Suy niệm CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Kn. 18, 6-9; Dt. 11,1-2.8-19; Lc. 12, 32-48
MỤC LỤC
1. Nước Trời cho anh em – ViKiNi 3
2. Sự nghèo khó 6
3. Đức tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 8
4. Tỉnh thức trong đêm tối – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 13
5. Tỉnh thức để đón Chúa 23
6. Gìn giữ tâm hồn 27
7. Cho đi 29
8. Chủ về 31
9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 34
10. Ngày mai không bao giờ đến – Thiên Phúc 37
11. Là người môn đệ – An Phong 40
12. Tỉnh thức là một biểu hiện của tình yêu 43
13. Tỉnh thức 46
14. Sống là chuẩn bị chết 49
15. Hãy tỉnh thức 52
16. Đừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé! – Charles E. Miller 56
17. Thức tỉnh – Như Hạ, OP 59
18. Sẵn sàng chờ đợi Chúa đến 66
19. Những đầy tớ tỉnh thức – McCarthy 70
20. Những người có trách vụ siêu nhiên 75
21. Phải luôn sẵn sàng 77
22. Suy niệm của JKN 79
23. Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến – André Sève 83
24. Linh đạo lữ hành – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm 86
25. Tất cả các bạn 89
26. Thức tỉnh chờ đón cuộc sống thật 92
27. Tin là sống – Lm. Bùi Quang Tuấn 94
28. Ngạc nhiên – Lm Vũ Đình Tường 99
29. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường 101
30. Hãy tỉnh thức sẵn sàng 103
31. Tỉnh thức – Sẵn sàng 106
32. Các con hãy sẵn sàng- Lm. Nguyễn Tiến Huân 110
33. Sống tỉnh thức – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 112
34. Chúa đang đi tìm ta, Người sẽ đến 114
35. Hãy sẵn sàng 117
36. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh 120
37. Làm giàu 126
38. Tỉnh thức 129
39. Các con hãy sẵn sàng – Veritas 132
40. Đèn sáng trong tay – G. Nguyễn Cao Luật. 135
41. Vĩnh cửu 141
42. Tỉnh thức 146
43. Tin là sẵn sàng 150
44. Bấp bênh 152
45. “Một nơi chưa bao giờ đến” 154
46. Hành trình 159
47. Tỉnh thức – R. Gutzwiller 161
48. Đừng sợ 163
49. Chú giải của Fiches Dominicales 166
50. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 171
51. Chú giải của Noel Quesson 174
52. Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long 181
53. Hãy sẵn sàng – William Barclay 188
54. Muốn được cứu độ: “Hãy tỉnh thức!” 192
55. Trung tín và tỉnh thức – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 196
1. Nước Trời cho anh em – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ năm 1945 cho đến nay, cứ vào ngày 06 tháng 08, hàng trăm ngàn người đã đến tượng đài Hòa Bình ở Nagazaki đứng chờ đúng 11 giờ 30 từng hồi chuông đổ ngân vang trên khắp nước Nhật, nhắc nhở thế giới mặc niệm hơn 147.000 người của hai thành phố Nagazaki và Hiroshima đã bị thiêu hủy dưới sức tàn phá của hai trái bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới. Suốt 45 năm thế giới luôn luôn nơm nớp lo sợ trong chiến tranh lạnh dưới sức đe dọa khủng khiếp của hàng triệu triệu tấn bom nguyên tử trong kho vũ khí các cường quốc có thể phát nổ bất cứ lúc nào. Mãi cho tới năm 1990, thế giới mới có tin mừng; chiến tranh lạnh chấm dứt, vũ khí hạch nhân đang bị loại bỏ.
Các môn đệ đang đi theo Đức Giêsu trong cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để tưởng niệm lễ Vượt qua của dân tộc thoát ách nô lệ Ai Cập. Nhưng nghe Thầy tiên báo Thầy phải vượt qua một khổ nạn sắp tới, các ông linh cảm thấy một sức mạnh ghê gớm đe dọa làm các ông lo sợ. Thực vậy, các ông chỉ là đoàn chiên bé nhỏ có mười hai người quê mùa, kém cỏi, đi theo một mục tử hiền hòa, nhân hậu, làm sao đương đầu được với một lực lượng đầy quyền thế hùng hậu của thủ đô và một đoàn quân dũng mãnh của đế quốc Rôma. Trước những lo ngại ấy, Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, anh em đừng sợ, vì Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em”.
Nước Trời mới thực là Tin Mừng muôn thuở. Đời sống anh em được Cha trên trời bảo đảm vững chắc, không một sức mạnh thế gian nào dám xâm phạm tới, không quân dữ nào dám nhào tới, anh em không còn sợ bị chết nữa, không còn sợ bất cứ chiến tranh, bom đạn nào nữa. Không còn sợ đau khổ, hận thù, cực hình nào nữa. Không còn sợ bất kỳ đói khát, bệnh tật, bất công, bất nhân nào nữa. Vì thế ngay đầu đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu đã nói với các ông:
“Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy” (Lc. 12, 4-5).
Đấng ấy là Cha trên trời đã ban cho anh em nước trời rồi, anh em đâu còn sợ chi nữa! Nước trời là hạnh phúc vô biên cho anh em rồi. Nước trời là Tin Mừng mang lại cho anh em cuộc sống vinh quang, toàn thiện, toàn mỹ trong tình thương bao la của Thiên Chúa rồi. Không còn đâu vui mừng hạnh phúc cho anh em hơn nước trời nữa.
Vậy để được hưởng nước trời, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ và chúng ta phải cố gắng thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất: phải quyết tâm đạt được nước trời với bất cứ giá nào, dù phải bán hết của cải đem đi bố thí, cũng sẵn sàng vui lòng, vì nước trời là “túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, là kho tàng vô giá chẳng bao giờ thiếu hụt, là kho tàng trên trời, nơi không có trộm cướp bén mảng, không có mối mọt đục phá”.
Thứ hai: Phải thắt lưng làm việc như tôi tớ, như bồi bàn, như Thầy đã thắt lưng rửa chân cho các môn đệ, đã dọn tiệc bằng Thịt Máu Thầy cho các môn đệ ăn. Đến lượt các ông cũng làm như Thầy, dù có phải thắp đèn thức khuya suốt đêm chờ chủ về, suốt đời chờ Chúa đến, chúng ta vẫn phải trung thành chu toàn mọi việc của Chúa trao phó. Nếu sơ sót, lơ là, chểnh mảng, biếng nhác, bất cứ lúc nào, chủ về, Chúa đến, thì khốn cho đầy tớ đó. Thật phúc cho đầy tớ đang tỉnh thức lúc chủ về, lúc Chúa đến!
Thứ ba: Phải luôn luôn là những người quản gia, quản lý trung tín và khôn ngoan như Abraham mau mắn vâng nghe lời Chúa dậy, sẵn sàng từ bỏ quê hương, từ bỏ mọi sự, đi theo con đường Chúa chỉ, không phải tìm trú ẩn an toàn ở dưới đất, mà tìm quê hương trên trời. Phải luôn luôn tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa như Abraham dầu phải vác con lên núi, sát tế, ông sẵn sàng hy sinh mạng sống con mình và cả mạng sống mình để thực thi ý Chúa (Bài đọc II)
Sau nữa: Phải trông cậy kiên trì vào lời Thầy: “Cha của anh em đã vui lòng ban nước trời cho anh em” như dân Chúa xưa “các ngài đã kiên trì trông đợi đêm vượt qua …, để các Ngài được phấn khởi hân hoan, vì biết chắc về những lời thề hứa của Chúa mà các ngài đã tin tưởng” (Bài I)
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết kiên trì tin tưởng và trông đợi lời hứa không bao giờ lay chuyển của Chúa, để luôn luôn tỉnh thức chu toàn mọi công việc Chúa trao như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, cho tới khi Chúa đến gõ cửa, chúng con được vui mừng ra đón rước Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
2. Sự nghèo khó
Mọi quốc gia đều lấy sự giàu mạnh làm lý tưởng. Ai cũng mơ ước và cố gắng làm sao cho dân giàu nước mạnh. Vậy mà chỉ có Nước Trời xem ra lại chỉ muốn có sự nghèo khó.
Thực vậy sự nghèo khó gắn liền với Nước Trời, đó là điều đã được Chúa Giêsu công bố: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc cho chúng ta cái mối tương quan bất khả phân ly giữa Nước Trời và sự nghèo khó ấy: Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng và cũng chẳng có mối mọt đục phá. Lý do của sự gắn bó giữa Nước Trời và sự nghèo khó không phải như nhiều người vẫn nghĩ là vì Nước Trời thuộc về trật tự siêu nhiên, một thực tại đối lập với thực tại trần thế. Cái lối suy nghĩ như thế không giúp ích gì để soi sáng cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm Nước Trời, trái lại nó còn làm cho lu mờ khó hiểu thêm, hay nói đúng hơn, nó xuyên tạc hoàn toàn ý nghĩa của mầu nhiệm đó.
Không phải vì Nước Trời là một thực tại thuộc về tâm linh mà đối lập và chống lại thực tại vật chất. Trái lại, giữa hai thực tại vẫn có một sự liên tục: giữa trần gian và Nước Chúa. Giữa trời đất đang có và trời mới đất mới đang hình thành có một liên hệ không thể nào tách biệt. Điều đó phần nào cũng giống như mối liên hệ giữa con sâu hiện tại và cánh bướm của tương lai, giữa hạt thóc hôm nay và bông lúa của ngày mai.
Vì thế, khó nghèo ở đây trước hết, không phải là chủ trương không có gì, và nhất là không phải chỉ dừng lại ở chuyện không có của cải vật chất. Sự nghèo khó ở đây phải là một sự nghèo khó tuyệt đối, một sự nghèo khó trong tâm hồn giống như cái “tiết trực tâm hư” theo lý tưởng của người quân tử Trung Hoa, nghĩa là cái lòng thanh bạch, không tham lam chất chứa gì cho mình. Hay là cái vô ngã của nhà Phật, chủ trương dẹp bỏ tận gốc của tham sân si, là cái tôi. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ mình.
Do đó sư nghèo khó này không phải chủ yếu ở chỗ không có gì và không muốn có gì, mà còn là sự từ bỏ cái có mà nhân loại không ai muốn bỏ, tức là cái tôi của mình. Tuy nhiên muốn từ bỏ cái tôi mà lại không muốn từ bỏ những gì thuộc về nó, những gì nó có và bám vào để tồn tại, thì cũng chẳng khác gì muốn dập tắt ngọn lửa mà vẫn còn để cho nó bám vào chất cháy. Bởi đó không ai có thể từ bỏ chính mình mà lại không từ bỏ của cải vật chất cũng như danh vọng và địa vị. Thế nhưng sự từ bỏ ấy không phải để tạo cho mình một sự thanh tĩnh vô vi, một thứ niết bàn nào đó theo quan niệm Phật giáo, nhưng là để dâng hiến theo đòi hỏi của tình yêu, dâng hiến trọn vẹn để phục vụ anh em vì Nước Trời.
Khi yêu nhau, người ta sẵn sàng đem tất cả những gì mình có đến đặt dưới chân người mình yêu, sẵn sàng phó thác đời mình trong tay người mình yêu, sẵn sàng dâng hiến cả mạng sống mình cho người mình yêu, sẵn sàng sống tất cả vì người mình yêu và cho người mình yêu. Người nghèo khó theo chân Chúa Giêsu cũng phải là người hiến dâng trọn vẹn như thế. Chính trong kinh nghiệm ấy mà thánh Phaolô đã nói: Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
3. Đức tin – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Dòng dõi của Tổ phụ Abraham đã thừa hưởng gia bảo quý báu là đức tin. Tuy phải đối diện với muôn vàn gian khó và chung đụng với nhiều tôn giáo thờ các thần ngoại, con cháu của Tổ phụ Abraham tiếp tục đặt niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Họ đã trung thành với truyền thống của cha ông. Họ là nhóm nồng cốt lưu truyền cho các thế hệ sứ mệnh đã được trao ban cho các Tổ phụ. Họ là những người công chính cầm cân nẩy mực giúp cho đoàn dân quy hướng về Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ghi nhận: “Vì những con cái thánh thiện của các tổ phụ tốt lành đã lén lút tế lễ và đồng tâm thiết lập luật thánh thiện, ấn định rằng những người công chính sẽ đồng hưởng vinh nhục, may rủi đều nhau; như vậy là họ đã xướng lên trước bài ca tụng của các tổ phụ.” (Kn 18,9). Số còn sót lại của dòng dõi Abraham đã trải qua vinh nhục và sướng khổ để hoàn thành sứ mệnh.
Lịch sử Ơn Cứu độ là một cuộc lữ hành trong đức tin. Thư gửi tín hữu Dothái đã nhấn mạnh: “Anh em thân mến, đức tin là cốt yếu những thực tại người ta mong đợi, là bằng chứng điều bí ẩn. Vì nhờ đức tin mà các tiền nhân đã nhận được bằng chứng tốt.” (Dt 11,1-2). Qua đức tin, các cha ông đã tiến đi trong sự phó thác và sự quan phòng của Thiên Chúa. Các ngài sống chết trong niềm tin, dù chưa hề chứng kiến các sự kiện xuất hiện. Bước đi trong niềm tin chứ không phải đi trong cảnh nhãn tiền. Từ lời hứa ban ơn cứu độ với Adong và Evà, qua các Tổ phụ Noe, Abraham, Isaac, Jocob, Giuse và Môisen… Thiên Chúa luôn đồng hành và dẫn dắt lịch sử cứu độ. Thiên Chúa luôn trung tín với lời đã hứa. Các Tổ phụ đã luôn đặt niềm tin nơi Chúa: “Chính trong đức tin mà tất cả những kẻ ấy đã chết trước khi nhận lãnh điều đã hứa, nhưng được nhìn thấy và đón chào từ đàng xa, đồng thời thú nhận rằng mình là lữ khách trên mặt đất.” (Dt 11,13).
Bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục giảng về của cải Nước Trời. Hãy dùng tiền bạc và của cải hay hư nát mà đổi lấy kho tàng trên trời. Lữ hành trần thế nhưng mắt của chúng ta hướng về trời cao. Mỗi người chúng ta có một định mệnh riêng. Khởi đi từ dưới đất tạm thời và sẽ kết thúc nơi vĩnh hằng. Nơi đó có thể là nơi hằng sống ở thiên đàng hoặc nơi bị đày ải khổ đau. Muốn gặt hái những hoa trái tốt lành, chúng ta phải chăm sóc gieo hạt cẩn thận. Hoa trái an lạc không phải tự nhiên hay ngẫu nhiên mà kết thành. Muốn hưởng hạnh phúc quê thật, chúng ta phải làm việc lành phúc đức và tích trữ những của cải không hư nát. Chúa Giêsu dạy: “Các con hãy bán những của các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát.” (Lc 12,33).
Truyện kể có bà lão ăn mày tên là Mary. Bà ta quanh năm vất vả rảo qua các lối ngõ ăn xin. Không kể mùa đông băng giá, bà chỉ mặc manh áo sờn rách. Bà van xin kể lể cảnh túng cực. Bà kiên tâm xin người qua kẻ lại thương tình bố thí. Tối đến bà trở về túp lều gỗ. Bà ăn uống đơn sơ. Vì quá kham khổ nên bị bệnh và chết. Nhà chức trách thuộc sở vệ sinh tìm đến nơi. Vào căn lều nhỏ, thấy bà đã chết nhưng tay vẫn chỉ vào một góc nhà. Họ đã đào bới và tìm thấy cái hộp, có 127.000 đô la. Thật là món tiền khổng lồ nhưng lại vô ích cho chủ nhân.
“Vì kho tàng các con ở đâu thì lòng các con cũng ở đó.” (Lc 12,34). Đúng thế, đồng tiền nối liền khúc ruột. Tiền bạc rất cần cho cuộc sống nơi dương thế, nhưng tiền bạc không là cùng đích. Của cải tiền bạc như con dao hai lưỡi. Nó có thể mang lại hạnh phúc và cũng có thể huỷ hoại niềm vui hoan lạc cuộc sống. Tiền bạc là phương tiện tốt giúp tìm được hạnh phúc thật nếu chúng ta dùng tiền bạc như một tên đầy tớ hữu dụng. Chúa Giêsu đã nhắc nhở rằng kho tàng ở đâu thì lòng ở đó. Khi lòng chúng ta mải mê với của cải trần đời, tâm hồn cũng sẽ bị hoen ố lây. Thường tình, ai trong chúng ta cũng mến chuộng tiền bạc. Tiền giúp chúng ta tránh khỏi cảnh lầm than, thiếu thốn, nhưng tiền không là tất cả. Có tiền, chúng ta có thể mua được nhà, được xe và các phương tiện đồ dùng nhưng chưa chắc đã mua được sức khoẻ, tri thức, tình yêu và hạnh phúc. Chúng ta nên cẩn thận về cách kiếm tiền, tiêu tiền và dùng tiền để sinh hoa trái an vui và hạnh phúc cuộc đời.
Có người quan niệm rằng tiền là tiên, là phật, là sức bật của tuổi trẻ… Lợi nhuận của đồng tiền đã lôi kéo nhiều tâm hồn vào con đường lầm lạc. Có người nghĩ rằng dối gian gạt người khác và gạt các nhân viên chính quyền thì không phải là sự gian dối. Chủ trương là miễn làm sao đạt được mục đích riêng tư, lợi ích cho bản thân và gia đình. Có trường hợp làm giấy hôn thú giả và cưới giả để lấy một món tiền. Hai bên đều có lợi. Bất chấp tiếng nói lương tâm hay lỗi phạm các giới răn của Chúa. Có nhiều tín hữu bên ngoài có vẻ sùng đạo cũng đã vào hùa với nhau để làm chứng dối cho nhau.
Như trường hợp một người đã có gia đình, vợ và con cái ở quê nhà. Ông sang Hoa Kỳ đi du lịch, visa đã gần hết hạn và muốn được ở lại Hoa Kỳ. Qua mai mối, ông âm thầm ly dị vợ và làm giấy hôn thú với một người Công giáo khác. Có chứng minh hình ảnh và nhân chứng thật rõ ràng. Khổ nỗi, các nhân chứng quá thật, dàn cảnh có linh mục và bạn bè cùng chụp hình chung làm bằng chứng để phỏng vấn, rồi tổ chức đám cưới giả để qua mắt chính quyền. Người được việc, kẻ được tiền và người mai mối thì vui vẻ thành công. Hả hê vì có bạn, có tiền và có kết quả theo ý muốn. Đôi khi cậy vào danh Chúa để khoe rằng Chúa đã nhận lời cầu nguyện, cảm tạ ơn Chúa.
Khi còn đang sung sức, mạnh khoẻ, chúng ta cố gắng làm việc tốt. Kinh nghiệm cho thấy, mỗi ngày đều có sự thay đổi và cuộc sống đời này thật mong manh. Sự sống, sự chết cận kề. Chúng ta không biết được việc gì sẽ xảy ra ngày mai. Chúa Giêsu cảnh báo: “Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12,40). Chẳng ai học được chữ ngờ. Cái gì cũng có thể xảy ra. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế chuẩn bị. Chuẩn bị về mọi khía cạnh của cuộc sống. Sự chuẩn bị sẽ giúp chúng ta sống an bình và vui vẻ hơn. Không còn giận hờn, ghen ghét. Không chôn giữ những sự báo thù trong lòng. Bỏ qua, tha thứ cho nhau. Tạo bầu khí thân thiện. Giữ tâm hồn hồn thanh thản. Không mắc nợ nhau điều gì. Sống giao hoà với Thiên Chúa và anh chị em. Sống an vui tự tại và thanh thản. Nhắm chính hướng đi về cùng đích và nhận ra mục đích của cuộc đời. Khởi đi từ đất thấp, kết thúc nơi trời cao.
Chúa ban cho mỗi người một kho tàng riêng biệt, có kẻ hơn người kém. Mỗi người đều có bổn phận và trách nhiệm về những khả năng đã lãnh nhận. Dùng vốn liếng đúng nơi, đúng lúc và sinh hoa kết trái đúng mùa. Chúng ta không cần phải so sánh số vốn liếng với người khác. Chúa cho ai nhiều thì sẽ đòi lại nhiều: “Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn.” (Lc 12,48). Tránh đi sự tự phụ và kiêu căng. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều là hồng ân Chúa ban. Nếu có khoe khoang, chúng ta hãy khoe về sự yếu đuối và bất toàn của mình. Sự thành công của chúng ta cũng lệ thuộc rất nhiều vào tha nhân. Hãy luôn nhớ rằng yếu tố của thành công là do thiên thời, địa lợi và nhân hoà.
Lạy Chúa, các Tổ phụ xưa đã bước đi trong đêm tối của niềm tin. Các ngài đã đi đến cùng đường và nêu gương đức tin kiên vững cho mọi thế hệ. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa quan phòng. Chúng con sẽ được an nghỉ trong tình yêu của Chúa vì Chúa có lời ban sự sống đời đời.
4. Tỉnh thức trong đêm tối – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
“Anh em hãy sẵn sàng”
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để làm gì? Bài Tin Mừng hôm nay nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
Chúng ta hãy tham dự Thánh lễ sốt sắng và xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức.
II. Gợi ý sám hối
Nếu Chúa bảo chúng ta phải chết ngay hôm nay thì chắc chúng ta không kịp chuẩn bị, và do đó số phận đời đời của chúng ta rất đáng sợ.
Nếu bây giờ Chúa như vị Thanh tra đến kiểm tra những việc bổn phận của chúng ta, Ngài có hài lòng không?
Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy bán tài sản đời này để sắm lấy kho tàng không bao giơ hư nát trên trời”. Chúng ta có làm theo Lời Chúa không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 18, 6-9)
Việc được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập luôn là một kỷ niệm sâu đậm trong tâm khảm người Do Thái mọi thời và mọi nơi. Bởi vậy người Do Thái sống ở diaspora vào thế kỷ I trước công nguyên vẫn luôn tưởng nhớ đêm giải phóng ấy. Trong đoạn trích này, tác giả sách Khôn ngoan khuyên họ hãy luôn sống xứng đáng là con cháu của thế hệ đã xuất hành khỏi Ai cập bằng cách luôn tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa.
2. Đáp ca (Tv 32)
Tv này thuộc loại Tv minh triết, ca tụng sự quan phòng và những kỳ công Thiên Chúa đã làm trong quá khứ.
3. Tin Mừng (Lc 12, 32-48)
Từ chìa khóa của đoạn Tin Mừng này là “Tỉnh thức”. Chúa Giêsu dùng 2 dụ ngôn để minh họa bài học tỉnh thức:
a/ Dụ ngôn người đầy tớ: Tỉnh thức như một người đầy tớ đang đợi chủ đi ăn cưới không biết sẽ về lúc nào (Tiệc cưới ở Do Thái kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc, có khi kết thúc buổi chiều, có khi mãi tới nửa đêm hay muộn hơn nữa). Người đầy tớ ấy “thắt lưng cho gọn” (tư thế sẵn sàng làm việc), và “thắp đền cho sẵn” (để khi chủ về thấy lối mà vào nhà. Tư thế sẵn sàng phục vụ). Nếu biết rõ lúc nào chủ về thi dễ hơn nhiều, vì chỉ cần chờ gần tới lúc đó mới thắt lưng và thắp đèn. Nhưng vì không biết chừng nào chủ về nên phải sẵn sàng luôn. Vừa nghe thấy một tín hiệu nhỏ cho biết chủ sắp về tới là mau mắn làm việc và phục vụ ngay. Như thế tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhạy.
– Tỉnh thức để làm gì? Dụ ngôn nói “để đợi chủ về”. Nghĩa đầu tiên là đợi chờ ngày Chúa Giêsu lại đến; nghĩa thứ hai là ngày chết của mỗi người; nghĩa thứ ba là những lúc Chúa đến viếng thăm ban ơn cho ta. Trong cả 3 trường hợp ấy, chỉ có ai tỉnh thức, sẵn sàng và nhanh nhạy mới gặp được Chúa và được Chúa thưởng.
b/ Dụ ngôn quản gia trung thành (41-48): dụ ngôn này nói riêng cho những người có trách nhiệm lãnh đạo. Luca dùng hay dùng danh từ “quản lý” để chỉ những kẻ lãnh đạo (x. 16, 1. 3. 8). Người lãnh đạo được Thiên Chúa giao coi sóc giáo đoàn phải trung thành phục vụ mọi người cho tới khi Chúa Quang lâm. Khi đó người ấy sẽ được trọng thưởng. Trái lại nếu nghĩ rằng Chúa chậm Quang lâm để rồi lạm dụng chức vụ để lo cho bản thân (ăn uống lu bù) và ngược đãi kẻ khác (đánh đập tôi trai tớ gái) thì khi đến Ngày Quang lâm sẽ bị trừng phạt nặng. Chúc vụ càng cao thì hình phạt càng nặng. Ý chính là trung thành trong nhiệm vụ được giao.
4. Bài đọc II (Dt 11, 1-2. 8-19) (Chủ đề phụ)
Trong đoạn trích này, tác giả thư Do Thái ca tụng đức tin của tổ phụ Abraham: do tin vào lời Chúa, ông đã bỏ quê hương xứ sở ra đi mà không cần biết trước sẽ đi tới đâu; do đức tin, ông đã dám đem đứa con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già để giết làm lễ vật dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Sống với sự bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chi dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100 %, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng, vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
* 2. Chuẩn bị thế nào?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Làm tốt việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu Tổng Thư Ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: “Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?” Và chính ông trả lời: “Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi”. Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui”.
Cách đây vài năm, một thầy dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, Thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho Thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng Thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình. (FM)
* 3. Ngày mai không bao giờ đến (Lc 12,32-48)
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy cái quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
***
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
Tin mừng hôm nay nhắc họ hãy “tỉnh thức và sẵn sàng”. Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín đợi chủ về, như người khôn ngoan canh chừng tên đạo tặc; sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Tỉnh thức không phải là tỉnh ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức.
Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm theo ý chủ trong khi đợi chờ.
Tỉnh thức không phải là nôn nao sốt ruột, ma glắng nghe tiếng gõ cửa với đèn sáng trong tay.
Chính khi nhận ra mình đang mê muội, tức là lúc bắt đầu tỉnh thức. Các thánh thường nhận mình mỏng dòn yếu đuối, nên các ngài luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Có một điều làm cho người ta rất đỗi hoang mang, là Chúa sẽ đến thật bất ngờ: “Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40). Người sẽ đến “bất ngờ như kẻ trộm”. Kẻ trộm đến không bao giờ gửi thư báo trước, vì vũ khí của anh ta là sự bất ngờ. Chúa không có ý chơi xấu chúng ta, cũng không lợi dụng lúc chúng ta lơ là thì người đến. Thật ra, Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta hãy luôn tỉnh thức. Đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh. Đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc Nước Trời.
Nói cho cùng, việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng chứ đâu phải là bất hạnh. Chỉ bất hạnh cho những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành với bổn phận. Còn đối với những ai tỉnh thức và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ lại là một “bất ngờ thú vị”.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có một ảo tưởng hết sức nguy hiểm này, đó là nghĩ mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn “ngày mai” để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng là “ngày mai” ấy không bao giờ đến.
