CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 10,2-26.34-35.44-48; 1Ga 4,7-10; Ga 15,9-17
MỤC LỤC
1. Yêu thương anh em 4
2. Yêu thương nhau 6
3. Yêu mến – Lm. Giuse Phạm Quốc Phong 8
4. Yêu như thầy yêu – Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh 11
5. Yêu thương anh em. 16
6. Chúa Nhật 6 Phục Sinh 18
7. Anh em hãy yêu thương nhau – ViKiNi 21
8. Chúa Nhật 6 Phục Sinh 25
9. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc 29
10. Chúa Nhật 6 Phục Sinh 32
11. Yêu như Chúa yêu – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt 34
12. Ý- Tâm – Thân hòa điệu – An Phong, OP 37
13. Chúa Nhật 6 Phục Sinh 39
14. Gieo gì gặt ấy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 42
15. Hãy yêu thương nhau 46
16. Thiên Chúa là tình yêu 49
17. Dòng suối yêu thương – Lm. Ignatiô Trần Ngà 53
18. Tình đáp tình – Anmai, CSsR 56
19. Ở lại trong tình thương. 61
20. Yêu như Chúa yêu 64
21. Yêu như Thầy yêu 68
22. Phúc nào hơn được làm bạn với Chúa 72
23. Yêu như Chúa yêu. 75
24. Dưa hấu là cậu bí ngô 79
25. Phải có hoa hồng trên cây hồng – Guy Morin. 83
26. Biết rồi, vẫn phải nói 86
27. Chúa Nhật 6 Phục Sinh 90
28. Chỉ là một nhịp đập của tim. 93
29. Như Thầy đã yêu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 96
30. Thiên Chúa là tình yêu – Lm Giacôbê Tạ Chúc 101
31. Hãy ở lại trong tình thương của Thày 103
32. Phép lạ của tình yêu – Lm. Mark Link. 109
33. Giây leo – Lm. Vũ Đình Tường 114
34. Đi lạc – Lm. Vũ Đình Tường 117
35. Lưới tình – Lm. Vũ Đình Tường 120
36. Điều răn của Thầy – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 123
37. Niềm tâm sự của Chúa Giêsu 127
38. Mến Chúa và yêu người. 131
39. Yêu thương 133
40. Những ai thánh thiện? – Peter Feldmeier 137
41. Yêu thương anh em. 140
42. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 143
43. Yêu thương nhau – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 156
44. Dấn thân. 161
45. Yêu thương. 163
46. Vốn vẫn như thế! – John W. Martens 167
47. Niềm tâm sự – JKN. 170
48. Yêu như Chúa. 175
49. Tình yêu 178
50.Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em 181
51. Tình yêu 184
52. Tình yêu. 187
53. Yêu thương. 189
54. Tình yêu trao ban. 192
55. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng. 194
56. Các con là bạn hữu của Thầy -Lm. Trần Minh Đức 197
57. Hãy yêu thương nhau – Lm. Nguyễn Minh Hùng. 199
58. Hãy ra đi và mang nhiều hoa trái 202
59. Suy niệm của Lm Nguyễn Văn Phan. 206
60. Ở lại trong tình yêu và sinh hoa kết trái 209
61. Suy niệm của Lm. Đan Vinh. 217
62. Chú giải của Noel Quesson. 226
63. Chú giải của William Barclay. 231
64. Đôi bạn chân tình – Như Hạ, OP 237
65. Thầy ban bình an của Thầy 242
66. Trở nên bằng hữu Chúa Kitô 248
67. Hãy yêu thương nhau 253
68. Như Thầy đã yêu – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi 256
69. “Các con hãy yêu thương nhau” – Lm. Thu Băng 259
1. Yêu thương anh em
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, các tôn giáo thường chỉ quan tâm tới mối liên hệ giữa Thượng Đế và con người. Còn mối liên hệ giữa con người với con người, nếu không bị bỏ quên, thì cũng bị coi nhẹ. Bởi vì tự bản tính loài người, chúng ta ai cũng ích kỷ chỉ lo cho mình mà thôi.
Thế nhưng với Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã lập lại thế quân bình giữa hai mối liên hệ: giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thật vậy, khi người ta hỏi Ngài xem điều răn nào là điều răn quan trọng nhất, thì Ngài đã xác quyết: Mến Chúa và yêu người, cả hai đều giống nhau, nghĩa là có giá trị bằng nhau.
Hơn thế nữa, với Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta có cảm tưởng như Chúa Giêsu chỉ chú trọng điều điều răn thứ hai mà Ngài gọi là điều răn mới. Ngài nói đây là điều răn của Thầy: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống của mình vì bạn hữu. Thực ra Chúa Giêsu không có ý bảo chúng ta rằng: Từ nay khỏi cần phải nghĩ tới chuyện kính mến Thiên Chúa, chỉ cần yêu thương anh em mà thôi. Nhưng sở dĩ Ngài không nói tới lòng kính mến đối với Thiên Chúa là vì mọi tình yêu thứ thiệt điều bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì Ngài chính là Tình yêu.
Nước chảy phải có nguồn. Chặn nguồn lại thì nước sẽ không thể chảy xuống sông ngòi mà đi vào ruộng đồng. Với niềm tin, chúng ta thấy nếu không có lòng kính mến đối với Thiên Chúa, thì cũng không thể có tình yêu thương đối nhau thực sự được. Bởi thế, trong điều răn mới đã bao gồm điều răn thứ nhất rồi.
Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Bản chất của tình yêu ấy luôn luôn là trong sạch, vui tươi và viên mãn. Thế nhưng khi vào đời, tình yêu ấy cũng như dòng nước chảy, nhiều khi uốn khúc quanh co, nhiều khi đụng phải những chướng ngại vật và phải chảy qua cả những chỗ sình lầy dơ bẩn. Nhưng cuối cùng, thì chính tình yêu sẽ thanh tẩy tất cả, sẽ biến đổi tất cả, để rồi hướng mọi dòng chảy, nghĩa là hướng mọi thứ tình yêu con người chảy vào lòng đại dương bao la là chính tình yêu của Thiên Chúa.
Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta tình yêu, để rồi nhờ chúng ta mà mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc sẽ được trở về với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là Alpha và Ômêga, là khởi thuỷ và cùng đích của mọi tạo vật.
2. Yêu thương nhau
Những lời nói cuối cùng trong cuộc đời của một người thường là những lời nói tâm huyết, bộc lộ cả một tấm lòng chân thực. Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi ra đi chịu chết, Ngài đã cùng với các môn đệ dùng bữa tối. Trong bữa ăn này, sau khi đã làm một cử chỉ đầy ý nghĩa, đó là quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, Ngài đã nói với các ông tất cả những gì cần nói.
Trong cuộc trao đổi này, Chúa Giêsu đã xác định các ông là những người bạn hữu của Ngài, bởi vì các ông được Ngài cho biết tất cả những gì Cha Ngài đã nói với Ngài. Cũng trong cuộc trao đổi ấy, Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại với các môn đệ một lệnh truyền quan trọng, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Bằng chính cuộc đời của mình, Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ mẫu gương sáng chói của tình thương yêu. Chính Ngài đã đi tới tận cùng của lòng thương yêu ấy như Ngài đã từng nói: Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến mạng sống mình vì bạnhữu. Quả thực, nếu cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với Thiên Chúa, thì cũng là chóp đỉnh tình thương yêu của Ngài đối với con người. Đó cũng chính là mẫu mực, chính là nền tảng cho tình yêu thương huynh đệ.
Hơn thế nữa, ở đây Chúa Giêsu còn đặt tình yêu thương giữa các tông đồ vào trong mạch thương yêu xuất phát từ Thiên Chúa: Như Cha đã yêu mến Thầy, thầy cũng yêu mến các con. Vậy các con hãy yêu mến nhau. Chính nhờ tình thương yêu này mà các môn đệ ở trong tình thương yêu của Chúa Giêsu, cũng như vì lòng thương mến các môn đệ, mà Chúa Giêsu ở trong tình thương của Chúa Cha.
Chúng ta có thể nói: với lệnh truyền này, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào cối lõi của chương trình cứu độ, tức là đưa mọi người vào lại trong tình thương của Thiên Chúa và trong tình thương yêu lẫn nhau. Hai vế của tình thương này không thể tách rời nhau như lời thánh Gioan đã khẳng định: Kẻ nói mến Chúa mà không thương người, thì chỉ là kẻ nói dối. Với lòng thương yêu này, các tông đồ sẽ được nếm thử niềm vui ơn cứu độ, đồng thời còn phản ảnh được lòng mến Chúa của chúng ta nữa như lời Chúa Giêsu đã phán: Nếu các con yêu thương nhau thì mọi người sẽ biết các con là môn đệ của Thầy.
Điều Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ ngày xưa, cũng là điều Ngài truyền cho chúng ta hôm nay. Đạo của Đức Kitô chính là đạo của tình thương, của lòng yêu mến. Tất cả mọi tổ chức, mọi lập trường, mọi quan điểm của Giáo Hội cũng như của chúng ta, nếu không thực sự phục vụ tình thương đều là những gì nằm ngoài Kitô giáo. Ngược lại, việc rao giảng Tin Mừng, và làm chứng tá cho Chúa một cách hữu hiệu nhất, không gì bằng thực hiện giới luật của Chúa, đó là hãy yêu thương nhau như chính Chúa đã yêu thương chúng ta.
3. Yêu mến – Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11)
Một ước muốn duy nhất và cũng là điều hạnh phúc nhất trong sâu thẳm con tim của mỗi người chúng ta, không có gì khác, đó chính là “yêu” và “được yêu”. Điều này đúng ngay cả đối với những người cứng cỏi và nguội lạnh nhất, những người bị đang bị tổn thương cũng như những người đang trong thất vọng, những người bi quan và mỏng giòn, ước muốn “cho đi” hay “lãnh nhận” “Tình Yêu” này hiện diện trong mỗi chọn lựa và trong từng nỗi đau đớn của chúng ta. Chúng mong ước yêu thật nhiều và được yêu thật nhiều, và rồi chúng ta đau khổ, bởi vì chúng ta không đạt được ước muốn đó: “yêu và được yêu”, mặc dù chúng ta đã cố gắng tìm đủ mọi cách thức để có được nó. Vậy thì làm cách nào chúng ta có thể yêu và được yêu?
Tin Mừng hôm nay của Thánh Gioan trả lời cho chúng ta rất rõ ràng câu hỏi ở trên. Tình yêu trước tiên đó là một tiến trình đón nhận Tình yêu của Thiên Chúa, chấp nhận để được yêu, ở lại trong tình yêu mà mình khám phá ra. Tình yêu do đó, trước là “ý thức” và rồi “cảm nhận”, sau đó “rung cảm” rồi đến “cảm xúc”. Chính những đặc tính đó làm thước đo cho tình yêu như thánh Tông đồ đã chỉ cho chúng ta. Chúng ta, và nhất là người trẻ ngày nay, thường hay hiểu lầm từ ngữ “Tình yêu”. Tình yêu không chỉ là “đam mê” và “dấn thân vào đam mê đó”, nó không chỉ là hương thơm của hoa Violet hay “niềm hạnh phúc vô tận”, nó không chỉ là “cảm nhận mình có giá trị” và được người nào đó “tìm kiếm” (một người tình, một người con, hay một người bạn). Tình yêu còn phải mang những thuộc tính: cụ thể và thực tại, mỗi ngày một cách đều đặn, mệt mỏi và lao nhọc, trung thành nhất là trong lúc khó khăn và thử thách, và có khỉ là “cuộc khổ nạn”. Tất cả những thuộc tính này, chúng ta đều tìm thấy nơi “Con Người” Giêsu một cách trọn vẹn.
“Hãy để cho chúng ta được yêu!” nhưng bằng cách nào? Thông thường tình yêu của chúng ta bị gián đoạn, có khi bị hủy diệt bởi sự chậm trễ hay đóng kín cõi lòng chúng ta, hoặc bởi sự mệt mỏi và tội lỗi của chúng ta. Tất cả những thứ này làm chúng ta mệt mỏi và xấu hổ với chính mình, sợ hãi và ngại ngùng trước Thiên Chúa. Chúng ta phải hiểu rằng: Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: hãy để cho chúng con được yêu, hãy để cho lòng Nhân Từ của Cha đến được với chúng con, hãy để cho Tình yêu của Cha đến và ở lại với chúng con trong sự quan phòng và sự hiện diện của Người. Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở nhiều lần với chúng ta: “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha tội cho chúng ta, chỉ có chúng ta mới mệt mỏi khi phải đi hòa giải với Ngài mỗi khi chúng ta phạm tội, rằng lòng từ bi tha thứ của Thiên Chúa là Vô hạn lượng”. Và một cách tất yếu rằng: Tình yêu sẽ biến đổi chúng ta.
“Thầy đã nói với anh em … để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu mong muốn niềm vui, một niềm vui đích thực, một niềm vui tròn đầy. Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui: niềm vui vì càm nhận mình được yêu và có khả năng yêu. Có thể rất nhiều lần, chúng ta đã để mình đi vào con đường của sự buồn chán, lo lắng hay rơi vào tình trạng suy sụp tinh thần. Những khó khăn, những vấn đề rắc rối, sự yếu đuối, sự đau khổ làm cho chúng ta chao đảo, và có khi làm chúng ta ngã quỵ. Chúng ta phải tự đặt ra câu hỏi để phản tỉnh: “vậy chúng ta được gì, nếu cứ mãi ở lại trong sự đau khổ và buồn bã đó”? Thiên Chúa sẽ biến đổi “sự than khóc của tôi thành điệu ca”, nghĩa là Ngài biến đổi và ban cho chúng ta niềm vui đích thật. “Hãy đến với Ta hỡi những ai đang mang gánh nặng nề, Ta sẽ bổ sức cho…” lời mời gọi yêu thương đầy thông cảm của Chúa Giesu phải là một lời nhắc nhở mỗi khi chúng ta cảm thấy chùng chân mỏi gối trên đường lữ thứ trần gian, và Lời ấy chính là Ngài, một Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với mỗi người chúng ta, một Thiên Chúa luôn cảm thông và tha thứ luôn luôn cho chúng ta, bởi vì Ngài muốn: “để niềm vui của anh em được nên trọn”.
4. Yêu như thầy yêu – Lm. Giuse Trịnh Ngọc Danh
Yêu và muốn được yêu là khát vọng ngàn đời của con người.
Nhưng… tình yêu phát xuất từ đâu? Thế nào là yêu và được yêu?
Thánh Gioan trong thư thứ nhất của ngài đã cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”.
Như thế nguồn gốc phát sinh ra tình yêu là Thiên Chúa. Ngài là người yêu thương chúng ta trước và chúng ta là người được yêu: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta trước” và Ngài đã biểu lộ tình yêu ấy đối với chúng ta là Ngài “đã sai Con Một Ngài đến trong thế gian, để nhờ Người Con Một ấy mà chúng ta được sống”.
Về phần con người, nếu chúng ta yêu thương thì chúng ta mang bản chất của Thiên Chúa và chúng ta nhận biết Ngài là Cha yêu thương. Yêu thương là dấu chỉ để thế gian nhận biết chúng ta là con cái của Thiên Chúa. Yêu Chúa, yêu người là hai giới răn quan trọng, tóm kết những giới răn khác. Như thế, là con cái Thiên Chúa, là Kitô hữu chúng ta phải có bổn phận biểu lộ bản chất yêu thương với Thiên Chúa và với mọi người.
Tình yêu của Thiên Chúa lan tỏa đến con người tựa như một cây nho mà gốc và thân cây nho là Thiên Chúa và cành nho là con người như lời Thầy Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng…anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 5:1, 5). Chúa Cha yêu thương Chúa Con bằng nhựa yêu thương là Chúa Thánh Thần thúc đẩy và nuôi dưỡng cây nho lớn mạnh và phát triển sinh nhiều hoa trái: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” (Ga. 15: 9) và “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga. 15: 12)
Nhưng chúng ta phải yêu Thiên Chúa, yêu con người như thế nào?
Hôm nay, qua đoạn Tin Mừng của Thánh Gioan (Ga. 15: 9-17), Thầy Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương yêu thương: Yêu như Thầy yêu.
Để cho cây nho yêu thương phát triển và lớn mạnh và sinh nhiều hoa trái, thì cả thân lẫn cành phải ở lại, phải gắn liền, phải liên kết từ gốc đến cành bằng nhựa yêu thương, phải chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái,tức là tuân giữ lệnh truyền, tuân giữ giới răn mà tình yêu đòi hỏi, và hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Khi yêu, không ai lại muốn đem điều xấu, điều bất hạnh đến cho người mình yêu. Hơn thế, Thiên Chúa là tình yêu, là Cha nhân lành thì chắc chắn không bao giờ Ngài bắt con người tuân giữ những lệnh truyền, những giới răn đưa con người đến bất hạnh và khổ đau; còn hơn thế, Chúa Cha đã hy sinh Người Con Một yêu dấu mình, Chúa Con đã hy sinh mạng sống cho người mình yêu.
Như Cha Thầy yêu Thầy, Thầy Giêsu cũng yêu thương anh em.
Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau.
Tình yêu Chúa Cha và Chúa Con đã lan phát sinh ra tình yêu con người và từ tình yêu con người lại lan toả ra tình yêu giữa con người với con người.
Thầy đã thể hiện tình yêu của Ngài đối với Chúa Cha bằng “đã tuân giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Ngài”.
Chúng ta không biết Chúa Cha yêu Chúa Con đến mức độ nào, nhưng qua lời công bố của Chúa Cha: “Này là Con Ta rất yêu dấu và đẹp lòng ta, các con hãy vâng nghe lời Ngài” và qua lời xác nhận của Thầy Giêsu: “Thầy yêu anh em như Cha Thầy yêu Thầy”, chúng ta tin Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau rất thắm thiết, yêu nồng nàn, yêu chứa chan hơn bất cứ một tình yêu nào khác!
Chúa Con đã yêu thương Chúa Cha bằng vâng theo ý Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén đắng này, nhưng không theo ý con mà xin theo ý Cha”.
Vâng theo ý Cha là tuân giữ lệnh truyền của Cha, thực thi ý muốn của Cha, và như thế là làm đẹp lòng Cha và ở lại trong tình yêu của Ngài: Chúa Giêsu đã chấp nhận xuống thế làm người, chịu đau khổ,chịu chết để đem con người vào cõi phúc trường sinh. Đó là tình yêu của Thầy Giêsu dành cho con người. Đến lượt chúng ta, chúng ta lại yêu thương nhau nhưThầy đã yêu thương chúng ta.
Theo gương của Thầy Giêsu, chúng ta lại phải yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng ta, mà muốn yêu thương anh em, chúng ta phải ở lại trong tình yêu của Thầy như Thầy ở lại trong tình yêu của Cha Thầy và muốn ở lại trong tình yêu của Thầy, chúng ta lại phải giữ giới răn Thầy truyền dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga. 14,23-24), và hy sinh mạng sống mình vì anh em. Hy sinh mạng sống mình vì anh em là biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, là đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…. Hy sinh mạng sống vì người mình yêu là tột đỉnh của tình yêu: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình”. (Ga. 15,13)
Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga. 15,15).
Xin kể một câu chuyện về bạn hữu ở đời thường như sau:
Bão Thúc (tức Bão Thúc Nha, còn có tên là Bão Tử, người tài giỏi việc nước của nước Tề) đã cắt cử Quản Trọng cho Hoàn Công dùng. Quản Trọng tên thật là Di Ngô, người nước Tề, một tướng giỏi.
Bão Thúc chết, Quảng trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo. Có người hỏi:
– Ông với Bão Thúc không phải là người họ hàng thân thích, sao ông thương tiếc ông ta quá vậy?
Quản Trọng giải thích:
– Ngươi không rõ ngọn ngành đâu! Để ta nói cho mà nghe. Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn bán chung với Bão Thúc; lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, nhưng Bão Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền để tiêu dùng nên mới làm thế. Ta ở chỗ chợ búa thường hay bị lắm kẻ bắt nạt, Bão Thúc không coi ta là người hèn nhát, nhưng biết ta rộng lượng, không chấp những điều người ta đối xử với mình. Ta bàn việc với Bão Thúc, nhiều lúc việc hỏng, Bão Thúc không cho ta là ngu, mà cho là việc thành công hay thất bại là do có lúc may mắn, có lúc không. Ta, ba lần ra làm quan, ba lần bị bãi nhiệm, Bão Thúc không cho ta là người chẳng ra gì, mà lại coi ta là người chưa gặp thời, chưa tìmđược vua giỏi. Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bão Thúc không cho ta là bất tài, nhưng biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. Ta nhịn nhục thờ vua Hoàn Công, Bão Thúc không cho ta là người vô liêm sĩ, người không biết xấu hổ, mà biết ta không giữ những chuyện nhỏ mọn, có chí làm lợi ích cho cả thiên hạ…
Sinh ra ta là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão Thúc. Với người hiểu biết mình, thì đem cả tính mạng ra mà đền đáp còn chưa đủ huống chi thương khóc thế này thì đã thấm vào đâu! (Thuyết Uyển. Cổ Học Tinh Hoa)
Thật là người bạn đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, người bạn tri kỷ!
Tình bạn giữa con người chưa mang dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa mà còn được thán phục như thế, thì kết qủa của tình bạn hữu giữa Thiên Chúa và con người lại càng cao trọng và đáng thán phục hơn nhiều Yêu thương anh em như chính mình đã khó, yêu thương anh em như Thầy Giêsu yêu chúng ta lại càng khó hơn! nhưng đó là những nỗ lực chúng ta cần phải đạt tới để được xứng đáng là Kitô hữu, là bạn hữu của Thầy Giêsu. Điều kiện để yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta là giữ giới răn Chúa truyền dạy, là ở lại nơi Thầy và hy sinh mạng sống mình vì anh em, cụ thể hơn là đọc và nghe tiếng nói của Thiên Chúa qua Tin Mừng và ở lại, sống kết hợp với Chúa trong phép Thánh Thể.
Chúng ta đã đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với Thầy Chí Thánh của chúng ta như thế nào để được xem là bạn hữu của Thầy Giêsu!
5. Yêu thương anh em.
Sống trong cuộc đời, chúng ta phải yêu thương nhau. Đó là điều dễ hiểu. Bởi vì nếu không yêu thương nhau, xã hội sẽ bất ổn và bản thân chúng ta cứ phải nơm nớp lo sợ trước những hận thù chồng chất. Thế nhưng, phải yêu thương nhau như thế nào?
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một khuôn mẫu để noi theo và bắt chước. Ngài phán: Các con hãy yêu thương nhau, như Thày đã yêu thương các con. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta như thế nào, để rồi chúng ta sẽ lấy tình yêu của Ngài làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc để đo mọi việc làm của chúng ta?
Không cân phải nói, hẳn chúng ta cũng đã quá rõ: Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người, sinh ra nơi máng cỏ Bêlem, lớn lên trong xưởng thợ Nagiarét. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đã sống một cuộc sống vất vả và nghèo túng. Ở nhà thì phải lao động cực nhọc. Đi rao giảng Phúc âm thì vất vưởng nay đây mai đó, không có lấy cả một nơi để gối đầu và nghỉ ngơi. Nhất là Ngài đã chết một cái chết ê chề và nhục nhã, như lời Ngài đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Liệu chúng ta có thể biểu lộ tình yêu thương của chúng ta bằng những hành động cụ thể như vậy hay không? Liệu chúng ta có dám chấp nhận những hy sinh và ngay cả cái chết cho những người mình thương mến hay không?
Hẳn chúng ta còn nhớ một Maximilianô Kolbê đã chết thay cho một bạn tù ở trại tập trung của Đức Quốc Xã trong cuộc thế giới đại chiến lần thứ hai. Hẳn chúng ta còn nhớ một Đamiêng, vị tông đồ người hủi, đã đến hải đảo Molokai, đã sống giữa họ và đã chết giữa họ, để nâng đỡ và xoa dịu những đớn đau họ phải chịu do chứng bệnh phong cùi gây nên. Và còn biết bao nhiêu tu sĩ nam nữ đã âm thầm hy sinh cuộc sống của mình để chăm sóc cho những người già cả, đau yếu và bất hạnh.
Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em bé đói rách, tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng. Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả. Giờ đây, những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận, nhưng là những giọt nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi: Tại sao ông lại lo lắng cho tôi? Nhà truyền giáo trả lời: Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em là em gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long đong vất vả nữa. Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp: Vậy tôi phải làm gì? Nhà truyền giáo trả lời: Em hãy tro tặng cho người khác tình yêu của em, càng nhiều càng tốt. Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đã đưa em vào. Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ: Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa chúng ta.
Lề luật của Chúa được gồm tóm trong hai điều, đó là mến Chúa và yêu người. Chúng ta hãy cố gắng thực thi hai điều ấy với niềm xác tín rằng: qua những yêu thương nho nhỏ, chẳng hạn như một ánh mắt dịu hiền, một nụ cười cảm thông, một lời nói an ủi, một việc làm giúp đỡ…chúng ta sẽ trở nên là những môn đệ đích thực của Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã xác quyết: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
6. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
Anh chị em thân mến. Trải qua hằng bao nhiêu thế kỷ, các văn nhân, thi sĩ, tốn rất nhiều giấy mực để ca tụng một vấn đề rất cổ xưa nhưng cũng rất hiện đại, và có lẽ vấn đề nầy sẽ còn rất nhiều người nói đến mãi, cho đến khi nào không còn con người hiện diện trên trái đất nầy mới thôi. Đó là vấn đề Tình Yêu. Trong trào lưu ca tụng tình yêu, cố thi sĩ Xuân Quỳnh cũng có bài thơ đã được phổ nhạc mang tên: “Thuyền và Biển.”
Trong đó có mấy câu dể gây cảm xúc cho người nghe:Chỉ có thuyền mới hiểu,Biển mênh mang nhường nào.Chỉ có biển mới biết,Thuyền đi đâu về đâu.Những ngày không gặp nhau,Biển bạc đầu thương nhớ.Những ngày không gặp nhau,Lòng thuyền đau – rạn vỡ.
Thuyền và biển làm cho nhau thêm phong phú. Nếu không có thuyền trên biển, biển sẽ yên lặng trong cô đơn, hay chỉ là những cơn cuồng nộ giận dữ. Nếu không có biển thì con thuyền cũng trở nên vô dụng, vì không thể phát triển được những gì của con thuyền đòi hỏi.
Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người sống trong tình yêu. Hôm nay một lần nữa chúng ta lại nghe Ngài nói về tình yêu một cách cụ thể hơn. Ngài kêu gọi mọi người hãy đến và ở lại trong tình yêu bao la của Thiên Chúa Cha. Điều làm cho con người được phong phú: Đó là tình yêu. Tình yêu bao la của thiên Chúa bao bọc con người, để cho con người có thể ngụp lặn trong biển tình tuyệt vời đó. Sống trong tình yêu Thiên Chúa, con người được trở nên phong phú, cuộc đời mới có giá trị. Nếu tách rời khỏi biển tình yêu Thiên Chúa, con người sẽ trở nên vô dụng, cuộc đời sẽ từ từ đi vào cỏi chết. Sống mà không có tình yêu thì không phải là sự sống đích thực.”Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.”
Con thuyền cuộc đời của chúng ta, được Thiên Chúa trang bị thật đầy đủ, để có thể ra khơi trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Chẵng lẽ con thuyền ra khơi mà không định hướng, không mục đích. Không lẽ con thuyền ra khơi mà trên thuyền không mang theo một vật dụng gì hết. Không thể chấp nhận được, khi con thuyền đi vào biển cả mà không có một sự chuẩn bị nào cho xứng đáng.
Ra khơi trên biển Tình Yêu của Thiên Chúa, con thuyền phải được trang bị bằng những chất liệu của Tình Yêu. Từ chất liệu của con thuyền cho đến những thứ hành trang mà con thuyền mang theo.
Nhìn lại con thuyền cuộc đời của mỗi người chúng ta, Thiên Chúa đã trang bị bằng chất liệu Tình Yêu thật hoàn hảo. Con người chúng ta Thiên Chúa đã tạo dựng bằng Tình Yêu thương của Ngài. Những chất liệu đó giờ đây, có lẽ nó đã bị biến chất phần nào, nó đã bị hao mòn với thời gian, nó không còn đủ mạnh và vững chắc để có thể ra khơi cách an toàn. Nên nhiều khi chúng ta ngại không dám ra khơi trong biển Tình của Thiên Chúa. Chúng ta sợ nó bị hao mòn, chúng ta cũng sợ nó bị chòng chành vì những cơn sóng tình. Một sự sợ hãi còn lớn lao hơn nữa, là chúng ta sợ bị mất hút trong biển Tình yêu bao la của Thiên Chúa. Khi đó vì chúng ta chỉ biết nghĩ đến chính mình, chỉ biết lo cho mình, bảo vệ bản thân, nên chúng ta quá lo sợ.
Chính vì thế mà chúng ta không thể sống đúng được lệnh truyền của Tình Yêu. Những lúc như thế, chúng ta chỉ biết yêu thương có chính mình, ngoài ra, chúng ta chẵng biết yêu thương ai hết. Như thế thì cuộc đời chúng ta giống như con thuyền thật tốt đẹp, thật hoàn hảo, chính vì sự tự hào với dáng vẽ tốt đẹp đó, mà nó sợ không dám đưa mình xuống nước để hoạt động, nên nó mãi ở trên nơi khô cạn. Suốt đời nó cũng là vô ích, mặc dù nó tốt đẹp, nhưng nó không hoạt động được, vì thế nó là một con thuyền chết, là đồ phế thải, vì nó vô dụng. Chẵng lẽ con thuyền cuộc đời của chúng ta lại trở nên vô dụng như thế sao. Chẵng lẽ con thuyền chúng ta không dám ra khơi để lênh đênh trong biển tình của Thiên Chúa sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết dùng Tình Yêu để sống với nhau, để con người của mình được ở trong Chúa như con thuyền trong biển cả.
7. Anh em hãy yêu thương nhau – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là nguồn gốc tình yêu. Con người muốn được Thiên Chúa thương yêu, con người phải biết thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương ta. Thánh Gioan đã quả quyết: “Tình thương bắt nguồn từ Thiên Chúa”.
1. Khi Thiên Chúa dựng nên Evà, thì Adong nói “nàng là xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi” (St. 2, 23). Tình yêu đồng loại chớm nở từ đó. Từ lúc Thiên Chúa dựng nên hai người, hai người đã chân thành thương yêu nhau như chính mình, coi nhau như một xương một thịt. Ngày nay chúng ta thường nói “đồng bào ruột thịt”. Đồng bào nghĩa là cùng chung một bào thai sinh ra, đồng một nguồn gốc, một máu mủ, ruột thịt. Nói khác đi, ta nhận nhau như chính mình.
Nhưng thảm hại thay, tình thương một xương một thịt đó chẳng được bao lâu, khi con người sa ngã. Thiên Chúa đến hỏi, thì Adong đã đổ lỗi cho Evà (St. 3, 12). Mọi tội lỗi đã trút đổ lên đầu nhau, còn mình vô tội. Lúc này, không còn phải là một nữa, mà là hai, không còn xương tự xương tôi, thịt là thịt tôi. Nó đã tách rời nhau, xa lìa nhau. Một kẻ là tội phạm, một kẻ rửa tay. Hai kẻ đối kháng nhau, thù ghét nhau. Trong cảnh gia đình chia rẽ, oán hận nhau, con cháu trở thành kẻ thù nhau: Cain đã giết em mình là Abel. Esau đã thù Giacob. Các con Giacob đã bán em là Giuse sang Ai cập. Bao lâu tình yêu chỉ bắt nguồn từ xương thịt bấy lâu còn chia rẽ, hận thù.
2. Ban đầu, Thiên Chúa trao ban tình yêu của Ngài trực tiếp cho loài người, nhưng đã thất bại, loài người không thể thương yêu nhau như Thiên Chúa yêu thương con người. Lần này, Thiên Chúa nhờ chính Con Một Ngài là Đức Giêsu thông truyền tình yêu Thiên Chúa cho loài người: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” để “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tình yêu của Chúa Cha truyền sang Chúa Con, và Chúa Con truyền sang chúng ta, như thế, tình yêu này mang bản chất Thiên Chúa, chứ không mang tính xương thịt như ban đầu nữa. Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa để chúng ta noi gương Chúa Con mà yêu thương nhau.
Thứ nhất, Chúa Con đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tuân giữ lệnh truyền của Chúa Cha, thực thi giới răn của Chúa Cha: “Thầy đã tuân giữ giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Ngài”. Vì thế chúng ta muốn ở trong tình thương của Thiên Chúa, chúng ta phải giữ giới răn của Ngài: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy”.
Thứ hai, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng hy sinh mạng sống mình để cứu độ chúng ta. Người đã dám gánh tội của chúng ta, đã chịu chết đền tội cho chúng ta. Người không trút tội lỗi của chúng ta lên đầu chúng ta. Đây là thứ tình yêu rộng lượng tha thứ, vô cùng lớn lao, quảng đại: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”.
Con Thiên Chúa vô cùng cao cả đã yêu thương chúng ta đến cùng tận, còn chúng ta là đồng bào, đồng phận xương thịt với nhau, sao không dám hy sinh cái thân phận hèn hạ của mình cho nhau? Chỉ có hy sinh cho nhau, chúng ta mới biết mình ở trong tình yêu của Thiên Chúa.
Thứ ba, Đức Giêsu đã thể hiện tình yêu Thiên Chúa bằng tình yêu chọn chúng ta làm bạn hữu của Người: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu”.
Thực sự, chúng ta không thể nào đáng là tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta vừa là loài thụ tạo, vừa kém hơn loài thụ tạo, vì đã phạm tội, xúc phạm đến Đấng tác tạo nên ta. Mọi loài thụ tạo đều vâng phục Thiên Chúa một cách triệt để theo một trật tự hoàn hảo. Vĩ đại như tinh tú, mặt trời, mặt trăng đã tuân theo lệnh Thiên Chúa sắp đặt xoay vần, không hề sai trái. Nếu chúng sai trái, loài người và muôn vật bị tiêu hủy. Còn chúng ta đã không vâng lệnh Thiên Chúa, đáng lẽ chúng ta đã bị tiêu diệt. Làm sao dám làm bạn hữu của Người. Chỉ vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta đã cho chúng ta được vinh dự vô cùng đó. Noi gương Đức Giêsu, chẳng những chọn mọi người làm bạn hữu của ta, mà còn phải tôn trọng mọi người hơn ta, ta mới xứng đáng với tình thương của Người, mới mong thu được nhiều kết quả và đáng Chúa Cha nhận lời chúng ta nài xin.
Thánh Phêrô, đã noi gương Thầy Chí Thánh, đến thăm nhà ông Cônêliô. Phêrô không kỳ thị dân ngoại, không khinh thị quân Rôma xâm lăng, như lối sống kỳ thị của truyền thống Do thái, Phêrô kính trọng gia đình Cônêliô, đã đỡ ông lên: “Xin ông đứng dậy, vì tôi cũng chỉ là người phàm”. Còn ông Cônêliô, dù là một sĩ quan của đế quốc Rôma vĩ đại, là người cai trị dân, ông đã hạ mình xuống “ra đón và phủ phục dưới chân Phêrô mà bái lạy”. Trước những cử chỉ hy sinh bỏ mình đi, hạ mình xuống và chân thành kính mến nhau như vậy, làm cho người Do thái kinh ngạc, và Thiên Chúa đã yêu thương các ông mà ban Thánh Thần tình yêu tràn trề xuống cho Phêrô và gia đình Cônêliô, để nhận nhau làm bạn hữu muôn thuở trong Đức Giêsu Kitô (Bài đọc 1).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm tình thương bao la của Chúa, tình thương đồng hóa, đồng phận với mọi người cùng khổ, tình thương hy sinh mạng sống để cứu độ muôn dân.
Sao chúng con không biết thương người như Chúa thương chúng con và mọi người.
8. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
Có một tác giả nọ nhận định như thế này: “Nếu bạn có thực phẩm để ăn, có quần áo để mặc, có một mái nhà che đầu và một nơi để nghĩ qua đêm, là bạn đã giàu hơn 75% dân số trên thế giới này. Nếu bạn có tiền trong ví để xài, có tiền ban phát cho người nghèo, có tiền để dành trong ngân hàng, là bạn đang ở trong 8% những người giàu nhất trên thế giới.
Thưa anh chị em! Chẳng biết điều đó có chính xác hay không, nhưng chúng ta cũng thấy được rất rõ rằng: Giữa người giàu và người nghèo có một khoảng cách rất là xa khi mà thế giới đang theo đuổi cái xu hướng mà người ta gọi là Toàn Cầu Hóa. Và cái nghèo mà người ta nói tới nhiều nhất là cái nghèo về cơm áo gạo tiền. Người ta lo sợ rằng: Với một đà tăng dân số như ngay hôm nay thì sẽ có lúc trái đất này không còn đủ lương thực cho con người nữa.
Thế nhưng, nếu nhìn kỹ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, đó không phải là điều đáng sợ lắm, mà cái đáng sợ hơn hết là cái nghèo đói tình thương trong thế giới ngày hôm nay. Vì nghèo đói tình thương cho nên chiến tranh chưa bao giờ kết thúc. Vì nghèo đói tình thương cho nên mới có cái cảnh “Người ăn không hết, kẻ lần không ra”. Vì nghèo đói tình thương cho nên những xung đột, những cãi vã, những tranh giành vẫn xảy ra hàng ngày ở chung quanh chúng ta.
Lời Chúa trong Thánh Lễ chiều hôm nay mời gọi từng người trong chúng ta hãy can đảm dùng một chút thiện chí của mình để góp phần đẩy lùi nạn đói tình thương đang hoành hành nơi bản thân và nơi môi trường sống của chúng ta, qua việc thực hiện lời gọi của Đức Kitô Phục sinh, vị sứ giả của tình thương: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”. Và cũng kể từ đây, giới luật yêu thương đã trở thành giới luật mới quan trọng nhất. Nói là kể từ đây có nghĩa là giới luật này nó đã có từ rất lâu. Nơi Cựu Ước chúng ta đã nghe là: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”.
Tôi yêu bản thân tôi như thế nào thì cũng phải yêu người khác như vậy. Nhưng trong Tân Ước, Đức Giêsu đã đẩy những đòi hỏi của giới luật này lên đến một cấp đột mà có lẽ không ai dám nhìn tới: “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”. Như vậy giới răn mà Chúa gọi là giới răn mới này đòi hỏi chúng ta không phải là lấy chính mình để làm tiêu chuẩn nữa. Bởi vì tiêu chuẩn của con người dù có hào hoa rộng rãi đến đâu đi nữa, thì cũng có yếu tố chủ quan và tiêu cực trong đó, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn:”Yêu người như Chúa yêu”. Muốn biết đựơc Chúa yêu thương như thế nào, chúng ta phải nhìn lại cuộc đời dương thế của Chúa, mà rõ ràng nhất là trong ba năm rao giảng Tin Mừng: “Không có ai đến với Chúa mà phải ra về tay không, phải ra về trong cay đắng thất vọng cả: Người mù đựơc sáng mắt, kẻ què đi được, người chết được sống lại, kẻ tội lỗi được thứ tha”.
Đối với Đức Giêsu, tất cả những kẻ đang đứng trước mặt Người đều là những người rất quan trọng và rất đáng thương. Và sau cùng, Đức Giêsu đã tự nguyện chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá để muôn đời trở nên một kiểu mẫu tình yêu cho mọi người: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Tình yêu của Chúa đẹp đẽ quá, lý tưởng quá, làm sao tôi có thể trở nên giống như Người được? Thế nhưng bao lâu chúng ta còn hiện diện trong cuộc đời này là bấy lâu chúng ta được Chúa mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Thưa anh chị em! Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến cấp độ “Như Thầy yêu thương” một cách hoàn hảo đâu. Bởi vì Chúa thì quá tuyệt vời thánh thiện, còn chúng ta thì ngược lại có quá nhiều giới hạn, nhiều thiếu sót mà giáo lý nhà Phật gọi là “tham, sân, si”.
Thế nhưng, chúng ta không vì thế mà tự cho phép mình xao lãng hay miển chuẩn giới răn đặc biệt quan trọng đó. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải tự treo mình trên Thánh Giá vì anh chị em, Chúa cũng không buộc chúng ta phải trở nên một Têrêsa Calcutta vĩ đại suốt đời lo lắng cho người khác, hay một cha Thánh Maximilianô Kolbê anh hùng chết thay cho người bạn tù của mình.
Thế nhưng, chúng ta lại có rất nhiều dịp để thể hiện tình thương của mình cho người khác, để sống cho tha nhân. Mà sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chúng ta không thể chết như Chúa được thì hãy chết trong mồ hôi và nước mắt, chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày qua những lần chúng ta rộng rãi thể hiện sự bác ái của mình đối với tha nhân. Có một thanh niên nọ, trong lúc chờ đón xe về Thành Phố Cần Thơ, bỗng nhìn thấy có một chiếc xe đạp đang từ phía Cần Thơ chạy về hướng Vĩnh Long. Và có lẽ không chú ý hay như thế nào đó mà cô bạn sinh viên điều khiển chiếc xe đạp ấy ngang nhiên đâm vào một chiếc xe Honda đang dừng trước mặt. Vì xe đạp chạy không nhanh lắm nên chẳng ai có hề hắn gì cả, chỉ có chiếc xe Honda bị bể chiếc vè sau mà thôi.
Trước những lời bắt chẹt thô thiển và cái giá phải bồi thường mà chủ xe Honda đã đưa ra thì cô bạn sinh viên đó chỉ còn biết đứng khóc mà thôi. Hơi ngập ngừng một chút và vì biết chắc rằng một cách bất ngờ như thế thì cô bạn sinh viên ấy không thể có đủ số tiền để bồi thường. Anh thanh niên đó đã mạnh dạn tiến tới ra tay nghĩa hiệp trả tiền chiếc vè sau mới, thay cho cô bạn kia.
Anh thanh niên này quyết định làm chuyện đó hoàn toàn không phải vì cô ấy trẻ, cô ấy là sinh viên, mà bởi vì lúc đó tự nhiên anh ta cảm thấy có một cái gì đó thúc đẩy anh ta phải làm việc bác ái này. Vả lại anh ta quyết định làm việc đó một phần cũng là vì muốn nói với chủ xe Honda rằng: “Chúng ta đừng nên hiếp đáp bắt chẹt những con người yếu thế hơn mình”. Anh thanh niên hơi tào lao đó chính là người đang đứng trước mặt anh chị em đây.
Thưa anh chị em! Hoàn toàn không bao giờ dám coi đó là một kinh nghiệm tốt lành để gọi là khoe khoang với người ta, nhưng con muốn chia sẽ một tình huống cụ thể của bản thân mình đó, để mạnh dạn lặp lại một lần nữa bài học này: “Ngày nào bạn từ chối thắp lên ngọn lửa yêu thương, ngày đó sẽ có nhiều người chết vì giá lạnh”.
9. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: “10.645 người nghèo đã khỏi mù”. Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
***
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là “Bạn hữu thân tình”.
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “Như Thầy đã yêu”. Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết: “Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
10. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
“Đây là điều răn của Thầy, chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con.” (Ga 15,12)
Tình yêu đẹp biết bao! Vì thế, người ta đã tốn biết bao giấy mực, bài hát để ca tụng nó, nhưng tình yêu thực sự chỉ đẹp khi có sự tự hiến, hy sinh đi kèm. Chim Pelican tự mỗ bụng mình ra để cho con đang cơn đói, ăn chính thịt mình mà sống. Còn cảnh nào cao đẹp hơn? Chúa Kitô vì yêu chúng ta đã chết cho chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay muốn cho ta suy niệm về chủ đề này.
1. Gợi ý:
a. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá, là cái chết cho Tình Yêu. Điều này minh chứng Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Vì yêu nhân loại, Thiên Chúa sẵn sàng nộp chính Con Yêu của mình làm của lễ hiến tế, để cho ta được sống, để ta trở nên bạn nghĩa thiết với Chúa. Thật lạ lùng quá! Nhờ đó, ta mới thấy rõ lòng của Thiên Chúa tốt biết bao, tốt hơn con người tưởng nhiều; rồi nhìn lại con người chúng ta, ta thấy lòng mình tệ quá, tham lam, nhỏ nhen, ích kỷ, bè phái… Nhìn lên TC, rồi nhìn lại chính mình, tự thâm tâm làm sao ta không hổ thẹn, bởi vì con người có chi để so bì với TC, để đòi Thiên Chúa phải yêu thương ta. Vậy mà Ngài vẫn muốn làm bạn với ta, muốn trở thành thân hữu với ta, muốn ta ngang hàng với Ngài. Ôi, lạ lùng và cao cả làm sao, Tình Yêu của Thiên Chúa!
b. Cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho bạn tù. Ta có thể coi đó là hành động điên rồ, nhưng thực ra là điên vì Tình Yêu Chúa Kitô. Đây không phải là câu trả lời cho cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh giá sao? Vào năm 1981, ĐGH Gioan Phaolô II đã bị bắn một viên đạn vào ngực, suýt chết; vậy mà sau khi lành bệnh, ngài đến nhà tù thăm chính người đã bắn mình và giơ tay lên tha tội cho anh ta. Hình ảnh này không chỉ làm ta cảm động, nhưng còn nói lên nhiều điều: vì Đức Kitô mà người ta có thể tha thứ cho kẻ thù của mình, và còn yêu mến họ nữa.
Thánh Têrêsa đi tu khi còn nhỏ, mới 15 tuổi; chín năm sau đã từ trần; vậy mà đã để lại cho hậu thế một đường lối nên thánh tuyệt hảo, gọi là con đường nhỏ, một tấm gương sáng về lòng nhiệt thành yêu mến Chúa và yêu mến các linh hồn. Têrêsa nói: “chỉ khi nào người ta hy sinh chính mình, mới thật là yêu.”
Mẹ Têrêsa Calcutta, đặc biệt thương yêu trẻ em và người nghèo khổ. Mẹ là một Thần tượng của Thiên Niên Kỷ mới và được nhiều người biết đến.
2. Suy niệm:
“Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Ngày hôm nay, tin vào Lời nói, tin vào một con người đã chết cách đây hơn 2000 năm, có phải là lỗi thời và không cần thiết không? Một cái xác chết trên thập giá, buồn tẻ, xem ra thất bại. Vậy cái chết để minh chứng Tình Yêu, liệu có còn đánh động ta không? Câu trả lời thẳng thắng: Có. Qua 20 thế kỹ, hàng hàng lớp lớp các anh hùng tử đạo, các bậc hiển tu đã dám đem cả mạng sống mình để minh chứng cho Tình Yêu này. Họ là những nhà bác học, nông dân… đủ mọi thành phần, và ngay cả trong thời đại văn minh của chúng ta, như những vị được nêu ở trên đây. Như vậy chưa đủ minh chứng cho bạn sao?
“Thầy không gọi các con là tôi tớ, mà là bạn hữu, Hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy”: Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào sự sống thân hữu của Chúa, vào tình yêu nghĩa thiết ngọt ngào của Ngài; vì Ngài xem ta là bạn hữu của Ngài cho dù chúng ta bất xứng. Ta có ngạc nhiên không? Tại sao ta từ chối, khi hiểu tình yêu của Ngài dành cho ta thật quảng đại và lớn lao?
11. Yêu như Chúa yêu – ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Yêu là một từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng lại là một từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Vì người ta hiểu từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ thân xác. Có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu thuộc lĩnh vực cảm tính. Để tránh những hiểu lầm, khi truyền cho ta yêu thương, Đức Giêsu đã đưa ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó là: yêu như Chúa yêu.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương anh em”. Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa, không phải yêu bằng bất cứ tình yêu nào, nhưng phải yêu như Chúa. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Người nghĩ ra, nhưng phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. Thế là đã rõ. Tất cả bắt nguồn từ cùng một tình yêu. Đức Chúa Cha là nguồn cội. Từ nguồn mạch ấy, tình yêu tràn ra, lan toả đến mọi người. Mọi tình yêu, muốn chân thực, phải quy chiếu về trái tim Chúa Cha.
Tình yêu của Chúa Cha như thế nào? Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu đã nói nhiều về tình yêu Chúa Cha.
Trước hết tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Khác với tình yêu bình thường của con người chỉ yêu những người yêu mình, thù ghét những người ghét mình, chỉ yêu những người nào dễ yêu, ghét những người dễ ghét, chỉ giới hạn tình yêu vào một số người thân quen. Tình yêu của Chúa Cha là một tình yêu phổ quát. Tình yêu ấy lan tới tất cả mọi người không phân biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ một ai dù lành dù dữ. Thế nên “Người cho mặt trời mọc lên soi kẻ lành cũng như người dữ. Và cho mưa rơi xuống trên cả người công chính lẫn kẻ gian ác” (Mt 5,45). Tình yêu ấy lan toả tới súc vật cỏ cây: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, thế mà Cha trên trời vẫn nuôi chúng. Hãy xem bông huệ ngoài đồng. Chúng không dệt không may, thế mà Cha trên trời mặc cho chúng bộ áo đẹp hơn cả áo vua Salomon” (Lc 12,24-27).
