bí quyết để khỏi đau khổ ngoại trừ bí quyết của Đức Giêsu. Người không dạy nhưng trải nghiệm trên chính bản thân mình và kêu gọi đi theo còn hứa luôn ở bên để trợ giúp.
Thập giá là chiến thắng của người công chính can đảm.
27. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
(Suy niệm của Đức ông James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)
“Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”
Cũng như Thánh Mátthêu và Thánh Luca, Thánh Máccô sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu vào Giêrusalem. Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có thể nào vừa khải hoàn và chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn đi vào Giêrusalem theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy Người thực sự thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người đã giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai nghe Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm chứng về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là “Con của Đavít”, ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ đi tìm con lừa con, giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng hành với Đức Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số hình ảnh sẽ nhắc nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận là, theo các Phúc âm Nhất lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau việc đi vào thành Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào thành với trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào Giêrusalem dịu giọng một chút và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe về “Người Tôi Trung của Chúa” – lời tiên tri thứ hai trong ba lời tiên tri của Isaia nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận biết bản chất đích thực của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị vua vinh quang mà như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu Philípphê, Thánh Phaolô kiện toàn sự nhận biết đó. Trong “bài thánh ca Philípphê”, ông bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì cho ta: “…Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự!” Tất cả điều này cho ta thấy rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự và chúng ta trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được kêu gọi hãy đáp ứng lại.
“Nơi Người, luôn luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ nên một. Trong Người và nhờ Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự sống và hy vọng: đó là dấu hiệu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức chia sẻ ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm cho mối dây liên kết giữa liên đới vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người, chiếu sáng toàn bộ ý nghĩa của mối dây liên kết này: “Dưới ánh sáng đức tin, liên đới tìm cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ thể là trao ban một cách hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy, người gần bên chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới tác động trường kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính mạng vì anh em (x. 1 Ga 3,16)” (Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật Thương Khó theo Thánh Mátthêu, bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu và chấm dứt với việc Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các lời tiên tri trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của các biến cố xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận món quà đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người.
28. Thế thái nhân tính là thế
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nhân tình thế thái hoặc thế thái nhân tình là những tình người và thói đời được thể hiện qua thơ ca văn học. Nó phản ánh về lối sống, về cách ứng xử của người đương thời qua câu thơ bài hát. Nhưng đáng tiếc chuyện thế thái nhân tình được ghi lại dường như chỉ là những thói đời thay trắng đổi đen, lừa dối, và lắm thị phi. Nó phản ánh về những chuyện tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Nguyễn Công Trữ ngày xưa khi nhìn vào đời cũng ngán ngẩm than rằng:
Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy
Tình người dễ phôi pha. Cuộc sống thì bon chen, tranh dành, đầy khổ ải cũng chì vì lắm bất công.
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền dở cũng hay
Ở trong cuộc đời lắm thị phi ấy con người phải khôn ngoan chưa đủ mà còn phải khôn ranh, ma mãnh:
Khôn khéo chẳng qua ba tấc lưỡi
Hẳn hoi không hết một bàn tay
Chung quy sự đời vẫn là bạc bẽo và mong manh của tình người:
Suy ra cho kỹ chi hơn nữa
Bạc quá vôi mà mỏng quá mây.
Nhìn thế thái nhân tình mà ngán ngẩm, cuộc sống quá khắc nghiệt, lòng người đổi trắng thay đen khiến nhiều khi chúng ta chẳng dám tin vào một ai. Tình nghĩa hôm qua, hôm nay hóa hận thù, ganh ghét nhau, hãm hại nhau cũng chỉ vì một chút danh, một chút bổng lộc trần gian.
Cuộc đời Chúa Giêsu dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình lắm đổi thay ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Đúng như có ai đó đã nói:
Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân
Con người chỉ kết bạn bè với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:
Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái
Dân thành Giê-ru-sa-lem tính thật chi li. Họ sum vầy quanh Chúa khi Chúa làm phép lạ. Họ bỏ rơi Chúa khi Ngài chịu đóng đinh. Họ tung hô Chúa khi muốn Chúa làm vua để tìm mối lợi. Họ kết án Chúa để Chúa chịu chết thay cho cả dân tộc…
Con người hôm nay cũng tính với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.
Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giêsu. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen.
29. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có bao giờ bạn cảm thấy cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát “Khi người lớn cô đơn”. Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy nhau giữa chốn đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương, để chăm sóc, quan tâm…
Thành phố bé đến thế thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương “Makeno” cho yên thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao ngán nói rằng: “Các con không thức với Ta một giờ sao!”. Ngài cần các môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi. Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác nơi Cha”. Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người dành cho ta 3 giây chỉ để nói “xin chào” thật thân thương, hay chỉ gửi một tin nhắn 3 chữ “chúc bình an” là đủ ấm lòng những con tim đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.
30. Hoan hô! Vạn tuế!
(Suy niệm của Lm Mark Link, SJ)
Chủ đề: “Đời sống mặc khải Ngài là Đấng Thiên Sai.
Tuy nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình chứ không phải vị Thiên Sai mang chinh chiến”
Gilbert Frankau kể lại câu chuyện của một người bạn ông từng là sĩ quan pháo binh trong Đệ nhất thế chiến. Thời đó không có rađa để hướng dẫn pháo binh vào đúng mục tiêu. Vô số trái đạn chỉ lăn lỏng chỏng trên các ngọn đồi và bụi cây tựa như người ta lấy đá ném vào tấm bia. Thỉnh thoảng, một binh sĩ được lệnh dùng một nhiệt khí cầu bay trên không để hướng dẫn các tay súng. Anh ta từ cao nói như hét xuống “Qua bên trái một chút” hoặc “Qua phải một chút!”. Anh bạn của Frankau nói: “Hễ cứ leo lên khí cầu là tôi chết khiếp đi được. Tôi biết rõ mình trở thành mục tiêu tuyệt hảo cho họng súng quân thù. Chẳng bao giờ tôi chế ngự được nỗi sợ nhưng tôi cũng chẳng hề để cho nỗi lo sợ giữ tôi nán lại ở mặt đất”.
***
Câu chuyện trên đây sẽ gíup chúng ta hiểu rõ hơn đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc.
“Đức Giêsu phải can đảm kinh khủng khi tiến về Giêrusalem vào dịp lễ Vượt qua đặc bịêt này. Ngài can đảm đến độ không thể nào tin nổi. Phúc Âm thánh Gioan giải thích cho chúng ta biết như sau: ‘Sắp lễ vượt qua, và rất nhiều người đi Giêrusalem… Họ đang tìm đến Đức Giêsu và… hỏi han nhau” bạn nghĩ sao? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu!’ Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh: Bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài” (Ga 11, 55-57)
Điều đó khiến chúng ta hồi hộp lo ngại cho việc Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Ý nghĩa sâu xa đằng sau cách thức Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem và cách thức dân chúng chào đón con Ngài là gì? Để trả lời cho câu hỏi ấy, chúng ta hãy xem lại cách thức Đức Giêsu tiến vào thành. Phúc Âm thánh Gioan kể lại: “Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng như lời Kinh thánh dạy: Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây vua ngươi đến, Ngài đang cỡi trên một chú lừa con” (Ga 12, 14-15)
Khi Đức Giêsu tiến vào thành, dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và reo lên: “Hosanna! vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô vua Irsael” (Ga 12: 13)
Thánh Gioan kết thúc bài mô tả bằng lời phê bình khác thường như sau: “Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã được đưa lên chốn quang vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ đã thực hiện điều ấy cho Ngài” (Ga 12: 16)
Vậy ý nghĩa xâu xa đằng sau cách thức Chúa Giêsu vào thành và cách thức dân chúng vẫy các nhành thiên tuế và hô to lời “Hosanna” để chào đón Ngài là gì?
Thật là khôi hài, chìa khoá để trả lời câu hỏi này lại nằm nơi chú lừa Đức Giêsu cỡi. Đối với thế giới hiện nay, con lừa chẳng phải là một ý niệm hấp dẫn gì! Chúng ta thường nghĩ lừa là một con vật đần độn.
Gilbert Keith Chesterton đã làm một bài thơ phổ biến ý niệm này. Trong bài thơ ấy, chú lừa quan sát vẻ xấu xí của mình và tự nhủ:
“Chắc hẳn ta sinh ra khi mảnh trăng nhuốm máu,
khi cá lượn trên không,
lúc cây rừng cất bước,
và vả mọc trên gai… ‘Ôi chiếc đầu kỳ quái, tiếng kêu ghê tởm,
Đôi tai khác nào đôi cánh lạc loài, dáng đi qủi quái nhất trong các loài động vật bốn chân…’
“Hỡi lũ điên rồ! ta cũng có “giờ” của ta chứ,
Một giờ thực hiện oanh và êm dịu,
khi bên tai ta vẳng vẳng tiếng hò reo
Và nhành thiên tuế chập chờn trước bước chân ta đấy”
Và thế là chú lừa ta thốt lên:
“Qúi vị thời nay có lẽ cười nhạt tớ
nhưng nên nhớ rằng tớ đã được chọn,
trong tất cả giống thú vật trần gian
để cõng trên mình Đấng Cứu Tinh thế giới”.
Mặc dù chúng ta thường nhạo báng giống lừa nhưng các nhân vật trong Kinh Thánh đã khen ngợi chúng. Lừa là một giống vật hiền hoà, khác hẳn với loài ngựa là giống vật dành cho chiến tranh thường chở chiến binh vào chiến địa.
Giacaria đã tiên báo Đấng Mêsia sẽ cỡi lừa tiến vào Giêrusalem. Giờ đây Đức Giêsu đang thực hiện lời tiên báo ấy của Giacaria. Làm thế Ngài đã thực hiện hai điều xác quyết: Thứ nhất: Ngài xác nhận mình là Đấng Mesia của Israel. Thứ hai; Ngài mặc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của Ngài là gì.
Vào thời Chúa Giêsu, việc mặc khải này không được cho là hay ho gì cả bởi nhiều người hiểu rất mơ hồ về sứ mệnh của Đấng Mêsia. Chẳng hạn, có nhiều người nghĩ rằng sứ mệnh của Đấng Mêsia phần lớn hệ tại việc đoàn kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi lũ quân Rôma ra khỏi vùng Palestine, đẩy chúng ra ngoài biển. Đức Giêsu cỡi trên mình con vật hiền lành tiến vào Giêrusalem, hành động này đã đi ngược lại ý tưởng ấy. Nó mặc khải cho thấy Đấng Mêsia không phải là ông vua chinh chiến, bắt đám quân đến để ngồi trên ngôi báu và bắt đám dân bị chinh phục hầu hạ. Ngài đã đến quì gối xuống trên sàn nhà và rửa chân cho các thần dân của mình.
Đức Giêsu đã không đến để đoàn kết dân chúng sau lưng mình và đi giao tranh với các dân tộc khác. Ngài đến liên kết họ lại với nhau sau lưng Ngài để chiến đấu chống lại nghèo khổ, đói khát, thù hận và tất cả mọi hình thức bất công, Đức Giêsu không đến để kết án kẻ khác, Ngài đến để tha thứ cho họ, Đức Giêsu không đến để phá đổ những giấc mơ của quần chúng. Ngài đến để làm cho những giấc mơ đó thành hiện thực bằng một phương cách lạ lùng nhất, không thể tưởng tượng nổi. Đức Giêsu không đến cưỡng bức quần chúng theo Ngài, Ngài đến để kêu mời họ.
Hôm nay chúng ta đón mừng một Đức Giêsu như thế đấy. Chính Đức Giêsu đó muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần Thánh sắp tới. Chính Đức Giêsu như thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc này đây, lúc chúng ta bắt đầu nghi thức phụng vụ rước lá chung quanh giáo đường.
Vậy chúng ta hãy vui mừng và cùng hát với các tín hữu khắp mọi nơi:
“Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh mà Chúa mà đến! Vạn tuế Đức Vua của Israel!”.
31. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này, Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ của Yavê
Bài ca thứ ba về người tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên, người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác: “Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức” (Mc.14, 33-34). Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều Cha muốn” (Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy, không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình, trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là, Đấng là chủ lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30), “không ai biết Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải cho” (Mt.11, 27), “ông này phạm thượng. Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7), “trước khi có Abraham, đã có Ta” (Ga.8, 58), “rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời” (Mc.14, 62).
Không những không ai dám tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm “Thiên Chúa nhập thể” hay “Thiên Chúa làm người.” Tất cả những điều này hoàn toàn xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: “Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào tất cả sự thật” (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một (Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: “Từ nguyên thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa… Lời đã thành xác phàm” (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu, tuy là thân phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa” (Pl.2, 6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35), qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm thượng: “dám cho mình là Con Thiên Chúa” (Ga.19,5), dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn: “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi” (Mt.27, 25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy, họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công chính phải đau khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu, người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên thập giá “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại?
32. Cuối đời – Lm. Vũ Đình Tường
Những người có đức tin mạnh mẽ thích cầu nguyện và mong được tham dự Thánh Lễ và các bí tích vào những ngày cuối đời. Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài cũng thích đến thánh đường. Ngài và các tông đồ tiến về đền thờ trong dịp lễ trọng, lễ ‘Bánh Không men và Vượt Qua’. Hai lễ này xảy ra cùng dịp- ‘Không Men’ vì dân Israelites dời bỏ đất Ai Cập, đến vùng đất chảy sữa và mật ong Chúa hứa ban. Họ ra đi trong hấpt ấp, vội vã. Vội vàng đến độ không đủ thời gian chờ cho bánh lên men trước khi nướng. Vượt Qua còn mang một í nghĩa trọng đại nữa vì Chúa dùng quyền năng rẽ sóng biển giúp họ vượt qua biển an toàn. Vượt Qua còn mang í nghĩa siêu nhiênlà vượt qua thời gian nô lệ tiến đến thời gian làm con cái Chúa, vượt qua bóng tối của sự chết tâm linh, thiếu tự do tôn giáo, quyền làm người để tiến đến cuộc sống mới tự do, tương lai huy hoàng.
Những ngày cuối đời của Đức Kitô nơi trần thế Ngài và các môn đệ biết rõ nhà nước đang tìm cách giết Ngài. Các môn đệ Đức Kitô biết rõ điều này và các ông đã phản đối việc Đức Kitô về đền thánh khi các ông nói: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy. (Ga 10,16)
Đức Kitô còn nói rõ hơn khi người phụ nữ đến xức dầu chân Ngài bằng chai dầu thơm đắt giá. Một số người ngồi cùng bàn cho rằng phụ nữ đó kia phí phạm chai dầu đắt giá tốt hơn nên dùng tiền đó bố thí cho người nghèo khó. Đức Kitô biết họ nghĩ thế Ngài lên tiếng bênh vực cô ta và nói rõ lí do: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng tôi” (Mc 14,8)
Đức Kitô trong những ngày cuối đời Ngài xem ra có vẻ bận rộn hơn ngày thường vì còn một số việc Ngài cần làm xong trước khi bị bắt. Đó là việc chuẩn bị bữa tiệc cuối cùng được biết đến là ‘Bữa Tiệc Li’. Ngài đã âm thầm chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết cho ngày lễ, từ nơi chốn đến thực phẩm, phòng ốc và ngay cả phương tiện di chuyển. Các môn đệ dù sống cạnh bên vẫn không hề hay biết chi cho việc Ngài âm thầm chuẩn bị. Họ chỉ biết làm điều Đức Kitô sai bảo và mọi sự đã xảy ra đúng như những gì Ngài chuẩn bị.
Người ta thường chuẩn bị cho ngày chết. Đức Kitô không chuẩn bị cho ngày chết nhưng chuẩn bị cho ngày sống lại. Bữa Tiệc Li là bữa tiệc chuẩn bị cho sự sống lại vinh quang. Tiệc Li có thể hiểu là li trần, dời khỏi trần thế. Dời khỏi trần thế không có nghĩa là chết mà là vượt qua trần thế đến cuộc sống thanh bình muôn thuở. Nếu Tiệc Li không là tiệc sống lại thì không thể giải thích cho việc lập Bí Tích Thánh Thể. Đức Kitô từ lời nói đến việc làm luôn mang í nghĩa trọng đại, vượt trí tưởng. Trong bữa Tiệc Li Đức Kitô cầm bánh và rượu dâng lời chúc tụng Chúa Cha rồi nói cùng các môn đệ;
Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Ta (Lc 22,19)
Nếu không có sự sống lại thì việc lập bí tính Thánh Thể không có mục đích. Đức Kitô biết rõ Ngài sẽ chết cách đau khổ và Ngài sẽ sống lại vinh quang. Cử hành bí tích Thánh Thể là tuyên xưng việc Chúa sống lại và đoàn liên kết cùng Đức Kitô trong việc bẻ bánh.
Kitô hữu không chuẩn bị chết lành như thường nghe nói nhưng chuẩn bị để gặp Đức Kitô, đoàn tụ cùng Đức Kitô. Theo í nghĩa đó Kitô hữu chuẩn bị cho sự sống lại, cho cuộc sống trường sinh bên cạnh Đức Kitô. Kitô hữu chuẩn bị chết bình an trong Chúa. Lễ an táng là an táng thân xác còn tâm linh thuộc về Chúa nên các bài đọc và lời cầu trong lễ an táng luôn hướng về sự sống lại, sống trường sinh.
33. Niềm vui rực sáng – Lm. Vũ Đình Tường
Con người quả có nhiều cách khác nhau để diễn tả niềm vui. Cách thông dụng nhất là lời nói. Dùng ngôn từ nói lên lời chúc tụng, tung hô. Để niềm vui được vui hơn, người ta mượn tràng pháo tay kèm theo lời cổ võ. Theo sau tràng pháo tay là những tiếng cười hoan lạc. Đôi khi còn kèm theo bài ca vui, nhảy múa diễn tả hết tâm tình, bộc trực niềm hạnh phúc. Thời giờ dư giả, tài chánh thảnh thơi hơn người ta còn tổ chức bữa tiệc mừng, cụng li, chung chén, kéo dài niềm vui. Khi có tiệc mừng là có xuất hiện y phục thời trang mới. Cách ăn mặc lịch sự của thực khách, cử chỉ trang trọng mọi người dành cho nhau. Bên cạnh đó còn có trang hoàng màu sắc, sặc sỡ, từ ngoài ngõ đến nhà cửa, kể cả mọi người xa, gần, đều là những dấu chỉ rõ ràng nhất của tâm tình chia sẻ niềm vui. Đây là những cách diễn tả niềm vui.
Hôm nay Phúc âm ghi lại một hình thức diễn tả niềm vui nội tâm hoàn toàn khác lạ so với cách thông thường. Trên đường vào thành thánh Giêrusalem, đám đông dân chúng bất ngờ gặp Đức Kitô họ vui mừng quá đỗi. Vì không chuẩn bị hay nói rõ hơn không ai biết để chuẩn bị nên người ta sáng chế ra cách bày tỏ niềm vui dạt dào trong tâm hồn. Một người lên tiếng Hoan Hô Con Vua Đavít. Hoan hô Đấng đến Nhân Danh Chúa. Một tiếng cất lên, hai ba tiếng hoà nhịp vang vọng và rồi cả con đường, mọi nghõ ngách đều chung ca bài hoan hô Con Vua Đavít. Nhà chức trách thấy thế lên tiếng can ngăn. Họ cũng không thể ngờ được phản ứng mãnh liệt của đám đông. Họ không thể dự đoán Đức Kitô xuất hiện đột ngột như thế. Họ lên tiếng ngăn cản, cấm đoán. Cấm sao được sức mạnh của đại chúng, ngăn sao được tiếng hát vui mừng. Áp chế sao nổi bước chân nhảy nhót diễn tả niềm vui. Một cành lá làm cờ, hai cành lá làm cờ, ba cành lá làm cờ và cứ thế cành lá, cành lá biến thành rừng cây di động. Rừng cây đủ sắc thái của mọi cành lá bên đường tung bay, múa may theo nhịp phất của đôi tay. Đâu đó có người không tiếc tấm áo mới, cởi áo lót đường đón Con Vua Đavít. Mình trần, tay cầm cành lá đón chào, đám đông ca tụng Ngài là vua. Vị quân vương của đại chúng, quân vương không tiến vào thành bằng vó ngựa và cung tên nhưng cỡi lừa con, chân bước trên thảm vải áo và đi giữa rừng cành lá vẫy chào. Cảnh chào đón thật đơn sơ, giản dị nhưng chan chứa tình người, lòng ái mộ, cảm mến hết sức chân tình. Sáng kiến bẻ cành lá vẫy chào để lại cho chúng ta một ngày lễ kính với tên đơn sơ, mộc mạc đến quê mùa, nhưng lại diễn tả tâm tình rất chân thật của đám đông xưa may mắn trên đường đi gặp được Đức Kitô Con Vua Đavít. Ngày lễ kính đó chính là ngày lễ lá. Ai không biết được lịch sự của sự việc nghe sẽ chẳng hiểu tại sao lại gọi là lễ lá.
Đám đông đâu biết rằng họ là những người đầu tiên chào đón vinh quang, vinh danh Con Chúa Cứu Thế. Vinh Danh đó không lộ ra ngay trong ngày Ngài tiến vào thành thánh Giêrusalem. Vinh Danh đó hé mở rồi ẩn mất mãi cho đến ngày Ngài vinh quang sống lại từ cõi chết. Đây mới là chiến thắng thật, vinh quang thật và là niềm vui thật cho những tâm hồn thiện tâm.
34. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước – viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall’ingresso in Gerusalem fino alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760 mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là “thánh giá”, nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, “yêu mến cho đến tận cùng” (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có “đoàn lũ đông đảo” theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: “Lạy Thầy, xin cho con được thấy”, và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu sai hai môn đệ và bảo hai ông:”Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay” (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một chi tiết thú vị là “con lừa chưa ai từng cỡi” (Mc 11,2). Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri Da-ca-ri-a: “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Dcr 12, 15). Việc Chúa Giêsu tiến vào thành “trên lưng lừa” cho thấy Chúa Giêsu diễn tả vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của Thiên Chúa.
Việc “mặc áo choàng” mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu “lên ngôi”. Đông đảo khách hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: “Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
“Osanna” có nghĩa là “xin cứu giúp chúng con”. Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều, vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel.
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến” là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như trong thánh vịnh 118 “Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em”, là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem; thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng “khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động xôn xao”. Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc và “có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã chữa họ lành”. Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa, Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung hô của những người hành hương trong đền thờ: “Hoan hô Con Vua Đavít” (Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh, Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người, cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông phần cuộc sống của Đấng “là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, để cho họ “được sống dồi dào” và sống viên mãn trong tình yêu.
35. Tại làm sao Chúa chết?
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Marcô. Chúng ta không thể không màng chi đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc: một con người như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah, Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là các thượng tế và luật sĩ “ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu” (Mc 14, 1); “tìm chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người” (Mc 14, 55), chứng gian tìm không ra, lời chứng lại không khớp, phải nại đến vị thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu: “ Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?” (Mc 14, 61). Chúa Giêsu đáp:“Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Đấng toàn năng và ngự đến trên đám mây” (Mc 14, 61). Ông liền đứng lên xé áo mình và kết án: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” (Mc 14, 62) Họ quyết định lên án tử cho Người (Mc 14, 64).
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô” (Mc 15, 1). Philatô không phải là người quan tâm tới sự công chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi: “Ông có phải là vua dân Do thái không?” Chúa Giêsu đáp: “ Ông nói đúng” (Mt 15, 2). Câu trả lời của Chúa Giêsu không giúp Chúa thoát khỏi vụ án mà lại như thêm dầu vào lửa, khiến các thầy thượng tế lại tố cáo thêm, nhưng Chúa không đáp lại một lời nào.
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm sao nên hỏi dân “Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?” (Mc 15, 9); “Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?” (Mc 15, 12). Những câu hỏi trên chẳng những không cứu được Chúa Giêsu mà còn như thể gia tăng lòng quyết xử tử Người: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 13). Lúc ấy trong khám đang có sẵn kẻ giết người tên là Baraba, Philatô nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu, nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to hơn: “Đóng đinh nó đi” (Mc 15, 14). Philatô nhượng bộ hoàn toàn: “ Ông liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho họ mang đi đánh đòn và đóng đanh vào thập giá” (Mc 15, 15).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết “những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu. Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào, họ đã chối hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “tại sao Chúa chết? ” Sau tất cả những nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau, trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Giáo hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái, thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã “vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế…” chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta (x. Kinh Tin Kính).
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay khi ta xúc phạm đến Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Amen.
36. Những im lặng sau tiếng hoan hô
(Lm Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: “Giờ đây chúng ta lên Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão. Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người, phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về đây.” Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau tung hô: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời”.
Chúa Giêsu đã long trọng tiến vào thành Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội phản, những trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72 thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat…Trước những lời tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: “Đúng như lời ngài nói”. Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: “Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?” Ai nấy đều lên án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma. Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách, không kêu ca: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha.” Chính vì tinh thần tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy đến.
Sự im lặng như thế phải chăng là một hình thức im lặng như Euripide đã nói: “Im lặng là thú nhận”, là xác nhận những lời người ta tố cáo như: “phá đền thờ, ba ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái”. Tất cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta xuyên tạc, bóp méo tố cáo là “xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Xêsarê…” thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính! Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:“ Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi” (Mt. 27: 24), “ Ta không thấy người này có tội gì” (Lc. 23: 4), “ Ta không thấy nơi người này có lý do để kết án” (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và toàn thể công nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian, nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một người vô tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng lõa với những gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý, với lẽ phải. Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im lặng
Hơn ai hết, các môn đệ là những người theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối công việc của Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời hợt, a dua, phản bội…phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ, chân thật, chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
37. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa, lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel! Hoan hô trên các tầng trời! Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục, tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri Daniel đã thân thưa cùng Chúa: “Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của Ngài” (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn ‘Người cha nhân hậu’ hay còn được gọi là ‘Người con hoang đàng’ (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và bất trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc, nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi: “Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người nói với tôi: “Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá. Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.
38. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, bầu khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô của những người Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn với người thu thuế…, chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này, họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ chống lại hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn sống đến cùng tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao cho anh những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng, trong số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại bài thương khó Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua cuộc thương khó này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa khi chúng là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta đã phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị hành hình trong thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải chịu sự bất công đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị hành hình qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn, đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
39. Những ngã rẽ nguy hiểm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Lễ Lá có một khởi đầu vui và một kết thúc buồn. Đức Giêsu long trọng vào thành thánh Giêrusalem trong lời hoan hô chúc tụng và sau đó chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá.
Con đường vào thành Giêrusalem vinh quang vương giả với đám đông ngưỡng mộ, cành lá và quần áo trải thảm đường đi. Con đường lên Núi Sọ với thân kẻ tội đồ vác thập giá, những lời nhục mạ, roi đòn tơi tả và hai tội nhân đồng hành.
Tiến bước theo Chúa trên đường thương khó để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng người.
Từ Chúa Nhật Lễ Lá đến Thứ Sáu Tuần Thánh thời gian không dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ lối khác. Tại sao như thế?
Theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ trên hành trình cuộc đời. ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy tư về ba ngã rẽ tiêu biểu, của Giuđa, Phêrô và đám đông.
1. Ngã rẽ của đám đông.
Dân thành Giêrusalem nô nức phấn khởi, trải áo choàng, chặt những cành lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavít”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Thế mà sau đó không lâu, nghe lời xúi giục của tư tế, kinh sư, pharisiêu, họ lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la, gào thét đòi “đóng đinh nó đi!”. Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười.