***
Lạy Chúa, xin dậy chúng con trở nên những đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để chúng con không phải bàng hoàng khi Chúa bất ngờ đến gõ cửa. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Hành trình trong đức tin
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuôc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc. (FM)
* 5. Chuyện minh họa
a/ Được chọn cách chết
Một tên hề kia chuyên làm trò cho nhà vua vui. Nhưng một hôm hắn lở nói một câu xúc phạm khiến nhà vua nổi giận truyền xử tử hắn. Tuy nhiên vì những công lao bấy lâu nay của hắn nên nhà vua cho hắn được chọn cách chết. Sau một hồi suy nghĩ, hắn tâu: “Xin cho hạ thần được chết già!”
Lời bàn: Tên hề này là một người may mắn vì được chọn cách chết và lúc chết của mình. Chúng ta không được may mắn như hắn đâu. Cho nên phải luôn sẵn sàng.
b/ Ở với con
Một bà mẹ kể: tối đó, khi tôi đang dọn giường cho đứa con nhỏ, nó thỏ thẻ: “Mẹ ơi, mẹ ở với con khi con ngủ nhé!” Nghĩ đến bao việc nhà chưa làm sau một ngày ở sở, tôi đã tính ra ngoài để nó ngủ một mình. Chợt một ý tưởng nảy ra trong trí, tôi đến nằm bên con, đặt tay con trong tay mình. Và trong lúc đứa con chìm vào giấc mộng, ý tưởng đó biến thành lời nguyện: “Lạy Chúa, xin giúp son sống thế nào để khi bước vào hoàng hôn cuộc đời, con có thể âu yếm nói với Cha trên trời: “Cha ơi, Cha ở với con khi con ngủ nhé!”
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trung thành làm tròn mọi bổn phận đối với Chúa và tha nhân là phương thế tốt nhất để đón chờ Chúa trở lại trong vinh quang. Với quyết tâm luôn tỉnh thức và chờ đợi Chúa đến, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh không ngừng kêu gọi con cái mình tỉnh thức và cầu nguyện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết tìm mọi phương thế thích hợp / để giúp các tín hữu luôn luôn tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng.
2. Trong đời sống thường ngày / có lắm người sống như mình không bao giờ chết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / cái chết không buông tha bất cứ một ai / và nhiều khi xảy đến hết sức bất ngờ.
3. Tận tụy phục vụ tha nhân / là một trong những cách tỉnh thức đón mừng Chúa đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết hết lòng phục vụ Chúa nơi những người đói khổ nghèo nàn.
4. Siêng năng lãnh nhận các bí tích / và tích cực sống lời Chúa dạy trong Tin mừng / là sẵn sàng / là tỉnh thức như Chúa dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn chuẩn bị thật tất tâm hồn / để khi Chúa gọi trở về với Chúa / không ai bị Người khiển trách bất cứ điều gì.
Chủ tế: Lạy Chúa, giữa bao sóng gió của cuộc đời, chúng con dễ ngã lòng nản chí và lơ là trong việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ quyết định với Chúa là vị Thẩm phán công minh. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc những lời “Xin Cha tha nợ chúng con”, chúng ta hãy xin Chúa tha thứ những tội chúng ta không chu toàn bổn phận hằng ngày như một người đầy tớ trung thành.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ tệ hại là chết khi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đàng sống được bình an…”
VII. Giải tán
Cuộc đời chúng ta đầy những bổn phận: bổn phận với Chúa, bổn phận với Giáo Hội, bổn phận với xã hội, bổn phận với gia đình v. v. Trong tuần này chúng ta hãy cố gắng chu toàn tất cả mọi bổn phận ấy một cách vui vẻ và trong tâm tình yêu mến.
5. Tỉnh thức để đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
1/ Tại sao phải tỉnh thức:
Chúa Giêsu khuyên chúng ta phải tỉnh thức vì chúng ta thường xuyên bị mê đắm bởi những quyến rũ củatrần thế. Thích những gì thuộc về trần thế. thích tìm kiếm những gì là của trần thế và lấy làm rất thoả mãn với những cái của trần thế.
Khi con người bị say đắm vào những cái hão huyền trên trần gian, thì cùng lúc cuộc sống con người đang bị cuốn hút, đang mắc vào những cạm bẫy có thể làm tổn thương và giết chết cuộc sống. Cho dẫu trước mắt đó là một tấm màn đầy dẫy những thực tại hấp dẫn làm vui mắt con người như:tiền, quyền, danh, lợi, thú… Khi đang sống trong tình trạng như thế, chắc chắn cuộc sống của con người sẽ bị hôn mê và tê liệt. Đến nỗi cuộc sống ấy sẽ làm cho họ không đủ sức để mở đôi mắt hướng về những gì là Chân – Thiện – Mỹ, và cũng không còn khả năng vực dậy để tìm kiếm những vẻ đẹp đem lại ý nghĩa cuối cùng cho kiếp người.
Hôm nay Lời Chúa dạy chúng ta Phải Tỉnh Thức, đó là Chúa đang thức tỉnh chúng ta Chúa thức tỉnh chúng ta vì Chúa không muốn chúng ta phải chìm đắm vào những giấc mơ hão huyền. Cũng đừng bao giờ thoả mãn với những thứ trên trần gian nay còn mai mất, hay tan biến cách đột ngột theo thời gian, nhất là theo những biến cố. Như vậy, một biệt thự hay một ngôi nhà đẹp với đầy đủ những tiện nghi sang trọng, một tài khoản khổng lồ, một chiếc xe không “đụng hàng” dành cho những đại gia “đỏ”, một địa vị tại trần thế…, đã đủ để chúng ta hài lòng và thoả mãn chưa? Đối với những người sống đức tin thì không! Vì cái cần nhất và thoả mãn nhất cho cuộc sống không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị hay hưởng thụ, nhưng là chính Chúa, là Ơn Cứu Độ, là Hạnh Phúc toàn vẹn. Đây chính là Sự Thật cuối cùng của con người. Sự Thật này chúng ta không phủ nhận, nhưng luôn luôn phải trang bị cho mình một tư thế để ôm ấp sự thật tuyệt vời, để chiếm hữu hạnh phúc tuyệt đối. Tư thế mà chúng ta chuẩn bị đã được Chúa nhắc trong Tin Mừng, đó là:
2/ Tỉnh thức để đón Chúa:
Chúa Giêsu dạy chúng ta tỉnh thức không gì khác hơn là đón Chúa đến. Chúa Giêsu chính là Hồng An của Chúa Cha ban cho nhân loại, Ngài là Ơn Cứu Độ duy nhất. Đấng từ Trời xuống, nên chúng ta phải đón nhận. Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh thức để mở lòng đón nhận món quà quý giá nhất của Chúa Cha. Hãy xem việc tìm Ơn Cứu Độ là việc hàng đầu, việc cần thiết, việc ưu tiên tuyệt đối, việc rất quan trọng trong cuộc sống chúng ta. Thử hỏi: ai trong chúng ta đã nghĩ đến việc mở lòng đón nhận Chúa là nguồn Ơn Cứu Độ, là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong sinh hoạt hàng ngày? Khó lắm! Gọi là khó vì chúng ta quá bon chen tìm kiếm những thứ vật chất trên trần gian, quá bận tâm tìm mọi cách để củng cố địa vị tại trần thế, quá bận rộn với một cuộc sống phải tiện nghi, phải hưởng thụ, phải vui chơi giải trí. Từ đó khó lòng để chúng ta xem Chúa là đôí tượng hàng đầu duy nhất, phải bỏ công sức tìm kiếm Ngài.
Vì Chúa là Đấng vô hình nên chúng ta ít cảm nghiệm thật sự những vẻ đẹp tuyệt đối từ nơi Chúa, những giá trị chân thực vĩnh cửu từ nơi Ngài. Còn những sung túc trên trần gian là cái hữu hình, nên sướng khổ hay thành công thất bại là chúng ta thấy ngay tức khắc. Như vậy, một sự đảo lộn đã nảy sinh trong cuộc sống con người cách nghiêm trọng. Những giá trị tuyệt đối Vĩnh Hằng, cung cấp đầy đủ cho thực chất của một con người, thì con người lại coi là thứ yếu phụ thuộc. Còn những cái đánh lừa con người, đưa đẩy con người vào sai lầm của cuộc sống, thì lại là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu để con người tìm mọi cách chiếm hữu.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như tỉnh thức để có cơ hội làm giàu, cơ hội được thăng quan tiến chức, có dịp tìm những thú vui nơi trần thế, thì có lẽ ngươi ta sẽ hăm hở chen chúc nhau để mở mắt mong chờ. Nhưng kêu gọi tỉnh thức để chờ Chúa đến thì là quá mơ hồ đối với những cách sống theo chiều hướng duy vật hưởng thụ. Nhưng nếu chúng ta là người có đức tin, đặc biệt là người biết sống Đức Tin, thì Lời Chúa gọi hãy tỉnh thức, đó còn là lời động viên an ủi để chúng ta can đảm mở lòng đón nhận Chúa là giá trị tuyệt đối, khi trước mắt chúng ta phải đối diện bởi những cái hấp dẫn hào nhoáng của sự sung túc trên trần thế.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như trí khôn chúng ta khám phá nơi Chúa là tất cả:Hạnh Phúc tất cả, Chân Lý tất cả, Vẻ Đẹp tất cả, Sự Thật tất cả…, thì chúng ta rất dễ dàng quay lưng với những cái gian dối để đón chờ Chúa đến trong tâm hồn.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Nếu như con tim chúng ta dành trọn cho Chúa, xem Chúa là tất cả của đời ta, hết lòng yêu mến Ngài trong từng phút giây, thì chúng ta sẽ dễ dàng nói không với những thứ hạnh phúc tạm bợ của thế gian, luôn rình rập để lôi kéo đời ta.
Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức. Đó là Chúa muốn chúng ta dành trọn thời gian, dành trọn cuộc đời để yêu mến Ngài không giới hạn, khao khát Ngài không điểm dừng. Vì Chúa muốn nói với chúng ta: Chúa là tất cả.
Vì Chúa là tất cả nên ngoài Chúa ra chúng ta đừng tìm thứ hạnh phúc nào khác.
Vì Chúa là tất cả nên hằng ngày chúng ta cố gắng sống những tâm tình của Thánh Augustinô sau đây, như để nói lên thái độ tỉnh thức đón chờ Chúa và tâm tình khao khát được Chúa đến trong cuộc đời:
“Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn khát khao cho đến khi được về an nghi bên Chúa”. Amen.
6. Gìn giữ tâm hồn
Hồi đầu thế kỷ 20, thì két sắt là nơi cất giữ tiền bạc một cách chắc chắn nhất, nhờ một hệ thống khoá bằng số mà chỉ một mình người đặt các số ấy hay là người biết những số ấy mới mở được mà thôi.
Quân đội của một nước kia đã sử dụng một chiếc két sắt như thế để cất giấu số tiền lớn. Chiếc két sắt này được đem đến một địa điểm để phát lương cho lính, thế nhưng trên đường di chuyển, khi đi ngang qua một khu rừng đã bị một bọn cướp lấy mất. Bọn cướp hì hục nhưng không sao mở được. Chúng lấy búa đập vào két hy vọng rằng két sẽ bung ra nhưng chiếc két sắt vẫn cứ trơ trơ. Chúng cho vào lửa và đốt nhưng chiếc két sắt vẫn cứ y nguyên. Chúng khiêng chiếc két lên núi rồi đẩy xuống, nhưng cánh cửa vẫn không chịu bung ra. Sau cùng, bọn cướp gài chất nổ với hy vọng sẽ phá được chiếc két nhưng nó vẫn không hề suy suyển sau tiếng nổ kinh hoàng. Quá bực tức, bọn cướp đã quăng chiếc két xuống biển. Được tin này, quân đội cho người đến nơi trục chiếc két sắt lên và khi mở ra, sồ tiền trong két vẫn còn y nguyên.
Tâm hồn chúng ta cũng là như một chiếc két sắt, chỉ một mình chúng ta mới biết những con số để mở cửa cõi lòng chúng ta ma thôi. Nếu chúng ta không chịu mở thì ma quỷ dù tài ba đến đâu cũng không thể làm gì được. Bình thường thì những thất bại của chúng ta đối với ma quỷ, không phải vì những cám dỗ bên ngoài, mà vì những điều nằm trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta.
Chỉ khi nào chúng ta bỏ ngỏ, chỉ khi nào chúng ta mở cửa thì ma quỷ mới có thể hoạt động và làm hại chúng ta được mà thôi. Ma quỷ có thể tấn công chúng ta mọi mặt, nhưng nếu chúng ta không tiếp tay với chúng, thì những cố gắng của chúng cũng chỉ là luống công vô ích mà thôi.
Cuộc đời chúng ta thì vắn vỏi, hơn thế nữa cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định. Chúng ta không biết mình sẽ chết khi nào, chết ở đâu và chết trong tình trạng ra sao. Cái chết có thể đến viếng thăm chúng ta bất cứ lúc nào. Vì thế qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa đã phán dạy chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách từng giây từng phút trong cuộc sống, hãy ra sức bảo vệ tâm hồn trước những đợt tấn công, những cám dỗ của ma quỷ, để rồi bất kỳ lúc nào Chúa đến viếng thăm, Ngài cũng sẽ thấy được nơi chúng ta một tâm hồn trong sạch và đôi tay đầy công nghiệp. Đúng thế, tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp sẽ là như tấm hộ chiếu để chúng ta được bước vào nơi quê hương Nước Trời.
7. Cho đi
Hãy bán của cải mình đi mà bố thí.
Có một bà kia, khi đi tham dự thánh lễ, đã gặp một cô bé đang ngồi van xin bố thí. Em bé nói:
– Xin bà thương cho cháu một đôi giày vì chân cháu lạnh cóng.