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu hy sinh. Vì yêu thương, Đức Chúa Cha đã dựng nên con người. Vì yêu thương, Người đã nhận con người làm con, cho hưởng hạnh phúc với Người. Nhưng loài người vô tình không những không yêu mến mà còn muốn chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người đã bị phạt. Nhưng Đức Chúa Cha vẫn yêu thương loài người, nên đã có kế hoạch cứu độ loài người. Chính ở điểm này ta nhận biết tình yêu vô cùng tha thiết của Đức Chúa Cha. Không những Ngài không giận ghét loài người, không tự ái vì bị loài người xúc phạm, mà còn bày tỏ một tình yêu thương mãnh liệt không ai dám ngờ tới. Tình yêu thương mãnh liệt ấy đã thúc đẩy Ngài hy sinh Con Một yêu dấu để chuộc tội cho loài người. Vì yêu thương Chúa Cha đã hy sinh tất cả những gì có thể để cứu chuộc loài người.
Tình yêu Chúa Cha là một tình yêu tha thứ. Tha thứ là dấu hiệu của tình yêu. Khi yêu, người ta sẵn sàng tha thứ. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nói nhiều về tình yêu tha thứ của Đức Chúa Cha. Cảm động nhất là dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Tóm tắt như sau: Người Cha có hai con trai. Đứa út xin Cha chia gia tài cho nó. Được rồi, nó cầm tiền, bỏ nhà ra đi, ăn chơi phung phí. Khi nó tiêu hết tiền thì vùng ấy xảy ra nạn đói. Đói bụng nó phải đi chăn lợn. Nó muốn ăn cám lợn mà chủ không cho. Bấy giờ nó hối hận và nghĩ: ở nhà cha mình các đầy tớ còn được ăn no, còn mình ở đây phải chết đói. Thế rồi, nó chỗi dậy, trở về nhà. Cha nó ngày nào cũng ra đầu ngõ chờ mong con trở về. Khi thấy nó về, ông chạy lại ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để, rồi ông gọi gia nhân mang áo đẹp, nhẫn, giầy ra cho cậu và ra lệnh mở tiệc ăn mừng (cf Lc 15). Người cha ấy là hình ảnh Đức Chúa Cha. Thật là kỳ diệu tình yêu Người. Người quên hết những lỗi lầm của ta. Người yêu yêu ta trước khi ta yêu Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi Người.
Đức Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.
Lạy Cha, xin cho con hiểu được tình yêu của Cha. Xin cho con trở nên giống Cha, biết yêu thương bằng tình yêu của Cha. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Từ trước tới nay, bạn hiểu tình yêu thế nào?
2- Mỗi khi nghĩ đến Đức Chúa Cha, bạn nghĩ đến đặc tính nào của Người: yêu thương, quyền năng, thưởng phạt công minh…?
3- Đối với bạn, yêu thương người khác dễ hay khó?
4- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Chúa Cha.
12. Ý- Tâm – Thân hòa điệu – An Phong, OP
Tin mừng hôm nay nhắc đến Luật Vàng Kitô giáo là “Mến Chúa yêu người”. Hai chiều kích “hiệp thông” (mến Chúa) và hướng tới (yêu người) này làm nên toàn bộ thái độ sống Kitô giáo.
Con người, nếu có một sự hòa điệu tuyệt vời giữa mình với chính mình, sẽ sống bình an, hạnh phúc. Thật vậy, cuộc sống con người thường được nói đến như là “một bãi chiến trường”; là sự “giao tranh giữa điều muốn làm và điều phải làm”; hoặc sống trong tình trạng “điều tôi muốn, tôi không làm; điều tôi không muốn tôi lại làm”; hoặc “điều thiện và điều ác giành giật cắn xé nhau trong tôi”; đó là nguyên nhân của sự bất an, hỗn độn, thậm chí hủy hoại nữa.
Nói khác, Ý chỉ đạo, Tâm cởi mở lòng ra và Thân hành động cho được, đó là một sự hoà điệu lý tưởng của con người. Ý phán đoán ngay chính, Tâm đón nhận bao dung, thì Thân mới có thể diễn đạt nên hành động “yêu người”; Ý tốt, Tâm tốt thì hành động sẽ tốt.
Đó cũng là cửa ngõ để con người có thể sống hòa điệu với người khác; có thể nói nếu có hòa điệu của Ý-Tâm-Thân sẽ có hòa điệu giữa ta với Chúa, ta với người và ta với chính mình.
Nhưng nói thì dễ, sống được mới khó. Bi kịch của nhân loại bắt đầu từ đây. Có khi Ý phán đoán nghiệt ngã, phê bình khắc khe; có khi Tâm thiếu bao dung, tị hiềm; và Thân thì tìm sung sướng cho mình chứ không hành động để xây dựng. Giữa cuộc đời, vẫn còn có nhiều người nghĩ (ý) rất hay nhưng không hề “giơ ngón tay lay động” (thân). Hoặc người ta dễ dàng mủi lòng, thậm chí rớt vài giọt nước mắt (tâm) nhưng lại chỉ là tình cảm thoáng qua, nhất thời, không dễ gì khơi dậy hành động (thân).
Làm sao cho Ý ta sáng, Tâm ta bao dung và Thân ta hành động quảng đại? Làm sao để ta sống giữa cuộc đời trong sự hài hòa của tình yêu thương nhân ái? Chúa Giêsu mở một con đường để mời gọi chúng ta đạt đến sự hài hòa tuyệt vời ấy: “Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy; nếu anh em giữ các giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy; như Thầy đã giữ các giới răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người”.
Với tình yêu của Chúa Giêsu, chúng ta được sống hòa hợp với Chúa, với mình và với anh chị em.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa để lại cho chúng con một giới răn thôi,
giới răn của tình yêu;
Nhưng chỉ một giới răn đó thôi,
chúng con cũng không làm nổi.
Xin Chúa đổ xuống trên chúng con tình yêu của Chúa,
tình yêu lớn lao trong tấm bánh nhỏ nhoi này;
để chúng con không sợ yêu;
không lùi bước trước những thách đố của tình yêu;
để chúng con được “ở trong Chúa”, và “Chúa ở trong con”.
13. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
Trong Cựu Ước, Môsê đã dạy luật yêu thương: “phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế làm người, Ngài đã giảng dạy yêu thương và thực hiện yêu thương cách trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa Giêsu dạy là Ngài đã nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và đây cũng là tiêu chuẩn để xét xử chúng ta sau này.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho hết thảy những ai bước đi theo Ngài. Có lẽ không một ai dám lấy mình làm tiêu chuẩn, làm tấm gương cho người khác trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực yêu thương như Chúa Giêsu. Sở dĩ Chúa Giêsu dám nói như vậy vì Người đã chứng minh cách tuyệt đối tình yêu thương của Người cho tất cả nhân loại chúng ta bằng cái chết và sự Phục Sinh vĩ đại của Người.
Sách Phúc âm miêu tả một Chúa Giêsu biết cảm thương, đó là một xúc cảm khiến người ta ruột gan xáo trộn. Thật vậy, Đức Giêsu xúc động thể lý và cảm nghiệm nỗi đau khổ, trái tim Người rướm máu trước dân nghèo, bị ruồng bỏ, bị xua đuổi, bị chà đạp. Có cái gì đó ở trong Người khiến Người không chịu nỗi thái độ giả hình và thói bất công đối với người thấp hèn, tàn tật, yếu đuối, túng thiếu.
Đức Giêsu động lòng thương khi thấy người phong cùi kêu xin Ngài cứu chữa. Người cùi bị mọi người xua đuổi, khai trừ, đi đến đâu đều phải lắc cái chuông nhỏ, cảnh báo cho người ta biết mà tránh xa. Không ai được đến gần họ, vì sẽ bị lây nhiễm mà trở nên ô uế. Người cùi lớn tiếng van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi được sạch”. Đức Giêsu giơ tay ra, chạm đến anh như cử chỉ chào đón và tôn trọng nhân phẩm của anh, rồi chữa cho anh lành mạnh. Nhất là Người còn chữa lành con tim tan vỡ và lòng tự trọng đã bị sứt mẻ của anh.
Đức Giêsu luôn biết cảm thông và tha thứ. Nhiều người bị giam hãm trong mặc cảm tội lỗi, tâm hồn họ tan rã vì sợ Thiên Chúa, sợ bị trừng phạt. Họ còn bị ruồng rẫy bởi những người tự coi mình là thanh sạch. Đức Giêsu đến là để bày tỏ dung mạo khoan dung của một Thiên Chúa luôn thương xót và tha thứ, chứ không phải một Thiên Chúa kết án và trừng phạt những vi phạm lề luật.
Một ngày kia những người Pharisêu và kinh sư bắt tại trận một phụ nữ đang ngoại tình. Như đàn sói hung hãn đang săn mồi, họ tóm lấy người phụ nữ còn mình trần, lôi đến trước mặt Đức Giêsu, lúc đó đang giảng dạy trong đền thờ.
Họ hỏi Chúa Giêsu: “Ông Môsê dạy hạng đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình này phải bị ném đá cho chết. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Bọn người hung dữ, cuồng tín giữ luật này nghĩ rằng họ giăng bẫy Đức Giêsu. Đức Giêsu không nói gì, chỉ cúi xuống viết trêt cát. Họ gặng hỏi: “Thầy nghĩ sao? Chúa đứng dậy ra giọng đĩnh đạc nói: “Ai vô tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi”. Bọn họ thẹn thùng bỏ đi hết. Chúa Giêsu nhìn người phụ nữ nói “tôi không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Người phụ nữ ra về, được tình thương đổi mới, hết bị mặc cảm tội lỗi ràng buộc và sống một cuộc đời mới.
Chúa Giêsu đã sống yêu thương và dạy chúng ta phải biết đối xử với người khác bằng sự yêu thương, có nhiều cách thể hiện sự yêu thương đối với nhau nhưng chúng ta cần phải đi từng bước và có những thực hành cụ thể. Xin gợi lên những thực hành giúp chúng ta thực hiện sự yêu thương trong đời sống mình: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
14. Gieo gì gặt ấy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tục ngữ có câu “có gieo có gặt”, nhưng thành quả gặt hái lại tuỳ theo loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì “gieo gì gặt ấy”. Mình gieo yêu thương sẽ tìm được hạnh phúc an bình. Mình gieo thù hận sẽ phải đón nhận sự trả đũa oán hận, vì “gieo gió ắt gặp bão”.
Có thể nói cuộc đời là một chuỗi ngày dài gieo giống. Mỗi ngày ta gieo một vài lời nói, một vài hành động và rồi năm tháng trôi qua chúng ta sẽ có ngày gặt hái những gì chúng ta đã gieo vãi. Mặc dù là khoảng thời gian có thể là rất xa. Một năm. Hai năm. Hay có khi cả đời. Nhưng chắc chắn một điều là mùa gặt sẽ tới. Có những điều chúng ta sẽ phải gặt trước khi từ giã cõi đời, nhưng cũng có điều chúng ta phải gặt ở cõi đời sau.
Có một người đàn ông rất giầu có đã đến tuổi về hưu. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà. Cô đã đề nghị chồng phải đưa bố đi ở nơi khác. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nhưng lại là nơi rẻ tiền nhất theo lời căn dặn của vợ.
Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi được một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu nổi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha. Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: “Con ơi! Cha không khóc vì con đưa cha vào đây. Cha khóc vì cách đây bốn mươi năm trước, cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ “gieo gì gặt ấy thôi!”.
Thực vậy, “sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Những gì chúng ta đã và đang nhận trong cuộc đời này hoàn toàn tuỳ thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng ngày hôm qua. Cùng một môi trường nhưng có người nhiều bạn bè, và ngược lại có người chẳng được ai chơi. Có người được yêu thương, đùm bọc. Có người chỉ nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm bao bọc “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có người lại bị anh em loại trừ. Có người vui vì sự chơi đẹp của tha nhân. Có người dở khóc dở cười vì sự chơi xấu của tha nhân. Tất cả điều đó cho thấy, những gì chúng ta nhận được là do chính chúng ta đã gieo vãi vun trồng tuỳ theo cách sống của chúng ta.
Hôm nay, Chúa bảo chúng ta hãy đi gieo vãi yêu thương. Chúa cầu mong chúng ta sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình yêu thương của Chúa. Chúng ta được sống trong tình yêu quan phòng của Chúa. Chúa còn tuyển chọn chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúa không đòi chúng ta đền đáp cho Chúa. Chúa chỉ mong chúng ta hãy theo gương Ngài mà đối xử với nhau trong yêu thương. Chúa bảo chúng ta “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu thương của Chúa cho muôn người. Hãy đem yêu thương vào nơi oán thù. Hãy trồng cây yêu thương vào trong thế gian để thế gian được hái những trái ngọt của hạnh phúc, của tình người.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không toan tính, hay pha chút ích kỷ, nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình để rồi có thể chia sẻ buồn đau với tha nhân? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà quên mình? Có lẽ có, nhưng chắc chắn có rất ít!
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ, là độc đoán, là lỗi bác ái yêu thương tràn lan. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để thấy rằng mình làm hại anh em thì nhiều mà làm điều tốt thì ít? Có mấy ai dám tự trách mình vì những lời mình nói, vì những việc mình làm đã mang lại khổ đau cho anh em? Có mấy ai đã dám nói lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn vì sự tắc trắc của mình mà làm cho gia đình xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ và ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân để xây dựng hoà bình khởi đi từ những nghĩa cử yêu thương và tôn trọng tha nhân?
Nhân loại hôm nay rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, khoảng 200.000 người đã lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện. Ông nói rằng: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao…”
Ước mơ của ông cũng là ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới. Nhưng khao khát hoà bình thì nhiều, còn gieo vãi niềm an bình hạnh phúc thì chẳng có mấy ai! Người ta nặng lời kết án nhau thì nhiều mà nói lời xin lỗi thì còn quá ít. Người ta nói xấu thì nhiều mà nói tốt cho nhau vẫn còn khiêm tốn. Thế nên, thế giới vẫn còn đó sự nghi kỵ, hiểu lầm và thù oán. Thể giới vẫn phải đón nhận đoạ đầy khổ đau bởi sự dữ do chính con người đã gieo vào trần gian.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để đem ra thực hành trong cuộc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần gian. Amen.
15. Hãy yêu thương nhau
1. Đôi khi có người nhờ tôi đánh máy di chúc, cách chung những người viết di chúc đều mong muốn con cái họ hoà thuận, thương yêu nhau ngay lúc họ còn sống và nhất là sau khi họ qua đời, nói rõ hơn là họ muốn con cái họ đừng tranh giành của cải họ để lại. Đức Giêsu Chúa chúng ta trước khi bước vào cuộc khổ nạn cũng có những lời tâm huyết dặn dò các môn đệ của mình đó là “anh em hãy yêu thương nhau”. Lời này được lập đi lập lại 2 lần trong một đoạn văn ngắn, chứng tỏ thao thức của Đức Giêsu đối với các môn đệ về điều này như thế nào?
2. Thực ra trong cuộc sống, chúng ta vẫn yêu thương nhau, yêu và được yêu là nhu cầu tất yếu của con người, nhưng thường thì ta dễ yêu một người khi người đó đem lại lợi ích vật chất, tinh thần hoặc thoả mãn một nhu cầu nào đó của ta. Tình yêu như vậy đó là thứ tình yêu vị kỷ, yêu người khác vì mình.
Ở đây, Đức Giêsu dạy chúng ta yêu thương nhau ở mức độ cao hơn, yêu vì làm vui lòng, lợi ích cho người mình yêu, đó là tình yêu vị tha. Tình yêu này xuất phát từ Chúa Cha đến với Đức Giêsu, rồi từ Đức Giêsu đến với con người và con người với nhau: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” và “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
3. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng tình yêu tôn vinh, chính khi Chúa Con bị treo trên cây thập giá, xem ra là thất bại nhưng là lúc cao điểm Thiên Chúa Cha tôn vinh Đức Giêsu (Ga 13,31), qua cuộc Vượt qua, Chúa Cha đã trao ban mọi quyền hành cho Đức Giêsu.
Đối lại, Chúa Con yêu Chúa Cha bằng tình yêu vâng phục: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”(Ga 4,34). Chúa Cha không những yêu thương Chúa Con mà còn yêu thương cả loài người tội lỗi nữa. Vì yêu thương đến nỗi ban Con Một của Người cho chúng ta (Ga 3,16).
Phần Đức Giêsu, Ngài yêu thương loài người chúng ta thế nào? Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống mình để ban sự sống mới cho ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Vậy Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau không vì mình mà vì Ngôi kia, Cha dành cho Con, Con dành cho Cha mọi sự tốt đẹp. Chúa Cha và Chúa Con yêu thương loài người vì lợi ích, hạnh phúc của loài người. Yêu là trao ban, yêu là muốn cho người mình yêu được tốt hơn… đó là kiểu mẫu cho mọi tình yêu thương của chúng ta đối với nhau.
4. Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau, theo kiểu mẫu của Thiên Chúa, chắc hẳn sẽ dễ tha thứ và làm hoà với nhau như Thiên Chúa đã đi bước trước đến với loài người chúng ta dù ta vong ân, bội nghĩa.
Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau, thì xã hội này không còn chỗ cho con cái của ma quỷ nương tựa. Làm sao ta có thể lừa đảo, gian dối, nói xấu, làm điều trái phép công bằng… với ai đó khi ta thực sự yêu họ? Khi chúng ta có tình yêu chân thật đối với nhau chắc chắn xã hội sẽ tốt hơn, bởi chúng ta làm việc với tinh thần trách nhiệm cao; hy sinh, phục vụ với tất cả khả năng cho người mình yêu, cho gia đình, cộng đoàn, xã hội…
5. Hãy yêu thương nhau bằng tình yêu chân thật, để chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,35). Chúng ta không co cụm, khép kín mà theo lệnh truyền của Chúa, chúng ta cũng hãy yêu hết mọi người (Mt 5,44), bằng tình yêu như Chúa dạy; nhưng hãy khởi đầu từ những người thân, những người gần gũi với mình, để lấy đà tiến xa hơn. Bởi một người mà không biết yêu thương, bác ái đối với anh chị em mình, thì khó mà sống yêu thương bác ái đối với người khác. Xin khép lại bài chia sẻ với câu chuyện đầy tình yêu thương sau đây mà tôi đọc được trong “Sợi Chỉ Đỏ”, Chúa Nhật 6 Phục Sinh, của Lm. Carôlô, để chúng ta tiếp tục cầu nguyện suy nghĩ:
“Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do. Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình”.
Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ”. Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em.
Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: “Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó”. Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó”.
16. Thiên Chúa là tình yêu
(Suy niệm của Lm Phạm Thanh Liêm, SJ)
Thiên Chúa là ai? Sau những năm tháng cảm nghiệm và nghiền ngẫm về Thiên Chúa, tác giả thư Gioan diễn tả: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài là Đấng làm mọi sự vì yêu: tạo dựng tất cả vì yêu, làm vũ trụ này tiếp tục hiện hữu vì yêu, tuyển chọn dân Do Thái vì yêu, và ban Thánh Thần giúp dân ngoại đón nhận tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh cũng vì yêu.
1. Dân ngoại đón nhận Tin Mừng
Thiên Chúa yêu thương dân Do Thái. Ngài đã kêu gọi Abraham, đã can thiệp vào cuộc đời Giacóp, đã ở với Giuse bên Aicập, và đã đưa dân Do Thái từ Ai cập trở về đất hứa. Lịch sử dân Do Thái cho thấy Thiên Chúa hiện diện và thương yêu dân tộc Do Thái cách đặc biệt. Ngài đã ban cho dân những thẩm phán để giải phóng và hướng dẫn dân, đã ban cho dân các tiên tri để nói với dân nhân danh Ngài.
Đã có thời, người Do Thái tưởng rằng Thiên Chúa chỉ yêu thương dân tộc Do Thái mà thôi, vì Thiên Chúa đã chọn dân Do Thái là dân riêng. Dường như chính Đức Giêsu cũng đã có lúc Ngài tưởng mình chỉ được sai tới với người Do Thái, nhưng qua biến cố gặp gỡ chị phụ nữ vùng Tia và Xiđôn, Ngài đổi ý vì nhận ra ý định của Thiên Chúa (Mt.15, 21-28). Hôm nay Phêrô cũng nhận ra ý định của Thiên Chúa đối với dân ngoại khi Thiên Chúa can thiệp để Phêrô tới rao giảng cho gia đình Cornêliô. Thiên Chúa đã ban Thánh Thần giúp Phêrô nhận ra ý định của Thiên Chúa muốn dân ngoại thuộc dân Thiên Chúa qua việc lãnh nhận phép rửa.
“Thiên Chúa không thiên tư tây vị người nào” (Cv.10, 34). Thiên Chúa thương tất cả mọi người, Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc. Thiên Chúa không chỉ yêu thương dân tộc Do Thái, nhưng Ngài yêu thương mọi dân tộc như yêu thương dân tộc Do Thái. Với biến cố dân ngoại đón nhận Tin Mừng, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa yêu thương dân ngoại hơn dân Do Thái nữa, nhưng thực ra Thiên Chúa không thiên tư tây vị: Ngài yêu dân ngoại như yêu dân tộc Do Thái. Như dân Do Thái đã nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân Do Thái thế nào, thì mỗi dân tộc cũng phải nhận ra Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử dân tộc mình như vậy. Dân Do Thái là mẫu, để các dân tộc khác tập nhận ra Thiên Chúa đã đang yêu thương và đã đang can thiệp vào lịch sử dân tộc mình.
2. Đức Giêsu- Lời Thiên Chúa nói với con người
Đức Giêsu là dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa cho con người. “Chúa Cha yêu mến thầy thế nào, thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu thầy”. Đức Giêsu yêu con người vô cùng. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình thương. Đức Giêsu đã hiến mạng sống Ngài cho con người. Ngài là tấm bánh bẻ ra nuôi sống con người. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua Ngài, với Ngài và trong Ngài, con người tìm được đường chân thực đi tới sự sống.
Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho con người. Cuộc sống của Đức Giêsu giống cuộc sống của mỗi người chúng ta. Tôi gặp khó khăn gì trong cuộc sống, Đức Giêsu cũng gặp như vậy, cả những ao ước, những cám dỗ, những thách thức. Đức Giêsu đã gặp khó khăn với những người sống với Ngài, như khi Phêrô can ngăn Ngài đi trên con đường Thiên Chúa muốn, khi các tông đồ do dự không muốn lên Giêrusalem. Đức Giêsu cũng bị bỏ rơi khi gặp hoạn nạn, rồi cả cái chết, và là cái chết nhục nhã trần trụi trên thập giá. Những gì con người thường gặp, thì Đức Giêsu cũng đã gặp. Ngài là mẫu gương trong cách hành xử. Ngài là ánh sáng soi những lúc tối tăm của kiếp người. Ngài là ý nghĩa cho những đau khổ con người phải chịu.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nói với con người. Con người học bằng nghe, bằng nhìn. Đức Giêsu là con người cụ thể, con người có thể nhìn để thấy để học; Đức Giêsu là Lời, con người có thể nghe để hiểu. Nhìn Đức Giêsu, con người có thể nhận ra bài học Thiên Chúa muốn dạy con người. Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa cho con người. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nói với con người. Đức Giêsu là mặc khải của Thiên Chúa cho con người.
3. Thánh Thần- Tình Yêu Thiên Chúa
Đức Giêsu nói: “Đây là giới răn của thầy: các con hãy yêu thương nhau”. “Ai giữ giới răn của thầy, thì ở lại trong tình yêu của thầy”. Thánh Gioan tông đồ viết: “chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu đến từ Thiên Chúa”. Chỉ có mỗi một điều quan trọng trên đời, đó là yêu thương. Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa, thì biết Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong người đó. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Khi người ta yêu thương, người ta là con cái Thiên Chúa, vì người ta đang giống Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng chỉ biết yêu. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu. Thiên Chúa không phạt con người. Những đau khổ con người chịu, là do thù hận. Thù hận làm con người khổ, làm con người không hạnh phúc, là hỏa ngục theo một nghĩa nào đó. Ai yêu thương, theo một nghĩa nào đó, đang hạnh phúc. Nên, một nghĩa nào đó, để biết mình có yêu thương không, là có thấy mình đang hạnh phúc không. Một người yêu thương, là người để người khác có thể sống thoải mái với mình, để họ được tự do.
Thánh Thần là tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần giúp con người sống trong tình yêu, và nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Một dấu chỉ để biết con người có Thiên Chúa ở với mình không, là xem con người có sống yêu thương không. Yêu thương là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện, là dấu chỉ của Thánh Thần đang ở với người đó, và đang hoạt động nơi người đó. Mỗi người đều bởi Thiên Chúa mà được sinh ra, nhưng còn có một sự sinh ra khác: “ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu”. Ai yêu thương, thì đang được sinh ra bởi và trong Thánh Thần.
17. Dòng suối yêu thương – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nếu có ai đó chưa biết gì về đạo thánh Chúa, yêu cầu chúng ta: “Bạn có thể giúp tôi hiểu cách vắn gọn về bản chất của đạo Thiên Chúa trong vòng năm phút được không?”
Đề nghị nầy có thể làm cho chúng ta lúng túng. Trước một vấn đề quan trọng như thế thì dễ gì tóm gọn trong dăm ba phút? Thế nhưng lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta giải quyết phần nào vấn nạn nầy.
Có thể hiểu cách đơn giản rằng Đạo Chúa không gì khác hơn là Dòng Suối Yêu Thương với ba chiều kích:
1. Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha.
2. Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.
3. Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.
* * *
Như một quy luật tự nhiên, các suối đầu nguồn luôn trao hết, trút hết nguồn nước của mình vào lòng các dòng sông. Suối sẵn sàng cho đi luôn mãi không tiếc nuối bao giờ.
Các dòng sông, một khi đã nhận được nước từ những con suối ở thượng nguồn, cũng không ngừng cho đi, cho đi ngày đêm không ngơi nghỉ, trút hết nguồn nước của mình cho vùng hạ lưu và cho ra biển cả.
Thiên Chúa là Tình Yêu, mà đặc tính của tình yêu là thông ban, là lưu chảy như nước từ khe suối đầu nguồn chảy xuôi xuống các dòng sông và tuôn chảy vào đại dương.
Dòng suối Yêu Thương bắt nguồn từ Chúa Cha
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn Tình Yêu. Tình yêu của Người như Suối đầu nguồn. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha trao ban tất cả mọi sự cho Chúa Con như Lời Chúa Giêsu xác nhận: “Chúa Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi mình như vậy” (Gioan 5, 26).
“Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Con” (Gioan 3, 35).
Bởi vì Chúa Cha đã trao ban mọi sự cho Chúa Con nên Chúa Giêsu khẳng định: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”.
Dòng suối Yêu Thương thông qua Chúa Con đến cùng nhân loại.
Chúa Giêsu chẳng những không giữ lại những gì Chúa Cha trao cho mình, mà còn đem tặng ban tất cả cho nhân loại, kể cả mạng sống của Người. Tình yêu của Chúa Giêsu lên đến cao điểm khi nâng con người phàm hèn lên hàng bạn hữu nghĩa thiết và hiến ban cả mạng sống mình cho họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Mỗi người phải khơi dòng cho Tình Yêu Thương của Thiên Chúa đến được với tha nhân.
Chúa Cha như suối đầu nguồn đã trút hết tình yêu cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu như dòng sông cả đón nhận tình yêu của Chúa Cha và đã trút hết tình yêu ấy cho chúng ta.
Đến lượt mình, chúng ta được kêu mời trút hết tình yêu cho tha nhân như Chúa Giêsu đã trút hết tình yêu của Người cho chúng ta.
“Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 15,12).
Thế là dòng suối Yêu Thương xuất phát từ Thiên Chúa Cha, qua Chúa Giêsu, tuôn tràn xuống chúng ta và thông qua chúng ta để đến với mọi người khắp nơi trên thế giới. Cứ thế, dòng suối Yêu Thương lưu chảy không ngừng, không nghỉ… đem lại hạnh phúc và sự sống cho tất cả mọi người.
Đừng cản trở dòng Suối Yêu Thương
Thỉnh thoảng có những thân cây to lớn bên bờ đổ xuống hoặc những ghềnh đá làm cản trở dòng chảy của con suối khiến nước không thể chảy xuôi về nuôi những cánh đồng phía dưới.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta trở thành những chướng ngại vật cản trở dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa đến với anh chị em chung quanh mình và vì thế chúng ta làm cho đời sống của bao người quanh ta trở nên cằn cỗi.
Khi không còn thương mến nhau, chúng ta tự loại mình ra khỏi gia đình yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Như thế chúng ta tự làm cho mình trở thành kẻ lạc loài và cô độc.
Lạy Thiên Chúa là Nguồn Mạch Tình Yêu, xin cho chúng con luôn chia sẻ Tình Yêu Chúa cho mọi người để nhờ đó, chúng con được hoà mình vào dòng suối Yêu Thương không bao giờ vơi cạn.
18. Tình đáp tình – Anmai, CSsR
Tình yêu! Có quá đáng chăng khi gọi Tình yêu là mầu nhiệm. Được lắm chứ vì lẽ chẳng ai có thể định nghĩa được tình yêu. Chỉ có ai đang yêu mới hiểu tình yêu là gì. Tình yêu thật chỉ đáp trả lại bằng tình yêu thật chứ không phải là dục vọng, danh vọng và vật chất. Thậm chí tình yêu ấy có thể trả bằng một giá rất đắt đó chính là trả giá bằng mạng sống mình vì người mình yêu.
Nếu tình yêu chỉ dựa vào vật chất, danh vọng và dục tình thì đó không phải là tình yêu thật mà là một tình yêu giả tạo.
Định nghĩa của thánh Gioan Tông đồ thật đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Định nghĩa thế thôi chứ nào Gioan giải thích được vì lẽ tất cả những ngôn từ của con người dành cho tình yêu của Thiên Chúa chẳng bao giờ đủ cả vì lẽ tình yêu của Thiên Chúa quá lớn, vượt quá trí hiểu của con người.
Thánh Gioan vừa mới khẳng định cho chúng ta qua thư của Ngài về tình yêu Thiên Chúa:
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được biểu lộ như thế này:
Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
Tình yêu cốt ở điều này:
không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,
và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta”. (1 Ga 4, 7-10)
“Ta hãy gẫm suy tình yêu của Chúa
Tình Chúa ôi quá bao la
Ngay khi lúc ta còn là tội nhân
Thì Chúa, Chúa đã chết Ngài chết cho ta
Nay khi chúng ta được ơn giải oán
Nhờ máu nước của Ngài…”
Thế đấy! Tình yêu ấy nhiệm mầu, bao la đến độ linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã diễn ý của Thánh Phaolô tông đồ thành dòng nhạc đi vào lòng người.
Có gẫm, có suy cho đến ngất trí đi chăng nữa nhưng làm sao hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho những con người có tội và nhất là chính tôi đây là kẻ tội lỗi. Dẫu tôi đây yếu đuối, tội lỗi nhưng chẳng hiểu sao Thiên Chúa lại yêu tôi đến như vậy.
Tình yêu Thiên Chúa thật bao la, thật nhiệm mầu đối với cuộc đời Gioan để rồi trong toàn bộ tác phẩm Tin mừng thứ tư của mình, Thánh Gioan cứ xoáy đi xoáy lại về cái tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa dành cho Gioan, dành cho mọi người và dành cho chính bản thân tôi.
Mở đầu trang Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe đấy chúng ta thấy mối tương quan giữa Chúa Cha với Đức Giê-su và, bên kia, mối tương quan giữa Đức Giê-su với các môn đệ được đối chiếu với nhau. Một bên, Chúa Cha yêu mến Đức Giê-su và Đức Giê-su yêu mến các môn đệ.
Đằng khác, các môn đệ hãy ở trong tình thương của Đức Giê-su, cũng như Đức Giê-su ở trong tình thương của Chúa Cha.
Như vậy, tình thương bắt nguồn từ Chúa Cha (1 Ga 4,8.16), từ Chúa Cha bước sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su bước sang các môn đệ. Và, ngược lại, tình thương ấy phải từ các môn đệ sang Đức Giê-su, để rồi từ Đức Giê-su trở về cùng Chúa Cha.
Điều kiện phải có để ở trong tình thương, là tuân giữ các điều răn: các môn đệ phải tuân giữ các điều Đức Giê-su dạy, cũng như Đức Giê-su đã tuân giữ các điều Chúa Cha dạy.
Điều răn của Thầy là gì? Ga 15,12-14.15b cắt nghĩa Ga 15,9-10. Muốn ở trong tình thương, thì phải tuân giữ các điều răn Người dạy (15,10). Điều răn nào? Thưa là tất cả (êntôlas), mà trước hết là điều răn “thương yêu nhau” (15,12). Hơn nữa, phải thương yêu nhau như Đức Giê-su đã yêu thương các môn đệ, nghĩa là yêu thương đến nỗi hy sinh mạng sống. Lắm khi, giá trị món quà nói lên kích thước của tình yêu: yêu nhiều, tặng nhiều, yêu ít, tặng ít. Mà, đối với con người, không gì quí hơn mạng sống. Nên hy sinh mạng sống là thương yêu vô cùng. Đúng là tình yêu mạnh hơn tử thần.
Cái chết của Đức Giê-su trên thập giá bắc hai nhịp cầu. Chết như vậy, Đức Giê-su nói lên một cách tuyệt đối rằng Người thương yêu Chúa Cha đến nỗi vâng lời Người mà tự nguyện chịu chết (4,34; 5,30; 6,38; 14,30). Đằng khác, chết như vậy, Đức Giê-su đồng thời cũng nói lên rằng Người thương yêu vô cùng những kẻ Người đã chọn làm bạn hữu (13,1.34). Tình yêu của Đức Giê-su là nền tảng và là tiêu chuẩn của điều luật yêu thương anh em (15,12).
Chính cái chết của Chúa Giêsu là đỉnh điểm của tình yêu tự hiến mà Ngài đã ban tặng cho con người. Thử hỏi trong cuộc đời, mấy ai dám chết như Thầy Chí Thánh Giêsu? Chỉ những ai dám hy sinh ngay cả mạng sống của mình mới minh chứng tình yêu thật của mình.
Có đôi vợ chồng trẻ nọ, chồng là giảng viên Đại học, vợ là diễn viên và là người dạy thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau. Trước khi lấy nhau, hai người đã nghe không biết bao nhiêu người khuyên rằng:
– “Họ sẽ không bao giờ hạnh phúc bên nhau”.
Chồng thì ngồi nghế giảng viên Đại học, vợ suốt ngày cầm roi dạy cọp trong chuồng thú của đoàn xiếc, nhưng tình yêu đưa họ bay lên với những giấc mơ tuyệt đẹp. Người chồng giảng viên Đại học mặc dù thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không xứng đáng lắm, nhất là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc toả ra từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật khó chịu nhưng người diễn viên dạy thú thì không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính cái mùi ấy mà bầy cọp dữ mới nhận ra cô và vâng lời ngoan ngoãn.
Cho đến một hôm, hai người giận nhau, tình trạng ấy kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Cô chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với người chồng và cũng rất xa lạ đối với cô. Đó là tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ đã làm hòa với nhau. Thế nhưng, một hậu quả thật bi đát đến với cô: Đêm hôm sau người vợ ấy chết!
Người nữ diễn viên dạy thú ấy đã chết dưới nanh vuốt của con cọp dữ mà chính cô đã thuần hoá. Nó không nhận ra cô nữa vì mùi cọp quen thuộc không còn mà chỉ có mùi nước hoa hồng xa lạ. Con cọp hốt hoảng trước mùi lạ lẫm đó và đã tự vệ bằng cách tấn công. Chỉ trong khoảnh khắc người nữ diễn viên dạy thú đã tan xác vì những móng vuốt sắc nhọn của con cọp mà cô đã hết lòng thương yêu.
Câu chuyện “Mùi cọp” trên đây như một ngụ ngôn về sự hy sinh chính mình cho tình yêu. Người vợ vì yêu thương chồng đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đành phải hy sinh mạng sống mình. Một tình yêu đích thực là dám quảng đại quên mình đi, dù phải hy sinh, để bảo vệ hạnh phúc cho người mình yêu.
Thật sự ra mà nói, không phải thử thách tình yêu một cách nghiệt ngã như hai vợ chồng trên đây là phải làm như vậy nhưng ngay trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể diễn tả tình yêu thương ấy một cách hết sức dễ dàng. Chúng ta có thể thực thi giới luật yêu thương của Chúa mọi lúc và mọi nơi.
Bất cứ nơi đâu và lúc nào, chúng ta đều có thể sống cái tình yêu hay nói đúng hơn và đáp trả tình yêu được. Có khi chỉ là bớt một lời nói chanh chua, bớt đi một chút của ánh mắt tị hiềm, bớt đi cái thái độ hung hăng của ta đó chính là cử chỉ, thái độ của những người biết sống cách đáp tình.
Cái khó của cái có thể ở đây là liệu rằng chúng ta có cảm nhận được chúng ta yêu hay không mà thôi? Chúa lúc nào cũng yêu ta còn ta lúc nào cũng quay lưng lại với Chúa. Anh chị em đồng loại yêu ta lắm đấy chứ nhưng với cái bản chất ích kỷ và con người nhỏ nhen đã làm cho chúng ta không nhận ra tình yêu. Không nhận ra thì làm sao chúng ta có thể đáp lại mối tình mà Thiên Chúa cũng như anh chị em đồng loại dành cho ta.
Xin Chúa Giêsu là vua của Tình yêu đến và ở lại với chúng ta, soi sáng cho chúng ta để chúng ta nhận ra rằng Chúa yêu chúng ta hơn chúng ta tưởng, anh chị em đồng loại yêu chúng ta hơn chúng ta biết để rồi khi ấy chúng ta cũng thay đổi lối sống, thay đổi cuộc đời là đáp trả tình yêu mà chúng ta đã nhận được từ Thiên Chúa, từ anh chị em đồng loại.
19. Ở lại trong tình thương.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
“Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già, tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con”. Quyết định của Cha Maximilianus Maria Kolbe đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết với cha.
Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng hát và lời kinh.
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng chứng của một tình yêu. Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng cho người bạn của mình.
Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kolbe, nhưng ông thành bạn của cha vì được cha hiến mạng.
Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình yêu của Thầy.
Đây không phải là một lời mời đầy tính lãng mạn của một người đang yêu. Đây cũng không phải là một mệnh lệnh cao siêu dành cho những nhà thần bí.
Đức Giêsu dạy ta biết cách ở lại trong Ngài.
Ai muốn ở lại trong tình yêu của Thầy thì phải giữ các điều răn (x. câu 10), mà điều răn quan trọng nhất là yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Như thế chúng ta có một kết luận kỳ diệu: muốn ở lại trong Thầy thì cũng phải ở lại trong nhau.
Cành nào muốn hiệp thông với cây thì cũng phải hiệp thông với các cành khác. Có một dòng nhựa từ cây nuôi các cành. Chúng ta là những cành cây được nuôi bằng một dòng nhựa.
Khi gắn bó thân thiết với Chúa, chúng ta cũng được gắn bó với nhau sâu thẳm.
Yêu anh em là thước đo đáng tin cậy để thấy được tình yêu của mình đối với Chúa. Chỉ có một dòng tình yêu duy nhất luân chuyển: như Cha đã yêu Thầy, Thầy đã yêu anh em; như Thầy đã yêu anh em, anh em hãy yêu nhau.
Dòng tình yêu phát xuất từ Cha và đi khắp thế giới.
Yêu thương là không làm cho nó ngừng lại thành ao tù.
Thế giới hôm nay đói khát tình yêu đích thực.
Môn đệ Đức Kitô phải là chứng nhân tình yêu, yêu như Chúa đã yêu, yêu bằng tình yêu lớn nhất.
Chúng ta không có dịp để chết như cha Kolbê, nhưng mỗi ngày ta có nhiều dịp để sống cho người khác.
Sống cho tha nhân đòi hỏi những cái chết nho nhỏ. Những cái chết nhỏ chuẩn bị cho cái chết lớn khi cần.
Mỗi lần trái tim ta héo khô và chai cứng, hãy trở lại với Đức Giêsu như suối nguồn để được Ngài tưới đẫm yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ thiếu yêu thương. Bạn đánh giá thế nào về tình yêu thương trong gia đình, khu xóm, trường học, giáo xứ, nơi làm việc… của bạn? Các Kitô hữu ở đó có làm chứng về yêu thương không?
Có khi nào bạn cảm thấy yêu thương người khác là điều quá khó không? Làm sao để thoát ra khỏi nỗi tức bực và hờn oán của mình đối với người khác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, đón nhận những người khác, là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, con không thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì mau da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Có những ngày, mà yêu mến người khác, làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con. Trong những ngày khó khăn đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng để con quên Lời Chúa nói: “Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”.
20. Yêu như Chúa yêu
Trong những dòng suy niệm Lời Chúa của Chúa Nhật 6 Phục Sinh hôm nay, tôi không làm gì khác hơn là chỉ kể chuyện cho anh chị em và các bạn nghe. Vì tôi tưởng rằng những câu chuyện này, tuy đơn sơ thôi, nhưng lại diễn tả hết những gì mà tôi muốn nói.
Câu chuyện thứ nhất:
“Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuồi. Cả hai đều gầy yếu và đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại tới lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều và cần đuợc tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện không có sẵn loại máu cùng nhóm máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với cô. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống cô em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng sau đó cậu ta bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hếin máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”
Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho cô em gái. Khi tỉnh dậy mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! con vẫn còn sống đấy à?
Suy tư:
1. Hóa ra cậu bé trong câu chuyện tưởng lầm rằng khi cho máu thì mình sẽ phải chết. Vì các bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu và tiếp sang cho đứa em gái. Vì quá thương em và không muốn em chết, nên cậu ta quyết định chết thay cho em.
2. Đức Giêsu dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Yn 15, 12) Đó là điều răn mới. Cái mới trong điều răn này không phải ở chỗ yêu thương nhau. Nhưng mới ở chỗ yêu thương như Thầy đã yêu thương. Yêu bằng cái chết của mình để người khác được sống.
Câu chuyện thứ hai:
“Có hai vợ chồng nhà kia, hằng ngày cùng nhau vào rừng kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm bốn miệng ăn. Hai vợ chồng và hai đứa con thơ.
Một hôm, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tả, mặt sông dậy sóng. Chiếc thuyền nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp. Hai vợ chồng bị văng ra khỏi thuyền. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng môt tay bám vào thân cây, tay còn lại cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể bị chết chìm. Người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ. Em phải sống để nuôi các con em nhé!” Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống và nuôi con!” Rồi chị đã buông tay ra cho chìm xuống để anh chồng đủ sức bơi vào bờ.
Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sông lập bàn thờ và thành tâm khấn vái cầu xin hương hồn phù hộ cho ba cha con.
Suy tư:
Câu chuyện này là một chú thích và là một minh họa cho điều Chúa Giêsu đã nói: ” Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Yn 15,13)
Thay cho kết luận:
1. Không biết những câu chuyện trên đây có thật không. Nhưng chắc chắn đấy không phải là những huyền thoại.
2. Đức Giêsu không giống như những bậc vĩ nhân thường được nhắc đến trong lịch sử nhân loại. Người không viết một cuốn sách nào, cũng không để lại môt công trình hay một kiệt tác nào. Nhưng tôi tưởng rằng cả cuộc đời Người đã sống, toàn bộ sứ diệp mà Người đã ấp ủ và rao giảng được đúc kết chỉ vỏn vẹn trong một câu thôi: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” Yêu như Thầy yêu là: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình. (x Yn 15,13)
3. Không biết lời dạy của Chúa Giêsu có lý tưởng quá không, có quá khó để sống không. Nhưng trong cuộc đời này, đã có một Gioan Phaolô II, đã có một Têrêsa Calcuta và đã có một Maximilia Kolbe….là những chứng từ sống động và hùng hồn nhất cho tình yêu đó.
4. Còn chúng ta thì sao? Có thể chúng ta ít có cơ hội để chết cho người khác. Vì chúng ta vẫn thường sợ chết, vẫn thường hèn nhát. Nhưng mỗi ngày, ta có rất nhiều dịp để sống cho người khác, sống cho tha nhân với những cái chết nho nhỏ.
Người ta quen nghĩ rằng chết là mất tất cả, chết là không tồn tại, chết là một điều khủng khiếp, nên người ta sợ chết. Chết như thế là chết vì ích kỷ. Trái lại chết vì yêu là chết vì hiến trao. Chết vì yêu là chết vì người khác và cho người khác. Vì thế, mặc dù ta chết nhưng ta vẩn sống vẫn tồn tại. Vì tình yêu của ta sẽ đọng lại mãi trong lòng mọi người, rất sâu và rất lâu.
Cuối cùng tôi xin mượn tâm tình trong một lời cầu nguyện, đơn sơ thôi nhưng lại rất thấm thía. Tôi muốn mượn tâm tình này như một lời tự tra vấn mình và là lời nhắn nhủ đến tất cả. Tâm tình của lời cầu nguyện ấy thế này:
“Lạy Chúa, xin khoan để cho con chết đi. Bởi vì con chưa yêu đủ”. Amen.
21. Yêu như Thầy yêu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ lại lệnh Chúa Giêsu truyền trước khi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Chúa như lời hứa “Thầy đi dọn chỗ cho các con” (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải vâng theo lệnh Chúa truyền là “các con hãy yêu mến nhau” (Ga 15, 12).
Tôi tự hỏi, phải chăng con người dùng những tình cảm tự nhiên để yêu như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái, đồng lớp đồng niên mến thương nhau, hay hai người nam nữ yêu nhau là chưa đủ hay là khác với tình yêu Chúa Giêsu đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói “yêu như Thầy đã yêu mến các con” là Chúa Giêsu nói đến tình yêu thí mạng: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 14, 13). Quả thật, chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con là bạn hữu” (Ga 14, 14). Chúa đã yêu các môn đệ nói riêng và con người nói chung bằng tình yêu thí mạng. Nay Người đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau như Chúa yêu. Tình yêu mà Chúa Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu các con” (Ga 14, 9). Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngừng chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta. Vậy đâu là bằng chứng để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa? Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời, “Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người” (Ga 15, 10). Yêu như Thầy yêu là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu các con”, khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Thánh Gioan Tông Đồ viết: “Thiên Chúa là Tình Yêu… hễ ai thương yêu, thì đã sinh bởi Thiên Chúa… Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7 – 8). Gioan quả quyết: “Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (1 Ga 4, 10).
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ? Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc.
Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đó đây chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau.
Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Chúng ta vẫn thường nghe nói: “gia đình là Giáo hội thu nhỏ”, thế nên, gia đình cũng phải mang lấy những đặc tính mà Chúa Giêsu muốn là: “yêu thương và hợp nhất, thực thi lời Chúa, cử hành phụng vụ và loan truyền tin mừng”.
Gia đình kia có một cô con gái, tính tình đào hoa, phóng khoáng. Sau lần tiếp bạn ngày đầu năm, mẹ cô nói với cô: Này con, con yêu ai thì yêu, lấy anh nào thì lấy một thôi, chứ tết này mẹ thấy nhiều anh quá, bố mẹ chẳng biết anh nào là rể tương lai nữa. Cô trả lời: ồ, bố mẹ hay thật, Chúa chẳng dạy chúng ta là yêu hết mọi người sao?
Chuyện khác: Có một chàng thanh niên, gõ cửa một nhà dòng để xin vào tu. Cha bề trên nhìn chàng, khẽ mỉm cười và hỏi:
Thế con đã yêu ai chưa? Chàng thanh niên đỏ mặt, ấp úng trả lời: Dạ thưa cha, chưa ạ.
Cha bề trên lại mỉn cười và bảo: Thế thì con hãy về, học yêu thương trước, rồi mới tới tu học sau.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con” (Ga 14, 12), vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi, nguồn suối tình yêu liên kết chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Amen.
22. Phúc nào hơn được làm bạn với Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Có người nói vui rằng Chúa Giêsu ở trên trời không có mẹ, không có anh em, không có bạn hữu. “Buồn quá”, nên Ngài đã tự nguyện nhập thể làm người để được làm con một người mẹ (Đức Maria), được làm anh em và đặc biệt là được làm bạn hữu với loài người. Nói thế cũng đúng phần nào nếu đặt trong bối cảnh của bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”.
Quả vậy, Chúa Giêsu khi đến trần gian, Ngài không viết một tác phẩm nào, cũng không xây một ngôi nhà thờ nào. Nhưng Ngài đến để thiết lập một tương quan mới với con người, tương quan bằng hữu.
Dĩ nhiên tình bằng hữu của Chúa Giêsu đối với chúng ta vượt lên trên tất cả tình bạn tự nhiên của con người. Bởi vì tình bạn ấy được mặc cho một giá trị vô cùng cao quý nhờ cái chết hy hiến của Ngài trên thập giá: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống vì bạn hữu mình”.
Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong tương quan tình bạn, chứ không phải là một tương quan nào khác?
Người ta nói rằng mọi thứ tình, kể cả tình yêu đôi lứa, khi phát triển đến mức hoàn hảo đều qui về tình bạn. Nếu đúng như vậy thì rõ ràng đây quả là một quà tặng, một diễm phúc lớn lao mà Thiên Chúa ân ban cho con người chúng ta. Không lớn lao sao được khi con người thân hèn phận mọn được cất nhắc lên địa vị ngang hàng với con Thiên Chúa. Không cao cả sao được khi kẻ thụ tạo yếu đuối tội lỗi được biết tất cả, tất cả chứ không phải chỉ 1/4 hay 1/2 những gì thâm sâu bí nhiệm của cõi thiên giới, như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết”.