Đám đông đã rẽ sang lối nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án. Đám đông thật nông nổi nhẹ dạ. Đám đông thường dễ bị lôi cuốn, người ta làm gì mình làm nấy mà nhiều khi chẳng biết tại sao. Có nhiều người trong đám đông đó không hề thù ghét Chúa Giêsu. Có lẽ còn có nhiều người đã từng nhận ân huệ của Chúa Giêsu! Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào việc kết án người công chính. Giữa cuộc đời hôm nay, biết bao người công chính, thanh liêm, trung trực, chính nghĩa đã chịu vu vạ cáo gian dẫn đến tù tội do đám đông nông nổi bị lừa dối, bị tuyên truyền!!!
2. Ngã rẽ của Giuđa
Giuđa là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt ba năm. Ông còn được Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quản lý. Một ngày kia Chúa Giêsu đang cùng các môn đệ dùng bữa tại nhà ông Simon, bỗng có một phụ nữ đem đến một chai dầu thơm quí giá, rồi chị lấy dầu xức lên chân Chúa. Giuđa phản đối “Sao lại phí thế! Đem chai dầu bán cũng được hơn 300 đồng bạc, lấy số tiền đó đi giúp người nghèo có phải thực tế hơn không?”. Giuđa có đầu óc biết tính toán và thực tế của người quản lý tài chánh.
Ngày Lễ Lá chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông biệt vắng. Ông đã rẽ sang lối khác. Lối rẽ theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền. Một con người bạc bẽo, vô tình vô nghĩa. Trong tình yêu có gì đẹp bằng nụ hôn! Vậy mà Giuđa dùng nụ hôn làm dấu hiệu nộp Thầy. Trong tình yêu, tội phản bội làm tổn thương và đau đớn vô cùng. Tình yêu càng lớn lao bao nhiêu, khi bị phản bội càng đau đớn bấy nhiêu. Ngã rẽ Giuđa biểu tượng cho những người quá say mê của cải vật chất ở đời này đến mức quên tình quên nghĩa, phản bội người khác, kể cả ân nhân của mình.
3. Ngã rẽ của Phêrô.
Phêrô là môn đệ thân tín của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá, Phêrô ở bên Chúa. Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chẳng thấy bóng ông đâu. Phêrô đã rẽ sang lối khác: lối rẽ lười biếng, thích hưởng thụ và sợ bị liên lụy. Lười biếng vì khi vào vườn Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ. Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Thầy thì ông lại vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa. Phêrô chối Chúa cũng vì ông sợ bị liên lụy. Nếu những người hỏi ông không phải là những người của vị Thượng Tế đang xét xử Chúa Giêsu thì chắc Phêrô vẫn mạnh dạn nhìn nhận mình là môn đệ Đức Giêsu. Nhưng vì họ là người của Thượng Tế nên ông phải chối, kẻo họ báo cáo rồi ông cũng bị bắt luôn.
Phêrô đã theo Chúa Giêsu suốt ba năm. Phêrô nếm trải biết bao gian khổ, ông đón nhận tất cả mà không kêu ca nề hà gì. Nhưng hôm nay ông chối Chúa vì sợ bị liên lụy, vì an toàn của sinh mạng. Ông chấp nhận từ bỏ và hy sinh, nhưng chỉ đến một giới hạn nào đó thôi.
Phêrô là người được Chúa Giêsu yêu thương, chăm sóc, lo lắng, và được Ngài ban cho biết bao là ân huệ. Nào là vai trò thủ lãnh của Nhóm Mười Hai, nào là nhiệm vụ cầm giữ chìa khóa Nước Trời: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19); và còn được gọi là Kêpha, nghĩa là đá … vậy mà khi đối mặt với một đứa hầu gái vô danh tiểu tốt, đá lại mềm ra như bún, ông chối phăng không biết Giêsu là ai, ông lại còn dám cả gan thề độc: “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” (Mc 14,71). Ông là người nhiệt tình nhất với Chúa Giêsu, thế mà cuối cùng cũng chối Thầy. Thế mới biết, bất cứ ai cũng yếu đuối và cũng có thể sa ngã nặng nề. Phêrô đã sa ngã. Vậy mà ông cứ luôn tưởng rằng mình mạnh mẽ.
Để tự nhiên, chắc chắn không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Người ta thay lòng đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, sợ bị liên lụy và của theo hướng của dư luận. Đó là những ngã rẽ nguy hiểm.
Nếu có mặt trong ngày Chúa chịu khổ nạn, tôi và bạn có rẽ sang lối nào không? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi và bạn sẽ rẽ sang con đường chối Chúa của Phêrô? Tôi và bạn sẽ rẽ sang những con hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn đệ? Tôi và bạn sẽ phụ hoạ với đám đông kết án Chúa? Hay tôi và bạn cũng theo quân lính đánh đập Chúa? Tôi và bạn có kết án bất công như Philatô không? Tôi và bạn có hùa với kẻ mạnh đàn áp bắt nạt người thấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng không? Tôi và bạn phải dứt khoát lựa chọn một con đường.
Con đường theo Chúa không êm ái nhẹ nhàng và thênh thang đâu. Đó là con đường thập giá: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo” (Lc 9,23). Đường thập giá là đường một chiều. Đường thập giá là đường lên dốc. Và đường thập giá là đường có nhiều ổ gà dằn xóc. Vì thế mà có nhiều người bỏ cuộc nên rẽ sang một hướng đi khác. Nhận diện những ngã rẽ nguy hiểm của tiền bạc dẫn lối, thích an nhàn hưởng thụ, sợ liên lụy bản thân và hùa theo dư luận để chúng ta tỉnh táo mà bước đi trên hành trình đức tin cuộc đời. Vác thập giá hôm nay chính là đón nhận những bệnh tật, thất bại, đau khổ, bất công… như những thử thách của lòng tin để vững bước theo Chúa đến cùng.
Tuần Thánh, chúng ta cùng dõi bước theo con đường thập giá của Chúa Giêsu. Đó là con đường đau khổ, nhưng cũng là con đường tình yêu và là con đường cứu độ.
Lạy Chúa, xin cho con luôn mạnh mẽ và kiên trì tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa dẫn con đi. Amen.
40. Ta là ai trong vụ án mang tên Giêsu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ta vừa đi lại con đường “vinh quang” ngày xưa Chúa đã đi. Chúa đã vào thành Giêrusalem một cách hiên ngang, một cách hoành tráng.
Ta thấy Thánh Matthêu vừa kể lại cho ta kỷ niệm đẹp đó. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Đavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!”
Quá đẹp!
Cũng dễ hiểu bởi lẽ phần đông trong cái đám đông ngày hôm đó là những người được Chúa chữa lành, được Chúa làm phép lạ, được Chúa cho ăn uống no nê. Ta còn nhớ là sau lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều thì dân chúng đã muốn tôn vinh Chúa Giêsu lên làm vua và rồi Chúa phải trốn sang chỗ khác để lánh dân chúng.
Cảnh vinh quang chợt thấy đó để rồi ta bước vào cảnh bi đát của cuộc đời Chúa Giêsu.
Trên con đường Thánh Giá mà chúng ta vừa đi lại, ta thấy quá bi đát cho một phận người, cho một cuộc đời. Mới hôm nao được người ta tôn vinh, chúc tụng, hô hào nào là nhân danh Chúa, nhân danh Chúa, chúc tụng này chúc tụng nọ… để rồi ngày hôm nay lầm lũi lê bước mà không phải lê bước trên con đường bằng phẳng mà phải bước từng bước lên đỉnh đồi.
Phải nói rằng không còn cái nhục nào cho bằng cái nhục này cả. Người ta có làm thịt một con chó, một con mèo người ta cũng không làm như thế. Thế nhưng, nghịch một cái ở đây lại là một con người hẳn hoi nhưng người ta đã hành xử như vậy. Có lẽ không còn một ngôn từ nào để dành cho con người này nữa.
Trong cái đám đông la ó đóng đinh nó vào thập giá, đóng đinh nó vào thập giá chắc hẳn cũng là cái đám người mà mới ngày hôm kia hôm kìa gì đó chúc tụng tôn vinh. Cũng dễ hiểu và dễ lý giải chứ không khó lắm. Cũng chi do lòng dạ con người bất nhất nó mới ra như thế.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta thấy rõ nét về những con người như thế này. Khi được Thiên Chúa ban cho ơn lành thì nhiệt thành theo Chúa. Thế nhưng khi cơm đủ no, áo đủ ấm thì lại đi thờ thần khác, thần ngoại bang và cứ ngỡ rằng họ là đấng cứu độ đời mình chứ không phải Thiên Chúa.
Những biệt phái, luật sĩ và đám dông dân Do Thái cũng vậy. Họ tưởng nghĩ rằng Đấng Cứu Độ trần gian đến trong thế gian này với dáng vẻ quang lâm oai phong lẫm liệt chứ nào nhục nhã như thế này.
Điều nghi ngờ này không phải chỉ mới ngày hôm nay trên con đường lên núi Sọ nhưng nó xảy đến từ cái ngày Đấng Cứu Độ trần gian cất tiếng khóc chào đời. Người ta không thể nào tin nổi Hài Nhi ấy. Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cũng thế, người ta vẫn coi thường và vẫn xem đây là người con của ông phó mộc Giuse, có Mẹ là Maria thôi.
Đơn giản và dễ hiểu bởi lẽ họ không tin nên họ hành xử như thế đối với cái con người ra pháp trường hôm nay. Không phải ra theo kiểu bình thường mà ra theo kiểu kỳ quái không ai hiểu được.
Khi có dịp, ta xem lại bộ phim này ta hình dung ra phần nào phần tủi nhục mà Chúa Giêsu phải chịu trước đám đông dân chúng. Thấy vậy để rồi ta rất dễ suy ra đời ta. Đời ta cũng có khi ở trong cái đám đông đấy và cũng có khi là một trong những môn đệ nhiệt thành của Chúa Giêsu ấy.
Trong vụ án giết cái người vô tội mang tên Giêsu đó, ta là ai ắt hẳn ta là người biện phân rõ hơn ai hết.
Ta có phải là một Philatô sẵn sàng rửa tay vô trách nhiệm trên những chuyện bất công hay không?
Ta có phải là Hêrôđê vì muốn hưởng lợi danh nên muốn giết cái ông Giêsu hay không?
Ta có phải là những môn đệ thân tín cùng chấm chén với Thầy nay lại bỏ Thầy ra đi biền biệt chăng?
Ta có phải là Phêrô đã can đảm chối Thầy mình đến 3 lần khi gà chưa kịp gáy lần thứ 2 chăng?
Hay tệ hơn ta có phải là đệ tử ruột mang tên Giuđa đã cam tâm bán Thầy mình với cái giá quá bèo siêu khuyết mãi 30 đồng bạc không?
Ta là ai trong cái đám đông được chữa lành bệnh, được làm phép lạ, được cho ăn no nê… Nay lại hùa theo đẻ giết Chúa.
Có thể ta cũng sẽ chối bây bây rằng ta không bao giờ làm những chuyện đó. Ta có thể chối người đời được nhưng với Thiên Chúa ta không thể nào chối được.
Ngày hôm nay, bước vào Tuần Thánh, ta cùng bước theo Chúa Giêsu trên con đường khổ nạn. Ta đừng bước nhanh nhưng hãy bước chầm chậm và nhất là để lòng ta lắng xuống để ta nhìn thấy rõ hơn cái khuôn mặt của ta trong vụ án mang tên Giêsu.
Xin Chúa cho ta chìm lắng tâm hồn trong tuần này để rồi ta đối diện với ta, ta đối diện với Chúa để ta nhìn rõ khuôn mặt của ta hơn. Và, ta cũng nên nhớ rằng luôn luôn có một ánh mắt chạnh thương của Chúa Giêsu trên con đường khổ giá luôn nhìn đến đám đông luôn luôn tung hô giết Ngài.
Xin cho ánh mắt của ta chạm đến ánh mắt của Chúa và lòng ta chạm lòng của Chúa cách mật thiết hơn trong tuần Thánh này.
41. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong đời linh mục, nhiều lần chúng tôi được chứng kiến người ta chết. Hoặc chúng tôi cũng được nghe người trong gia đình nói về người thân của họ chết như thế nào. Thí dụ: Thưa cha, cám ơn Chúa, mẹ con đã ra đi rất êm ả, bà chết thật là thánh thiện. Hoặc: Bố con khi còn sống chỉ ước ao được chết vào ngày Thứ Sáu đầu tháng, vì ông cụ rất có lòng kính mến Trái Tim Chúa Giêsu, và Chúa đã thương nhận lời… Thực tại cái chết là một chuyện, nhưng tư thái của người ta lúc hấp hối và chết là chuyện khác và nhiều khi thật quan trọng và nói lên con người đó là ai, như thế nào.
Với bài Thương khó trích sách Tin Mừng Mác-cô, chúng ta có một nhân chứng hết sức đặc biệt đã chứng kiến giờ hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá và đã phát biểu niềm tin của ông về Chúa Giêsu. Nhân chứng đó chính là viên sĩ quan Rôma, người có trách nhiệm việc thi hành án tử hình, đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Ông ta là người có nhiệm vụ xác nhận Chúa Giêsu đã thực sự chết rồi hay là chưa, cho nên ông càng phải quan sát kỹ lưỡng hơn ai hết. Thánh Mác-cô đã ghi lại một câu nói về ông ta như sau: “Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, đó là mục đích của sách Tin Mừng Mác-cô. Khi viết sách Tin Mừng, thánh Mác-cô mở đầu với tựa đề: Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, rồi kết thúc với lời tuyên xưng của viên sỹ quan Rôma đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. Viết như thế, thánh Mác-cô muốn trình bày và mời gọi chúng ta hãy đi vào một cuộc hành trình đức tin. Vậy hành trình đức tin ấy như thế nào? Hành trình ấy bắt đầu từ một khẳng định thuộc phạm vi hiểu biết, nói với chúng ta rằng: Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Tiếp theo, hành trình đó đưa chúng ta đi theo Chúa Giêsu trên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, nhìn những việc Người làm, nghe những lời Người giảng dạy, theo Người lên Giê-ru-sa-lem để thấy Người luôn tuân phục Chúa Cha và sẵn sàng chấp nhận cuộc Khổ nạn, và cuối cùng đứng dưới chân thập giá để cùng với viên sĩ quan Rôma tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Ở đây, lời tuyên xưng là một niềm tin phát xuất từ trái tim con người. Không còn là một khẳng định thuộc phạm vi lý trí và hiểu biết nữa, nhưng là một sự tiếp nhận, một tâm tình hay một xác tín của con tim chúng ta. Không còn là “tôi biết, tôi hiểu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa” nữa, nhưng là chính tâm tình của chúng ta, phải giống như tâm tình của tông đồ Tô-ma khi ngài tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!”
Vậy viên đại đội trưởng người Rôma đã nhận ra điều gì khác lạ nơi kẻ tử tội Giêsu, không giống như những kẻ tử tội khác? Sách Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn chúng ta cũng có thể hình dung ra được. Bình thường những tử tội quen với tính hung dữ hoặc bất mãn của mình, hay chửi rủa oán hận người khác hoặc những kẻ hành quyết mình, bằng lời nói tục tằn cay đắng hoặc cử chỉ bất nhã. Nhưng tất cả những gì viên sĩ quan Rôma quan sát được nơi Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác. Không hề nghe một lời oán trách hay làm mích lòng, mà trái lại chỉ có những lời tha thứ kẻ thù, tha thứ những kẻ chế giễu mình, khích lệ người trộm lành, ân cần lo lắng cho mẹ già, cho người môn đệ dấu yêu, và nhất là những lời kinh tha thiết thưa cùng Thiên Chúa Cha. Nếu có thì giờ, chúng ta hãy lần rở những dòng Kinh Thánh ghi lại các lời vàng ngọc của Chúa Giêsu trong giây phút cuối đời, để tìm thấy qua đó hình ảnh đích thực của Đấng “đã cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình” (15:31). Rồi viên sĩ quan Rôma không thấy nơi Chúa Giêsu một ánh mắt thù hằn, mà chỉ thấy đôi mắt hiền từ sáng ngời bên những giọt máu, trào dâng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Chúng ta cũng tin rằng chính ánh mắt tha thứ và mời gọi của Chúa Giêsu đã hoán cải tâm hồn chai đá của một chiến sĩ Rôma và biến ông thành người môn đệ của Chúa trong tương lai.
Bước vào Tuần Thánh, qua bài Tin Mừng, Phụng vụ Lời Chúa muốn cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, để chúng ta sẽ dần dần đi vào từng suy niệm sâu xa hơn mà cảm nghiệm được tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong chính cuộc sống hằng ngày, chúng ta là Kitô hữu được mời gọi hãy tháp nhập những đau khổ của chúng ta vào cuộc Khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu, để nhờ đó chúng ta khám phá được ý nghĩa của đau khổ mình đang chịu. Chúa muốn chúng ta đi theo con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua. Chúa muốn rằng qua tư thái hoặc cách thức chúng ta chịu đau khổ, người khác có thể nhận ra những khác biệt nơi người Kitô hữu, nghĩa là không phàn nàn oán trách, nhưng tin tưởng phó thác trong tay Chúa, không cay đắng muốn chối bỏ, nhưng coi thánh giá là một vinh dự lớn lao. Chính trên thập giá và trong cái chết của mình, Chúa Giêsu đã được nhận biết là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Cũng thế, nếu Kitô hữu chúng ta thể hiện được những tâm tình tha thứ, cầu nguyện, yêu thương của Chúa Giêsu trên thập giá khi chúng ta chịu đau khổ, thì chắc chắn chúng ta có thể làm cho những người chung quanh chúng ta nhận ra chúng ta là ai. “Quả thực, người này là con Thiên Chúa.” Mong được như vậy.
42. Vâng lời cách sáng suốt và tự nhiên.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Việc phối trí những đoạn ký sự khác nhau trong bốn bộ Phúc Âm nêu ra những vấn đề không thể đề cập ở đây. Các thánh chép sử trước hết không chú ý viết tiểu sử Đức Giêsu và thuật lại theo lối viết sử biến cố đã xảy ra ở Pa-lét-xti-na. Các ông chỉ muốn là những nhân chứng. Các ông làm chứng cho lòng tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, Đấng Cứu Tinh. Những sự kiện do các ông thuật lại cho dù có chính xác đến đâu, bố cục hợp lý đến đâu, điều đó đối với các ông không quan trọng lắm. Vì thế, tuy cùng đặt cơ sở trên 1 nền chung không thể chối cãi, mỗi thiên ký sự lại mang những mầu sắc khác nhau cho thấy vẻ độc đáo trong cung điệu mỗi thánh chép sử làm chứng cho niềm tin của mình. Chúng ta cần nhớ thế khi muốn so sánh những ký sự nói về cuộc Thương Khó.
Đoạn văn suy niệm hôm nay cho thấy những nét nổi bật sau:
1) Ngay phần đầu, thánh Maccô thuật lại mấy sự kiện cốt nhấn mạnh vào sự vâng lời cách tự nguyện và sáng suốt của Chúa Giêsu dấn thân vào cuộc Khổ nạn của Người.
Chúa biết Chúa đi về đâu. Chúa nói ra điều đó trong dịp người phụ nữ đập vỡ bình bạch ngọc và đổ dầu thơm trong bình lên đầu Người. Trước khi xảy ra, bà đã lấy thuốc thơm ướp xác Ta, chờ khi liệm táng. Chúa biết rằng ngày hôm sau Chúa sẽ chết.
Sự quyết tâm của Chúa không phải là việc dễ làm. Vâng lời Cha là tự chinh phục bản thân. Chúa trải qua một cơn hấp hối trong vườn Ghetsêmani, cuối cơn khắc khoải Người nói một lời ngắn và dứt khoát: Thế là xong, có nghĩa là Người đã quyết rồi, giao kết xong rồi, ưng thuận rồi.
Chúa lưu ý những kẻ đến bắt Chúa rằng nếu Người muốn, Người có thể vô hiệu hóa bọn chúng những đã từng làm trong bao lần giảng dạy ở Đền thờ và những nơi khác. Chúa nhấn mạnh, Người để chúng bắt giữ chỉ vì Người đã làm theo ý Thiên Chúa như loan báo trong Kinh Thánh. Đoạn Phúc Âm tiếp đó đưa ra những ví dụ khác được thánh Maccô nêu lên và làm chứng, đó là sự vâng lời tự nguyện của Chúa.
2) Thánh chép sử lưu ý chúng ta đến sự cô đơn của Chúa Giêsu. Người bị cô lập, bị tách rời dân chúng. Mấy ngày trước đây, chính dân đó đã hoan hô Người. Những thày tư tế và ký lục chuẫn bị chọn giờ hành động và sắp đặt thời gian để vận động quần chúng. Quần chúng dễ thay lòng đổi ý (cái gọi là “dư luận” được uốn nắn do những nhà kỹ thuật về khoa điều khiển dân ý, dân tình). Dân chúng đã bỏ Chúa.
Trong cơn hấp hối, Chúa cô đơn. Hơn ai hết, Chúa biết rõ các môn đệ Người là những kẻ bất lực chẳng thể đem đến một sự giúp đỡ nào cho Người, nhưng dù sao nếu có họ lúc đó thì cũng là một niềm an ủi. Thế mà họ ngủ.
Chúa chỉ có một mình trong khi dấn thân. Lúc Chúa dấn thân bằng cách nộp mình cho toán quân dữ đến bắt Người, các môn đệ có 1 dịp hành động theo lời cam kết của Phêrô mà tất cả các ông đã tán đồng: Dù có phải chết vì Thày, con sẽ chẳng bỏ Thày. Ấy vậy mà, theo thánh Maccô ghi lại, họ bỏ Chúa, tất cả trốn hết.
Chúa một mình giữa pháp đình. Không một ai dám tới làm chứng gỡ tội cho Người. Chúa Giêsu đã muốn biết thế nào là nỗi chua xót đắng cay của tình bạn khi mà 1 người “bạn” vì sợ hay vì tư lợi không muốn bị liên can, không muốn bị “dính”, để bỏ rơi Người mà lẽ ra y phải cứu giúp.
Chúa một mình trên thập giá. Cả những kẻ trộm cướp cũng thóa mạ Chúa (tuy rằng sau đó một kẻ trong bọn này sẽ ăn năn trở lại). Một nỗi cô đơn tột bực: Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa bỏ con?
Sự vâng lời tự nguyện của Chúa, một sự vâng lời thuần khiết và cô đơn, có lẽ đấy là phương thế Chúa Giêsu dùng để sống cách thấm thía tấn bi kịch của số mệnh chúng ta.
43. Con đường vinh quang và thập giá – Lm Đan Vinh.
Tuần thánh bắt đầu bằng Chúa Nhật Lễ Lá: Phụng vụ hôm nay gồm hai phần vui buồn đan xen vào nhau: Trong phần đầu lễ chúng ta cùng nhau rước Chúa Giêsu khải hòan vào thành Giêrusalem (x Mc 11,1-10). Phần thứ hai là thánh lễ với bài Thương Khó (x Mc 14,1-15,47). Từ đó chúng ta cùng rút ra bài học sống đức tin thế nào trong những hòan cảnh vui buồn trong cuộc sống
1. Con đường khải hoàn vào thành Giêrusalem:
Trong giờ phút này, chúng ta hãy chiêm ngắm cảnh tượng Đức Giêsu đang long trọng tiến vào thành Giêrusalem. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con. Có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ lòng tôn kính. Những tiếng reo hò vang dậy: Người ta tung hô Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Vua thuộc dòng dõi Đavid, là Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Đức Giêsu im lặng để dân chúng tung hô hầu ứng nghiệm lời tuyên sấm: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của người đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Dcr 9,9).
2. Con đường thập giá: qua đau khổ vào vinh quang:
Sau những giây phút tưng bừng náo nhiệt này, chúng ta được nghe bài thương khó: Chúa Giêsu hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người. Quả thực, Ngài là Vua, nhưng là Vua Mục Tử: “Đến không đòi được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Ngài đã chọn con đường cứu thế theo thánh ý Chúa Cha là “qua đau khổ vào trong vinh quang”, qua cuộc Tử Nạn để bước vào mầu nhiệm Phục Sinh.
3. Con đường sống đức tin hôm nay:
Từ hai biến cố trên, mỗi chúng ta phải sống đức tin thế nào trong cuộc sống đời thường?:
– Không ai vô tội: Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của hoạ sĩ Rembrandt thế kỷ 17, là bức họa “Ba Cây Thập Tự”. Khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, hầu như ai cũng đều bị thu hút nhìn vào trung tâm của bức tranh: Ở giữa hai cây thập giá của hai kẻ bất lương, thập giá của Đức Giêsu vượt lên cao hơn. Dưới chân thập giá của Chúa là cả một rừng người, trên mặt ai nấy đều lộ vẻ căm thù oán hận, trong đó có cả khuôn mặt của nhà danh họa tác giả bức tranh … Qua đó ông muốn nói rằng: Mọi người chúng ta không ai là không dính líu vào tội đã đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá.
– Phải luôn tự kiểm: Mỗi người chúng ta hãy tự kiểm điểm: Nếu có mặt trong thời điểm xảy ra cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm đó, tôi có vác đỡ thập giá cho Chúa như ông Simon Kyrênê đã làm không? Có biểu lộ đức tin và lòng sám hối như người trộm lành trên cây thập giá không? Có can đảm đứng dưới chân thập giá để nhận những lời trăn trối cuối cùng của Chúa như Mẹ Maria và môn đệ Gioan… hay không? Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng mình sẽ không chối Thầy như Phêrô, hoặc không hèn nhát trốn chạy như các môn đệ, hay không bán Thầy như Giuđa, hoặc không kết án bất công như Philatô, không hùa theo kẻ mạnh để đàn áp bắt nạt người tấp cổ bé miệng như đám đông dân chúng, không đánh đòn và đóng đinh tay chân Chúa Giêsu vào thập giá như bọn lính hung ác…
– Điều kiện theo Chúa: Đã hơn 2000 năm qua đi, tất cả những gì xảy ra thời Đức Giêsu vẫn còn tiếp diễn. Mỗi người chúng ta cũng được Đức Giêsu mời theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, váv thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 23). Vác thập giá hôm nay chính là đ1on nhận những sự thử thách như bệnh tật, thất bại gặp phải, những lời nói nhục mẠ bất công… Đó là những thập giá do Chúa cho xảy đến để thử thách đức tin của ta và khích lệ ta theo Chúa đến cùng
– Làm gì trong cuộc sống hôm nay?: Trong tuần Thánh, chúng ta hãy năng tham dự các lễ nghi Tuần Thánh tại Nhà thờ để có dịp chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hầu gia tăng lòng tin yêu để luôn chọn đi theo con đường của Chúa: Con đường hẹp và leo dốc, con đường khiêm nhu dấn thân và phục vụ tha nhân. Con đường này sẽ dẫn chúng ta về tới thành thánh Giêrusalem trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết luôn tin cậy bước đi theo Chúa, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan và ngàn lần quảng đại hơn con. Xin cho con luôn dấn thân theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, vượt qua mọi nỗi sợ hãi, can đảm lướt thắng những yếu đuối, và biết phó thác trọn vẹn vào tình thương của Chúa. Ước gì khi gặp phải những đau khổ thử thách, chúng con sẽ cảm nghiệm được tình Chúa thương con và trung thành bước theo con đường của Chúa đến cùng.- Amen.
44. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba”. Baraba là một tên cướp được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
Rước là đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Đừng đọc vội vã, hãy ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá của người khác hơn.
45. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
46. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động. Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó. Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: “Lạy Chúa, Lạy Chúa, sao Chúa bỏ con!”.