Bà ấy hứa cho cô bé một đôi vào chiều ngày lễ Chúa giáng sinh. Thế rồi bà ấy quên khuấy đi mất. Đúng hẹn, cô bé tìm hỏi và bà ấy chỉ biết mỉm cười xin lỗi rồi bước vào trong nhà thờ. Ngồi tham dự thánh lễ mà bà cảm thấy chẳng được an tâm chút nào. Thế là bà ấy đứng lên ra ngoài để gặp cô bé và rồi bà ấy đã nói với cô bé:
– Này nhé! chúng ta hãy trao đổi giày cho nhau. Em sẽ đi giày của tôi, còn tôi thì sẽ đi giày của em. Cô bé ngập ngừng trong giây lát rồi mới chấp nhận. Trên đường về nhà, đôi giày của cô bé làm cho đôi bàn chân của bà ấy vừa lạnh cóng vừa trầy xát vì đôi giày quá nhỏ. Thế nhưng, vừa về tới nhà thì một người đàn ông đang chờ bà. Ông này là thân nhân của một người bệnh mà bà từng chăm sóc; ông ta nói mấy lời cám ơn và trao cho bà một quà tặng và bảo:
– Đây là món quà tượng trưng nhân dịp lễ Giáng sinh để tỏ lòng biết ơn chị, đã vất vả chăm sóc cho mẹ tôi.
Món quà ấy là một đôi giày mới, rất hợp với đôi bàn chân của bà ấy. Xỏ thử đôi giàu mới này, bà ấy nhớ tới lời Chúa:
– Hãy cho thì sẽ được cho lại.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng chiều hôm nay và chúng ta nhận thấy lý luận của Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại với lý luận của loài người, như lời Kinh Thánh đã xác quyết:
– Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng vào đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường ích kỷ, càng chiếm hữu, càng thâu lượm được bao nhiêu, hay bấy nhiêu. Nền kinh tế loài người được đặt trên căn bản của sự tích luỹ. Càng tích luỹ càng trở nên giàu có. Trong khi đó, nền kinh tế của Thiên Chúa lại đặt cơ sở trên sự cho đi, với một nguyên tắc hoàn toàn khác hẳn: Càng cho đi thì càng trở nên giàu có, càng chia sẻ thì càng dư dật, bởi vì điều chúng ta cho đi, điều chúng ta chia sẻ chính là cái chúng ta giữ được cho mình ở nơi Thiên Chúa.
Nói chung, chúng ta thường có khuynh hướng sống theo cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo đáp ứng những nhu cầu của riêng mình. Chẳng hạn, chúng ta đến với Chúa chỉ để xin ơn này ơn nọ cho bản thân. Thế nhưng cách nhìn của Chúa thì hoàn toàn khác hẳn: Hãy chia sẻ, hãy bố thí tất cả những gì chúng ta có cho người khác.
Dĩ nhiên để thực hiện được điều này, đòi hỏi chúng ta phải có một tình yêu thương dạt dào. Tình yêu thương dạt dào ấy chúng ta phải tập luyện hằng ngày. Và đó chính là bổn phận, là ơn gọicủa mỗi người Kitô hữu chúng ta. Bởi vì chúng ta được mời gọi để sống mối dây liên hệ yêu thương với Thiên Chúa và với những người chung quanh.
8. Chủ về
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ. Ông chủ vắng nhà vì đi ăn cưới tới khuya. Chắc chắn ông sẽ về, nhưng chẳng rõ vào giờ nào. Vì thế người đầy tớ giữ cửa phải chờ đợi.
Phúc cho đầy tớ nào còn tỉnh thức khi chủ về. Chẳng những hạnh phúc cho anh ta, mà cho cả ông chủ. Ông vui sướng khi thấy đầy tớ còn chờ mình, nhạy cảm với tiếng gõ cửa đầu tiên, mau mắn ra mở cửa, trong tay cầm đèn sáng.
Sau đó ông chủ đã làm một hành vi quá đỗi bất ngờ. Từ địa vị ông chủ, ông đã hạ mình làm người tôi tớ. Ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.
Ông chủ không cố ý về vào lúc đầy tớ đang ngủ.
Đức Giêsu cũng không đến bất ngờ để bắt quả tang ai. Ngài mời gọi con người kiên trì chờ đợi.
Chờ đợi là một thách đố của tình yêu.
Người biết chờ cũng là người biết yêu.
Thật ra, Chúa không đến bất ngờ. Chúa chỉ đến bất ngờ với ai không sẵn sàng tỉnh thức. Chúa chỉ bất ngờ khi chúng ta nghĩ rằng Ngài không thể đến vào lúc này, trong hoàn cảnh này.
Nếu chúng ta tin Chúa vẫn đến trong mọi tình huống thì ta sẽ gặp được những bất ngờ thú vị.
Dù Đức Giêsu ví mình đến bất ngờ như kẻ trộm, nhưng Ngài không phải là Đấng thích gieo tai ương. Trái lại, Ngài thích đem đến những niềm vui bất ngờ. Bất ngờ hơn cả là ta thấy Chúa phục vụ mình, sống như người hầu bàn, cúi xuống rửa chân cho môn đệ. Chúa là ông chủ thích phục vụ hơn là được cung phụng.
Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa tiếp tục phục vụ nhân gian, Ngài thết tiệc cho nhiều người từ đông sang tây tham dự.
Đức Giêsu tự ví mình như một ông chủ vắng nhà.
Ông chủ này không độc đoán, nắm hết mọi quyền hành. Ông tin vào con người và giao trách nhiệm cho họ. Người quản gia được cử làm đại diện cho ông để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho đầy tớ.
Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Đức Kitô. Quyền bính là phương tiện để phục vụ Dân Chúa, nhưng nó có thể bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân. Đánh đập tôi trai tớ gái, chè chén say sưa vì nghĩ rằng còn lâu chủ mới về: đó vẫn là những nguy cơ rình rập các vị lãnh đạo.
“Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho mọi người?”
Một tông đồ như Phêrô cũng có thể bị phạt. Tông đồ là người đã biết ý chủ nên sẽ bị đòn nhiều hơn nếu không làm theo ý đó.
Vừa hiền lành bao dung, vừa đòi hỏi nghiêm túc. Vừa đòi đầy tớ phải phục vụ, vừa phục vụ như đầy tớ. Có bao nét tương phản nơi khuôn mặt ông chủ Giêsu! Chúng ta có phải là đầy tớ trung tín và khôn ngoan không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những cái chết được báo trước và được chuẩn bị kỹ càng. Nhưng cũng có nhiều cái chết bất ngờ, gây bàng hoàng cho mọi người. Theo ý bạn, có nên chuẩn bị cho cái chết của mình không? Tại sao?
Đức Giêsu cho thấy khuôn mặt một Thiên Chúa cúi xuống phục vụ như tôi tớ. Bạn ao ước gì nơi vị lãnh đạo Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho; tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
9. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN
Trong một thời gian ngắn các nước Á Châu đã phải chứng kiến sự ra đi của nhiều lãnh tụ. Trước hết là việc chạy trốn của ông Fujimori. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Peru đến nhiệm kỳ thứ 2. Nhưng vì tham nhũng, ông đã phải trốn chạy về Nhật. Tiếp đến là ông Estrada, tổng thống nước Philippin. Ông đã thắng cử với số phiếu áp đảo. Nhưng cuối cùng phải từ chức cũng vì tội tham nhũng. Gần đây là ông Wahid, tổng thống Inđônêsia. Ông đã sang Mỹ tị nạn cũng vì tham nhũng. Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên Chúa. Thật vậy, sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là, đều là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn, không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc? Tại sao tôi không có tài hội họa, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh Công Sơn tất cả những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta.
Con chim ở trọ cành tre,
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn…
Môi xinh ở trọ người xinh,
Duyên dáng ở trọ đôi chân Thuý Kiều…
Tôi nay ở trọ trần gian
Mai sau về chốn xa xăm với Người.
Một ngày kia Chúa sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
Là người quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Là quản lý trung tín, ta phải biết sinh lợi những tài sản Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh, trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta phải biết chia sẻ. Chúa ban sức lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân. Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con cái.
Là quản lý trung tín, ta không được phải bội. Không được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa. Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
Là quản lý không ngoan, ta phải biết nhìn xa. Sự sống, tài năng, sức lực, trí thông mình chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu đã dạy ta: “Hãy dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng, cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi. Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng ban tặng lại càng phong phú.
Là quản lý khôn ngoan, ta phải tỉnh thức. Cuộc đời ở trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ. Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ. Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh em, phân phát lúa thóc cho họ.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh thức sống dưới ánh mắt của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực sự không phải là của bạn không?
2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa chưa?
3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn ngoan?
4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?
10. Ngày mai không bao giờ đến – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Thủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp mở ra đóng vào được.
Khách đến chơi trông thấy cười nhạo nói rằng:
– Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?
Nhà sư trả lời:
– Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Tôi thực lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết đến cái chết là gì… Mỗi khi có việc không vừa ý, tôi cầm lấy quan tài mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên tâm trong tâm hồn ngay.
Thật là hiếm, những con người luôn ngẫm suy về cái chết của chính mình, và còn hiếm hơn nữa, những con người xem cái chết như người bạn đồng hành, giúp họ vượt qua những nỗi chán chường trong cuộc sống như nhà sư Viên Thủ Trung trong câu chuyện trên đây. Phần nhiều, người ta bôn ba để kiếm sống, họ lo thu tích cho nhiều của cải, vội vã thụ hưởng những thú vui trần tục, họ sống như thể sẽ không bao giờ phải chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc họ hãy “tỉnh thức và sẵn sàng”. Tỉnh thức như người đầy tớ trung tín đợi chủ về, như người khôn ngoan canh chừng tên đạo tặc; sẵn sàng như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong thức tỉnh.
Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm theo ý chủ trong khi đợi chờ.
Tỉnh thức không phải là nôn nao sốt ruột, mà lắng nghe tiếng gõ cửa với đèn sáng trong tay.
Chính khi nhận ra mình đang mê muội, tức là lúc bắt đầu tỉnh thức. Các thánh thường nhận mình mỏng dòn yếu đuối, nên các ngài luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Có một điều làm cho người ta rất đỗi hoang mang, là Chúa sẽ đến thật bất ngờ: “Vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12,40). Người sẽ đến “bất ngờ như kẻ trộm”. Kẻ trộm đến không bao giờ gửi thư báo trước, vì vũ khí của anh ta là sự bất ngờ. Chúa không có ý chơi xấu chúng ta, cũng không lợi dụng lúc chúng ta lơ là thì Người đến. Thật ra, Chúa chỉ nhắc nhở chúng ta hãy luôn tỉnh thức. Đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh. Đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc Nước Trời.
Nói cho cùng, việc Chúa đến bất ngờ là một biến cố vui mừng chứ đâu phải là bất hạnh. Chỉ bất hạnh cho những kẻ không khôn ngoan, không tỉnh thức, không trung thành với bổn phận. Còn đối với những ai tỉnh thức và trung thành thì việc Chúa đến bất ngờ lại là một ‘bất ngờ thú vị’.
Chẳng ai biết Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nhưng chắc chắn cuộc hẹn phải có. Chẳng ai biết giờ chết của mình lúc nào, nhưng chắc chắn giờ ấy sẽ đến. Chỉ sợ chúng ta có một ảo tưởng hết sức nguy hiểm này, đó là nghĩ rằng mình vẫn còn thời gian. Cái ngày kinh hoàng nhất của một đời người là mình tưởng còn ‘ngày mai’ để chuẩn bị, nhưng lại phải đối diện với một thực tế rất đỗi phũ phàng là “ngày mai” ấy không bao giờ đến.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con trở nên những đầy tớ trung tín và khôn ngoan của Chúa.
Xin nhắc chúng con luôn tỉnh thức và sẵn sàng, để chúng con không phải bàng hoàng khi Chúa bất ngờ đến gõ cửa. Amen.
11. Là người môn đệ – An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 19 thường niên C là những lời giáo huấn cụ thể để làm người môn đệ đích thực, đó là bán những của cải hiện có mà bố thí, luôn luôn tỉnh thức, nhận ra và thi hành ý của chủ mình là Thiên Chúa. Người môn đệ trung tín và khôn ngoan luôn luôn chu toàn trách nhiệm của mình, dù có chủ hay vắng chủ. Người đó thi hành trọn vẹn trách nhiệm trong tình yêu mến ông chủ. Những lời giáo huấn cụ thể này áp dụng cho người tín hữu, giúp họ sống trọn vẹn ý nghĩa cuộc đời mình.
“Hỡi đoàn con bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con…” là lời trấn an của Chúa Giêsu cho mọi kitô hữu. Thiên Chúa đã chấp nhận chúng ta. Người muốn chúng ta được hạnh phúc và sống có ý nghĩa. Người ban Nước Trời – nước công chính, bình an, hoan lạc trong Thánh Thần – như một phần thưởng cho những môn đệ đích thực.
Để trở nên môn đệ đích thực, chúng ta cần lắng nghe những lời mời gọi của Chúa Giêu. Người muốn chúng ta hãy tích trữ kho tàng trên trời, vì đó là kho tàng không hư nát, mối mọt không làm hại được, và trộm cướp không lấy mất được. Kho tàng đó chỉ có được khi rộng lòng và rộng tay cho đi. Cho đi là nhận được. Người càng tích trữ kho tàng dưới đất là của cải vật chất mà không tích trữ kho tàng trên trời là những việc tốt lành, đạo đức, là người thiếu khôn ngoan.