Từ đây, con người được được sống trong mối thân tình với Đấng hoá công, được trở nên đồng vai đồng vế với Con Thiên Chúa. Vì là bạn hữu mà! Được gọi danh Giêsu một cách thân thiết, danh mà cả triều thần thiên quốc phải kính tôn; được tâm sự với Ngài một cách thân thương và cởi mở đến độ không còn khoảng cách nữa.
Trước hồng ân cao vời đó, chúng ta được mời gọi sống thế nào, nếu không phải là luôn mặc lấy tâm tình cảm tạ tri ân. Cảm tạ Chúa Cha vì Ngài đã đưa ta vào trong tương quan tình bạn với Ngài. Tri ân Chúa Con vì Ngài đã để lại cho ta một kiểu mẫu tình bạn tuyệt vời, tình của người “hiến mạng sống vì bạn hữu mình”.
Chuyện kể rằng: Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoi, đang đi ngang qua đó. Tolstoi dừng lại, lấy tiền cho người ăn xin, nhưng không còn đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng mang theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà lớn nhất rồi”.
Chúa Giêsu không những gọi chúng ta là anh em, Ngài còn gọi chúng ta là bạn hữu, nghĩa là cho ta được trở nên ngang hàng với Ngài. Lẽ nào ta lại không có được tâm tình như người ăn xin trong câu chuyện trên?
Chúng ta còn được gọi mời sống thế nào nữa, nếu không phải là sống tốt tương quan tình bạn với Chúa Giêsu và với anh em mình. Sống tốt tình bạn với Chúa Giêsu, qua việc ở lại trong tình yêu của Ngài, tức là giữ các giới răn. Đồng thời để cho Lời của Ngài ở lại trong ta, cụ thể là năng tâm sự với Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Sống tốt tình bạn với anh em, qua việc nổ lực yêu thương anh em bằng chính tình yêu mà Chúa Giêsu đã dành cho ta. Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là bạn hữu đúng nghĩa của Chúa.
23. Yêu như Chúa yêu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày 10.10.1982, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, vì Cha đã thực hiện từng chữ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Trong thánh lễ phong thánh, Đức Thánh Cha đã nói: “Như anh chị em đã biết, giữa những thử thách bi đát nhất, vốn làm cho thời đại chúng ta chìm trong vũng máu, Thánh M. Kolbe đã tự nguyện biến mình chịu chết để cứu một người anh em mà chính ngài không thân thuộc, đó là ông Francis Gajouniseck. Ông là một người vô tội bị kết án tử hình để trả thù cho một ngươi tù đã vượt ngục. Vị tử đạo anh hùng đã bị kết án chết đói ngày 14.8.1941 tại trại tập trung Đức Quốc Xã ở Auschwitz, Ba lan. Linh hồn tốt lành của ngài đã về cùng Chúa sau khi đã nâng đỡ ủi an các bạn tù cùng số phận khốn khổ như ngài… chính tình yêu cao cả đã giúp ngài vượt qua cơn thử thách rùng rợn khủng khiếp và đã để lại chứng tích lạ lùng của tình yêu thương anh em, của lòng tha thứ cho kẻ giết hại mình. Ước gì gương sáng và sự hộ giúp của Thánh Maximilien Kolbe hướng dẫn chúng ta biết yêu thương chân thành, yêu thương vô vị lợi, xứng đáng là người Kitô hữu, đối với tất cả các anh chị em trong một thế giới mà hận thù không ngừng giày xéo cuộc sống con người…”
Khi chia tay với các tông đồ để ra đi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gắm được coi như bí mật cuối cùng và quí giá nhất của tâm hồn Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây, Ngài đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương này rồi, nhưng chỉ trong giời phút chia tay này mới thấy đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Đây là giới răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau”. Thế là lời trăn trở một mình đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên “yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước của họ “Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Nhưng, thưa anh chị em, lệnh truyền yêu thương nhau không phải muốn thực hiện thế nào cũng được, mà phải quy chiếu khít khao và chính tình yêu của Chúa Giêsu- một tình yêu vốn đã quy chiếu vào tình yêu Chúa Cha – bây giờ trở nên kiểu mẫu và cội nguồn tình yêu cho nhưng kẻ thuộc về Ngài: Yêu như Chúa yêu. “Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”. Đó là một tình yêu mở ra cho hết mọi người không giới hạn cũng chẳng trừ ai (x. Bài đọc 1), một tình yêu san bằng mọi hố sâu ngăn cách, dẹp bỏ mọi hàng rào cản trở để người người gần gũi nhau hơn. Tình yêu đó chủ động đi bước trước (x. Bài đọc 2), cho tôi tớ trở thành bạn hữu, cho xa lạ trở thành thân quen, cho mỗi niềm riêng tư trở thành tâm sự muốn chia sẻ,và cho môn đệ được trở thành những người cộng sự với đầy đủ hành trang lên đường sứ mạng. Để nếu cần, tình yêu đó sẵn sàng mạo hiểm đến liều mạng sống: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu”. Thật ra, Chúa Giêsu đã yêu những kẻ thuộc về Ngài bằng chính tình yêu lớn nhất đó trong suốt cả đời công khai của Ngài, nhưng qua cuộc tử nạn Phục Sinh, chúng ta nhận ra tình yêu lớn nhất khi Ngài để lại bí tích Thánh Thể làm bảo chứng và chết trên Thánh Giá làm hy lễ cứu độ, để rồi bước vào Phục Sinh, mở ra sự sống và niềm hy vọng cho hết mọi loài.
Tình yêu đáp lại tình yêu. Nhận ra mình là kẻ được Chúa yêu, chúng ta phải biết đáp trả bằng một tình yêu trung tín đối với Chúa và tình yêu chân thành đối với mọi người anh em: Phải biết “yêu như Chúa yêu” và “yêu người như yêu Chúa”.
Yêu như Chúa yêu, nghĩa là không đóng khung giới hạn, không kéo bè kết cánh, cũng chẳng chọn lựa thành phần này để loại trừ thành phần khác, mà trái lại, biết đến với mọi người. Tình yêu như vây làm bùng phá mọi thứ hàng rào cản trở, kể cả hàng rào muôn thuở của sự oán thù.
Yêu người như yêu Chúa, nghĩa là không chỉ nhận ra trong những con người chúng ta phải yêu mến khuôn mặt của người anh em, mà còn là khuôn mặt của chính Đấng đã yêu chúng ta bằng tình yêu lớn nhất của Ngài. Tình yêu như thế luôn luôn là một mạo hiểm của mầu nhiệm Tử Nạn-Phục Sinh, nhưng bên trong lại là một niềm vui bất tận.
Tuy nhiên, thưa anh chị em, nói yêu bao giờ cũng dễ, chính khi thực hành yêu thương chúng ta mới thấy hết những nét quyết liệt của lệnh truyền này. Ở quy mô hẹp như một gia đình đã có những va chạm nhiều khi đưa đến sứt mẻ; ở quy mô rộng hơn như một giáo xứ, lại cho thấy những đụng chạm có nguy cơ rơi vào đổ vỡ. Cũng vì tính nết ích kỷ, đầu óc hẹp hòi, nếp nghĩ giới hạn, tầm nhìn phe cánh… Cũng vì quyền lợi hay quyền lực, để rồi nhắm mắt trước giới luật yêu thương. Và rộng hơn nữa là quy mô của một xã hội, ở đó thường diễn ra cảnh huynh đệ tương tàn, chém giết, hận thù, chiến tranh…
Vậy, hỏi rằng lệnh truyền yêu thương nhau của Chúa Giêsu có còn là một trăn trở thường xuyên cho đời tín hữu không? Biết đến bao giờ người hết là lang sói cho nhau? Hàng loạt những câu hỏi như vậy có thể được đặt ra, nhưng chỉ có được lời giải đáp nếu lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu được tôn trọng. Cho nên để có được niềm vui đích thực của người sống trong sự Phục Sinh của Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy bắt đầu bằng quyết tâm sống yêu thương chan hoà.
Mỗi Thánh Lễ là một cử hành về tình yêu lớn nhất, qua đó Chúa Kitô hiến thân cứu độ muôn người. Xin cho chúng ta hôm nay gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để sống được là kẻ biết yêu người khác. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu của chúng ta để từng ngày chúng ta biết chân thành yêu như Chúa yêu, yêu người như yêu Chúa, vì Chúa là Tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con luôn nhớ lời căn dặn của Chúa, để chúng con luôn biết sống yêu thương nhau, yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con, để chúng con luôn làm tròn sứ mạng Chúa đã trăn trối, để chúng con luôn là môn đệ đích thực của Chúa. Amen.
24. Dưa hấu là cậu bí ngô
“Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”
Đã có một lần nghe lại những câu buồn cười và cười buồn: con cua và con còng đấu phép; đấu bao nhiêu con còng cũng vẫn thua hết, vậy mà con cua lại [bị xử là] thua con còng. Đồng dao về sự đời chua chát là thế, lại lắt léo câu chuyện liên hệ họ hàng khó tin: Dưa hấu là cậu bí ngô;bí ngô là cô đậu nành; đậu nành là anh dưa chuột,..Nhưng nếu tìm hiểu sâu rộng hơn, sẽ thấy đây là những lời châm biếm đối với những quan hệ cấm kỵ, thậm chí là loạn luân ở cuối thời Lý đầu nhà Trần, mà mục đích chỉ là để bảo vệ ngôi báu,quyền lực. Vì vậy chẳng lạ gì những mối liên hệ “siêu”huyết thống, khi tất cả đều vì là “họ nhà chim”: Bồ các là bác chim gi; chim gi là dì sáo sậu; sáo sậu là cậu sáo đen; sáo đen là em tu-hú; tu-hú là chú bồ-các…!
Mở những trang đầu của “Bổn Lẽ cần cho được rỗi linh hồn” (trước đây) của địa phận Vinh, ta đọc thấy: “Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng nào?”; “Thưa: Đức Chúa Trời là Đấng thiêng liêng, vô thuỷ vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, lọn tốt lọn lành, ở khắp mọi nơi”. Hình như cho tới nay vẫn chưa có một ‘định nghĩa’ nào gọn gàng, đầy đủ và hay hơn về Đức Chúa Trời, tóm tắt những gì một tín hữu Công giáo nghĩ về Chúa của họ, giúp phân biệt hết sức rõ ràng với bụt thần và vô số thần thánh trong tín ngưỡng Á Đông, trong đó có Việt-Nam. VÔ THỦY VÔ CHUNG là ý niệm rõ ràng nhất trong cái trừu tượng thời gian, cái mà toán học dùng ± # để diễn tả sự vô tận. Bên cạnh đó, con người là loài được tạo dựng, càng nên thấp hèn vì đã phạm tội vong ân bội nghĩa. Nhưng cho dù không phạm tôi, thì việc “bắt quàng làm họ” với Đấng Tạo Hoá đã là chuyện không tưởng, ngông cuồng. Ấy vậy mà chuyện ‘đũa mốc chòi mâm son’ lại thành hiện thực. Trời cao đất thấp gặp nhau: Thiên Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung. Và chính Thiên Chúa khi tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, chính là ban cho nó cũng được “vô chung”. Bù lại,chính cái ‘hữu thuỷ’ ấy nhắc nhở chúng ta điều mà Chúa Giêsu nói: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa là Tình Yêu (x. I Ga), Tình Yêu – viết hoa – vô thuỷ vô chung. Tình yêu chúng ta – hữu thủy từ bản thể, nhưng bắt nguồn từ Thiên Chúa – Tình Yêu vô thuỷ vô chung, cho nên đã trở thành ‘vô chung”. Sự tồn tại và giá trị có được là do bắt nguồn,thông hiệp và gắn chặt vào Tình Yêu vô thuỷ vô chung. Đó là ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Tạo dựng chính là Thiên Chúa cho vũ trụ và con người một cái “thuỷ” để từ đó sẽ được phú ban cho sự vô chung, đơn giản là vì tất cả đi vào quỷ đạo Tình Yêu (viết hoa) là Thiên Chúa. Lực hút ly tâm – Tình Yêu vô thuỷ vô chung – từ đó sẽ “nâng cấp” và làm cho mọi loài thọ tạo gắn bó vĩnh viễn với Thiên Chúa,”ở lại trong Tình Yêu Chúa”(Ga 15,9 b). Chỉ những ai tự để một lực khác chi phối và cuốn hút mạnh mẽ ra khỏi lực ly tâm Tình Yêu, thì mới tự loại trừ. Lực ly tâm ấy chính là các giới răn của Chúa, rút cuộc vẫn là ‘tình yêu’: yêu Chúa và yêu anh em. Khi người ta cho Tạo Dựng (creation)và Tiến Hoá (evolution) cái ‘đuôi’ “ism”, (thuật ngữ chuyên môn là thuyết, chủ nghĩa, hoặc đơn giản là: ‘duy’), tức là người ta muốn áp đặt suy nghĩ và tác động của mình, gạt bỏ vai trò Đấng Tạo Hoá và ban cho Tiến Hoá là Thiên Chúa. Tiến hoá vì thế chỉ là bắt đầu cuộc hành trình hữu thuỷ tiến về vô chung. Vũ trụ và con người ví được như cổ máy: Thiên Chúa dựng nên và cho khởi động với đích đến là vô chung, nôm na là muôn thuở muôn đời. Con người, vì thế, lệ thuộc vào Thiên Chúa, vào Đấng Vô Thủy. Khi dựng nên con người, Thiên Chúa muốn nó ‘vô chung’ như Người. Khác biệt duy nhất, ấy là con người luôn phải hướng về vô chung để hoàn thiện mình trong sự kính uý thờ phượng Thiên Chúa; trong khi Thiên Chúa tự bản thể là Đấng vô chung như đã là vô thủy: một cuộc tiến hoá thiêng liêng, cao lên mãi, tăng thêm mãi, tinh luyện trong tình yêu và trong tạ ơn của cái hữu thuỷ đối với Đấng vô thủy vô chung, để chính bản thân được ‘vô chung’. Đó chính là ý nghĩa của Lời Chúa phán với ông Môsê ở biến cố Bụi Cây Cháy: “Je Suis” – Tà Là – Tự Hữu – Vô Thuỷ Vô Chung.
Những năm qua,do khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng, đời sống nhà nông ngày càng bấp bênh và bị hấp dẫn bởi những hào nhoáng của đời sống thị thành, lớp thanh niên ở nông thôn kéo nhau ra thành phố kiếm công ăn việc làm. Nhiều gia đình chỉ để lại cha mẹ già trông coi nhà cửa vườn tược, hoặc gửi con nhỏ cho cha mẹ già, để vào nam lập nghiệp. Chưa kể đến những hậu quả tinh thần và đạo đức mà làng xóm truyền thống phải gánh chịu, mà nó còn phương hại đến hôn nhân và gia đình. Người ta đem sức lao động “xuất khẩu”: quả là có đổi đời, đổi nhà đất nhà ngói sang mái bằng, từ thiếu thốn sang đầy đủ tiện nghi hiện đại, nhưng cũng đổi theo chúng là hạnh phúc gia đình đổ vỡ vô phương cứu chữa và vô số tệ nạn thâm nhập vào gia đình và hôn nhân. Nhà nước Việt Nam không thấy được và cũng chẳng màng tới chuyện luân lý,đạo đức, mà chỉ lo một ngày gần đây cạn kiết lực lượng sản xuất nông nghiệp và an ninh lương thực sẽ bị đe doạ nặng nề, nên đã nghĩ ra đủ kế sách để giữ chân lớp lao động trẻ ở lại nông thôn. Chính sách “ly nông bất ly hương” so ra không mấy khác với ý nghĩa lời Chúa Giêsu hôm nay, ngoại trừ lý do và động cơ. Chẳng ai chấp nhận một cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời quanh năm suốt tháng, chịu bao bất công, thiệt thòi, mà rút cuộc cũng chẳng nuôi nỗi bản thân, để ‘ly nông bất ly hương’. Khi hàng hoá ế ẩm dồn cục, không xuất khẩu được, người ta mới chợt nhó đến nông thôn. Chẳng khác nào dụ khị con nít. [1.000 đồng/ngày là thu nhập bình quân của nông dân làm ruộng. Tính theo năng suất bình quân thu được từ một sào ruộng trong điều kiện canh tác tốt, thời tiết thuận lợi đạt 2,0 – 2,2 tạ thóc/vụ, quy sang tiền là 400 – 440 nghìn đồng.Trừ hết mọi khoản còn lãi gần 100 nghìn đồng chia cho 90 ngày (Trích từ Báo Lao Động số 326 Ngày 21.11.2004)]. Khi tâm tư, suy nghĩ,hành động không hề có chút thuỷ chung, không hề có tình thương, mà chỉ giáo điều,vụ lợi, thì không thể nào có sự gắn bó, không ai có thể gắn bó. Mọi cố gắng móc nối, liên kết, ràng buộc “họ hàng” nếu không sai trái, thì cũng chỉ là giả tạo.
Dưa hấu là cậu bí ngô: đây không phải là mơ tưởng huyển hoặc từ phía con người; không phải là lời động viên, hứa hẹn từ Thiên Chúa, mà là một thực tại do sáng kiến của Đấng Tạo Hoá muốn con người – một khi được Thiên Chúa cho hiện diện trên trần gian, – cũng sẽ hướng về sự sống đời đời, tức là vô chung, trong Thiên Chúa. Tình Yêu Vô Biên là đáp số của những lắt léo, mầu nhiệm nầy. “Với Thiên Chúa, không có gì là không thể được” (Lc 1,27). Thiên Chúa là Tình Yêu: với Tình Yêu, đâu chỉ có”dưa hấu” trở thành “cậu bí ngô!
Tình Ca 154
25. Phải có hoa hồng trên cây hồng – Guy Morin.
Chúng ta đã quen với qui luật về hiệu năng. Tại nhà máy, người ta cho thôi việc người thợ nào sản xuất kém. Cũng vậy, người công dân đòi hỏi phải có những cảnh sát hữu hiệu, bắt được tội phạm. Người làm vườn không thể chấp nhận một cây hồng mà lại không sinh hoa. Ai trong chúng ta chịu để một cây hoa tàn héo trong bồn hoa nhà mình?
Mặc dù Tin Mừng đầy dẫy những cử chỉ nhưng không thế mà người ta cũng gặp nơi đó qui luật về hiệu năng. Chúa Kitô chúc dữ cho cây vả không có trái, kết án người đầy tớ đã chôn vùi nén bạc của mình. Lời Ngài, hạt giống gieo vào lòng con người, phải sinh hoa kết quả. Bản thân Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi qui luật này. “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất có chết đi thì nó mới sinh nhiều bông hạt”.
Chúa nhật trước chúng ta đã đọc câu chuyện về cây nho mà người ta tỉa những cành không sinh trái. Chúa Giêsu đã nói: “Điều làm vinh danh Cha Thầy là các con mang nhiều hoa trái, và như vậy các con sẽ trở thành môn đệ của Thầy”. Bài Tin Mừng hôm nay nói cho chúng ta biết phải sinh hoa trái nào.
Hoa trái, đó là đức ái huynh đệ.
“Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con làm điều Thầy truyền dạy. Điều Thầy truyền dạy các con là hãy yêu thương nhau”. Qui luật về hiệu năng được áp đặt cho người môn đệ đó là đức bác ái. Không gì thay thế được. Không phải là chuyện xây cất một tòa nhà hay một vương cung thánh đường nhưng là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô bằng tình yêu thương. Giáo Hội có thể triển nở mà không cần nhà thờ nhưng không thiếu những mối tương quan huynh đệ được. Hoa quả làm vinh danh Chúa Cha, đó là xây dựng Thân Mình Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tóm tắt qui luật này một cách mạnh mẽ rằng đạo thật là viếng thăm trẻ mồ côi và kẻ góa bụa lâm cảnh cơ cực.
Đức ái huynh đệ không phải là tình cảm cũng không phải là thiện cảm tự nhiên nhưng là vâng phục Thiên Chúa trong và bằng việc phục vụ người đồng loại. Việc phục vụ cụ thể: chia sẻ của cải, nâng đỡ tinh thần, quan tâm đến người nghèo và những người bên lề xã hội, tôn trọng tha nhân. Đối với kẻ thù, việc phục vụ này là kiên nhẫn chịu đựng và cầu nguyện cho họ. Đây là đức ái vô vị lợi. Cho mà không mong đáp trả và không điều tra về công trạng của người được yêu thương. Cứu giúp mọi người và cho đi cách rộng rãi như Thiên Chúa đã làm cho chúng ta nơi Chúa Giêsu Kitô.
Những dấu chỉ nội tâm để nhận ra đức ái huynh đệ.
Khi người Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu thực thi đức ái, đức ái này được biểu lộ nơi những cử chỉ, những thái độ, những lời nói, những cách nhìn và đối xử với người khác. Đó là những dấu chỉ bên ngoài. Nhưng thánh Gioan nêu cho chúng ta ba dấu chỉ nội tâm: biết Thiên Chúa, lời cầu xin được chấp nhận, niềm vui.
Ở khởi điểm, người Kitô hữu trở thành môn đệ bởi vì họ đón nhận tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu. Về sau, nhờ thực thi đức ái huynh đệ, họ đào sâu kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Quả thật, mỗi một cử chỉ huynh đệ nhắc nhở họ nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã yêu thương họ trước nơi Chúa Giêsu Kitô. Như vậy, họ càng ngày càng cởi mở đối với tình yêu của Chúa Cha. Vì tình yêu lớn lên khi tự hiến mình đi.
Một dấu chỉ nội tâm khác, đó là lời cầu xin được chấp nhận: “Tất cả những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”. Tên Giêsu nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Những lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Giêsu tức là hướng về ơn cứu độ, thì sớm hay muộn, chắc chắn Chúa Cha cũng sẽ chấp nhận. Dấu chỉ này không hiển nhiên. Nhiều Kitô hữu than phiền là Thiên Chúa làm thinh. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra lời đáp của Chúa đối với lời cầu xin của chúng ta. Một lời đáp khó hiểu hoặc làm ta phải bỡ ngỡ.
“Thầy đã nói với các con điều này để cho niềm vui của Thầy ở trong các con và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Niềm vui cũng là một dấu chỉ nội tâm cho những ai thi hành đức bác ái. Khi sự sống được triển nở, đó là niềm vui. Mỗi lần đức ái huynh đệ được thể hiện, thì sự sống của Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài tăng thêm nơi chúng ta hơn một chút và trở thành cụ thể. Triều đại của Thiên Chúa tiến một bước vì loài người cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đối với họ qua tình yêu của người anh em. Lúc đó, chúng ta là dấu chỉ cho nhau rằng Thiên Chúa tiếp tục hành động và cứu độ. Do đó mà niềm vui, dù niềm vui này thường đi chung với đau khổ.
Sứ điệp.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi sinh hoa kết quả, hoa quả của đức ái. Đức ái sẽ xiết chặt những mối liên hệ giữa tôi với Ngài, sẽ làm cho lời cầu nguyện của tôi mang lại hiệu quả và sẽ ban cho tôi niềm vui của Ngài. Lẽ nào tôi từ chối?
26. Biết rồi, vẫn phải nói
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12)
Hai từ “yêu thương” đã quá quen thuộc với con người, cách riêng với Kitô hữu. Tình yêu là một đề tài vừa phong phú, vừa hấp dẫn của văn chưong, nghệ thuật, phim ảnh…và luôn mang tính thời sự. Tình của mỗi thời dường như mỗi vẻ và cách kiểu yêu của mỗi giới, mỗi người, thì mang mỗi sắc mầu, nhưng bản chất tình yêu thì trước sau như một. Biết rằng chúng ta phải yêu thương nhau nếu muốn sống như con người, thế nhưng thử hỏi thế nào là yêu thương thì quả thật không dễ trả lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Ngay cả những việc to lớn như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt” thì cũng chưa hẳn là đã yêu thương (x. 1 Cor 13,3).
Có thể nói tình yêu là huyền nhiệm vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Tuy nhiên thánh Gioan Tông đồ lại cho chúng ta một cái nhìn về tình yêu: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10). Như thế chúng ta có thể nói yêu thương là thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu trong sự tự nguyện đi bước trước và có trả giá cách nào đó.
1. Thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu: Yêu thương là không chỉ muốn điều tốt cho người mình yêu mà còn thể hiện ước muốn ấy bằng hành vi cụ thể, thực tế. Trong tình yêu đích thực không có sự nửa vời hay giới hạn. Đã yêu là yêu đến cùng. Chính vì thế tình yêu đòi hỏi ta thực thi điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu. Cứu sống nhân loại, giải thoát nhân lại khỏi ách nô lệ thần dữ, đưa nhân loại vào hàng con cái, được thừa hưởng gia nghiệp trên trời, chính là việc Thiên Chúa đã thực hiện để bày tỏ tình Người yêu thương nhân loại chúng ta.
“Sông sâu còn có người dò…”, nhưng để đo mức độ của ước muốn thì như không thể. Làm sao để minh chứng rằng ước muốn của tôi không triệt để? Làm sao để khẳng định rằng tôi chỉ muốn điều tốt loại hai, loại ba cho người tôi yêu mà không phải là điều tốt nhất? Quả thật, khi đã ước muốn thì người ta khó biết mức độ ít nhiều, có giới hạn hay đến cùng. Tuy nhiên qua hành động, thì ta có thể kiểm chứng mức độ một cách nào đó khả dĩ được nhiều người chấp nhận. Thực tế có đó chuyện ta nghĩ rằng mình có muốn điều tốt nhất cho người mình yêu, nhưng chỉ thực hiện điều tốt nhì, tốt ba, tốt thứ tư, điều tốt có hạn chế mà thôi. Khi đã có cái giới hạn thì hình như đã có sự tính toán. Đã có tính toán, có so đo hơn thiệt, thì chưa thực sự là yêu thương. Sự thường: “ăn thì cho và buôn thì so”. Biên giới của tình yêu là tình yêu không biên giới.
2. Đi bước trước: Đã yêu thì không đợi “con khóc mẹ mới cho bú”. Thánh Kinh trình bày Thiên Chúa là Đấng luôn đi bước trước trong việc thể hiện tình yêu với con người. Ngay khi nguyên tổ sa ngã, thì Thiên Chúa đã hứa ban Đấng cứu độ. Người đã đi bước trước trong việc chọn gọi Abraham để thành lập một dân được tuyển lựa hầu chuẩn bị cho Ngôi Lời vào đời thực hiện công trình cứu độ. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Đức Kiô đã chết vì chúng ta, cho chúng ta, ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch cùng Người.
Trong động thái đi bước trước, phía người yêu thương thì thể hiện qua việc có sáng kiến, và phía người được yêu thương thì biểu lộ sự kinh ngạc, sững sờ. Kinh Thánh cho ta thấy điều này: Mỗi khi Thiên Chúa trực tiếp can thiệp vào một biến cố lịch sử nào đó thì dân chúng nói chung và những người được tuyển chọn nói riêng đều bàng hoàng, kinh sợ. Các trang Tin mừng cũng tường thuật hiện tượng này rất nhiều lần. Sau mỗi kỳ công mà Chúa Giêsu thực hiện để thi ân giáng phúc, thì dân chúng đều kinh hãi và ca ngợi Thiên Chúa. Có thể nói đây là một tình trạng sững sờ khi chứng kiến một điều kỳ diệu hay được yêu thương bằng một tình yêu vượt quá tầm luận lý thường tình. Đêm Tiệc ly, Phêrô và các bạn đã sững sờ khi Thầy Chí thánh cúi xuống rửa chân cho mình, đến nỗi ông đã vội phản ứng: ” Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” (Ga 13,8).
Sống yêu thương thì không thể ngồi chờ. Vẫn có đó những lý lẽ để bào chữa rằng chưa đủ tài, chưa đủ lực hay chưa đến lúc đến thời…cho những người chưa biết hay không biết yêu thương. Dù chưa đến thời viên mãn thì Thiên Chúa cũng đã tự tỏ bày chương trình yêu thương của Người qua các tổ phụ, các ngôn sứ (x. Dt 1,1). Đã yêu thương thì luôn có đó những việc phải thực hiện, ngay hôm nay và chúng sẽ không ở ngoài tầm tay của chúng ta.
3. Để sống yêu thương thì phải vác thập giá: Tiền nào của nấy (you get what you pay), câu ngạn ngữ của nền kinh tế thị trường một cách nào đó có thể áp dụng cho tình yêu. Tình yêu thì vô giá. Và hoa trái của tình yêu là kết quả của nhiều nỗ lực hy sinh, quên mình. Yêu thương cách đích thực thì sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống (x. Ga 15,13). Của rẻ là của ôi. Đã ngại khó, sợ khổ, tránh né hy sinh, thì sẽ chẳng bao giờ có được bảo vật đáng trân trọng là tấm lòng biết yêu thương.
Vì yêu thương nhân loại Chúa Kitô đã tự nguyện hy sinh vinh quang và danh dự của một vị Thiên Chúa, để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Vì yêu thương nhân loại đến cùng, Người đã hy sinh cả phẩm giá của một con người bình thường để rồi chịu chết bằng án hình thập giá nhục nhã, như một tội nhân (x. Phil 2,6-8). Vì yêu thương, Người đã tự nguyện ở lại với chúng ta trong hình bánh rượu. Yêu thương nhân loại, Chúa Kitô không chỉ trao ban những gì Người có bằng quyền năng của Người mà Người còn trao ban chính cái Người là, tức chính bản thân, danh dự, phẩm vị, sự sống của Người.
Nhiều người nói rằng mình yêu thương khi sẵn sàng cho đi tiền bạc và cả thời giờ, nhưng lại không chịu được khi bị mất một chút danh dự hay uy quyền, chưa kể là chính mạng sống. Cho đi chút của tiền, quả là không dễ, vì đồng tiền dính liền khúc ruột, nhưng vẫn có thể cho đi cách này cách khác, lúc này lúc kia, và nhất là khi khúc ruột ấy là “khúc ruột thừa”. Cho đi ít thời giờ, cũng không mấy dễ, vì thời giờ là vàng bạc, nhưng vẫn có thể cho đi, nhất là những lúc rảnh rỗi, không biết làm gì. Còn cho đi cái phẩm vị, cái danh dự của mình, thì dường như là quá khó, vì đó chính là bản thân tôi. Thế nhưng, nếu không vượt qua cái khó này thì đừng nói chuyện yêu thương.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Dù nhiều người đã biết những cũng cần phải nói: Đây là lệnh truyền, là giới răn mới và cũng là một lời trối trăng của Thầy Chí Thánh. Để thực sự là môn đệ của Người, chúng ta không thể xao lãng hay tránh né nó (x. Ga 13,35). Xin đừng yêu nhau bằng môi miệng nhưng hãy can đảm vác thập giá hằng ngày để có sáng kiến, đi bước trước trong việc thực hiện điều tốt đẹp, tốt đẹp nhất cho người mình yêu thương và cho cả những người không yêu thương mình.
27. Chúa Nhật 6 Phục Sinh
(Viết theo Flor McCarthy)
Lần nọ, có một người thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, một ngày kia anh ta đến gặp một vị linh mục nổi tiếng là thánh thiện. Anh ta hỏi vị linh mục: “cha có tin vào Thiên Chúa không?”. Vị linh mục trả lời: “vâng, cha tin” Người thanh niên hỏi tiếp: “dựa vào bằng chứng nào mà cha tin là có Thiên Chúa.” Vị linh mục trả lời: “cha tin vào Thiên Chúa bởi vì cha biết Ngài, cha cảm nghiệm được Chúa hiện diện trong cha mỗi ngày”. Người thanh niên lại hỏi: “nhưng làm thế nào cha cảm nghiệm được Thiên Chúa.” Vị linh mục đáp: “khi chúng ta yêu thương, chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và sự nghi ngờ lập tức biến mất như sương của buổi sáng dưới ánh nắng mặt trời.
Người thanh niên suy nghĩ về điều này một chút, sau đó anh lại hỏi: “làm sao con có thể đạt được điều này?”. Vị linh mục trả lời: “bằng hành động yêu thương. Hãy cố gắng yêu người thân cận của bạn, yêu họ tích cực và không mệt mỏi. Khi bạn tập yêu thương họ càng nhiều thì sự cảm nghiệm của bạn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự bất tử của linh hồn càng sâu sắc. Đây mới là bằng chứng và con đường thật sự về sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Vị linh mục nhắc lại những lời của Thánh Gioan: “các con thân yêu, các con hãy yêu thương nhau, bởi vì tình yêu đến từ Thiên Chúa; ai yêu thương thì người đó sinh ra từ Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu là điều kiện đầu tiên để hiểu biết đúng đắng về cuộc sống và cảm nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa. Như cha Zosima đã nói trong quyển “anh em nhà Karamazov” của Dostoevsky: “các con hãy yêu thương tất cả những gì Thiên Chúa dựng nên, cả vũ trụ và những hạt bụi nhỏ bé trong đó. Nếu con yêu thương tất cả chúng, các con sẽ có được cái nhìn thiêng liêng về chúng. Van Gogh cũng nói tương tự như thế: “cách tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương mọi sự: yêu bạn bè, yêu vợ chồng…và bạn sẽ nhận biết Thiên Chúa cách đúng đắng.”
Tình yêu là vị thầy tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng nó không đến theo ý thích cá nhân ta… mà chúng ta phải trả bằng cái giá thật đắt. Tình yêu đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn nhiều năm để một con người có thể đến đỉnh điểm nào đó mà anh ta hoặc cô ta có thể yêu.
Có một khoảng cách, một sự khác biệt to lớn giữa biết Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Không yêu thì không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta yêu thương thì khoảng cách đó được rút ngắn lại. Yêu thương là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu thì có Thiên Chúa; nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó có tình yêu. Biết thì không cần phải chứng minh và cũng không cần phải giải thích.
Ghen ghét là một tật xấu, chính tật xấu này làm cho ta ghét mọi thứ. thật là cao quývà quảng đại khi con người yêu thương mọi thứ, thậm chí chỉ là một bụi hồng. “Chính bản thân cảm thấy hài lòng khi chỉ là một người giữ vườn âm thầm, nhỏ bé để yêu mến những gì mình vun trồng” (Von Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa phú bẩm một khả năng để yêu thương. Tuy nhiên, chúng ta cần phải để tình yêu nảy nở trong tim một cách đúng đắng, mô phỏng theo tình yêu của Chúa. Khi đó, chúng ta sẽ biết cho đi nhiều hơn. Nhưng tiếc thay, con tim thì thường hay lạnh lùng và thường hay đóng kín, trống rỗng và khô khan… Chúng không nên ngạt nhiên về điều này. Vì người ta quan niệm rằng chúng ta có một con tim bằng thịt chứ không phải bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương nơi con tim mình, để chúng ta có thể sản sinh nhiều hoa trái yêu thương.
Hình ảnh của Thiên Chúa trở nên tốt nhất và sáng tỏ trong mỗi người khi chúng ta biết yêu thương.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ một điều răn mới: “là hãy yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương”. Xin Chúa hãy chạm vào trái tim con để con có thể yêu thương như Chúa, để con luôn vui sống trong bình an và sự hiệp nhất trong Nước Trời nơi mà con sẽ sống mãi mãi. Amen.
28. Chỉ là một nhịp đập của tim.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn 15 của Phúc Âm thánh Gioan là “điệu nhạc chậm rãi” của một đại hòa tấu ca ngợi Đức Ái. Không phong phú về từ ngữ bằng Thánh thi ca ngợi Đức Ái của thánh Phaolô, đoạn Phúc Âm của thánh Gioan có những chuyển điệu tha thiết hơn, với những dấu nhạc, những âm thanh không thể nào quên được. Đoạn này trích trong diễn từ thứ hai của Chúa Giêsu ở bữa Tiệc ly, mà chúng ta đọc hôm nay, mở ra cho chúng ta tư tưởng thân mật của Chúa. Đề tài thực đơn sơ, đơn sơ như một nhịp đập của con tim, song nhịp đập đó đã làm sống cả thân thể. Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu tất cả mọi người trong Đức Giêsu Kitô. Loài người yêu Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Loài người phải yêu thương nhau trong Đức Giêsu Kitô. Giáo huấn đó được ban ra qua những khúc phục tấu nhịp nhàng, thanh thản, nhẫn nại và trìu mến với giọng điệu tâm sự:
1) Chúa muốn truyền đạt niềm vui của người cho các môn đệ. Ta nói điều đó để sự vui mừng của Ta ở trong các con và sự vui mừng của các con nên trọn. Niềm vui của Chúa Giêsu là niềm vui nào? Niềm vui đó hệ tại nơi việc Chúa tự biết mình là Con Thiên Chúa, là khả năng loan báo cho mọi người biết Tin Mừng ơn cứu độ; là mạc khải Thiên Chúa là Cha. Chúa Giêsu không phải là không biết cuộc Khổ nạn của mình đã gần kề, nhưng Người biết rằng, nhờ cuộc Khổ nạn ấy, Chúa cứu chuộc loài người. Người nghĩ đến sự Phục Sinh của Người và mầu nhiệm đời sống mới Người sẽ thiết lập trên trái đất. Chúa Giêsu sống trong bầu không khí thiêng liêng trong đó ngự trị niềm vui trọn vẹn: Người phó thác trong tay Chúa Cha, Người múc lấy nơi Thân Phụ lòng can đảm và niềm an ủi, linh hồn Nguơì mở rộng ra thành những lời cảm tạ và không khen. Đó là tất cả những gì Người muốn truyền đạt cho các môn đệ Người.
Người ta vui mừng, khi người ta cảm thấy trong toàn thân mình chiếm hữu được một của gì. Niềm vui ấy trọng vẹn, nếu người ta biết rõ ràng: của ấy quý giá và nếu người ta biết chắc chắn của ấy thuộc về mình vĩnh viễn. Vậy thì niềm vui ấy chính là niềm vui của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, Người có được của cải tuyệt đối, viên mãn, không nhuộm bóng lo âu. Của cải tuyệt đối là tình yêu của Chúa Cha. Người muốn mở lòng các môn đệ Người cho tình yêu âý. Nhờ đó, Người muốn đặt niềm vui của Người vào các môn đệ. Con người đón nhận niềm vui của Thiên Chúa, từ lúc mà họ ý thức là họ được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu, biết chắc chắn điều đó, và tự nhủ mình là được Thiên Chúa Cha yêu, đó là nguồn gốc của niềm vui lớn lao nhất.
2) Thày gọi chúng con là bạn hữu, vì Thày đã tỏ cho chúng con biết mọi điều Thày đã nghe nơi Cha Thày. Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc nhở cho các môn đệ Người, là họ là những tôi tớ, và hơn thế nữa là những tôi tớ không cần thiết. Nhưng Người đã chọn họ. Chính Thày đã chọn các con. Sự chọn lựa của Chúa Giêsu dành cho một người nào thì nâng người đó lên đến độ cao của những lý lẽ chứng minh cho sự chọn lựa ấy. Vậy những lý lẽ ấy là những lý lẽ nào? Điều cốt yếu là tỏ ra cho biết tình yêu của Thiên Chúa Cha. Tức khắc, họ không còn là những kẻ thừa hành mệnh lệnh mà họ chẳng hề hiểu ý nghĩa lẫn lý do. Họ là những sứ giả của tình yêu sống động và truyền cảm qua trái tim của Đức Kitô. Chúa Giêsu nâng các môn đệ Người lên đến độ cao của trái tim Người, và gọi họ là bạn hữu.
Bởi thế cho nên Người dẫn dắt họ vào tận chỗ thâm sâu của tư tưởng Nguơì. Người cho họ biết những gì Người đã học được từ nơi Cha Người. Sau này, công việc soi sáng và thêm sức nơi họ, sẽ do Chúa Thánh Thần hoàn tất. Nhưng ngay từ bữa Tiệc ly, họ đã là những kẻ tham gia và là chứng tá cho tình yêu cao cả, họ trở nên bạn hữu. Ngày nay Chúa có gọi chúng ta là bạn hữu không? Điều đó tuỳ thuộc chúng ta.
29. Như Thầy đã yêu – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”.
Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ. Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin: – Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Hoạ mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.
– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình
– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt cẩn thận trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị … Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Hoạ mi yêu người,đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.
Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.
Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài (x.Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban. Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài.
Đức Chân Phước Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Ngài mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy. (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”.Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được, nhưng không,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Ngài. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi, những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức ”như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Gioan khuyên rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu rồi tuôn chảy đến nhân loại. Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời:”Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” (R.Tagore)
Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống, được “ở lại trong tình yêu của Chúa”.
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?.
Vị tu sĩ đáp: có chứ.
Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?
Vị tu sĩ đáp: Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.
Người thanh niên hỏi: nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp: Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi:Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?.
Vị tu sĩ đáp: Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn.
Tin Mừng hôm nay, tiếp nối khung cảnh Tin Mừng Chúa nhật tuần trước. Chúa Giêsu tiếp tục giải thích về ẩn dụ cây nho và cành nho để dạy các môn đệ bài học “ở lại trong tình yêu của Chúa”: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Điều răn của Chúa là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, Muốn “ở lại trong tình yêu của Chúa”, chúng ta phải yêu thương nhau “như Chúa đã yêu” chúng ta.Chúa còn hứa ban cho những ai biết yêu “như Chúa đã yêu” sẽ được hưởng niềm vui của Chúa, được làm bạn hữu của Chúa và muốn xin gì Chúa cũng ban cho.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương ”như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy “ Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
30. Thiên Chúa là tình yêu – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Khởi đi từ định nghĩa củaThánh Gioan và dựa vào Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu của Đức Thánh Cha Bênêdictô 16, phải chăng Tin Mừng của Chúa Nhật 6 Phục Sinh cũng là đề tài về “Tình yêu”. Nhưng tình yêu thì có muôn vàn cách để hóa giải, Xuân Diệu cũng đã có lần bất chợt thốt lên rằng:
“Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”
Con người thì không thể, nhưng Thiên Chúa thì có thể, bởi vì Ngài chính là Nguồn của mọi tình yêu. Là con người, ai cũng cũng biết yêu thương,chỉ trừ ra những người không còn khả năng, không có lý trí, hay bị mất trí, bị tâm thần… thì không biết yêu là gì, còn tất cả, bao lâu tim còn đập là bấy lâu con người vẫn phải yêu: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Khi nói như vậy thì có quá lắm không, vì những anh em theo các tôn giáo khác hoặc không theo một tôn giáo nào, họ đâu đã biết Chúa, vậy họ không biết yêu? Không hẳn như vậy, tình yêu cũng như những cơn sóng cuồn cuộn trong đại dương bao la bất tận. Nó cũng như những thác nước ầm ầm vượt mọi chướng ngại vật đổ xuống. Tình yêu là trừu tượng, nhưng con người là cụ thể. Người Hy lạp dùng động từ”Eros” để diễn tả tình yêu. Còn Kitô Giáo thì dùng động từ” Agapê”. Ở giữa hai từ này còn có từ” Philia.
Eros là tình yêu vụ lợi, là một sự ham muốn, một tình cảm lôi cuốn của người khác khi nơi họ có điều gì đó hợp với mình. Eros là một khát vọng, một sự thèm muốn để chiếm đọat. Eros như những nấc thang giúp con người đi từ thế giới khả giác đến thế giới tâm linh. Đức Thánh Cha trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã sử dụng động từ Eros rất nhiều lần. Còn philia là tình yêu vô vị lợi, thường dùng để chỉ tình bạn, tình bạn này chỉ căn cứ ở sự hợp tính nhau, nó giới hạn trong một số người. Còn tình yêu của người Kitô Hữu, nó có sức mạnh và vượt lên trên thứ tình cảm của eros và Philia. Đó chính là AGAPÊ, Agapê là tình yêu vô vị lợi, tự do và dựa trên sự tín nhiệm, không căn cứ trên sự hợp tính nhau. Người kitô hữu thương mến nhau không chỉ là bạn hữu, nhưng còn là chi thể, là anh em trong Chúa Kitô. Tình yêu này phổ quát, vì mọi người là chi thể của Chúa Kitô. Như vậy phải có yếu tố mến Chúa như là lý lẽ tối hậu của lòng yêu người. Người Kitô Hữu nhìn thấy Chúa trong con người anh em. Vậy đối tượng của đức mến là Thiên Chúa và anh em là tạo vật của người. Agapê không nằm trong sự chiếm hữu mà là sự cho đi. Thiên Chúa là tình yêu cho đi một cách trọn vẹn nhất. Tình yêu Agapê xuất phát từ Thiên Chúa, nó không đòi hỏi một sự đáp đền, Agapê là tình yêu dâng hiến hòan tòan và trọn vẹn cho tha nhân, tình yêu vô vị lợi. Chính tình yêu này(Agapê) đã làm cho Đức Giêsu chịu chết trên thập tự Giá để mang lại ơn cứu độ cho con người: “không có tình yêu thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15, 13).
“Tình yêu chính là đặc thù của nhân bản con người”, ” Con người không thể thiếu tình yêu và con người được kêu gọi để trở nên những người có khả năng yêu”(Thông Điệp Thiên Chúa là tình yêu). Suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, triết gia KierKegaard viết:”Thiên Chúa là tình yêu, và tình yêu có tương quan đảo ngược với sự vĩ đại và cao cả của đối tượng. Kẻ bị bỏ rơi ở trần gian là người được Thiên Chúa yêu thương nhiều nhất.
31. Hãy ở lại trong tình thương của Thày
(Suy niệm của Antôn Hồ Hữu Thông, OP)
Trong cuộc sống không có gì tẻ nhạt và vô vị cho bằng thiếu tình yêu. Con người luôn khát mong và đi tìm cho mình một cuộc sống yêu thương, và dĩ nhiên không ai chối bỏ tình yêu. Tình yêu là sức hút, và là động lực giúp con người sống gần nhau và cho nhau.
Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã tạo dựng con người và tạo nên muôn loài muôn vật cho con người hưởng dùng. Và cũng vì yêu mà Thiên Chúa đã sai Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Trong mười giới răn của Chúa, thì hai giới răn: Mến Chúa và Yêu người là quan trọng nhất. Suốt chiều dài lịch sử cứu độ, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã chứng tỏ tình thương của Ngài đối với dân Do Thái bằng việc dưỡng nuôi và dẫn dắt họ vào miền đất hứa. Còn trong Tân Ước Ngài đã chịu khổ hình, chết trên thập giá, và lấy chính thịt máu mình để nuôi sống nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay, thánh Gio-an cho chúng ta thấy nỗi khát mong lớn nhất của Đức Giêsu khi sắp giã từ thế gian mà về cùng Thiên Chúa Cha là: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây là diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi lên Giêrusalem chịu khổ hình. Lời nhắn gởi thiết tha và chân tình nhất: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ phải làm được những công việc lớn lao, nhưng xin các con hãy thương yêu nhau. Mẫu gương yêu thương của Giêsu là lấy thân xác của mình để chứng minh cho tình yêu đó. “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Thánh Gioan còn kết luận rằng: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16).
Yêu là kéo dài hành động của Thiên Chúa. Thực thế, Chúa Giêsu là Đấng Thánh, Đấng đáng được chúc tụng và tôn vinh mà đã đến với kẻ cơ bần, cho người trần truồng có áo mặc, an ủi kẻ khổ đau, an táng người qua đời… Hành động của Giêsu đã khơi lên trong các bạn những tâm tình nào? Bạn có hành động gì trước những người khổ đau, nghèo đói, bệnh tật và ngay cả những tệ nạn xã hội…?
Chúng ta biết rằng yêu người khác thì khó hơn yêu mình. Thế nhưng, chúng ta không thể nói yêu mà không nhắm đến một đối tượng nào. Nhà thơ Xuân Diệu nói về một thứ tình yêu không đối tượng hay không hành động:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Nếu em yêu mà chỉ để trong lòng
Không tỏ hay, yêu mến cũng là không.
Như thế, yêu mà chỉ để trong lòng, không tỏ lộ ra ngoài thì tình yêu đó chưa đủ và có khi còn làm cho người khác đau lòng nữa là đàng khác. Nếu như thánh Phao lô đã nói: Đức tin không có việc làm là đức tin chết, thì chúng ta cũng có thể nói một tình yêu không có hành động là một tình yêu giả trá, vụ lợi và độc đoán.
Có một câu chuyện làm cho nhiều người phải xúc động, vì tinh thần cao thượng của một người dám chết thay cho bạn của mình: Sau cuộc chiến phân tranh Bắc Nam ở Hoa Kỳ, một du khách đến thăm nghĩa trang quân đội ở Nashville và gặp một người đang trồng hoa bên ngôi mộ. Du khách liền hỏi:
– Con ông an nghỉ tại đây à?
– Không.
– Hay là thân nhân của ông?
– Cũng không.
– Thế tại sao ông lại trồng hoa bên ngôi mộ này?
– Đây là ngôi mộ của “một người chết thay tôi”
Rồi ông kể: Khi chiến tranh xảy ra, tôi được lệnh phải nhập ngũ. Khi chuẩn bị xong đồ đạc, từ biệt vợ con để lên đường, thì một người bạn của tôi đến nói với tôi: “Gia đình anh đông con, và anh là lao động chính, nếu như anh đi thì e rằng vợ con anh sẽ không đủ khả năng mưu sinh, các con anh sẽ đói khổ và giả như anh có chết thì các con anh sẽ mất cha, đời chúng nó sẽ khổ. Thôi! Tôi sẽ đi thay cho anh, vì tôi chưa có gia đình”. Tôi rất xúc động và lưỡng lự, nhưng rồi tôi cũng đồng ý. Và trong một trận chiến, anh ta bị trọng thương và qua đời. Tôi rất đau xót và bàng hoàng khi có người dám hy sinh cho tôi. Tôi rất cảm phục tấm lòng cao cả đó. Hôm nay tôi đến viếng và trang hoàng lại nấm mộ cho bạn tôi. Nói xong, ông cắm một tấm bảng nhỏ với dòng chữ: Anh đã chết cho tôi.