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội đồng công nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ. Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
47. Những bất ngờ – Ga 12, 12-16.
Bài thương khó chúng ta vừa nghe, đã ghi lại một chuỗi những diễn biến thật bất ngờ. Thực vậy, mới chỉ một tuần trước, các vị lãnh đạo tôn giáo còn tỏ ra dè dặt với Chúa Giêsu, thì hôm nay họ ra mặt tố cáo Ngài, đích thân bắt bớ Ngài, công khai xách động quần chúng ghét bỏ Ngài, cương quyết tiêu diệt Ngài.
Mới ngày nào đông đảo dân chúng đã tràn ra đường để đón rước Ngài, chúc tụng Ngài là Con vua Đavid, thì hôm nay họ kéo nhau vào sân tổng trấn Philatô, hò hét và yêu cầu giết chính Đấng mà họ mới hoan hô. Bây giờ họ coi Ngài xấu xa nguy hiểm còn hơn một tên cướp.
Mới chỉ vài giờ trước, mười hai tông đồ đã được rước lễ bởi chính tay Chúa Giêsu, đã được phong chức giám mục bởi chính Trái Tim Ngài, đã được dạy dỗ bởi chính miệng Ngài, bây giờ tất cả đều thay đổi kẻ thì bán Thầy, kẻ thì bỏ Thầy, kẻ thì chối Thầy. Thế nhưng trong cái bối cảnh sụp đổ kinh hoàng ấy, chúng ta thấy xuất hiện những người tốt mới thật bất ngờ.
Đúng vậy, đâu có ngờ trên quãng đường nặng nhọc, kẻ vác đỡ thập giá cho Chúa Giêsu lại là một người đi qua đường.
Đâu có ngờ trong giây phút đen tối nhất, kẻ tuyên xưng Chúa được Chúa phong thánh và đưa vào thiên đàng lại là một tên trộm bị đóng đanh bên phải Ngài.
Đâu có ngờ trong cảnh sụp đổ của niềm tin, kẻ đã chúc tụng Chúa và tin vào sự công chính của Ngài lại là một sĩ quan ngoại đạo đã vâng lệnh đóng đinh Ngài.
Đâu có ngờ trong lúc bối rối đầy sợ sệt, kẻ đã ra mặt chôn cất Ngài và dâng cho Ngài ngôi mộ của mình lại là một nghị viện.
Trước đây tất cả những người ấy kể như xa Chúa, nhưng trong hoàn cảnh bi đát nhất của Chúa, họ đã xuất hiện như những người tốt, và đó là một sự xuất hiệt đầy bất ngờ. Tuy nhiên cái bất ngờ nhất đối với chúng ta đó là những lựa chọn của Chúa Giêsu.
Thực vậy, Ngài có thể tránh khỏi cuộc tử nạn, nhưng Ngài đã tự nạp mình. Ngài có thể lợi dụng dịp may đông đảo quần chúng qui tụ với sự hiện diện của các cấp chính quyền và tôn giáo, để làm một vài phép lạ gây uy tín cho đạo và lấy lại thanh thế cho chính mình, nhưng Ngài đã yên lặng.
Ngài có thể đổi lòng đám đông đang chống đối Ngài một cách điên cuồng, thành làn sóng người nhiệt thành ủng hộ Ngài, nhưng Ngài cam lòng chịu đựng cô đơn.
Ngài có thể khiến muôn vàn thiên thần từ trời xuống, để bênh vực Ngài, nhưng Ngài đã để mình bị hành hạ, xỉ vả và kết án. Ngài như kẻ quá yếu, và yếu một cách ngu dại. Ngài như kẻ bị thua và thua một cách đầy nhục nhã. Thế nhưng Ngài thực sự mạnh mẽ khi vượt thắng mọi thử thách đớn đau, để luôn trung thành với tình yêu.
Dù như bị Chúa Cha bỏ rơi, Ngài vẫn mến yêu cậy tin phó thác và Ngài đã kêu lên: Lạy Cha, Con xin phó thác hồn con ở trong tay Cha. Dù bị bao người hành hạ, xỉ vả, Ngài vẫn yêu thương họ và Ngài đã cầu nguyện: Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm không biết. Tình yêu của Ngài đã thắng vì tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, mạnh hơn tất cả mọi tội lỗi nhân loại và chính Tình yêu ấy đã cứu chuộc loài người.
48. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh Phaolô đã viết:
– Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
– Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời thánh Phaolô:
– Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
49. Cuộc Thương Khó.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn đã hỏi: “Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã đến nghe ngài nói chuyện sao?” Churchill trả lời: “Không hẳn thực sự là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên”.
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: “Thiên Chúa Cha đã mạc khải sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu nhục… nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác”. Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá là “quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người”.
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà. Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: “Tôi đã giết người”. Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. “Tôi không có ý giết nó”, người em sợ hãi nói, “Tôi cũng không muốn chết”. Vào lúc ấy cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình. Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em, chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người… Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”.
50. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau. Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại: “Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống mình”.
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên Chúa. “Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình”.
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: “Khi gắn bó với tình thương của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu “đã yêu thương họ đến cùng”, “bởi vì không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương”. Bởi vậy, trong đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người”.
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa”.
51. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
52. Mối tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu
ĐÂU LÀ MỐI TƯƠNG QUAN CỦA CHÚNG TA VỚI CHÚA GIÊSU?
Chúng ta vừa đi lại con đường tử nạn của Chúa Giêsu, trong đám đông những người trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa, mỗi người chúng ta cũng có thể nhận diện được chính mình. Chúng ta có thể là các môn đệ của Chúa Giêsu, những người cho đến giờ phút chót vẫn còn thề thốt theo Ngài nhưng liền sau đó đều bỏ trốn. Chúng ta có thể là Giuđa, người chỉ vì một chút lợi lộc vật chất mà có thể bán chính lương tâm của mình để phản bội Thầy. Chúng ta có thể là đám đông ngày hôm trước tung hô vạn tuế Ngài, ngày hôm sau hô hoán “đóng đinh nó vào thập giá”. Chúng ta có thể là các thượng tế, những người chỉ có mù quáng mà kết án người vô tội. Chúng ta có thể là Tổng Trấn Philatô, người chỉ vì chức quyền, danh vọng mà chà đạp công lý. Chúng ta cũng có thể là đám lý hình, những kẻ chà đạp và hành hạ người khác không chút xót thương. Đâu là chỗ đứng của chúng ta trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu? Đâu là mối tương quan của chúng ta với Ngài?
Trong suốt Tuần Thánh này, Giáo Hội mời gọi chúng ta trở lại con đường thập giá của Chúa Giêsu và tỉnh thức lại chọn lựa canh tân đời sống chúng ta. Ước chi Tuần Thánh không diễn ra do những nghi thức quen thuộc trống rỗng, trong đó chúng ta chỉ đứng nhìn như khách bàng quan mà là những bước đường thập giá, qua đó chúng ta quyết tâm đi theo Chúa Giêsu đến cùng, để trong sự Phục Sinh của Ngài, chúng ta được thực sự trở thành con người mới.
53. Suy Niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có run sợ trước đau khổ và sự chết không? Cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài là do Ngài bị ép buộc hay do tự nguyện? Động lực khiến Ngài tự nguyện là gì?
2. Cái chết khủng khiếp của Đức Giêsu nói lên điều gì? Có phải vừa nói lên sự công thẳng và nghiêm túc của Thiên Chúa đối với tội lỗi, vừa nói lên tình thương bao la của Thiên Chúa đối với con người không? Công thẳng ở chỗ nào? Tình thương ở chỗ nào?
3. Bài học thực tế mà chúng ta học được qua mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong Tuần Thánh là gì? Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương và hy sinh cho chúng ta như thế, các Ngài mong ước điều gì nơi chúng ta?
CHIA SẺ
1. Đức Giêsu chịu đau khổ để cứu nhân loại khỏi đau khổ
Mầu nhiệm được cử hành trong Tuần Thánh – làm cho chúng ta hết sức cảm động – là Đức Giêsu đã chấp nhận chịu đau khổ và chết thay cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và sự chết trong cảnh giới vĩnh cửu. Tất cả đều vì yêu thương chúng ta: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Nhờ Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).
Theo niềm tin Kitô giáo, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Ngài chẳng những là người hoàn toàn vô tội, mà còn là một con người hoàn hảo nhất của nhân loại. Thế nhưng Ngài lại phải chịu những cực hình khủng khiếp, đau đớn nhất của con người. Những đau khổ ấy, Ngài đã tự nguyện chịu, mặc dù từ thâm tâm Ngài cũng rất sợ hãi trước đau khổ. Việc Ngài lo buồn đến mức đổ mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu (x. Lc 22,44) nói lên nỗi sợ hãi hết sức cao độ ấy. Nhưng dù biết trước những cực hình khủng khiếp đã khiến Ngài phải sợ hãi như thế, Ngài vẫn tự nguyện đón nhận, vì muốn hoàn thành thánh ý Chúa Cha là cứu độ loài người, và vì chính Ngài cũng yêu thương con người, muốn cứu họ khỏi tội lỗi và hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Dù bản năng có ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, Ngài vẫn vui lòng chấp nhận đau khổ và chết, để con người được sống và sống hạnh phúc: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
2. Đức Giêsu thực hiện sự công bình và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi
Vì tội của nguyên tổ và của riêng từng người, đáng lẽ nhân loại chẳng những bị mất hạnh phúc vĩnh cửu mà còn phải chịu đau khổ đời đời. Sự công bình nơi bản tính của Thiên Chúa đòi buộc mọi tội lỗi đều phải đền trả, nghĩa là con người phải chịu hình phạt xứng đáng. Nếu thế con người sẽ phải đau khổ đời đời! Nhưng tình yêu vô biên của Ngài đối với con người đòi hỏi Ngài phải ra tay cứu họ, nếu không thì không còn là tình yêu nữa! Vừa bắt con người phải đền tội, vừa phải ra tay cứu họ, đối với trí óc của con người điều đó quả là mâu thuẫn và nan giải! Nhưng sự khôn ngoan vô biên của Ngài đã giải quyết nan đề ấy bằng cách cho Con của Ngài xuống thế làm người, đại diện cho toàn nhân loại, chịu đau khổ và chết, để đền tội thay cho cả loài người. Theo cách đó, sự công bằng và tình yêu của Ngài đều được thỏa mãn.
Đức Giêsu – là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa trong bản tính nhân loại – đã đảm trách việc hòa giải giữa hai đòi hỏi trái ngược nhau của sự công bằng và tình yêu Thiên Chúa, và cũng là hòa giải giữa con người với Thiên Chúa. Vì thế, sứ mạng của Đức Giêsu là phải làm sao cho con người thấy được công lý của Thiên Chúa phải được thực hiện nghiêm túc thế nào, đồng thời cũng biểu lộ cho con người thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người bao la thế nào.
Chân lý, công lý và tình thương, đó là những thuộc tính hết sức quan trọng trong bản tính Thiên Chúa. Thiết tưởng người Kitô hữu – là người ý thức hơn ai hết con người là hình ảnh của Thiên Chúa – cần phải phản ánh và thể hiện ba thuộc tính ấy trong đời sống của mình. Đức Giêsu đã nhấn mạnh sự quan trọng của ba thuộc tính ấy: “Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và tính chân thật” (Mt 23,23).
3. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu hiện nơi Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương con người, điều ấy đã được Thánh Kinh nói đến rất nhiều: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3,1); “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16); “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9); “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại được thể hiện cụ thể qua tình yêu của Đức Giêsu đối với con người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9); “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1).
4. Hãy thể hiện tình yêu của Thiên Chúa ra cho tha nhân
Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc, chấp nhận chết để con người được sống. Chính tình yêu đối với con người đã thúc đẩy Ngài làm điều ấy. Sự việc ấy cho thấy đau khổ của ta có thể biến thành hạnh phúc cho người khác, cái chết của ta có thể biến thành sự sống cho người khác. Nghĩa là ta có thể chấp nhận đau khổ để người mình yêu được hạnh phúc, chấp nhận chết để người mình yêu được sống. Vì thế, đau khổ và chết cho người mình yêu là cách tuyệt hảo nhất để biểu lộ và thể hiện tình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thiết tưởng người Kitô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ và thể hiện tình yêu tuyệt hảo này trong đời sống (đáng lẽ phải) đầy tràn yêu thương của mình.
Cũng như tình yêu của Chúa Cha đối với Đức Giêsu là gương mẫu cho tình yêu của Ngài đối với nhân loại: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga 15,9); thì Ngài rất mong tình yêu của Ngài đối với chúng ta cũng là gương mẫu để chúng ta yêu thương nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Thánh Gioan đã diễn tả ý tưởng trên như sau: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16). Vậy, chúng ta hãy áp dụng tinh thần yêu thương và hy sinh cho người mình yêu, trước hết và đặc biệt cho những người gần gũi với chúng ta nhất: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… sau đó cho những người xa hơn, và cuối cùng cho cả những người ghét và làm hại chúng ta. “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn Luật Đức Kitô” (Gl 6,2).
Tóm lại, hãy trở nên hiện thân cho tình yêu Thiên Chúa giữa tha nhân, giữa trần gian. Thiết tưởng đó là những điều thực tế mà trong Tuần Thánh này chúng ta phải quyết tâm thực hiện trong đời sống mình. Nếu không Tuần Thánh này cũng chỉ là một tuần vô bổ, trôi qua không dấu vết trong đời sống chúng ta.
Cầu nguyện
Tôi nghe thấy tiếng Chúa nói với tôi: “Con ơi, Cha yêu con, yêu con vô cùng. Cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu chính là bằng chứng rrt nhất cho tình yêu của Cha. Cha mong mỏi con đáp lại tình yêu của Cha như một tình nhân mong được người mình yêu đáp trả lại bằng tình yêu. Cách đáp trả tình yêu mà Cha mong muốn nhất nơi con, chính là con ban rải yêu thương một cách thật quảng đại,thậm chí phung phí, cho những người sống chung quanh con, những người con thường gặp hằng ngày. Hãy trở nên hiện thân của tình yêu Cha giữa mọi người”.
54. Ơn cứu chuộc.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu, chúng ta quen gọi là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn. Xưa kia người ta cho ngày thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất cứ ngày nào khác trong năm, bởi lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị kết án tử hình và đã bị giết chết một cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu chịu nạn là “Thêm một người vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong lịch sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan uổng, bị đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết”. Theo ý nghĩa này thì quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen đũi. Nhưng đối với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng ghét, chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày, bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước bạo lực, trước rủi ro hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một sự thất bại, thua cuộc, nhưng là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ có cái chết của Ngài mới có đủ khả năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của con người một cách cân xứng, bởi vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu thương không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ máu ra chết cho tất cả chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã chết một cách vô ích cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự vào công lênh cứu chuộc của Ngài bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật lên mạch nước, nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã nói: “Thiên Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta”.
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như vậy, công việc cứu chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta thì chưa xong, chúng ta còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ đó chúng ta mới hiểu câu nói của thánh Phaolô: “Tôi bổ khuyết nơi tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Chúa Kitô”. Vì thế, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế gian thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người ta chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất cả chúng ta đều là những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi: “Người ấy để lại những gì?”, Còn thiên thần thì hỏi: “Người ấy đem đi được những gì?”. Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên trần gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta: hãy ý thức hơn về ơn cứu chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm hồn mình, và hãy sống ơn cứu chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi người chúng ta để hoàn thành cuộc đời mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng của Mùa Chay này, ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất công như những người đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự khiếp nhược chối bỏ Thầy hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên trái Chúa đã chê trách Chúa trên cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám đông dân chúng đã la to: “Đóng đinh nó vào thập giá…”
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người đau khổ là hiện thân của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là những người mắc bệnh nan y mà không tiền chữa trị, hoặc là những người đang chịu đựng những lời khích bác và vu khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ cũng chính là những người đang gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà không biết ngày mai sẽ ra sao…
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông với họ như các phụ nữ gặp gỡ Chúa trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy bênh vực công lý như người trộm lành bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá…
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ, vậy chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của anh em chung quanh. Càng suy niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
55. Thánh giá.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về việc chết đi cho chính mình để sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một cách diễn tả khác cho sự thật này là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá và đau khổ trong cuộc sống của Chúa Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta đã ẵm lấy thập giá đau khổ và hy sinh trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống và ẵm lấy thập giá mà Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa Giêsu đã làm trước chúng ta và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng trong cuộc đời của chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng là lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng đau khổ cùng với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không bao giờ khẳng định đau khổ tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại khẳng định giá trị cứu độ của đau khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức”. Khi chúng ta gặp phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô, chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến cho con trong những tình huống đau thương nhất. Xin giúp con luôn biết tín thác vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
56. Trung thành với lời tung hô.
Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Với thái độ tung hô vạn tuế của dân chúng trong ngày hôm nay, chúng ta đã xác tín Đức Kitô là vị vua phải đến để kiến tạo hòa bình, để trả lại cho con người sự tự do hầu có thể phát triển toàn diện nhân phẩm của mình. Ngài là niềm hy vọng của những kẻ nghèo khó, bất hạnh và khổ đau, Ngài là niềm an ủi của những kẻ bị bóc lột, bị bạc đãi, bị xúc phạm và bị ném ra bên ngoài xã hội.
Đồng thời chúng ta tuyên xưng Ngài là vị lãnh đạo, xử dụng tình thương làm khí cụ để xây dựng một xã hội loài người trên công bình.
Nếu tham dự vào cuộc rước kiệu trong Chúa nhật lễ lá với lời hoan hô chúc tụng Chúa Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến, thì chúng ta có bổn phận phải tiếp tục bước theo Ngài.
Bởi vì con đường Ngài đã đi cũng phải là con đường chúng ta bước theo, mặc dầu chúng ta biết con đường này là con đường sỏi đá, con đường gai góc, con đường thập giá. Chính con đường này sẽ dẫn chúng ta tới đỉnh đồi Canvê, để rồi qua những khổ đau và nhất là qua cái chết trên thập giá, chúng ta cũng sẽ được tiến đến cuộc chiến thắng Phục sinh.
Vì thế, có người đã viết về sự liên quan giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh như sau:
– Giữa Chúa nhật lễ lá và ngày thứ sáu tuần thánh có một sự phản ảnh cho cuộc đời người Kitô hữu.
Thực vậy, hôm nay chúng ta tung hô chúc tụng Chúa, nhưng ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét đóng đinh Chúa vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương Ngài, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ ghét bỏ Ngài. Hôm nay chúng ta hân hoan, nhưng ngày mai chúng ta lại buồn sầu. Hôm nay chúng ta hiền hòa, nhưng ngày mai chúng ta lại gian ác. Hôm nay chúng ta tin tưởng, nhưng ngày mai chúng ta lại thất vọng.
Phải, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp tục nối dài và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu tuần thánh, là cả một đời người tín hữu được phản chiếu.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng này, một diễn giả đã dùng hình ảnh cành lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi, tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ lá, như hoan hô chúc tụng Chúa, yêu thương, hân hoan, hiền hòa và tin tưởng. Thế nhưng mỗi lần nêu lên một điểm tiêu cực của ngày thứ sáu tuần thánh cũng như của chính cuộc sống như: Oán ghét, hoài nghi, gian ác, buồn phiền và khước từ Chúa, thì diễn giả ấy liền tước bỏ phần lá xanh, và chỉ để lại chiếc cọng của nó mà thôi.
Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã trở thành một bó roi cỏ để dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Ước chi tuần thánh là thời gian chúng ta được hướng dẫn để tiếp tục bước theo những dấu chân cuối cùng của Chúa Giêsu nơi dương thế, để chúng ta luôn trung thành gắn bó với đấng chúng ta tuyên xưng hôm nay: Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến.
57. Cuộc khổ nạn.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ ngôi làng này đến ngôi làng khác, làm việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho dân chúng. Khi đi đến bất cứ nơi đâu, Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây quanh lắng nghe và tìm kiếm nhiều điều nơi Người. Đây là ba năm mà Người đã hoạt động một cách trọn vẹn và tích cực ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, Đức Giêsu vẫn ở thế chủ động. Người đã đi đây đi đó ít nhiều theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay kẻ thù trong Giệtsimani (Người bị một trong những môn đệ của Người giao nộp), thì tất cả thế chủ động của Người chấm dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm xoay chuyển trong sứ vụ của Người. Kể từ đây, Người bắt đầu phải chịu đựng đau khổ. Và đó là lúc bắt đầu cuộc khổ nạn của Người. Từ thời điểm đó, Người không còn làm chủ những điều đang diễn tiến nữa. Bấy giờ, các sự việc được thực hiện nhắm vào Người, hơn là do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và giải đến cho Hêrôđê, Cai pha, Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác thánh giá, lột quần áo, đóng đinh, bị chế nhạo… và cuối cùng, Người đã chịu chết. Đức Giêsu đã hoàn tất sứ vụ của Người, không chỉ bằng những hành động của Người, mà đặc biệt hơn, còn bằng những điều người ta làm cho Người nữa – bằng cuộc khổ nạn của Người. Chúng ta phải hiểu rõ một điều: Chúa Cha không ném Người vào tay những kẻ độc ác. Đức Giêsu đã chịu chết một cách tự nguyện. Người đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được xác định bằng những điều xảy đến với chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực hiện: theo một ý nghĩa rất thật, thì đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thực sự chấp nhận được cuộc khổ nạn này, cũng như những hành động của chúng ta, thì điều đó sẽ dẫn đến sự cứu độ cho chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà chúng ta hoạt động. Khi còn bé, chúng ta chỉ biết trông cậy vào “lòng thương xót” của những người lớn. Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn có số phận, sự phản bội, những rủi ro, đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn, thất bại trong các tương quan, thất vọng đối với người bạn đời hoặc con cái, cái chết của những người thân yêu, công việc làm ăn vất vả v.v…
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc vui vẻ và những giai đoạn được sống an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên kiếp người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có sự chọn lựa trong cách thức đáp trả lại những gì mà cuộc sống gửi đến chúng ta. Cách đáp trả này có thể làm nên con người chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là chính bản thân Người, đầy sức mạnh, trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở thành con người nào, nếu cảnh mất mát, khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ bên ngoài thành công, tầm quan trọng cá nhân, thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách thế Đức Giêsu đáp trả lại những điều xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất cả cảnh bạo lực, biến đổi chúng, và chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ. Đây là sự chiến thắng của tình yêu vượt lên trên tất cả những sức mạnh tàn phá. Không có gì ngoài tình yêu nơi Đức Giêsu. Ngay cả khi người ta đóng đinh vào tay chân Người. Người vẫn yêu thương. Điều này giúp chúng ta suy nghĩ đến những lúc chúng ta trải qua cảnh khó khăn.
58. Chết vì yêu
Sau hành trình dài sống trong những ngày chay tịnh, hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào tuần Thánh với Chúa nhật Lễ Lá và cao điểm là tam nhật thánh (thứ năm, thứ sáu, thứ bảy). Bầu khí Phụng vụ hôm nay là đi từ niềm vui đến nổi buồn. Vui vì dân chúng hân hoan chào đón Đức Giêsu như vị Vua tiến vào thành để đăng quang. Nhưng sau đó là không khí u buồn vì cũng chính những người hồ hởi đón rước Đức Giêsu giờ đây trở thành những chống báng Ngài và đòi đóng đinh Ngài vào Thập giá. Lý do là vì Ngài đã không đi theo con đường mà họ mong chờ. Ngài đã không trở thành vị “Vua chinh chiến”, không dùng bạo lực để giải phóng họ khỏi sự đô hộ của Đế quốc Rôma, nhưng Ngài đã chọn con đường khiêm hạ, đi đến cùng con đường yêu thương với tước hiệu “Vua Hoà Bình – Vua Tình yêu”.
Vào năm1900, Phong trào “Nghĩa Hoà Đoàn” nổi lên ở Trung Quốc. Đó là phong trào nổi dậy nhằm chống lại người ngoại quốc và người Kitô hữu ở Trung quốc. Những người nổi dậy chiếm một trường truyền giáo ở đây. Họ đóng kín các cửa của trường này, chỉ chừa lại một cánh cửa duy nhất để ra vào mà thôi. Nhưng ngay cửa này, họ đặt một cây Thánh giá và họ ra điều kiện là ai bước qua Thánh giá để đi ra ngoài thì sẽ được tự do; còn ai đi vòng qua Thánh giá để đi ra thì sẽ bị bắn chết. Bảy học sinh đầu tiên đã bước qua Thánh giá và ra đi tự do. Người thứ tám là một em bé gái mười tuổi tiến lại gần Thánh giá. Em không bước qua nhưng lại quỳ gối xuống trước cây Thánh giá, cung kính hôn chào Thánh giá và đứng lên đi vòng qua để ra ngoài. Tức thì, em bị bắn chết. Điều lạ lùng là tất cả các học sinh còn lại, khoảng một trăm học sinh, đã theo gương em bé gái đi vòng qua Thánh giá chứ không bước qua. Và tất cả đều bị bắn chết. Và người ta đã thống kê, trong năm1900, có hơn 30.000 Kitô hữu ở Trung quốc đã bị sát hại. Họ thà chọn cái chết hơn là được sống nhưng phải từ chối Thầy Giêsu là Đấng mà mình hết lòng yêu mến. Trong lịch sử Trung quốc và nhiều nơi truyền giáo khác, hàng triệu người đã chết vì đã tin vào Đức Kito và Hội thánh của Ngài.
Lòng trung thành và anh dũng của em bé gái người Trung quốc cũng như của hàng chục ngàn người Kitô hữu như em gợi ý cho chúng ta suy nghĩ về hành trình đức tin của chúng ta trong việc bước theo Đức Giêsu Kitô. Chúng ta theo Chúa với thái độ nào? Với tinh thần nào?
Dân Do thái cầm cành lá trên tay, trải áo xuống đường cung nghinh Đức Giêsu Kitô như vị vua khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Họ xem Ngài như vị Vua mà họ hết lòng mong chờ, tôn kính và mến yêu. Nhưng mấy ngày sau đó, họ cũng chính là những người hò hét đòi đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Tại sao vậy? Tại sao có sự đổi trắng thay đen nhanh chóng như vậy? Đó là vì lòng ích kỷ và hám lợi nơi bản năng tự nhiên của con người. Khi họ thấy Đức Giêsu không còn đem lại lợi ích vật chất cho họ nữa; khi họ thấy Đức Giêsu thất thế trước quyền đời là họ thay lòng đổi dạ, quay lưng lại với những gì mà mình đã từng mong mỏi, tôn kính và ôm ấp yêu thương. Thế mới thấy lòng con người, đúng câu tục ngữ người ta thường nói: “nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Dù bị phản bội như vậy, nhưng Đức Giêsu vẫn yêu thương họ và yêu thương họ đến cùng. Ngài yêu thương ngay đến chính những kẻ đã ra tay làm khổ Ngài và hành hạ Ngài đến chết. Ngài đã van xin Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết”. Chúng ta hãy chiêm ngắm và cảm nghiệm tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Louis Evely đã nói: “chúng ta là Kitô hữu không phải là vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta là Kitô hữu vì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương chúng ta”. Chúng ta có cảm nghiệm nào cụ thể về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta?