Hơn nữa, chúng ta chỉ là những người quản lý hay tôi tớ, chứ không phải là những người chủ. Đã không là người chủ, chúng ta cần luôn tỉnh thức để đón chờ và phục vụ chủ của mình là Thiên Chúa. Những yêu cầu của người chủ cần được thực hiện trọn vẹn. Là người kitô hữu, chúng ta đón chờ Đức Giêsu trở lại, đồng thời phục vụ tức là chia sẻ cơm áo cho những người nghèo: ai cho người nghèo khổ, bé mọn dù chỉ một ly nước, là làm cho chính Chúa…
Chúa Giêsu nói đến phần thưởng của người tôi tớ tỉnh thức là “chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng”. Đây là hình ảnh bữa tiệc Nước Trời mà ông chủ là Thiên Chúa sẽ khoản đãi những người tôi tớ đích thực vào ngày cánh chung. Theo lẽ thông thường, người tôi tớ phải phục vụ chủ, nhưng ở đây, chính ông chủ phục vụ người tôi tớ. Mọi trật tự thông thường bị đảo lộn. Đây là điều khó hiểu và không thể chấp nhận theo lý lẽ thường tình. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa đối với tạo vật của Người vượt quá mọi giới hạn, mọi trật tự thông thường. Thiên Chúa làm tất cả như Ngài muốn. “Tình yêu chỉ biết một chiều kích, và đó là chiều kích vượt quá mọi chiều kích” (thánh Bênađô). Là những tôi tớ, chúng ta không có quyền đòi hỏi bất cứ gì. Chúng ta chỉ trông chờ vào lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Phần thưởng thứ hai của người tôi tớ trung tín và khôn ngoan là “chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản của mình”. Được tin tưởng và trao phó trách nhiệm cai quản là phần thưởng cao quí. Đây là hình ảnh áp dụng cho những người có trách nhiệm: Các vị lãnh đạo trách nhiệm về những người thuộc quyền mình, cha mẹ trách nhiệm về con cái, nhà giáo dục trách nhiệm về người môn sinh… Điều kiện trước tiên của người có trách nhiệm là cần trung tín và khôn ngoan. Trung tín và khôn ngoan để phục vụ những người được giao phó cho mình. Phục vụ là một công việc đòi hỏi nhiệt tâm và lòng mến cao độ.
Phải chăng chúng ta là những người tôi tớ đích thực của Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta là những người trung tín và khôn ngoan.
Lạy Chúa,
có quảng đại cho đi, con mới lãnh nhận được dồi dào.
Xin cho con luôn biết chia sẻ những lời an ủi,
tấm lòng nhân ái, tâm tình cảm thông.
Xin cho con biết hiến dâng cả
thời giờ, sức khỏe và của cải cho anh em con.
Xin cho con không ngừng yêu mến và phục vụ anh em
như con đang yêu mến và phục vụ chính Chúa. Amen.
12. Tỉnh thức là một biểu hiện của tình yêu
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mặc dù biết rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, còn lâu mới mãn hạn cải tạo, nhưng tâm hồn chị Hồng luôn hướng về chồng, mong đợi chồng và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như thể chồng sẽ trở về nay mai. Mỗi buổi sáng, chị dậy sớm quét dọn con đường từ cổng vào đến thềm nhà với ý nghĩ biết đâu hôm nay chồng chị sẽ đặt những bước chân yêu thương lên con đường mới quét. Rồi chị tiếp tục quét dọn nhà cửa tươm tất sạch sẽ, lau chùi bộ bàn ghế phòng khách, cắm thêm những cánh hoa hồng còn đọng sương mai vào bình, thứ hoa mà chồng chị ưa thích, như thể chồng sắp về đến nơi. Vào mỗi bữa ăn, chị lại đặt thêm một chén và đôi đũa như thể có chồng cùng ngồi ăn bên cạnh. Chị làm tất cả những việc đó trong niềm mong đợi, trong tâm tình yêu thương.
Trong khi đó, người láng giềng của Hồng có tên là Phượng, cũng có chồng đi cải tạo. Phượng nghĩ rằng chồng mình còn lâu mới về, nên rủ rê bạn hữu đến nhà đánh bài, loại hình giải trí mà chồng của Phượng vốn rất ghét. Ban đầu thì bạn gái, dần dần thì các ông lợi dụng đến nhà Phượng đánh bài để buông lời chọc ghẹo tán tỉnh và cuối cùng Phượng đã lang chạ với nhiều người đàn ông khác.
Đôi khi lương tâm Phượng cũng lên tiếng nhắc nhở chị hãy tu tỉnh lại, nhưng chị nghĩ rằng chồng mình thuộc diện sĩ quan, thường phải cải tạo đến mươi năm mới về, thôi thì vui chơi cho thoả thích đã, đợi đến thời gian chồng sắp mãn hạn mới tu tỉnh lại thì cũng chẳng sao. Chị luôn tự nhủ lòng: chồng còn lâu mới về… vội gì… cứ hưởng đời đi, hưởng tuổi xuân đi, hãy vui chơi cho thoả thích… bao giờ chồng gần về sẽ tính.
Tương tự như câu chuyện trong Phúc Âm “người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay” (câu 36), chị Hồng là người vợ trung thành luôn sẵn sàng chờ đợi người chồng thân yêu của mình trở về. Những người Đó là trường hợp được Chúa Giê-su tuyên dương và chúc phúc.
Trong khi đó, chị Phượng được ví như người đầy tớ xấu, cứ nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa…”
Và số phận của người đó sẽ là: “chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín”. (câu 46)
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lại mình!
Cuộc sống của chúng ta hôm nay đang họa lại nếp sống của Hồng hay của Phượng? Trong tương quan với Chúa, chúng ta mang tâm trạng, thái độ của ai trong hai phụ nữ trên đây?
Nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ thích chọn nếp sống của Phượng. Họ nghĩ rằng còn lâu mình mới chết; còn lâu Chúa mới tới gõ cửa nhà mình. Thế thì hãy lợi dụng quảng thời gian ‘vắng Chúa’ để chơi bời cho thoả thích. Chờ khi tuổi đã về chiều, sức tàn lực kiệt… rồi mới tu tỉnh lại đón Chúa sau. Chứ hôm nay thì… cứ sống như không có Chúa!
Nếu thế thì hãy tự hỏi lòng mình: Phượng có xứng đáng với tình yêu của chồng không? Có xứng đáng chung sống với chồng trong ngày đoàn tụ không?
Và tôi, người học theo sách của Phượng, tôi có xứng đáng ‘vác mặt’ ra chào đón Chúa trong ngày Ngài đến gõ cửa nhà mình không? Tôi có xứng đáng được Ngài đón rước vào Ngôi Nhà hoan lạc mà Ngài đã dành sẵn cho tôi trên quê trời không?
Hôm nay, Chúa Giê-su lại kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức, nhưng tỉnh thức không chỉ có nghĩa là coi chừng giờ chết đến, không chỉ có nghĩa là dọn mình cho sẵn sàng để khi chết khỏi sa hoả ngục, hay đợi chờ ngày Chúa quang lâm mà ai cũng nghĩ là còn xa tít mù khơi… nhưng đúng hơn, đó là sẵn sàng mở cửa lòng ngay hôm nay để đón Chúa, đón mọi anh chị em là hiện thân của Chúa đang đến với mình hằng ngày, trong tư thế sẵn sàng và tâm trạng đầy ắp yêu thương như Hồng.
Tỉnh thức như thế là một biểu hiện của tấm lòng dạt dào yêu thương. Có tỉnh thức như thế mai sau mới đáng được đón nhận vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.
13. Tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cô Ác-ni-ét-ca, 24 tuổi, người mẫu nổi tiếng của Hà Lan, một lần kia đã đăng ký giữ chỗ trong chuyến bay TWA 800, nhưng vào phút chót, một trở ngại khiến cô phải đình lại chuyến đi, lúc ấy cô rất buồn vì phải lỡ dở công việc, nhưng sau đó chắc hẳn cô đã không ngừng cảm tạ ơn thoát chết, vì máy bay đó đã nổ tung sau khi rời sân bay và rơi xuống biển, toàn bộ phi hành đoàn và hành khách không một ai sống sót. Nhưng thoát cái chết đó cô lại rơi vào một cái chết không kém tang thương. Không đầy một tháng sau, đang lúc trình diễn giữa những tiếng reo hò ca ngợi của đám đông ngưỡng mộ, thình lình cô bị đâm túi bụi và đã tắt thở sau đó trước sự kinh ngạc của mọi người, họ là những người mến mộ cô nhưng đã bất lực không thể cứu sống được cô.
Cái chết bất ngờ của cô người mẫu nổi tiếng Ác-ni-ét-ca là một bằng chứng cho chúng ta thấy: dù tin hay không tin, sự sống của cô đang có một bàn tay siêu việt điều khiển, cô không thể giữ nổi sự sống của mình. Cô đâu có ngờ cái may thoát nạn vừa được hưởng cũng chính là tiếng chuông cảnh báo giờ ra đi của đời cô, cô đâu có ngờ buổi trình diễn hôm đó là lần trình diễn cuối cùng của mình. Đúng vậy, không ai có thể nắm chắc sự sống của mình, kể cả vua chúa quyền uy cho đến thứ dân hèn mọn. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng toàn năng mới có quyền quyết định sự sống con người và Ngài muốn gọi ai khi nào là tùy ý Ngài, vì thế tiếng gọi ấy thường là bất ngờ.
Quả thực, Kinh Thánh và giáo lý cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, bởi vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy đến cho mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày chết, còn hầu hết đều không biết trước. Chúng ta không biết trước ngày giờ mình chết, chẳng ai có thể phỏng định được tuổi nào mình sẽ từ biệt cõi đời, và cũng chẳng ai biết mình sẽ chết thế nào: chết từ từ hay chết bất thình lình, chết vì bệnh tật hay tai nạn, chết ở đâu: trên cạn hay dưới nước, ở nhà hay ngoài đường, chết trong tình trạng ơn nghĩa hay tội lỗi, mê man hay tỉnh táo, có kịp chịu các phép sau cùng hay không. Tóm lại, Chúa có thể đến gọi chúng ta khi chúng ta đang làm việc, đang khi chúng ta ngon giấc hay trong lúc chúng ta đang vui chơi giải trí… chúng ta hoàn toàn không hay biết gì về ngày giờ Chúa đến và Chúa gọi chúng ta ở chỗ nào.
Chính tính cách bất ngờ đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn sẵn sàng và do đó luôn cố gắng sống tốt lành. Cũng vậy, tính cách bất ngờ ấy cũng là điều tốt cho chúng ta, bởi vì nếu biết thời điểm đích xác, chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng, hoặc tệ hại hơn, tự ru ngủ mình để rồi tiếp tục ngồi lì trong con đường tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng. Chính vì tính cách bất ngờ ấy mà nhiều lần Chúa bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay, Chúa bảo chúng ta: bao lâu sống ở đời này, tư thế của chúng ta lúc nào cũng phải sẵn sàng giống như người đầy tớ trung tín chờ đợi chủ về. Chủ có thể về bất cứ lúc nào, điều làm cho chủ hài lòng là khi trở về thấy người đầy tớ hoàn toàn sẵn sàng, khi ông gõ cửa là mở ngay. Rồi Chúa còn đưa ra một thí dụ nữa để nhấn mạnh thêm về sự khẩn trương phải sẵn sàng, cũng như chủ nhà không biết khi nào kẻ trộm đến viếng nhà mình, nên ông luôn canh chừng để khỏi mất mát. Thì việc Chúa đến cũng bất ngờ như vậy, nên chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng để bất cứ lúc nào Chúa đến gọi chúng ta ra khỏi đời này, dù có bất ngờ và đột ngột, chúng ta vẫn không lo sợ. Trái lại, chỉ những ai không tỉnh thức và không sẵn sàng mới đáng lo sợ mà thôi. Nói khác đi, sự chết bất ngờ như vậy có thể là hoàn toàn tự nhiên, bình thường, không phải là số mệnh, không phải Chúa định, cũng không phải Chúa có ý chơi xấu chúng ta, chỉ nhằm nhè lúc chúng ta lơ là thì Ngài đến. Thật ra tính cách bất ngờ đó có lợi cho chúng ta: đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi phúc trường sinh, đừng mê mải thú vui trần gian mà quên đi hạnh phúc nước trời.
Vậy tỉnh thức là thế nào? Tỉnh thức không phải là không ngủ, mà là ngủ trong tỉnh thức, tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm việc như thường và trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa, nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tranh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hằng ngày, vẫn liên đới với mọi người, nhưng sống và làm việc một cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
14. Sống là chuẩn bị chết
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người bi quan bảo rằng: “sống là chuẩn bị chết”. Mỗi ngày sống là một nhịp cầu tiến gần đến cái chết hơn nữa. Cái chết nó đến cũng thật bất ngờ. Bất ngờ như tên trộm đột nhập vào nhà và lấy đi sự sống của chúng ta. Cái chết nó cũng không chờ đợi lứa tuổi để mà có thể sống theo tuần tự: sinh – bệnh – lão – tử. Cái chết đến với người già cũng như người trẻ ngang nhau. Có người chết trẻ. Có người chết già. Có người chết bất thình lình. Có người chết từng giờ vì cơn bệnh nan y.
Vào ngày 10/04/2010 cả thế giới cũng ngỡ ngàng trước sự ra đi đột ngột của vợ chồng tổng thống Ba Lan cùng đoàn tuỳ tùng gần 200 người. Họ đã tử nạn trong một chuyến bay đến Nga để dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày khoảng 22,000 binh sĩ Ba Lan bị sát hại. Chiếc máy bay đã không đưa họ đến nơi dự định mà đã đưa họ về với trời cao vào lúc 11g00 trưa cùng ngày. Họ đã kết thúc cuộc đời vào lúc mà họ không ngờ, và chắc chắn họ vẫn chưa chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh một cách vĩnh viễn này.
Mỗi ngày chúng ta cũng chứng kiến biết bao cái chết tức tưởi bởi đột quỵ hay bởi tai nạn giao thông. Trung bình ở Việt Nam mỗi ngày có hơn 32 người chết bởi tai nạn giao thông. Mỗi năm thiên tai lũ lụt cũng gây nên biết bao cái chết oan khiên đắng cay. Pakistan mới trải qua cơn lũ kinh hoàng đã cướp đi hơn 1500 sinh mạng. Sự chết dường như không kiêng nể ai. Sự chết có thể đến với bất cứ ai và ở mọi nơi, mọi lúc.