Thưa cộng đoàn, đây thực là một cái chết vì bạn hữu của mình. Vì tình thương mà anh ta dám chết cho bạn của mình. Nếu như người bạn không có lòng yêu thương, không thấu cảm sự khốn khổ cùng cực của người vợ và những đứa con sẽ mất cha, chắc anh ta không đi thay để rồi phải bỏ mạng như thế.
Anh bạn trong câu chuyện không phải là một siêu nhân, nhưng là một con người bình thường, rất bình thường nhưng lại có một trái tim phi thường – thực là tình yêu mạnh hơn sự chết. Cho dầu anh đã chết, nhưng tình yêu của anh vẫn tồn tại và cái chết là lời chứng cho tình yêu cao thượng và bất biến.
Chỉ có tình yêu là dòng lưu chuyển, nối kết tình người và làm cho con người được bình an, hạnh phúc. Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi chẳng tiếc người Con duy nhất của mình. Chúa Giêsu không đòi buộc chúng ta phải làm như Ngài, nhưng chúng ta cũng có thể học nơi Ngài một bài học nho nhỏ: khi yêu thì cố gắng cho đi hơn là nhân lãnh, và có thể chết đi cho những tị hiềm ghét ghen, thù oán …
Chúng ta đang sống trong một thế giới đói khát tình thương, vì thiếu tình yêu mà người ta sẵn sàng khủng bố, chiến tranh, phân biệt chủng tộc, phá thai… Chúng ta phải làm gì với những vấn nạn này?
Thân phận con người được sinh ra bởi tình yêu – tình yêu giữa người cha và người mẹ. Thế nhưng, con người lại thường sống trong thù hận và giết chóc. Thực là một nghịch cảnh cho phận người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận thân phận yếu đuối, hữu hạn, tội lỗi, nhưng không được loại trừ tình yêu, vì một ngày vắng bóng tình yêu là con người sống trong đau khổ. Tình yêu có thể xoá bỏ mọi ranh giới, hận thù, chia rẽ và giúp chúng ta tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả (1 Cr 13,7). Chúng ta cần ý thức rằng: Điều còn lại và không bao giờ mất được chính là tình yêu. Và một khi sống cho tình yêu là chúng ta đã chu toàn luật Chúa: Mến Chúa yêu người là chu toàn lề luật.
Tình yêu cần cho mọi người, và chỉ có tình yêu mới làm thỏa mãn khát vọng sống yêu và được yêu của con người. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng nói: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thận phận thì hữu hạn, tình yêu thì vô hạn. Chúng ta phải làm sao nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu đó có thể cứu chuộc thân phận chúng ta trên cây thập giá đời”.
Kính thưa cộng đoàn, chúng ta cùng tin vào sự phục sinh của Đức Kitô, cùng lãnh nhận một Thần Khí và sự sống nơi Người, lẽ nào chúng ta lại hờ hững trước những khổ đau, bất công của anh chị em đồng loại. Và chúng ta có đáng để được Đức Kitô chết thay cho mình không? Thiên Chúa vì yêu phận người chúng ta, nên Ngài đã xoá bỏ mọi ranh giới giữa Thượng Đế với phàm nhân, giữa Cha với con, giữa chủ với tớ, giữa vì Thiên Chúa quyền năng với phận người hèn yếu, để cho con người được làm bạn với mình – Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu (Ga 15,15).
Cuối cùng vì yêu nhân loại, Ngài lấy chính thân thể Ngài để chứng minh cho tình bằng hữu đó. Thiên Chúa cho con người ngang hàng với mình, sẻ chia và cảm thông một cách sâu sắc. Những gì Chúa Giêsu nhận được từ nơi Thiên Chúa Cha, Ngài đều cho chúng ta biết, không còn là bí mật, cất giấu.
Chúng ta học được gì qua bài Tin Mừng hôm nay- phải chăng là một lời nói suông về tình yêu? Có lẽ Chúa Giêsu không buộc chúng ta phải chết cho người khác và chúng ta cũng không có cơ hội để chết thay cho ai đó. Nhưng, vẫn còn đó những tị hiềm ghen ghét để chúng ta thể hiện lòng nhân ái; vẫn còn đó những tranh chấp để chúng ta thể hiện lòng từ tâm; vẫn còn đó những oán thù để chúng ta thể hiện lòng quảng đại thứ tha; …
Thiên Chúa là tình yêu, nên vũ trụ được khai sinh,
Thiên Chúa là tình yêu, khi tạo dựng con người,
Thiên Chúa là tình yêu, bởi Ngài sống cho con người,
Thiên Chúa là tình yêu, nên đã chết cho nhân loại,
Thiên Chúa là tình yêu, nên con người được sống,
Thiên Chúa là tình yêu, nên bạn hãy học sống yêu thương.
Dù bạn có liệt kê hàng trăm ngàn thứ tình yêu nơi Thiên Chúa, thì Ngài cũng chỉ là: Thiên Chúa Tình Yêu (Ga 4, 8).
Thưa cộng đoàn, chúng ta không có dịp để chết thay như anh bạn trong câu chuyện trên, nhưng mỗi ngày chúng ta có thể “chết” một ít: Anh chị em có thể chết cho lòng vị kỷ, ghét ghen, thù oán… Những cái chết đó sẽ giúp anh chị em chuẩn bị cho cái chết của chính bản thân. Nguyện xin Đức Kitô là suối nguồn tình thương tưới đẫm trái tim héo khô và chai cứng của chúng con. Xin Ngài giúp chúng con nhận ra rằng: Lòng tốt được đáp đền bằng lòng tốt, tình yêu được đáp đền bằng tình yêu.
32. Phép lạ của tình yêu – Lm. Mark Link.
Chủ đề: “Tình yêu làm nên những phép lạ nơi những kẻ tin vào tình yêu và thực hiện tình yêu”
Cách đây mấy năm tập san Readers Digest có thuật lại một câu chuyện cảm động về một em bé trong bệnh viện Milwaukee. Em này bị mù, đần độn, lại còn bị liệt não nữa. Em chỉ khá hơn loài thảo mộc một chút là biết đáp ứng lại âm thanh và sự ve vuốt mà thôi. Cha mẹ em đã bỏ rơi em. Nhưng bệnh viện cũng chả biết xử lý thế nào với trường hợp của em. Thế rồi có một người nhớ đến May Lempke, bà y tá 52 tuổi sống gần đấy. Bà nầy đã từng nuôi nấng năm đứa con của chính mình, nên bà sẽ biết cách chăm sóc cho một đứa trẻ như thế. Họ yêu cầu bà chăm sóc đứa bé và bảo: “Thằng bé có lẽ sẽ chết yểu!”. Bà May trả lời: “Nếu tôi chăm sóc đứa bé, nó sẽ không chết yểu đâu, và tôi rất sung sướng được chăm sóc cho nó”.
Thế là bà May đặt tên cho cậu bé là Leslie. Chăm sóc cho cậu bé quả thật không dễ dàng chút nào. Ngày nào bà cũng phải xoa bóp toàn thân đứa bé, bà đã cầu nguyện cho nó, đã khóc vì nó, bà đã đặt đôi tay nó lên những giọt lệ của bà. Một hôm, có người nói với bà: “Tại sao bà không gởi đứa bé ấy vào viện? Nó chỉ làm phí cuộc đời của bà thôi?
Leslie càng lớn thì càng có nhiều vấn đề phải đặt ra cho bà May. Bà phải giữ nó chặt vào một chiếc ghế để nó khỏi bị té xuống. Thời gian trôi qua, năm mười, mười lăm năm. Mãi đến khi Leslie 16 tuổi, bà May mới có thể tập cho nó đứng một mình được. Suốt thời gian đó, bà May vẫn tiếp tục yêu thương và cầu nguyện cho cậu bé. Ngoài ra bà còn kể cho cậu bé nghe những mẩu chuyện về Chúa Giêsu dù xem ra cậu chẳng nghe được tiếng bà.
Thế rồi một ngày nọ, bà May chợt nhận thấy Leslie dùng ngón tay của mình búng vào một sợi dây căng thẳng trên một gói đồ. Bà tự hỏi; điều ấy có ý nghĩa gì? biết đâu Leslie lại nhạy cảm với âm nhạc chăng? Và bà May bắt đầu cho Leslie nghe âm nhạc. Bà chơi đủ loại hình âm nhạc mà bà tưởng tượng ra được với hy vọng có một loại nào đó có thể lôi cuốn cậu bé. Cuối cùng, bà May và chồng mua được một chiếc dương cầm cũ kỹ. Họ đặt nó vào giường ngủ của Lislie. Bà May cầm những ngón tay của Leslie đặt vào tay bà và tập cho cậu bé biết cách nhấn phím xuống, nhưng xem ra cậu ta chả hiểu.
Thế rồi vào một đêm đông năm 1971, bà May bừng thức giấc vì nghe có tiếng đờn của ai đó đang chơi bản hoà tấu dương cầm số 1 của Tchaikovsky. Bà lay lay chồng đánh thức ông dậy, và hỏi xem ông có quên tắt radio không. Ông ta nói rằng không, nhưng họ quyết định tốt hơn là nên xem xét lại. Và họ khám phá ra một điều vượt khỏi mọi giấc mơ kỳ quái nhất của họ. Cậu Leslie đang ngồi tại chiếc dương cầm. Cậu đang mỉm cười và chơi đàn một cách ngẫu hứng không thể nào tin được đây là sự thật!
Trước đây Leslie chưa bao giờ bước ra khỏi giường một mình. Trước đây cậu bé chưa bao giờ tự mình ngồi vào chiếc dương cầm được, cậu cũng chưa bao giờ tự dùng tay ấn được vào phím đàn. Thế mà bây giờ đây cậu lại đang chơi đàn tuyệt vời như thế! Bà May vội quì gối xuống và thốt lên: “Lạy Chúa! Con xin cảm tạ Ngài, Ngài đã không bỏ quên Leslie”.
Chẳng bao lâu, Leslie bắt đầu kiếm sống bằng cây dương cầm. Cậu chơi được nhạc cổ điển, nhạc đồng quê miền tây, nhạc trữ tình, nhạc dạo và cả nhạc Rock nữa. Hoàn toàn không thể nào tin nổi. Tất cả những bài nhạc bà May đã từng chơi cho cậu nghe đều tồn trữ trong óc cậu và giờ đây tuôn trào ra trên phím dương cầm qua đôi tay cậu. Giờ đây ở tuổi 28, Leslie bắt đầu nói chuyện. Tuy không thể đối thoại lâu giờ. Nhưng cậu có thể đặt câu hỏi, trả lời những câu đơn giản và phát biểu được những lời phê bình ngắn gọn. Chẳng hạn, một buổi tối kia, đang xem một vở hài kịch trên truyền hình, cậu cảm thấy cuộc đối thoại chán ngắt, cậu bèn nói:
“Tốt hơn là chúng ta nên tắt nó đi, cả bọn chỉ toàn là lũ điên!”.
Dạo này, Leslie chơi nhạc hoà tấu cho những ca đoàn nhà thờ, cho các cơ quan dân sự, cho các nạn nhân liệt não và cha mẹ họ, cậu còn xuất hiện cả trên đài truyền hình quốc gia nữa! Các bác sĩ mô tả Leslie như là một người thông thái bị mắc một loại tâm bệnh, nghĩa là một người chậm phát triển về trí tuệ do tổn thất nơi não nhưng lại cực kỳ tài năng. Họ không thể cắt nghĩa được hiện tượng dị thường này cho dù họ biết về nó gần 200 năm rồi. Bà May Lempke cũng không thể cắt nghĩa được điều ấy nhưng bà biết chắc rằng nhờ tình yêu mà tài năng ấy được khai mở.
Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần câu chuyện của bà May Lempke với những gì bà đã làm được cho Leslie nhờ tình thương không mệt mỏi của bà. Nó đặc biệt thích hợp với chúng ta ngày nay vì ba lý do;
Thứ nhất, bằng một cốt chuyện gây cảm động, câu chuyện cụ thể hoá sứ điệp hàm chứa trong các bài đọc hôm nay, được gọi là giáo huấn của Đức Giêsu về việc yêu thương nhau.
Thứ hai, nó đã cụ thể hoá thành một cốt chuyện lý do tại sao chúng ta lại dành ngày hôm nay để làm Ngày Cho Mẹ, bởi vì, thông thừơng, các bà mẹ sống lời Đức Giêsu dạy về tình thương một cách kiên nhẫn và trung thành hơn bất cứ nhóm người nào khác.
Sau cùng, câu chuyện cũng cụ thể hoá năng lực kinh khủng của tình yêu. Những gì mà bà May đã làm vì tình yêu cho Leslie qủa thật là lạ lùng. Đó chính là những gì Đức Giêsu đòi hỏi phải có cho một tình yêu thương đích thực. Đó là một phương cách để tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại này, đúng như cách Đức Giêsu đã tạo nên những phép lạ trong đời sống của những người thuộc thời đại Ngài.
Qua tình yêu, Thiên Chúa đã để chúng ta tùy nghi sử dụng cái năng lực mãnh liệt nhất, trên thế gian này, đó là thứ năng lực mà mọi tiền của trên thế gian không thể mua được. Đó là thứ năng lực mà mọi tri thức trên thế gian không thể tạo ra được. Đó là thứ năng lực mà mọi lãnh tụ trên thế giới không thể chiếm hữu được. Đó cũng là thứ năng lực mà mọi đạo quân trên trần thế không thể tập trung lại được. Và kiều kỳ diệu hơn nữa, Tình yêu là năng lực mà mọi người đều có.
Bất chấp nam hay nữ
Bất kể thuộc tôn giáo nào
Bất kể thuộc quốc tịch nào
Bất kể được giáo dục theo phương pháp nào.
Tình yêu chẳng dành riêng cho người khoẻ mạnh
Cũng chẳng dành riêng cho người giàu có
Cũng chẳng dành riêng cho kẻ khôn ngoan
Cũng chẳng dành riêng cho người danh giá.
Tình yêu dành cho tất cả mọi người
Tình yêu làm cho tất cả chúng ta bình đẳng
trước mặt Thiên Chúa và bình đẳng đối với nhau.
Đây chính là Tin Mừng chứa đựng trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay. Đây là Tin Mừng có khả năng biến đổi thế giới chúng ta một cách tuyệt hảo chẳng khác nào tình yêu của bà May Lempke đã biến đổi thế giới của Leslie. Đây chính là Tin Mừng mà chúng ta phải rao to từ trên mái nhà và sống nó thật trọn vẹn.
Và nếu chúng ta là được thế, chúng ta cũng có thể làm được những phép lạ bằng tình yêu của chúng ta ngay trong kiếp sống này y như Đức Giêsu đã làm nên những phép lạ nhờ vào tình yêu của Ngài trong thời gian Ngài sống trên dương thế.
33. Giây leo – Lm. Vũ Đình Tường
Những ai làm vườn đều có kinh nghiệm bực bội, tức tối khi phải phá giây leo. Để leo lên cao giây leo cuốn chặt vào cây trong vườn, cuốn tròn nhiều vòng để leo lên. Mỗi một vòng lên cao một bực và khi đạt đến ngọn cây chúng mau chóng toả lan ra nhiều nhánh bao trùm cây và từ cây này ngọn giây leo vươn dài bám sang cây khác. Cứ thế mau chóng lan ra. Giây leo không những tạo gánh nặng cho cây chúng còn che lấp ánh nắng cần thiết khiến cây chậm lớn và là chỗ mát tốt cho sâu rầy sinh sản mau chóng. Tệ hơn nữa giây leo còn gieo mầm bệnh cho cây chúng leo và dĩ nhiên hút phân bón, và chất dinh dưỡng của cây. Đức Kitô dùng hình ảnh giây leo để nói đến tình yêu liên kết trong Chúa và nhờ tình yêu đó thanh tẩy làm trong sáng cuộc sống tâm linh.
Liên kết trong tình yêu là điều Đức Kitô mời gọi chúng ta sống. Liên kết để được ở cùng, sống chung và nhận sức sống từ Đức Kitô. Một khi chúng ta sống dưới sự che chở của Đức Kitô cuộc đời ta sẽ thay đổi. Thay đổi vì mối liên kết phát sinh trong tình yêu Chúa. Mối liên kết vô hình cho những ai không tin vào Đức Kitô. Qua đức tin ta cảm nhận đuợc mối liên kết vô hình và nhận biết thành quả do tình yêu Chúa trao ban. Tương tự như giây leo làm thay hình đổi dạng của cây, tình yêu Chúa có sức mạnh thay đổi cuộc sống con người. Biến ta thành con người có tâm tư như Đức Kitô, sống và suy nghĩ theo sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi thói hư xã hội. Thói hư kìm chế cuộc sống. Nó làm ta mất tự do bằng cách ta bị lệ thuộc vào chúng. Sống lệ thuộc là sống trong nô lệ, nô lệ của sa đoạ, của ham muốn, nô lệ của hận thù. Những thói tật kia khuyến dụ ta bằng hào nhoáng bề ngoài và những phút vui chơi ngắn hạn. Sống theo hào nhoáng đòi hỏi chạy đua với hào nhoáng. Chạy hoài sẽ hết giờ cho tình bạn, tình yêu gia đình và tình yêu Chúa. Chạy hoài sẽ mệt mỏi và thua cuộc. Thua cuộc nên bực dọc, cáu kỉnh, chán đời. Thua cuộc nên cảm thấy đời trống rỗng, vô vị, cuộc sống trở nên vô nghĩa. Tình yêu Chúa giải thoát ta khỏi cám dỗ lệ thuộc. Tình yêu Chúa ban phát tự do cho tâm hồn. Tình yêu Chúa cởi trói cho con tim khỏi ràng buộc xã hội và ban bình an cho con tim. Tình yêu Chúa giúp ta sống an vui, hạnh phúc thật. Tình yêu Chúa thanh tẩy lối suy nghĩ và hành động. Tình yêu Chúa nâng cao phẩm giá con người, biến ta thành con cái sự sáng, trở nên thân hữu của Đức Kitô.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa …. nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu. (c.15)
Bạn bè đối thoại với nhau bằng nhiều cách. Họ chia sẻ với nhau tình cảm, tâm tư và ngay cả mối lo trong cuộc sống. Họ an ủi nhau khi có người sầu khổ, và chung vui khi có niềm vui. Tương tự như thế Đức Kitô gọi chúng ta là bạn hữu Ngài cũng đối xử với chúng ta như những người bạn đối xử với nhau. Liên kết với Đức Kitô qua cầu nguyện hàng ngày, qua việc siêng lãnh nhận các bí tích. Liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được thông cảm, an ủi, nâng đỡ, cùng đồng hành với Đức Kitô trong mọi tình huống cuộc sống. Nếu chẳng may có người thân ra đi chúng ta than khóc. Thiên Chúa hiểu ta hơn cả bởi chính Thiên Chúa cũng có kinh nghiệm mất con một Ngài là Đức Kitô. Đức Kitô ra đi ở tuổi thanh niên, ra đi một cách đau đớn nên Chúa hiểu nỗi mất mát của ta khi phải chia lìa người thân.
Liên kết với tình yêu Chúa giúp đổi mới tâm hồn. Đổi mới bằng cách xén tỉa, làm cho cuộc sống tâm linh ngày một trong sáng, gần Chúa hơn. Chính việc đổi mới, trong sáng tâm hồn giúp cho niềm vui trở nên dồi dào, trọn vẹn. Niềm vui mà hào hoáng xã hội không thể nào có vì niềm vui này phát xuất tự tâm hồn, như giòng suối trong không ngừng chảy vì nó lấy sức sống, sức mạnh và niềm vui từ nguồn yêu vô tận từ trái tim Đức Kitô. Một trái tim dám chết cho người mình yêu.
34. Đi lạc – Lm. Vũ Đình Tường
Không phải chỉ có con người mới đi lạc mà con vật cũng đôi khi lạc đường, sai lối. Điểm khác biệt là con vật lạc đường vì nhận sai phương hướng, lầm lẫn trong lối đi. Trong khi con người lạc đường không phải lầm lẫn phương hướng mà chủ trương đi lạc. Con đường đi lạc là con đường người đó đi lại hàng ngày, mỗi ngày đi lại cùng con đường, mòn mỏi trên con đường. Dù đi lại nhiều lần vẫn lạc bởi vì người đó chủ trương đi lạc. Dù có đi lại ngàn lần mỗi lần đi tăng thêm một lần lạc. Con vật lạc đường tránh không đi lại con đường đó nữa
Đó là câu chuyện con chim cánh cụt tại vùng nam cực. Nó chưa đầy một tuổi, người ta phỏng chừng nó mới mười tháng tuổi, trên đường đi săn mồi về đã lạc đường bơi theo giòng nước nhiều ngàn cây số trước khi trôi dạt vào bờ biển Tân Tây Lan. Báo chí đặt cho nó cái tên là đôi chân hạnh phúc. Đối với con người thì quả là hạnh phúc, lần đầu trên đời nhìn thấy nó mà không phải tốn công, mất của đến nam cực, giá buốt để xem nó. Hạnh phúc vì đời người may mắn lắm mới gặp một lần bởi vì cách đây 44 năm cũng có con chim cánh cụt bơi lạc vào Tân Tây Lan. Đối với sự sống, tồn vong thì con chim cánh cụt quả có đôi chân hạnh phúc. Nhờ đôi chân đó mà nó sống sót. Mới 10 tháng tuổi nó đã cao 80cm. Trung bình chim cánh cụt nam cực cao 122cm và năng khoảng 34kg.
Nghĩa tương phản, đôi chân cánh cụt là đôi chân bất hạnh, dẫn đưa nó xa đàn, rời tổ. Hạnh phúc có chăng là nó sống sót, đôi chân mỏi mệt kia dẫn đưa nó đến bến bờ, dù là bến bờ ngoài í muốn nhưng nó sống sót trên đường đi, không bị cá mập xơi tái trong cuộc hành trình.
Chim cánh cụt thường ăn tuyết để cơ thể đủ nước, giữ mức độ thân nhiệt cân bằng với nhiệt độ nam cực. Lần đầu trên đời nó nhìn thấy cát lại lầm là tuyết nên nó xơi một bụng cát. Kết quả cơ thể không tiêu hoá được phải nhờ đến bác sĩ thú i rửa ruột.
Con người đi lạc gia đình đau buồn, hàng xóm láng giềng lo sợ và Giáo Hội đau khổ. Con người đi lạc không bao giờ chấp nhận mình đi lạc. Trái lại còn tự hào, tự nhận mình tiến bộ, hiểu biết hơn người, sống lối sống mới. Mới ở đây không có nghĩa là tốt mà chọn lựa đi lạc lại hãnh diện mình làm đúng, tài khôn. Giáo Hội luôn tìm cách an ủi, giúp đỡ, tạo cơ hội cho người đó trở về.
Con chim đi lạc được người ta ca tụng, người đến xem kẻ viết bài tường thuật. Hình ảnh con chim đi lạc đăng tải đủ kiểu, lớn nhỏ, chụp thẳng, chụp nghiêng, chụp người coi sóc chim, phỏng vấn người đầu tiên nhìn thấy con chim lạc. Mọi chi tiết được diễn tả rõ ràng mạch lạc. Nhóm bảo vệ súc vật sẵn sàng lên tiếng bênh vực con vật đi lạc. Ca tụng con vật đi lạc đã đành họ còn vận động yêu cầu chính phủ chi tiền cho một chuyến máy bay riêng chở con chim về tổ ấm cũ.
Đối với con vật đi lạc là thế, nó là con vật vô danh, đi lạc trở thành con vật hữu danh, danh tiếng lẫy lừng. Nổi tiếng cỡ nào đi chăng nữa thì con vật cũng không hưởng gì, không ích gì. Điều nó thích nhất, sung sướng nhất là hãy trả nó về đời sống hoang dã, nơi nó sinh ra, nơi nó ngày ngày bơi tìm mò cá, nhặt tôm. Được chăm sóc chu đáo trái lối sống tự nhiên của nó nên nó không thích. Nó không thích tiếng cũng chẳng thích miếng, nếu miếng đó không do chính công lao của nó, do cánh cụt cộng với đôi chân vẫy bơi trong nước, do chính mỏ nó bắt được con mồi. Danh tiếng đối với nó bằng thừa.
Cá nhân đi lạc người thân lo lắng, họ hàng tiếc thương. Báo chí không lên tiếng lấy một câu, truyền hình không cho lấy một tấm ảnh. Nếu báo chí có nhắc đến một là qua đời cách mờ ám, hai là kết quả của những lỗi lầm khai ra trước toà. Khác với con vật, con vật đi lạc thường ít gây tai vạ cho con người cho xã hội. Con người đi lạc thường tạo ra những tệ đoan xã hội. Lạc càng nhiều mức tàn phá xã hội càng lớn. Lạc càng sâu đặm thì mức phá hoại gây ra càng khủng khiếp. Trong tất cả các loại lạc thì loại lạc tư tưởng là nghiêm trọng hơn cả. Nhất là khi kẻ lạc đó lại ở thế lãnh đạo, chỉ huy thì mức độ tàn phá không phải do một người mà do một phe nhóm, một đảng phái. Khi một đảng phái cùng nhau hợp lực tàn phá thì mức huỷ hoại khủng khiếp tăng nhiều ngàn lần. Số người thiệt mạng vô số kể, tài sản quốc gia hao mòn, thất thoát, tương lai dân tộc lụn bại xuống dốc theo sự hướng dẫn sai lạc của nhóm chủ trương.
Về phương diện tâm linh, lạc giáo, lạc đạo sẽ dẫn đến tình trạng một là li khai khỏi tôn giáo mình có thời tin theo để lập một tôn giáo mới có cùng căn bản của tôn giáo cũ nhưng giải thích trại đi. Hai là hoàn toàn chống lại tôn giáo có thời đã tin theo. Cách nào thì lạc giáo cũng tạo nên chia rẽ, ngăn cách, bài xích tôn giáo cũ.
35. Lưới tình – Lm. Vũ Đình Tường
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật luôn đến từ Thiên Chúa. Gọi là tình yêu chân thật vì tình yêu đó dẫn ta đến sự thật, nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.
Tình yêu chân thật bất biến với thời gian. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào tình Chúa yêu ta cũng sáng chói như mặt trời. Tinh ròng như nắng sớm, đẹp như hoa chớm nở và chan hoà yêu thương.
Tình Chúa vĩ đại, cao vời, vô bờ bến, tình Chúa khơi dậy trong ta:
– Tình thương người đồng loại.
– Quí trọng sự sống con người.
– Quí trọng đức công bằng.
– Yêu quí và thực thi đức ái.
– Mau mắn nhận sai trái, lỗi lầm.
– Hay thứ tha.
– Giầu lòng xót thương.
Tình yêu Chúa giúp ta nhận ra hình ảnh Chúa Kitô trong người anh chị em mình. Bất kể họ mang mầu sắc gì, tôn giáo nào, người hay thai nhi, già hay trẻ, giầu hay nghèo, nam hay nữ, sang hay hèn, tự do hay tù tội, mạnh khoẻ hay yếu liệt họ đều là con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Dù họ không chọn Ngài nhưng Đức Kitô chọn họ làm bạn. Họ chưa thuộc đàn chiên nên Ngài đi tìm kiếm.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về (Ga 10,16)
Chúa sai tôi đi
Tình Chúa yêu ta thể hiện qua tình người. Thiên Chúa thi ân, giáng phúc cho nhân loại bằng cách cho phép ta cộng tác vào công trình của Ngài. Nhờ thế mà tình người được nâng cao và thánh hiến.
Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sanh nhiều hoa trái (Ga 15,5)
Chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em, để anh em ra đi,
Sinh được hoa trái,
và hoa trái của anh em tồn tại (Ga 15,16)
Sai đến người đau khổ; đỡ dậy người vấp ngã, sánh vai người tàn tật, an ủi kẻ cô đơn, viếng thăm người bệnh tật, cho kẻ đói ăn, dóng lên tiếng kêu gọi giao hoà và thứ tha. Điều này thể hiện lòng thương xót vô bờ Chúa dành cho nhân loại, qua bàn tay yêu thương trìu mến của con cái Chúa. Các việc lành thánh, công trình từ thiện diễn tả một Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Sống đời sống xót thương là môn đệ chân chính của Chúa.
Tình người
Bên cạnh tình Chúa có tình người. Tình người tốt lành khi tình người được thánh hoá, hướng dẫn bởi Lời Chúa và ân sủng Ngài.
Lời Chúa thanh tẩy tình người
Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em (Ga 15, 3)
Nhờ tình người được thanh tẩy mà nhân loại tránh được muôn đại hoạ phát sinh do lòng ích kỉ.
Chối bỏ ơn Chúa, con người không làm được việc gì tốt. Vì phán đoán, quyết định hướng dẫn bởi kiêu ngạo và lợi nhuận.
Người ta nhân danh tình người hành hạ, làm khổ nhau. Vì lợi nhuận mà dân tộc này xâm chiến dân tộc nọ. Vì lợi nhuận mà quân viễn chinh đi không bao giờ trở lại. Vì lợi nhuận mà bao gia đình tan nát. Vì kiêu ngạo dân tộc này tự nhận văn minh hơn dân tộc nọ. Chủ thuyết này tìm cách triệt tiêu chủ thuyết kia. Lối sống này đòi lãnh đạo lối sống nọ. Nguồn gốc chiến tranh bắt nguồn từ lòng người. Không vì lợi nhuận thì cũng sanh bởi kiêu ngạo hoặc do ích kỉ mà ra. Chối bỏ ơn Chúa, cá nhân tự chuốc hoạ cho gia đình, lãnh đạo chuốc hoạ cho dân tộc.
Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được. (Ga 15,5)
Lưới tình
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra các loại tình khác đến từ con người. Sản phẩm con người sáng chế ra thường bất toàn. Tình yêu con người mặc cho cũng bất toàn nên kết quả của các cuộc tình đó cũng bất toàn. Tệ nhất là quái thai tình yêu. Quái thai tình yêu do gian tà, đội lốt và giả tạo sanh ra. Mặt ngoài là tình yêu. Vỏ trông giống tình yêu nhưng sau lớp son tô, phấn điểm là gian tà, ngụy biện và lạm dụng.
Là quái thai thời đại nên phải che đậy bằng mỹ từ, đánh bóng, tuyên truyền, tẩy não. Ai phanh phui sự thật bị liệt vào tội phản bội. Phản bội bị khai trừ. Bắt người khác yêu như họ yêu, nói như họ nói, nhận xét như họ nhận xét.
Trung thành với tình người hay phản bội tình người cả hai đều đau khổ. Kẻ phản bội sống phận hèn tôi tớ, trọn kiếp đoạ đầy. Nặng thì đầy rừng thiêng nước độc, nhẹ ở nhà sống ngày đói, đêm khát. Trung thành góp phần làm băng hoại xã hội. Vì cơm, áo, tư lợi, người dối người, lừa gạt, bỏ tù người. Vật chất trọng hơn tình người. Miệng lưỡi để lừa gạt. Kêu gọi đấu tranh, khích lệ hy sinh, hiến thân cho lí tưởng lường gạt.
Ngoài tình yêu Thiên Chúa ra không có mối tình nào tuyệt hảo.
36. Điều răn của Thầy – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Nếu Chúa Nhật trước chúng ta đã suy niệm tầm quan trọng của việc ‘ở lại trong Thầy… ở lại trong tình thương của Thầy’, thì câu hỏi được đặt ra hôm nay lại là, làm cách nào để ‘ở lại trong Thầy’ cho thật hữu hiệu? Vấn nạn này đã được chính Đức Giêsu giải đáp và xem ra thật đơn giản và dễ hiểu: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”. Tuy nhiên câu giải đáp xem ra đơn giản tới độ không cần phải giải thích đó thật ra lại chẳng dễ hiểu chút nào bao lâu chúng ta chưa xác định được, ‘các điều răn của Thầy’ là điều răn nào?
Trong chương 14 và 15, Phúc âm Gio-an lặp đi lặp lại không dưới bảy lần về ‘điều răn hay lệnh truyền’ của Đức Giêsu (14,15.21.25; 15,10a.10b.11.12.17). Cho tới nay ta hầu như vẫn thường được nghe giải thích một cách dễ dãi: thì ‘điều răn của Chúa’ đương nhiên phải là mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh! Tuy nhiên cách giải thích này xem ra không ổn cho lắm, vì căn cứ theo mạch văn của đoạn Tin Mừng Thánh Gioan thì Đức Giêsu hình như đang đề cập tới một thứ điều răn nào đó có một nội dung rất khác với thập giới của Cựu Ước hay sáu điều Hội Thánh qui định sau này. Điều răn này dứt khoát có tầm quan trọng vô đối vì là điều kiện thiết yếu để gắn kết, trước hết là Đức Giêsu với Cha của Người, đồng thời cũng là để mọi môn đệ có thể ở lại được trong tình thương của Thầy mình; “… Anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”. Nếu vậy, ta cần tìm hiểu cụ thể điều răn đó có nội dung gì mới được?
Thú thực cho tới giờ này tôi vẫn chưa tìm được câu giải thích thỏa đáng cho một chi tiết rất nhỏ: tại sao khi đề cập tới điều răn cách chung chung (14:15.21; 15:10a.10b.11) tác giả Gio-an luôn sử dụng số nhiều ‘các điều răn’, nhưng khi nói cụ thể thì chỉ là một duy nhất ‘Đây là điều răn của Thầy… Điều Thầy truyền dạy anh em là…’ (15,12.17)? Phải chăng, đối với các môn đệ có truyền thống Do Thái, giới răn nói chung (thập giới) luôn là số nhiều (trừ khi nói về từng giới luật một)? Ngay cả khi phải tóm gọn các giới răn đó lại, Đức Giêsu vẫn còn xác định hai điều căn bản: mến Chúa và yêu người (Mt 22,36-40). Nhiều tác giả cho rằng: Đức Giêsu sử dụng từ ‘các giới răn’ đồng nghĩa với ‘các lời’ Thầy nói với anh em’ (14,23). Tuy nhiên khi phải xác định rõ nội dung ‘các giới răn của Thầy’ là gì, thì Người lại chỉ khảng định có một điều duy nhất mà thôi: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (câu 12)… Điều thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.” Vậy tại sao trong hoàn cảnh này lại chỉ là một mà không phải là hai?
Nếu Cựu Ước coi việc ‘ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’ là quan trọng hơn hết, thì ‘điều răn của Thầy’ lại không hề đề cập tới điều này. Theo suy nghĩ của riêng tôi thì Đức Giêsu nắm rất rõ bản tính con người: yêu mến hết lòng là điều hầu như không ai có thể làm được; yêu mến phải do Thiên Chúa tình yêu chủ động. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” Điều Người yêu cầu mỗi Ki-tô hữu làm lại mang tính thụ động hơn, “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. Nhận biết Thiên Chúa yêu thương mình là tất cả đối với niềm tin của mọi tín hữu. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”, ngay Đức Giêsu khi nói về tình yêu Người dành cho nhân loại cũng đã khảng định nguồn gốc của nó nằm ở đâu. Do đó ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ chính là điều bất cứ tín hữu nào cũng phải làm và có thể làm, đặc biệt những người yếu hèn và tội lỗi. ‘Ở lại’ này không đòi phải cảm thấy mình có cháy lửa yêu mến Chúa hay không, hoặc ‘cháy’ tới mức độ nào; ‘ở lại’ chỉ để giữ cho được điều răn duy nhất là ‘yêu thương nhau’. Đúng vậy, ta chỉ có thể ‘yêu thương nhau’ nếu nắm bắt được ‘ Thầy đã yêu thương’ ta như thế nào. Xem ra ‘yêu thương nhau’ chính là thước đo mức độ chúng ta ‘ở trong tình thương của Thầy’, đồng thời đó cũng có thể là thứ hoa trái mà Chúa muốn chúng ta sinh nhiều và tồn tại mãi, phát xuất từ việc ‘ở lại trong tình thương’ đó?
À, thì ra thế! Lúc đầu khi mới đọc cuốn sách ‘Be My Light’ viết về Mẹ Tê-rê-xa Can-cut-ta – nhân vật mà không ai ngờ đã trải qua gần 50 năm sống trong tăm tối thiêng liêng trong tình trạng hầu như mất đức tin, vậy mà Mẹ vẫn lao mình vào các việc bác ái không mỏi mệt, tôi cho là quá nghịch lý. Sự thật hiện ra tỏ tường trước mắt khi tôi biết rằng, đơn giản là Mẹ đã liên tục ‘ở lại trong tình thương của Thầy’. Và nếu hoa trái nơi Mẹ chưa phải là ‘yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’, thì nó đã là ‘yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương’… Đó chính là ‘điều răn’ duy nhất của Thầy mà Mẹ đã nắm giữ, ‘để Mẹ ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của Mẹ tồn tại’.
Tôi cũng phải như vậy thôi! Đứng có quá lo lắng phải yêu mến Chúa như thế nào, mà giản đơn là ở lại trong tình thương mến của Thầy, là cảm nghiệm thấy Thầy yêu mến và tự hiến cho con người thấp hèn như mình, là Thầy đã chết cho mình tội lỗi… và rồi cố diễn đạt sự ở lại đó qua việc thương mến và phục vụ tha nhân. Thật là đơn giản, phải không các bạn?!
Ôi, lạy Thầy Giêsu từ nhân, ‘điều răn của Thầy’ thật quá đơn giản. Chính bản thân con cũng đã từng nghiệm thấy ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn’ là khó quá, ít ai đạt được. Thực ra Thầy chỉ tha thiết đòi con ‘ở lại trong tình thương của Thầy’, kể cả khi con yếu đuối tội lỗi nhất. Con xin Thầy cho con sớm đạt được hoa trái ‘yêu thương nhau’, nhờ liên tục trầm mình trong tình yêu ‘như Thầy đã yêu’. Amen.
37. Niềm tâm sự của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc)
Lệnh truyền của Chúa Giêsu là một lời tâm sự của người yêu nói với người yêu, đó là: “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Lệnh truyền này không mang tính nghiêm khắc nhưng là trao ban, là chia sẻ hạnh phúc của tình yêu. Chúa Giêsu đã nâng các tông đồ lên ngang tầm với mình, Ngài nói: “Thầy không gọi các con là tôi tớ, Thầy gọi các con là bạn hữu”. Từ hàng tôi tớ trở nên bạn hữu là sự cách nhau một trời một vực. Người tôi tớ không được phép biết việc chủ làm; người tôi tớ chỉ biết hầu hạ. Ngược lại, bạn hữu là người chia sẻ, là người đồng hành. Nhưng từ tôi tớ lên bạn hữu, con người đâu có thể thực hiện được, nếu không phải là chính Thiên Chúa nâng con người lên. Vậy lý do nào để Chúa Giêsu kết luận điều này? Ngài giải thích: “Vì tất cả những gì Cha Ta nói với Ta, Ta cũng tỏ cho các con biết” (Ga 15, 15). Chúa Giêsu đã không dấu điều gì. Đó là tiếng nói của người yêu để trao cho các tông đồ và qua các tông đồ tiếng nói của Chúa Giêsu đến với toàn thể Hội Thánh, đến với toàn thế giới về một sứ điệp Tình yêu dành cho tất cả mọi người, rằng: “Thiên Chúa yêu thương con người và yêu đến tận cùng”.
Tại sao lại gọi là “Yêu đến tận cùng”? Vì lời mời gọi của Chúa Giêsu đã nêu rõ “Các con hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Ở lại trong tình yêu của Thầy có nghĩa là Chúa Giêsu gìn giữ, Chúa Giêsu thánh hóa. Chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thầy, cũng đồng nghĩa với việc chúng ta nên bạn hữu với Thầy. Trò lại được gọi là bạn hữu. Tất cả những điều này là đặc tính của tình yêu. Tình yêu đích thực không tính toán, luôn đi bước trước, quảng đại cho đi và chấp nhận tất cả. Chúa Giêsu đã không đòi một điều kiện nào, ngoại trừ một yếu tố duy nhất là “Các con hãy giữ lệnh truyền của Thầy”(Ga 15,10). Và lệnh truyền của Thầy rất ngắn gọn, đầy đủ mà không ra ngoài tình yêu. “Điều Thầy truyền là các con hãy yêu thương nhau”(Ga 15,17).
Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa mà còn trao cho chúng ta một mẫu gương để chúng ta “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”(Ga 15,12). Với một tiêu chuẩn và cách thức trên, Đức Giêsu đã tự hạ mình xuống để trao ban cho con người những gì là cao cả nhất của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu. Thế nên, trao ban cho con người là Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng với Ngài. Chúng ta không hiểu theo nghĩa tuyệt đối việc Chúa Giêsu đã dùng ngôn ngữ của loài người để diễn tả. Gọi là bạn hữu, có nghĩa là nâng lên ngang hàng, để đồng hưởng một tình yêu như Đức Giêsu là đầu nói với thân mình, hay như Đức Giêsu là chồng nói với Hội Thánh là hiền thê. Vậy còn gì nữa mà Ngài không cho chúng ta giá trị của một tình yêu đích thực? Còn gì nữa để chúng ta dám đòi hỏi? Cho nên, Đức Giêsu đưa ra lệnh truyền hôm nay không phải là một mệnh lệnh nghiêm khắc nhưng chúng ta khẳng định lại một lần nữa, đó là một niềm tâm sự.
Một niềm tâm sự của một người đã cho người mình yêu đến tận cùng. Đây cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám hiến mạng vì người mình yêu”(Ga 15,13). Đức Giêsu đã cho đến tận cùng. Cho Máu, cho Nước từ Trái Tim Ngài chảy ra; cho quyền năng của Thiên Chúa hạ cố đến viếng thăm con người. Cho tình yêu đích thực của Thiên Chúa đến với một tình yêu bất trung, bội phản và hay thay đổi của con người. Cho hạnh phúc vĩnh cửu đi vào trong thế giới của con người. Một hạnh phúc của con người nay còn, mai mất nay lại được đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu đời đời. Chẳng lẽ, chúng ta không thấy tất cả những điều ấy là một huyền nhiệm sao? Chúng ta không thấy đó là một đặc tính đích thật của tình yêu, trao ban, hiến thân hay sao? Vì vậy, chúng ta không còn gì để nói, không còn gì để đòi hỏi mà chỉ còn lãnh nhận với lòng biết ơn. Và lòng biết ơn đó là gì? Là hãy sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Hoa trái ấy không phải là tự chúng ta làm được nhưng là hoa trái mà Chúa sẽ ban cho, chúng ta đừng để hư mất. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn tiên liệu trước cho chúng ta trong những gì vượt quá khả năng của con người, Ngài căn dặn: “Những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con”(Ga 15, 16). Vì vậy, hãy lấy danh Đức Giêsu Kitô để xin và Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta.
Điều mà Chúa Giêsu tâm sự: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” và “ở lại trong tình yêu của Thầy”, chính là để bảo vệ và nâng đỡ. Thế nên chúng ta được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Với tất cả điều này, người Ki tô hữu hôm nay không còn gì phải phàn nàn, không còn gì phải lo âu hay sợ hãi. Họ được từng bước mời gọi, họ được từng bước trao ban. Chúng ta hãy cố gắng mỗi ngày, không phụ tình yêu thương của Chúa:
– Hãy biến những trìu tượng thành thực tế;
– Hãy hiện thực hóa khái niệm về một tình yêu cao vời và siêu nhiên;
– Hãy thực hành trong chính những người thân yêu của gia đình, những người bé mọn trong xã hội để chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa đã được thể hiện trong đời sống của mỗi người chúng ta;
– Hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa bằng việc chúng ta đối xử với nhau theo gương của Đức Giêsu Kitô đã yêu và đã ban trao.
Một lần nữa, Chúa lại cho chúng ta một đơn vị, một mô hình thực tế nhất và dễ dàng nhất để chúng ta thực hiện mỗi ngày, đó là YÊU THƯƠNG NHAU. Với tiêu chí đó, chúng ta sẽ không thiếu bất kỳ một cơ hội nào, chúng ta không thiếu một giây phút nào, vì lúc nào chúng ta cũng có thể yêu thương nhau. Và đó cũng sẽ là những nét đặc trưng để chúng ta đáp lại tình yêu cao vời và nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúng con chỉ còn biết im lặng, để tôn thờ và yêu mến Chúa. Vì Chúa đã dùng tất cả quyền năng và thượng trí, để trao cho chúng con một tình yêu lớn lao.
Xin cho chúng con biết thực hành trong đời sống mỗi ngày, với Chúa và với nhau, để chúng con không phụ tình yêu thương muôn đời của Chúa, để cho mỗi người chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa đến muôn đời.
Xin cho mỗi người chúng con khi được lời Chúa hứa, là được bảo đảm cho sự sống đời đời. Và trong tình yêu ấy, chúng con cũng sẽ hy vọng được gặp lại nhau như Chúa đã yêu chúng con và chúng con được ở lại trong tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
38. Mến Chúa và yêu người.
Chúa Giêsu đã quan niệm về hạnh phúc như thế nào? Theo tôi nghĩ Ngài đã quan niệm hạnh phúc như là sự hòa hợp của mối tương quan ba chiều: Thiên Chúa, bản thân và tha nhân.
Trong toán học, hễ có ba điểm trong không gian thì người ta có thể vẽ được một vòng tròn cố định. Cái vòng tròn hay tình trạng viên mãn của hạnh phúc cũng phải được hình thành từ mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau. Chẳng hạn trong đời sống gia đình, hạnh phúc hệ tại mối tương quan hòa hợp giữa cha mẹ và con cái, cũng như giữa con cái với nhau. Thực vậy, con cái không thể nào hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với cha mẹ mà không hòa hợp với anh chị em. Hay trái lại, không thể hạnh phúc nếu chỉ hòa thuận với nhau mà không hòa hợp với cha mẹ.
Điểm mới lạ Chúa Giêsu đem đến chính là khẳng định tính cách ngang bằng và bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân, hay nói đúng hơn chỉ có một tình yêu liên kết con người với Thiên Chúa và liên kết con người với con người. Cũng như hai mặt của một đồng tiền. Nếu nó rách bên này thì cũng rách bên kia, không thể có sự nguyên vẹn của mặt này nếu mặt kia không có hay đã nhàu nát.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán: Điều răn thứ nhất đó là kính mến Chúa hết lòng. Còn điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, đó là hãy yêu mến tha nhân như chính bản thân mình. Và chúng ta thấy, cây thập giá là biểu tượng cho sự gắn bó và hòa hợp giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân: chiều dọc biểu tượng cho mối tương quan đối với Thiên Chúa, còn chiều ngang biểu tượng cho mối tương giao giữa người với người. Không có thanh dọc, thì thanh ngang chỉ có thể nằm dưới đất, không thể nâng cao được. Trái lại nếu thiếu thanh ngang thì cây thập giá chỉ còn là một cái cọc chơ vơ. Không có tình yêu Thiên Chúa thì tình yêu con người khó có thể được nâng cao và không thể đạt tới viên mãn, nhưng nếu không có tình yêu con người thì tình yêu Thiên Chúa cũng không thể đến với con người, bởi vì chẳng ai thấy được Thiên Chúa bao giờ.
Vì thế, tình yêu của Ngài đối với chúng ta đã được biểu lộ qua trung gian của tình yêu huynh đệ giữa chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa luôn kết hợp với chúng ta và tình yêu của Ngài mới đạt tới mức hoàn hảo nơi chúng ta. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, mang một khuôn mặt của con người, sống hoàn toàn như một con người trần thế, ở giữa mọi người và hơn thế nữa, còn hạ mình sống thân phận một kẻ nô lệ để có thể phục vụ và chết cho mọi người. Ngài đã lấy chính cái chết trên thập giá để mạc khải trọn vẹn chân tính của mình là Thiên Chúa hằng hữu. Sự hy sinh dâng hiến ấy, đối với Ngài, chính là nguồn vui, an bình và vinh quang. Con người chỉ có thể đạt tới hạnh phúc khi thể hiện lòng kính mến Thiên Chúa qua tình yêu thương đối với tha nhân, với một ý thức rằng cho một kẻ bé mọn một chén cơm, một manh áo, một ly nước là phục vụ cho chính Chúa. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tha nhân cũng như hạnh phúc của tha nhân tùy thuộc vào chính chúng ta.
39. Yêu thương
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc giòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc giòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa nghỉ, cắn răn chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hành khách ở cái sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giê-su nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau nhu Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dạy yêu thương, tôn giáo nào cũng dạy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Mô-sê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giê-su xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận vì việc gì…Dù lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người: giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giê-su dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
40. Những ai thánh thiện? – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (1Ga 4,7).
Thuật ngữ Do Thái qodesh trong cựu ước nói về sự thánh thiện. Thuật ngữ Hy Lạp hagiasmos trong tân ước cũng mang chở ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai hạn từ này theo nguyên ngữ có nghĩa là “Sự tách biệt”. Sự thánh thiện nói lên việc tách chia giữa trong sạch và nhơ uế. Nhưng trên hết, hạn từ này diễn tả ý niệm về Thiên Chúa một cách sâu xa. “Ai trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa? Ai sánh được như Ngài, Đấng rạng ngời thánh thiện? (Xh 15,11)” Trong khi Đức Chúa Giavê và Đấng Thánh độc nhất, dân Israel có thể thông dự vào sự thánh thiện của Ngài bằng việc tuân giữ lề luật. Dân Chúa vẫn được xem là một dân tộc ưu tuyển, một dân tư tế, một chủng tộc thánh thiện, tách biệt khỏi các dân khác (Xh 19,6). Chính Đức Chúa cũng đã truyền lệnh “Các ngươi phải thánh thiện, vì ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, ta là Đấng Thánh” (Lv 19,2).