Kỷ niệm việc Chúa vào thành Giêrusalem, Phụng vụ muốn mời gọi chúng ta đi theo Người cách trung thành trên mọi nẻo đường Ngài tiến bước, nhất là theo Ngài đi vào con đường tử nạn cho đến khi chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Vì có như vậy, chúng ta mới hy vọng cùng Người chỗi dậy trong vinh quang và bước vào đời sống vĩnh cửu. Chân lý này chúng ta đã rõ. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến hết con đường, phải theo Ngài cách trung thành cho đến chết. Chúng ta phải cùng chết với Đức Giêsu thì mới hy vọng được phục sinh với Ngài.
Thế nhưng trong hành trình đức tin, có nhiều người không theo Chúa cách trung thành, không theo Ngài cho đến cuối chặng đường. Họ có thái độ và tâm trạng giống như những người Do Thái ngày xưa: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày vinh quang… nhưng khi thấy sóng gió, gặp khó khăn, thử thách trong đời sống đạo là họ chao đảo, nao núng, chối bỏ đức tin của mình. Rất có thể những khi đó, họ sẽ phủ nhận và sẵn sàng lên án tử cho Chúa. Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những con người ham sống! Họ muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, thứ hạnh phúc trước mắt, thứ hạnh phúc rẻ tiền không phải tốn công tốn sức. Nhưng khốn thay đó chỉ là hạnh phúc giả tạo!
Cũng có rất nhiều người theo Chúa, giữ đạo chỉ vì họ đang sống trong lầm than và vất vả bởi những ngang trái trong cuộc đời. Nên khi họ nghe rao giảng một Đức Giêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho kẻ chết sống lại được, thế là họ liền nô nức chạy theo, muốn tôn phong Ngài lên làm vua để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Nhưng khi thấy Ngài bất lực trước đối thủ, không “cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai” là họ liền bỏ Ngài, thậm chí còn muốn xô Ngài nhào xuống để chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi chướng tai gai mắt. Chắc chắn những con người như thế không thể làm môn đệ của Đức Giêsu được rồi! Chắc chắn họ sẽ không được chung phần vinh quang Phục sinh với Ngài được rồi!
Dĩ nhiên không ai trong chúng ta muốn đồng hoá mình với đám người Do Thái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền… Mùa Chay là cơ hội thuận tiện để mỗi người chúng ta kiểm điểm lại chính mình, chứ không phải chỉ nhìn vào người khác để phê phán họ. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống của mình để thấy rõ chúng ta có thật lòng đi theo Chúa không? Có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ để cùng chết với Ngài và sống lại với Ngài không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang và không theo đường lối Chúa nữa bằng thái độ giấu giếm, che đậy chân lý Phúc Âm không dám tỏ ra mình là người tín hữu khi cần thiết? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải biết chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những đều ấy không? Ngày xưa, không có mấy người đi theo Chúa cho đến Núi Sọ! Mười hai tông đồ cũng không, bảy mươi hai tông đồ cũng không. Chỉ có Đức Maria và một số người rất ít người khác. Nhưng khi nhìn lại như vậy, không phải để hổ thẹn, mặc cảm, nhưng là để chúng ta biết thanh lọc động cơ theo Chúa của chúng ta cho được tốt đẹp và đúng nghĩa hơn. Đồng thời cũng đừng có ai tự vỗ ngực xưng tên mình là kẻ trung thành trong việc theo Chúa, nhưng chúng ta khiêm tốn cầu xin cho mình được ơn ấy bằng đời sống cầu nguyện “kẻo sa chước cám dỗ”.
Xin ơn Chúa giúp để chúng ta mãi mãi là một chiến sĩ can trường trong hành trình đức tin và là một tôi trung của Đức Giêsu Kitô trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời này. Amen.
59. Chiêm ngắm cây Thập Giá
Với Chúa nhật Lễ Lá hôm nay, cùng với tất cả anh chị em tín hữu Công Giáo trên toàn thế giới, chúng ta bước vào Tuần Thánh. Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong năm Phụng Vụ. Đồng thời, Chúa nhật Lễ Lá hôm nay cũng có một ý nghĩa đặc biệt đối với người trẻ Công Giáo. Bởi vì hằng năm, Giáo Hội đã chọn ngày này làm ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Chọn ngày Lễ Lá, ngày khởi đầu Tuần Thánh là ngày Quốc Tế Giới Trẻ, Giáo Hội cũng muốn kêu gọi người trẻ Công Giáo bước theo Chúa Giêsu trên con đường Thập Giá, cùng chịu đóng đinh với Người để được Phục Sinh với Người trong cuộc sống mới.
Do đó, Tuần Thánh là thời gian đặc biệt đối với người Công Giáo, thời gian mà cây Thập Giá của Chúa Giêsu được giương cao hơn bao giờ hết. Trong bài Thương Khó chúng ta vừa nghe, cho thấy Chúa Giêsu vào Thành Giêrusalem để chịu chết và chết ô nhục trên cây Thập Giá. Người Công Giáo nào cũng quý mến cây Thập Giá, nhưng mà hình như cách quý mến của chúng ta nặng về tình cảm. Và chúng ta thường lấy cây Thập Giá để an ủi nhau, nhất là khi mình bị bệnh, bị tai nạn, thất nghiệp, hoặc là bất cứ một đau khổ nào ập đến, thì mình an ủi nhau là “Chúa gởi Thập Giá đến chịu khó mà vác”. Rất là đạo đức. Thế nhưng cách an ủi đó dường như cây Thập Giá xuất hiện như một thái độ cam chịu, nhẫn nhục chứ không có gì tích cực. Và ngày hôm nay, không phải chỉ riêng người Công Giáo chúng ta, mà nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy cây Thập Giá của Chúa Giêsu đang bị “phá giá”. Các minh tinh màn bạc, các diễn viên điện ảnh nào cũng thấy đeo một cây Thập Giá trên ngực. Cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã trở thành món trang sức và nhiều khi là một trò hề. Thành thử ra, chúng ta cần phải đi tìm lại ý nghĩa của cây Thập Giá. Và dĩ nhiên, ý nghĩa của cây Thập Giá rất phong phú, hôm nay chúng ta chỉ quan tâm đến một vài ý nghĩa khi suy niệm bài Thương Khó của Chúa nhật Lễ Lá này.
Trước hết, nơi cây Thập Giá của Chúa Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa, Ngài ôm lấy tất cả nhân loại trong vòng tay của Ngài, mang lấy tất cả tội lỗi của chúng ta trên đôi vai vô tội của Ngài. Và chính vì thế mà chúng ta được hưởng nhờ ơn tha thứ mà Ngài thể hiện ra nơi cây Thập Giá.
Cùng với mặc khải đó, thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu còn tỏ lộ một điều thứ hai là sự độc ác dã man và tội lỗi của con người. Bởi lẽ, có cây Thập Giá trên đồi Canvê là có sự hèn nhát của ông Phêrô, có sự phản bội của Giuđa, có sự toan tính quyền lực của những người lãnh đạo lúc bấy giờ, có sự toan tính lợi lộc của những người làm ăn thời bấy giờ. Tất cả gộp lại tạo nên cái chết của Chúa Giêsu trên cây Thập Giá. Ở trong quá khứ, người Công Giáo chúng ta có thói quen đổ tội cho dân Do Thái đã giết Chúa Giêsu. Ngày hôm nay thì Giáo Hội có một cái nhìn khác, Giáo Hội đã nói trong Sắc lệnh “Đối Thoại Với Các Tôn Giáo” rằng: “Không thể nào kết án một cách hàm hồ cho dân cư ở Giêrusalem lúc bấy giờ và cho toàn dân Do Thái phải chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu, cho dẫu những người cầm quyền lúc bấy giờ đã quyết định như thế”. Hơn nữa, Giáo Hội còn nói thêm rằng: “Mỗi một người Công Giáo phải thấy rằng tội lỗi của mình chính là những cái đinh đóng vào Chúa Giêsu”. Thánh Phanxicô Assisi cũng đã nói rằng: “Anh chị em không biết rằng mỗi một tội anh chị em phạm là anh chị em đóng đinh Chúa Giêsu trên cây Thập Giá hay sao?”. Chúng ta chứ không phải người Do Thái. Chính vì thế, cây Thập Giá của Chúa Giêsu bộc lộ sự dã man, độc ác, tội lỗi của anh, của chị, của tôi. Cho nên, khi đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu thì con người thật của chúng ta được phơi bày ra: có những lúc chúng ta cũng phản bội Chúa như Giuđa, có những lúc chúng ta cũng chối Chúa như Phêrô, có những lúc chúng ta cũng làm ngơ, hại người như Philatô, có những lúc chúng ta cũng lên án và vô ơn bạc nghĩa như đám đông dân chúng Do Thái.
Và cùng với việc tỏ lộ khuôn mặt tội lỗi của chúng ta thì cây Thập Giá của Chúa Giêsu cũng bộc lộ khuôn mặt của người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo đó chính là Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá, Đấng mà khi phải đối diện với đau khổ và cái chết, mà theo bản tính tự nhiên, Ngài đã run rẩy, sợ hãi, kinh khiếp đến nỗi Ngài phải thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” và “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất”. Thế nhưng, người con ấy vẫn cố gắng vượt qua khổ đau để thưa lên rằng “Xin theo ý Cha”, và lời cầu nguyện cuối cùng trong cuộc đời là: “Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha”. Ước gì chúng ta trong những giây phút mà cuộc đời gặp thử thách và đau khổ chứ không phải là hạnh phúc và sướng vui mà mình có thể nói lên câu đó: “Lạy Cha, con phó sự sống con trong tay Cha”. Tâm tư đó là tâm tư chỉ có những người con hiếu thảo với cha mình trên trời mới dám dâng hiến như vậy, mới dám trao phó và tín thác như thế.
Cho nên, cây Thập Giá Chúa Giêsu, một đàng Thiên Chúa tỏ mình là Đấng yêu thương tha thứ, hy sinh mạng sống vì chúng ta; một đàng chúng ta bị vạch trần tội lỗi của mình và đồng thời Chúa Giêsu bộc lộ dung nhan của người con hiếu thảo.
Chính vì thế, khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu hôm nay và nhất là trong Tuần Thánh này, mỗi lần chúng ta chiêm ngắm cây Thập Giá Chúa Giêsu, ước gì chúng ta nhận ra ở đó khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha thương xót và tha thứ, ước gì chúng ta nhận ra ở đó con người tội lỗi của mình và ước gì chúng ta cũng nhận ra ở đó khuôn mặt của người con hiếu thảo là Chúa Giêsu để mình bắt chước lối sống của người con hiếu thảo đó. Khi chúng ta khám phá được như vậy, lúc mà mình đối diện với cây Thập Giá của Chúa Giêsu và ngước nhìn lên Ngài với lòng tin thì lúc đó ơn cứu độ sẽ đến với chúng ta. Amen.
60. Chúa Nhật Lễ Lá
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta giờ đây rất quen với danh từ nghĩa địa: người chết mang ra nghĩa địa, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta cũng quen dùng đồ vật từ nghĩa địa, thí dụ như xe nghĩa địa, TV nghĩa địa, không biết làm sao kể cho hết những đồ nghĩa địa mà chúng ta đang dùng. Chúng ta vẫn biết đây là những thứ không còn đáp ứng nhu cầu của một số người, nên họ cho vào nghĩa địa. Thế mà đó lại là những thứ cần thiết và đôi khi rất quí giá đối với một số người khác. Đồ vật là như thế, số phận của nó là như thế. Khi không còn hữu dụng nữa, thì nó phải bị vứt ra ngoài. Con người nhiều khi cũng chịu chung số phận với đồ vật. Khi không còn giúp ích được cho người khác nữa, thì khó có thể tồn tại. Chúng ta đang sống trong một xã hội với thời buổi kinh tế thị trường, chạy theo lợi nhuận, nên đôi khi chúng ta cũng cảm thấy vướng bận, đối với những người già cả không còn giúp ích gì cho chúng ta nữa, mà trái lại còn gây nên đủ thứ phiền hà. Nghe thì thật bất nhẫn, nhưng chúng ta cũng muốn sớm đưa những thứ vướng bận đó ra nghĩa địa. Con người muốn tìm sự thoải mái cho chính mình mà nhiều khi họ bỏ qua, hay không còn biết gì đến nhiều thứ rất cần thiết, những thứ mà một người bình thường không thể thiếu được: như chữ hiếu, lòng biết ơn và tôn trọng nhân phẩm.
Trong việc cử hành phụng vụ ngày hôm nay, chúng ta vừa chứng kiến một cảnh bi hài kịch. Những con người đó, những môi miệng đó, những đôi tay đó: Họ vừa hoan hô mừng rở, vì họ đã được ăn bánh, đã được chữa bệnh, đã được nghe giảng dạy và họ cũng đã từng mơ ước được sống với Ngài. Nhưng rồi cũng những con người đó, giờ đây họ lại lớn tiếng đòi đóng đinh Đấng đã từng thi ân cho họ. Vì giờ nầy đây, họ thấy Chúa Giêsu không còn cần thiết nữa. Họ cũng nhận thấy Ngài không biết vâng lời họ, Ngài cũng không phục vụ cho những lợi nhuận riêng tư của họ, Ngài không thực hiện đúng với những gì họ mong muốn. Nói đúng ra Ngài không đáp ứng nhu cầu họ đòi hỏi, nên họ loại Ngài ra khỏi cuộc sống của họ. Họ muốn cho Chúa Giêsu vào nghĩa địa của họ. Nhưng Ngài vẫn yêu thương những con người như thế, Ngài biết họ lầm lạc trong suy tư, thiển cận trong tầm nhìn và nông nỗi trong hành động. Ngài đã chịu treo cao lên để kéo họ lên với Ngài, Ngài đã chịu chết vì họ và đã sống lại, để mang cho họ sức sống mới.
Vở bi hài kịch của năm xưa, mặc dù đã trải qua 2000 năm, vậy mà nó cứ vẫn diễn ra hằng ngày. Khi nghe đọc bài thương khó chắc chúng ta không khỏi đau lòng. Nhưng nếu nhìn lại, mỗi người cũng không khỏi giật mình. Nhiều khi chúng ta cũng góp phần vào những tiếng la vang dội, đòi đóng đinh Thiên Chúa của mình. Đôi lúc chúng ta cũng cộng tác với những người cầm roi, để làm cho thân thể nhiệm mầu thêm đau đớn. Cũng có những lần, chúng ta đệm thêm những chiếc gai nhọn, đặt lên đầu Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Thế mà chúng ta vẫn cứ ung dung tự tại, đôi khi còn tự hào về chính mình, tự hào vì mình đã đè bẹp được người khác, tự hào vì bao nhiêu người phải khiếp sợ khi nhìn thấy chúng ta. Cuộc sống hằng ngày chúng ta chỉ biết đòi hỏi để thỏa mản những nhu cầu riêng tư, vì tính ích kỷ đã vương lên quá cao, nên chúng ta bất chấp những thủ đoạn, miễn sao cho bản thân của mình có lợi. Còn người khác ra sao thì mặc kệ. Chúng ta cứ lạnh lùng trước những lời van xin thống thiết, cứ hành động mà chẵng biết đó có phải là sự công bằng hay không, vì con tim yêu thương mà Thiên Chúa đã đặt trong bản thân mỗi người, giờ đây chắc có lẽ, nó không còn có những nhịp đập bình thường nữa. Những lúc đó, là những lúc chúng ta cộng tác vào cái chết đau thương của Đấng đã từng yêu thương chúng ta. Những lúc đó, chúng ta đã muốn loại trừ Đấng đã từng thi ân cho chúng ta. Những lúc đó, chúng ta muốn đem Thiên Chúa của mình vào nghĩa địa, vì trong những lúc đó Ngài không thể phục vụ cho những lợi ích ngông cuồng của chúng ta, cho nên Ngài không còn hữu dụng, không còn cần thiết cho cuộc sống của mình nữa. Không lẽ, cái thế thái nhân tình của năm xưa, giờ đây lại hiện diện nơi chính bản thân của chúng ta sao? Không lẽ Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, chúng ta lại xem Ngài như một món đồ dùng hằng ngày, để khi nào có lợi thì chúng ta chạy đến van xin, khi nào Ngài cản trở những việc làm bất chính của mình, không phục vụ cho những lợi ích cá nhân, thì chúng ta loại trừ Ngài ra. Thế mà Thiên chúa vẫn yêu thương, vẫn tha thứ, Thiên Chúa vẫn kêu mời chúng ta hướng lên cao với Ngài, Thiên chúa vẫn thông truyền sự sống mới cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn mong muốn chúng ta được đỗi mới và sống trong vòng tay của Ngài.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe lời mời gọi của Chúa, luôn bước đi trong tình thương của Ngài và có đời sống mới tốt đẹp hơn.
61. Tội lỗi của ta.
Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con đường, rải rác trên mặt đất. Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những lá cây của nhà mình vào những giỏ nhựa, và chuyển đến cho những người hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra sao.
Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả, khi nhìn thấy những lá cây rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước lên trên những lá cây thối rữa đó, dường như thể chúng chưa bao giờ hiện diện. Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là một trong những người này.
Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi cỏ và lối đi cả nhà họ. Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi, và tạo ra một mối nguy hại đối với các tài xế. Nhưng người đó không hề bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền người khác vì tội lỗi của họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông thuộc loại người này.
Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp những lá cây của nhà họ, nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là phần đất và trách nhiệm của người đó. Loại người này đại diện cho những người biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.
Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không chỉ thu gom những lá cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những lá cây ngoài đường nữa. Và người đó làm công việc này một cách âm thầm, không hề phàn nàn gì cả. Người đó nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta. Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất không hề phạm tội.
Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn núp phía sau người khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Nếu biết nhìn nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất chúng ta có thể cố gắng cảm thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng loại và của cả thế giới nói chung.
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là một phần tử ở trên mảnh đất của nhân loại.
62. Đức Giêsu, Mêssia vinh quang và đau khổ
Lễ lá hôm nay cho thấy sự oai phong của Messia khởi hành vào đền thánh Giêrusalem. Ngài vào thành trong sự tung hô chúc tụng vang trời của dân chúng. Điều này rất hợp lý, vì Thiên chúa viếng thăm dân người thì đáng được dân Người đón tiếp trong niềm hoân hoan, trong tiếng tung hô vang dậy vì Người ngự đến là để cứu chuộc dân người và đem hòa bình cho các dân các nước. Tuy nhiên, mục đích vào thành của Chúa Giêsu không nhằm đến việc tung hô bên ngoài bằng môi miệng nhưng Ngài nhằm thực hiện lời sấm các tiên tri về Ngài.
Đức Giêsu vào thành trong những lời hoan hô chúc tụng của dân chúng vốn coi Người là Vị Cứu Thế. Chúa Giêsu cũng có ý tỏ mình cho Israel và cho biết sứ mệnh thiên sai cao cả của Ngài. Tuy nhiên, dân chúng chưa hiểu đúng đắn mạc khải của Ngài. Đa số dân chúng còn nghĩ rằng sứ mệnh Mesia là đòan kết dân chúng lại dưới quyền lãnh đạo của Ngài để đuổi quân Rôma ra khỏi bờ cõi của họ. Đức Giêsu cỡi lừa con vào thành là đi ngược lại ý tưởng đó, vì Chúa Giêsu không phải là ông vua dùng sức mạnh quân sự để bắt các dân làm nô lệ cho Isrel nhưng đến để cứu các dân khỏi nghèo khổ, đói khát, thù hận và những hình thức bất công. Ngài không đến để kết án người khác nhưng là để tha thứ cho họ. Ngài đến để cho dân chúng tìm được một cuộc sống có giá trị vững bền. Ngài tiến vào thành với tư cách một vị vua hiền từ cỡi lừa con tiến vào như Giacaria đã nói trước: Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!…Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Zac 9,9). Vị vua hiền từ này chiến thắng những thế lực thù địch mạnh nhất bằng cái chết trên thập giá chứ không bằng vũ lực của các vua trần thế ngồi trên La mã.
Chúng ta là môn đệ Chúa hãy theo tinh thần của Chúa, sống phù hợp với niềm tin và luân lý yêu thương để làm chứng cho Chúa trước mặt người thế. Chúng ta không bắt chước dân Do thái đón nhận Chúa để rồi kết án thập hình cho Chúa nhưng đón nhận lời Chúa và giữ đúng đường lối Chúa dạy, biết vác thập giá hàng ngày để mai sau được vào vinh quang với Người.
Chúa Giêsu để dân chúng tung hô Người là con vua Đavid nhưng không vì thế mà người quên bổn phận chịu tử nạn để rồi Phục sinh. Chúng ta sống giữa thế gian không vì sự khen tặng, lôi cuốn, dễ dãi của thế gian mà xao lãng bổn phận người kitô hữu. Chúng ta theo Chúa không vì lợi lộc trần gian chóng qua nhưng vì hạnh phúc vĩnh cửu bền lâu Chúa sẽ ban cho.
Lạy Chúa Giêsu, trong ngày Chúa sắp chịu nạn này, chúng con bỗng nhớ đến những ý tưởng dại dột của mình. Chúa từ bỏ những lợi lộc trần gian vì chúng con. Vậy mà hôm nay chúng con đang còn tìm lợi lộc và danh lợi. Nhiều khi vì những danh lợi đó mà con xao lãng việc thờ phượng Chúa, đối xử bất công với anh em tha nhân dưới nhiều hình thức khác nhau. Chúng con xin hứa sẽ thay đổi cuộc sống để làm sáng danh Chúa và mai sau được Chúa thưởng công bội hậu trên Thiên đàng.
63. Thái độ.
Không có điểm nào trong việc trở nên nhạy cảm về nỗi đau khổ. Người ta có thể quá bị đụng chạm, đến nỗi họ trở nên cay cú, và sẽ không bù đắp lại được. “Một sự hy sinh quá lâu dài, có thể làm cho trái tim trở thành chai đá” (W.B. Yeats).
Tuy nhiên, nỗi đau khổ có thể trở thành một cơ hội. Đây không phải là vấn đề lý tưởng hóa nỗi đau khổ, nhưng là đương đầu với nó trong niềm hy vọng. Giá trị của nỗi đau khổ không hệ tại ở cảm giác đau đớn của nó, nhưng hệ tại ở thái độ của người chịu đau khổ. Nỗi đau khổ có thể thanh tẩy linh hồn con người, và biến đổi tính cách của người đó. Nỗi đau đớn có thể mang lại hiệu quả. Nỗi đau khổ là một phần thiết yếu trong quá trình trở thành con người thực sự, nghĩa là một người có lòng thương xót và trưởng thành.
Chúng ta không được coi nỗi đau khổ như là một sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thiên Chúa không trừng phạt bất cứ ai. Quả thật Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ, chỉ vì điều tốt đẹp có thể xuất phát từ nỗi đau khổ mà thôi. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần với Người hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Người.
Thật là một sự an ủi lớn lao cho chúng ta, khi nhận biết rằng Đức Kitô, Đấng Vô Tội và Không Hề Phạm Tội, lại đi trên con đường đau khổ trước chúng ta, và Người đã đi đến tận cùng. Trên thánh giá, Người gom tất cả nỗi đau của nhân loại, và biến thành của riêng Người.
Trong suốt thời cộng sản, thi sĩ Irina Ratushinkaya đã sống một thời gian trong các trại lao động ảm đạm ở nước Nga. Bà nói “Cách thức tốt nhất để giữ được nhân cách của bạn trong các trại này, là quan tâm nhiều hơn đến nỗi đau khổ của người khác, hơn là của bản thân bạn” Chúng ta không thể học hỏi được về lòng thương xót, nếu không biết đau khổ.
Trong Cuộc Khổ Nạn của Người, chúng ta nhận thấy cách thức Đức Kitô quan tâm đến người khác – Người quan tâm đến những phụ nữ thành Giêrusalem đồng cảm với Người, Người quan tâm đến tên trộm, và tất nhiên Người quan tâm đến mẹ của Người. Nơi Người, không có gì khác ngoài tấm lòng yêu thương. Ngay cả khi bị đóng đinh tay chân trên thánh giá, Người vẫn tiếp tục yêu thương.
Đức Giêsu không chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi đau khổ. Người đã chết để dạy cho chúng ta cách thức chịu đau khổ. Mặc dù con đường đau khổ chật hẹp và khó khăn, nhưng từ khi Đức Giêsu đi qua đó, thì nó không còn như vậy nữa. Một ánh sáng rạng ngời chiếu tỏa trên nó. Những ai biết liên kết những đau khổ của mình với những đau khổ của Đức Kitô, thì những đau khổ đó sẽ trở thành nguồn ân sủng cho toàn thể cộng đồng, và họ sẽ được chia sẻ vinh quang Phục sinh của Đức Kitô.
64. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung cũng như bối cảnh lịch sử của “vụ án” này. Bài tường thuật cuộc thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại… Trước những lời tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu có phải là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa” không? Tôn trọng tư cách thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: “Đúng như lời ngài nói”, tức là Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa”. Theo luật Do thái: “Hễ ai nói phạm thượng thì người đó đáng chết”. Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định: Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi. Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội. Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: “Máu của Chúa đổ ra để muôn người được cứu độ”. Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
65. Vào thành.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài thơ vô danh như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến cho cuộc đời tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng. Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời mầu nhiệm của Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và nhãn quan của Thiên Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ Thiên Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử siêu việt khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành xử đấy đưa nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn Philipphê thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa Giêsu Kitô và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ. Thánh Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài để trao ban ơn cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch sử loài người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi qua.
66. Chúa Nhật Lễ Lá B
“Dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”
Hôm nay dân Do thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem hết sức long trọng, đây là một hình thức đón tiếp vị vua chiến thắng vinh quang trở về. Họ lấy những cánh lá, trải xuống đường, tung hô vị vua của họ “hoan hô con vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Thật là náo nhiệt, thật là tưng bừng, biết bao nhiêu lời chúc tụng, biết bao nhiêu lời hoan hô, không thể đếm nổi, không thể kể hết được.
Do đâu mà có cảnh náo nhiệt tưng bừng này? Dịp này là đại lễ của người Do thái, mọi người từ khắp nơi tề tựu về Giêrusalem để dự lễ. Trong số này có những người chưa hề nghe biết về Đức Giêsu, có người cũng đã nghe, người nghe ít, kẻ nghe nhiều và có những người từng chứng kiến những phép lạ Đức Giêsu đã làm, nào là cho người què đi được, người câm nói được, người điếc nghe được, người mù thấy được, người bị quỷ ám được lành mạnh, người chết được sống lại, họ đã từng chứng kiến và hưởng nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư thừa; và họ đã từng nghe lời giảng của Ngài, họ thích thú nghe và Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền.
Trong đám đông dân chúng hôm nay, có rất nhiều thành phần, có những người tò mò hiếu kỳ, có những người ngưỡng mộ, có những người thọ ơn của Đức Giêsu… Những người này hò reo vang dậy để tung hô và đón rước Chúa vào thành.
Đáng buồn là những lời hoan hô chúc tụng không khéo dài được bao lâu, nó như một thứ lửa rơm mà thôi, bùng lên rồi tắt lim, bạo phát, nhưng cũng bạo tàng. Thật buồn cho Đức Giêsu trong hoàn cảnh này, tình người thật đen bạc, đổi trắng thay đen, như ông bà ta dạy “dò sông dò biển dễ dò, có ai lấy thước mà đo lòng người”. Chỉ mấy ngày sau đó, cũng những con người này, cũng những môi miệng này, cũng những cánh tay này, lại kết án Đức Giêsu, nhưng lời hoan hô chúc tụng không còn nữa mà thay vào đó những lời đả đảo, quá khích “giết đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá”.