Xem ra sự sống và sự chết không nằm trong những toan tính dự định của chúng ta. Chúng ta không có quyền chọn lựa để tiếp tục sống hay chết. Không có quyền chọn lựa về cách chết. Và càng không có quyền chọn lựa thời gian để chết. Sự chết dường như vượt ra ngoài tầm kiểm soát của chúng ta. Sự chết sẽ chấm dứt mọi sự nơi dương gian của chúng ta. Công danh, sự nghiệp. Giầu có hay khó nghèo cũng kết thúc như nhau với nấm mồ nhỏ bé bốn tấc đất như nhau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức để chờ đợi chủ trở về. Sự chờ đợi khôn ngoan là chăm chỉ làm việc bổn phận của mình. Sự chờ đợi tích cực là tích luỹ kho tàng không bao giờ bị hao hụt hay mối mọt phá hoại là những việc lành phúc đức. Sự chờ đợi trong kiên nhẫn, dầu là lúc đêm khuya hay lúc bình minh sắp ló rạng vẫn luôn tỉnh thức vì không biết chủ về vào lúc nào. Chủ về với hàm ý chính Thiên Chúa sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta qua các ơn lành, qua các bí tích… Chủ về cũng có nghĩa là ngày Chúa đến để đưa linh hồn chúng ta ra khỏi thế gian. Chủ về cũng có nghĩa là ngày cánh chung, ngày đó sẽ khép lại toàn bộ lịch sử của nhân loại. Chủ sẽ vui mừng thấy chúng ta tỉnh thức hay chủ sẽ giận dữ thấy chúng ta đang u mê lười biếng. Chủ sẽ thưởng công hay luận phạt tuỳ theo thái độ sống của chúng ta.
Thế nên, sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy sống giây phút hiện tại một cách tích cực. Hãy sử dụng thời gian một cách hợp lý. Đừng dùng giây phút hiện tại để phạm tội. Đừng lao vào những đam mê mù quáng. Hãy sống tích đức để mua lấy Nước Trời mai sau. Nhưng đáng tiếc cho nhân loại hôm nay vẫn còn đó những người sống thiếu tỉnh thức bằng đời sống lười biếng và thiếu trách nhiệm trong bổn phận của mình, vẫn còn đó những người sống ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, vẫn còn đó những người sống tham lam bất chính hơn là tích đức cho đời sau. Họ sẽ mất cơ hội tham dự tiệc của tình yêu mà chính Thiên Chúa sẽ thiết đãi họ.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy sống giây phút hiện tại như là giây phút cuối cùng của đời mình để chúng ta sống có trách nhiệm hơn, sống tỉnh thức hơn. Ước gì mỗi người chúng ta cùng được chủ vui mừng đón tiếp trong bữa tiệc vĩnh cửu nơi quê hương trên trời. Amen.
15. Hãy tỉnh thức
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
“Nếu ngươi không tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3, 3)
Tỉnh thức là điểm nổi bật trong đoạn Tin Mừng này. Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy tỉnh thức và sẵn sàng vì Nước Trời:” Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là có phúc cho họ.” Tỉnh Thức có nghĩa là nhận biết chính mình, không mê muội, ảo tưởng về bản thân và các giá trị cuộc đời. Người tỉnh thức là người không có ảo tưởng giữa thực tại và mộng tưởng mơ hồ, nhưng là người nhận biết bản thân mình và sống thực với mọi hoàn cảnh. Người sống tỉnh thức là người sống có lý tưởng và hành động trong sự khôn ngoan. Sách Khôn Ngoan có viết:
“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi,
và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất…”
Thật vậy, người sống tỉnh thức là người sống khôn ngoan dưới ánh sáng Lời Chúa. Họ sẵn sàng tách mình ra khỏi những quan niệm trần tục và của cải thế gian. Họ là người có phúc vì họ đã sống tỉnh thức. Khi ta nhận thức được điều này, thì lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ càng có ý cho mỗi người chúng ta hôm nay, Ngài nói: “Hỡi đoàn bé nhỏ, các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con. Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát, và kho tàng không hao mòn trên trời, là nơi trộm cướp không lai vãng và mối mọt không làm hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó.”
Cũng như người thanh niên giàu có đến gặp Chúa Giêsu, và hỏi: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Chúa Giêsu bảo anh ta: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Ngài đưa ra một quy luật quá khó khăn đối với anh ta. Nghe thấy thế, anh ta buồn rầu và bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Nếu ngày hôm nay Chúa bảo chúng ta làm như anh nhà giàu này, thì chúng ta cũng bỏ đi ngay. Bằng chứng là có nhiều người ngày nay, họ bỏ Chúa, xa lìa Giáo Hội để chạy theo của cải thế gian hơn là đi tìm chân lý và tích lũy kho tàng trên trời. Sự thực, chúng ta cũng không hơn gì anh nhà giàu trong Tin Mừng. Anh ta là kiểu mẫu cho nhân loại thời nay. Lòng người thì hẹp và ngắn hơn tình thương và ân phúc Chúa ban tặng cho chúng ta mỗi ngày.
Với hình thức giữ đạo thì rất tốt, nhưng chúng ta vẫn còn thiếu tinh thần sống đạo và chia sẻ cho nhau theo giá trị Tin Mừng, đó cũng là lý do tại sao Chúa Giê-su nói: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!”. Người nghèo thì chết đói kẻ giàu thì phình da. Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ sững sờ, ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay, họ sẽ nghĩ gì?. Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền của để được vinh thăng cuộc đời.
Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!”. Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ, như thánh Phêrô nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa.? Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta mang được gì ra khỏi thế gian này!. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa nhiều thứ, đi nhiều nơi, nhưng chỉ có một con đường mà tất cả chúng ta đều phải đi chung, đó là con đường sự chết, đi vào nấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có tiền tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm được gì, chẳng mang theo được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay và lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái và yêu thương đọng lại trong những người thân yêu, và những người yêu thương chúng ta. Tất cả là của Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta có thể chọn lựa rất nhiều thứ, nhưng khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta không có quyền để chọn lựa cho số phận của mình. Chính Thiên Chúa quyết định số phận cho chúng ta.
Có thể, Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng đây chính là chân lý mà Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài và tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút không ngờ thì Con Người sẽ đến.” Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo khó theo Tin Mừng. Chúa Giêsu không nói các con cứ sống nghèo túng, đau khổ khi chết thì ta sẽ được cứu độ và lên thiên đàng. Nhưng, Chúa Giêsu nói: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” Cái nghèo ở đây chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và sống khó nghèo. Cái nghèo nơi mẹ Teresa Calcutta là hy sinh, phục vụ cho những mãnh đời bất hạnh, họ cần được tình thương, quan tâm và chăm sóc của chúng ta khi họ lìa đời. Đó là sống giá trị tinh thần nghèo khó theo Phúc Âm. Sự quan tâm yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ tha nhân là giới răn: “Kính Chúa yêu người”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức để chon lựa đúng giá trị cuộc sống hiện tại, và xin cho chúng con biết khôn ngoan sáng suốt để nhận thức chân lý của Chúa. Nhờ đó, chúng con có thể dùng của cải thế gian này để mua lấy Nước Trời mai sau. Amen.
16. Đừng sợ, hỡi đàn chiên nhỏ bé! – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’)
Qua suốt cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã theo hình thức thăm hỏi của người Do Thái mà thói quen thời đó vẫn dùng: “Bình an cho các con”, đó là một cách để nói: “Chào anh, anh có khỏe không?”. Sau cái chết và sự Phục Sinh của Người, Chúa Giêsu đã chuyển đạt lời chào này thành một đặc ân an toàn giữa những bấp bênh của đời sống này. Khi Chúa Giêsu chào đón các môn đệ của Ngài sau cái chết và sự Phục Sinh, Ngài nói: “Bình an cho các con”, những lời của Ngài đã trở thành sự bảo đảm cho mọi sự nên tốt. Chúa Giêsu đã hiến tặng sự bình an bởi vì Ngài đã chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta đó là tội lỗi và sự chết.
Chúa Giêsu đã hiến tặng cho chúng ta cùng một sự bảo đảm như cho các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta trong bài Phúc Âm ngày hôm nay: “Hỡi đàn chiên nhỏ, đừng sống trong sợ hãi”. Sợ hãi là một phần của đời sống. Tổng thống Franklin Delano Roosevelt trong bài diễn văn của mình vào ngày 4-3-1933 đã nói với dân chúng Mỹ rằng: “… điều duy nhất chúng ta phải sợ hãi chính là cơn sợ. Nước Mỹ thời gian đó đang chìm trong khủng hoảng kinh tế trầm trọng mà chúng ta chưa hề thấy trước đó bao giờ, những doanh nhân giàu có đã đi bán những đồng xu bên đường phố, những người đàn bà đã phải đi tìm chỗ ở bởi vì không có chỗ để sống. Một hệ thống kinh tế điên rồ trong quá khứ đã đem lại một hiện tại khủng khiếp và hứa hẹn một tương lai bấp bênh. Mặc dù có sự bảo đảm của tổng thống, nhiều người Mỹ vẫn sợ hãi.
Còn đối với chúng ta thì sao? Đức tin của chúng ta vào lời của Chúa Giêsu có làm cho những cơn sợ hãi của chúng ta nên bình an, không phải về kinh tế nhưng là nguồn mạch lớn lao về sự sống và sự chết không? Thư Do Thái trong Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hôm nay đã nói với chúng ta rằng;”Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng là bằng chứng cho những gì chúng ta không thấy”. Đức tin của chúng ta trong tương lai đặt nền tảng trên những điều gì? Và nguồn mạch bằng chứng của chúng ta là gì? Đó là quá khứ.
Vào năm 1933, quá khứ đã phát sinh sợ hãi trong lòng người dân Mỹ. Đối với chúng ta quá khứ sẽ làm mạnh cho đức tin của chúng ta ngày hôm nay. Hãy suy nghĩ về những tổ phụ lớn lao của đức tin như: Abraham và Sara, Isaac và Giacop và tất cả những người sốt sắng trong Cựu Ước. Họ đã đi tìm quê hương của mình. Họ đã tìm thấy nó không phải trên mặt đất này nhưng là trên thiên đàng. Cuối cùng họ khám phá ra rằng không có gì phải sợ hãi. Số phận của họ sẽ làm cho tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng.
Khi chúng ta nhìn về kỷ nguyên mà Chúa Giêsu đang còn trên mặt đất này, chúng ta sẽ thấy gì? Bằng cái chết Ngài đã phá hủy sự chết của chúng ta và bằng sự sống lại của Ngài, Ngài đã phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy bởi thánh giá và sự Phục Sinh Ngài đã giải thoát chúng ta, Ngài là Đấng cứu độ thế giới.
Sau “kinh Lạy Cha”, chúng ta cầu xin ơn bình an: “Lạy Chúa xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ, xin ban bình an cho ngày sống của chúng con”. Và trước khi hiệp lễ, vì linh mục cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, xin đừng nhìn tội lỗi chúng con nhưng hãy nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an và hiệp nhất của Nước Chúa”. Khi chúng ta đã chúc bình an cho nhau, chúng ta thông dự vào việc hiến tặng bình an mà Đức Kitô đã ban cho các môn đệ của Ngài.
Đức tin của chúng ta được đặt nền tảng trên thực tại của tất cả những gì Thiên Chúa đã làm, đầu tiên là những biến cố trong Cựu Ước và đặc biệt là trong sự chết và sự Phục Sinh của Con Người. Điều độc nhất mà chúng ta phải sợ hãi, không phải là chính cái sợ nhưng là sự thiếu đức tin.
17. Thức tỉnh – Như Hạ, OP
Làm sao con người có thể tránh hấp lực vật chất? Của cải đã chi phối sâu xa cuộc sống con người. Không tiền bạc không thể làm được việc gì có giá trị. Vật chất đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá mọi thực tại và tương quan. Bởi thế, làm sao người ta có thể tưởng tượng có một thứ tiêu chuẩn nào khác ngoài vật chất? Thế nhưng, Ðức Giêsu muốn đưa ra một thực tại siêu việt, ngược với vật chất. Thực tại đó là Nước Trời, một thách đố lớn lao đối với những ai chỉ tin vào vật chất.
TIN ÐỨC KITÔ: MỘT LỰA CHỌN
Trước thực tại siêu nhiên, của cải vật chất vẫn có một chỗ đứng. Ðức Giêsu không hề phủ nhận những giá trị vật chất. Nhưng Người đã vạch ra một chiều hướng lớn lao cho những thực tại trần thế. Quả thực, Ðức Giêsu gọi người phú hộ là “đồ ngốc” vì chỉ “biết thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa.” (Lc 12:21) Khác với người phú hộ chỉ lo “tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình,” (Lc 12:18) người môn đệ Chúa Kitô phải “bán tài sản của mình đi mà bố thí” và “sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời.” (Lc 12:33) Bỏ qua những thực tại trần thế để đuổi theo những thực tại “trên trời”, phải chăng đó là thái độ khôn ngoan?