Việc chia tách sự tinh sạch ra khỏi nhơ uế là một chủ đề xuyên suốt được nhắc đến rất nhiều trong các sách Tin mừng và cả sách Tông Đồ công vụ. Ý niệm về sự nhơ uế phản ánh quan niệm xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đồng thời cũng gợi lên những thách đố mà giáo hội sơ khai phải đấu tranh khi tiếp nhận những tân tòng không phải gốc Do Thái. Theo quan niệm Do Thái cổ xưa, một người bị cho là nhơ uế hay phàm tục, không được phép vào đền thờ để cầu nguyện, không được tham dự các sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng ngay tại các hội đường ở địa phương. Để được tham dự các sinh hoạt đó, họ phải tuân thủ những luật lệ về sự tinh sạch. Những người phong hủi, những người thu thuế, đĩ điếm, những người bị thần ô uế ám, và ngay cả những dân ngoại, đều bị coi là nhơ uế. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Ngài thách thức chống lại não trạng hủ lậu đó, và lột bỏ nhãn hiệu “Bị nhơ uế” ra khỏi những con người nói ở trên, nhất là nơi những người Samari. Đối với Ngài, luật về sự nhiễm uế khi được thực hành cách máy móc và cứng nhắc sẽ trở nên vô nghĩa hoàn toàn. Trong khi người Do Thái rất coi trọng luật này, Đức Giêsu hoàn toàn không để tâm đến một chút nào.
Thánh Thần, quà tặng của Đức Kitô Phục sinh, đã tuôn đổ ơn sủng trên các dân ngoại, là những người mà dân Do Thái vẫn xem là nhơ uế. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe kể lại câu chuyện Phêrô được sai tới nhà ông Cornêliô, một người ngoại giáo. Trong bài diễn từ, Phêrô đã công bố “ Qủa thật, tôi thấy Thiên Chúa không thiên vị một ai. Nơi mọi dân tộc, những ai kính sợ Thiên Chúa, và sống ngay lành, đều được Ngài đón nhận”. Khi Thánh Phêrô đang nói, Thần khí Chúa đã xức dầu cho những người ngoại giáo trong căn nhà của ông Cornêliô. Những người đi tháp tùng Thánh Phêrô đều ngạc nhiên, bởi vì “quà tặng Thánh thần được tuôn đổ xuống cho cả những người ngoại giáo nữa (Cv 10,45).”
Rõ ràng, quan niệm xưa cũ về sự tinh sạch đã bị phá đổ hoàn toàn. Thế nhưng còn quan niệm về sự thánh thiện thì sao? Có phải đây là một ý niệm hoàn toàn mới thay thế cho lề thói cũ đã bị Chúa Giêsu loại bỏ hoàn toàn hay không? Chúng ta hãy từ từ tìm hiểu xem.
Các bài đọc trong phụng vụ hôm nay đều diễn bày một chỉ lệnh sâu xa: “Hãy trở nên Thánh”. Huấn lệnh này cũng định dạng lại mô thức về sự thánh thiện. Thánh Phêrô trình bày cho chúng ta một khởi dẫn để bắt đầu. Ngài nhìn nhận Cornêliô và cả gia đình ông đều là những người rất đạo đức. Sách Tông đồ công vụ thuật lại rằng ông rất kính sợ Thiên Chúa, và quảng đại cứu trợ. Vì thế, ông đã được Chúa nhìn đến (Cv 10,4). Cũng vậy trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan tông đồ đã chuyền tải cho chúng ta một sứ điệp trọng yếu, trở thành khung căn bản định hình sự thánh thiện: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,7-9).”
Đây là một vòng tròn khép kín mang chiều kích linh thánh. Thiên Chúa yêu mến chúng ta trước. Điều đó biến chúng ta trở nên thánh, và giúp chúng ta cũng biết yêu thương như chính Ngài đã yêu. Đi vào quỹ đạo tình yêu, chúng ta vươn đạt đến quy chuẩn duy nhất về sự thánh thiện. Một khi chúng ta đón nhận một quà tặng, chúng ta sống sung mãn quà tặng đó, và tiếp nối, chúng ta lại trở nên quà tặng tình yêu ban trao cho người khác. Tình yêu Thiên Chúa làm cho chúng ta thông dự vào đời sống linh thánh của Ngài. Đồng thời, tình yêu như một dòng chảy bất tận, khiến tâm hồn chúng ta không thể đóng khép, nhưng luôn mở rộng để thông chia tình yêu cho người khác.
Tình yêu và sự thánh thiện đều là quà tặng mà Thiên Chúa hiến trao cách nhưng không cho mọi người. Ngài trao ban cho tất cả không loại trừ ai. Chúng ta đã thấy rõ ràng điều ấy nơi Cornêliô. Chúng ta cũng thấy quà tặng đó hiện lộ nơi những tâm hồn kết hiệp sâu xa với Chúa, có thể ẩn kín bên trong hay bộc lộ cụ thể ra bên ngoài. Đúng như Thánh Phêrô đã quả quyết “Thiên Chúa không thiên vị ai bao giờ”.
41. Yêu thương anh em.
Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Ai trong chúng ta cũng đã biết: con người đầu đội trời, chân đạp đất. Vì thế, sống trong cuộc đời, chúng ta có hai loại bổn phận phải chu toàn. Bổn phận hàng dọc và bổn phận hàng ngang. Bổn phận đi lên và bổn phận đi xuống. Bổn phận đối với trời và bổn phận đối với đất. Hay nói một cách cụ thể hơn đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với anh em.
Chính Chúa Giêsu đã xác quyết điều ấy:
– Giới răn thứ nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi điều Kinh Thánh truyền dạy.
Thế nhưng, chúng ta có cảm tưởng là dường như Chúa Giêsu đặt nặng vấn đề thương người, hơn cả mến Chúa, bởi vì như lời Ngài đã phán:
– Khi các ngươi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với các ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy tới mà dâng của lễ sau.
Sở dĩ như thế cũng là điều dễ hiểu bởi vì Thiên Chúa là tình yêu, tất cả mọi thứ tình yêu chân thật của chúng ta đều bắt nguồn từ Thiên Chúa, để rồi cuối cùng sẽ lại qui hướng về Ngài. Hơn nữa, chính tình yêu đối với anh em là dấu chỉ chắc chắn nhất để xác quyết về lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa như Ngài bảo:
– Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Hay như thánh Gioan cũng đã xác quyết:
– Ai nói rằng mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em thì người đó là một kẻ nói dối. Bởi vì anh em là những người sống bên cạnh mình mà chẳng yêu thương thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa là Đấng chẳng hề thấy bao giờ.
Thế nhưng, chúng ta phải đối xử với anh em như thế nào? Đâu là cái tiêu chuẩn để hướng dẫn chúng ta trong phạm vi này?
Truyền thống của người Do Thái có một câu chuyện kể lại như sau:
Ngày kia một người tìm đến với thầy Samai, thuộc phái giải thích luật một cách nghiêm khắc và cho biết mình có ý định tìm kiếm chân lý. Ông hỏi:
– Thầy có thể dạy tôi tóm lược tất cả các lề luật trong thời gian tôi đứng trên một chân. Vì tôi không thể ở lại Giêrusalem lâu được.
Nghe nói thế, thầy Samai nổi giận và truyền đuổi ông ra khỏi nhà mình. Không mất niềm hy vọng, ông ta tìm đến với thầy Gillen, một người vừa thông thái, vừa cởi mở lại vừa phóng khoáng. Có kẻ cho rằng Gillen chính là người mà Chúa Giêsu khi lưu lại trong đền thờ ba ngày vào năm lên 12 tuổi, đã chất vấn ông về lề luật.
Trước cùng một câu hỏi được đưa ra, thầy Gillen đã trả lời ngay không cần phải suy nghĩ:
– Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Đó là cái cốt lõi của lề luật. Tất cả những thứ khác, chỉ là để giải thích cho giới luật này mà thôi. Anh hãy đi và suy nghĩ chín chắn về điều tôi vừa nói.
Phải chăng đó chính là bước đầu tiên để chu toàn giới luật:
– Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.
Đừng làm cho người khác điều anh không muốn họ làm cho anh. Tuy mang tính cách thụ động và tiêu cực, nhưng nếu tuân giữ cho trọn vẹn, thì chúng ta còn phải thực hành rất nhiều điều tích cực, chẳng hạn như không nói xấu, không ganh tỵ, không trộm cắp và hàng lô những cái không khác nữa, nhờ đó cuộc sống sẽ được an vui và bản thân sẽ được hạnh phúc. Nhất là nhờ đó chúng ta sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Đức Kitô.
42. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Nhấn mạnh thêm về cuộc sống yêu thương
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bấy lâu nay, chúng ta cứ tưởng mình đã biết Thiên Chúa. Nhưng trong Thánh lễ này, thánh Gioan khuyến cáo chúng ta rằng “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa”. Thánh Gioan còn nói “Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra”. Hóa ra bấy lâu này chúng ta chưa thực sự là con cái Thiên Chúa.
Chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương để từ nay xứng đáng là con cái của Ngài.
II. Gợi ý sám hối
– Xin Chúa tha thứ những việc làm, lời nói và ý tưởng của chúng ta nghịch lại với đức yêu thương.
– Xin Chúa tha thứ vì tình thương của chúng ta còn quá giới hạn và ích kỷ, chưa biết yêu “như Chúa đã yêu”.
– Xin Chúa tha thứ vì chúng ta chưa dám hy sinh vì những người mình yêu.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cv 10, 25-26. 34-35. 44-48)
Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đánh dấu một bước ngoặc rất quan trọng trong cuộc sống của Giáo Hội.
– Do thái giáo xưa nay coi ơn cứu rỗi là độc quyền của dân do thái, cho nên không bao giờ chấp nhận cho một người dân ngoại làm tín hữu chính thức. Cùng lắm, nhưng người “ngoại” ấy chỉ được làm “kẻ kính sợ Chúa” mà thôi.
– Cornêliô là một người ngoại. Còn Phêrô đang là lãnh đạo của Giáo Hội. Việc Phêrô rửa tội cho Cornêliô đã mở toang cánh cửa Giáo Hội để từ nay bất cứ người nào cũng có thể gia nhập Giáo Hội.
Bước ngoặc quan trọng này do Chúa Thánh Thần thúc đẩy (chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích Phêrô đến nhà ông Cornêliô) và Chúa Thánh Thần chuẩn nhận (Khi Phêrô đang nói thì Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang có mặt trong nhà ông Cornêliô).
2. Đáp ca (Tv 97)
Lời Tv rất thích hợp để diễn tả tâm tình hân hoan sau sự kiện Phêrô rửa tội cho gia đình ông Cornêliô: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công… Chúa đã mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân… Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
3. Tin Mừng (Ga 15, 9-17)
Tiếp tục dụ ngôn Cây nho và cành nho.
Đức Giêsu dạy: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy”.
Lòng “Yêu mến nhau” mà Đức Giêsu muốn các môn đệ mình có phải vươn tới những mức độ sau đây:
+ “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con”
+ “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”
4. Bài đọc II (1 Ga 4, 7-10)
Câu quan trọng nhất trong đoạn thư này là câu định nghĩa “Thiên Chúa là Tình yêu”. Từ đó sinh ra những hệ luận:
+ Chúng ta hãy yêu thương nhau.
+ Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. “Đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa Trời”
Trong dãy núi Alps ở Thuỵ Sĩ có một ngôi làng, và trong làng có một nhà thờ nhỏ. Mặc dù nhà thờ này chẳng có một tác phẩm nghệ thuật nào cả nhưng lại được dân làng quý mến một cách hết sức đặc biệt. Câu chuyện sau đây sẽ cho biết lý do.
Có hai anh em cùng canh tác mảnh vườn của gia đình và chia lợi tức đồng đều cho nhau. Người anh đã có gia đình, người em còn độc thân. Năm đó thời tiết khắc nghiệt nên thu hoạch rất kém. Một hôm, người em tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì độc thân, còn anh mình thì còn phải lo cho gia đình”. Thế là mỗi đêm người em vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người anh. Trong lúc đó, người anh cũng tự nhủ: “Nếu chia đều phần thu hoạch thì không công bình, vì mình thì đã có gia đình đỡ đần, còn em mình thì độc thân không ai giúp đỡ”. Thế là mỗi đêm người anh vào kho nhà mình lấy một bao lúa, đi ngang qua miếng ruộng giữa hai nhà và mang đến bỏ vào kho của người em. Đêm nào hai anh em cũng làm như thế. Nhưng lạ thay ai cũng thấy kho lúa nhà mình chẳng vơi đi tí nào cả. Một đêm kia, hai anh em gặp nhau giữa miếng ruộng. Họ cảm động quá, vất bao lúa xuống đất và ôm nhau khóc. Thình lình, một tiếng từ trời vọng xuống: “Tại đây Ta sẽ xây nhà thờ của Ta, vì nơi nào người ta thương yêu nhau thì Ta sẽ ngự ở đó”. Thế là có một ngôi nhà thờ mọc lên tại nơi đó.
* 2. Thiên Chúa là tình yêu
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo đức và hỏi:
– Ngài có tin Thiên Chúa không?
– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế?
– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
– Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều Thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”
Thực vậy, Tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì bực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu. (Viết theo Flor McCarthy).
* 3. Yêu thương và tôn trọng
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều Bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại Bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm doạ sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có 3 chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
+ Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
+ Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bạn bè thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
+ Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Có những người mà tự nhiên ta cảm thấy xa cách, khó ưa và không thể nào yêu thương được. Chẳng hạn như trong chế độ buôn bán nô lệ, rất khó có được tình yêu thương giữa một người da trắng tự do và một người da đen nô lệ. Những người da trắng thời đó coi những người nô lệ da đen như một con vật biết nói, bắt họ phải làm việc cho mình, đánh đập họ, khi chán họ thì bán cho người khác, khi tức giận thì còn có thể giết họ bỏ. Thời đó người da trắng không thể nào yêu thương người da đen. Tại sao? Vì họ khinh miệt người da đen, nói khác đi, họ không tôn trọng người da đen. Như Bác Tôm là một người da đen, bác rất tốt, bác làm việc giỏi, bác lại có lòng đạo đức. Thế nhưng những đức tính ấy không khơi lên lòng tôn trọng và do đó lòng yêu thương của tên lái buôn nọ. Ngược lại, bác càng tốt càng giỏi chừng nào thì hắn càng muốn bắt Bác đi làm món hàng mua bán chừng nấy, vì chính những đức tính ấy càng làm cho bác thành một món hàng cao giá. Còn đối với ông Senbi, tuy là một chủ da trắng nhưng lại yêu thương bác Tôm là một người nô lệ da đen, tại sao? Vì ông Senbi biết đánh giá đúng những đức tính của Bác. Ông không Tôm bằng thằng, bằng mày, mà gọi bằng Bác. Ông không coi Tôm là tôi mọi nhưng coi như người nhà. Đối lại Tôm cũng rất thương ông Senbi. Người ta đã xúi bác Tôm trốn đi trước khi bị tên lái buôn bắt đi bán. Nhưng Bác đã từ chối “Nếu ông chủ buộc lòng phải bán tôi để khỏi phải bán tất cả những người khác và để khỏi phải phá sản thì thôi cũng được”. Tóm lại, người da trắng và người da đen này thương nhau vì hai người đã biết rõ tấm lòng của nhau, vì họ tôn trọng nhau.
Trong truyện “Túp lều Bác Tôm”, ta thấy hai điều: thứ nhất, tên lái buôn da trắng không thể nào yêu thương được người nô lệ da đen là vì không có lòng tôn trọng người ấy; thứ hai, giữa bác Tôm và ông chủ da trắng có tình thương yêu nhau là vì họ tôn trọng nhau. Như vậy, tôn trọng phá tan mọi hàng rào ngăn cách để cho người ta đến gần nhau và tình yêu thương nhau. Hơn nữa, tôn trọng còn là cái nền tảng vững chắc giúp cho tình yêu của những người đã yêu thương nhau lại càng bền vững hơn.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
+ Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta,. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
+ Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo Lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
* 4. Vài suy nghĩ vụn vặt về tình yêu
a. “Yêu thương”, “Tình gia đình”, “Huynh đệ”, “Chia xẻ”, “Hiệp thông” v. v. là những từ ngữ được nói quá nhiều nhưng nhiều khi chỉ là sáo ngữ, rỗng tuếch, ngôn hành tương phản. Chính con cũng rất nhiều lần nói như thế. Từ nay con muốn nói những chữ ấy một cách thật lòng, nhất là nói với những người cùng niềm, cùng lý tưởng với con.
b. Yêu thương, nếu chỉ là một cảm giác dễ chịu thì chưa phải là tình yêu thật. Tình yêu thật là phải cho đi, phải hy sinh. Cho đi càng nhiều, hy sinh càng lớn thì tình yêu càng đúng nghĩa. Bởi thế Đức Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”
c. “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Câu Tin Mừng này khiến tôi liên tưởng tới một câu chuyện tôi đã đọc hồi còn nhỏ, tựa đề “Anh phải sống”: hai vợ chồng nghèo đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trời giông bão, họ bị nước cuốn trôi. Chỉ có một khúc cây đủ sức cho một người bám. Người chồng bảo vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo các con”. Người vợ cũng bảo chồng “Anh phải sống”. Cuối cùng người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
* 5. Ở lại trong tình thương
Đức Giêsu bảo: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.
+ Chữ “ở lại” mà Đức Giêsu dùng khiến tôi hình dung tình thương của Chúa như một mái nhà. Mái nhà tình thương này luôn có chỗ cho tôi. Chúa bảo tôi hãy ở trong đó mãi, đừng bỏ nhà ra đi. Nghĩa là Chúa luôn thương tôi, chỉ có tôi là có khi không ở trong tình thương đó.
+ Ở trong mái nhà tình thương của Chúa, khi tôi đói thì được ăn, khi khát thì được uống, khi mệt mỏi thì có thể nghỉ ngơi, khi bệnh tật thì được chăm sóc, khi buồn phiền thì có người an ủi…
+ Chúa khuyên tôi ở lại vì Ngài biết tôi có thể bỏ đi. Tôi bỏ đi khi tôi không còn coi đó là nhà mình nữa, tôi tìm một chỗ khác mà tôi nghĩ là nhà mình; Tôi bỏ đi khi tôi tưởng là trong nhà đó người ta không thương tôi nữa do tôi đã lầm lỡ thế nào đó.
+ Nhưng khi Chúa bảo tôi “hãy ở lại” nghĩa là Ngài khẳng định rằng dù tôi thế nào đi nữa thì tôi vẫn được Ngài thương yêu, và không chỗ nào khác ở ngoài là nhà thực sự của tôi.
* 6. Như Thầy đã yêu (Ga 15,9-17)
Báo Tuổi Trẻ số ra ngày 16-9-1999 đã đưa tin: “10.645 người nghèo đã khỏi mù”. Theo Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo TP. HCM từ đầu năm 1999 đến nay các đoàn phẫu thuật ghép thủy tinh thể nhân tạo của thành phố và các quận huyện đã đem lại ánh sáng cho 10.645 người nghèo bị mù (đạt 88% kế hoạch 1999). Trong tháng 8-1999 đã có 108 lượt tổ chức cá nhân trong và ngoài nước đóng góp hơn 2 tỷ đồng ủng hộ quỉ hội (tăng 205% so với tháng 7-1999). Hội cũng đã tài trợ cho Bệnh viện Nhi Đồng 2 trên 79, 5 triệu đồng giúp phẫu thuật cho 21 trẻ em không có hậu môn bẩm sinh, và giúp Trung Tâm Răng Hàm Mặt phẫu thuật cho 178 trẻ em bị sứt môi, hở hàm ếch tại Bình Định.
***
Hầu như đọc bất cứ tờ báo nào, chúng ta cũng thấy nhan nhản các tổ chức, cá nhân đầy lòng quảng đại từ tâm. Những tâm hồn biết chăm lo cho người nghèo đói, bất hạnh. Những con tim tràn đầy yêu thương dã cùng nhịp đập với Thầy Giêsu. Những tấm lòng mau mắn đáp lại tiếng mời gọi tha thiết của Người: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12).
Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể để bày tỏ tình yêu của Ngôi Cha dành cho con người, thì mối liên hệ giữa Thiên Chúa và nhân loại hoàn toàn thay đổi: Không còn là Tạo hóa và thụ tạo, không còn là Thượng đế và phàm nhân, không còn là Chủ ông và tôi tớ, nhưng chính là “Bạn hữu thân tình”.
Tình yêu đã khiến Thiên Chúa hạ mình xuống với con người, cảm thông và chia sẻ với thân phận thụ tạo: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga. 15, 15). Tình yêu đó đã đến chỗ tuyệt đỉnh, đến nỗi thánh Gioan viết: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga. 13, 1). Yêu thương đến cùng có nghĩa là yêu cho đến chết, và chết trên thập giá. Thánh Bênađô dạy: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.
Nguồn tình yêu ấy phát xuất từ Cha xuống Con, và không dừng lại như nước ao tù, nhưng luân chuyển đến mọi trái tim con người trên toàn thế giới. Nếu tình yêu đã liên kết chúng ta với Chúa, thì cũng chính tình yêu ấy sẽ liên kết cha lại với nhau: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga. 15, 12), vẫn biết rằng, con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “Như Thầy đã yêu”. Nhưng lời mời này vẫn giục giã chúng ta hướng lên mãi theo đường Thầy đã đi.
Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Ánh Sáng Rạng Ngời Chân Lý, số 20 viết: “Chữ “như” này đòi hỏi phải bắt chước Đức Giêsu, tình yêu của Người, mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể# Chữ “như” cũng chỉ mức độ mà Đức Giêsu đã yêu thương các môn đệ của mình, và các môn đệ của người cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy.
Thế giới ngày nay khao khát tình yêu đích thực. Người tín hữu Kitô phải là nhân chứng của tình yêu ấy. Chúng ta không có dịp để chết cho tha nhân như Đức Kitô, nhưng chúng ta có rất nhiều dịp để sống cho tha nhân. Sống cho tha nhân là chết cho chính mình. Chết trong những hy sinh âm thầm hằng ngày. Chết không đổ máu, nhưng đổ mồ hôi và nước mắt. Chết không chỉ một lần, nhưng chết dần chết mòn cho hạnh phúc của tha nhân, Kahil Gibran viết: “Bạn cho đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi”.
***
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con rất nhiều, nhưng chúng con đáp lại chẳng được bao nhiêu. Chúa đã đặt tha nhân bên cạnh chúng con, để chúng con có thể làm cho họ điều mà chúng con không thể làm cho Chúa. Xin cho chúng con nhận ra khuôn mặt Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, dấu chỉ chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là tuân giữ giới răn yêu thương mà Người đã trối lại. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện sau đây:
1. Sứ mệnh Hội thánh là phải trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa giữa lòng thế giới / Xin cho mỗi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức và thực thi sứ mệnh ấy cho những người chung quanh mình.
2. Sứ mệnh của các nhà cầm quyền trong xã hội là phục vụ công ích cho mọi người / Xin cho các nhà cầm quyền khắp nơi / biết dẹp bỏ tư lợi của bản thân và của bè phái mình / để phục vụ tất cả mọi người.
3. Chung quanh chúng ta nhiều người bệnh tật già yếu, dốt nát / bị gia đình cũng như xã hội bỏ rơi / Xin cho có nhiều người biết quan tâm để yêu thương an ủi giúp đỡ họ.
4. Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là phải trở nên dấu hiệu tình thương của Chúa cho mọi người chung quanh gặp gỡ / Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta không một ai trở thành dấu hiệu của bất công gian dối, hận thù và chia rẽ.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con được hiệp thông với Chúa nhờ lời Chúa và Thánh Thể Chúa, xin giúp chúng con biết sinh hoa kết quả trong việc tha thứ giúp đỡ mọi người, để chúng con trở thành chứng nhân tình yêu Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta. Chúng ta hãy hết sức sốt sắng dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự ganh ghét, thù hận, ích kỷ. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp… “
– Chúc bình an: Chúng ta hãy thể hiện lòng yêu thương nhau qua việc chúc bình an cho nhau một cách thật lòng.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong. Chúc anh chị em về bình an và cố gắng sống yêu thương với hết mọi người.
43. Yêu thương nhau – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa là tình yêu. Chúa Giêsu truyền dậy: Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con. Chúa Giêsu đã tóm kết các giới răn của đạo cũ và mới vào hai điều: Yêu Chúa và yêu người. Chúng ta không xa lạ gì với giới răn cao trọng này. Tình yêu là một mầu nhiệm. Chúng ta thuộc lòng các giới răn: Yêu Chúa, yêu tha nhân như chính mình và yêu thương cả kẻ thù. Thánh Gioan nói: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa (1Ga 4,7).Ai trong chúng ta cũng biết yêu, vì chúng ta được sinh ra trong tình yêu. Nhưng chẳng ai định nghĩa được tình yêu. Chỉ những người đang yêu mới hiểu và cảm nhận được ý nghĩa của tình yêu.
Trong văn học, người ta dùng ca dao, tục ngữ, châm ngôn, thi phú, ca nhạc và văn thơ để ca ngợi và đánh bóng từ ngữ ‘tình yêu’. Tình yêu có nhiều mức độ như chúng ta có cảm tình, ưa, chịu, hợp, khoái, thích, thương, chuộng, mến… rồi yêu. Tình yêu cũng có nhiều cấp bậc. Tình yêu gia đình và con cái, tình yêu trai gái, yêu quê hương xứ sở, yêu quốc gia dân tộc, yêu giáo hội và yêu thương nhân loại. Chúng ta chẳng có thể kể ra hết các loại yêu vì chúng ta đang đan xen chằng chịt trong tình yêu. Thật rất khó để hình dung một tình yêu tinh tuyền không đối tượng. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận một tình yêu qua những hành vi cử chỉ được biểu lộ. Tình yêu gắn kết giữa trái tim, ý chí, trí khôn và đối tượng yêu.
Quan sát thế giới chung quanh, có bao nhiêu điều và bao nhiêu người mà chúng ta thật sự yêu thích? Những người hàng xóm láng giềng, chúng ta gặp gỡ và chào hỏi nhau hằng ngày. Chúng ta cũng chẳng yêu và chẳng ghét họ. Có nhiều người cùng dân tộc, mầu da, tiếng nói, nói chung, chúng ta cũng chỉ có chút cảm tình, chúng ta có thể biết nhau và hiểu nhau, nhưng nói là yêu nhau thì chắc là không. Những người bạn cùng sinh hoạt trong một nhóm hội, một cộng đoàn, một giáo xứ, chúng ta cũng chẳng quan tâm nhiều lắm. Nếu nói yêu thích thì không hẳn, nhưng chúng ta có chút tình cảm thân thương, liên đới và sự gắn bó gần gũi.
Chúng ta thử giới hạn lại trong đời sống đại gia đình, trong đó có cha mẹ, vợ chồng, con cái và anh chị em là những người sống gần gũi nhất, chúng ta thật sự yêu thương họ bao nhiêu. Trong gia đình, đôi khi anh chị em chúng ta còn tranh dành, cãi cọ, phiền trách và giận hờn nhau. Tình yêu dành cho những người thân thường được biểu lộ qua sự quan tâm, lo lắng, cảm thông, tha thứ, hy sinh và chăm sóc cho nhau. Hãy tự vấn xem chúng ta có đối xử tốt, tôn trọng, quí mến và yêu thương nhau thật tình không? Gia đình chính là tổ ấm của tình yêu.
Tất cả mọi thứ tình yêu trên đời đều tương đối và vô thường. Tình yêu cha mẹ con cái được kể là sâu đậm nhất. Tình yêu vợ chồng rất cao quí thật đáng khâm phục và tôn trọng. Trong cuộc đời, đã có những cặp vợ chồng sống trung tín tới tuổi già và tóc bạc răng long. Chính họ đã biết lo lắng, thông cảm, tha thứ và hoàn thiện lẫn nhau. Họ đã dám hy sinh cho nhau và cho con cái, cao quí nhất vẫn là tình phụ và mẫu tử. Qua mọi thời, đã và đang có nhiều gia đình sống trong an vui và hạnh phúc yêu thương.
Đời thường người ta đề cao tình yêu trai gái và tình yêu lứa đôi là cao đẹp và gắn bó nhất. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy có rất nhiều anh chị lúc đầu yêu nhau tha thiết quyết định đi đến hôn nhân, nhưng rồi sau một thời gian chung sống, nhiều cặp vợ chồng cũng có những đổ bể, ly thân, ly dị và thù ghét nhau. Theo dõi tin tức xa gần, chúng ta nghe biết đã có những người dám tự tử vì yêu. Trong những trường hợp này, có lẽ họ đã đặt nền tảng tình yêu trên nền cát và sự chọn lựa không cân xứng. Vì không chiếm hữu được hoặc bị mất người yêu, nên đã tự tử. Đây có thể là một thứ tình yêu bồng bột, tình yêu Solonpas, tiếng sét ái tình và tuyệt vọng vì yêu.
Chúng ta suy về ý nghĩa đích thực của chữ YÊU. Tình yêu quanh quyện trong lòng mọi lúc và ở mọi nơi. Yêu nhau ở xa thì nhớ, ở gần thì thương. Thương nhau là muốn ôm ấp, muốn ngắm nhìn, muốn chia sẻ, muốn lo lắng chăm sóc và muốn ở bên cạnh. Xem ra tình yêu rất bao la, nhưng cũng rất giới hạn. Chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương mọi người, nhưng thực sự chúng ta chẳng yêu thương ai tròn đầy. Chỉ nói tiếng yêu cho đẹp thôi. Làm sao gọi là tình yêu, khi làm việc gì cũng so sánh, chành cạnh, phân biệt hơn thua và còn lạm dụng lẫn nhau để tiến thân. Tuy nhiên xét cho cùng, về mặt tích cực của tình yêu gia đình, vì có yêu thương nên mới có ghen và vì có yêu nhau nên có những sự góp ý, chỉnh sửa, cấm cản, cằn nhằn và tranh cãi cũng là để giúp nhau nên hoàn thiện. Mỗi người hãy tự hỏi ai là người chúng ta yêu thương nhất và chúng ta đã đối xử với người đó thế nào?
Chúng ta có thể tìm mẫu tình yêu chân chính và cao quí nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cho chúng ta một giải đáp của tình yêu:Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15, 13). Chúa Giêsu đã hy sinh hiến mình trên thập giá để cứu độ chúng ta. Chúng ta biết rằng họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Chúa Giêsu đã chết cho kẻ tội lỗi là chúng ta. Tình yêu của Chúa vượt trên mọi thù hành, ganh ghét, bách hại, tù đầy và giết chóc. Tình yêu thí mạng của Chúa cao vượt mọi thứ tình yêu. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu như Chúa yêu.
Có lẽ phần đông trong chúng ta sống giới luật yêu thương cách ơ hờ như khách bàng quan. Đôi khi chúng ta cũng cảm thông và động lòng trắc ẩn chia sẻ chút ít cơm áo, tiền bạc giúp đỡ những người đau khổ và cùng khốn trong một vài trường hợp. Việc bác ái của chúng ta còn bị cân đo đong đếm và rất giới hạn. Làm phước nhưng muốn được phước báo ngay, cần phải có lời cám ơn, đăng tên hoặc muốn được nêu danh khen ngợi. Tình yêu của chúng ta bị giới hạn trong sự ích kỷ riêng tư và thiếu vị tha. Chúng ta thường muốn sống trong tình yêu trao đổi cân xứng. Thật ra yêu nhiều thì cho nhiều và cho nhiều là yêu nhiều. Tình yêu vị tha được nhận biết và trân quí khi chúng ta có từ bi tâm và hiến mình vì người khác.
Trong Giáo Hội, không thiếu những vị đã học bài học yêu nơi Chúa. Các ngài đã dám xả thân vì bạn hữu như các vị: Cha thánh Đamien of Molokai, tông đồ người hủi tại Hawaii; Thánh Francis Xavier hiến dâng cuộc đời đem tin mừng cho các dân tộc Á Châu; Đức cha Jean Cassaigne đã hiến thân mình nơi trại cùi Di Linh, Việt Nam. Chân phước Têrêxa thành Calcutta hy sinh một đời phục vụ những kẻ cùng khốn tại Ấn Độ và qua mọi thời đại, đã có rất nhiều mẫu gương của các đấng bậc và anh chị em đáng yêu kính đã dõi theo bước chân của Thầy Chí Thánh để xả thân vì yêu. Các ngài đã học yêu thương như Chúa đã yêu các ngài.
Lạy Chúa, chúng con muốn yêu Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết tâm hồn và hết sức cùng yêu thương anh chị em như chính mình. Chúng con ước muốn yêu và được yêu, nhưng lòng chúng con vẫn thờ ơ và chìm đắm trong tham sân si mà thiếu lòng bao dung. Chúa còn mời gọi chúng con hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. Cầu nguyện cho kẻ thù thì chúng con có thể làm, nhưng tha thứ và yêu họ thì chúng con cứ khất lần. Lạy Chúa Thánh Thần, xin mở lòng, mở trí và ban thêm sức mạnh để chúng con biết yêu và yêu như Chúa đã yêu chúng con.
44. Dấn thân.
Ngày nay, bạn đã nghe nói nhiều về việc chọn lựa Chúa Giêsu. Người ta nói đến việc cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu, quyết định bước theo Chúa Giêsu và dâng hiến trọn vẹn cuộc đời cho Người. Tôi nghĩ loại ngôn ngữ này rất quan trọng. Chúng ta phải cam kết dấn thân cho Chúa Giêsu. Chúng ta phải quyết định theo sát Chúa Giêsu hay là không.
Việc chúng ta cam kết dấn thân theo Chúa Giêsu thì rất quan trọng, nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là chúng ta cần phải nhớ Chúa Kitô đã cam kết dấn thân cho chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói rất rõ ràng điều đó: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Nếu phản tỉnh về đời sống của mình, chúng ta sẽ dễ dàng nhớ đến những lần mình đã bội nghĩa bất trung với Chúa. Nhưng Chúa Giêsu vẫn trung tín với giao ước mà Người đã cam kết dấn thân với chúng ta. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta và tình yêu đó đã thúc đẩy Người dấn thân chịu chết trên đồi Canvê vì chúng ta. Sự bất trung của chúng ta không bao giờ có thể làm biến đổi tình yêu trung tín của Người dành cho chúng ta.
Cuộc đời của thánh Matthia cho chúng ta thấy rõ sự dấn thân của Chúa Giêsu cho chúng ta. Thánh Matthia được chọn lựa là tông đồ sau khi Chúa Giêsu đã chịu chết và đã sống lại. Ngài thay thế cho tông đồ Giuđa, kẻ đã tự tử. Hãy nhớ lại ngài đã được tuyển chọn như thế nào để trở thành một người trong nhóm mười hai? Họ đã rút thăm và ông Matthia đã trúng thăm. Matthia biết rằng ông không quyết định trở thành một thành viên của nhóm mười hai, nhưng ông đã được chọn lựa và được chọn bởi chính Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng được Chúa kêu gọi và tuyển chọn. Lời cam kết dấn thân của chúng ta chỉ là một cách đáp ứng lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Người đã chọn bạn và cả cuộc đời của bạn phải trở nên một lời đáp trả yêu thương đối với lời mời gọi đó.
Ở đây có nét tương tự như lời cầu hôn. Chúa Giêsu ngỏ lời với bạn, mời gọi bạn, và đề nghị với bạn. Người nói với bạn là Người yêu thương bạn, và Người hỏi bạn có yêu Người không?
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì lời mời gọi yêu thương của Chúa. Xin Chúa ban cho con ơn biết cam kết dấn thân cho Chúa.
45. Yêu thương.
Dọc theo triền núi Trường Sơn, có một ngôi mộ đã lâu đời, trên bia mộ có khắc dòng chữ: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”. Đây là câu nói của Hy Thanh, người nằm trong mộ. Tại sao lại khắc dòng chữ đó trên mộ của anh ta? Câu chuyện như sau: thời bấy giờ, Hy Thanh chịu khó đi học nghề tìm mạch nước. Bạn bè khinh chê: “Dưới đất lúc nào chẳng có nước, học chi cái nghề vô dụng ấy”, gia đình cũng rủa chàng: “Học cái nghề vô ích ấy làm gì, đi đâu thì đi” Hy Thanh ra đi, ngày kiếm ăn, đêm tìm đến chùa ngủ, cắn răng chịu đựng và vẫn tiếp tục theo đuổi cái nghề ấy. Hai mươi năm trôi qua, gặp thời đại hạn, giếng khô cạn, nhiều người chết vì khát. Lúc bấy giờ người ta chợt nhớ đến chàng, chạy tới cầu cứu. Hy Thanh tìm ra mạch nước, nước chảy lênh láng khắp nơi. Dân chúng từ bốn phương hay tin đến uống, họ vui mừng ca ngợi chàng. Tuy nhiên, có kẻ vì khát lâu ngày, nay uống quá độ nên ngã lăn ra chết. Người ta quay lại mạt sát chàng, đám người có thân nhân bị chết xông vào đánh đập chàng cho đến chết. Trước khi chết, chàng nói: “Tôi thương người, nhưng rất sợ lòng người”.
Đó là câu chuyện ngày xưa, sau đây là chuyện ngày nay: Trên báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật số 18 năm 1989 có một câu chuyện tựa đề là “Máu Cá”, tức là máu lạnh, trích trong tập “Ngồi buồn viết mà chơi” của nhà văn Nguyễn Minh Châu như sau: Tại sân ga Hàng Cỏ vào lúc tờ mờ sáng, khách đứng xếp hàng chuẩn bị lên tàu, khách ngồi chờ đợi rất đông, cùng với số lượng hàng hóa chất cao từng đống. Giữa cảnh đông đúc chen chúc như vậy, có một người đàn bà còn trẻ, y như một người mất trí, cứ hét vang cả sân: “Các ông các bà, có ai thương tôi, cứu tôi với”. Chị ta kêu đến khản cả giọng mà chung quanh chẳng ai đoái hoài. Người ta chỉ quay nhìn chị một cách thờ ơ. Có chuyện gì xảy ra vậy? Thì ra thế này: chị ta xuống tàu trong đêm với hai đứa con: đứa ba tuổi, đứa nửa tuổi, ngồi chờ sáng. Lúc trời gần sáng, chị bảo đứa con lớn ngồi trông em để đi giặt đồ. Giặt xong, quay trở lại thì mẹ mìn đã dụ dỗ đem đứa lớn đi, chỉ còn đứa nhỏ nằm ngửa giữa sân ga một mình. Nghe xong câu chuyện, tôi (tác giả Nguyễn Minh Châu) chạy đến gặp một đồng chí công an đề nghị: “Các đồng chí nói loa đi, yêu cầu hành khách thấy ai khả nghi thì giữ lại, đứa dụ dỗ đứa trẻ, thế nào cũng có vẻ khả nghi, biết đâu nó còn quanh quẩn đâu đây, yêu cầu mọi người giúp chị ta”. Đồng chí công an chẳng nói chẳng rằng, chẳng trả lời tôi lấy một lời, còn hàng ngàn con người thì vẫn dửng dưng. Người đàn bà đau khổ vẫn kêu gào giữa hàng ngàn hành khách sân ga Hàng Cỏ như kêu gào giữa sa mạc.
Kể lại hai câu chuyện trên tôi muốn nói lên nhân tình thế thái, nói lên lòng người đối với nhau, như là gợi ý để mọi người suy nghĩ một chút về lệnh truyền và cũng là lời trăn trối, lời di chúc của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trước khi từ biệt các ông để đi chịu nạn chịu chết trong bài Tin Mừng: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em… Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau”.
Yêu thương là một trạng thái tình cảm xưa như trái đất, tức là ngay từ khi có con người trên mặt đất đã có vấn đề yêu thương. Dân tộc nào cũng dậy yêu thương, tôn giáo nào cũng dậy yêu thương. Trong Cựu Ước, lề luật Do Thái cũng đã có luật yêu thương, chẳng hạn luật Môsê dạy: “Phải yêu thương tha nhân như chính mình”. Tới khi Chúa Giêsu xuống thế, Ngài đã giảng dạy yêu thương, thực hiện yêu thương trọn vẹn tuyệt vời. Điều đặc biệt mới mẻ trong luật yêu thương Chúa dạy là Ngài nâng luật yêu người lên ngang hàng với luật mến Chúa, đồng thời coi những hành động yêu thương như dấu chỉ để mọi người nhận ra môn đệ Ngài và là tiêu chuẩn Ngài căn cứ vào đó để khen thưởng sau này.
Như vậy, luật yêu thương nhau không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền, một sứ mệnh của người Kitô hữu. Vậy chúng ta phải thực hành luật này thế nào? Nói khác đi, chúng ta phải yêu thương nhau thế nào? Xin đề nghị ba điều:
Thứ nhất, yêu thương là đối xử nhân hậu với nhau. Nhân hậu là biết chịu đựng và nhường nhịn: chín bỏ làm mười, một nhịn chín lành; nhân hậu là biết đón nhận những chướng tai gai mắt, những quê mùa nông cạn của người khác, không tranh chấp cãi cọ, tránh lời thóa mạ, cộc cằn, mỉa mai. Chúng ta hãy nhớ: khi chúng ta sống khó tính, nóng nảy, trịch thượng, bất mãn, bất đồng, thì bị mọi người xa lánh và mình làm khổ mình. Trái lại, nhân hậu là bùa mê, là nam châm thu hút lòng người.
Thứ hai, yêu thương là không nổi giận. Tức giận là một tình cảm thông thường của con người. Nói theo Á Đông, tức giận là một trong thất tình của con người. Con người có vui, có buồn, có ham muốn, có giận dữ. Vì vậy, vấn đề không phải là có giận hay không, nhưng là tại sao giận, giận ai, giận gì việc gì… Dù lý do nào đi nữa, chúng ta cũng hãy nhớ: người giận mất khôn, giận dữ chẳng được ích gì, nóng giận làm tan vỡ tất cả.
Thứ ba, yêu thương là không nói hành nói xấu. Người ta thường đổ tội nói hành nói xấu cho cái lưỡi để nói lên sự nguy hại của nó: lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, tay đã dài mà lưỡi còn dài hơn, không nọc độc nào nguy hại bằng cái lưỡi. Lời nói hành nói xấu được ví như một mũi tên tẩm thuốc độc, bắn một phát giết chết ít nhất ba người; giết kẻ bị nói xấu, giết kẻ nghe nói xấu và giết chính kẻ nói xấu. Chúng ta hãy nhớ lời cầu nguyện sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con rơi vào số phận của kẻ nói xấu nói hành, mà phần phạt của họ là ở trong hồ lửa diêm sinh cháy bừng bừng”.
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau, và chúng ta cũng đã biết có rất nhiều cách để thể hiện lòng yêu thương đối với nhau, hôm nay chúng ta hãy nhớ ba điều: hãy đối xử nhân hậu với nhau, đừng nóng nảy tức giận nhau, và đừng bao giờ nói hành nói xấu nhau.
46. Vốn vẫn như thế! – John W. Martens
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Quả thực, tôi biết Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10,34)
Trong bài ca “Một lần trong đời”, phần điệp khúc đã lập đi lập lại câu: “Đời vẫn như thế, cuộc sống vẫn như vậy…”. Không biết điệp khúc này muốn nhấn mạnh đến tính “vẫn như thế” hay tính bất biến không đổi thay của cuộc sống, thắc mắc này vẫn còn bỏ ngỏ. Tuy thế, người ta nghiệm thấy trong cuộc sống vẫn có những điều đổi thay, tăng trưởng và cả sự bền vững, không đổi thay của thực tại. Kinh nghiệm Phục sinh của các tông đồ cho chúng ta thấy nhiều minh họa về sự thường hằng và cả sự đổi thay này.
Chúng ta biết Thiên Chúa vẫn như thế, không đổi thay và vĩnh cửu, như Người đã tỏ lộ cho ông Mô-sê “Ta là Đấng Hằng sống” (Xh 3,14). Ở tâm điểm của Hữu thể không đổi thay của Thiên Chúa là chính sự Hiệp nhất và Tình Yêu. Tuy nhiên, cách mà sự hiệp nhất và tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ cho các tông đồ, các môn đệ của thời Giáo hội tiên khởi, lại dường như phá vỡ sự bất biến không đổi thay của bản tính Thiên Chúa. Qua việc sai phái Người Con một của Thiên Chúa là Đức Giêsu Ki-tô xuống trần gian để cứu chuộc chúng ta khi chiến thắng trên tội lỗi và sự chết, và sau đó trao ban Thánh Thần an ủi để hướng dẫn Giáo hội, có điều gì đó làm đổi thay cách thế chúng ta biết và cảm nghiệm về hữu thể và tình yêu của Thiên Chúa.
Hẳn rằng không phải tình yêu của Thiên Chúa là điều mới mẻ đối với người Do Thái. Như lá thứ thứ nhất của Thánh Gio-an đã nói tới điều này “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa”. Tình yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ trong suốt lịch sử của dân Ít-ra-en. Tuy nhiên “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống”. Chính qua sự biểu lộ của Người Con Một, mà có một điều gì mới đã xảy ra.
Điều mới mẻ này được tìm thấy nơi sự phát triển mở rộng của Giáo hội sau biến cố Phục sinh của Đức Ki-tô, và nó làm cho những gì Đức Giêsu đã thực hiện không chỉ dành cho một nhóm nhỏ các môn đệ của Ngài, nhưng cho toàn thể nhân loại. Đã chẳng có một lối đường rõ ràng cho Giáo hội, một đồ án hay một bản hướng dẫn cho kế hoạch phát triển 5 năm của Giáo hội. Những gì mà các tông đồ có được vẫn là ân huệ của Chúa Thánh Thần để giúp họ nhận biết sứ mệnh của mình và khám phá ra Giáo hội thực sự là gì.
Vẫn còn có một thứ sa mạc trong Chúa Thánh Thần, một điều gì đó dường như chưa thuần thục hay chưa kiểm soát được, và công việc của Chúa Thánh Thần có thể làm thay đổi những lối tư duy và hành động cũ kỹ. Hẳn rằng điều này cũng thách đố chính Giáo hội tiên khởi, như chúng ta nhìn thấy trong cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Cornelius trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Qua những thị kiến, cầu nguyện và cảm nghiệm về Chúa Thánh Thần, Phêrô đã đi đến một lối nhận định mới mẻ: Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho cả Dân ngoại nữa. Nếu chuyện này dường như không tạo nên cơn “sốc” cho chúng ta, đó là vì chúng ta đã được Phêrô và các tông đồ chia sẻ: ngay cả các dân ngoại cũng được cứu độ. Thế nhưng chính sách Công vụ cũng nói tới việc Phêrô bị “sốc” về chuyện này (Cv 10).
Tính chất mới mẻ về việc cả dân ngoại cũng được đón nhận, đã được công bố qua lời của Phêrô: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”. Đây là điều thực sự mới mẻ, mới mẻ tận căn, mở ra con đường mới cho sứ mệnh phổ quát của Giáo hội. Phêrô không đợi sự đồng thuận của các tông đồ khác, nhưng hành động dựa vào sự cảm nghiệm Thánh Thần Thiên Chúa ở giữa họ. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”. Thế rồi, Phêrô đã làm phép rửa cho họ.
Người ta không thể chối bỏ sự đổi thay gây sốc này trên các môn đệ của Đức Giêsu qua tác động của Thánh Thần, và tính mới mẻ của việc dân ngoại cũng được đón nhận, dầu Phêrô có quyết định một cách nhanh chóng, cũng cần được Giáo hội phê chuẩn tại công đồng Giê-ru-sa-lem. Thế nhưng tính mới mẻ này cũng ở ngay trong trạng thái thường hằng của nó, tức là trong tình yêu không đổi thay của Thiên Chúa. Vì những gì mà Giáo hội được mời gọi thực thi cũng chính là việc đưa toàn thể thế giới tới với lời mời gọi tuân giữ giới răn của Thiên Chúa, một điều xem ra rất xưa, nhưng lại được làm mới mẻ trong tương giao với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. “Đây là giới răn của Thày: anh em hãy yêu mến nhau như Thày đã yêu thương anh em” – Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu cận nhân, vốn vẫn như thế, nhưng đã được làm nên mới hoàn toàn.
47. Niềm tâm sự – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu có nói: “Cha Thầy dạy Thầy thế nào, Thầy cũng dạy anh em như vậy, nên anh em hãy dạy nhau như Thầy đã dạy anh em” không? Hay nói: “Cha Thầy làm gì cho Thầy, Thầy cũng làm điều ấy cho anh em, nên anh em hãy làm cho nhau như Thầy đã làm cho anh em”? Điều đó có nghĩa gì?
2. Xét về gương của Đức Giêsu: Ngài yêu thương con người đến mức độ nào? Ngài muốn chúng ta yêu thương nhau ở mức độ nào?
3. Để yêu thương mọi người, ta có thể làm gì cụ thể và ích lợi cho họ nhất? Họ cần gì nhất?