Ta không biết Đức Giêsu nghĩ gì? Nhưng có lẻ Chúa buồn lắm, buồn đến chết đi được, có lẻ Ngài đã cảm nghiệm được điều đó, nên Ngài đã cầu nguyện thống thiết với Chúa Cha trong vườn cây dầu “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này, nhưng theo ý Cha, đừng theo ý con”. Buồn lắm nhưng cũng thương lắm, buồn vì lòng người đen bạc, nhưng thương vì con người đang bị tội lỗi thống trị cần phải được cứu chuộc. Cuối cùng thì tình thương đã chiến thắng, tình yêu đến thì nỗi buồn không còn nữa. Dù lòng người có thay đổi nhưng Chúa vẫn trung thành yêu thương cứu chuộc con người.
Lạy Chúa, xin ban ơn trợ giúp để chúng con luôn trung thành sống ơn gọi làm con Chúa đến trọn đời. Xin cho chúng con biết bắt chước Chúa lấy tình thương mà đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh sống của chúng con. Amen.
67. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier
(Lm. Gioan B. Văn Hào chuyển ngữ)
“Ôi Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mc 15,34).
Bước vào tuần thánh, chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram, có nghĩa là “ con của Cha”. Họ đã chọn một người “con” với một quá khứ đan kín tội ác, và đòi kết án người “Con” duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau “ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau… anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là “Thiên Chúa đã tôn vinh Người… mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa”.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại một chân trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là một người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi chúng ta gẫm suy việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) “Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não nuột “Cha ơi, sao cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt vọng… chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
68. Qua đau khổ Thánh Giá tới vinh quang Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Vào những ngày cuối đời tại thế, Đức Giêsu bị Giuđa phản bội, nộp Thầy mình để đổi lấy ba mươi đồng bạc (Mt 26:15). Nghĩ đến viễn tượng đau khổ và tử nạn Người sắp phải chịu, Đức Giêsu đi ra Núi Cây Dầu cầu nguyện. Cầu nguyện xong thì Giuđa, kẻ phản bội dẫn một toán vệ binh Đền thờ đến bắt Đức Giêsu bằng một dấu hiệu là nụ hôn. Để bảo vệ Thầy mình, một người trong nhóm các tông đồ tuốt gươm chém đứt tai phải tên đầy tớ của thượng tế (Mc 14:46). Phúc âm Nhất lãm không nêu danh người chém. May thay, Phúc âm thánh Gioan có xác định là ông Phêrô chủ động và nêu danh cả viên đầy tớ bị chém là Man-khô nữa (Ga 18:10).
Nói đến việc chém đứt tai tên đầy tớ, thì có linh mục kia từ khi vào chủng viện trung học cứ thắc mắc: Sao thánh Phêrô chém kiểu nào mà chỉ làm đứt tai tên đầy tớ thôi, mà không làm bị thương vai hay cổ? Hay phải dịch là xẻo tai? Mà xẻo tai thì lại không thực tế trong trường hợp này. Để xẻo, thì một tay cần phải cầm tai của tên đầy tớ, còn tay kia cầm gươm để xẻo thì mới có điểm tựa. Nếu vậy, đối phương thấy đau sẽ vùng vẫy để tẩu thoát. Còn nếu nhờ các tông đồ khác kìm kẹp hắn lại để thực hiện việc xẻo, thì cũng không giúp được gì, bởi vì vệ binh Đền thờ đi bắt Đức Giêsu thế nào cũng phải đông hơn và có khí giới lợi hại hơn để áp đảo nhóm Mười Một.
Trở lại việc chém đứt tai thì linh muc đó lý luận: Nếu thánh Phêrô bổ thẳng từ trên xuống dưới thì thế nào cũng làm bị thương vai của tên đầy tớ. Nếu chém chéo, thì không những làm đứt tai mà còn làm bị thương cả đầu hay cổ nữa. Nếu tai cụp gần vào đầu thì lại càng khó chém. Có lẽ tên đầy tớ có tai vảnh ra như tai lừa nên mới dễ chém như vậy. Dầu sao đi nữa, linh mục đó cũng kết luận rằng thánh Phêrô phải có võ thuật, nhất là làm nghề chài lưới ở biển hồ Tibêria thì càng phải biết võ mà đề phòng hải tặc, nếu có. Như vậy khi chém tên đầy tớ, thánh Phêrô đã phải dùng thiên giác để cho thanh gươm dừng lại ở điểm nào đó cho khỏi làm bị thương cổ hoặc vai của tên đầy tớ. Nói cách khác, thánh Phêrô phải dùng trí óc để điều khiển thần kinh, rồi thần kinh phối trí với nhãn quan và bắp thịt cánh tay để điều khiển hướng đi của thanh gươm, cho gươm dừng lại ngay trước vai. Như thế thánh Phêrô chỉ chém để cảnh cáo nhóm người đến bắt Thầy mình như là ngụ ý nói với chúng: Tụi bay đừng có đụng đến Thầy của chúng ta nghe không, kẻo phải ăn đòn như thế này. May thay, Phúc âm thánh Luca có ghi lại việc Chúa chữa tên đầy tớ: Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành (Lc 22:51).
Như vậy đường lối của Đức Giêsu khác với đường lối loài người. Đường lối của Đức Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha cho nên Người bảo Phêrô dừng lại và xỏ gươm vào bao (Mt 26:52). Hãy tưởng tượng xem những đau khổ về thân xác và tâm hồn mà Chúa phải chịu vào những ngày cuối đời. Một tông đồ thân tín phản bội bằng một nụ hôn, tông đồ khác chối Thầy. Số còn lại thì lẩn trốn như trạch, không dám xuất đầu lộ diện để khỏi bị liên lụy. Có một chàng trai đi theo Đức Giêsu, thấy nguy cơ, liền trút tấm vải che thân, tẩu thoát, mình trần như nhộng (Mc 14:51-52). Những nhà chú giải Thánh kinh đưa ra nhận định: chàng trai đó chính là thánh sử Mác-cô. Nếu theo nhận định của những nhà chú giải Thánh kinh về căn tính của chàng thanh niên tẩu thoát, mình trần trụi, thì tình tiết trần truồng có thể được giải thích như sau. Đức Giêsu và các tông đồ có lẽ ăn bữa Vượt qua tại nhà thân mẫu ông Mác-cô, trong một căn lầu, rộng rãi, có trường kỉ như Người đã chỉ bảo (c. 12). Khi Chúa Giêsu và các tông đồ xuống lầu đi ra vườn Gét-sê-ma-ni, Mác-cô ở dưới lầu nghe hay nhìn thấy – có lẽ vữa tắm xong – cũng đi theo, vội lấy khăn bằng vải gai khoác vào người cho đỡ lạnh – lạnh vì ông Phêrô phải ngồi gần lửa mà sưởi (c. 54).
Philatô thấy Đức Giêsu không làm chi đáng tội cho nên muốn tha cho Người, nhưng lại nể dân. Còn dân chúng thì nhạo báng, vu oan, khinh rể và xúc phạm đến Chúa. Họ cứ khăng khăng đòi đóng đinh Chúa. Vì áp lực, Philatô đã phải nhượng bộ cho đóng đinh Chúa.
Trên thập giá, chỉ có ba cái đinh giữ xác Chúa lại, chứ người ta không cột chân tay Chúa vào thập giá, và không có bệ đỡ chân Chúa đâu. Đa số những cây thập giá mà người ta làm để tôn kính thì thấy có bệ dốc. Mà bệ dốc bốn mươi lăm độ như vậy thì cũng không đỡ được chân Chúa khỏi trụt xuống. Đóng đinh ai trên thập giá là một hình phạt của tội nhân. Với hình phạt xưa kia khi chưa có phong trào nhân quyền bảo vệ phạm nhân, người ta đâu có quan tâm đến việc làm cho tội nhân đỡ đau đớn bằng cách đặt bệ chân đâu? Cho nên thân xác kéo ghì xuống, làm vết thương ở hai cổ tay và hai chân toạc ra, đau nhức, và xương sườn bị giãn ra. Máu cùng nước trào ra từ tay chân và cạnh sườn. Đau đớn, nhức nhối, kiệt sức và ngộp thở mà chết!
Đừng tưởng rằng những đau khổ mà Chúa phải chịu không là gì vì Người là Thiên Chúa. Không phải vậy đâu. Chúa Giêsu cũng là người. Và Chúa chịu đau khổ và chịu chết với tư cách là người. Đức Giêsu không phải là năm mươi phần trăm Chúa và năm mươi phần trăm người cộng lại. Nơi Đức Giêsu có 100% Chúa và 100% người. Ai chủ trương nơi Đức Giêsu chỉ có 50% thiên tính và 50% nhân tính cộng lại là rối đạo. Đức Giêsu là Chúa hoàn toàn và trọn vẹn. Đức Giêsu cũng là người hoàn toàn và trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi. Với tư cách là Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết được. Còn với tư cách là người, Đức Giêsu cũng sợ đau khổ và sợ chết. Vì thế mà Đức Giêsu đã xin với Thiên Chúa Cha – nếu có thể được – cho Người khỏi uống chén đắng, nghĩa là khỏi chịu đau khổ và chịu chết, nhưng Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (Mc 14:36). Và Đức Giêsu đã chịu đau khổ tột bậc.
Phúc âm hôm nay ghi lại, vào giờ sầu khổ trong vườn cây dầu: Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến (Mc 14:33). Rồi Người nói với các môn đệ: Tâm hồn Thầy buồn đến chết được (Mc 14:34). Phúc âm thánh Luca ghi thêm: Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44). Sầu khổ hay khổ nạn theo nguyên tự Hy ngữ mà La ngữ gọi là agonia. Theo Ronald Rolheiser thì vào thời Đức Giêsu, agonia là từ ngữ mà giới thể tháo gia dùng để làm ấm hay làm nóng thân thể cho ra mồ hôi để tranh giải ô lim pích. Theo nghĩa này thì thánh sử Luca muốn nói trong giờ khổ nạn Chúa cũng cầu nguyện, chiến đấu với nội tâm đến toát mồ hôi ra để sửa soạn cho bản án đóng đinh trên thập giá (1).
Đức Giêsu xin với Thiên Chúa Cha cho Người khỏi phải uống chén đắng, nghĩa là khỏi phải chịu khổ và chịu chết. Tuy nhiên Người cũng xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đức Giêsu đã phải đồng hoá mình với người tôi tớ chịu đau khổ của Giavê Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Isaia hôm nay: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6). Còn thánh Phaolô thì ghi lại về Đức Giêsu như sau: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá (Pl 2:8).
Nếu việc suy niệm về cuộc thương khó và khổ hình của Đức Giêsu không khơi dậy được tâm tình sám hối về tội lỗi mình và khóc thương Chúa, thì nên đi coi phim: The Passion of the Christ của Mel Gibson. Những học giả Thánh kinh cho rằng đó là cảnh diễn tả khá trung thực việc quân lính đánh đòn Chúa. Đó là hình phạt mà các thể chế có pháp lý thời Chúa Giêsu tại miền Trung Đông dùng để phạt phạm nhân. Hình phạt phạm nhân của những thể chế chịu ảnh hưởng Hồi giáo đời nay, xuất phát từ Trung Đông, vẫn dùng roi da để cho lí hình có vai u thịt bắp quật vào phạm nhân.
Trong rạp coi phim The Passion of the Christ, mà nhậy cảm, ta sẽ thấy nước mắt mình tuôn trào ra làm ướt đẵm hai gò má. Ta sẽ nhận ra chính tội lỗi mình đã khiến Chúa bị đóng đinh. Rồi sẽ thấy mình ngậm ngùi khóc thương Chúa trên đường ra về. Kín đáo hơn thì có thể khóc thầm từ rạp hát tới lúc mở cửa vào xe. Rồi cũng sẽ thấy mình bớt phạm tội.
Chúa Giêsu đã chịu chết không phải chỉ cho nhân loại tội lỗi xa xưa. Chúa còn chịu khổ hình và chịu chết cho tội lỗi mỗi người để ta được sống. Vậy thì trong Mùa chay ta đã làm gì để đền bù tội lỗi? Ta đã làm gì để nhổ gai nhọn nhận vào đầu Chúa hay ta đã đóng thêm gai nhọn và đinh sắt vào đầu và mình Chúa? Ta đã làm gì để an ủi Chúa và an ủi những người xấu số là hình ảnh và là hiện thân của Thân thể Màu nhiệm của Chúa: đói khát, rách rưới, đau yếu, bệnh tật, tù đầy, vô gia cư, vô nghề nghiệp? Hay ta chỉ phàn nàn, than thân trách phận và còn kêu trách Chúa?
Lời cầu nguyện của kẻ sám hối:
Lạy Ngôi Hai Thiên Chúa làm người!
Vì tội lỗi nhân loại và cả tội riêng con,
mà Chúa phải chịu khổ hình và chịu chết,
đau đớn và ô nhục trên thập giá.
Con xin sám hối ăn năn tội lỗi con:
những tội con đã xúc phạm đến Chúa,
và những tội xúc phạm đến anh chị em
là thân thể Mầu nhiệm của Chúa.
Xin Chúa thương xót thứ tha
để con được sống lại về phần linh hồn.
Với Chúa PHỤC SINH. Amen.
——————————–
(1) Dựa theo Ronald Rolheiser trong Catholic Update. Cincinnati, Ohio: St Anthony Messenger Press, February 2008
69. Tuần lễ mang lại ơn Cứu độ – Lm Trần Bình Trọng
Cùng với Giáo Hội, hôm nay người tín hữu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh bắt đầu từ Chúa nhật Thương Khó đến Chúa nhật Phục sinh, là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ. Đó là tuần lễ ghi lại nhiều biến cố nhất trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian. Trong Tuần thánh, Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu độ mà Chúa Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày Lễ Lá, đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.
Chúa Nhật Thương Khó, ta được nghe và suy niệm Bài Thương khó của Chúa (Mc 14:1-15:47) khiến ta cảm động, khóc thương Chúa. Đi ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa, không phải để nghe ai ngắm giọng Bắc, ai giọng Trung, ai giọng Nam, ai ngâm cung triều, ai ngâm cung dòng. Việc suy niệm về cuộc khải hoàn của Chúa vào thành Giêrusalem, về cuộc khổ nạn trong vườn câu dầu, về cuộc khổ hình thập giá, về cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa, chỉ mang lại ý nghĩa, nếu ta biết đem ra áp dụng vào đời sống.
Phúc Âm Thứ Hai Tuần thánh kể lại câu chuyện Chúa đến dùng bữa tại nhà ba chị em Marta, Maria và Lazarô. Giuđa phản đối việc Maria làm khi bà đem một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng mà xức chân Chúa, rồi lấy tóc mà lau (Ga 1:3). Giu-đa nại cớ để dành tiền cho người nghèo, nhưng thực sự Giu-đa không quan tâm gì đến người nghèo (Ga 1:4-5). Việc Maria làm Chúa bảo cứ để bà làm công việc ám chỉ về ngày táng xác Chúa. Hôm nay là thời giờ giúp ta suy niệm cái kinh nghiệm sống đức tin của mỗi người, để tìm ra những yếu điểm của mình và để xem ta có sống trung thực với lòng mình không?
Phúc Âm Thứ Ba Tuần thánh tiên đoán cái tội bán Thày của Giuđa và cái tội chối Thày của Phêrô. Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa, có lúc giống Phêrô. Ta giống Giuđa khi ta khước từ ơn Chúa, rồi đóng thêm đinh vào mình Chúa bằng cách sa phạm tội. Ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, không dám tỏ ra mình là người công giáo.
Phúc Âm Thứ Tư Tuần thánh nêu đích danh Giuđa là người sẽ nộp Chúa và cảnh cáo về cái hậu quả trầm luân của kẻ nộp Chúa khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ ấy đừng sinh ra thì hơn (Mt 26:24). Tuy nhiên Giuđa vẫn một mực theo đuổi tội phản bội. Ta thấy tội của Giuđa và tội của Phêrô không khác nhau bao nhiêu. Tuy nhiên lòng thống hối của Phêrô – ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26:75) – tạo ra một trời khác biệt.
Thứ Năm Tuần thánh kỷ niệm việc Chúa rửa chân cho các tông đồ để dạy họ bài học khiêm tốn. Chúa còn bảo các tông đồ rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Hôm nay Chúa còn thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và để tiếp tục Bí Tích Thánh Thể, Chúa còn lập Chức linh mục. Như vậy ta thấy Bí Tích Thánh Thể và Chức linh mục đi liền với nhau vì không thể có Bí Tích Thánh thể nếu không có linh mục.
Thứ Sáu Tuần thánh kỷ niệm cuộc tử nạn của Chúa trên thập giá để làm giá cứu chuộc nhân loại. Hôm nay là ngày ăn chay kiêng thịt. Chúa đã chết cho tội lỗi loài người. Còn ta có cùng với Chúa chết đi cho tội lỗi và các thứ tính mê nết xấu không?
Vẻ trầm lặng của Thứ Bảy Tuần Thánh giúp ta tiếp tục suy niệm về cuộc tử nạn của Chúa và mong được sống lại về phần linh hồn cùng với Chúa sống lại vào CHÚA NHẬT PHỤC SINH.
70. Đừng phản bội Chúa bằng tội lỗi.
(Suy niệm của Lm. Thanh Minh)
Hành trình 40 ngày Mùa Chay đã kết thúc với ngày thứ 7 của Chúa Nhật V Mùa Chay hôm qua. Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá: Khai mạc Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của năm phụng vụ, Hội Thánh hiền mẫu chúng ta tưởng niệm và kính nhớ biến cố Chúa Kitô, bạn trăm năm chí thánh, long trọng tiến vào thành Giêrusalem hoàn tất mầu nhiệm cứu thế, tức là tưởng niệm cuộc thương khó hồng phúc của Người bằng những nghi lễ rất long trọng của Lễ Vượt Qua.
Thánh lễ hôm nay trong phẩm phục màu đỏ, với cuộc rước kiệu lá và các bài thánh ca chúc tụng, tung hô Con vua Đavít, Đấng nhân danh Chúa ngự đến… ở phần đầu thánh lễ, diễn tả một khung cảnh huy hoàng lộng lẫy của một vị vua chiến thắng cỡi lừa tiến vào thành đô Salem. Tuy nhiên, khi thánh lễ khởi đầu, bầu khí hân hoan đó đã biến đổi và phảng phất một bầu khí ảm đạm thê lương cuộc tử nạn của Chúa Kitô và bóng thánh giá đã chập chờn xuất hiện ở cuối chân trời! Bài đọc I diễn tả hình ảnh của Người Tôi Tớ Giavê hiền từ khiêm hạ như con chiên hiền lành bị đem đi sát tế. Bài đọc II trích từ thư thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê ca ngợi gương khiêm nhường tự hạ của Chúa Kitô, đến nỗi từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để chịu chết một cách nhục nhã trên cây Thánh Giá, chính vì thế, Đức Chúa Cha đã tôn vinh Ngài. Và cuối cùng là bài thương khó theo thánh Marcô tường thuật cho ta thấy rõ cuộc khổ nạn của Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Chúng ta xót xa, bĩu môi, nguyền rủa dân Do Thái thuở xưa vì thái độ bất trung, thất tín, lòng dạ thay trắng đổi đen như trở bàn tay: mới hôm nay reo hò tung hô Con vua Đavít, thứ 6 tuần thánh lại đả đảo hô to: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Ôi, tệ bạc quá! Chúng ta cũng chê trách sự hèn nhát của các thánh tông đồ, đều âm thầm cút hết chỉ còn 3 vị Phêrô, Gioan và Giacôbê trong vườn Cây Dầu với Chúa, nhưng cuối cùng Phêrô cũng nhát đảm chối Chúa 3 lần!
Thế nhưng: “Thấy người lại nhớ đến ta,
Nghĩ mình, mình lại thương mình xót xa!”
Vì tuy chúng ta không ra mặt công khai phản bội, tố cáo đòi đóng đinh Chúa như dân Do Thái, hoặc không chối Chúa như thánh Phêrô, nhưng trong cuộc đời, biết bao lần ta đã phạm tội trong, bỏ bê Chúa và viêc đạo để chạy theo những ham mê xác thịt chóng qua, những của cải hoặc danh vọng phù vân giả trá, đó đều là những lần chúng ta phản bội Chúa, quay lưng lại với Người, đóng đinh Chúa vào thánh giá!
Tuần Thánh là tuần quan trọng nhất của Năm Phụng Vụ, mỗi giờ khắc trôi qua đều thiêng thánh mà chóp đỉnh là Tam Nhật thánh Vượt qua khởi đầu từ thánh lễ Tiệc Ly chiều thứ Năm tuần thánh đến tối thứ Bảy Vọng Phục Sinh, đó là 3 ngày cực thánh.
Sốt sắng tham dự các nghi lễ Tuần thánh, chúng ta hãy để lòng mình đắm chìm trong sự suy gẫm mầu nhiệm thương khó của Chúa Kitô. Chúng ta quyết tâm cùng chết với Người cho tội lỗi, cho con người cũ để cùng được phục sinh vinh hiển với Người trong con người mới, cuộc sống mới vào đêm thánh vọng Phục Sinh.
71. Thông phần đau khổ với Chúa trên Thập Giá
(Suy niệm của Lm. Thái Nguyên)
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?” (Mt 27, 46)
Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của đời sống chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.
Cần nhìn ngắm Thập giá Chúa Giêsu để cảm nghiệm được cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Ngài trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Qua đó, ta cũng hiểu được sâu xa hơn mầu nhiệm thập giá của đời mình và của mọi người, đồng thời khám phá ra ý hướng và cách thức mà Chúa đã chịu đau khổ, để nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau hầu được thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.
Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình chìm lặng xuống, hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy để cho ánh mắt đầy yêu thương và tha thứ của Ngài đốt cháy tâm hồn giá lạnh vì tội lỗi và ích kỷ của ta.
1. Chúa Giêsu bị bỏ rơi.
Trong giây phút đau khổ tột cùng trên Thập giá, Chúa Giêsu đã kêu lên: “Lạy Cha, lạy Cha, sao Cha bỏ con? (Mc 15, 34; Mt 27, 46). Sau khi chịu những nhục mạ và những cực hình tàn bạo của con người, Chúa Giêsu cảm thấy bị bỏ rơi đến mức tột cùng, cảm thấy một sự trống rỗng mênh mông: hoàn toàn vắng bóng Thiên Chúa, không còn cảm giác về sự hiện diện của Cha, Đấng mà Ngài gọi bằng Abba.
“Eli! Eli! Lamma sabacthani?”. Tiếng kêu than này trong ngôn ngữ Do Thái phô diễn một mầu nhiệm kinh khủng về sự kiện: Thiên Chúa từ bỏ Thiên Chúa. Thiên Chúa dường như đã không còn là Thiên Chúa nữa khi Ngài bị tước đoạt trần trụi vì tội lỗi chúng ta. Kinh nghiệm bỏ rơi cho thấy Chúa Giêsu đang ở mức độ tột cùng của mọi nỗi cô đơn: bị loài người từ bỏ không nói chi, nhưng dường như cũng bị chính Thiên Chúa chối từ. Thánh Gioan Thánh Giá cho biết: “Đó là tình trạng bỏ rơi thê thảm nhất mà Chúa Giêsu cảm nghiệm trong cuộc sống trần thế của Ngài… Theo thể thức ấy, Chúa Kitô bị hủy diệt và hầu như trở nên hư không”.
Chúa Giêsu đã từng chịu những nỗi đau khổ ê chề nhất mà cuộc đời có thể mang lại. Cho tới lúc đó Ngài đã trải qua mọi kinh nghiệm của đời sống, nhưng kinh nghiệm về hậu quả của tội lỗi thì Ngài chưa từng nếm mùi, vì là Đấng không hề biết đến tội. Chính lúc trải qua những giây phút cuối cùng như hoàn toàn xa rời Thiên Chúa, Ngài mới trải nghiệm thế nào là sự hủy hoại và độc hại của tội lỗi gây ra. Trong giây phút kinh hoàng, đen tối và rùng rợn đó, Ngài đã xem như mình bị đồng hóa mình với loài người tội lỗi, vì “Thiên Chúa đã biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta” (2Cr 5, 21). Đó là ý nghĩa việc Chúa chịu đóng đinh giữa hai người trộm. Bảy trăm năm trước, Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào số những kẻ bất lương (x. Is 53, 12). Thánh sử Luca cho biết lời tiên tri đó đã ứng nghiệm: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22, 37).
“Vị xứng kỳ đức”: người công chính mà còn bị như thế thì sống đạo đức có ý nghĩa gì? Vậy mà Chúa Giêsu lại sẵn sàng chịu những bất công, Ngài phải chịu đồng cảnh ngộ với những tên gian ác, và phải lãnh lấy nhục hình và cách đối xử tệ bạc nhất của con người dành cho Ngài. Kinh nghiệm chết gần như một người tội lỗi gây nên đau đớn vô vàn, vì Ngài cảm thấy dường như bị xa lìa khỏi Chúa Cha.
Thật ra, Thiên Chúa vẫn có đó như mặt trời vẫn soi sáng mỗi ngày, nhưng áng mây đen dầy đặc của tội lỗi nhân loại đã che kín sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Dù Chúa Giêsu vẫn còn những người thân yêu đứng bên cạnh, nhưng sự hiện diện của họ chẳng thể bù lấp phần nào sự cảm nhận trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn. Điều đó cho ta hiểu rằng, khi con người đánh mất Thiên Chúa là niềm ủi an duy nhất của đời mình, thì tình trạng sẽ ra kinh khủng như thế nào?
Trong nỗi đớn đau và cô đơn khủng khiếp, Chúa Giêsu đã đền tội cho ba hạng người: hạng người từ chối Thiên Chúa; hạng người nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa; hạng người lãnh đạm với Thiên Chúa. Cả ba hạng người này đều hiển hiện ít nhiều một cách nào đó trong lối sống của nhân loại chúng ta, và hậu quả bi thảm của nó thật khôn lường:
– Khi từ chối Thiên Chúa, đời sống của con người trở thành hư vô, và mọi sự trong đó chỉ còn phi lý và vô nghĩa, “cuộc đời đáng nôn mửa” (Jean Paul Sartre).
– Khi nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa, con người trở nên nghi ngờ chính mình. Không thể thiết lập tương quan với Thiên Chúa thì tương quan với tha nhân chỉ còn là vá víu; ý nghĩa và giá trị cuộc sống bị lung lay; bản thân con người dễ trở thành miếng mồi ngon cho sự dữ hoành hành.
– Khi đã lãnh đạm với Thiên Chúa thì cuộc sống và mọi cái trong đó đều trở nên trơ trọi. Trong sự lãnh đạm đó, tình yêu không thể phát sinh, nên hạnh phúc cũng không thể hình thành. Trong tâm trạng đó mọi cái đều trở nên vô hồn, hoang vu và trống rỗng, và cuối cùng, con người là sự bế tắc cho chính mình.
Quả thật, tiếng than thở của Chúa Giêsu đã vang lên từ trong cô đơn sâu thẳm của lòng người, cho con người và vì con người. Trong mức tột đỉnh đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu đã mở rộng trước mắt tột đỉnh tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta. Trong một kinh nghiệm nồng nhiệt, Chị Chiara Lubich đã nói:
” Để chúng con được ánh sáng, Chúa đã trở nên mù lòa.
Để chúng con được hiệp nhất, Chúa đã chịu xa cách Chúa Cha.
Để chúng con được khôn ngoan, Chúa đã trở nên “dốt nát”.
Để chúng con được trở nên vô tội, Chúa đã trở thành người “tội lỗi”.
Để chúng con hy vọng, Chúa đã hầu như tuyệt vọng.
Để Thiên Chúa ở trong chúng con, Chúa đã cảm nghiệm tình trạng bị bỏ rơi.