Chúa Giêsu quả quyết đó là thái độ khôn ngoan. Tại sao? Cái nhìn của Chúa về của cải rất chính xác. Người không bi quan về của cải. Nhưng Người đề nghị cách dùng của cải sao cho ích lợi nhất. Muốn thế, phải tìm được một hướng đi và ý thức rõ ràng về vị trí của mình trên những thực tại trần gian. Con người có thể tạo ra của cải. Của cải tạo ra cảm tưởng an toàn cho con người. Nhưng thực tế, của cải bị đủ thứ đe dọa: cũ rách, hao hụt trộm cướp, mối mọt, bão lụt, chiến tranh v.v. Con người cứ tưởng mình có thể làm chủ tất cả những gì mình có và làm tất cả những gì mình muốn. Nhưng của cải trần thế không đủ sức giúp con người làm chủ thời gian. Chính thời gian sẽ là câu trả lời cho con người biết vị trị của mình trước những thực tại trần thế đó. Khi người phú hộ tưởng có thể ăn chơi “nhiều năm”, thì Thiên Chúa lại cảnh cáo: “Nội đêm nay.” (Lc 12:19.20) Chính thời gian sẽ bắt buộc con người phải buông tất cả. Hơn nữa, có ai biết được giờ phút từ giã cuộc đời. Bởi vậy, Ðức Giêsu cảnh giác: “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc 12: 40) Cuộc đời rất vắn vỏi và kết thúc bất ngờ. Vì không thể làm chủ thời gian, vai trò làm chủ của cải của con người trở thành tương đối. Chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ tuyệt đối trên mọi tài sản. Sống trên trần gian, con người giống như người đầy tớ “đợi chủ đi ăn cưới về.” (Lc 12:35) Hay như người quản gia, con người phải khéo léo vận dụng tất cả tài năng quản trị và phải báo cáo với chủ về tất cả những tài sản và công việc mình làm.
Nếu thế, vấn đề không phải là có bao nhiêu tài sản, nhưng là làm cách nào quản trị những tài sản đó. Người quản gia phải hai thái độ: chuẩn bị sẵn sàng và làm theo ý chủ. Thái độ sẵn sàng đòi hỏi người đầy tớ hay quản gia phải “tỉnh thức” (Lc 12:37) Nếu không, họ sẽ đánh mất phần thưởng dễ dàng. Phần thưởng chắc chắn sẽ có, nhưng chẳng biết bao nhiêu. Ông chủ chắc chắn sẽ trở về, nhưng không biết lúc nào. Bổn phận người quản gia là “cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc” (Lc 12:42) đúng người và đúng nơi. Nếu phung phí tiền của vào những nơi đàng điếm, “chè chén say sưa” (Lc 12:45) người quản gia sẽ “phải chung số phận với những tên thất tín.” (Lc 12:46) Ðó là thái độ của một quản gia vô ý thức, cứ tưởng “còn lâu chủ ta mới về.” (Lc 12:45) Chính sự lầm tưởng ấy đã dẫn anh đến thái độ hống hách, “đánh đập tôi trai tớ gái” (Lc 12:45) y như một ông chủ hách dịch.
Nếu lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi chủ về, các người đầy tớ sẽ chứng kiến một cảnh ngược đời. “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” (Lc 12:37) Chưa thấy một ông chủ nào lạ lùng như vậy! Ông đã quên hẳn địa vị để phục vụ người đầy tớ. Ðó phải chăng là cách diễn tả “vai trò phục vụ của Ðức Giêsu, xuyên suốt trong toàn thể sứ vụ và giáo huấn của Người, giờ đây được trình bày trong một khung cảnh cánh chung.” (Fahey 1994:535) Chính Ðức Giêsu đã hé mở thái độ như thế khi sống giữa các môn đệ: “Thày sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22:27) Thật là một vinh dự và phần thưởng lớn lao! Chẳng cần đợi tới ngày cánh chung, nhưng ngay khi sống giữa các môn đệ, Ðức Giêsu đã cho các ngài nếm trước tình yêu êm dịu nơi thái độ phục vụ đó. Bởi vậy, các môn đệ là những người có phúc và được khen tặng là những “người quản gia trung tín, khôn ngoan,” (Lc 12:42) bởi vì các ông đặt tất cả niềm tin và hi vọng nơi Ðức Giêsu. Tất cả ý nghĩa cuộc đời đều hệ tại thái độ chờ “đợi chủ đi ăn cưới về.” (Lc 12:36)
Niềm hi vọng đó cũng là nét đặc trưng của toàn thể dân Chúa thời xa xưa. “Dân Chúa đã trông đợi đêm cứu thoát người chính trực và tiêu diệt kẻ địch thù,” (Kn 18:7) sau bao nhiêu thế hệ mong Chúa thực hiện lời hứa. Vì “Chúa là niềm hi vọng của con.” (Tv 71:5) Nhưng làm sao hi vọng được, nếu không tin? Quả thực “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11:1) Chính “những điều không thấy” có giá trị gấp ngàn lần “những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” (Truyện Kiều) ” Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12:15) Càng nhiều của cải vật chất càng đâm lo. Bao nhiêu đe dọa và hiểm nguy vây bọc chung quanh. Có thể tiêu tan và mất mát bất cứ lúc nào. Giữa những hoang mang lo lắng đó, Ðức Giêsu khích lệ các môn đệ: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.” (Lc 12:32) Nước Người tràn ngập bình an.
Chỉ có Nước Chúa mới là nơi an toàn tuyệt đối. Vào được Nước Trời sẽ thấy Chúa khoản đãi một bữa tiệc thịnh soạn và chăm sóc tận tình. Con người sẽ hoàn toàn hạnh phúc, vì “Thiên Chúa của tôi sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Ðức Kitô Giêsu.” (Pl 4:19) Ðó là lý do tại sao nhiều người “bán tài sản của mình đi mà bố thí.” (Lc 12:33) Không những bán tài sản, nhưng họ còn liều mạng vì Nước Chúa nữa. Chính tổ phụ Abraham đã đi tiên phong trong niềm tin tuyệt đối nơi Thiên Chúa. “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia nghiệp. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Ðất Hứa, vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng,” (Dt 11:8.9.10) tức là Nước Chúa, nơi tràn ngập “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần,” (Rm 14:17) vì Ðức Giêsu Phục sinh sẽ là “Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh,” (Kh 7:27) chan hòa niềm vui.
Niềm vui ấy chính ông Abraham đã nếm trước. Quả thực, “dù đã nhận lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một” (Dt 11:17) là Isaac. Vì “ông Abraham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng” (Dt 11:19) cho Ðức Giêsu Phục Sinh. Sau khi phục sinh, Ðức Giêsu đã trở thành “Chúa các chúa, Vua các vua.” (Kh 17:14) Người đích thực là ông chủ sẽ trở về vào lúc bất ngờ để đem lại niềm vui bùng vỡ cho các đầy tớ trung tín và khôn ngoan. Niềm vui lớn nhất là họ sẽ được Chúa “đặt lên coi sóc tất cả tài sản của mình.” (Lc 12:44) Làm sao những tài sản trần gian có thể so sánh với tài sản muôn đời đó? Cuộc trao đổi thật lạ lùng! Cho đi cái tương đối để lấy cái tuyệt đối. Hi sinh cái hữu hạn để đổi lấy cái vô hạn. Làm sao hi sinh nếu không tin? Nhưng nếu Ðức Giêsu không phục sinh, làm sao củng cố niềm tin đó? Ðức tin sẽ cho ta thấy phải làm gì “để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12:36) Chính đức tin sẽ giúp ta tỉnh thức. Nhưng “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết.”(Gc 2:17)
Chỉ có “bố thí” mới đánh thức nổi đức tin. Vì chính khi giúp đỡ những anh em nghèo khó, chúng ta sống hết lòng với Chúa, như Chúa đã nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40) Thực tế, càng bố thí càng thanh thoát, vì “kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó,” (Lc 12:34) vì chính Ðức Giêsu đã giải thoát nhân loại khỏi mọi nô lệ và tội lỗi. Ðức Giêsu chính là kho tàng Thiên Chúa đặt giữa trần gian. Người đã tự đồng hóa với người nghèo. Bởi vậy, người nghèo chính là kho tàng cho mọi người ký thác tài sản.
TỈNH THỨC TRONG ÐỜI SỐNG HÔM NAY.
Nhờ đức tin, nhiều người khôn ngoan đã ký thác tiền của vào những kho tàng đó. Họ có thể là tỷ phú hay triệu phú một mình xây dựng học đường, bệnh viện, viện dưỡng lão, cô nhi, phong cùi v.v. Họ cũng có thể là nhiều công nhân hay nông dân nghèo phải gom tiền mới tài trợ nổi những người di cư và các nạn nhân chiến tranh, bão lụt v.v. Họ hành động như một thái độ tỉnh thức mong chờ Chúa đến. Họ không giống người phú hộ ngốc nghếch, chỉ biết thu tích của cải cho mình. Họ là những “quản gia trung tín, khôn ngoan” biết chia sẻ với những người nghèo và bất hạnh.
Trong khi đó, biết bao người đầy quyền lực, tiền của và tri thức đang lâm vào tình trạng u mê của tên phú hộ ngốc nghếch. Làm cách nào chống lại những người đang nhân danh quyền làm người để giết chết con người? Họ đang đổ tiền của vào việc nghiên cứu tế bào gốc để tìm cách chữa trị những bệnh như Parkinson. Dưới cái nhìn của họ, tế bào gốc không phải là bào thai, nên có quyền thí nghiệm hay hủy diệt tự do. Thực tế, “theo tiến sĩ Dianne Irving, hiện là một nhà luân lý sinh học lừng danh thế giới, cái gọi là?tế bào gốc của bào thai? thực sự là chính bào thai.” (CWNews 10/8/2001) Như thế, hủy diệt tế bào gốc là giết người. Không luân lý nào cho phép giết người để cứu người cả. Nhiều người còn dùng quyền lực và tiền bạc áp đặt những biện pháp phá thai, tạo sinh vô tính. Chẳng hạn “chính phủ Trung Cộng đã ra lệnh cho một tỉnh nghèo nàn và hẻo lánh phải thực hiện 20,000 vụ phá thai vào cuối năm sau khi biết chính sách mỗi gia đình một con bị dân chúng coi thường.” (CWNews 10/8/2001) Làm sao chống cưỡng được một lệnh giết trẻ em vô tội tàn bạo như thế? Nhiều nhà khoa học đang gầm thét đòi quyền tự do theo đuổi những chủ trương tạo sinh vô tính. Tiến sĩ Severino Antinori chủ trương “quyền làm người cho phép ông nghiên cứu việc tạo sinh vô tính.” (CWNews 10/8/2001) “Ông gọi ÐGH Gioan Phaolô II và Tổng thống Mỹ George W. Bush là tội phạm? vì chống lại việc tạo sinh vô tính.” (CWNews 10/8/2001)
Tất cả những thái độ chống lại con người như thế phải chăng phát xuất từ những con người đầy ý thức? Ngày nay con người không phải chỉ muốn làm chủ của cải, nhưng cả vận mệnh mình nữa? Thực ra, con người chỉ là đầy tớ hay quản gia trên mặt đất thôi. Muốn đạt tới hạnh phúc đích thực và sâu xa, con người cần phải tìm hiểu cho “biết ý chủ” và “làm theo ý chủ” (Lc 12:47) Người Chủ duy nhất đó chính là Thiên Chúa, Ðấng Tạo thành vũ trụ và là Cha đầy lòng yêu thương chúng ta trong Ðức Giêsu Kitô.
18. Sẵn sàng chờ đợi Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền.
Nhà vua gọi anh hề lại và nói:
– “Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó”.
Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua. Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói:
– “Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm”.
– “Nhà vua đi tận đâu lận?”, anh hề hỏi.
– “Ta chẳng biết nữa”.
– “Nhà vua đi có lâu không?”.
– “Đi hoài và không trở về đây nữa”.
– “Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?”
– “Chưa hề”.
Anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu:
– “Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi”.
Anh chị em thân mến.
“Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến”. Cuộc sống của mỗi người là một cuộc hành trình tiến về đích điểm xa vời, một chân trời xa lạ. Nhưng có mấy ai đã chuẩn bị cho cuộc hành trình không bao giờ trở lại ấy? Một cuộc hành trình đơn độc, chẳng ai đi cùng. Cuộc hành trình có một không hai của mỗi người chúng ta.
Chết là đi về sự sống vĩnh cửu, là về với Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Thế mà sao chúng ta vẫn lo âu? Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói rắng chúng ta sợ có thể không gặp được Chúa? Chúa luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta. Phải chăng lo âu sợ hãi là dấu hiệu nói rằng chúng ta chưa chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng khi Chúa đến, là tâm hồn chúng ta còn ngổn ngang, còn tội lỗi và những đam mê, quyến luyến…
Triết gia Platon nói rất đúng: “Ai không bao giờ nghĩ đến sự chết thì không thể biết cách sống”. Điều nầy càng đúng với đời sống của người Kitô hữu. Làm sao một Kitô hữu có thể sống trong thái độ sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nếu những chân lý về đời sống vĩnh cửu, về ngày Chúa trở lại… chỉ là những điều xa xôi, mờ ảo, phi thực trước những cơn sốt của cuộc sống thực tiễn mỗi ngày. Đức tin chỉ cho người tín hữu thấy mình phải đi tới đâu và không cho phép người tín hữu hy sinh vận mạng vĩnh cửu vì những lợi ích ngắn hạn. Người Kitô hữu phải thấy được tất cả chiều dài con đường mình phải đi.
Vì vậy, người Kitô hữu phải luôn thức tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày giờ Chúa đến. Thái độ tỉnh thức sẵn sàng nầy đòi hỏi chúng ta đừng để lòng mình bám chặt vào những của cải vật chất trần gian, mà phải có tâm hồn siêu thoát, luôn hướng về ngày Chúa trở lại. Ai trông chờ Chúa đến thì tự nhiên thấy cần phải sống siêu thoát. Và sống siêu thoát là một cách chuẩn bị đón Chúa. Bởi vì, “kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó. Hãy sắm lấy kho tàng ở trên trời, kho tàng không bị hư hao, không bị mối mọt, không bị trộm cắp”.
Trông chờ Chúa đến là điều kiện để sống một cuộc đời Kitô hữu đích thực. “Lạy Chúa, xin Chúa mau đến!” đó là lời cầu nguyện khẩn thiết và niềm tin mạnh mẽ của các tín hữu buổi đầu. Chính vì thế mà Giáo Hội sơ khai đã là một Giáo Hội sốt mến, luôn cầu nguyện và bẻ bánh, sống trong tình huynh đệ, để của chung, chia sẻ của cải với anh em nghèo túng.