Chia sẻ
1. Đức Giêsu bắt chước Chúa Cha, sau đó Ngài mời gọi ta bắt chước Ngài
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có những lời của Đức Giêsu có hình thức ít nhiều tương tự như sau: “Chúa Cha làm cho Thầy, Thầy cũng làm như vậy cho anh em”, nên “anh em hãy làm như vậy cho nhau, giống như Thầy đã làm cho anh em”. Chẳng hạn:
– Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Sau đó Ngài mời gọi: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
– “Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người”, Vậy “anh em (hãy) giữ các điều răn của Thầy và ở lại trong tình thương của Thầy”
– “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”, nghĩa là: Tất cả những gì Cha Thầy nói với Thầy, Thầy lại nói hết với anh em, nên tất cả những gì Thầy nói với anh em, anh em hãy nói hết với nhau. Vì nói cho nhau biết hết tức coi nhau như bạn hữu, nên lời trên có thể diễn tả cách khác: Cha Thầy đã coi Thầy như bạn hữu, Thầy cũng coi anh em như bạn hữu, vậy anh em hãy coi nhau như bạn hữu, giống như Thầy đã làm như vậy với anh em.
Như vậy, Chúa Cha nêu gương cho Đức Giêsu noi theo, Đức Giêsu lại nêu gương cho chúng ta noi theo. Đức Giêsu cũng đã nói rõ điều ấy: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15). Vì thế, bổn phận của chúng ta là tiếp tục nêu gương tốt cho nhau, và cho mọi người. Nhờ đó, chúng ta trở nên “muối cho đời” và “ánh sáng cho trần gian” (x. Mt 5,13-16).
Trong nghi thức phong chức giáo sĩ, Đức giám mục đại diện Giáo Hội trao cho các tân chức bổn phận phúc âm hóa, gồm hai nhiệm vụ được tóm lại trong câu: “Facete et docete” (=Hãy làm và dạy). Không phải là không có dụng ý khi Giáo Hội đặt chữ làm trước chữ dạy. Giáo Hội không bảo: “Hãy dạy và làm”, mà bảo: “Hãy làm và dạy”. Giáo Hội có ý nói: hãy làm gương trước đã rồi hãy dạy bảo sau, vì làm gương thì cần thiết và quan trọng hơn dạy bảo rất nhiều. Nhưng dường như nhiều nhà phụ trách phúc âm hóa thời nay thường chú tâm đến việc dạy bảo hơn là làm gương, thậm chí coi rất nhẹ việc làm gương. Nhiều khi lời dạy và việc làm của người dạy trái ngược hẳn nhau. Vì thế, việc phúc âm hóa và việc giáo dục Kitô hữu không đi đến kết quả mong muốn vì chưa đi đúng tinh thần của Đức Giêsu và Giáo Hội. Cần nhận thức rõ ràng rằng gương sáng có tác dụng giáo hóa hữu hiệu gấp nhiều lần lời dạy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn”. Các nhà phúc âm hóa và giáo dục Kitô hữu nên tránh vết xe đổ của những người Pharisiêu xưa là “nói mà không làm” (Mt 23,3), hay “nói một đằng, làm một nẻo”.
2. Gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu
Điểm nhấn của bài Tin Mừng hôm nay là gương yêu thương và hy sinh của Đức Giêsu, và lời Ngài yêu cầu chúng ta hãy bắt chước Ngài mà yêu thương nhau: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Gương của Ngài trong việc yêu thương chúng ta là: Ngài yêu bằng những hành động cụ thể, nghĩa là hy sinh thật sự cho người mình yêu. Khi yêu ai, người ta có thể hy sinh cho người ấy thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội, tình cảm khác, v.v… Nhưng hy sinh cao độ nhất là hy sinh chính mạng sống mình: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Đức Giêsu đã thực hiện chính sự hy sinh cao độ ấy: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta” (Rm 5,6.8; x. Ep 5,2; 1Ga 3,16). Không ai thật sự yêu thương mà lại không sẵn sàng hy sinh cho người mình yêu. Ai nói mình yêu thương mà lại không muốn hy sinh, kẻ ấy nói dối, hay tình yêu của kẻ ấy chỉ là thứ môi miệng.
Như vậy, một trong những lý do quan trọng khiến chúng ta phải yêu thương nhau, đó là chính Thiên Chúa và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,19); “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3,16).
3. Yêu thương nhau bằng cách làm gương sáng cho nhau: gương tốt nhất là gương yêu thương nhau
Người yêu thương đích thực thì sẵn sàng hy sinh bất kỳ điều gì mà người mình yêu cần đến. Điều mà người mình yêu cần đến có thể rất khác nhau, tùy theo mỗi người và theo từng trường hợp cá biệt. Để hy sinh, để thể hiện tình yêu một cách thích hợp, chúng ta cần phải tìm hiểu xem người mình yêu cần những gì, và cần gì nhất. Đức Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người không trừ ai. Vậy chúng ta thử tìm hiểu xem con người thời nay, nhất là những người chung quanh ta, cần gì nhất.
Trong vô số những nhu cầu tinh thần cũng như vật chất, điều mà con người cần nhất là được cứu rỗi; nói cụ thể và chi tiết hơn là tin vào Thiên Chúa, đồng thời biết sống xứng đáng với phẩm giá của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa để nhờ đó được hạnh phúc vĩnh cửu. Vì thế, người yêu thương tha nhân cách sáng suốt là người biết quan tâm tới sự cứu rỗi của họ, nghĩa là chẳng những giới thiệu cho họ biết Thiên Chúa, tin Đức Giêsu, ý thức phẩm giá cao quí của mình, mà còn giúp họ sống cho xứng với phẩm giá cao quí ấy.
Để sống xứng với phẩm giá cao quí ấy, không gì tốt cho con người bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Ngài đã chia sẻ hay thông phần cho họ: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8.16). Vì thế, sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – chính là thực hiện bản chất cao quí nhất của con người, là sống xứng với phẩm giá của con người là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Chính vì thế, Đức Giêsu chỉ truyền cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15,17; x. Ga 13,34-35; 15,12; 1Ga 3,23; 2Ga 1,5). Vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa chỉ căn cứ vào một điều duy nhất để phán xét chúng ta, đó là tình yêu của chúng ta đối với tha nhân (x. Mt 25,31-46).
Vì thế, tìm cách làm cho những người chung quanh ta yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, chính là làm cho họ được cứu rỗi. Và không cách nào hữu hiệu để giúp họ yêu thương nhau cho bằng chính ta làm gương sáng cho họ về điều ấy. Nghĩa là ta không chỉ dạy họ yêu thương nhau và yêu thương mọi người, mà chính chúng ta phải thật sự gương mẫu trong việc yêu thương mọi người và yêu thương chính họ (những người ta dạy dỗ). Phải sống làm sao để có thể nói được tương tự như Đức Giêsu, chẳng hạn: “Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương tôi, nên tôi cũng yêu thương anh chị em như vậy… và anh chị em cũng hãy yêu thương nhau giống như tôi đã yêu thương anh chị em”. Tình yêu của ta đối với mọi người phải là tấm gương để mọi người nhìn vào đấy mà yêu thương nhau.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giêsu đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên: “Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12,49). Lửa ấy có bùng lên hay không, điều ấy tùy thuộc vào mỗi người chúng ta có lửa ấy trong tâm hồn mình hay không, và có biết truyền lửa ấy đến tâm hồn những người chung quanh ta hay không!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha và Đức Giêsu đã yêu thương con vô bờ bến, xin cho con cũng biết yêu thương mọi người chung quanh con bằng những hy sinh cụ thể về thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc, cơ hội… Xin cho mọi người chung quanh con cảm nghiệm được tình yêu chân thật của con dành cho họ, để chính họ cũng bắt chước con mà yêu thương nhau.
48. Yêu như Chúa.
“Con chim trước khi chết thì cất tiếng hót bi thương; con người trước khi chết thì lời nói rất chân thật”. Điều này chúng ta có thể lấy Chúa Giêsu làm bằng chứng. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi chịu chết, Chúa đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Một trong những chỉ thị ấy coi như bao hàm mọi chỉ thị khác là “anh em hãy yêu thương nhau” trong bài Tin Mừng hôm nay.
Luật cũ trong Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”. Nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu bản thân tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Đó là mức yêu thương cao độ lắm rồi, nhưng vẫn còn giới hạn và chưa loại trừ được hết những động lực vị kỷ. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và Ngài đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Đó là Ngài dạy: hãy yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta. Chúng ta không chỉ lấy chính mình làm tiêu chuẩn: yêu người như mình, mà phải lấy Chúa làm tiêu chuẩn và kiểu mẫu; yêu người như Chúa yêu. Chúng ta phải yêu như Ngài đã yêu.
Chúa đã yêu như thế nào? Cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã yêu thương tất cả mọi người và mỗi người một cách thiết thực và yêu thương cho đến cùng. Ngài không để ai về tay không mỗi khi họ đến với Ngài: người mù được sáng, kẻ què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, người mẹ mất con được lại con, người chị mất em được lại em, thậm chí đám cưới đang lúng túng vì thiếu rượu cũng được Ngài cho rượu tràn trề. Ngài quan tâm cả tới nỗi mệt nhọc của môn đệ và đưa họ đi nghỉ dưỡng sức. Ngài quan tâm tới những yếu đuối của họ để sửa dạy và nâng đỡ. Tình yêu của Ngài thiết thực như một người mẹ hiền săn sóc con cái.
Có những người xem ra không xứng đáng cho Ngài yêu thương, thế mà Ngài vẫn quan tâm đến họ. Những cô gái điếm cũng có giá trị đối với Ngài. Với những người sống ngoài lề xã hội, những người mà không một ai thèm để ý tới, thì Ngài đã nhìn nhận họ và chuyện trò với họ. Tất cả mọi người trước mắt Ngài đều rất quan trọng. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, cả trong những lúc gặp hiểm nguy. Và cuối cùng, Ngài đã hy sinh đến chết, vì Ngài không muốn và không thể cắt đứt sự yêu thương, đúng như Ngài đã nói: “Tình yêu cao quý nhất là chết cho người mình yêu”.
Tình yêu của Chúa cao đẹp quá, cao quí quá và Chúa bảo chúng ta hãy yêu như Ngài. Thật khó quá, nhưng Chúa truyền chúng ta phải thực hiện bao nhiêu có thể. Xin hãy nhớ câu chuyện cùng lời khuyên sau đây và cố gắng thực hiện: trong một lớp học kia,một thầy giáo bất ngờ ra bài làm cho các học sinh như sau: “Từ nay đến cuối tuần, mỗi em hãy tìm quan sát một loại hoa tầm thường nở bên vệ đường hay ngoài đồng nội. Những bông hoa không được ai để ý và đặt tên cho đàng hoàng, nhưng chỉ được gọi bằng một tên chung là “hoa dại”. Không có giá trị gì cả”. Cả lớp học hăng say thực hiện điều thầy giáo muốn. Mỗi em cầm theo một cái kính lúp để quan sát thật kỹ những bông hoa dại. Sau đó từng em đã mô tả những nét đẹp của những bông hoa dại mà các em đã quan sát; và cả lớp đều công nhận: những bông hoa dại bị khinh thường đều có những vẻ đẹp riêng tuyệt vời không ngờ được.
Cuối cùng, thầy giáo lên tiếng kết luận: “Các em đã có kinh nghiệm rồi đó. Nếu chúng ta chú ý quan sát, và dành thời giờ để quan sát đi quan sát lại, thì cả vật tầm thường nhất như bông hoa dại kia cũng sẽ xuất hiện vẻ đẹp trước mắt chúng ta. Ap dụng vào mối tương quan giữa người với người, các em hãy nhớ điều này: mỗi người là một kỳ công tuyệt đẹp của Đấng Tạo Hóa. Nét đẹp của mỗi người khác nhau mà chúng ta không thể quan sát cho hết được. Thế nhưng, mỗi người chúng ta không có thời giờ dành cho nhau để tìm hiểu nhau, chúng ta chỉ biết nhau một cách hời hợt bên ngoài. Chúng ta chỉ nhớ ghi nhận những tật xấu, những khuyết điểm, những lỗi lầm… mà quên đi hay không muốn nhìn đến cái hay cái đẹp nơi người chúng ta gặp. Chúng ta không thể có tất cả những gì, những ai chúng ta thích, nhưng hãy yêu thích những gì chúng ta có; hãy yêu mến những ai chúng ta gặp hằng ngày”.
Ước chi những lời nhận định của thầy giáo trên đây thức tỉnh mỗi người chúng ta về mối tương quan của mình đối với anh chị em chung quanh: chúng ta có dành đủ thời giờ để tìm hiểu và nhận ra những điều tốt nơi anh chị em chung quanh hay không? Có phải vì năng gặp mỗi ngày mà chúng ta có thái độ coi thường, không biết tôn trọng không? Có phải vì khó khăn này nọ mà chúng ta không để ý tới hay thờ ơ đối với anh chị em sống quanh chúng ta không? Có phải vì một điều gì đó mà chúng ta né tránh và phủ nhận điều cao đẹp của họ không?
49. Tình yêu
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện. Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”.
Vị tu sĩ đáp “có chứ”.
Người thanh niên hỏi “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được?’.
Vị tu sĩ đáp “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta”.
Người thanh niên hỏi “nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp “Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy”.
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”.
Vị tu sĩ đáp “Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn”.
Người thanh niên chỉ phản ánh lại những lời nói của thánh Gioan “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (Bài đọc 2).
Tình yêu là điều kiện đầu tiên, để thực sự hiểu biết về cuộc sống, và đặc biệt là hiểu biết về Thiên Chúa. Như cha Zosima nói trong cuốn sách Anh em nhà Karamazov của Dostoevsky “Bạn phải yêu thương tất cả những gì mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên, toàn bộ thế giới của Người, và mỗi hạt cát trong đó. Nếu bạn yêu thương tất cả mọi sự, thì bạn cũng sẽ nắm bắt được mầu nhiệm có trong tất cả mọi sự”. Van Gogh đã nói một câu tương tự: Cách thức tốt nhất để nhận biết Thiên Chúa là yêu thương nhiều thứ. Hãy yêu thương bạn bè, vợ con…, và bạn sẽ được đi trên đường lối đúng đắn trong việc nhận biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người giáo viên tốt nhất mà chúng ta có. Nhưng tình yêu không đạt được sự hòa hợp riêng của nó. Người ta phải trả giá đắt cho tình yêu. Tình yêu thường đòi hỏi nhiều năm tháng kiên trì, qua những công việc lặt vặt, trước khi người ta có thể đạt được khả năng biết yêu thương.
Có một khoảng cách lớn, giữa việc nhận biết Thiên Chúa và yêu mến Người. Không biết yêu mến, có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta biết yêu mến, thì khoảng cách này được lắp đầy. Biết yêu mến, có nghĩa là biết Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa; ở đâu có Thiên Chúa, ở đó có tình yêu. Sự nhận biết không phải là chứng tỏ hoặc giải nghĩa.
Ghen ghét là một điều tồi tệ. Ghét bất cứ thứ gì cũng đều là xấu xa cả. Thật là điều tốt đẹp, khi yêu mến tất cả mọi sự, ngay cả một bụi hoa hồng. “Đối với tôi, tôi hài lòng được trở thành một người làm vườn, một người biết yêu quí những cây cỏ của mình” (Van Gogh).
Bởi vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, cho nên ngay từ bẩm sinh, mỗi người chúng ta đều có khả năng biết yêu thương. Tuy nhiên, để được như vậy, trái tim phải ngay thẳng. Nếu chỉ có được một trái tim ngay thẳng, thì chúng ta có thể hiến tặng nhiều hơn nữa. Nhưng than ôi! Nhiều khi trái tim con người lại thờ ơ lạnh lẻo, đôi khi còn trống rỗng, tan vỡ nữa. Chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này. Tất cả điều đó nói lên rằng chúng ta có một trái tim bằng máu thịt, chứ không phải là bằng đá. Nhưng chúng ta phải chữa lành những vết thương của trái tim, để có khả năng tạo ra được những hoa quả của tình yêu.
Khi chúng ta biết yêu thương, thì hình ảnh của Thiên Chúa đạt mức độ tươi đẹp nhất và rạng ngời nhất nơi chúng ta.
50.Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em
(Suy niệm của Giuse Hoàng Hải Đăng, OP)
Cộng đoàn thân mến!
Yêu và được yêu là hai nhu cầu sâu thẳm nơi con người. Chính vì thế, yêu là từ ngữ được sử dụng nhiều nhất, nhưng cũng là từ ngữ dễ gây hiểu lầm nhất. Bởi chưng, con người hiểu những từ ngữ này theo những cách khác nhau. Có người hiểu yêu là những quan hệ xác thịt. có người hiểu yêu là quản lý chặt chẽ. Có người hiểu yêu là thuộc cảm tính. Và để hiểu rõ bản chất của tình yêu, một tình yêu đích thực, chúng ta hãy ngụp lặn sâu trong dòng sông huyền diệu của Tin Mừng theo thánh Gioan ngõ hầu nhận ra một khuôn mẫu cho tình yêu. Khuôn mẫu đó chính là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Đây chính là những lời tâm huyết của Đức Kitô đã nói với các môn đệ trước giờ tử nạn.
Tình yêu của Thiên Chúa đã được thể hiện cách trọn vẹn và hoàn hảo trong Đức Kitô. Đó là tình yêu hoàn toàn nhưng không. Tình yêu ấy cao cả đến nỗi Thiên Chúa đã trao ban Con Một của Người (Ga 3, 16). Thiên Chúa không phải chỉ trao ban một món quà hay một cái gì ngoài mình nhưng là trao đi một điều gì đó thân thiết và quý báu nhất của mình. Và điều quý báu đó chính là Đức Giêsu Kitô, người Con Một của Người. Khi trao ban Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, Thiên Chúa đã trao ban cho ta chính bản thân Người. Người chấp nhận Con Một của Người phải chết trên thập giá để chúng ta được sống. Một tình yêu không hề biết giữ lại cho mình điều gì dù có quý giá đến đâu.
Bên cạnh đó, tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại là tình yêu của sự chia sẻ, của sự quên mình và mong muốn hạnh phúc cho người mình yêu “ để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Tình yêu này lan toả đến hết mọi người không phân biệt tốt xấu cũng như không loại trừ ai dù lành hay dữ.
Và đỉnh cao tình yêu của Thiên Chúa chính là sự từ bỏ. Người đã tôn trọng quyền tự do của chúng ta, mặc dù Người không muốn chúng ta phải chịu cảnh trầm luân đời đời. Nhờ đó, chúng ta có đầy đủ tự do để có thể tin hoặc không tin, có thể chấp nhận hay từ chối quà tặng của Thiên Chúa, và có thể mở ra hay khép lại trước sự sống đã được Thiên Chúa trao ban.
Tình yêu Thiên Chúa là như thế đó. Một tình yêu hoàn toàn như không. Và hơn thế nữa, Người còn chỉ dạy cách thức để chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta. Cách thức đó là “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu của Người.” (Ga 15, 10)
Và khi đã ở trong tình yêu của Người, trái tim của chúng ta sẽ hoà chung nhịp đập với nhịp đập của trái tim Người. Nhờ đó, những tâm tư, hành động của chúng ta sẽ rập khuôn theo những tâm tư, hành động của Người và ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người hơn. Khi ấy, tình yêu của chúng ta được nên trọn vẹn. Một tình yêu có đôi tay để ân cần giúp đỡ người khác, có đôi chân để vội vã đến với người nghèo, kẻ cần sự giúp đỡ; có đôi mắt để thấy nỗi đau khổ và những mong muốn, khát vọng của kẻ khác; có đôi tai để nghe nỗi thống khổ của đồng loại. (Thánh Âutinh)
Và khi đã yêu thương như thế, chúng ta sẽ sống với trái tim cởi mở, không còn giới hạn, không còn loại trừ nhau và đón nhận những bất toàn, khác biệt nơi anh em mình với sự tôn trọng. Một khi chúng ta đón nhận những cái khác biệt của nhau tức là đã có cái nhìn tôn trọng và thông cảm đối với con người, đã đi sâu vào tận cõi lòng của con người, để hoà chung một tấm lòng, cùng rung động theo niềm vui, nỗi buồn của nhau. Nhờ đó, ta sẵn sàng cho đi mà không chờ đợi sự đáp trả của người khác, nhưng chỉ biết rằng bất cứ hành động yêu thương nào cũng dẫn đến niềm vui cho người đón nhận cũng như cho người trao ban. Khi ấy, chúng ta cảm thấy an vui và hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin gieo vào tâm hồn chúng con lòng quảng đại để chúng con luôn tưởng nghĩ đến tha nhân, biết quan tâm đến những người anh em và biết san sẻ tình thương cho mọi người, để sau này chúng con sẽ gặt được hoa trái không bao giờ tàn là chính Chúa. Vì lạy Chúa, chính Người là tình yêu, là kho tàng quý giá nhất đời con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, khi chúng con dấn thân hy sinh, phục vụ cho tha nhân, xin Chúa cũng dạy chúng con biết dùng những lời nói yêu thương, cử chỉ trìu mến mà an ủi nâng đỡ và khích lệ họ. Vì có như thế, mới chứng tỏ chúng con thực sự yêu họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
51. Tình yêu
Trong một ngôi làng tại dãy núi Alp ở Thụy Sĩ, có một nhà thờ nhỏ bé đã được sử dụng để làm nơi thờ tự, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mặc dù không hề có một tác phẩm nghệ thuật nào, nhưng người dân địa phương luôn luôn dành một tình cảm đặc biệt cho ngôi nhà thờ này. Điều này khiến cho nơi đây mang vẻ rất tươi đẹp trong đôi mắt của cư dân? Đó chính là nhờ câu chuyện ngôi nhà thờ được xây dựng trên mảnh đất đặc biệt này như thế nào. Câu chuyện như sau:
Có hai anh em tạo dựng một nông trại gia đình, cùng chia sẻ sản phẩm và lợi nhuận cho nhau. Người anh đã kết hôn, người em còn độc thân. Khí hậu khắc nghiệt đưa đến hậu quả là đôi khi, huê lợi trở lên hiếm hoi.
Ngày kia, người em tự nhủ “Thật không công bình khi chia sản phẩm bằng nhau. Mình còn độc thân, nhưng anh mình phải nuôi cả một gia đình”. Vì thế, thỉnh thoảng, người em lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, lặng lẽ băng qua cánh đồng nằm giữa hai ngôi nhà của hai anh em, và đổ vào thùng của người anh.
Đồng thời, người anh cũng có cùng một tư tưởng đó, và tự nhủ “Thật không công bình khi sản phẩm bằng nhau. Mình có cả một gia đình nâng đỡ mình, nhưng em mình vẫn độc thân”. Vì thế, thỉnh thoảng, người anh lại đi ra ngoài vào ban đêm, mang theo một túi hạt từ trong kho thóc của riêng mình, âm thầm đổ vào thùng của người em.
Việc này tiếp diễn trong nhiều năm, mỗi người đều thắc mắc không hiểu sao kho lúa của họ không bao giờ hao hụt đi. Thế rồi vào một đêm kia, họ đụng chạm với nhau trong bóng đêm. Sau khi nhận ra sự việc, họ bỏ túi hạt xuống, và ôm nhau. Đột nhiên, có một giọng nói xuất phát từ trên trời “Tại nơi đây, Ta sẽ xây dựng một ngôi nhà thờ. Bởi vì ở đâu con người gặp gỡ nhau trong lòng yêu thương, thì ở đó, có sự hiện của Ta”.
Nếu không có tình yêu, thì mục đích các cuộc sống là gì? William Blake đã nói một câu như sau: “Chúng ta được đặt để vào trong trái đất này một không gian nhỏ bé, để chúng ta có thể học hỏi được việc mang lại những tia sáng của tình yêu”.
Nhưng chúng ta không thể nào ban tặng tình yêu, trừ phi chúng ta đã đón nhận tình yêu từ trước đó. Một lò sưởi không thể tỏa ra sức nóng, trừ phi nó đã được đón nhận sức nóng từ trước đó. Điều này cũng đúng cả với Đức Giêsu. Người nói với các môn đệ của Người “Như Cha Ta đã yêu mến Ta, nên Ta cũng yêu mến anh em”. Tình yêu mà Người chia sẻ một cách quá quảng đại cho các môn đệ của Người, và cho mọi người nói chung, chính là tình yêu mà Người đã đón nhận từ Chúa Cha, Đức Maria, Thánh Giuse và cả những người khác nữa.
Không phải là một dấu hiệu yếu đuối, khi thừa nhận rằng người ta cần đến tình yêu. Chúng ta nên nhìn nhận và biết ơn vì tình yêu mà chúng ta đã được đón nhận. Chúng ta không cần phải tìm kiếm tình yêu đó, bởi vì có liên quan đến tình yêu của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Người yêu thương chúng ta, không phải vì chúng ta tốt lành, nhưng chỉ vì Người là Đấng nhân lành. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu của Thiên Chúa. Tất cả điều mà chúng ta phải làm là đón nhận tình yêu này, và rồi cố gắng chia sẽ tình yêu đó cho những người khác.
Được yêu thương nghĩa là có hạnh phúc. Tình yêu làm cho cuộc sống trổ sinh hoa quả. Khước từ tình yêu nghĩa là bắt đầu chết. Khi yêu là bắt đầu sống. Ít người nào có cơ hội bày tỏ tình yêu của mình với người khác bằng cách chết đi cho họ. Nhưng tất cả mọi người đều có cơ hội sống cho người khác.
Tình yêu có cái giá của nó. Yêu là chấp nhận rằng chúng ta có thể phải chết đi bằng một cái chết khác, trước khi chúng ta chết thật. Con đường yêu thương là con đường của thánh giá, và chỉ thông qua con đường thánh giá, mà chúng ta mới đến được với sự sống lại. Nếu nỗi đau khổ dạy cho chúng ta về cách thức yêu thương, thì không có gì là khủng khiếp, khi phải chịu đôi chút đau khổ trên trái đất này.
Có một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin khoan để con chết đi, bởi vì con chưa yêu đủ”. Đây là một lời cầu nguyện mà chúng ta nên đọc cho bản thân mình.
52. Tình yêu.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một tu sĩ nổi tiếng là đạo Đức và hỏi:
– Ngài có tin Thiên Chúa không?
– Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
– Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cảm nhận được như thế?
– Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi, rồi hỏi tiếp:
– Xin ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
Vị tu sĩ trên chẳng nói gì khác hơn điều thánh Gioan viết trong bài đọc II hôm nay: “Anh em thân mến, chúng ta hãy thương yêu nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Thực vậy, tình yêu là điều kiện tiên quyết để hiểu biết cuộc sống và đặc biệt là hiểu biết Thiên Chúa. Van Gogh nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Tình yêu là người thầy tốt nhất chúng ta có. Nhưng người thầy này không tự đến, chúng ta phải cực nhọc tìm kiếm. Thông thường phải tốn nhiều năm nỗ lực cách kiên trì người ta mới đạt được đến khả năng yêu thương.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc biết Chúa và việc yêu Chúa. Không yêu Chúa thì không biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm được lấp đầy ngay. Yêu là biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa, cũng như nơi nào có Chúa thì nơi đó có tình yêu. Nhưng nên lưu ý: Yêu không phải là chứng minh hay là giải thích.
Vì chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, cho nên mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương. Tuy nhiên, để được như thế thì con tim chúng ta phải lành mạnh. Thực tế là con tim chúng ta dễ bị những chứng bệnh như lạnh nhạt, trống rỗng, hẹp hòi. Chúng ta cần phải chữa trị những chứng bệnh đó để con tim chúng ta lành mạnh hầu có thể sinh những hoa trái tình yêu.
53. Yêu thương.
(Trích trong Sợi Chỉ Đỏ)
Nhà văn nữ Harriet Beecher Stove có viết một quyển tiểu thuyết nhan đề “Túp lều bác Tôm” kể chuyện đời của một người nô lệ da đen tên là Tôm. Chủ của bác Tôm là một trong số rất ít những người chủ da trắng biết thương yêu những người nô lệ da đen của mình. Đáp lại bác Tôm cũng rất yêu thương chủ và tận tụy hết lòng phục vụ chủ. Nhưng ông chủ này vì làm ăn thua lỗ nên đã nợ một món tiền rất lớn. Một tên da trắng khác chuyên buôn bán nô lệ đã tìm cách nắm được các giấy nợ và dùng chúng để làm áp lực với ông Senbi, tên của ông chủ da trắng nhân hậu ấy. Hắn buộc ông phải bán bác Tôm cho hắn để trừ nợ. Lúc đầu ông Senbi nhất định không chịu. Nhưng vì tên lái buôn hăm dọa sẽ tịch thu tất cả tài sản của ông, nên cuối cùng ông đành phải bán bác Tôm. Sau đó cuộc đời bác Tôm đã phải lao đao lận đận chịu đủ thứ khổ sở và cuối cùng phải chết.
Câu chuyện này đã giúp ta hiểu rõ hơn bài Tin Mừng của Chúa nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Trong câu này, có ba chữ then chốt, là: yêu thương, nhau, và như.
. Chữ thứ nhất yêu thương thì chúng ta dễ hiểu, bởi vì Đức Giêsu luôn luôn dạy chúng ta phải sống yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất của Chúa, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác.
. Chữ thứ hai: nhau. Yêu thương nhau là yêu thương ai? Đây không phải là câu Chúa nói với hai vợ chồng hay với một cặp tình nhân, người này yêu thương người kia và người kia yêu thương người này. Nhưng Chúa nói với tất cả mọi người. Vì thế ta không nên hiểu chữ nhau này theo nghĩa hẹp, chỉ nhắm đến lòng yêu thương đối với một ít người thân thiết với ta thôi, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng thực tế, chúng ta chỉ mở rộng con tim để yêu thương một số người rất ít thôi, có thể đếm trên đầu ngón tay, như: cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, và người yêu của chúng ta. Chỉ thế thôi. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn ghét nữa. Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như giới răn Chúa đã dạy?
. Chữ thứ ba là chữ như. Đây là chữ quan trọng nhất trong câu. Nếu muốn yêu thương tất cả mọi người, thì chúng ta phải làm như Đức Giêsu đã làm. Vậy, Đức Giêsu đã làm như thế nào? Ta hãy đọc tiếp đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy; còn các môn đệ là người, là đệ tử. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được thôi. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng. Vậy nếu chúng ta muốn có thể yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã yêu thương.
Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận thực hành:
. Chúng ta đang thương một số người, như cha mẹ, anh chị em, bạn bè, chồng vợ, người yêu của mình. Để cho những tình yêu thương ấy được bền vững, chúng ta hãy biết tôn trọng nhau. Dù những người đó có điều gì trái ý ta, dù có điểm tính tình họ khác ta, ta cũng phải tôn trọng họ, bởi vì mọi người là một cá thể độc đáo không ai hoàn toàn giống ai. Ta không được bắt buộc ai phải giống như mình. Ta phải tôn trọng cái quyền họ có quyền khác với ta. Có thế mới tránh được những xung đột, sứt mẻ trong tình yêu thương nhau.
. Và còn rất nhiều người mà chúng ta chưa yêu thương. Tuân giữ giới răn của Chúa, ta cũng phải cố gắng yêu thương họ. Muốn vậy, việc đầu tiên phải làm là ta phải dẹp bỏ mọi thành kiến, mọi kỳ thị, phải tôn trọng họ: tôn trọng những điểm khác biệt nơi họ, tôn trọng quyền tự do của họ, ngay cả khi họ có những khuyết điểm lỗi lầm ta vẫn phải tôn trọng con người của họ, bởi vì lỗi lầm là lỗi lầm, nhưng con người vẫn là con người, vẫn có nhân phẩm, và ta yêu thương là yêu thương chính con người đó, yêu thương chính nhân phẩm đó.
Đức Giêsu nói “Chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con”. Theo lời Chúa dạy, chúng ta hãy cố gắng yêu thương tất cả mọi người, và theo gương Chúa làm, chúng ta hãy cố gắng tôn trọng tất cả mọi người.
54. Tình yêu trao ban.
Có một câu truyện được truyền tụng qua nhiều năm kể về một vị chức sắc chính trị đến dự cuộc lễ đăng quang của Vua Edward VII tại Anh Quốc năm 1901.
Vị chức sắc này chứng kiến một giây phút lịch sử khi chiếc triều thiên được đặt trên đầu vua. Ông đã nhảy múa tại cuộc dạ vũ đăng quang vĩ đại này. Sau cùng, ông đã hòa nhập với các vương tôn và tiếp chuyện với những nhân vật nổi tiếng.
Khi ông trở về nhà, có người hỏi ông có một giây phút hay một dữ kiện nào trong cuộc hành trình thăm viếng của ông tại Anh Quốc đặc biệt nổi bật hơn hết không.
“Có,” ông nói, “thật sự có giây phút đó.” Ông tiếp tục nói rằng lúc đó xảy ra vào một đêm nọ khi ông trở về khách sạn của ông.
Ngoài trời thì lạnh rét. Và trong khi ông đi qua một căn nhà bỏ hoang, ông đã thấy hai đứa bé nhỏ tội nghiệp đang nằm co với nhau tại cửa nhà.
Một trong hai đứa là cậu bé khoảng 12 tuổi; còn đứa kia là bé gái khoảng 4 tuổi, rõ ràng là em gái của cậu bé.
Cậu bé đã cởi áo choàng của mình ra và quàng quanh bờ vai bé bỏng của người em gái. Và cậu lấy chiếc mũ len của cậu mà bọc quanh chân của cô em.
Nhà chức sắc nói rằng hình ảnh của hai đứa trẻ, đang nằm co bên cửa nhà, nổi bật hơn hết. Nó hoàn toàn làm lu mờ vẻ tráng lệ và nghi thức đăng quang, sự nhộn nhịp của cuộc dạ vũ đăng quang, cũng như những cuộc đối thoại với các nhân vật nổi danh.
Đó chính là hình ảnh mà ông không bao giờ quên được bao lâu ông còn sống.
Câu chuyện này diễn tả loại tình yêu mà được diễn tả thật tuyệt vời trong những bài đọc hôm nay.
Nó diễn tả, đặc biệt loại tình yêu mà Chúa Giêsu diễn tả trong bài Phúc Âm hôm nay khi Ngài nói, “Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương các ngươi.”
Và một lần nữa, khi Ngài nói, “Không ai có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu.”
Chúa Giêsu đã dạy và đã thực hành điều Ngài dạy. Chúa vì yêu thương chúng ta đã trao ban mạng sống chịu chết để đền tội chúng ta, để cứu chuộc chúng ta. Thánh Phaolô nói: “-t có ai chết cho tội nhân, họa may mới có kẻ chết cho người công chính. Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.” Chúa yêu chúng ta dường nào.
Chúng ta biết ơn Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Chúng ta hãy yêu mến Ngài và tuân theo lời Ngài: “Hãy yêu thương nhau như Ta yêu thương các ngươi.” Chúng ta hãy quên mình để yêu thương quan tâm đến anh chị em chúng ta. Tình yêu được tóm tắt trong sự trao ban, trao ban trong lời nói và việc làm. Câu chuyện của hai đứa bé, nằm co bên cửa nhà, đã quảng diễn nó. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, dâng hiến cuộc đời cho Chúa và yêu thương anh chị em.
55. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thày
Đọc Phúc âm, ta thấy toàn bộ Phúc âm theo Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu chứa đựng đày dãy từ ngữ yêu mến. Đó là lý do tại sao, Phúc âm thánh Gioan được mệnh danh là Tin mừng yêu mến. Theo truyền thống kể lại thì khi về già, thánh Gioan chỉ giảng một lời vắn tắt: Hỡi đoàn con nhỏ, hãy thương yêu nhau. Lời giảng dạy đó được lặp đi lặp lại nhiều lần trong vòng một thời gian khá lâu. Điều đó làm giáo dân chán ngấy, nghĩ rằng thánh nhân đã bị mất trí, nên xin ngài nói điều gì khác lạ hơn. Thánh Gioan trả lời ngài sẽ dừng nói về tình yêu mến, khi mà điều ngài giảng được thực hiện.
Trong Phúc âm hôm nay, thánh Gioan ghi lại cái lời xác quyết của Chúa bày tỏ tình yêu cho loài người: Như Cha đã yêu mến thày, thày cũng yêu mến các con (Ga 15:9). Vậy ta hãy thử xét coi Chúa yêu mến loài người như thế nào. Và ta cũng chỉ giới hạn cái việc Chúa yêu mến loài người theo như Phúc âm hôm nay ghi lại mà thôi. Nếu xét tất cả những việc Chúa làm vì yêu mến loài người trong toàn bộ Phúc âm, có thể cả năm ta cũng chưa nói hết. Chúa Giêsu đã yêu mến loài người bằng cách chấp nhận cái chết trên thập giá để chuộc tội loài người. Đó là lời Chúa phán trong Phúc âm hôm nay: Không ai yêu hơn kẻ hy sinh mạng sống vì người mình yêu (Ga 15:13). Chúa Giêsu còn yêu mến ta bằng cách đưa ta lên hàng bạn hữu với Chúa: Thày không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thày gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thày nghe biết nơi Cha thày, thì Thày đã cho các con biết (Ga 15:15).
Bạn hữu là người quan tâm đến ta, và ta quan tâm đến họ. Bạn hữu là người gắn bó với ta khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại. Bạn hữu là người ta có thể tin cậy. Bạn hữu thường trung thành với nhau, giúp đỡ nhau, sống chết có nhau. Trong cái xã hội phong kiến, khi một người nhỏ tuổi gọi người lớn là bạn, có thể bị coi là chơi trèo, hỗn xược, vì cha ông ta dạy kính lão đắc thọ. Chúa Giêsu còn cao trọng hơn ta gấp bội phần, nhưng Người đã tự hạ mình xuống làm bạn với ta. Vậy được gọi là bạn hữu với Chúa, là một ân huệ lớn lao. Điều thắc mắc ở đây là ta có thực sự tin rằng Chúa là bạn với ta không? Chắc rằng ta tin, vì Chúa nói như vậy. Tuy nhiên ta có cảm nghiệm được cái tình yêu và tình bạn với Chúa hay không lại là chuyện khác.
Trong Phúc âm hôm nay Chúa căn dặn ta: Hãy ở lại trong tình yêu của Thày (Ga 15: 9). Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa nghĩa là gì? Khi người ta nói đứa con đã mất ơn nghĩa với cha mẹ, ta hiểu là đứa con đã xúc phạm đến cha mẹ và làm khổ cha mẹ. Cũng vậy khi phạm tội, ta tự tách ra khỏi tình yêu của Chúa. Vậy ở lại trong tình yêu của Chúa là còn ơn nghĩa với Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là có được sự bình an của Chúa trong tâm hồn. Trong một buổi nói chuyện với giới trẻ tại một giáo xứ kia, một linh mục hướng dẫn có cho giới trẻ thảo luận câu hỏi thế nào là hạnh phúc. Có một nhóm trả lời hạnh phúc là khi cảm thấy tâm hồn bình an. Ta thấy câu trả lời đó bao hàm tất cả ý nghĩa của hạnh phúc vì nếu không có bình an trong tâm hồn, thì dù có mọi sự khác cũng không có hạnh phúc. Ở lại trong tình yêu của Chúa là ở lại trong tình bạn hữu với Chúa. Tuy nhiên khi hai người bạn làm mất lòng nhau, hoặc phản bội nhau, và nếu không làm hoà, thì không thể nào duy trì cái tình bạn cũ. Cũng vậy khi ta xúc phạm đến Chúa, ta làm sứt mẻ tình bạn với Chúa, ta tự cảm thấy hổ thẹn vì lương tâm ta bảo như vậy. Ở lại trong tình yêu của Chúa là muốn được gần gũi với Chúa, muốn đặt niêm tin cậy phó thác vào Chúa, muốn Chúa làm chủ đời sống.
Vậy làm thế nào để được ở lại trong tình yêu của Chúa? Trong Phúc âm hôm nay chính Chúa dạy ta làm sao để được ở lại trong tình yêu Chúa: Các con sẽ ở lại trong tình yêu của Thày, nếu các con tuân giữ lệnh Thày truyền (Ga 15:10). Tuân giữ lệnh Chúa truyền, nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa, tuân theo thánh ý Chúa, sống theo đường lối Phúc âm. Cảm nghiệm được thế nào ở lại trong tình yêu Chúa và tình bạn với Chúa, người ta sẽ cảm thấy vui sống Đức tin. Nếu lỡ phạm tội làm mất sự bình an, họ lại ao ước muốn trở về sống trong tình yêu và tình bạn với Chúa.
56. Các con là bạn hữu của Thầy -Lm. Trần Minh Đức
Tôi thực là khó mở miệng khi giới thiệu một người với người khác rằng: “Đây là bạn của tôi”. Khó bởi vì bạn bè có rất nhiều loại: bạn nối khố, bạn cùng lớp, bạn đồng nghiệp, bạn nhậu, người thân quen… Bạn bè kiểu này thì ai cũng có. Bạn bè đúng nghĩa như Đức Kitô nói tới trong bài Phúc âm hôm nay quả thực hiếm có trên đời. Bạn bè tri kỷ là thứ bạn bè không phải ai cũng có. Không phải hễ muốn là có ngay. Kiếm bạn tri kỷ nhiều khi còn khó hơn tìm người yêu. Bởi vì đó là một kho tàng vô giá mà trời trao ban. Con người không thể mua bằng mánh khoé hay dùng tiền bạc để trao đổi.
Tình bạn là một ngôn từ thuộc loại đao to búa lớn. Khi có một người đứng bên cạnh, tôi không còn cô đơn lẻ loi, không có nghĩa là tôi có bạn. Tình bạn với người khác, tình bạn với Đức Kitô là một hình thức đặc biệt của lòng tin tưởng. Ai nhận một người làm bạn, ai được diễm phúc có Thiên Chúa làm bạn, kẻ đó phải sống vị tha và hoàn toàn đặt tin tưởng. Ai nhận một người bạn, kẻ đó phải sống vị tha và hoàn toàn đặt tin tưởng nơi người đó. Tình bạn không có nghĩa đơn thuần là đánh giá cao, tôn trọng một người, cũng không phải là: Kẻ đó không phải sống quanh quẩn trong phạm vi kiểm soát của cảm giác của mình, nhưng có thể tự vén bức màn bí mật của mình, sẵn sàng chia sẻ niềm vui buồn với người bạn.
Một tương quan tốt đẹp như thế phải có những lý lẽ chính đáng. Lẽ dĩ nhiên người bạn luôn mong muốn những gì tốt đẹp nhất cho đời sống, tương lai và chính bản thân tôi. Nhưng tình bạn chân thật luôn đi xa hơn một bước. Tình bạn không những được nuôi dưỡng bằng lý trí, mà còn bằng mạo hiểm. Tình bạn giữa con người với nhau dù tri âm đến đâu đi nữa vẫn có thể có ngày bị tan vỡ, vẫn có thể bị bạn mình lật lọng hạ bệ!
Con người không ai giống ai. Nhưng tình bạn giữa con người với nhau có thể nói là “môn đăng hộ đối”. Tình bạn giữa con người với Đức Kitô là một thứ tình bạn hoàn toàn không cân xứng Bởi vì một đàng là Con Thiên Chúa, một đàng chỉ là chịu hạ mình làm bạn với một người thứ dân. Phương chi bây giờ nói đến tình bạn giữa Đấng tạo dựng trời đất với phàm nhân, tạo vật mà chính mình dựng lên. Thật là một vinh dự lớn lao dành cho tôi khi chính Đức Kitô gọi tôi là bạn.
Bạn bè cần sự gần gũi, cần sự trao đổi. Mặc dù khác biệt nhưng người này luôn nhận được một cái gì đó nơi người kia. Tôi tự hỏi một cách thẹn thùng: Đức Kitô nhận được gì nơi tôi?
Tôi luôn luôn đón nhận sự trợ giúp, lòng trung thành, lời hứa của Ngài dành cho tương lai và cuộc sống vĩnh cửu của tôi. Có thể nói những gì tôi đã có, đang có và sẽ có, đều do tấm lòng rộng rãi của Ngài ban cho. Nhưng Ngài nhận được gì từ nơi tôi? Hoàn toàn không có gì khác hơn là Đức tin của tôi, lòng chuộc con người và đã sống lại để con người được dự phần vào đời sống vĩnh cửu. Đức tin là của duy nhất mà con người có thể dùng để đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình. Phúc thay cho tôi, bởi vì Đức Kitô không đòi hỏi gì khác ngoài lòng tin vào Ngài. Tình bạn giữa tôi với Đức Kitô còn làm cho tôi nhận biết giá trị đặc biệt của tôi trước mặt Thiên Chúa.
57. Hãy yêu thương nhau – Lm. Nguyễn Minh Hùng.
Cuộc sống cần tình yêu. Nhân loại cần tình yêu. Mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu. Bạn và tôi cũng thế: rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Vì tình yêu quan trọng đến thế, cho nên trước khi rời bỏ thế gian, trước lúc chia tay các tông đồ, những người được Chúa Giêsu yêu thương nhiều, Người đã không để lại một tài sản nào, không trối trăn một kho tàng vật chất lớn lao nào, nhưng chỉ để lại lời di chúc ngắn ngũi, qua đó gởi gắm một tâm tư quí báu: “Các con hãy yêu thương nhau”. Nhờ các con yêu thương nhau, mà tình yêu ấy trở thành dấu chỉ để “mọi người nhận biết các con là môn đệ Thầy”.
Năm 1999, báo Tuổi Trẻ có mở một cuộc thi viết mang tên: “Viết về cha tôi”. Trong cuộc thi này có rất nhiều người con viết về cha mình. Tuy có những người cha không làm tròn bổn phận làm cha, để lại sự u uất có lúc là tất cả nỗi thèm khát tình cha của những đứa con. Nhưng những câu chuyện về những người cha thiếu trách nhiệm không nhiều. Độc giả cảm thấy vui vì những bài viết ca tụng người cha nhiều hơn. Những đứa con ca tụng cha mình, bởi cha nó yêu thương nó.
Sau cuộc thi “Viết về cha tôi” đó, báo Tuổi Trẻ đã gom những bài viết hay thành cuốn sách với tựa đề: “Cao hơn đỉnh Thái”. Trong đó tác giả Nguyên Hương kể về kỷ niệm thời chiến tranh của mình. Giữa lúc bom đạn khói lửa như mưa của tháng 3. 1975, để cứu lấy mạng sống của chính mình, gia đình phải chạy loạn. Chắc lúc đó Nguyên Hương chỉ mới là chú bé 12 hay 13 tuổi gì đó, cũng theo gia đình chạy loạn vào chùa. Trong chùa có vô số người chạy giặc. Sân chùa lớn là thế, bỗng chốc trở thành cả sân người. Ai cũng lộ rõ nét hồi hộp lo sợ trên gương mặt mình. Hình như nỗi hoảng sợ khiến con người ta ít nói hơn. Cả sân người đông đúc nhưng tiếng ồn ào không lớn, nghe như tiếng rì rào của gió.
Giữa lúc mọi người đang nơm nớp sợ hãi, bỗng nhiên tiếng khóc của một đứa bé trên tay một người mẹ trẻ ré lên xé không gian. Tiếng khóc ré đòi sữa của đứa bé bất chấp tiếng đạn réo ngang trời và khói xám mịt mù. Bên cạnh người mẹ trẻ ấy là người cha của đứa bé cũng còn trẻ lắm, đang cố gắng đổ từng muỗng sữa vào miệng con. Người cha đã toát cả mồ hôi mà đứa bé vẫn không chịu uống một giọt nào. Bao nhiêu sữa đổ vào lại trào ra đầy mặt, chảy xuống cổ. Nó nhất định không chịu uống sữa bằng cách đổ từng muỗng vào miệng, chỉ đòi cho được cái chai và núm cao su mà nó vẫn thường mút, vì vội chạy nên cha mẹ của nó đã bỏ quên ở nhà. Tiếng khóc đòi hỏi rất quyền hành, càng lúc càng lớn. Một lúc sau, đứa trẻ đã hết hơi để khóc. Thấy con mình càng lúc càng tái đi vì đói và khóc, người mẹ cũng khóc theo. Thấy vậy, người cha đứng bật dậy, nói với vợ: “Để anh về lấy chai sữa cho con”. Người cha cúi xuống hôn con, rồi nắm tay vợ. Biết đâu đây là lần cuối cùng, anh nựng con, vì ngoài kia, tiếng đạn vẫn cứ réo ngang réo dọc. Người vợ nước mắt chảy dài thương chồng. Chị ôm chân chồng, miệng lắp bắp: “Lỡ có gì…”. Nhưng người chồng gỡ tay vợ ra. Anh chạy đi trong làn đạn mịt mù, ai nhìn thấy cũng thương tâm, hồi hộp lo lắng cho anh…
Mọi người chờ đợi, chờ đợi. Rất lâu, rất lâu sau… Thật may mắn, anh đã trở lại: Và chai sữa trên tay. Tác giả kết luận bằng một câu thật ý nghĩa: “Người cha có còn nhớ lúc liều mình chạy về phía khói lửa hay đã lãng quyên như bao điều cha mẹ đã quyên mình cho con được bình yên”.
Chắc bạn biết, cuộc đời có rất nhiều thứ tình yêu: tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… và câu chuyện trên đây là tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Vì yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”, vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Vì yêu con, người cha trong câu chuyện bên trên đã quên cả mạng sống của mình. Nhưng đâu phải chỉ có tình yêu cha mẹ với con cái mới huyền nhiệm như thế, tất cả chúng ta đều có thể làm gì đó để gọi là yêu thương đối với anh chị em mình. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả ngường đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc.