Để chúng con chiếm hữu Thiên đàng, Chúa đã cảm nghiệm hỏa ngục.”
Hãy nhìn ngắm Chúa Giêsu để ta sống những biến cố đau thương trong cuộc đời mình. Nếu chúng ta cứ bám chặt lấy Chúa, dù có những lúc dường như không có Chúa, dù khi đức tin đã hao mòn và sức lực hầu như dần tàn, thì chính vào lúc cao điểm của mọi gian khó là lúc bình minh ló rạng, là lúc ta vượt thắng.
– Người chiến thắng là người tin rằng Thiên Chúa vẫn ở với mình ngay lúc mình cảm thấy như Thiên Chúa hoàn toàn vắng bóng.
– Kẻ chiến thắng là kẻ trải qua những kinh nghiệm cùng cực nhưng vẫn xác tín rằng mình vẫn đang nằm trong vòng tay đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã sống cách trọn vẹn khi thốt lên: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46). Chúa Giêsu đã qui hướng mọi sự về Cha, đã trao phó tất cả cho cha, và cuối cùng dâng trong tay Cha chính sự sống của mình, và qua đó cũng chính là sự sống của mỗi người chúng ta. Rồi “Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19, 30).
Tâm tình hiếu thảo của Chúa Giêsu đã đạt đến mức độ tối hảo trong việc làm vinh danh Cha. Tình thâm nghĩa thiết thật cao dày khôn sánh! Đẹp quá tình nghĩa Cha-Con thật thắm thiết đậm đà: Cha được rạng rỡ nơi Con, Con được tôn vinh nơi Cha, và Thánh Thần là Tình Yêu kết nối trong sự hiệp thông duy nhất. Nhiệm cục cứu độ là công trình tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, muốn hiệp nhất mọi người nên một trong sự sống của Thiên Chúa bây giờ và mãi mãi.
2. Chúa Giêsu hoàn tất mọi sự
Sau cùng, trên Thập giá, Chúa Giêsu kêu lên một tiếng lớn rồi trút linh hồn. Tiếng kêu đó in đậm trong trí mọi người và nó được bốn sách Phúc Âm ghi lại. Gioan không dùng những từ đó, nhưng cho biết trước khi chết, Chúa Giêsu đã cất lời: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19, 30). Câu này trong tiếng Hy Lạp chỉ có một chữ “tetelestai”, đó là tiếng reo vui của một người chiến thắng sau trận chiến đấu; là tiếng hân hoan của một người đã hoàn tất công việc sau bao gian khổ; là tiếng ca vang của một người đã vượt ra khỏi bóng tối để bước vào ánh sáng. Tiếng kêu cuối cùng Chúa Giêsu trên Thập giá cho thấy Ngài đã chết như một người chiến thắng sự chết, mở ra vinh quang sự sống cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá quả quyết rằng: ” Chính trong lúc cùng cực nhất, Chúa Kitô đã hoàn tất công trình kỳ diệu nhất…Công trình kỳ diệu ấy chính là sự hòa giải và kết hiệp nhân loại với Thiên Chúa bằng ơn thánh” [1]. Thật vậy, cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại dự kiện chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta mà thôi.
Chúa Giêsu đã hoàn tất mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha trong kế hoạch cứu chuộc nhân loại. Ngài đã làm tất cả những gì cần phải làm của một trái tim yêu thương đến tận cùng. Ngài đã hoàn tất để chúng ta bước vào sự khởi đầu của một đời sống mới. Tuy nhiên một cách thiêng liêng vô hình, mỗi linh hồn xa lạc vẫn còn là một đồi Canvê hành hình, mỗi tội phạm vẫn là một Thập Giá mới treo thân Chúa não nề.
3. Thập giá trong đời sống của chúng ta
Trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi, cho chúng ta xác tín rằng, trong giờ cùng cực Chúa Con cảm thấy bị bỏ rơi, cũng là lúc Chúa Cha cùng sống cuộc khổ nạn với Con mình: vì Chúa Cha và Chúa Con luôn là một với nhau và trong nhau ở mọi tình trạng. Chính Cha đau khổ trong Con vì tình trạng vong thân cực độ của loài người do tội lỗi gây nên. Biến cố thập giá thảm sầu là điều mà Cha muốn để biểu lộ tình yêu vô biên nơi Con mình trong Chúa Thánh Thần, để cứu chuộc và hiệp nhất chúng ta lại trong Ngài.
Như thế, một cách huyền nhiệm nhưng rất thực tế, kinh nghiệm bị xa cách Chúa cũng bao gồm kinh nghiệm về sự hiệp nhất với Chúa cách rất trọn vẹn. Cũng chính trong huyền nhiệm này, mọi đau khổ của chúng ta được đón nhận và biến đổi, mọi trống rỗng được lấp đầy, và mọi tội lỗi được cứu chuộc.
Tình yêu tột độ của Chúa Giêsu thúc đẩy chúng ta sống mọi đau khổ như Ngài và trong Ngài. Chúng ta làm được điều này, nếu biết nhìn nhận trong mọi đau khổ của bản thân và tha nhân là một bóng dáng đau khổ vô cùng của Chúa. Mỗi khi đau khổ xuất hiện, chúng ta không xua đuổi và tránh né, nhưng tiếp nhận nó trong thâm tâm, như thể chúng ta đón nhận Chúa. Điều này đòi hỏi chúng ta quên mình để đáp ứng đầy yêu thương những gì Thiên Chúa đòi hỏi trong giây phút hiện tại. Chỉ như vậy, tình trạng tâm hồn mới thật sự thông thoáng, và rồi mọi đau thương cũng sẽ tan dần trong ánh sáng của tình yêu, để lại một sức sống mới mà Chúa muốn làm nên.
Đau khổ nhất thiết cần phải có để phong phú hóa đời sống bản thân ta và tha nhân. Sở dĩ Thiên Chúa để cho chúng ta chịu đau khổ cũng chỉ vì những điều tốt đẹp có thể phát xuất từ chính những đau khổ đó. Nỗi đau khổ có thể đưa chúng ta đến gần Ngài hơn. Qua đau khổ, chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh và tình yêu của Ngài, và là một cách Chúa cho chúng ta được hiệp thông trong chương trình cứu độ của Ngài. Bởi vậy, từ chối đau khổ là từ chối chính Chúa, Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Cho dù chúng ta không chấp nhận đi nữa thì đau khổ vẫn xảy ra theo qui luật tự nhiên, như một phương thế để làm triển nở đời sống. Chính vì không muốn đón nhận đau khổ nên ta mới thật sự đau khổ. Nhưng nếu chỉ đón nhận nó cách bất đắc dĩ, thì trái ngang và oan khiên vẫn còn đó. Khi không đón nhận nó với lòng yêu mến Chúa, đời sống chúng ta mới thật sự là nghiệt ngã và bế tắc.
” Khi nêu cao giá trị của mỗi đau khổ như thể chúng là một trong vô số khuôn mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và khi kết hiệp những đau khổ ấy với đau khổ của Ngài, chúng ta ta mới bước vào sức năng động của đau khổ-yêu thương, để tham dự vào ánh sáng, sức mạnh, an bình của Chúa, và tìm lại được trong chúng ta một sự hiện diện mới mẻ và sung mãn hơn của Thiên Chúa”. [2]
Chính trong kinh nhiệm đó mà ta không bao giờ ngừng yêu mến tất cả mọi người, không bao giờ loại trừ một ai khỏi tâm hồn ta, cho dù ta bị đối xử một cách bất công và tệ bạc. Tất cả cũng chỉ là mặt trái của một tình yêu không được đáp trả mà thôi. Khi tình yêu lên tiếng thì mọi sự cũng bắt đầu chuyển biến khác đi theo hướng tích cực của nó. Người khác chỉ mềm lòng khi đứng trước một con người mang khuôn mặt và tâm tình của Đức Kitô, nhất là tới mức đồng hóa với Đức Giêsu trên Thập giá, đến độ có thể nói được như Thánh Phaolô: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1, 24). Chính trong ý hướng đó mà ta có thể kết hiệp mọi đau khổ của mình với đau khổ của Chúa trên Thập giá để trở nên dụng cụ của ơn cứu độ.
Con người và Thập giá là hai hình ảnh không thể tách rời trong cuộc sống nhân loại. Ngày nào con người còn, là Thập giá còn. Con người không thể coi Thập giá như sự đối chọi nghiệt ngã của đời sống mình, nhưng phải coi như một sự tương tác để tồn tại và hình thành chính mình trong một sự sống mới mà Chúa Giêsu đã làm nên. Con người và Thập giá, tuy không tương đồng tương ứng, nhưng tương khắc tương sinh theo cách thức của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã rời khỏi Thập giá để cho ta bước lên: không phải Thập giá của hận thù, nhưng là Thập giá của tình yêu; không phải Thập giá của người tử tội bị ruồng bỏ trong cô đơn, nhưng là Thập giá của người công chính được ôm ấp vào lòng của Thiên Chúa. Đó là Thập giá của niềm vui và ân phúc, thập giá của tin yêu và hy vọng, vì được hiến thân cho người mình yêu.
Theo ý nghĩa đó trong cuộc đời ta, nếu có ngày thứ sáu thụ nạn, sẽ có Chúa Nhật Phục Sinh; nếu có tủi nhục, sẽ có vinh quang; nếu có chiến đấu, sẽ có chiến thắng; nếu có khao khát, sẽ có no thỏa; nếu dám chết đi, sẽ được sống lại. Chúa sẽ thực hiện và bảo toàn mọi diễn biến đó trong cuộc đời ta, chẳng có gì phải lo sợ. Có ai lại lo sợ khi tin rằng mình được Chúa yêu thương.
Chúa Kitô chịu đóng đinh là niềm hy vọng của tất cả chúng ta. “Bởi vì, nếu chúng ta chịu đau khổ nhiều với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ được chứa chan niềm an vui của Ngài” (2Cr 1, 5).
Nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu, và trong Chúa Giêsu, chúng ta hãy hân hoan phó thác cuộc đời mình cho lòng thương xót của Thiên Chúa, với tất cả lòng tin tưởng, yêu mến, thờ lạy và cảm tạ đến muôn đời. Amen.
—————————-
[1] Gioan Thánh Giá, Salita del Monte Carmelo, in: Opere, Roma, 1979, pp. 92-93.
[2] Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, 2000, tr. 152.
72. Tình yêu hiến tế
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê)
Chúa nhật Lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta nghe hai bài Tin Mừng: một bài cho nghi thức trước lễ (Mc 11, 1-10) nói về việc những người Do thái đã đón rước Chúa Giêsu vào thành thánh Giêrusalem cách trọng thể vui mừng bằng những cành lá trên tay hay trải áo xuống đất cho Người đi qua, miệng tung hô vang trời. Rồi cũng chính họ, ở bài khác trong thánh lễ, lên án và đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, dẫn đến cuộc khổ nạn của Đấng mà mấy ngày trước họ vừa tung hô “vạn tuế”. Cả hai biến cố nổi bật cuối đời của Chúa Giêsu, nói lên sự kiện đầy ý nghĩa, có sức đánh động giúp ta cùng suy niệm về tình yêu hiến tế của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: “Vợ con tôi quá thương yêu tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục”.
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần phục, vị đạo sĩ bảo anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng khóc than của vợ con, của thân nhân và bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những giây phút trầm lặng tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị nói với thân nhân đang khóc thương người đã từ biệt cõi đời rằng: “Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta, nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh”.
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình bắt đầu nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi anh nghe chính người vợ đầu gối tay ấp, nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả quyết: “Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ấy, chúng tôi vẫn có thể làm ăn sinh sống”.
Câu chuyện trên có thể xảy ra bất cứ nơi đâu, trong bất cứ gia đình nào và ở mọi thời đại. Vì theo sự suy luận thông thường, chúng ta phải công nhận rằng: người vợ và thân nhân của anh chàng giả chết có lý của họ. Nhưng triết gia Pascal cũng có lý khi nhận định: “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu nổi”.
Đó là lý lẽ của con tim trong con người của Cha Maximilian Kolbe, nạn nhân của chính sách tàn bạo, tiêu diệt người Do thái của Đức quốc xã. Cha Maximilian đã đứng ra chịu chết thay cho một anh bạn tù.
Có thể những người mang lý lẽ này trong con tim sớm hiểu được câu giáo huấn của Chúa Giêsu: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Thật vậy, việc Đức Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách là vua người Do thái cho dù không phải là vua để cai trị, nhưng là vua để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhân loại. Nên trọng tâm của cuộc thương khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi những môn đệ hợp tác với Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp rắc rối vì sự thiếu hiểu biết và trì trệ của các môn đệ. Và Người đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của những người đã từng tiếp xúc với Chúa, và cũng là khoảng thời gian chứng minh tư cách của Người là Đấng Cứu Thế.
Chỉ có nơi Chúa, chúng ta mới có thể tìm ra sức mạnh sống cái hiện tại đầy khó khăn và hy vọng vào tương lai tưoi sáng hơn. Suy gẫm cuộc thương khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc thương khó này đang xảy ra nơi những con người đau khổ ở kề bên ta, hay nơi những con người đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, chấp nhận sống cảnh tù đày để làm chứng vì công lý và sư thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người luôn can đảm đứng vững trong niềm tin và biết sẵn sàng chia sẻ, nâng đỡ nhau, để có thể chu toàn sứ mạng của riêng mình trong tình hiệp thông huynh đệ.
73. Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa.
(Lm. Phanxicô Xaviê Phạm Đức Trị)
Is 50, 4-7; Pl 2,6-11; Mt. 21, 1-11
Cảnh tượng dân thành Giêrusalem tưng bừng tay cầm cành lá hân hoan đón Chúa Giêsu vào thành Thánh như một vị Vua, được Tin Mừng kể lại hôm nay thật kỳ lạ làm cho chúng ta khó hiểu và đặt câu hỏi: Đức Giêsu vốn là một người hiền lành và khiêm nhường, Ngài luôn né tránh những lời tôn phong của dân chúng… Thế mà hôm nay chính Ngài đã khơi dậy sự hứng khởi trong dân để đón Ngài, dù họ chỉ dùng những phương tiện rất đơn sơ, điều này có ý nghĩa gì?
Đức Giêsu, Ngài vào thành Thánh dự lễ Vượt Qua lần cuối cùng của cuộc đời trần thế, hôm nay Ngài muốn loan báo cho dân chúng biết từ nay Ngài cũng đang bắt đầu chuẩn bị một lễ Vượt Qua Mới. Lễ Vượt Qua đó chính ông Vua đang được dân tuyên xưng loan báo: cuộc khổ nạn, con đường Thập giá và cái chết vì yêu nhân loại. Ông Vua đó lại khác hẳn với các vua trần thế. Ngài là Vua hòa bình, Vua bác ái, Vua yêu thương. Một ông Vua tự hiến mình trên thập giá để cứu nhân loại. Còn hơn thế nữa, khi đã bị đóng đinh trên thập giá, vẫn bị người ta nhạo báng mỉa mai: “Nếu ông là Vua dân Do thái, tại sao không cứu mình đi?” Ngài vẫn thinh lặng và tha thứ, không một lời oán trách..
Phía trên đầu Người có bản bản án viết “Đây là Vua dân Do thái”. Nhưng Ngài là Vua thế nào? Sự thinh lặng và tha thứ trên Thập giá của Ngài đã cho chúng ta biết: Ngài là Vua không phải dựa trên luật sức mạnh, hờn oán và trả đũa… nhưng Ngài là Vua bác ái, Vua tình thương, Vua Tâm hồn. Với Ngài, mọi người sẽ được yêu thương và tôn trọng, không phải vì địa vị, danh giá, giầu sang, quyền thế, nhân đức hay bất cứ đặc điểm nào khác, mà chỉ vì mỗi người chỉ có một nhân vị đáng được yêu thương, một phẩm giá cao quí đáng được tôn trọng, nhân vị đó chính là, tất cả chúng ta đều là những người con đáng yêu của Thiên Chúa. Ngài ưa chuộng những tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn, những con người tội lỗi biết hối cải và ăn năn, như anh trộm lành: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Phải chăng đó là con đường, đó là những nhân đức mà Ngài đang mời gọi chúng ta chuẩn bị trong Tuần Thánh để đón ngày trọng đại, ngày Lễ Vượt Qua Mới? Vậy hãy noi gương Ngài Trên thập giá. Vì trên Thập Giá, chúng ta tìm ra được bí quyết tình yêu, con đường phục vụ, nhân đức khiêm nhường. Trên Thập giá, con người được Thiên Chúa thần-thánh-hóa và nâng lên ngang hàng với Ngài. Trên Thập giá, mọi người sẽ được yêu thương ngang hàng với nhau, vì chính Chúa Giêsu đã hiến cả Cuộc sống của Ngài cho cuộc sống chúng ta, nghĩa là Ngài đã coi cuộc sống chúng ta ngang bằng với cuộc sống của Ngài. Không gì hòa lẫn chúng ta với Thiên Chúa hơn được nữa, không gì làm cho chúng ta xúc động hơn được bằng sự nhuộm máu đào vì yêu chúng ta trên Thập giá, một công cuộc tình kỳ diệu.
Thật thế, trước mắt Thiên Chúa chúng ta là thế đó, trước mắt Ngài con người có gia trị như vậy đó: con người được Thần-thánh-hóa. Có lẽ không thể nào ca ngợi giá trị cuộc sống nhân loại một cách tuyệt vời hơn! Chỉ có thể biểu lộ tính cách vô song của cuộc sống phiêu liêu và tội lỗi của con người bằng cách thiết lập nên phương trình cứu độ của cuộc sống Thiên Chúa với cuộc sống của chúng ta. Điều Ngài làm không phải la vì công lao hay công trạng của chúng ta, cũng càng không phải là sự phục tùng, sự chinh phục hay sự lệ thuộc của Ngài vào chúng ta; điều Ngài muốn chính là sự tự do và hạnh phúc của con cái Thiên Chúa; điều Ngài muốn đó là chúng ta được quan hệ mật thiết với Ngài và Ngài cũng được quan hệ mật thiết với chúng ta. Vậy nhìn lên Thánh giá, chúng ta thấy Thiên Chúa là một Thiên Chúa muốn được hiệp thông, một Thiên Chúa chỉ hiện hữu dưới hình thức ân ban quảng đại.
74. Tin tưởng hay thất vọng – Lm. Minh Nhiên.
Mt 26,14-27,66
Trong một lần nói chuyện, Đức Tổng giám mục Fulton Sheen chỉ vào thánh giá ngài đang đeo trên ngực rồi nói: ” Thánh giá bạc mà tôi đang đeo đây, tôi đeo để đền tạ.” Khi hỏi lý do, ngài trả lời: “Một hôm vào thăm một người bạn gốc Do thái bán đồ nữ trang ở Nữu Ước. Ông nói với tôi: “Tôi có một ít thánh giá bạc cho Đức Cha”, và ông trao cho tôi một bao đựng khoảng hơn một trăm thánh giá. Tôi hỏi: “Ông kiếm được ở đâu nhiều vậy?” Ông trả lời: “Từ các nữ tu, họ mang đến và nói với tôi: “Chúng tôi không còn đeo tượng thánh giá nữa, vì chính những tượng này đã làm ngăn cách, chia rẽ chúng tôi với thế giới hôm nay. Ông trả cho chúng ta bao nhiêu tiền với số bạc này”. Tôi cân và thấy nặng khoảng 30 miếng bạc”. Rồi ông nói với tôi: “Tôi nghĩ rằng tượng thánh giá đã là một cái gì biểu hiệu quí giá đối với các Kitô hữu. Phải chăng có gì không ổn, có gì trục trặc với tôn giáo của Đức Cha?” (Through the Year with Fulton Sheen, trg 14-42).
Người ta bán tượng thánh giá và cho rằng thánh giá là căn cớ làm cho họ xa lạ với thế giới hôm nay. Giuđa đã bán Chúa và nộp Chúa bằng cái hôn của mình để lấy 30 đồng bạc. Ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay, người ta đã đang bán Chúa với những giá của khác nhau, và với những lý do khác nhau.
Ngày hôm xưa Phêrô chối Chúa qua những lời chất vấn của cô đầy tớ gái. Ngày hôm qua một số người đã chối đạo trước những hạch sách đe dọa của quan quyền, và ngày hôm nay với những lý do này hay lý lẽ nọ cũng đã khiến cho có những người chối Đức Kitô, không dám nhận mình là Kitô hữu.
Dù cho con người có yếu đuối sa ngã, Thiên Chúa vẫn luôn luôn yêư thương con người. Ánh mắt Chúa đã tìm, đã gặp, và đã cảm hóa được Phêrô, ánh mắt ấy cũng đã đi tìm Giuđa, nhưng không gặp được vì Giuđa thất vọng và lẩn tránh, dầu vậy chuyện kể rằng Chúa vẫn luôn hướng tìm và chờ đợi. Ngày tận thế đã đến, tất cả các thánh đều vui mừng ca hát, nhảy múa, reo hò trong hoan lạc sung sướng. Mọi người đều vui trừ một mình Chúa Giêsu. Ngài đứng yên lặng dưới bóng rợp cạnh cửa thiên đàng. Một vài vị thánh đến hỏi thăm xem Ngài đang làm gì thế. Ngài trả lời: “Cha đang đợi Giuđa”.
Chắc hẳn trong đời sống nhiều lần chúng ta đã lam phiền lòng Chúa và thái độ của chúng ta có thể phần nào giống như của Phêrô hoặc Giuđa: ăn năn thống hối hay thất vọng buông xuôi. Hôm nay bắt đầu bước vào tuần trọng nhất trong năm phụng vụ, Giáo hội mời gọi chúng ta đừng nhẫn tâm xa tránh ánh nhìn đầy ắp yêu đương của Chúa, nhưng hãy thật tình trở về, khiêm nhượng xin ơn tha thứ, và tin cậy vào tình Chúa thương yêu.
75. Minh họa lời Chúa – Chúa Nhật Lễ Lá năm B
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
THEO CHÚA GIÊSU CHỊU THƯƠNG KHÓ
1. Dấu chỉ tình yêu vô biên
Trong sách “Kẻ du hành”, ông Mattheson kể về nhóm người khám phá ra thứ năng lượng giúp con người đi ngược lại dòng thời gian. Và người đầu tiên dùng tàu du hành để đi ngược dòng thời gian là ông Jairus. Ông là người không tin Chúa, nhứt là không thể tin Chúa Giêsu chịu chết khổ giá vì thương nhân loại. Ông nhứt định đi ngược dòng thời gian đến thời Chúa Giêsu chịụ đóng đinh xem thực hư thế nào.
Không bao lâu, ông đã đi lùi lại thời gian: 100 năm, 1000 năm, 2000 năm… và kìa ông thấy trước mắt 3 cây thập giá. Chúa Giêsu bị đóng đinh trên cây giữa đầu đội mão gai, thân mình đầy máu!… Ông cảm động quá không cầm được nước mắt!… Chẳng ngờ Chúa Giêsu thương loài người đến thế. Và ông đã tin Chúa.
—–
Cái chết đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá là dấu chỉ tình yêu vô biên của Người đối với nhân loại, là lời mời gọi mọi người đáp trả tình yêu của Người bằng sự cải thiện đời sống vì yêu mến Người, và bằng sự thương yêu như Lời Người: “Hãy yêu thương nhau như thầy thương yêu các con”. (Theo “Sunday homilies”).
2. Ba nỗi đau thương
Trong thế chiến thứ hai, Cha Titus Brandsma bị Đức quốc xã bắt lúc làm viện trưởng đại học Hòa Lan, và giam tại trại tập trung ở Đa-Châu trong cái cũi nhốt chó. Lính gác bắt cha phải sủa lên mõi lần chúng đi ngang qua. Thật là nhục nhã xấu hổ. Nhưng Ngài cố gắng cam chịu với Chúa, theo gương Chúa… Cuối cùng, Ngài chết vì bị tra tấn dã man…
Trang nhật ký để lại, Ngài nói: – Tôi chịu nỗi đau đớn tủi nhục nhờ biết rằng Chúa Giêsu đã từng chịu đau khổ sỉ nhục trước tôi!
Theo Chúa Giêsu chịu thương khó.
———–
Sự thương khó Chúa Giêsu đã từng là nguồn sức mạnh cho vô số người trong suốt dòng lịch sử. Những ai gặp đau khổ, thử thách, sỉ nhục, thất vọng, chán nản, tủi nhục nhờ Người mà vượt thắng can đảm.
Và Chúa chịu thương khó cả ba hình thức: đau khổ tinh thần trong Vườn, chết đau đớn thân xác khi bị đòn, bị đóng đinh, và đau khổ tâm linh đặc biệt lúc sắp chết trên khổ giá như bị Chúa Cha ruồng bỏ: “Lạy Chúa Con, sao Chúa bỏ con!…”
Như thế, Chúa Giêsu đã từng chịu cả ba nỗi đau đớn chúng ta có thể gặp trong cuộc sống. Mỗi khi gặp đau khổ thử thách dưới hình thức nào đều có Chúa thông cảm nâng đỡ, nếu chúng ta nhìn lên Người (Theo Cha M. Link)
3. Anh không có gì hơn để cho em
“Phía trên đầu người, chúng đặt bản án xử tội Người viết rằng: Người này là Giêsu, vua người Do Thái” (Mt. 27,37).
Một số thợ lặn đã khám phá chiếc tàu bị đắm. Một trong những vật quý mà họ tìm thấy trong tàu là chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Trên mặt chiếc nhẫn có khắc hình một bàn tay nắm chặt trái tim. Bên dưới có dòng chữ:
“Anh không có gì hơn để cho em”.
Dòng chữ đó cũng được khắc vào thập giá Chúa Giêsu:
“Cha không có gì hơn để cho con”
Bằng cái chết đau khổ trên thập giá. Chúa Giêsu đã cho chúng ta tất cả những gì Người có: Mình Máu Thánh Người, tình yêu và mạng sống của Người. vì yêu thương chúng ta và để cứu rồi chúng ta!…
Chúng ta đã cho Chúa được gì? Bao nhiêu? Thời giờ? Sức khỏe? Mạng sống?…Điều gì cản trở chúng ta đáp trả tình yêu vô biên của Chúa?… (Theo “Viễn tượng 2000”).
4. Xử án Thiên Chúa
Một người mơ thấy ngày tận thế. Mọi người được tập trung chịu Chúa phán xét. Nhiều người run sợ, nhưng có kẻ phẫn nộ.
Một phụ nữ nói: Sao Ngài xét xử tôi được? Ngài có biết đau khổ là gì đâu? Còn tôi bị đòn bị đánh muốn chết. Vừa nói nàng vừa vạch tay cho thấy vết sẹo.
Kế đến, một người da đen cúi đầu xuống, cho lộ ra sợi dây thừng trên cổ chỉ vì tội là người da đen, bị bán làm nô lệ!…
Rồi bao nhiêu người tiếp tục tố cáo Chúa: nào là ở trên trời sung sướng, nào là không đổ giọt mồ hôi, nào là không biết gì về đói khát, bệnh tật, tù đày, đau khổ, nhục nhã như con người.
Thế rồi họ đồng thanh kết án Ngài, bắt Ngài xuống sống dưới trần gian như mọi người. Họ còn góp ý:
– Bắt Ngài làm một người Do Thái.
– Buộc Ngài phải làm việc bù đầu đến nỗi người nhà cho mất trí.
– Ngài phải khổ đau vì bạn thân phản bội.
– Ngài phải bị kết án là kẻ lừa đảo và bị xử tử.
– Ngài phải nếm cảnh chết chóc cô đơn khủng khiếp vv…
Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người đều im lặng… Và bỗng nhiên họ nhận ra Ngài thi hành bản án ấy của họ từ lâu!… (Floor Mc Carthy).
5. Tình yêu đòi hỏi đau khổ
“Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy, chế diễu chán, chúng lột áo điều ra và cho Người mặc lại áo của mình. Sau đó, chúng điệu Người ra để đóng đinh vào thập giá” (Mc.15, 19-20).
Trong cuốn sách “Chúa Giêsu là ai” tác giả Anthony Padovano viết: “Chịu khổ hình thập giá không có nghĩa là chịu đau khổ vì đau khổ, mà còn vì một cái gì khác. Chúa Giêsu chịu đau khổ không phải vì đau khổ tự nó có giá trị, nhưng là vì tình yêu đòi hỏi đau khổ. Chúng ta được cứu rồi không chỉ vì cái chết thể xác củ Chúa Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Tôi đã đang và có thể làm gì cho Chúa Kitô? (Trích “Viễn tượng 2000”).
“Thật bất hạnh, nếu chết mà không được hưởng tình yêu của Chúa Kitô.Cũng thật bất hạnh, nếu tình yêu không được thể hiện bằng cái chết của Ngài” (Thánh Phanxicô Salesiô)
6. Chúa vô tội
“Ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-Thái không? Bởi ông thừa biết chỉ vì ganh tỵ mà các thượng tế nộp Người” (Mc. 15,9-10).
Một nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi Châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết đau khổ trên thập giá của Người. Người vô tội, nhưng chết vì tội lỗi loài người!…
Ngồi trước bục giảng là tên tù trường. Ông chăm chú nghe nhà truyền giáo. Khi nghe tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá, ông đứng phắt dậy nói:
-Ngừng lại. Hãy đem Người xuống khỏi thập giá. Chính tôi mới là kẻ đang bị đóng đinh trên đó, chứ không phải Người, vì Người vô tội, tôi là kẻ có tội.
Phải chăng vì tội chúng ta mà Chúa Giêsu phải chịu chết đóng đinh trên khổ giá, để đền tội chúng ta? (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
7. Chết để cứu con
Bà Giana Moletta qua đời cách đây 30 năm, được Đức Thánh Cha phong chân phước năm 1994.
Bà sinh năm 1922. Lớn lên lập gia đình, sinh được ba người con, trong đó có 2 người làm linh mục, chồng bà làm kỹ sư, bà làm bác sĩ. Cả hai vợ chồng cùng liên kết trong một niềm tin và một lý tưởng phục vụ người nghèo khổ. Thật là một gia dình hạnh phúc! Nhưng thảm kịch đã đến với họ!…
Năm 46 tuổi, bà có thai một lần nữa. Cái nhọt trong tử cung bà lại biến thành ung thư. Là một bác sĩ, bà biết rõ những gì sẽ đến với bà… Nếu giải phẩu để cứu sống bà thì đứa con phải chết. Nếu cứu đứa con thì chính bà phải hy sinh. Cuối cùng bà tự nguyện hy sinh bản thân để cứu sống đứa con!…
———-
Bà Giana Moletta là hiện thân tình yêu Thiên Chúa ở giữa trần gian. Cái chết tự nguyện của bà nối dài cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trên thập giá. Bà chịu chết để cứu sống đứa con. Chúa Giêsu chịu chết để toàn thể nhân loại được sống (Theo “Thiên Đàng là thế đó”).
8. Xin phó thác hồn con
“Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. (Lc. 23,46).
Mục sư Dietrich Bonhoeffer đã bị Đức quốc xã hành hình trước ngày lễ Phục Sinh. Bác sĩ nhà tù nói về cái chết của ông như sau:
“Tôi thấy mục sư Bonhoeffer quỳ trên sàn, chăm chú cầu nguyện. Tôi xúc động bởi cách ông cầu nguyện, thành khẩn và chắc chắn đến nỗi Thiên Chúa nghe lời ông cầu nguyện. tại nơi hành hình, ông can đảm và bình tĩnh leo lên những bậc thang dẫn đến chỗ treo cổ. Cái chết của ông diễn ra vài giây sau đó. Trong suốt khoảng 50 năm với tư cách một bác sĩ, tôi chưa bao giờ chứng kiến một người chết hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa như vậy” (Ebekhardd Bethge).
———-
Nhờ đâu mà mục sư Bonhoeffer sẵn sàng lãnh nhận cái chết can đảm bình tĩnh như thế? … Vì sao Chúa Giêsu phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha?… Và tôi, tôi quan tâm đến những gì khi biết tôi chỉ còn sống vài giây phút nữa?…
“Chết không phải là nhảy vào khoảng trống, mà là gieo mình vào tay Chúa”. (Pedre Arrupe) (Trích “Viễn Tượng 2000”).
9. Sống vì Đấng đã chết
Một trong những câu chuyện nổi tiếng thế giới là câu truyện về Robinson Crouse, được dịch ra tiếng Việt là “Lỗ-Bình-Sơn phiêu lưu ký”. Robinson là một người rất thích phiêu lưu. Một ngày kia tàu ông bị đắm và tắp đến hoang đảo, ông sống ở đó một mình mười năm tròn.
Một lần kia, ông cứu được một người bản địa khỏi bị bộ lạc giết ăn thịt, và đặt tên cho y là Thứ Sáu. Vì cảm kích ơn cứu tử, Thứ Sáu bằng lòng làm tôi ông suốt đời. Suốt đời còn lại, y chỉ sống cho Robinson…
———-
Khi anh Thứ Sáu được cứu sống. Robinson không phải thiệt mạng, không bi thương tích cũng chẳng bị thiệt hại gì, mà anh Thứ Sáu còn sẵn lòng làm tôi tớ ông suốt đời, huống chi Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng, chịu thương tích và đổ hết máu ra cứu chúng ta khỏi chết, chúng ta phải có thái độ nào đối với Người? (Trích “Chuyện hay ý đẹp”).
Thánh Phao lô dạy:
“Đức Ki tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không phải cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta”. (2Cr.5,15)
10. Chiến thắng nhờ thập giá
Lúc 23 tuổi, Constatin được quân La mã đóng tại York tôn lên nối ngôi người cha là Constantius. Để được lòng đế quốc, ông phải chiến thắng kẻ thù.
Ngày 28 tháng 10 năm 312, ông đến sông Tiber, khúc có cầu Milvian ở Bắc La mã, quân Maxentius mạnh hơn ngăn chận không cho ông qua sông. Lúc đó thình lình ông thấy một cây thập tự sáng chói trên bầu trời, phía dưới có hàng chữ: “Với dấu này, ngươi sẽ chiến thắng” (In hoc signo, vinces). Sáng hôm sau trước khi vào trận, ông vội vã ra lệnh tướng sĩ sơn hình thập giá trên mũ của họ và của ông. Họ xáp chiến can đảm và ông đã thắng trận. Ông tin nhờ thập giá mà ông chiến thắng. Do đó năm 313, ông đã ký sắc lệnh Milan, hủy bỏ cuộc bắt đạo và cho mọi người hoàn toàn tự do theo đạo nào mình chọn.
———-
Constantin nhờ thập giá mà thắng được giặc. Chúng ta sẽ nhờ ai để chiến thắng ma quỷ xác thịt thế gian? … Phải chăng thánh Phao lô trả lời: “Chính người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1Gr.1,8) (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).
Linh mục George Parkec là giám quản xứ Giuse thuộc giáo phận Norwich ở Hoa kỳ. Năm 1996, Ngài đã được nghị sĩ Dodd giúp cho số tiền 5000 đô la. Nhưng ngài đã gửi trả lại để phản đối ông ta là một nghị sĩ Công Giáo mà liên tục bỏ phiếu ủng hộ dự luật phá thai
Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích mến phục, nên đã gửi giúp cha khoảng 61.000 đô la. Nhưng nghị sĩ Dodd bực tức, đã vận động cất chức quản xứ của Cha, buộc lòng cha phải nghỉ hưu đang khi còn có thể phục vụ giáo dân được.
———-
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu tâm trạng Chúa Giêsu trong Tin Mừng. Thánh Gioan thuật lại: “Sắp đến lễ Vượt qua, nhiều người đi Giêrusalem…Họ tìm kiếm Chúa Giêsu và hỏi nhau: Chắc ông ấy chẳng đến dự lễ. Còn bọn tư tế và biệt phái thì ra lệnh: Ai biết ông ấy ở đâu phải báo cho họ đến bắt” (Ga. 11,55-57). Như thế, Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem với tâm trạng một kẻ bị truy nã, một kẻ có tên trong sổ bìa đen.
Nhưng Người vẫn công khai vào thành, không chút sợ hãi. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết. Vì yêu thương nhân loại, Người không sợ bị bắt bớ, chết chóc. Người cương quyết lên Giêrusalem đang khi người ta tìm bắt giết Người.
Chúng ta có dám hy sinh vì Chúa vì anh chị em chúng ta như thế không?
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
76. Con Đường Tình Yêu – Lm. Kiều Công Tùng.
Nghi thức tuần thánh khởi đầu bằng một cuộc kiệu Lá để tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem. Một cuộc kiệu tưng bừng tiếng tung hô: “Hoan hô thái tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Vua Ít-ra-en”, nhưng lại nhuốm buồn vì liền ngay sau đó chúng ta được nghe trình thuật về cuộc thương khó của Chúa. Trong suốt Tuần Thánh này, có ba cuộc kiệu như thế. Hai cuộc kiệu còn lại vào chiều thứ Năm tuần thánh – kiệu Mình Thánh Chúa, và Đêm Vọng Phục Sinh – kiệu Nến Phục Sinh. Những cuộc kiệu trong khung cảnh cuộc thương khó vừa mở ra trước mặt chúng ta một con đường, vừa như là một nhắc nhớ: đằng sau buồn thương có niềm vui cứu độ, qua khổ nạn sẽ là Phục Sinh.
Đường đưa tới vinh quang
Bài thương khó theo thánh Mát-thêu đã gợi lên những hình ảnh xem ra hoàn toàn trái ngược với cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật vậy, việc Chúa được dân chúng tung hô đón rước khi Ngài vào thành thánh chỉ là hình ảnh báo trước vinh quang đích thực Ngài sẽ nhận được khi Chúa Cha cho Ngài sống lại từ cõi chết. Nhưng để được vinh quang ấy, Đức Giêsu phải đi vào con đường khổ nạn, phải tự hiến mình làm hy lễ dâng lên đẹp lòng Cha.
Rất nhiều lần chiêm ngắm bức ảnh Chúa hấp hối, chúng ta thấy được gì phía sau hình ảnh một Chúa Giêsu đẹp đẽ uy nghi quì gối bên một phiến đá dưới ánh trăng vàng đầy thơ mộng? Chúng ta có nhận thấy một Đức Kitô đang gập mình xuống đất, oằn oại trong cơn khủng hoảng vượt quá sức mình? Chúng ta có hiểu được lời Ngài thổ lộ với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26, 38) và cả tiếng kêu thống thiết trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27, 46).
Nỗi đắng cay như vây kín và xiết chặt lấy Ngài, đắng cay của người bị bạn mình phản bội, của Thầy bị môn đệ chối từ và bỏ rơi, của Đấng cứu tinh bị dân mình loại trừ. Tất cả đều do sự ích kỷ, lòng kiêu căng và nỗi tham vọng của con người. Thân xác Chúa khổ sầu đến nỗi mồ hôi máu đổ ra và tâm hồn Ngài gần như tan nát không phải vì những roi đòn và nhục mạ, nhưng chính là gánh nặng của tội lỗi nhân loại. “Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta” (Is 53, 4).
Qua khổ nạn mới đến Phục Sinh. Đó chính là chương trình mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhờ đó Chúa Cha và Chúa Con được tôn vinh. Còn trong thực tế cuộc sống, có nhiều người lại muốn đạt đến vinh quang bằng những con đường ngắn nhất và dễ nhất. Cuối cùng, những gì mà họ có được chỉ là hư ảo, tầm thường nhất và cũng mau qua nhất.
Đường nở hoa tình yêu
Đức Giêsu chịu chết khổ hình nhằm cứu chuộc nhân loại và cũng để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Nhiều khi ta tự hỏi: có cần phải như thế với một Thiên Chúa quyền năng? Hẳn rằng điều làm cho Hiến Lễ Thập Giá của Đức Giêsu trở nên có giá trị và đem lại ơn Cứu Độ không phải là đau khổ hay sự chết, mà là tâm tình vâng phục trong yêu mến đối với Chúa Cha; nhưng chính đau khổ và Thập Giá lại là cách thế diễn tả tâm tình đó thật tuyệt vời.
Sự vâng phục yêu mến của Đức Giêsu đã được I-sai-a báo trước qua hình ảnh người tôi trung: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50, 5). Còn thánh Phao-lô đã ca ngợi: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 7 – 8). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thưa với Chúa Cha trong vườn cây Dầu đã nói lên tất cả sự vâng phục yêu mến: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42).
Con Thiên Chúa đâu có lạ gì với những đau khổ của phận người khi bước vào trần gian. Đứng trước con đường khổ nạn, Ngài không hỏi tại sao cũng chẳng buông lời nguyền rủa, nhưng Ngài đã bước đi và đi tới cùng với tất cả tình yêu, tình yêu thật lớn lao dành cho Cha và nhân loại, và lập tức bao nhiêu đau khổ kia trở nên ý nghĩa. Con đường Thập Giá bỗng nở hoa rộn ràng. Cây Thánh Giá đã trở nên lộng lẫy với vương miện tình yêu. Qua đó, Đức Giêsu cũng dạy cho con người một bí quyết để sống hạnh phúc, để có hòa bình: Tình yêu và tha thứ.
Như thế, con đường mà Phụng Vụ Tuần Thánh đang mở ra cho chúng ta chẳng phải là “con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về”, nhưng là con đường đã in dấu chân, đã thấm mồ hôi và đã mang cả trái tim của Thầy Giêsu – Con Đường Thập Giá.
Cùng Chúa ta lên đường
Lời Chúa hôm nay muốn đưa chúng ta vào mầu nhiệm thánh giá của Đức Giêsu không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Rước lá đi theo Chúa trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô, chẳng khó khăn gì. Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều.
Pascal đã nói: “Chúa Giêsu sẽ còn hấp hối đến tận thế”. Mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị loại khỏi lòng mẹ một cách bất công. Và còn bao nhiêu người đang ở trong điều kiện sống chẳng xứng với phẩm giá của mình. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối giữa thế giới hiện đại. Chúng ta vẫn gặp những Kitô hữu đang bị lo lắng, buồn rầu, ấm ức… dày vò nghiền nát. Đó chính là Đức Kitô đang hấp hối trong nhiệm thể Ngài. Và chính đời sống chúng ta nhiều khi cũng nhuốm phiền muộn, bất an, lo sợ, nghi ngại và xáo trộn. Nếu ta biết đón nhận với lòng khiêm tốn và tình yêu để cứu rỗi thế gian thì trong ta, Đức Kitô cũng đang tiếp tục hấp hối và thân thưa với Chúa Cha rằng: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin vâng ý Cha hoàn toàn”.
Đã hơn 2000 năm rồi, tất cả những gì đã xảy ra dường như vẫn đang còn diễn lại. Chúng ta vẫn đang cùng Đức Giêsu đi vào đời và ở trong đời với lý tưởng cứu thế. Chớ gì lời Đức Giêsu mời gọi: “Hãy vác thập giá mình hằng ngày” (Lc 9, 23) luôn vang vọng bên tai chúng ta mỗi khi phải đối mặt với thử thách hay khi bị lăng nhục nhạo cười… Sau khi đã hiểu thấu ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa, hẳn chúng ta sẽ thấy yêu Thánh Giá của Chúa hơn, và cũng mến Thánh Giá của mình hơn, đồng thời biết kính trọng Thánh Giá của người khác nữa.
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu Thương Khó, có lẽ mỗi người chúng ta đều rất sốt sắng với lời hát: “Ôi bởi con mà Chúa mang thảm hình… Xin giúp con đường thiêng liêng theo lối…” Chớ gì chúng ta luôn có được tâm tình của Đức Giêsu hôm nay, để hân hoan tiến bước vào đời tiếp tục con đường nên Thánh và cứu thế của Ngài, Con Đường Tình Yêu dẫn tới Giê-ru-sa-lem Thiên Quốc.
77. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cuốn sách “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu qua tấm khăn liệm Turin”[i] viết thật hấp dẫn, tái dựng lại cuộc khổ nạn dựa trên Tấm khăn liệm Turin và Tin Mừng, đưa người đọc từng bước đi vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu với những thống khổ và cực hình về thể lý. Sự tàn ác của tội lỗi và sự đố kỵ của sự dữ trước một Tình Yêu quảng đại và bao dung. Sự yếu đuối của thể chất trước một tinh thần bình an và vượt thoát. Giá trị của vinh quang và tủi nhục, tha thứ và hận thù, sự sống và sự chết. Những cảm nhận đó đưa độc giả vươn tới giá trị siêu nhiên trong Chúa Kitô Phục Sinh.
Cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong cái nhìn nhân loại như một bi kịch của sự tàn bạo, bất công và hủy diệt. Chúa Giêsu bị phản bội, bị hiểu lầm, bị ghen ghét, chịu kết án bất công. Cuộc thương khó làm cho chúng ta kinh khiếp vì sự tàn ác và độc dữ của con người. Nó làm cho chúng ta xót xa và thương cảm một con người là nạn nhân của lòng hận thù và đố kỵ.
Thế nhưng, cái chết trong đau thương nhục nhã của Chúa Giêsu chính là nguồn ơn cứu rỗi cho nhân loại. Người chết để đền tội, để chuộc tội, để gánh tội hầu cứu độ con người. Cái chết của Đấng Cứu Độ nhưng lại bi thương vô cùng.
Tin Mừng về cuộc thương khó kể lại từng chặng đường khổ nạn của Đấng Cứu Thế.
1. Chúa Giêsu chết trong cô đơn
Những giờ phút sau cùng của Chúa là những khoảng khắc cô đơn kinh hoàng.Trong Vườn Cây Dầu, ba môn đệ thân tín đi với Chúa, họ ngủ say để Chúa một mình. Giuđa phản bội bán Thầy 30 đồng bạc là giá một nô lệ bằng một nụ hôn giả dối. Phêrô chối Thầy 3 lần, ông thề là không quen biết Chúa Giêsu trước một đầy tớ gái. Các môn đệ sợ hãi chạy trốn. Có một môn đệ chạy trốn bỏ lại cả áo, chạy mình trần. Một đám đông cuồng nộ: Đóng đinh nó đi. Họ coi Chúa Giêsu còn thua Baraba là một tên phiến loạn giết người.
Các môn đệ ở đâu? Những người được Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi ăn giờ ở đâu? Những người mới tung hô vạn tuế Con Vua Đavit giờ ở đâu?
Chúa Giêsu đi đến tột cùng của sự cô đơn khi thổn thức với Cha: Lạy Thiên Chúa tôi, sao Ngài nỡ bỏ tôi?
2. Chúa Giêsu chết trong đau khổ
Đau khổ Chúa Giêsu chịu trong giờ sau hết thật ghê rợn.
a/ Đau khổ về thân xác
– Người ta khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào Người. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để thu nhận và tống không khí.
– Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thở, mau kiệt sức và chóng chết.
b/ Đau khổ về tinh thần
– Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi.
– Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền! Cả những tên cướp cùng đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
3. Chúa Giêsu chết trong sự vâng phục
Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha. (Mt 26,39).
Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).
4. Lời Thánh Kinh ứng nghiệm
Cái chết cô đơn, đau khổ của Chúa Giêsu ứng nghiệm hình ảnh Người Tôi Trung của Ngôn sứ Isaia. Những nổi khổ đau, mọi sự sĩ nhục và cực hình Người Tôi Trung phải chịu: bị đánh vào lưng, bị giật râu, bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Mặc dầu vậy, Người Tôi Trung vẫn vững lòng tin tưởng có Thiên Chúa phù trợ.
Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với Người Tôi Trung một lần (Lc 22,37; Is 53,12) nhưng truyền thống không ngừng đồng hoá khuôn mặt của Người Tôi Trung với Đức Kitô ( Mt 8,16;Is 53,4; Mc 1,1;Is 52,1; Mt 12,18-21;Is 42,1-3; Mc 9,31;Is 53.6.12; Ga 12,38;Is 53,1). Đề tài Người Tôi Trung chịu đau khổ là đề tài khai triển một cách rõ rệt nhất quan niệm một Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ và sự chết thì mới hoàn thành được sứ mệnh (Cv 3,13-26; Is 4,25-30; Is 53,5.6.9.12; Mc 10,41; Is 53,5; 1Cor 11,24).
Hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ cho thấy rõ Đức Giêsu đảm nhận thân phận làm người cho tới cùng. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tự mạc khải là Thiên Chúa “vì mọi người và cho mọi người” chứ không phải như một Thiên Chúa tuyệt đối và toàn năng của triết lý và huyền thoại. Nhân tính của Đức Giêsu mạc khải dưới một siêu việt tính đích thực, nhìn dưới một dạng thức hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự siêu việt của một tình yêu vượt qua cái tôi ích kỷ, vượt qua được sự chết để trở nên sự sống cho mọi người.
Bài Thánh ca của Thánh Phaolô gợi lên hình ảnh Người Tôi Trung đau khổ (câu 8; Is 53,7.10.12), nhưng ở đây, Người Tôi Trung được đối chiếu với hình ảnh Đức Chúa vinh quang. Sự tự hạ thẳm sâu và chiến thắng vinh quang là bài ca ca ngợi Chúa Giêsu Kitô đã hạ mình chịu chết và được siêu tôn. Chính sự vâng phục theo thánh ý Chúa Cha đã làm nên giá trị của Chúa Giêsu trên mọi thụ tạo.
5. Sứ điệp tình yêu
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy những chiều kích khác lạ của tình yêu. Tình yêu không đơn thuần chỉ là sự trao ban thuần túy để làm hài lòng người mình yêu thương, nhưng sâu thẳm hơn, nó là sự hiến dâng chính bản thân để chịu đau khổ.
Tình Yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại qua con đường thập giá thật đẹp và tinh tuyền như ánh trăng lấp lánh trên dòng sông tình ái. Thấp thoáng trong bóng tối đau khổ, sợ hãi, cô đơn và sự chết là lung linh ánh sáng khoan dung, tha thứ, bình an và vượt thoát. Trong màn đêm của bạo lực và bất công, bầu trời vẫn lấp lánh ánh sao của dâng hiến và yêu thương. Ngước lên và ngắm nhìn, chúng ta có thể nhận ra từng nét chân dung huyền ảo của Tình Yêu và trái tim của chúng ta sẽ nhận ra được dung mạo của Chúa Giêsu yêu thương đến cùng.
Trong hình hài đầy thương tích của Đấng Chịu Đóng Đinh, bóng tối của sự thịnh nộ và thù hận đã nhường chỗ cho ánh sáng của nhân ái và thứ tha. Làm sao chúng ta có thể nhận ra “Con Người” đẹp nhất trần gian, nếu chúng ta không nhìn qua lăng kính của Tình Yêu! Cuộc khổ nạn của Chúa cho chúng ta một cái nhìn thật thâm trầm và sâu sắc về sự nguyên tuyền của Tình Yêu: đứng trên sự cuồng nộ là thinh lặng, đứng trên hành vi bạo lực là một tinh thần bình an, đứng trên lòng thù hận là tha thứ, đối lại thô bạo là bao dung. Tình Yêu làm chúng ta bỡ ngỡ và sửng sốt. Chúng ta thích ngắm nhìn hình ảnh của một tình yêu siêu thoát và bay bổng, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu trở nên bình dị và gần gũi. Chúng ta mong muốn một tình yêu được nhận lãnh và chiếm hữu, nhưng nơi Chúa Giêsu, tình yêu lại trở thành trao ban và từ bỏ. Tình yêu là nét đẹp của sự tự hạ và quên mình, là dâng hiến bằng chính trái tim và trọn vẹn cuộc đời. Tình yêu không là ngôn từ để kết án, không là vũ khí của bạo lực đa đoan. Tình yêu là âm thanh gợi cảm của trái tim, là nét vẽ thanh thoát của vũ hoàn và là dòng suối của hoa trái tha thứ bao dung. Chúa Giêsu đã làm tan chảy mọi ô nhơ đố kỵ, khi Người đặt tất cả trong ánh sáng của tình yêu. Nguồn suối ân sủng từ tình yêu Chúa Giêsu làm cho mảnh đất khô cằn của sự chết trở nên hồi sinh và đầy tràn sức sống[ii].
Trước tình yêu vô biên của Đấng Cứu Độ, con người sao có thể đáp đền cân xứng?. Làm thế nào so sánh một giọt nước nhỏ nhoi với cả đại dương mênh mông vô tận!?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đều hướng về một sứ điệp. Đó là sứ điệp tình yêu. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến độ vâng lời đón nhận cái chết thập giá và yêu thương con người nên đã đón nhận mọi khổ đau của nhân loại mà đưa lên cây thập gía hầu ban ơn cứu độ.
Chính tình yêu, chứ không phải đau khổ, đã biến thập giá tủi nhục thành Thánh Giá vinh quang. Chính tình yêu của Chúa Giêsu, chứ không phải cuộc khổ nạn mà chúng ta được Cứu Độ (Ga 3,17), được giải thoát mọi xích xiềng tội lỗi. Như vậy, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là một hành trình của tình yêu tiến tới sự sống và hạnh phúc cho muôn người.
Khi chấp nhận mang lấy những khổ đau, những nhục nhã của cái chết Thập giá, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để cho sự sống mới phát sinh. Nhờ sự chết của Người mà sự sống đời đời xuất hiện cho nhân loại. Đó là định luật nối kết sự chết và sự sống. Chấp nhận đau khổ và sự chết vì tình yêu thì nó trở thành con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Trong cuộc sống thường ngày, có những lúc chúng ta gặp đau khổ, gặp thất bại, gặp nghịch cảnh. Nhiều lúc mình than trách Chúa, nghi ngờ tình yêu của Chúa. Có người bị lung lay đức tin. Có người đã đánh mất đức tin. Hãy chiêm ngắm đau khổ Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn để vững vàng vượt qua thử thách, băng qua gian truân. Qua Thập giá mới đạt tới vinh quang Phục Sinh. Hãy xin được như Thánh Gioan kiên vững dưới chân Thập giá để trung thành với một tình yêu sắt son cùng Thầy Giêsu. Hãy xin được như Đức Maria can đảm dưới chân Thập giá cùng chịu đau thương nhục nhã với người con yêu.
Con Thiên Chúa đã gánh chịu mọi khổ đau của thân phận con người, nhưng Người không oán than, không kêu trách, không rên xiết; trái lại, Người đón nhận khổ đau với một tình yêu sâu đậm: Yêu Chúa Cha và yêu nhân loại. Chính tình yêu này đã biến khổ đau của Người nên nguồn ơn cứu rỗi. Tình yêu cứu độ của Chúa đưa nhân loại đi tới bến bờ hạnh phúc. Chúng ta hãy tin yêu Chúa Giêsu và bước đi theo Người để có sự sống dồi dào và niềm vui an hoà.
———————————–
[i] Tác giả An Thiện Minh, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa Nihil Obstat, Đức Cha Guise Võ Đức Minh Imprimatur, Nhà xuất bản tôn giáo, Nhà sách Đức Bà Hòa bình phát hành.
[ii] sđd trang 232-269.