Mỗi thánh lễ đều là một cử hành về Tình Yêu lớn lao vô bờ, không phải giữa những con người mà là Thiên Chúa đối với con người. Dâng thánh lễ Chúa nhật thứ VI phục sinh hôm nay, xin cho bạn và tôi gặp lại chính mình là kẻ đã được Chúa yêu, để càng ngày càng ý thức hơn tình yêu bản thân với anh chị em xung quanh. Và xin Chúa luôn thanh luyện tình yêu trong ta để từng lúc, ta biết chân thành yêu Chúa nhiều hơn và yêu người như yêu Chúa, yêu người như Chúa yêu ta.
58. Hãy ra đi và mang nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Kitô đã trao ban cho chúng ta một sứ điệp cao trọng: “…Thầy đã chọn các con và cắt cử các con để các con ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của các con tồn tại”. Chúng ta, những con người yếu hèn, có thể mang lại hoa trái! Nhưng điều đó có ý nghĩa gì với cuộc sống cụ thể của chúng ta?
Chúng ta chỉ có khả năng sinh hoa kết quả, nếu chúng ta ra đi, nếu chúng ta biết vùng dậy ra đi! Thái độ “ra đi” và “vùng dậy ra đi” ở đây chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa, chứ không chỉ võn vẹn “lên đường và ra đi” mà thôi! Thái độ đó còn có nghĩa là: mở rộng lòng mình, luôn có tâm hồn sẵn sàng, luôn biết lắng nghe và biết đón nhận!
Nhưng làm thế nào để cuộc sống chúng ta mang lại hoa trái? Đó là khi chúng ta biết mở rộng tâm hồn mình để đón nhận thánh ý Thiên Chúa, để cộng tác với kế hoạch cứu độ của Người, biết nghe theo những thúc đẩy chính đáng của nội tâm mình hay từ bên ngoài. Ngược lại, nếu chúng ta sống theo những phạm trù, những định kiến cá nhân bất di dịch và khô cứng cũng như với một thái độ khép kín, cuộc sống chúng ta sẽ không bao giờ sinh hoa kết quả được. Chúng ta cần phải vùng lên, mở rộng lòng mình, hãy sống cởi mở và hòa đồng với người khác, và hãy sống trưởng thành đúng với nhân vị của mình. Chỉ có thê, cuộc sống chúng ta mới có thể mang lại hoa trái.
Dĩ nhiên, việc chúng ta mang lại hoa trái không đồng nghĩa với việc chúng ta thực hiện được một điều gì đó. Vì thực hiện được một điều gì đó, tôi có thể cố gắng đem hết sức mình để đạt cho bằng được, hoặc công việc đó có thể bị áp đặt, có thể bị ngoại cảnh đòi hỏi, hoàn toàn ngoại tại và xa lạ với tôi. Trong khi đó, việc đời sống tôi đâm hoa kết trái lại bắt nguồn từ những gì nội tại trong tôi, bắt nguồn từ bản chất riêng biệt của cá nhân tôi. Những gì được đặt để trong con người và nhân vị của tôi, đạt tới sự trọn vẹn của chúng khi chúng đâm hoa kết quả. Nhưng việc đâm hoa kết quả chỉ thành đạt, khi chính tôi thành đạt trong suốt cuộc diễn biến đó, khi nhân vị tôi được phát huy và triển nở.
Tiếp đến, một hoa quả cần phải phát triển từ búp non cho tới hồi chín vàng. Nó cần phải có không gian phát triển, nghĩa là những điều kiện sống tốt, những nhu cầu săn sóc vun xới cẩn thận và sự kiên nhẫn. Chúng ta có thể giúp cho một quả cây chín vàng tốt đẹp, nhưng chúng ta không thể áp đặt được chuyện đó. Như vậy, một đàng chúng ta đóng góp phần năng động của mình, đàng khác chúng ta lại phải tôn trọng sự diễn biến tự nhiên. Cả hai thái độ đó đòi hỏi sự nhẫn nại và sự cần mẫn, và cả hai đều là những đặc tính của một người làm vườn rành nghề. Vậy, để cuộc sống của chúng ta đâm hoa kết trái và đạt tới mức độ chín vàng, chính chúng ta phải là những thợ làm vườn thông thạo, trong đó tính năng động không thể thiếu được.
Trong cuộc sống của chính mình, chúng ta phải bắt đầu vui mừng và hài lòng với những hoa quả nho nhỏ thường nhật, như:
Kết quả của khả năng mình sau một thời gian trau dồi học tập lâu dài (thi tốt nghiệp, thi ra trường, thành công trong khi tiếp xúc với các kỷ thuật mới mẽ,v.v…)
Kết quả của sự tự tín chắc chắn qua những khả năng của chính mình, qua sự công nhận và sự đuợc tiếp nhận bởi xã hội.
Kết quả của tình đồng loại, chẳng hạn: những thành công trong các cuộc hội đàm, trong các cuộc trao đổi tốt đẹp, những thành công trong việc hòa giải với nhau sau những va chạm đụng độ, những thành công trong việc giáo dục con cái, v.v…
Tiến sâu hơn nữa, đó chính sự trưởng thành cá nhân của chúng ta. Vâng, khả năng làm cho chúng ta trở nên một nhân vị có phẩm chất và bản lãnh riêng biệt, là một ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người. Thành quả trở nên một nhân vị với đầy đủ tư cách của một người trưởng thành là ý nghĩa sâu xa nhất của cuộc sống chúng ta. Vì thế, một khi chúng ta hiện thực được thành quả đó, nó sẽ trở nên nguồn suối làm tươi mát được biết bao đồng loại. Vâng, nếu chính chúng ta càng trở nên trưởng thành và đứng đắn, chúng ta càng dễ dàng thông cảm với người khác hơn, cả khi họ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Chúng ta có thể trở thành nguồn an ủi và nâng đỡ cho đồng loại, khi chính chúng ta đã từng trải và trưởng thành trong cuộc sống, biết chấp nhận và thăng tiến kẻ khác. Nhưng nghị lực giúp chúng ta trong suốt tiến trình đạt tới sự trưởng thành, chúng ta chỉ tìm gặp được trong tình yêu. Trong bầu không khí mọi người biết chấp nhận nhau một cách thân hữu, nhân vị mỗi người sẽ có thể phát huy và triển nở, cuộc sống của mỗi người sẽ mang lại hoa trái tốt đẹp. Và khi trong chính chúng ta hoa trái của sự phát huy chính mình càng trở nên chín muồi, thì chúng ta càng có thể đưa mắt trông nhìn đến hoa trái của kẻ khác và giúp đỡ được họ trong việc làm cho hoa trái của họ được chín muồi.
Nói tóm lại, mỗi người trong chúng ta có thể mang lại hoa trái và qua đó tham phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, không chỉ với tính cách là một thụ tạo, nhưng chính chúng ta cũng phải mang tính cách sáng tạo, chính chúng ta cũng phải hành động nữa. Trong lời hứa của Đức Kitô nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “… và để hoa trái của các con tồn tại”, điều đó có nghĩa: Giữa sự tạm bợ chóng qua của cuộc sống trần thế, những hoa quả của đời sống đức tin: Những việc lành phúc đức, những việc bác ái yêu thương của chúng ta sẽ tồn tại bền vững và cùng đồng hành với chúng ta vào trong cuộc sống bất diệt trên quê Trời.
59. Suy niệm của Lm Nguyễn Văn Phan.
Không thể tránh né một sự thật này, đó là điều quan trọng nhất Đức Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện, thậm chí ra lệnh chúng ta phải làm chính là yêu thương nhau. Vào đêm trước khi chịu chết, Người đã trao cho chúng ta một lệnh truyền giản đơn: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Mẫu mực và tiêu chuẩn cho cuộc sống Kitô hữu chính là Tình Yêu mà Đức Kitô đã thực hiện trước mắt chúng ta trên cây Thập giá. Đòi hỏi duy nhất trong quà tặng tình yêu của Thiên Chúa là khiêm tốn bước tới đón nhận để mà ra đi chia sẻ cho người khác. Tình yêu dành cho những người mà chúng ta còn có thể nhìn thấy được sẽ giúp chúng ta, ngay trên trần thế này, được đến gần hết sức, dấn sâu hơn vào Tình Yêu Thiên Chúa, Đấng chúng ta chẳng có thể nhìn thấy bao giờ. Để cảm nghiệm được tình yêu Đức Kitô, chúng ta phải nhổ bỏ tận gốc rễ cả tính ích kỷ và bắt đầu nghĩ đến tha nhân nhiều hơn chúng ta: Khi chúng ta từ chối chia sẻ cho người khác, chúng ta tự kết án giam mình trong mùa Đông của cô đơn, tự khoanh mình trong bốn bức tường ngăn mọi người ở ngoài hay ít ra là ở một khoảng cách an toàn.
Là những môn đệ của Đức Kitô, chúng ta được kêu gọi trở nên những con người sống cho người khác, vì người khác, theo gương Đức Kitô. Tình yêu là một cuộc tự hiến luôn đòi chúng ta phải cho đi không chỉ tất cả những gì chúng ta có mà còn phải cho đi chính bản thân chúng ta, thời giờ, và khả năng chúng ta nữa. Xin đơn cử một ví dụ, các bậc làm cha làm mẹ có thể làm chứng cho Đức Kitô trong đời sống hằng ngày của mình bằng chính công việc sinh kế quên cả mệt nhọc của mình để nuôi sống gia đình, chăm sóc con thơ bệnh tật và hết lòng dạy dỗ chỉ bảo con cái những khi chúng băn khoăn không biết hỏi ai… Làm tất cả chuyện đó thật là vất vả và đáng làm, vì đó thực là cuộc đấu tranh ngược dòng và kiên trì với nhiều ghềnh lắm thác, nhưng khi làm được như thế họ được bảo đảm là sẽ được tìm thấy Thiên Chúa va hạnh phúc. Nơi đâu có tình yêu nơi đó Thiên Chúa hiên diện. Sứ điệp Tin mừng này phải được rao giảng bằng cả lời nói và gương mẫu nữa. Cách thông truyền tình yêu hữu hiệu nhất chắc chắn phải là cư xử đối đãi với tha nhân như là bạn hữu, dành cho họ đầy đủ lòng kính trọng đúng mức.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta vượt qua mọi điều chúng ta có thể tưởng tượng. Mỗi người trong chúng ta được Thiên Chúa yêu thương cách riêng từng người sâu xa mật thiết. “Như Cha đã yêu Thầy, Thầy cũng yêu anh em.” Chúng ta không xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa đâu, tự sức mình chúng ta cũng không thể nào dành được tình yêu ấy. Một chân lý nền tảng cần nhắc đến là chính Thiên Chúa đã đi bước trước, chọn gọi chúng ta, dẫn đưa chúng ta đi, yêu thương chúng ta từ buổi ban đầu, ngay trước khi chúng ta chào đời. Chính vì yêu thương chúng ta mà Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống trần gian để gánh vác tội lỗi chúng ta. Những phút gian truân thử thách, những khi mọi người như thù nghịch quay lưng với mình, và những lúc cay đắng chua chát ngập tràn con tim, chúng ta cần nhớ lại rằng tình yêu của Đức Kitô không hề giới hạn vào những người Chúa yêu thương mà thôi đâu, nên phần chúng ta, chúng ta cũng nên khép chặt cánh cửa tâm hồn đừng bao giờ để cho tư tưởng báo thù nào len lỏi xâm phạm vào tâm hồn chúng ta. Thay vào đó chúng ta nên hướng tâm trí chúng ta vào tình yêu diệu kỳ mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, nhất là đã mời gọi chúng ta làm con cái của Ngài; tham dự vào sự sống thần linh của Ngài. Giữ trọn lệnh truyền yêu thương sẽ giúp chúng ta bước vào đại gia đình Thiên Chúa. Vào lúc cuộc đời xế chiều, chúng ta sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán theo những yếu đuối lỗi lầm của chúng ta những theo mức độ tình yêu chúng ta đã trao cho tha nhân. Vì thế, chúng ta hãy yêu thương nhau.
60. Ở lại trong tình yêu và sinh hoa kết trái
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Qua bài ẩn dụ Cây nho (Ga 15,1-8), Đức Giêsu khẳng định một cách hết sức rõ ràng với các môn đệ rằng mọi sự tùy thuộc vào sự hợp nhất của các ông với Người.
Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong các ông (x. 15,7) và nếu các ông tuân giữ các điều răn của Người (15,10). Tất cả xuất phát từ Đức Giêsu: các lời và các điều răn. Nhiệm vụ các của môn đệ là đón nhận sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, các ông được liên kết với Người và có thể sinh hoa kết trái. Trong tương quan này, vị trí của Chúa Cha được Đức Giêsu diễn tả một cách độc đáo.
2.- Bố cục
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng bản văn hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (15,9-11);
2) Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (15,12-17).
3.- Vài điểm chú giải
– Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (9): Dịch sát là “Như (kathôs) Cha đã yêu mến (êgapêsen) Thầy, thì Thầy cũng yêu mến anh em (kagô hymas êgapêsa)”. Kathôs ở mệnh đề chính dùng với kai ở mệnh đề phụ thì dịch là “Như… thì cũng…”. Egô là chủ từ được nêu ra minh nhiên để nhấn mạnh, còn túc từ hymas được đặt liền với chủ từ cũng là để nhấn mạnh và cho thấy dây liên kết mật thiết với chủ từ egô. Hai động từ “yêu mến” (êgapêsen; êgapêsa) ở thì quá khứ aorist, diễn tả những biến cố rõ rệt và cụ thể trong quá khứ (“Chúa Cha đã yêu mến Thầy”), bây giờ chạm đến chúng ta (“Thầy cũng yêu mến anh em”).
– tình thương của Thầy (9): Công thức này (hê agapê hê emê) nói về tình thương của chủ thể (Đức Giêsu) đối với các môn đệ.
– như Thầy đã giữ các… và ở lại… (10): Kathôs và kai đều bắt đầu hai mệnh đề phụ, nên chỉ có thể dịch là “như… và…”. Động từ têreô ở thì quá khứ hoàn thành (perfect), với ý là lúc này đây, Đức Giêsu đã giữ trọn các điều răn của Chúa Cha.
– vì bạn hữu của mình (13): “Vì” (hyper) có nghĩa là “nhân danh”, “chiếu cố đến”. Cái chết của Đức Giêsu nhằm mưu ích cho chúng ta. Xem Lc 22,19-20; Rm 8,31; 1 Cr 11,24.
– cắt cử (16): Động từ Hy Lạp tithêmi có nghĩa là “đăt một người vào một nhiệm vụ”, đồng thời bảo đảm, cung cấp cho người ấy mọi phương tiện để thi hành nhiệm vụ đó thật hữu hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1 Cr 12,28; 2 Tm 1,11). Động từ này ở thì quá khứ aorist, để nói rằng Đức Giêsu chỉ cắt đặt một lần mà thôi, nhưng điều này có giá trị suốt đời người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ở lại trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì phải ở lại (menô) trên cây nho để sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Ga). Đức Giêsu đã lệ thuộc Cha của Người trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch của mọi tình yêu: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy, thì Thầy cũng đã yêu mến anh em” (15,9). Hai động từ đều cùng ở một thì quá khứ (aorist) nói lên những biến cố rõ rệt trong quá khứ: Đức Giêsu đã từ Chúa Cha mà đến thế gian. Người vẫn ở an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho cuộc sống người môn đệ.
Chúng ta phải “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong tình thương của Cha Người bằng nhiều cách. Chúng ta cũng có thể “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn cho tình thương ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn; giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em” và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài niềm vui này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu ở lại trong tình thương của Cha Người bởi vì Người giữ điều răn của Người để chuyển tình thương sang cho các môn đệ. Các môn đệ sẽ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhạn từ Chúa Cha vào lòng các môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng bạn chỉ hiểu điều bạn đã nhận khi bạn tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
* Điều răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17)
Như Chúa Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Hội Thánh là một cộng đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Đức Giêsu bắt đầu nói “các điều răn” y như thể có nhiều điều răn (c. 10), rồi ngay sau đó lại nói “Đây là điều răn của Thầy”, y như thể chỉ có một điều răn mà thôi. Vậy thì có bao nhiêu điều răn? Các vị thầy thời ấy bảo rằng có 613 điều răn. Các tác giả Mc, Mt và Lc bảo là Đức Giêsu đã giảm thiểu lại còn hai: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người lân cận (Mc 12,28-31; Mt 22,36-40; Lc 10,25-27). Tác giả Ga thì khẳng định là hai điều này đã được giản lược thành một: tình yêu đối với người lân cận trong thực tế là cách thức duy nhất để bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa (Ga 4,20; x. Phaolô: Gl 5,14; Rm 13,8-10).
Thì quá khứ của “Thầy đã yêu thương anh em” (c. 9) phải được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy sinh của Người. Nếu chúng ta yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu” (philoi, c. 14). Chúng ta chứng tỏ chúng ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều răn của Người (c. 14; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (x. Gs 24,29; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11). Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15) và muốn họ làm việc với Người để thực hiện chương trình của Người.
Các kinh sư thường không tìm môn sinh. Những người trẻ nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ “ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn tại; menô)” và có kết quả do chỗ Chúa Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).
+ Kết luận
Lời cáo biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng; chúng ta rất trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối cùng và quý báu nhất của trái tim Người; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật là Người tha thiết nhấn mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau và cho nhau, làm thành một thứ Hội Thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới chung quanh chúng ta.
Ở tại trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa như là Cha và hiểu Người đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Người cho Con của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục Sinh, công trình của Người đạt được một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về Chúa Cha với các lời mạc khải mới; trái lại chính họ phải đạt tới một khái niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã phát xuất ra và quy hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu thương nhau.
2. Từ “điều răn” được Đức Giêsu sử dụng 4 lần nhằm cho thấy rằng “yêu thương” là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn đệ tương lai, chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
3. Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm “tôi tớ” Thiên Chúa, “làm việc cho Đức Giêsu”, mà quên rằng Người muốn chúng ta trở thành “bạn hữu” của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc khoải, cô lập, sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy, hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn tôi tớ không biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử trong tình yêu của Chúa Cha.
4. Nói với những con người đang sống trong một cuộc sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà tỏ ra ngạo mạn. Đừng nghĩ rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào tự phụ. Thật ra, họ đã được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu. Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các môn đệ: “ở lại trong Đức Giêsu”, “ở lại trong tình yêu của Người” và “yêu thương nhau”. Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu của Người; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
61. Suy niệm của Lm. Đan Vinh.
Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo dụ ngôn cây nho và cành nho. Đức Giêsu nói về mối tương quan mật thiết giữa các cành nho là tình yêu thương giữa các môn đệ, các tín hữu với nhau. Như Chúa Cha đã yêu thương Chúa Con thế nào, thì Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ như vậy, và người truyền cho các môn đệ cũng phải yêu thương nhau giống như Người đã yêu thương và hy sinh chịu chết để cứu độ họ.
2) Chú thích:
– Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, thì Thầy cũng yêu mến anh em như vậy, Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy giữ các điều răn của Cha Thầy, và ở lại trong tình thương của Người (Ga 15,9-10):
+ Chúa Cha đã yêu mến Thầy: Đức Giêsu nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Người (x. Ga 3,35; 5,20; 17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này (x. Mt 3,17; 17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là thứ tình yêu chia sẻ và trao ban, và tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là thứ tình yêu tôn kính và vâng phục.
+ Thầy cũng yêu mến anh em: Noi gương Chúa Cha, Đức Giêsu cũng yêu thương các môn đệ bằng một tình yêu như vậy.
+ Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy: Đây là lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu đối với các môn đệ. Người kêu gọi họ hãy luôn kết hiệp với Người, và đừng bao giờ từ chối hay phản bội tình yêu của Người.
+ Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy: Giữ các giới răn là một cách thế diễn tả tình yêu của các môn đệ đối với Đức Giêsu. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy các ông đang “ở lại trong” tình thương của Người.
+ Nếu Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy: Trong suốt cuộc sống ở trần gian, Đức Giêsu luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Ga 6,38; 8,29; Dt 10,9). Người vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá (x. Pl 2,8). Nhờ tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, là bằng chứng cho thấy Đức Giêsu luôn “ở lại trong” tình thương của Người.
– Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,11-13):
+ Để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn: Niềm vui hân hoan mà Đức Giêsu cảm nhận được là kết quả của việc Người đã tuân giữ các giới răn của Chúa Cha, luôn làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Niềm vui ấy các môn đệ cũng sẽ nhận được, nếu các ông biết tuân giữ giới răn yêu thương nhau như Đức Giêsu đã truyền dạy.
+ Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em: Điều răn mà các môn đệ phải thi hành là yêu thương nhau không phải bằng tình cảm suông hay lời nói cử chỉ bề ngoài, nhưng tình yêu phải thể hiện qua việc tình nguyện hiến thân chịu chết vì anh em, noi gương Đức Giêsu yêu thương và đã phó nộp mình chịu chết để đền tội thay cho các môn đệ và các tín hữu chúng ta.
+ Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình: Tình thương đòi phải hy sinh và cho đi. Món quà trao tặng càng có giá trị thì tình yêu càng lớn lao. Sự trao tặng cả mạng sống của mình là dấu hiệu một tình yêu tột đỉnh. Đức Giêsu đã sẵn sàng chịu chết để đền tội thay cho môn đệ, thay cho mọi tín hữu chúng ta. Người cũng đ¨°i môn đệ phải noi gương Người để sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì anh em (x. 1 Ga 3,16; Pr 2,21).
– Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tối tớ nữa, vì tối tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 15,14-15):
+ Anh em là bạn hữu của Thầy: Các môn đệ là học trò sẽ được Đức Giêsu nâng cấp lên trở thành bạn hữu của Người, với điều kiện họ thực thi những điều Người truyền dạy.
+ Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu: Tình bạn đưa tới sự hiệp thông về tư tưởng, tâm tình vàsức sống. Đức Giêsu đã cư xử với các môn đệ bằng thứ tình bạn này, vì Người đã bày tỏ cho các ông biết tất cả những gì Người đã đón nhận được từ nơi Chúa Cha.
– Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại. Hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là: Hãy yêu thương nhau (Ga 15,16-17):
+ Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em: Ơn gọi trở thành môn đệ của Đức Giêsu không phải do các ông có công xứng đáng và chủ động chọn Người, nhưng chính Người đã tuyển chọn và kêu gọi các ông trước và các ông đã sẵn sàng đáp lại bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi làm môn đệ Người, như hai đôi anh em: Simon Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan (x. Mt 4,19.21).
+ Và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại: Chính Đức Giêsu đã huấn luyện và sai các môn đệ ra đi truyền giáo bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời và làm chứng nhân cho Người (x. Mt 10,1-10; 28,19; Cv 1,8). Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu và nhờ Ơn Thánh Thần tác động mà các ông đã đem lại nhiều hoa trái tốt là đưa nhiều người gia nhập vào Hội Thánh (x. Ga 20,22-23; Cv 2,37-41).
+ Những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em: Trong sự hiệp thông với Đức Giêsu như cành nho liên kết với thân cây nho, thì những lời cầu xin nhân danh Đức Giêsu sẽ được Chúa Cha chấp nhận.
+ Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau: Yêu thương nhau là một giới răn mới và quan trọng nhất nên được Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Tình yêu ấy là dấu hiệu người môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12):
– Câu chuyện: Tình yêu mạnh hơn sự chết.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và hay đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng một bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần phải được tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn loại máu của cô để truyền cho cô. Rất may là máu của cậu bé anh cô lại cùng một loại với em. Khi được hỏi có muốn cho máu để truyền cứu sống em gái hay không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã bình tĩnh lại và can đảm trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm”. Sau đó các bác sĩ đã tiếp máu của cậu bé cho em. Khi tỉnh dậy, mọi người trong phòng đều ngạc nhiên và buồn cười khi nghe cậu bé hỏi: “Ô hay! Con vẫn còn sống đấy ư? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em gái con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”
– Suy nghĩ và quyết tâm: Thì ra cậu bé tưởng lầm rằng khi cho máu, thì mình sẽ phải hy sinh mạng sống của mình cho em, vì bác sĩ sẽ lấy hết máu của cậu mà tiếp sang cho đứa em gái! Vì quá thương em và không muốn em chết, nên sau một lúc ngần ngại, cậu đã can đảm hy sinh mạng sống của mình để cho em cậu được cứu sống! Quả thật, trong trường hợp này: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình’ (Ga 15,13). Con Thiên Chúa đã yêu các môn đệ là chúng ta đến cùng, nên đã hy sinh chịu chết trên thập giá để đền tội thay và đã sống lại để cứu sống chúng ta để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Vậy trong Mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để biểu lộ tình thương đối với các người thân yêu trong gia đình mình, noi gương Chúa Giêsu như cậu bé trong câu chuyện trên đã thể hiện?
2) Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy:
– Câu chuyện: Mục sư Mác-tin Lu-tơ Kinh (Martin Luther King):
Vào năm 1963, tại Thủ đô Wa-sinh-tân (Washington), 200.000 người đã lắng nghe vị mục sư da đen là Mác-tin Lu-tơ kinh, người đã đoạt giải No-ben Hòa Bình nói chuyện. Nội dung bài phát biểu của ông được cô đọng trong mấy lời như sau: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Gioóc-giơ (Georgia), con cháu của những người nô lệ và của những chủ nôsẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi sẽ trở về sống trong một đất nước mà chúng sẽ không bị đánh giá, đối xử bất công dựa trên màu da, nhưng là trên những công lao đóng góp xây dựng của chúng …”. Ong luôn cố gắng thực hiện ước mơ đó, dù gặp biết bao khó khăn trở ngại, ganh ghét đố kỵ. Đến năm 1968, Mác-tin lu-tơ Kinh đã ngã gục dưới làn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng chương trình hành động của ông vẫn được tiếp tục. Bởi vì ước mơ hòa bình và bình đẳng giữa các dân tộc của ông đã được hàng triệu người trên thế giới đồng cảm cùng quyết tâm thực hiện.
– Suy nghĩ và quyết tâm: Hiện nay tại môi trường bạn đang sống như: khu xóm, trường học, xí nghiệp, nhà máy, công sở, bệnh viện, nhà thờ…có sự kỳ thị về Nam Bắc, tôn giáo, cũ mới, nam nữ…hay không? Bạn sẽ làm gì để khắc phục tình trạng kỳ thị ấy, hầu xã hội của chúng ta ngày một công bình nhân ái hơn?
3) “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13):
– Câu chuyện: “Anh phải sống”.
Có hai vợ chồng nhà kia, hàng ngày cùng nhau vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi bó thành từng bó rồi chất lên một chiếc thuyền, xuôi dòng ra chợ bán. Họ phải vất vả kiếm tiền nuôi một gia đình gồm 4 miệng ăn: hai vợ chồng và hai đứa con thơ: Đứa lớn được 7 tuổi và đứa em mới 4 tuổi. Một hôm, vào buổi chiều, trên đường chèo thuyền về nhà thì trời bổng tối sầm và đổ mưa tầm tã. Sấm chớp ầm ầm và gió mạnh làm mặt sông dậy sóng. Chiếc ghe nhỏ bé của họ đầy nước đang trôi nhanh giữa dòng sông và rồi bị lật úp, khiến hai vợ chồng bị văng ra khỏi ghe. Rất may là họ đã bám được vào một thân cây đang trôi gần đó. Tuy nhiên thân cây chỉ đủ cho một người bám. Bấy giờ chị vợ ôm chặt lấy cổ chồng đang khi anh chồng một tay bám vào thân cây, còn tay kia cố bơi vào bờ. Nhưng phần vì bị sóng gió vùi dập, phần phải đỡ vợ nên anh dần dần đuối sức. Cảm thấy mình quá mệt và có nguy cơ cả hai vợ chồng có thể đều chết chìm, người chồng nói với vợ rằng: “Em hãy buông anh ra và bám vào khúc cây rồi cố bơi vào bờ để nuôi các con em nhé!”. Nhưng chị vợ đáp: “Không! Anh phải sống mà nuôi con!”, rồi chị đã tự buông tay ra cho chìm xuống để anh đủ sức bơi được vào bờ. Sáng sớm hôm sau, người ta thấy người chồng và hai đứa con thơ, đầu chít khăn tang, dắt dìu nhau ra bờ sống lập bàn thờ và thành tâm khấn vái để cầu xin hương hồn người chết phù hộ cho ba bố con.
– Suy nghĩ và quyết tâm: Cao cả thay tình thương của một người vợ, người mẹ! Chị đã quên mình, sẵn sàng hy sinh chịu chết để cho chồng và con được sống! Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Còn bạn, bạn quyết tâm làm gì trong những ngày Mùa Phục Sinh này để chứng tỏ tình thương đối với các người thân yêu ruột thịt của mình?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Con hiểu rằng: Đạo của Chúa lấy giới răn Mến Chúa Yêu người làm căn bản. Nhưng trong thực tế, con đã chưa làm theo giới răn ấy. Lòng chúng con còn đầy sự ích kỷ vụ lợi, trong khi lẽ ra con phải vị tha bác ái. Gia đình chúng con chưa thực sự có tình yêu của Chúa, chưa hiệp nhất yêu thương nhau, trên thuận dưới hòa như Chúa đã dạy. Các bậc cha mẹ hay cãi lộn nhau, vợ chồng chưa quên mình và hy sinh cho nhau, con cái chưa hiếu thảo với cha mẹ, anh chị em chưa thực sự tôn trọng lẫn nhau và chia sẻ tình thương cho nhau.
Vậy lạy Chúa, xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu dọi vào tâm trí chúng con. Xin ngọn lửa tình yêu của Chúa sưởi ấm và biến đổi lòng chúng con ngày một quảng đại hơn. Xin cho tình yêu đích thực của Chúa luôn ngự trị và tỏa sáng trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết cảm thông chia sẻ đón nhận người khác và sẵn sàng quảng đại cho đi. Nhất là xin cho chúng con biết yêu thương đến độ dám hy sinh quên mình để noi gương Chúa xưa. Nhờ đó, ánh sáng vinh quang của mầu nhiệm Phục Sinh sẽ tỏa chiếu rạng ngời trên chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Xưa trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, Mẹ đã luôn hiện diện và kết hiệp mật thiết với Người. Mẹ đã cảm thông và chia sẻ với nỗi đau khổ của Chúa. Mẹ đã chấp nhận đi đường thương khó của Chúa, để cùng chết và cùng sống lại vinh quang với Người.
Giờ đây, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ: luôn sống mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh trong cuộc đời chúng con, thể hiện trong cách suy nghĩ, nói năng và hành động. Xin cho chúng con mỗi ngày biết chết đi cho những sự ganh ghét hận thù, ích kỷ vụ lợi, đam mê lạc thú bất chính và các thói hư tật xấu. Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi vào mọi sinh hoạt của chúng con. Xin cho chúng con biết chia sẻ cảm thông với nỗi đau khổ của người khác. Xin cho chúng con biết nở nụ cười cởi mở để giơ tay ra trước làm hòa với người không ưa chúng con, sẵn sàng đi bước trước đến với người chúng con chưa quen biết. Xin cho chúng con biết nhìn nhận người khác là anh chị em để quên mình mà phục vụ họ, nhất là đối với những người đang đau khổ thể xác cũng như tâm hồn. Xin Mẹ giúp con luôn ý thức rằng: yêu thương không phải chỉ là tình cảm suông, nhưng là hành động cho đi, là luôn hy sinh để làm cho người yêu được hạnh phúc. Xin cho chúng con biết yêu thương bằng tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã tặng cả mạng sống của mình, sẵn sàng chịu chết để chúng con được sống. Nếu chúng con thực hành tình yêu như thế là chúng con đang hòa nhịp với trái tim yêu thương của Chúa, đang làm chứng rằng ‘Thiên Chúa là Tình yêu”, và hy vọng chúng con sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa, và đưa được nhiều anh em về làm con cái Chúa với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
62. Chú giải của Noel Quesson.
Theo Thánh Gioan, vài giờ trước khi chết, Đức Giêsu đã bày tỏ cho các bạn của Người viễn ảnh “Chương trình của Thiên Chúa trên thế giới”, và ý nghĩa của việc hiến dâng sự sống cho đến chết của Người.
Trong trang sách đáng yêu này của Thánh Gioan là một bài hát ca tụng tình yêu. Danh từ “yêu” “tình yêu” “ban”, được lặp lại 11 lần… và được dùng với từ “giới răn”. Đối với Đức Giêsu, niềm vui của người được yêu, đó là làm theo ý muốn của người yêu mình.
Ta không thể không để ý đến sự “sinh động” trong trang sách này: Như một bài hát nội tâm, những điệp khúc có cùng một trọng tâm xuất hiện, biến đi và trở lại như những đợt sóng vỗ vào bờ, như giòng thác từ trên đổ xuống từ Thiên Chúa rồi lại trở về nguồn là chính Người.
Trọng tâm của mạc khải này là: Niềm vui “Ta đã nói những điều này cho các con để chia sẻ ‘niềm vui của Ta’, và để các con được tràn đầy niềm vui”.
Vào giờ Đức Giêsu bước từ thế giới này sang bên kia với Chúa Cha, Người nói với các môn đệ: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy”.
Đây là những lời tâm sự cuối cùng của Đức Giêsu, đêm trước người “ra đi”. Đối với Đức Giêsu, tất cả bắt đầu trong huyền nhiệm của Thiên Chúa, trong vực thẳm vô hình là “Nguồn” của tất cả mọi sự. Nơi Thiên Chúa, không có sự cô độc không có buồn bã, nhưng có niềm vui yêu thương luôn hiện diện giữa ba Ngôi vị hằng yêu thương nhau.
Thiên Chúa là tình yêu: Chúa Cha yêu Chúa Con, và hai Đấng thông chuyển niềm vui yêu thương này cho Chúa Thánh Thần. Tình yêu vô hình đó, một ngày kia đã hiện thân trong một con người, là Giêsu thành Nagiarét. Huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa đã trở nên hữu hình, có thể ngắm nhìn và cảm nhận được tình yêu này đã làm xúc động trái tim một con người: “Chúa Cha đã yêu thương Thầy”.
Thầy cũng đã yêu thương anh em.
Nhưng giờ đây, trong con người Chúa Giêsu, mãnh lực tình yêu bắt đau lan ra khắp nhân loại. Thiên Chúa chia sẻ tình yêu của Người, nơi Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không bao giờ được quên Chúa Giêsu đã hành động thế nào để yêu thương chúng ta.
Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.
Câu nói: “Thầy thương yêu anh em” của Chúa Giêsu hàm ẩn sự mê say. Một say mê tình yêu điên cuồng và vô biên: Người vẫn thương yêu những kẻ thuộc về mình còn ở trên trần gian, Người thương yêu họ đến tận cùng” (Ga 13,1). Tột đỉnh của tình yêu chính là Thập giá vinh quang. Đấy là vinh quang của Chúa Giêsu và niềm vui tình yêu vô tận.
Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn anh em, Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết.
Chúa Giêsu dám nói rằng, Người xóa bỏ sự phân biệt giữa “Thầy và tôi tớ”, giữa “Thiên Chúa” và “Con người”. Từ nay chỉ còn là “Bạn hữu”. Không có gì giấu diếm nhau. Tình yêu có khuynh hướng chia sẻ để tất cả là của chung.
“Tất cả những gì ‘Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã tỏ cho anh em biết”. Tình yêu khước từ sự “thống trị” người khác nhưng luôn tôn trọng và làm cho người kia “bằng” chính mình.
Qua những kinh nghiệm về tình yêu của con người, chúng ta biết rằng, hai người yêu nhau thường hướng đến sự trong sáng: tình yêu là trao đổi, là hiệp thông. Ta tự tỏ ra cho người kia biết. Chúa Giêsu đã nói: Tất cả những gì Thầy đã nghe được ở Chúa Cha, Thầy đã tỏ ra cho anh em biết. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã nói hết tất cả, không còn gì khác để biết về Thiên Chúa nữa. Thiên Chúa đã nói tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa.
Đây là điều răn của Thầy: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”.
Giòng sông tình yêu của Thiên Chúa vẫn tuôn chảy. Nước của giòng thác, khi rơi xuống đất, trải ra, bắn tung lên. Con người khi được Thiên Chúa “yêu thương” chính họ cũng phải trở nên tình yêu theo hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa: “như Chúa Cha thương yêu Thầy, Thầy thương yêu anh em” “Như Thầy thương yêu anh em, anh em hãy thương yêu nhau”.
Chúng ta đừng đọc lướt quá nhanh chữ “cũng như” huyền nhiệm này. Lạy Chúa, Chúa dẫn chúng con đi tới đâu? Chúa yêu cầu chúng con thương yêu đến mức nào? tình yêu của Chúa đã đưa Chúa đến đâu? “Không ai có tình yêu lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Yêu thương đến hy sinh mạng sống của chính mình. “Đây là Mình Thầy, bị trao nộp, đây là Máu Thầy bị đổ ra. Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thầy, hãy làm việc này như chính Thầy” Giới hạn của tình yêu đó là trao tặng không hạn giới mức độ đo lường. Tình yêu là Thập giá. Thương yêu, thương yêu và yêu thương. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Yêu thương là giới răn của Chúa và dường như chỉ có một giới răn duy nhất đó. Giới răn này làm Chúa quan tâm nhất. Khi con yêu thương tha nhân, con làm điều mà Chúa đã luôn luôn làm. Khi yêu thương, chúng ta làm cho “Thiên Chúa ngự trị” và tạo được một khung trời đẹp cho con người. Tôi duyệt xét lại cuộc sống cụ thể của tôi dưới ánh sáng này. Người này, người kia đối với tới họ là ai? Tôi phải thương yêu ai? Tôi phải chịu trách nhiệm về ai? Ai đang mong đợi gì ở tôi? thái độ của tôi đối với người xung quanh, gia đình và đồng nghiệp thế nào?
Anh em hãy ở trong tình yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy. Anh em là bạn hữu của Thầy. Nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.
Đối với nhiều người trong thời đại chúng ta, động lực tình yêu dừng lại ở sự đoàn kết với anh em. Những đôi vợ chồng, những gia đình, và các chủng tộc cần phải thương yêu lẫn nhau. Lúc bấy giờ ta có thể nói đến “chân trời tình yêu” (tình yêu theo một chiều ngang); vũ trụ của con người giới hạn ở chân trời trên mặt đất.
Đối với Chúa Giêsu, rõ ràng có một “chiều dọc thẳng đứng” kép đôi xuyên qua con người: Tình yêu từ trên cao Thiên Chúa đến với chúng ta, cũng phải trở về chốn cao sang, trở về với Thiên Chúa. Còn phải có một số rất đông người trở thành “Môn đệ của Chúa”, nghĩa là những người ý thức được những gì đang diễn ra tuồng tình yêu ở nơi trần thế. Phải nhận ra tình yêu, phải nhận biết Thiên Chúa và yêu mến người. Và chúng ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi tình yêu này: “Anh em hãy trung tín, và ở trong tình yêu của Thầy, anh em hãy là bạn hữu của Thầy. Những môn đệ của Chúa Giêsu, các Kitô hữu, là thành phần của nhân loại đang mến Chúa Giêsu một cách có ý thức: Trách nhiệm vô cùng lớn lao!
Nói cho cùng loài vật cũng thương yêu lẫn nhau. Nhưng con người trong vũ trụ chẳng những có khả năng sống năng lực tình yêu lớn lao này, mà còn biết được khả năng này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, để tạ ơn Thiên Chúa nguồn mạch tình yêu.
Cũng như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở trong tình thương của Người.
Lúc bấy giờ vòng chuyển động đã hoàn tất. Chuyển động vĩ đại, phát xuất từ Chúa Cha, đã trở về với cội nguồn, và chúng ta có thể chiêm ngắm viễn tượng mà Chúa Giêsu đang có về con người. Một nhân loại được Thiên Chúa thương yêu. Một Thiên Chúa Cha. Một nhân loại huynh đệ, thương yêu lẫn nhau. Một nhóm môn đệ, một Hội Thánh biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa Cha.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Niềm vui của Chúa Giêsu là được Chúa Cha thương yêu và yêu thương anh em, là nhận ra Chúa Cha và yêu mến Người. Niềm vui phải là đặc tính của người Kitô hữu, đó cũng là đặc tính của Chúa Giêsu.
‘Thế mà có một số người thường hỏi: trở nên người Kitô hữu thì có khác gì.
63. Chú giải của William Barclay.
ĐỜI SỐNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
(Ga 15,11-17)
Điều chính trong đoạn này là Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài biết, chính Ngài đã chọn họ. Không phải chúng ta đã chọn Chúa, nhưng bởi ân sủng và tình thương, Chúa đã kêu ghọi, chọn lựa chúng ta.
Từ đoạn này, chúng ta có thể liệt kê những điều tuyệt diệu khi được chọn và được gọi.
Chúng ta được chọn để vui mừng. Dù đường đi của Kitô hữu có khó khăn đến đâu trong cả hành trình lẫn mục đích, vẫn là con đường. Trong việc làm phải, làm đúng, bao giờ cũng có niềm vui. Kitô hữu là người luôn vui mừng. Kitô hữu u sầu là một điều mâu thuẫn. Thật sự Kitô hữu nào cũng là tội nhân, nhưng là tội nhân đã được tha thứ và cứu chuộc, niềm vui nằm ngay trong sự kiện đó. Làm sao không vui mừng khi chúng ta đang đi trên con đường sống với Chúa Giêsu.
Chúng ta được chọn để yêu thương. Chúng ta được sai đi vào thế gian để yêu thương. Nhiều khi chúng ta sống như thể được sai đến thế gian để tranh đua, cãi lẫy và đánh đấm nhau. Nhưng Kitô hữu đã được sai vào thế gian, để vừa sống vừa chứngminh cho người khác thấy ý nghĩa của tình yêu đối với nhau. Ở đây, Chúa Giêsu nêu ra một lời tự xưng quan trọng khác. Nếu chúng ta hỏi Ngài: Thầy lấy quyền gì mà đòi hỏi chúng tôi phải yêu thương nhau? Ngài đáp: Chẳng có tình yêu nào lớn hơn là phó mạng sống vì bạn mình, và Ta đã làm như thế. Nhiều người dạy người ta yêu mến lẫn nhau, nhưng cả cuộc đời họ cho thấy việc đó họ làm sau cùng. Chúa Giêsu ban bố một mệnh lệnh mà chính Ngài đã làm trước nhât.
Chúng ta được gọi để trở thành bạn của Chúa Giêsu. Chúa bảo Ngài không gọi các môn đệ là đầy tớ (douloi) nữa, mà gọi họ là bạn hữu. Câu này có ý nghĩa cho những nguơì nghe lần đầu tiên hơn là cho chúng ta ngày nay. Danh hiệu “douloi”, nô lệ, đầy tớ, tôi tớ của Chúa không phải là danh hiệu đáng xấu hổ, nhưng là một vinh dự lớn. Môsê là một douloi, nô lệ tôi tớ của Chúa (Đnl 34,5), Giôsê cũng vậy (Gs 24,29), Đa-vít cũng thế (Tv 89,20). Phaolô kể danh hiệu này là một vinh dự (Tt 1,1) và Giacôbê cũng vậy (Gc 1,1). Những nhân vật lỗi lạc nhất trong quá khứ hãnh diện khi được Chúa gọi là douloi (tôi tớ) của Chúa. Chúa Giêsu phán: “Ta còn có một điều cao trọng hơn cho các ngươi, các ngươi không còn là tôi tớ nữa mà là bạn thân của Ta”. Chúa Giêsu ban tặng một địa vị thân thiết với Ngài, mà ngay đến các nhân vật lỗi lạc nhất vẫn không biết, cho tới khi Ngài đến thế gian.
Nhưng ý niệm làm bạn với Chúa có một bối cảnh lịch sử. Abraham là bạn của Chúa (Is 41,80). Sách Khôn Ngoan 7,27 cho biết sự khôn ngoan làm cho người ta trở thành bạn của Chúa. Nhưng từ này còn được minh hoạ bằng một tập tục vốn có trong triều đình các hoàng đế Rôma lẫn các vua phương Đông. Trong các triều đình ấy, có một nhóm người được tuyển chọn, họ được gọi là bạn của vua. Họ được diện kiến nhà vua bất cứ lúc nào, họ được quyền vào cả phòng ngủ của vua lúc sáng sớm. Nhà vau thảo luận với họ trước khi họp bàn với các tướng lãnh và các quan chức. Các bạn của vua là những nhân vật có liên hệ gần gũi, thân cận nhất với vua.
Chúa Giêsu đã gọi chúng ta để làm bạn với Ngài và với Thiên Chúa. Đó là một đặc ân kỳ diệu. Chúng ta không còn phải đứng từ xa, nhìn về phía Ngài mà chờ đợi. Chúng ta không còn là những nô lệ chẳng có chút quyền ra mắt chủ, không như đám đông chỉ đứng xa nhìn thoáng bóng nhà vua đi ngang qua nhân một cơ hội hết sức hiếm hoi. Chúa Giêsu làm một việc lạ lùng: Ngài cho phép chúng ta được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn là người lạ cách biệt chúng ta, nhưng là bạn thân của chúng ta.
Chúng ta được gọi để làm bạn cộng tác với Chúa Giêsu. Ngài không chỉ gọi và chọn chúng ta để ban cho một loạt các đặc ân diệu kỳ, mà Ngài muốn chúng ta trở thành bạn cộng tác với Ngài. Nô lệ chẳng bao giờ là bạn cộng tác,người cùng hùn hạp làm ăn với chủ. Theo luật Hy Lạp, nô lệ được định nghĩa là một công cụ sống, chủ chẳng bao giờ trao đổi ý kiến với nô lệ, nô lệ bị sai bảo phải làm việc mà không được giải thích lý do. Nhưng Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Các bạn không phải là nô lệ mà là bạn cùng cộng tác với tôi. Tôi đã nói cho các bạn biết mọi việc. Tôi đã nói cho các bạn những gì Thiên Chúa Cha đã nói với tôi”. Chúa Giêsu dành cho chúng ta danh dự làm bạn cộng tác với Ngài, Ngài chia sẻ tâm sự với chúng ta, cho ta biết kế hoạch, mục tiêu và kỳ vọng của Ngài. Một sự lựa chọn quan trọng được đặt ra trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hoặc khước từ việc cộng tác với Chúa Giêsu trong việc đưa thế gian trở về với Thiên Chúa.
Chúa chọn chúng ta làm sứ giả. Ngài phán: “Ta đã chọn các con để sai các con đi”. Ngài không muốn chúng ta sống đời ẩn tu, trốn trách thế gian. Khi một hiệp sĩ đến chầu vua, người ấy không muốn cả đời chỉ yến ẩm tiệc tùng và bầu bạn với vua, người ấy đã xin “Xin hãy phái thần đi làm nhiêm vụ để bệ hạ và toàn dân được ích”. Chúa Giêsu chon chúng ta, trước hết để chúng ta đến với Ngài, sau đó là để ra đi, đến với người thế gian. Đó là mầu mực và nhịp điệu hằng ngày của đời sống chúng ta.
Chúng ta được chọn để trở thành người truyền giáo. Ngài chọn chúng ta để ra đi và mang lại kết quả. Những kết quả vững bền qua mọi thời gian. Phương pháp truyền giáo là sống đời sống Kitô hữu, phương pháp đưa người ta đến với niềm tin là chỉ cho họ thấy kết quả của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu không sa chúng ta đi tranh luận để bắt người ta theo đạo, chũng không để doạ để họ theo đạo, nhưng thu hút họ đến với đạo Chúa. chúng ta phải sống sao cho đời sống đạt kết quả diệu kỳ, đến nỗi nhiều người khác cũng ao ước được như thế.