78. Một chứng nhân trực tiếp – Camille Gagnon.
Hôm nay, tường thuật về cuộc thương khó được trích từ Tin Mừng theo thánh Maccô. Đây cũng là một chứng tá vì, theo truyền thống, thánh Maccô đã có mặt trong vườn Cây Dầu: Một thanh niên theo Chúa Giêsu; Người chỉ khoác một tấm vải trải giường. Người ta túm lấy anh, nhưng anh ta bỏ tấm vải trải giường lại mà thoát thân”. Thánh Maccô cũng là kẻ đã được thánh Phêrô trao đổi tâm sự: thánh Maccô đã là bạn đồng hành với thánh Phêrô sau khi Chúa Phục Sinh và hai người đã cùng nhau rao giảng Tin Mừng. Maccô cũng đã nhiều lần nghe kể câu chuyện về con gà gáy vào lúc rạng đông và kết thúc cái đêm phản bội ấy.
Vậy đây là một vụ án với một chứng nhân trực tiếp, một chứng nhân nhớ lại nhiều chi tiết mà những người khác không nhớ.
Một vụ án bình dân.
Nơi thánh Maccô, vụ án của Chúa Giêsu là một vụ án bình dân. Một con người bị điệu ra trước đám đông, một đám đông kinh ngạc vì tất cả những biến cố đang dồn dập xảy đến. Đám đông này ngày mai sẽ không biết trả lời thế nào nếu người ta hỏi tại sao đã la lên: “Giêsu Nadaret” thay vì “Barabas”. Quần chúng hành động theo bản năng vì hoảng hốt; họ la lên trước một việc nhất thiết phải xảy đến.
Trong vụ án này có nhiều nhân vật, đó là những chứng nhân ít được biết đến mà các thánh sử khác đã bỏ qua, và những chứng nhân này hầu như không có gì để làm cả, nhưng vẫn có mặt ở đó.
Còn chúng ta, chúng ta làm gì trong vụ án này? Chúng ta, những chứng nhân trực tiếp cuộc tử nạn của Chúa Kitô ngày hôm nay: chúng ta, trong một đám đông vô danh, chúng ta không biết mình la lên vì ai!
79. Chú giải của Noel Quesson.
(Mc 14,1 – 15,47)
Trang Tin Mừng hôm nay muốn giúp mọi Kitô hữu đang ước ao sống trọn một tuần lễ “thánh”. Những lễ nghi trong tuần này là những lễ nghi đẹp đẽ nhất, ý nghĩa nhất trong năm. Nhưng chúng ta chỉ thực sự sống những lễ nghi đó cách nội tâm, nếu cá nhân mỗi người trong ta đã suy gẫm những “biến cố” tạo nên “tuần lễ” này, chắc chắn, đó là những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Chúng ta đã làm nghiêng ngả dòng lịch sử và thay đổi bộ mặt hành tinh trái đất chúng ta.
Đọc bài thương khó một lần, cách phớt qua, là không đủ. Cần phải để cho nó thẫm nhiễm trong ta. Nên đọc đi đọc lại. Chúng ta chưa lưu ý đúng mức “vị trí” mà bài thương khó nắm giữ trong toàn bộ “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô”! Trong trình thuật của Mác-cô, bài thương khó là phần thứ năm của Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta sẽ nghĩ gì về một tiểu sử, màphần quan trọng nhất trong đó, lại dành để kể lại cái chết của một nhân vật ta muốn nói tới? Ta lại càng ngỡ ngàng hơn khi những trình thuật đó đã được viết sau sự kiện sống lại, bởi những người đang sống trong ánh sáng của biến cố Phục sinh vinh hiển. Thế mà, các nhà trước tác lại không nhấn mạnh đến biến cố Phục sinh đó. Trong bản văn bằng tiếng Hy-Lạp của Mác-cô, bài thương khó đã chiếm tới 160 dòng chữ viết…và cuộc Phục sinh chỉ có 46 dòng, hay 19 dòng, nếu ta không kể những câu 16,9 đến 20, là những câu được một người khác với Mác-cô thêm vào văn bản sau đó.
Đúng vậy, cái chết cua Đức Giêsu phải là vấn đề chủ yếu: có một “bí mật” nào đó cần phai được khám phá.
Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!… Điều gì làm được thì cô đã làm: “Cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi để chuẩn bị ngày mai táng” (Mc 14,8).
Toàn thể phần đầu Bài Thương Khó (14,1-42) kể lại “âm mưu ám hại Đức Giêsu”, “việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a”, “Giu-đa phản bội”, “chuẩn bị mừng lễ Vượt qua”, “báo trước việc Giuđa phản bội”, “thiết lập Bí tích Thánh Thể và “cơn hấp hối tại Ghét-sê-ma-ni”… tất cả những chi tiết đó cho ta thấy, Đức Giêsu bắt đầu sống trong nội tâm Ngài Cuộc thụ Khổ, trước khi nó diễn ra trên thân xác cách cụ thể. Các bạn hãy đọc 42 dòng đầu chương 14 của Máccô. Trong khi đọc như thế, các bạn hãy tìm hiểu tư tưởng và tâm tình của Đức Giêsu. Phải, trước khi xảy ra cuộc bắt giữ, khởi đầu cho tiến trình thụ khổ bên ngoài, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn cuộc thụ khổ đó trong lương tâm, trong ý thức trước về việc tự nguyện dâng hiến của mình: Người đã thấy trước mình sẽ được “mai táng” (14,8), “bị phản bội” (14, 10.14,17), “phải đổ máu” (14,24), “bị mọi người bỏ rơi và bị Phêrô chối từ” (14, 27-30). “hấp hối” (14,34-36) Nhưng Đức Giêsu đã bắt đầu ý thức vấn đề sớm hơn nhiều. Thế thì Người đã nói đến cái chết sắp tới của Người từ lúc nào? Hiển nhiên hơn cả là lúc “Phêrô tuyên xuống Đức tin tại Xê-da-rê (Mc 8,31): kể từ ngày đó, đã ba lần Đức Giêsu nói với các bạn hữu Người về cái chết dữ dằn và khổ nhục của mình (Mc 8,3,31 – 9,30 – 10,33). Nhưng cũng cần phải ngược lên xa hơn. Các bạn hãy đọc câu 14 của chương I Tin Mừng Mác-cô: Đức Giêsu tiếp tục sự nghiệp của Gioan Tẩy Giả, khi Người biết rằng điều đã xảy đến cho cái ngôn sứ sẽ xảy đến cho ông và cũng xảy đến cho Người. Do đó, Đức Giêsu trải qua phần lớn đời Người, trong sự cảm nhận trước cái chết của mình. Phần chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm cách tránh né khỏi phải nghĩ đến cái chết không? Đối với chúng ta, cái chết của ta không phải là “tác động” quan trọng nhất của đời người và hướng dẫn mọi hành động khác sao?
Bữa ăn vượt qua (Mc 14,12.13.14.16).
Trong đoạn này, đã bốn lần sử dụng từ “Vượt qua”. Lễ Vượt qua của người Do Thái là để tướng niệm công cuộc “giải phóng”! Một dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trong những đau khổ trần gian những gì áp đặt ta, không gì có thể hủy diệt ta, kể cả trong cái chết của mình… nhờ đức tin, chúng ta có thể tiếp gặp sự hiện diện tuy bí ẩn nhưng hiển nhiên của Thiên Chúa, để giúp ta vượt thoát nhưng khó khăn đó, tới hạnh phúc bát diệt. Đức Giêsu đã trải qua cái chết của Người như một cuộc “vượt qua”: thay vì trốn chạy thực tế đau đớn và nhục nhã của thân phận làm người, Người đã phó mặc cho số phận bằng một thái độ liên kết yêu thương với Thiên Chúa! Cảm nghiệm về cái chết như thế, Người đã “thay đổi ý nghĩa” cho nó: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pr 2,8). Lạy Chúa, Xin. cho con biết chấp nhập mọi trái ý trong cuộc sống: đau khổ, thử thách, bệnh tật, già nua, thất bại, cô đơn, tội lỗi… như một cuộc vượt qua, như một bước đường dẫn đến Chúa.
Đây là Mình Thầy… Đây là Máu Thầy… Đức Giêsu đã nói như thế, sau khi dâng lời chúc tụng Thiên Chúa.
Chúng ta hãy ghi nhận một số chi tiết lý thú: trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giêsu “truyền phép rượu”, sau khi các môn đệ đã uống rượu đó (“tất cả đều uống” câu 23… Người bảo họ: “Đây là Máu Thầy câu 24…). Chi tiết này có thể dẹp bỏ những tranh cãi về phụng vụ và các nghi thức chặt chẽ… như thể tuyệt đối đọc những lời trên bằng tiếng La-tinh hay tiếng địa phương, rước lễ trên tay hay phải đặt Mình Thánh nơi miệng… Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng quá để ý đến những chuyện tầm phào đó, nhưng hãy tiến vào tình yêu mầu nhiệm của Chúa, Đấng đã phó mình trước, cách vui tươi, trong một thái (độ “tạ ơn” (câu 22) “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hi sinh mạng sống mình” (Mc 10,45; Ga 10.18). Còn chúng ta thì sao? Tại sao chúng ta không lợi dụng việc suy niệm cuộc thướng khó để “ngay từ bây giờ và một cách tự nguyện hiến dâng” cái chết của ta, hợp ý cùng cái chết của Đức Giêsu? Đó là cách thế tuyệt diệu giúp chúng ta không còn sợ cái chết nữa, nhưng có thể bình thản nhìn nó đến, trong bình an, như Đức Giêsu và cùng với Người.
Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa, cho đến ngày được uống thứ nrợu mới trong nước Thiên Chúa.
Đó là niềm vui, sự yên tĩnh, an bình biết bao! Đó là thái độ thanh thản chờ đợi “ngày đó”, ngày của Thiên Chúa, ngày mà Thiên Chúa cuối cùng sẽ hiển trị, ngày mà tất cả sẽ là sự sống, tình yêu, hạnh phúc, bữa tiệc mới, rượu mới… ngày đó “sẽ không còn sự chết, cũng chẳng. còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, nhưng là tiệc cưới của con chiên” (Kh 21,4)… đó là “ngày cuối cùng”, kết thúc thời gian, hoàn tất công trình của Thiên Chúa, ngày thế mạt… và tất cả chúng ta đang tiến tới ngày đó. Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa. Chớ gì mỗi bữa tiệc thánh thể là bước chuẩn bị dẫn chúng con tới bữa tiệc? rượu mới trong nước của Chúa Cha”, trong tình yêu.
TIẾN ĐẾN TÌNH TRẠNG CÔ ĐỘC HOÀN TOÀN.
Chúng ta hãy theo sát Đức Giêsu. Người báo trước: “mọi người ” sẽ bỏ rơi Người (Mc 14,27), Phêrô, người có trách nhiệm, sẽ chối từ Người (Mc 14,30). Người chọn “ba ” người trong các môn đệ để ở bên Người trong cơn hấp hối, và ba lần Người trở lại với họ để nài xin họ cùng thức, nhưng họ đều “ngủ” cả (Mc 14,33-37.40–41), tất cả đều “bỏ Người trốn chạy hết” (Mc 14,50)… và trên thập giá, người cảm thấy ngay Thiên Chúa cũng bỏ rơi Người (Mc 15,34). Thật là cô độc hoàn toàn. Mọi người đều phải chết cách cô lẻ. Đức Giêsu đã không tìm cách tránh né. Người vâng theo định mệnh con người”.
Anh em ngồi lại đây. Thầy đi cầu nguyện (Mc 14,32)… Lạy Cha Cha có thể làm được mọi sự. Xin cho con khỏi uống chén đắng này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14,36).
Vào lúc ba giờ chiều, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “ê-lô-I, Ê-lô-i, La-ma-sa-bác-tha-ni!” nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa của con, sao Chúa nỡ bỏ con” (Mc 15,34).
Như thế, trong cuộc thụ khổ, Đức Giêsu không ngừng cầu nguyện. Trên đây là hai lối cầu nguyện: cầu nguyện tại Ghét-sê-ma-ni và cầu nguyện tại Gôn-gô-tha. Máccô còn cho ta biết, Đức Giêsu đã cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ tiếng A-ra-mên, thứ tiếng mà khi Người còn là cậu bé, Đức Maria đã dạy Người cầu nguyện: “Ap-ba” có nghĩa là “Ba ơi”, “Ê-lô-i” có nghĩa là “Thiên Chúa của con”… Lạy Chúa, xin giúp con khi gặp đau khổ dám cầu nguyện thưa gửi như Chúa:
1. Xin cho con khỏi đau khổ này!
2. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.
Nếu tôi có sách Kinh thánh (nhưng một gia đình Công giáo đã chắc gì có Kinh thánh!), tôi sẽ đọc lại trọn Thánh Vịnh 21. Đức Gỉêsu đã dùng Thánh Vịnh này để cầu nguyện trên thập giá. Khởi đầu Thánh Vịnh hoàn toàn có tính chơ vơ cô lẻ nhưng khi kết thúc thì lại hớn hở mừng vui một cách hết sức nghịch lý. Đây là một trong những chìa khóa bí mật của huyền nhiệm mà ta đang tìm hiểu trong cuộc thương khó này.
HAI LỜI TỐ CÁO ĐỂ NÓI TRƯỚC MẶT THIÊN HẠ RẰNG: ĐỨC GIÊSU LÀ “CON THIÊN CHÚA” VÀ LÀ “VUA”.
Trong Tin Mùng Mác-cô, có hai lời tố cáo Đức Giêsu: Một lời tố cáo có tính “tôn giáo” (Mc 14,53-65), trước Thượng hội đồng, trước “tất cá các vị Thượng tế… và một lời tố cáo mang tính “chính trị ” (Mc 1 5, 1 -20), trước Phi -la-tô, viên tổng trấn đại diện cho Rôma…để “bí mật ” về căn tính đích thực của kẻ bị kết án đó, Đức Giêsu Na-da-rét, được công bố trước mặt thiên hạ.
Ông có phải là Đấng Kitô, con Đấng chí tôn không?
Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy con người ngự bên hữu Đấng toàn năng, và còn thấy Người ngự giá mây trời mà đến.
Ông là Vua dân Do Thái sao? Đúng như Ngài nói đó.
Bây giờ “bí mật” đã được tiết lộ. Cuối cùng thì Đức Giêsu cũng đã nói ra Người là ai. Trong suốt đời sống công khai của mình, Đức Giêsu đã yêu cầu mọi người đoán nhận ra bí mật này phải im lặng, bởi vì con người chỉ có thể “hiểu được” Thiên Chúa, khi nhìn lên thập giá: Người là “Con”, nhưng không như con người nghĩ tưởng. Người là “Vua”, nhưng không như người ta chờ mong. Người con đó hoàn toàn yêu thương, không giữ lại cho mình chút nào: Đó là tình yêu tuyệt đối, liều chết cho “kẻ khác”… ông Vua này yêu thương trọn vẹn, không dành quyền thống trị: mà trở nên “tôi tớ”, tặng ban mạng sống mình cho “muôn dân”.
Đây là một điều hết sức mới lạ, hết sức gây ngo ngàng, đến nỗi không ai có thể hiểu được: những kẻ qua đường thì “lắc đầu” trước ông Vua người Do Thái này (Mc 15,29-30), những người tố cáo thì tiếp tục buộc Người muốn phá Đền thờ (14,58), các thượng tế vẫn nghĩ rằng’nếu là Thiên Chúa thì hẳn là sẽ xuống khỏi thập giá (15,31-32), hai tên trộm cướp bên tả và bên hữu thì sỉ nhục Người (15,32), còn các tông đồ thì chẳng thấy mặt mũi đấu cả!
Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, ông này là con Thiên Chúa”.
Ta cần ghi nhận, cách Đức Giêsu chết đã làm phát sinh thái độ Đức tin trên… chứ không phải biến cố “Phục sinh” xảy ra sau này. Phải, trước khi suy niệm về cuộc sống lại vinh hiển, cần phải suy gẫm về “cái chết” của Đức Giêsu: Cái chết này nói lên nhiều điều. Lạy Chúa, qua cái chết đó, Chúa nói gì với con? Con sẽ đọc lại trình thuật này… Con sẽ lắng nghe… bí mật của Chúa.
80. Chú giải của Fiches Dominicales
BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU KITÔ
THEO THÁNH MACCÔ
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một trình thuật có sự liên kết rất chặt chẽ.
Trình thuật Cuộc Khổ Nạn chiếm một khoảng lớn trong Tin Mừng Máccô, bởi vì nó chiếm đến hai chương, gồm một đoạn nhập đề và hai phần, tất cả đều liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Nhập đề (14,1-11) mở đầu trình thuật bằng ba phối cảnh, hướng dẫn độc giả vào cuộc, đó là:
+ Âm mưu chống Đức Giêsu, nguồn gốc của tấn thảm kịch (14,1-2).
+ Xức dầu tại Bêtania (4,3-9), cử chỉ có tính tiên tri báo trước việc táng xác.
+ Giuđa phản bội (4,10-1 1) khai mào thảm kịch.
– Phần thứ nhất (14,12-52) của trình thuật xoay quanh bữa tiệc Vượt Qua của Đức Giêsu với các môn đệ.
+ Chuẩn bị bữa Tiệc ly (14,12-16).
+ Thông báo việc Giuđa phản bội (14,17-21).
+ Đức Giêsu lập Bí tích Thánh Thể (14,22-26).
+ Tiên báo việc Phêrô chối Người (14,27-31).
+ Lời cầu nguyện trong vườn Ghetsêmani (14,32-42).
+ Đức Giêsu bị bắt (14,43-52).
– Phần thứ hai dẫn chúng ta vào giữa tấn thảm kịch, qua việc Xét Xử và Lên án Tử cho Đức Giêsu (14,53-15,47).
+ Vụ Xét Xử diễn tiến trong hai giai đoạn:
Toà án Do Thái, trước Thượng Hội Đồng (14,53-65)
Toà án Rôma, trước tổng trấn Philatô (15,1 -15). Trong hai giai đoạn này, có kèm hai sự cố.
Phêrô chối Thầy (14,66-72)
– Quân lính nhạo cười Chúa (1 5,16-20)
+ Thi hành án tử cho Đức Giêsu (15,21 -47).
– Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập giá (1 5,21 -32)
– Đức Giêsu chết trên thập giá (15,33-41): trọng tâm của trình thuật.
Sau cùng, Đức Giêsu được mai táng.
2. Chóp đỉnh của trình thuật: một người ngoại giáo tuyên xưng đức tin.
Trong khuôn khổ của quyển sách này, chúng tôi không thể quảng giải từng chi tiết của trình thuật, chỉ xin nhấn mạnh một vài điểm tiêu biểu mà thôi.
– Những biến cố được thuật lại cách hờ hững, làm chúng ta bực bội. Như thế, cùng với Máccô và các môn đệ, ta có thể nhận thức được rằng: việc thực thi kế hoạch của Thiên Chúa làm cho con người cảm thấy thật hụt hẫng. Thập giá đúng là cớ vấp phạm. Vậy mà chính ở đó mầu nhiệm Con Thiên Chúa được mạc khải! (E.Charpentier, trong “Lire ba Bible” số 55, trang 1 13).
Sự Thinh Lặng của Đức Giêsu thật đáng kinh ngạc.
E.Charpentier, giải thích: “Đức Giêsu biết rằng mầu nhiệm của Người vượt quá tầm hiểu biết của loài người. Người biết rằng: chúng ta bị “tắc nghẽn”. Bởi vậy, trong cuộc đời công khai, Người đã từ chối nói ra Người là ai. Trong cuộc thương khó, Người chịu vén mở một chút bức màn thinh lặng bởi vì Người đã bị kết án tử và không còn nguy cơ diễn dịch danh hiệu của Người theo nghĩa ham muốn quyền lực, ” (Sđd).
Mặc dù bị thúc bách bởi những câu thẩm vấn, Người chỉ mở miệng ba lần sau khi bị bắt:
+ Khi vị thượng tế hỏi Người có phải là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa không, Người đáp: Phải, chính thế. Rồi Người giới thiệu mình là “Con Người”, Đấng mà ngôn sứ Đaniel đã loan báo sẽ đến vào ngày tận thế, để phán xét chung.
+ Khi Philatô hỏi với ẩn ý chính trị rằng Ngài có phải “Vua dân Do Thái” không, Đức Giêsu xác nhận lời ông: “Chính như ngài nói đó”. Nhưng rồi Ngài thinh lặng (“Đức Giêsu không trả lời gì nữa”) ngay cả khi liên quan đến số phận Ngài; điều đó nhắc ta nhớ “Người Tôi Tớ đau khổ trong sách Ngôn sứ Isaia: “Bị ngược đãi Người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xé lông ” (Is 53, 7).
+ Sau cùng, trên thập giá, Người mượn lời kêu than của người vô tội bị bách hại trong TV 21: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” để nói lên tiếng than van trong cơn nguy khốn và kết thúc bằng lời ca hy vọng tuyệt vời.
Sự Cô Đơn nghiệt ngã của Đức Giêsu nổi rõ trong Tin Mừng Máccô: Bị mọi người bỏ rơi, Người bước đi thui thủi một mình trong đêm tối thập giá.
– Chính trong giờ phút Đức Giêsu chết bị mọi người bỏ rơi, trong khi gánh mọi đau khổ, mọi tang tóc của nhân thế, chúng ta nghe vang lên Lời Tuyên Xưng Đức Tin của viên sĩ quan Rôma, chóp đỉnh của Tin Mừng: Quả thật người này là Con Thiên Chúa”.
– J. Hervieux nhận xét: “Máccô đã tô đậm sự cố này. Trong nhân vật sĩ quan Rôma, (người đứng trông coi việc thi hành án tử), ông nhìn thấy các dân ngoại đang ăn năn trở lại. Ngay lập tức, người ngoại này đã tặng Đức Giêsu danh hiệu cao cả trên mọi danh hiệu. ngài không những là Đấng Mêsia dân Do thái trông đợi mà còn là “Con Thiên Chúa”. Tác giả đặt vào danh hiệu này ý nghĩa mạnh mẽ nhất để chứng tỏ nét độc đáo trong đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa làm trong Đức tin Kitô giáo Thiên Chúa làm người trong Đức Giêsu Kitô.
Người ta nhận ra cảnh trái ngược trong trình thuật: trong khi người Do Thái (đám đông qua lại, các lãnh đạo dẫn đầu) chỉ biết cười nhạo, báng bổ Đấng Mêsia bị đóng đinh, thì một người dân ngoại lại nói lên lời biểu lộ một đức tin tinh tuyền nhất (…).
Đồng thời Máccô dẫn độc giả tới chóp đỉnh của Tin Mừng. Ngay từ đầu sách, ta còn nhớ câu hỏi về Đức Giêsu: “ Ông này là ai” Với lời tuyên xưng của Phêrô, đại diện cho nhóm Mười Hai, ngưỡng cửa thứ nhất đã được bước qua: Đức Giêsu chính là Đấng” Mêsia (8,29). Nhưng đức tin mới chớrn nở còn cần phải đào sâu. ” Cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu đã tạo điều kiện cho việc đó. Với việc viên sĩ quan tuyên xưng đức tin, bước quyết định đã hoàn tất: Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa, điều mà Tihên Chúa Cha đã công bố khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (1, 11). Và, theo nguyện ước của Đức Giêsu khi xảy ra biến cố tẩy uế Đền Thờ, giờ mọi dân tộc có thể nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa (11,17). Đã hẳn, nhờ ánh sáng của Chúa Phục Sinh và việc dân ngoại gia nhập Giáo Hội sơ khai, tư tưởng cao siêu này mới được hình thành. Hơn nữa, nó còn là kết quả của một cuộc suy tư dài lâu nơi cộng đòan Kitô hữu (gần 40 năm). Chúng ta không nên coi thường vấn đề thời gian” (“Ltevangile de Marc”, Centurion, trang 230).
– Sau cùng, địa vị của PHự Nữ, tuy rất âm thầm kín đáo, cũng rất có ý nghĩa. Họ đi theo Chúa – việc hi hữu đối với một Rabbi Do Thái – trong sứ vụ ở Galilê, họ đi lên Giêrusalem, họ can đảm theo Chúa cho đến núi Sọ, trong khi các môn đệ bỏ trốn hết. Họ được thánh sử nhắc đến ở đây, trong tư thế “nhân chứng” duy nhất: “họ đứng nhìn”, “đứng xa xa, bởi vì họ là phụ nữ, nên không được phép lại gần người thụ hình. Họ làm nên dây liên kết ba biến cố diễn tiến liền sau: cái chết của Đức Giêsu, việc táng xác trong mồ, và nhất là vào buổi sáng Phục Sinh, việc khám phá rằng “Đức Giêsu Nagiarét”, Đấng bị đóng đinh, đã chỗi dậy (16,6).
II. BÀI ĐỌC THÊM
Bí mật rồi cũng được mạc khải
(“La Bible du dimanche” trang 403-404).
Xuyên suốt Tin Mừng, Máccô đã bảo vệ phẩm cách thiên sai của Đức Giêsu, bằng cách bao trùm lên Người vẻ bí mật và thinh lặng, mỗi khi Người chạm trán với sự chậm tin hoặc sự mù quáng của dân chúng. Trong suốt cuộc khổ nạn, vẻ bí mật và thinh lặng này đã trở thành nỗi cô đơn của Đức Giêsu vì Người xác tín mình là Đấng Mêsia.
Người đã đánh mất cử toạ là quần chúng và người thân cận, khi mà những biến cố đầu tiên của cuộc Thương Khó làm cho các tông đồ lìa bỏ Ngài. Trong vườn Ghetsêmani, những môn đệ lẽ ra phải thức với Người thì đã thiếp ngủ (Mc 14,37-40), họ đã chạy trốn lúc Chúa bị bắt (14,50), dù phải chạy trần truồng vì hoàn cảnh bắt buộc (15,51 -52). Trong cuộc tra vấn, khi Phêrô bộc lộ tính nhát đảm (14,62-71) và hai nhân chứng dối trá tố cáo Người (14,56-60), thì chỉ còn một nhân chứng dám hai lần phát biểu ủng hộ Người, đó là con gà trống đáng thương. Nỗi cô đơn quả là khủng khiếp: người ta nhạo cười Đức Giêsu khi Người tự nhận mình là Đấng Cứu Thế; Người là vua, nhưng là vua giấy trong căn phòng của đám lính gác; Ngài được giới thiệu cho quần chúng, nhưng họ lại là một đám đông la ó xin xử tử Ngài. Trên thập giá, khi mà các môn đệ đứng xa xa để tránh bị lộ (15,40), Đức Kitô cảm thấy cô đơn đến độ dường như Chúa Cha cũng ruồng bỏ Người luôn (15,34-35).
Đức Giêsu chịu đựng nỗi cô đơn càng lúc càng dữ dội, trong thinh lặng tuyệt đối (Mc 14,6; 15,3-4). Trái với các thánh sử khác, Máccô chỉ ghi lại một lời ngắn gọn duy nhất của Chúa trên thập giá. Sự thinh lặng này đánh dấu sự cách biệt giữa quan niệm mà Đức Giêsu hiểu về sứ mạng của mình với quan niệm của những thù nghịch nghĩ về Ngài. Nó chứng tỏ rằng Đức Giêsu luôn trung tín với chính mình giữa những cơn thử thách.
Nhưng vừa khi cái chết đóng dấu ấn vào nỗi cô đơn, thì Đức Kitô liền được tung hô là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa (Mc 15,39), và một nhóm môn đệ lại hình thành quanh Người (Mc 15,40-43). Đức Giêsu không còn cô độc; Giáo Hội được thiết lập và những người ngoại giáo cũng thuộc về Hội Thánh ấy.”