Chúa chọn chúng ta để trở thành con cái tràn đầy đặc ân trong gia đình của Chúa. Ngài chọn chúng ta để bất luận chúng ta nhân danh Ngài cầu xin điều gì, thì Chúa Cha sẽ làm cho. Một lần nữa chúng ta đối diện với một trong những khẳng định quan trọng, liên hệ đến việc cầu nguyện mà chúng ta cần thấu triệt. Nếu nghĩ không kỹ thì dường như câu này có nghĩa là Kitô hữu, người được chọn của Chúa Kitô, sẽ nhận được tất cả những gì mình cầu xin. Chúng ta đã đề cập đến vấn đề, nhưng cũng nên suy gẫm thêm lần nữa. Tân Ước có quy định một số luật lệ rõ ràng về vấn đề cầu nguyện.
a. Cầu nguyện phải bởi đức tin (Gc 5,15). Nếu chỉ theo hình thức, chiếu lệ, thói quen nhắc đi nhắc lại những lời đúng theo một công thức, ước lệ nào đó, thì lời cầu nguyện ấy sẽ không được chấp nhận. Khi lời cầu nguyện không có hy vọng thì không thể linh nghiệm được. Nếu xin Chúa thay đổi mình, mà không tin mình có thể thay đổi được, lời cầu nguyện sẽ chẳng ích lợi. Muốn cầu nguyện nơi tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa.
b. Phải cầu nguyện trong danh Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể xin điều gì mà Chúa không đồng ý. Chúng ta không thể xin để nhận được gia tài bất hợp pháp của một người nào đó hay để được những điều bị cấm đoán. Chúng ta không thể xin cho một tham vọng nào đó được thành tựu nếu nó khiến người người khác bị tổn thương, hoặc thiệt hại. Chúng ta không thể nhân danh Đấng Yêu Thương để xin Ngài báo thù các kẻ thù của mình. Bất cứ lúc nào chúng ta cố gắng biến cầu nguyện thành điều giúp mình thực hiện các tham vọng riêng tư, để thoả mãn các ước muốn cá nhân, lời cầu nguyện sẽ không linh nghiệm, vì như thế không phải là cầu nguyện.
c. Cầu nguyện phải thuận theo ý Chúa. Mỗi khi cầu nguyện, trước hết phải nhận biết mình chẳng bao giờ hiểu biết hơn Chúa. Yếu tính của lời cầu nguyện không phải để thay đổi ý Chúa, nhưng để xin “Ý Cha thể hiện”. Vì vậy, lời cầu nguyện đích thực không phải là xin Chúa đem đến điều mình muốn, nhưng xin Ngài cho chúng ta sẵn sàng chấp nhận điều Ngài muốn.
d. Lời cầu nguyện không bao giờ được vị kỷ. Thoạt nghe qua thì tưởng Chúa Giêsu đưa ra một vấn đề hết sức dễ dãi. Ngài phán nếu hai người đồng ý với nhau để xin điều gì, Ngài sẽ ban cho (Mt 18,19). Chúng ta không nên hiểu câu này theo nghĩa đen nông cạn, vì như thế có nghĩa đơn giản là nếu bạn “động viên” để nhiều người cùng cầu xin một điều gì đó, thì việc đó sẽ xảy ra. Nhưng câu ấy có nghĩa là: Khi cầu nguyện, không nên chỉ nghĩ đến các nhu cầu của riêng mình mà thôi. Thí dụ đơn giản nhất là vào ngày nghỉ, người công nhân chắc phải xin trời nắng tốt, trong khi có lẽ bác nông dân lại xin trời mưa. Khi cầu nguyện, chúng ta không nên hỏi, “điều này có lợi gì cho tôi?” mà phải hỏi “Việc này có ích cho tất cả mọi người không?”. Sự cám dỗ lớn nhất trong khi cầu nguyện là dường như chỉ có vấn đề của mình là quan trọng, còn vấn đề của người khác thì chẳng cần quan tâm tới. Một lời cầu nguyện như vậy sẽ không thể linh nghiệm được.
Chúa Giêsu đã chọn chúng ta để trở thành những thành viên được đặc ân, ưu quyền trong gia đình Chúa. Chúng ta có thể và nên dâng mọi sự lên cho Chúa trong khi cầu nguyện. Nhưng không nên tìm câu trả lời theo sự hiểu biết hạn hẹp, hay theo ước muốn bất toàn của mình, mà phải chấp nhận câu trả lời của Chúa theo sự khôn ngoan và tình yêu trọn vẹn của Ngài. Càng yêu mến Chúa chúng ta càng vâng phục ý Chúa.
64. Đôi bạn chân tình – Như Hạ, OP
Không dễ gì kiếm được một người bạn. Người bạn đem lại nguồn an ủi, cơ hội và niềm vui lớn lao. Tình bạn có thể chia sẻ và hi sinh tất cả cho nhau. Thử tưởng tượng thế giới sẽ ra sao nếu vắng hẳn tình bạn. Về một phương diện, tình bạn còn quan trọng hơn mọi thứ tình yêu khác. Vả lại, thường tình yêu cũng bắt đầu bằng tình bạn và lớn lên trong tình bạn. Tình bạn đẹp đến nỗi Đức Giêsu cũng muốn lên một sự thật: “Anh em là bạn hữu của Thầy” (Ga 15:14).
TRI ÂM
Đức Giêsu muốn yêu thương con người bằng một tình bạn thắm thiết. Người không muốn có một cách biệt quá xa như chủ tớ, mặc dù giữa Người và nhân loại khoảng cách còn xa hơn ngàn lần. Nhưng tương quan phải thật gần gũi mới cảm thấu được tình yêu sâu đậm dành cho nhau. Người như quên tất cả địa vị của mình. Làm sao một tạo vật như chúng ta có thể dám mơ ước trở thành người bạn tri âm của Thiên Chúa? Nhưng Người từng tâm sự: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” (Ga 15:15). Như thế, con người đã được nâng lên hàng bạn thân của Chúa. Nếu cứ để nhân loại trong hàng nô lệ hay tôi tớ, làm sao Thiên Chúa bắc nổi nhịp cầu tri âm? Một khi đã coi các môn đệ là tri âm, Đức Giêsu đã chia sẻ cho họ sự hiểu biết về Chúa Cha (Ga 14:20). Như thế Người đã làm cho họ mãn nguyện. Người đã có thể tâm sự sâu xa với họ về cái chết của Người cho toàn thể nhân loại. Vì yêu thương, Người đã săn sóc họ tận tình, đến nỗi đã quì xuống rửa và hôn chân họ. Đó là một bài học nhưng cũng là dấu chỉ báo trước sự hi sinh cực kỳ sâu xa. Cúi xuống thật sâu để nâng họ lên ngang hàng với mình. Một khi đã được nâng lên, họ hoàn toàn được tin tưởng và ủy thác tất cả sứ mạng cứu độ muôn dân. Chính trong tình yêu, Thầy đã “cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15:16).
Muốn thế, trước tiên các môn đệ phải được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Đó là một hồng ân cao cả, là điều kiện tối thiểu để có thể đi sâu vào tình yêu Thiên Chúa. Chỉ vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban tặng một giá trị và địa vị tuyệt vời cho nhân loại. Trong tương quan này, Thiên Chúa đã trao hiến một cách vô thường. Không thể tìm đâu một sự trao hiến kỳ diệu hơn thế. Quả thực, nơi thập giá, Đức Giêsu cho thấy “không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Họ đáng hưởng tình yêu cao cả đó, vì đã được nâng lên hàng tri âm của Chúa. “Những bạn hữu của Đức Giêsu là những người có quan hệ gắn chặt với Chúa (Ga 13:23 tt; 19:26; 11:3). “Mình với ta tuy hai mà một”. Họ sung sướng vì được trở nên “đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8:17). Như thế, họ là những người đặc biệt đón nhận mạc khải về Chúa Cha và được kết hiệp bằng những mối ràng buộc trong ‘nhà’ Thiên Chúa (Ga 14:20)” (Faley 1994:350). Họ có thể đi lại tự nhiên và hưởng dùng mọi thứ trong ngôi nhà đó, vì từ đây “tất cả những gì của Cha là của con” (Lc 15:31).
Hạnh phúc đó vượt quá lòng mong đợi của các môn đệ. Chính nhờ hạnh phúc đó mà “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Muốn niềm vui trọn vẹn, phải “ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). Nếu không, sự chia cắt sẽ gây nên nhức nhối. Cả Thầy lẫn môn đệ đều không vui. Chính Đức Giêsu cũng chỉ giữ được niềm vui trọn vẹn với Chúa Cha, nếu “ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Tình yêu là giây nối kết bền vững giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Tình yêu đó không phải là một thứ lượm ngoài đường, nhưng phải là kết quả của mồ hôi nước mắt khi nỗ lực “giữ các điều răn của Thầy” (Ga 15:10). Điều răn của Thầy không phức tạp và khó khăn như luật lệ Do thái hay dân ngoại. Rất đơn giản. “Đây là giới răn của Thầy: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12). Nghĩa là, thực tế “Thầy yêu thương anh em đến nỗi thí mạng vì anh em. Đến lượt anh em cũng phải thí mạng cho nhau”. Đó là mức hi sinh lớn lao do tình yêu đòi hỏi. Không hi sinh, chắc chắn không thể có tình yêu. Đó là mức đo tình yêu Đức Giêsu đối với Chúa Cha, và tình yêu môn đệ đối với Đức Giêsu.
Trong tình yêu, Thiên Chúa luôn đưa ra sáng kiến trước. Người làm tất cả để chiếm đoạt trái tim con người. Người muốn gần gũi như bạn tri âm, để nói cho biết về lòng hăng say hăm hở lùng kiếm tình yêu như thế nào. Nhưng trong rừng người trước mặt, tại sao chỉ có một số được tuyển chọn? Lọt vào mắt xanh của Chúa, quả thực là một đại phúc. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15:16). Họ không được tuyển chọn để sống một mình, nhưng để sống thành cộng đoàn. Ơn gọi và sứ mệnh Kitô hữu luôn đòi phải sống trong tương quan với người khác. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu phải lên tiếng: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15:17).
SỨC MẠNH TRI ÂM
Đức Giêsu đã xác định rõ tương quan bằng hữu giữa Người và các môn đệ. Kitô hữu có nghĩa là người bạn của Chúa Kitô. Một khi đã tâm đầu ý hợp, tình tri âm này sẽ biến thành một sức mạnh vạn năng, đến nỗi “tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Ga 15:16). Từ đầu, nhờ nên một với Đức Giêsu, Giáo hội đã cầu xin Chúa Cha ban Thánh Linh mở rộng sứ mạng truyền giáo cho Dân Ngoại. Chúa Cha đã nhận lời. Thánh Linh chính là tình yêu, một “tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (1 Ga 4:7). Hơn nữa, “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Do đó, tình yêu không biết đến bất cứ ranh giới nào. Tình yêu đã được thể hiện một cách vô cùng mãnh liệt khi Thiên Chúa “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10). Thiên Chúa cũng không ra khỏi định luật đòi hỏi của tình yêu: HI SINH.
Chính vì hi sinh lớn lao đó, Giáo hội mới có khả năng đến với muôn dân. Trên bước đường đến với muôn dân, Giáo hội luôn bị cám dỗ co cụm lại chính mình. Trong Giáo Hội tiên khởi, những tín hữu thuộc giới cắt bì đã trở thành kỳ đà cản mũi. Nếu Thánh Linh không can thiệp, chắc chắn không ai có thể dẹp nổi những não trạng cục bộ đó. Thực tế, “những tín hữu thuộc giới cắt bì đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa” (Cv 10:45). Giáo Hội đã có đà phóng tới. Cái nhìn Giáo Hội đã mở rộng đến nỗi thánh Phêrô có thể cả quyết: “Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì bất cứ họ thuộc dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận” (Cv 10:35). Không phải tới công đồng Vatican II, Giáo Hội mới khám phá ra các thánh ngoại giáo. Ngay từ đầu, Thánh Linh đã cho thấy những khuôn mặt hết sức dễ thương trong cộng đồng dân ngoại.
Tuy thế, tới nay cám dỗ vẫn còn đó. Giáo Hội vẫn luôn luôn phải đương đầu với những thứ kỳ đà cản mũi. Ngay trong cộng đồng dòng tu, vẫn có những cơ cấu hay con người bảo vệ một thứ quyền lợi riêng tư nào đó. Chẳng hạn, có những tỉnh dòng Đa Minh chỉ nhận những người gốc Ái Nhĩ Lan. Có những tranh chấp lớn nhỏ giữa triều và dòng khắp nơi trong Giáo Hội. Tại sao Giáo Hội lại đánh mất tính phổ quát ngay chính nơi cần phải làm chứng đặc tính Công giáo hơn bất cứ nơi nào? Một tình yêu đánh mất chiều kích vô biên, có còn phát xuất từ Thiên Chúa không? Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa, tình yêu đó làm chứng cho cái gì?
Thế nên, Giáo Hội vẫn cần đến Thánh Linh để canh tân chính mình hầu xứng đáng là bạn tri âm của Chúa. Chỉ trong tình tri âm với Chúa, Giáo Hội mới có thể nghe được tất cả mạc khải về tình yêu và nói về tình yêu cho người khác. Giáo Hội đang mất thế đứng tại nhiều nơi trên thế giới vì đã bị những quyến rũ của quyền bính kéo Giáo Hội xa lìa mối tình tri âm đó. Hơn lúc nào, cần phải cầu nguyện cho Giáo Hội, một người bạn tình của Chúa!
65. Thầy ban bình an của Thầy
(Suy niệm của Fr Jude Siciliano, OP)
Thưa quí vị.
Suốt các tuần lễ mùa Phục sinh, Phúc âm nói đến việc Chúa Giêsu sống lại và hiện ra với các Tông đồ. Nhưng tuần vừa qua và tuần này có một chút chuyển hướng. Phụng vụ trích đọc từ bài huấn dụ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Mặc dầu chúng ta vẫn còn đang ở trong mùa Chúa sống lại hiển vinh, nhưng tại sao các bài đọc Tin mừng lại nói về đêm ngay trước cuộc tử nạn? Tức những lời chăng chối Chúa Giêsu dành cho môn đệ? Dụng ý phụng vụ có thể là vì trong bài huấn dụ, Chúa Giêsu nói nhiều về chia ly, hứa hẹn, cam đoan, dặn dò, di chúc, thích hợp cho việc chuẩn bị mừng lễ Chúa lên trời. Khi ấy, các môn đệ chẳng còn được trông thấy Chúa nữa, nhưng Hội Thánh và thế giới vẫn được bảo đảm sẽ cảm nhận sự hiện diện của Ngài cách khác. Ngài lên ngự bên hữu Thiên Chúa Cha và gởi Thần Khí xuống Giáo hội, tức lễ Hiện xuống. Như vậy các môn đệ và Hội Thánh được an ủi. Bởi Ngài giống như các cha mẹ, tuy tạm thời lìa bỏ con cái, nhưng vẫn lo liệu cho chúng được an lành. Những đứa con mà Ngài biết còn phải ở lại thế gian để tiếp tục công việc cứu nhân độ thế của Ngài.
Do đó, một điểm rõ nét trong bài đọc Tin mừng Chúa nhật này là Chúa Giêsu cam đoan hằng ở lại trong mối tương quan mật thiết với Hội Thánh. Ngài không giống như những bậc hiền triết thế gian, xuống thế chỉ trong một thời gian ngắn nào đó, khởi sự công việc, rồi trẩy đi nơi xa, hẹn ngày trở lại để kiểm tra công việc của các môn đệ. Nói cách khác, Ngài không xuống thế gian để thiết lập một mẫu người lý tưởng cho chúng ta bắt chước, rồi rời bỏ chúng ta mà về trời, mặc chúng ta tự thân sống theo gương Ngài. Hiện Ngài không đứng trên Cổng Đền Vàng Thiên Cung, chờ đợi chúng ta hoàn thành công việc, thẩm tra xem chúng ta đã cố gắng thế nào trong tiến trình theo gương Ngài, rồi tuyên án thưởng phạt cho cân xứng.
Thực tế, chúng ta chẳng cần một thần tượng để sống rập theo khuôn. Chúng ta cần một vị Cứu tinh. Đấng đã một lần sống chết cho nhân loại. Đấng luôn ở với nhân loại để ban sức mạnh và hướng dẫn chúng ta sống chết theo gương Ngài, bằng chính cuộc đời mình. Hôm nay cũng như Chúa nhật vừa qua, sứ điệp quan trọng nhất của Chúa Giêsu là ở lại trong Ngài. Đó là đường lối để chúng ta thi hành lệnh truyền yêu thương của Ngài. Chính Ngài ban ơn để chúng ta sống đời sống của Ngài. Sự thật là tự mình, chúng ta chẳng thể sống như vậy. Không liên kết với Ngài, dù cố gắng đến mấy đi nữa chúng ta chỉ như ngành nho khô héo. Không ơn Ngài, không ở lại trong Ngài, không có sự hiện diện của Ngài, thì dù Giáo hội hoặc mỗi cá nhân, không thể sống ơn gọi thương yêu mà bài Tin mừng hôm nay đề cập tới: “Hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu anh em.” Tình yêu của Ngài là tình yêu hy sinh mạng sống cho người khác. Chúng ta có thể làm được chuyện đó mà không cần ơn Ngài trợ giúp?
Một số người phàn nàn rằng từ sau Công đồng Vatican II Hội Thánh đã trở nên mềm yếu, toàn nói về tình yêu. Họ muốn trở lại thời kỳ trước Công đồng, cứng rắn và bất khoan dung, trắng ra trắng, đen ra đen, không mập mờ nước đôi. Họ nhớ lại thời niên thiếu của mình, mà hối tiếc nếp sống kỷ luật cũ. Nhưng chúng ta không còn là trẻ con. Lệnh truyền yêu thương đã có từ thời Chúa Giêsu. Đấng sáng lập Hội thánh, chứ không phải sáng kiến của Vatican II hoặc xu thế của thời đại mới. Chính Chúa Giêsu đã ban lệnh truyền: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (15,12).
Ngài còn thêm: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” (15,14). Nghĩa là Ngài không nói với Giáo hội, với các Tông đồ trong tư thế một ông chủ (nói với nô lệ) mà là người bạn (với bạn hữu mình). Tôi tớ, nô lệ phải chấp hành kỷ luật của ông chủ. Đời sống của họ được ông chủ hoạch định và chỉ huy. Nếp sinh hoạt của các tín hữu không theo mẫu mực đó. Ngược lại tình yêu là căn bản để họ sống. Ngài bảo đảm Thiên Chúa đã thương yêu họ trước, chẳng phải vì công lênh mỗi người, nhưng hoàn toàn vì ân huệ. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thể hiện lòng yêu mến đó. Chúng ta là bạn hữu của Ngài cho nên Ngài yêu cầu chúng ta sống như bạn hữu với nhau, không thù hận, không ghen tương. Từ “bạn” trong mạch văn có nghĩa là những “người được mến yêu”. Chúng ta phải sống đúng tiêu chuẩn đó, bởi chúng ta là những môn đệ được Ngài yêu thương.
Trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, các tín hữu dùng những danh từ khác nhau mà miêu tả mình, khi sang trọng, như “ngôn sứ”, đại diện, đại sứ, môn đệ, sứ giả của Ngài, khi khiêm nhượng, như bầy tôi, nô lệ, thuộc hạ… Trong Kinh thánh đôi lúc cũng dùng các từ đó. Nhưng ở trường hợp này, trước lúc ra đi, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là bạn hữu dấu yêu và Ngài sẽ hy sinh mạng sống để cứu vớt họ. Thật là một tình yêu cao cả. Bởi đây là giây phút nghiêm trọng nhất trong cuộc đời Ngài, không thể khách sáo hay giả hình. Hoàn toàn là sự thật và chân thành. Những tác giả viết các dòng trên là môn đệ nhiệt thành của Chúa Giêsu. Họ có ấn tượng sâu sắc về các điều quan trọng Thầy mình đã dạy, cho nên họ không thể viết sai chân lý. Những điều họ để lại cho nhân loại hoàn toàn đúng với sự thật mà họ đã được nghe và chứng kiến.
Chúng ta không thể nghi ngờ về nội dung họ viết ra, chỉ có điều chúng ta thực hiện hay không! Chúa Giêsu biết rõ thế gian sẽ đối xử tàn tệ với các môn đệ và những người vâng theo giáo lý của Ngài, cho nên Ngài bảo đảm với họ, dù thế nào đi nữa, tồi tệ đến đâu đi nữa, thì họ vẫn được Ngài yêu dấu. Trong Tin mừng hôm nay, Ngài nhắc đi, lặp lại nội dung đó nhiều lần. Thành công của họ trên thế giới không phải theo tiêu chuẩn loài người: địa vị, tài sản công danh, tiền bạc… mà là trung tín với những lời sau đây: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy”. (15,9). Quí vị nghĩ sao? Còn điều gì tha thiết hơn được nữa? Vậy xưa nay chúng ta đáp trả lòng quí mến của Chúa Giêsu thế nào? Nếu chưa được nghiêm chỉnh thì hôm nay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta hạ quyết tâm trung thành với lời mời gọi của Chúa.
Còn điểm sau đây nữa cũng phải bàn cho thấu đáo, tuy rằng có khi trước đây đã nghe giảng giải nhiều lần. Nhưng hễ gặp chữ yêu thương mà Chúa Giêsu nói tới, nhiều người tưởng tượng là thứ tình yêu khả giác chúng ta dành cho cha mẹ, ông bà, con cái, họ hàng, bạn bè và các thành viên khác của gia đình. Không đúng vậy. Từ mà Chúa Giêsu dùng ở đây là “Agape” (bác ái). Tức yêu thương rộng rãi, không loại trừ. Nó không phải là yêu thương dành cho thân thuộc mà thôi, nhưng cho hết mọi thành viên trong nhân loại, dầu tốt, dầu xấu. Nó không phải là tình yêu theo bản năng, ưa thích những gì đẹp đẽ nơi người khác, mà là sẵn lòng vươn tới tha nhân, hành động vì lợi ích của họ, dù người đó có liên hệ với mình hay không, miễn là họ cần đến sự trợ giúp của mình. Nhiều lúc còn phải hy sinh tiền của, thời giờ, sức lực nữa. Chúa Giêsu đã làm gương về lòng yêu mến kiểu “Agape” này. Ngài đã hy sinh chính bản thân cho nhân loại. Thiên Chúa yêu trần thế một cách vô điều kiện, tức không đòi hỏi ở chúng ta tính đáng yêu, đáng mến trong ngôn ngữ thế gian. Sự chết của Chúa Giêsu trên thập tự phản ánh một cách hoàn hảo tình yêu Đức Chúa Trời dành cho loài người. Ngài yêu chúng ta cho nên Ngài đã đi bước trước để chứng tỏ tình yêu đó. Ngài hành động nguyên vì sự an lành của nhân loại.
Cho nên, “mang nhiều hoa trái” là hệ quả đương nhiên của trạng thái ở lại trong Chúa Giêsu. Cằn cỗi, vô sinh là bằng chứng chúng ta không còn ở lại trong tình yêu của Ngài. Chúng ta đã bị cắt đứt khỏi thân nho. Như vậy cũng dễ thẩm định hiện trạng của mỗi linh hồn. Hằng ngày chúng ta phải hồi tâm suy nghĩ để xem mình còn thực sự ở lại trong Chúa hay không? Thực ra, ẩn dụ: “mang nhiều hoa trái” có nhiều ý nghĩa, áp dụng được vào rất nhiều tình huống. Theo Tin mừng Gioan, mang nhiều hoa trái là rao giảng và làm chứng tình yêu của Chúa Giêsu cho thế gian. Mặc dầu Ngài sắp lìa bỏ các môn đệ, nhưng các ông vẫn liên kết chặt chẽ với Ngài trong lòng yêu mến, mang nhiều hoa trái và ở lại trong tình thương của Ngài.
Tuy nhiên làm thế nào Chúa Giêsu duy trì liên hệ với nhân loại, một khi đã về trời? Xin thưa, cũng giống như mọi mối liên hệ khác: Bằng tương giao. Chúa Giêsu tiếp tục làm mưa Thần Khí của Ngài trên các Tông đồ và Hội Thánh. Các Tông đồ và Hội thánh vừa lãnh nhận, vừa đáp ứng sự hiện diện của Thần Khí. Trong Phúc âm hôm nay, sự đáp ứng đó, như Chúa Giêsu nói, là niềm vui trọn vẹn: “Các điều ấy, Thầy nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.” (15,11). Cũng như các Tông đồ thuở xưa, ngày nay người tín hữu phải gieo rắc và làm chứng nhân cho niềm vui của Thiên Chúa.
Tác giả Leon Bloy viết: “Người Kitô hữu chỉ có nỗi buồn duy nhất: Mình chưa phải là một vị thánh.” Ngoài ra không còn nỗi buồn nào khác. Có thể thế gian còn làm cho chúng ta đau khổ, có thể nó còn rình chờ để nuốt chửng Hội thánh. Nhưng ở lại trong Chúa Giêsu bảo đảm sự hiện diện của Ngài. Nhờ sự hiện diện này, linh hồn mỗi người tràn ngập niềm vui. Các thánh đều đã cảm nghiệm được như vậy. Có vị suốt đời hớn hở vui mừng dù phải chịu muôn vàn cực hình thể xác. Theo kinh nghiệm truyền giáo của Hội thánh, nhiều tín hữu tốt cũng thường được hưởng niềm vui này. Do đó, nếu có ai (tu sĩ hay giáo dân) cảm thấy bất hạnh trong bậc sống của mình, thì đó là vì không còn ở trong con đường thánh thiện nữa.
Xưa nay vẫn thường xảy ra bất mãn, rồi tìm cớ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Không có hoàn cảnh nào làm cho người tín hữu mất vui, mất hạnh phúc, nếu như còn ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu! Thế gian đã không thắng được Ngài thì ở lại trong Ngài chắc chắn sẽ đưa chúng ta đến hạnh phúc. Tôi được quen biết nhiều gia đình giáo dân, bên ngoài xem ra bất hạnh, như bệnh tật, tuổi già, nghèo khổ. Nhưng kỳ thật, họ rất hạnh phúc, và làm chứng cho nhau về niềm vui của Thiên Chúa. Họ phục vụ nhau trong hoan hỉ vui tươi khiến tôi phải mủi lòng và xấu hổ. Khi vua Napoleon của nước Pháp thất bại, bị bệnh gần chết ở đảo Saint Hélène, người ta tiến lại gần giường nhà vua, hỏi xem ngày nào là ngày hạnh phúc nhất của ông. Nhà vua quay mặt ra cửa sổ nhìn biển xanh, rồi trả lời: “Ngày tôi được rước lễ lần đầu. Có Chúa Giêsu ngự trong linh hồn tôi”. Đúng vậy, muốn được hạnh phúc thật, người ta phải ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa. Ngoài ra là bất hạnh. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của thầy cho anh em. Thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng.” (14,27). Amen, Alleluia.
66. Trở nên bằng hữu Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP – Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại những hoạt động của Chúa Thánh Thần trên các Tông Đồ và những Kitô hữu đầu tiên. Đó chính là hành động của Thiên Chúa trong chúng ta, và nhắc cho chúng ta nhớ lúc Giáo hội sơ khai còn non yếu, nhờ Lời Chúa Giêsu hứa trước khi Ngài về trời: “Còn anh em, hãy… cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”(Lc 24:49)
Lời Chúa Giêsu hứa không phải là chút an ủi cho các Môn đệ trước khi Ngài ra đi. Hay để hướng dẫn cho các ông cách thực hiện những điều Ngài đã dạy bảo. Nhưng đây chính là lời hứa là Ngài sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến với các Môn đệ. Và trong khi các ông đang tề tựu bên nhau (Cv 2:1), Chúa Thánh Thần đã ngự xuống như “lưỡi lửa” và như “tiếng gió mạnh ùa vào”. Các Môn đệ và cả chúng ta nữa, cần sức mạnh ấy để rao giảng Nước Trời cho toàn dân thiên hạ. Thần lực của Chúa Thánh Thần là động lực thúc đẩy Giáo Hội đi khắp thế gian để rao giảng và làm phép rửa nhân danh Chúa Giêsu.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe về việc Chúa Thánh Thần dẫn đưa Phêrô đến để nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi dân ngoại. Co-nê-li-ô là một đại đội trưởng một cơ đội của Sê-Da. Ông và cả gia đình đều được coi như là những “người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa”. Họ chấp nhận đạo đức và tín ngưỡng của người Do Thái, và có lẽ họ cũng đã đến đền thờ Do Thái. Dù vậy, Co-nê-li-ô vẫn còn là người ngoại, nên Phêrô và các người khác trong cộng đòan không nghĩ ông và gia đình ông được ơn cứu rỗi của Chúa. Nên nhớ: sau khi Chúa Giêsu về trời, các Môn đệ Ngài vẫn còn là một nhóm trong cộng đòan Do Thái.
Nhưng, đoạn trước bài đọc hôm nay, ghi lại Co-nê-li-ô có thị kiến: ”một thiên sứ của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn, cũng gọi là Phê-rô” (Cv 10:5). Phê-rô cũng có thị kiến trong cùng giờ đó (Cv 10:19). Vì thế, khi có hai người của Co-nê-li-ô đến nhà Phê-rô để mời ông, Phê-rô nhận lời ngay. Làm thế nào Phê-rô khẳng định được đó là ý Chúa qua hai thị kiến: một cho Co-nê-li-ô, và một cho Phê-rô là tiếp nhận người ngoại vào cộng đoàn Môn đệ Chúa Giêsu. Bằng chứng là khi Phê-rô đến nhà Co-nê-li-ô gặp ông và cả gia đình đạo đức của ông, thì Chúa Thánh Linh xuất hiện và “Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa” (Cv 10:44)
Hãy thử xem lại câu chuyện: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe Lời Thiên Chúa. Và Thánh Thần không chỉ ở trong Phụng vụ và Giáo hội; Thánh Luca diễn tả Chúa Thánh Thần trong lễ Hiện Xuống như “tiếng gió mạnh ùa vào…và những hình lưỡi giống như lưỡi lửa” (Cv 2: 1-3); Mà Ngài còn xuất hiện bất kỳ nơi nào, như gió và lửa.
Hôm nay, trong Phụng vụ Lời Chúa, khi được đọc lên trong cộng đòan, sách Công Vụ Tông Đồ nhắc cho chúng ta việc Thánh Thần ngự xuống giữa chúng ta và trong lòng chúng ta như “lửa” và “gió mạnh” để thổi nguồn sống mới, đem sức mạnh đức tin cho chúng ta. Và Thánh Thần Chúa làm cho chúng ta, cũng như các Kitô hữu lúc ban sơ, đủ quyết tâm ra đi rao giảng về Chúa Giêsu Kitô cho toàn thế giới trong kế hoạch lớn của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta hãy cộng tác với Ngài để thực hiện.
Chúng ta hãy mở lòng trí để lãnh nhận Lời Chúa và Thánh Thần. Nếu khi xưa Thánh Thần Thiên Chúa đã mở lòng trí Phê-rô và Giáo Hội sơ khai biết đón nhận người ngoại vào cộng đoàn, thì biết đâu Thánh Thần Chúa cũng sẽ làm những điều lạ trong thế giới và Giáo Hội nhỏ bé hôm nay.
Sáng nay, báo chí đăng tin Tổ chức Y Tế Quốc Tế loan tin quan trọng là dịch cúm heo đang lan tràn khắp trái đất. Nhiều quốc gia đã tìm cách ngăn ngừa bệnh cúm cho công dân họ. Khi nạn dịch xảy ra, sẽ có nhiều người bị bệnh, vậy ý Chúa như thế nào trong trường hợp này? Cũng như, mỗi khi có những biến cố lớn xảy ra như động đất, sóng thần, hạn hán v.v…, thì chúng ta thường gọi đó là việc của Chúa. Chúng ta thường gán cho Chúa mỗi khi có những chuyện xấu xảy ra. Thử hỏi có phải chính Chúa đã gởi đến những cơn bão lớn tàn phá bang Texas, và gây tử vong nhiều người không? Có phải Chúa đã xử dụng quyền năng của Ngài như vậy chăng?
Theo đức tin, tôi biết Thiên Chúa chỉ có một việc làm là: Ngài đã xuống trần gian, làm người như chúng ta, cam nhận đau khổ và cái chết. Và rồi Ngài sống lại, đem đến cho chúng ta một đời sống mới. Phúc âm có nói đến hành vi lớn lao của Chúa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13) Chúa Giêsu đã làm điều này cho chúng ta. Hành vi yêu thương này mới là “Việc Chúa Làm”.
Chúng ta không đến nhà thờ cầu nguyện để làm đẹp lòng Chúa, hầu được Chúa thương và giúp đỡ. Cũng không nài van để được Ngài đoái đến. Chính đời sống, sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu là tin mừng lớn mà chúng ta lại được nghe hôm nay. Đó là Chúa đã thương chúng ta. Không vì chúng ta thương Ngài trước rồi Chúa mới đáp lại. Mà vì Chúa đã thương chúng ta trước nhất. Nếu chúng ta còn do dự thì hãy nhìn vào Chúa Giêsu: Ngài đã chứng tỏ tình yêu đó quá rõ ràng, do vậy, chúng ta phải làm gì để chứng tỏ là chúng ta đã nghe lời đó. Phải thay đổi cuộc sống như thế nào để đáp lại tình thương mà Ngài đã ban cho chúng ta một cách nhưng không? Khi một người đang yêu, chúng ta thấy họ có sự thay đổi: Người đó vui vẻ hơn, kiên nhẫn hơn và dịu dàng hơn v.v.. nổi bật lên một cách tự nhiên không gượng ép. Vậy nơi chúng ta; trong tình Chúa yêu thương; đã nỗi bật được những đức tính gì?
Hôm nay, khi chúng ta thưa “lạy Chúa Giêsu, vậy con phải làm gì để chứng tỏ tình Chúa yêu thương chúng con”? Ngài sẽ trả lời: “hãy giữ giới răn của Thầy”. Ắt chúng ta sẽ nghĩ ngay đến 10 điều răn, và tự xét mình xem có vấp phạm ở giới răn nào không? Tôi đã làm trái điều gì? Nhưng Chúa Giêsu không xét đến 10 điều răn ấy, coi xem chúng ta có vấp phạm hay thiếu sót không. Nhưng trái lại, Ngài nói đến một điều răn tích cực hơn là “hãy thương yêu nhau”. Đó là giới răn đáp ứng được nhiều khía cạnh, tạo nhiều dịp cho chúng ta có thể thực hành những gì chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa một tình yêu vô điều kiện.
Nếu không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình, thì tôi có thể đáp lại giới răn của Chúa Giêsu bằng cách tự xét mình xem: Tôi phải hy sinh cái gì của cuộc sống tôi cho tha nhân? Bỏ đi: tính kỳ thị, tránh né việc giúp đỡ tha nhân, sự giận hờn, ganh tị với người khác, những điều cáo gian, thâu vén của cải vật chất v.v..? Chúa Giêsu không hề đưa danh sách các điều răn để chúng ta xét rồi tự nói “đây, tôi đã phạm điều này”. Trái lại, Ngài cho một điều răn tổng quát là “hãy thương yêu tha nhân như Thầy đã thương con”. Thử hỏi chúng ta có bảo đảm được rằng đã giữ được điều răn đó chưa? hay dám nói: “tôi tự xét là đã làm được điều này rồi” – Không? Sự đòi hỏi của tình yêu là vô cùng. Không người bạn đời nào trong chúng ta có thể nói: “Đây, tôi yêu mình như thế là quá đủ rồi, không thể đòi hỏi hơn được nữa”? Tình yêu là ngọn lửa cháy trong lòng chúng ta, làm chúng ta luôn khao khát được thương yêu nhiều hơn và không có quy ước định lượng thông thường. Do vậy chúng ta cần có Chúa Thánh Thần giúp chúng ta đón nhận tình yêu Chúa và luôn khao khát triển nở tình yêu ấy đến cho tha nhân.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta có cuộc sống cứ phải cực khổ cố gắng làm mọi sự cho đúng như một nô lệ, vì sợ bị phạt nếu chúng ta vấp phạm. Ngài gọi chúng ta là “bạn hữu”. Tình bằng hữu này không phải là loại tình cảm yếu đuối, hẹp hòi, thiếu sự nâng đỡ, phát sinh tiêu cực, nhằm thỏa mãn dục tính. Mà là tình bạn hai chiều, thương yêu và kính trọng nhau. Giúp mở rộng tầm nhìn và những vận hội mới, những sáng tạo mới, nâng đỡ khi chúng ta cần. Nó đưa chúng ta về cuộc sống đời thường, giúp chúng ta thoát ra khỏi chính mình khi tâm hồn đã khép kín, kéo chúng ta thoát khỏi sự chán nản, đối thoại trong những lúc trao đổi tâm tình, và tình bằng hữu đó đã mở ra cho chúng ta một thế giới mới trong cuộc sống.
Chúng ta đã là bạn hữu của Chúa Giêsu. Nhờ Ngài đã mời: “Thầy gọi anh em là bạn hữu”. Nhờ Thánh Linh Ngài, chúng ta có thể làm việc như bạn của Ngài và mổi ngày nên giống Ngài hơn. Hay, như Lời Chúa hôm nay, vì là bạn hữu của Chúa, chúng ta “sẽ sinh được hoa trái, và hoa trái sẽ tồn tại”. Trong Tiệc Thánh hôm nay, chúng ta hãy mời Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta cách chết đi những mặt nào trong đời sống để cuộc sống của chúng ta trổ sinh hoa trái mới, hầu làm Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết thương yêu nhau, xin giúp chúng con sống tình thương ấy để mọi người biết chúng con là bạn của Chúa.”
67. Hãy yêu thương nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Trong bài hát “Niềm tâm sự”, hầu hết các nhà thờ ở Việt Nam đều biết đến, nhạc sĩ Anh Linh đã mượn Kinh Thánh để phổ những dòng nhạc thật êm dịu ngọt ngào: “Yêu nhau chính là giới răn riêng Thầy. Yêu nhau như Thầy yêu dấu chúng con, để cho thế gian hiểu biết rằng chúng con chính là môn sinh của Thầy”. Đây là lời bộc bạch của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly với các môn đệ sau khi Giuđa, một trong nhóm mười hai phản bội đi ra khỏi phòng ăn. Lời tâm sự cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Ngài thi hành ý định của Thiên Chúa Cha cứu độ nhân loại.
Lời trăn trối của Chúa Giêsu
Trước khi nhắm mắt lìa đời, những lời cuối cùng của một con người bao giờ cũng mang một ý nghĩa quan trọng bộc lộ cả một tấm lòng, cả tâm huyết của con người. Chúa Giêsu trước khi bị trao nộp, Ngài đã dùng bữa cuối cùng với các môn đệ và trong bữa ăn này sau khi đã làm một cử chỉ rửa chân đầy ấn tượng, gây ngạc nhiên cho các tông đồ, Giuđa đi ra khỏi phòng, Chúa Giêsu đã thổ lộ tất cả những gì cần nói với các môn đệ. Qua cuộc trao đổi, đàm đạo, tâm sự đầy thân mật, các môn đệ đã trở nên nghĩa thiết, trở thành bạn hữu của Chúa: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”(Ga 15, 15). Trong cuộc tâm sự, bộc bạch, dặn dò này, Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại các tông đồ: “Hãy yêu thương nhau”. Đây là cốt lõi của Tin Mừng của Chúa Giêsu và cũng là giáo huấn chủ yếu của Đạo Kitô giáo. Lõi tủy của đạo do Chúa Giêsu thiết lập xem ra thật đơn giản, nhưng đầy thâm thúy, sâu sắc: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Chúa Giêsu nhắn nhủ các môn đệ, nhưng đồng thời Ngài cũng truyền lệnh cho các ông: “yêu thương nhau”. Để làm gương cho các ông, Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, nói lý thuyết, mơ hồ, nhưng chính Ngài đã làm gương cho các ông về tình huynh đệ, về sự khiêm nhượng, về sự tận tình. Tình yêu thương lớn nhất, cao cả nhất là: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với cha của Ngài, nhưng đồng thời cũng là chóp đỉnh của tình yêu thương của Ngài đối với con người. Đây là mẫu mực và là nền tảng của tình yêu xả kỷ, tình yêu vô vị lợi, tình yêu chỉ mong hạnh phúc cho tha nhân. Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào tình liên đới với Thiên Chúa Cha vì tình yêu của Ngài phát xuất tự Thiên Chúa Cha: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15,9)
Đây cũng là cốt lõi của công trình cứu chuộc vì khi đưa các môn đệ đi vào tình thân mật với Thiên Chúa Cha và qua đó ở lại với Chúa Giêsu trong tình yêu mến, và như thế cũng phải yêu mến anh em. Hai vế yêu Chúa, yêu tha nhân không thể tách rời nhau. Thánh Phaolô cũng xác quyết manh mẽ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Nếu ai nói yêu Chúa mà không thương yêu anh em mình thì kẻ đó nói láo”. Với lòng yêu thương mà Chúa Giêsu tiết lộ, các môn đệ đang sống trong thời cứu chuộc: “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”(Ga 15, 11). Niềm vui này là niềm vui phục sinh, các môn đệ đang được chia sẻ trong cuộc sống mới của Chúa Kitô sống lại. Các môn đệ yêu thương nhau còn là dấu chỉ của sự hiện diện của lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người và nhân loại sẽ nhận biết các môn đệ là bạn hữu của Chúa Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau…mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”(Ga 13, 35).
Trọng tâm của đạo Kitô là tình thương
Giới luật yêu thương Chúa truyền cho các môn đệ cũng là lệnh Chúa ban cho mọi Kitô hữu, những người được mời gọi đi theo Đức Kitô. Như thế, xét cho cùng đạo của Chúa Giêsu thiết lập là đạo tình thương. Chúa Giêsu không tới trần gian để dạy những lý thuyết suông, những luật lệ cứng ngắc, những giới răn không hồn. Chúa không bao giờ nói mà không làm. Những lời nói của Chúa hết sức thực tế, những phép lạ của Chúa làm hết sức ấn tượng và luôn phù hợp với đời thường, với những gì diễn ra ở xã hội, ở trần gian. Tin Mừng Chúa nhật hôm nay của thánh Gioan 15, 9-17 đặt mọi người Kitô hữu trước thúc bách của Phúc Am, đưa mọi người Kitô hữu vào trọng tâm của Đạo, vào cốt lõi của Đạo: “Đạo của Chúa là Đạo tình thương, của lòng yêu mến”. Mọi đường hướng, chỉ đạo, dậy bảo nếu chúng nằm ngoài sự yêu mến, nằm ngoài tình thương của Chúa thì chúng đi ngược lại với Tin Mừng, nằm ngoài Kitô giáo. Nên, muốn đi đúng hướng, đi đúng đường, muốn loan báo, rao giảng, làm chứng cho công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, cho tình thương của Ngài, nhân loại phải thực thi lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 15, 12). Lời ca trong niềm tâm sự của nhạc sĩ Anh Linh vẫn vang lên mỗi lần nhà thờ chọn để hát. Niềm tâm sự của Chúa vẫn nhẹ nhàng, đầy tâm huyết, đầy nhiệt tình: “Yêu nhau như Thầy yêu dấu chúng con, để cho thế gian hiểu biết rằng, chúng con chính là môn sinh của Thầy “. Kahil Gibran đã để lại một câu bất hủ: “Bạn chỉ cho đi quá ít, khi cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi “.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mọi người chúng con luôn biết thực thi giới luật yêu thương của Chúa.
68. Như Thầy đã yêu – Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sống yêu thương và hành động như Chúa Giêsu là điều mỗi Kitô hữu phải suy nghĩ, phải noi gương và bắt chước. Trên thế giới ngày nay nhiều nơi nhiều nước ngoài việc làm giàu cho nước mình, nhiều Chính phủ, nhiều Bộ ngành đã biết mở rộng cái nhìn của mình để chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, để ý tới những người neo đơn, cô thân cô thế vv… Đọc báo, nghe đài, truy cập mạng, chúng ta thấy nhan nhản các tổ chức, các cá nhân đầy lòng quảng đại, đầy từ tâm. Những con người này có trái tim nhạy cảm, có tấm lòng mở rộng sâu xa, biết chăm lo cho những người nghèo đói, những người bất hạnh, những người bị đẩy ra bên lề xã hội.Đây là những con người có trái tim như Chúa Giêsu biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của nhân loại, biết trắc ẩn trước lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15, 12).
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta luôn bắt gặp một Chúa đầy lòng nhân từ, một Chúa luôn trắc ẩn trước nỗi đau khổ, thiếu thốn, đói khát của đám đông. Vâng, chúng ta có thể bắt gặp một Thiên Chúa thứ tha, một Thiên Chúa yêu thương đến tột cùng, một Thiên Chúa đầy lòng nhân nghĩa. Thử xem người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và Chúa đã đối xử làm sao, đối xử như thế nào? Một Thiên Chúa nhân từ đối với người phụ nữ bị cho là tội lỗi tràn đầy: cô Maria Mađalêna. Trước cái chết của người thân, người quen thuộc: Lagiarô đã chôn trong mồ bốn ngày rồi. Trước con bà góa thành Naim, trước đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu khát khao lời của Ngài và đang lâm cơn khát, đói vv… Chúa Giêsu đã luôn để ý tới từng nhu cầu của từng nhóm, từng người. Tình yêu của Chúa quả không giới hạn và vô biên Người cảm thông với con người, với tất cả mọi người mà Ngài đã dựng nên: “Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết” (Ga 15, 15). Tình yêu của Chúa Giêsu đã đi tới chỗ tuyệt đỉnh, đã đi cho tới cùng: “Người đã yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1). Tình yêu tận hiến, vô vị lợi: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu (Ga 15, 13) hoặc “Khi nào ta bị treo lên khỏi mặt đất Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Tình yêu của Chúa Giêsu là tình yêu phát xuất tự Thiên Chúa Cha, tình yêu này luân chuyển từ Người đến con người và giữa con người với con người: “Các con hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con” (Ga 15, 12).
Yêu như Chúa yêu quả thực không phải là chuyện dễ nhưng lời mời gọi của Chúa luôn thúc bách mọi người hãy hướng tới người khác và bắt chước gương của Thầy Giêsu đã sống, đã thực hiện và nhất là đã yêu. Gương của các môn đệ bên Chúa Giêsu, đã được Ngài yêu thương, chăm sóc và các môn đệ đã yêu thương nhau như thế nào vẫn là điều thôi thúc mỗi người chúng ta vươn lên, vươn lên mãi và sống, yêu như mức độ Thầy Giêsu đã sống, đã yêu. Hãy chiêm ngắm gương thánh Maximilianô Kolbê, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, thánh Phanxicô khó khăn, mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Cha Jean Cassaigne, Đức thánh Cha gioan Phaolô II vv…Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu là yêu cho đến cùng và chết trên thập giá.
Trước một thế giới chạy theo lợi nhuận, chạy theo đà phát triển của văn minh, nhiều khi con người quên đi sự cảm thông, tình bác ái, lòng yêu thương chân thật. Một nụ cười giữa sa mạc khô cằn sẽ nâng đỡ, khuyến khích con người rất nhiều. Thế giới đang khao khát tình yêu. Người tín hữu phải là chứng nhân cho tình yêu đích thực, tình yêu nở hoa, tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Con người của chúng ta không có cơ hội để chết như Đức Kitô, nhưng chết cho tha nhân là chấp nhận hao mòn hằng ngày để cho người khác được niềm vui và hạnh phúc. Bởi vì như bài hát Kinh Hòa Bình đã viết: ” Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhận ra bộ mặt của Chúa nơi tha nhân để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
69. “Các con hãy yêu thương nhau” – Lm. Thu Băng
Đức Thánh Cha Gioan 23 trong phiên họp Hội Đồng Giám Mục để bàn luận về nền tảng Đức Ái của đời sống Kitô Giáo. ngài hỏi: “Chư Huynh nghĩ xem đâu là cùng đích của đời sống Kitô Giáo?”
Các ngài trả lời hầu như giống nhau rằng: ” Cùng đích của đời sống Công giáo là: Nhận biết – Yêu mến – Phụng sự Chúa ở đời này để được nước Thiên đàng đời sau.”
Đức Thánh Cha nói cười vui vẻ: “Chư Huynh nghĩ vậy chưa đủ, còn có phần ích kỷ. Phải có phần giúp đỡ người khác cùng nhận biết, cùng yêu mến, cùng phụng sự Chúa, cùng vui hưởng thiên đàng”.
Đó là khía cạnh rộng lớn Chúa truyền dạy qua bài Phúc âm hôm nay “Các con hãy yêu thương nhau”.
Yêu và giúp người khác thực hiện điều đẹp lòng Chúa, tránh xa những gì mất lòng Chúa và mất lòng người ta.
Việc giúp đỡ người khác của chúng ta không phải như cái giúp của ông thầy, của sư phụ dạy truyền cho đệ tử. Nhưng là cái giúp thực hành ngay trong cuộc sống mình:
– Giữ giới luật Chúa – cho người khác noi theo.
– Giữ lời nói đoan chính
– ăn mặc xứng kỳ đức.
– ăn uống không phàm phu tục tử, không bê bối.
– Đời sống vợ chồng lành mạnh, ấm êm.
– Dạy con cái cho phải phép.
– Trước một ngưòi khác tôn giáo, biết tỏ lối sống đạo giáo của mình…..
Mội điều chúng ta đang thực hiện cách tốt đẹp, có điều cần chú ý hơn trong giai đoạn này là: khía cạnh dạy con theo gương cha mẹ.
Dạy con từ thuở lên ba
Dạy vợ từ thuở về nhà làm dâu.
Cha mẹ sinh con trời sinh tính
Nhưng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Hiện trạng ngày nay: Trẻ con lang thang, cao bồi, phá phách xóm làng, quần áo theo thời theo mốt….
Các anh chị làm dáng làm đẹp (Ok): Bồng bềnh mái tóc mây, bộ tóc Kenedy (Ok). Bộ áo đầm xòe dễ coi (Ok). Những điều đó xứng kỳ đức lắm. Mặc đẹp sẽ không dám ba trợn ở dọc đường.
Các em nhỏ chưa đến tuổi thành niên:
Mặc áo mùa đông cho mùa hè – Cha mẹ nhìn con ăn mặc không thấy chướng mắt. Các em mặc áo người lớn khi còn đang là con nít. Quần xắn móng heo, chân đi dép Nhật. Nếu để làm hề thì trên sân khấu đã có đạo diễn, còn ở ngoài đường không ai là đạo diễn cả. Cha mẹ hãy dạy cho con hiểu và chúng sẽ nghe, đừng bảo ” Con tôi nó đâu có vậy”.
Nó có vậy khi không có mặt bố mẹ ở đó. Muốn biết con ai không khó gì, cứ ra các quán hàng là thấy mặt thôi. Muốn biết nghe nói con ai, nghe nói nó làm gì, cứ đến nhà thờ trước giờ Thánh Lễ là phân biệt được kẻ tốt người xấu thôi. Đừng để con hư hổ mặt mẹ cha. Tóm lại, vì mến Chúa, thương người, chúng ta sống sao cho trọn đạo, sống sao cho xứng kỳ đức và răn dạy con cái để nên gương cho mọi người. ” Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta và dạy người khác yêu mến và làm như vậy”.