Còn chúng ta ngày nay thì sao? Thưa anh chị em,
Ưu tư hàng đầu của đông đảo tín hữu hôm nay là gì? Có còn là lòng khao khát Chúa đến nữa không? Chính tâm tình khao khát đợi chờ nầy sẽ chi phối tất cả cách sống của chúng ta. Chúa Giêsu thúc giục chúng ta hãy tỉnh thức, chờ đợi, thắt lưng, cầm đèn sáng trong tay. Đó là thái độ của người khao khát đợi chờ Chúa đến. Những lời khuyến cáo nầy chẳng những ám chỉ những việc cụ thể người Kitô hữu phải làm để chuẩn bị đón Chúa, mà còn chỉ cho thấy ý nghĩa bao quát, đích thực của đời Kitô hữu. Tất cả đời Kitô hữu là một cuộc chuẩn bị và một sự chờ đợi kiên trì. Nó hướng tới sự hoàn tất cánh chung, tới sự thực hiện chung cuộc các Lời Hứa. Vì thế, tất cả đời Kitô hữu cũng như toàn thể lịch sử loài người là một Mùa Vọng kéo dài, một Mùa Vọng trường kỳ, trong đó tâm tình tiêu biểunhât1 là lòng khao khát Thiên Chúa và niềm hy vọng vui tươi sẽ gặp được Ngài.
Tuy nhiên, niềm hy vọng cánh chung – đợi chờ ngày Chúa đến – không làm giảm giá trị cuộc đời trần thế hiện tại. Cuộc đời của người Kitô hữu luôn có một cuộc dằn co, căng thẳng giữa hai chiều kích, giữa niềm hy vọng cánh chung và việc dấn thân vào đời. Có căng thẳng, dằn co, chứ không có mâu thuẫn. Căng thẳng vì mỗi chiều kích có những đòi hỏi riêng của nó, và người Kitô hữu phải đáp ứng cả hai. Không được chọn bên nầy mà bỏ bên kia: không được dấn thân vào đời mà quên đích điểm là ngày Chúa đến; cũng không vì đợi chờ ngày Chúa đến mà xao lãng bổn phận dấn thân vào đời để xây dựng trần thế nầy. Có dằn có, căng thẳng giữa hai chiều kích, nhưng không mâu thuẫn, vì cả hai đều nhằm thực hiện ơn gọi cuối cùng và toàn diện của con người.
Anh chị em thân mến,
Hy vọng cánh chung chẳng những không miễn trừ các trách nhiệm trần thế mà còn là một động lực thúc đẩy chúng ta chu toàn các trách nhiệm đó một cách tận tụy và chu đáo như người quản gia khôn ngoan và trung tín, biết quản lý và phân phát của cải cho các gia nhân, tôi tớ. “Ai được giao cho nhiều thì phải phân phát nhiều”. “Phúc cho người quản gia nào khi chủ trở về mà gặp thấy đang làm như vậy”. Chu toàn nhiệm vụ được giao phó cũng là một cách tỉnh thức và sẵn sàng chờ đón Chúa. Vì mọi công trình tốt đẹp thực hiện trong cuộc đời hiện tại sẽ được giữ lại làm chất liệu kiến tạo Nước Trời mai sau.
Mỗi lần cử hành Thánh lễ là chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu – Ngài đã chết và đã sống lại – đồng thời trông đợi Ngài lại đến. Xin cho niềm khát khao Chúa đến sẽ làm chúng ta luôn tỉnh thức sẵn sàng, nhờ đó ta sẽ đón nhận Chúa cách trọn vẹn trong mọi thời điểm bất ngờ nhất của cuộc đời.
19. Những đầy tớ tỉnh thức – McCarthy
Suy Niệm 1. NGƯỜI ĐẦY TỚ TRUNG TÍN
Cái chết là biến cố to lớn nhất của đời sống, tuy nhiên nhiều người bị nó tóm lấy mà không hay biết. Đối với một số người nó đến như kẻ trộm vào ban đêm. Tuy nhiên sự bất ngờ ấy có thể là một ân sủng –nó theo sát chúng ta trong gang tấc. Nó buộc chúng ta chuẩn bị trong mọi lúc.
Được chuẩn bị không có nghĩa là hoàn thành hết mọi việc mà người ta muốn hoàn thành. Nó có nghĩa là phải sống trung thực với trách nhiệm của mình trong giây phút hiện tại. Một ngày nọ, một tu sĩ đang quét sàn nhà trong tu viện thì có người hỏi ông, ông sẽ làm gì nếu ông sẽ chết trong vòng một giờ nữa. “Tôi sẽ tiếp tục công việc quét nhà”, ông đáp. Nói cách khác, ông muốn tiếp tục đi theo bổn phận của mình trong lúc đó.
Nhiều người tin rằng hạnh phúc gắn liền với việc không có sự gì để cam kết, không có người nào để đáp lại và không bao giờ để cho nhu cầu hoặc những vấn đề của người khác trói buộc mình. Nhưng không phải thế. Thật ra, trái lại mới đúng. Hạnh phúc và sự viên mãn của một con người không nằm trong tự do, nhưng trong sự chấp nhận của bổn phận. Người ta chấp nhận bổn phận này không phải một cách khắc nghiệt nhưng với lòng yêu thương.
Bất cứ ai chỉ làm tròn bổn phận của mình, thì không làm hết bổn phận ấy. Chúng ta càng hiến dâng tình yêu cho nhiệm vụ khó khăn hơn, thì nó cũng làm cho chúng ta cao quý hơn. Ân sủng cao cả nhất, tự do cao cả nhất trong đời sống là khi điều chúng ta phải làm cũng chính là điều chúng ta thích làm. “Tôi nằm ngủ và mơ thấy đời sống là một niềm vui. Tôi thức dậy và thấy đời sống là bổn phận. Tôi hành động và thấy bổn phận là niềm vui”. (Tagore).
Khi ông Dag Hammarskjold bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, ông đã đọc một bài diễn văn cảm tạ. Trong bài diễn văn ấy, ông trích dẫn câu thơ của một thi sĩ Thuỵ Điển: “Phải chăng sẽ đến ngày mà niềm vui sẽ lớn và nỗi buồn phiền sẽ nhỏ?”. Và ông nói thêm câu trả lời của riêng ông: “Đến ngày mà chúng ta cảm thấy mình sống với bổn phận đã hoàn thành và đáng làm, ngày ấy là niềm vui sẽ lớn và chúng ta có thể coi sự buồn phiền là chuyện nhỏ”.
Đẹp biết bao nếu cái chết đến khi chúng ta đã làm xong mọi việc, hoàn thành mọi nhiệm vụ đâu vào đó như một bó lúa đã được cột lại. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn đó có phải là trường hợp của mình không bởi vì giờ chết được giấu kín đối với chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta nhớ điều này: vấn đề không phải là chúng ta chết lúc nào và như thế nào mà là chúng ta sống như thế nào. Chúng ta phải cố gắng sống viên mãn và nhiệt tình và không chờ khi bệnh tật hoặc tai hoạ mới nhận ra bản chất bấp bênh của đời sống con người.
Mấy năm trước đây ở Mỹ, có một tu sĩ dòng Phanxicô hoạt động giúp đỡ các trẻ em mồ côi, ông tham gia vào một cuộc chạy đua xe đạp để gây quỹ bảo trợ. Trong lúc chạy ông đã bị một xe hơi đâm vào và kết quả là ông đã chết. Đúng là một cái chết không đẹp. Tuy nhiên từ một quan điểm Kitô giáo đó là một cái chết rất đẹp. Ông chết trong lúc làm việc cho Chúa. Ông giống như người đầy tớ trung tín mà Đức Giêsu nói đến trong Tin Mừng.
Đời sống rất quý giá, nhưng chúng ta không vui hưởng thế gian này mãi mãi. Phúc cho những người có ý thức về bổn phận. Sự cao cả của họ gắn liền với ý thức trách nhiệm. Mẹ Têrêxa nói: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chỉ để sống trung thành”.
Suy Niệm 2. HÀNH TRÌNH TRONG ĐỨC TIN
Trong một bài viết cho tạp chí The Tablet (tháng 4-2000) Mục sư Ignotos nói rằng có hai cách tiếp cận đời sống: cách tiếp cận của một người đặt kế hoạch và của một người hành hương. Người đặt kế hoạch thích làm chủ toàn bộ đời sống mình và có thể đặt kế hoạch cho mỗi giai đoạn tuỳ theo những mục tiêu đã định trước. Người đặt kế hoạch theo sự gợi ý của xã hội về những điều mà xã hội cho là thành công, và dành phần lớn thời gian để sống phù hợp với phong cách sống và các giá trị của những người khác. Họ thất vọng đắng cay nếu thất bại trong việc hoàn thành những mục tiêu ấy.
Trái lại, người hành hương là người chấp nhận đời sống như một gói quà mà người ấy mở ra khi sống đời sống đó, vì dù có cố gắng đến đâu, chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn làm chủ sự viẹc xảy ra. Người ấy không để cho thất bại và chán nản làm nhụt chí, nhưng xem chúng như cơ hội cho sự trưởng thành tâm linh. Không giống như người đặt kế hoạch, người hành hương không bao giờ cảm tháy hoàn toàn thoải mái, dễ chịu vớinhưng4 giá trị của xã hội.
Người đặt kế hoạch từ chối sống với đức tin. Trái lại, người hành hương sống bằng đức tin. Dù biết rằng đời sống đầy nguy hiểm, người hành hương vẫn khẳng định nó. Dù ý thức sự bấp bênh hoàn toàn của thân phận con người, người ấy vẫn hoan hỉ. Đó là cốt lõi của đức tin. Người ấy đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, và do đó mở rộng tâm hồn mình cho Ơn Chúa chở che. Người ấy cử hành giây phút hiện tại và do đó có thể sống cuộc đời đến mức cao nhất.
Ápraham là một gương mẫu cao cả của đức tin trong Cựu Ước (Bài đọc 2). Ông là một người hành hương tinh tuyền. Theo lời của Thiên Chúa ông tự làm mình mất gốc, rời bỏ gia đình và dân tộc của ông, và bắt đầu lên đường đến một vùng đất mà Thiên Chúa đã hứa sẽ chỉ cho ông; ở đó ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân tộc to lớn. Đó là một cuộc hành trình đi vào một xứ sở chưa biết. La bàn duy nhất mà ông có chính là đức tin vào Thiên Chúa.
Chúng ta là những con cháu tinh thần của Ápraham. Chúng ta chứng tỏ mình là những con cháu chân chính của Ápraham bằng việc bắt chước đức tin của ông. Đời sống thì đầy dẫy những điều bấp bênh. Giống như Ápraham, chúng ta hành trình vài nơi không biết. Nói cho cùng chúng ta không biết điều gì nằm sau khúc quanh kế tiếp trên đường đời. Tuy nhiên, bất chấp nhưng đế chế và thất bại, chúng ta vẫn tiếp tục hành trình như là những người hành hương nhớ nhung quê nhà nơi mà những hy vọng của chúng ta được thực hiện và đời sống thật của chúng ta sẽ bắt đầu.
Với trọn vẹn đức tin, Ápraham đã chết mà không nhìn thấy lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Là những Kitô hữu chúng ta dành cả cuộc đời của mình để hành trình về vùng đất hứa trên trời. Nhưng khi chúng ta chết vẫn chưa đạt được. Cũng giống như Ápraham, chúng ta lữ hành trong đức tin và chết trong hy vọng.
Đặc biệt trong lúc chết, chúng ta được mời gọi noi gương đức tin của Ápraham. Lúc chết chúng ta phải để mọi sự lại đằng sau, và bắt đầu ra đi đến một vùng đất xa lạ. Nhưng nếu chúng ta đã sống bởi đức tin thì bước cuối cùng trong cuộc hành trình ấy sẽ không khó khăn hơn bất cứ những bước nào trước đó.
Là những Kitô hữu, chúng ta phải ý thức rằng chúng ta không lẻ loi trong cuộc hành hương của đời sống. Chúng ta thực hiện cuộc hành hương ấy như là những thành viên của một cộng đoàn sống đức tin. Đức tin của cộng đoàn sẽ nâng đỡ khi đức tin của chúng ta còn non yếu.
Đồng thời, giống như người đầy tớ mà Đức Giêsu nói đến, chúng ta phải cố gắng trung tín với Thiên Chúa và trung tín với nhau. Một trắc nghiệm thật sự về lòng trung tín là luôn luôn trung tín cho dù gặp cản trở và thất bại, cả khi chỉ là sự trung tín trong những điều nhỏ bé và tin rằng đời sống chúng ta mới thật sự quan trọng và chúng ta có thể làm ra cái khác. Chúng ta nên tìm thấy lòng can đảm và hy vọng trong những lời của Mẹ Têrêxa: “Chúng ta không được kêu gọi để thành công nhưng chỉ để sống trung thành.”
20. Những người có trách vụ siêu nhiên
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Kho tàng làm nảy sinh trong tâm trí một cực thu hút. Tất cả những khuynh hướng nội tâm là ý nghĩ, ước vọng, hoạt-động-tính, tự nhiên đều xoay vào điều gì lợi nhất cho mình. Đức Kitô phán: Chớ đặt quyền lợi các ngươi trong những sự gì thuộc về thế gian chóng hư nát, mà phải đặt trong những thực tại siêu nhiên lâu bền. Có những quyền lợi vật chất thật sự xấu, gây bất công, hoặc làm cho tâm hồn sa đọa, chúng không tránh được sự trừng phạt của Thiên Chúa. Một số quyền lợi vất chất khác thật sự tốt, là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Chúng được chúng ta nêu trong kinh nguyện: Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày. Tuy nhiên không được vì lo lắng những quyền lợi vật chất chính đáng nhất mà sao lãng mối quan tâm trước tiên về định mệnh siêu nhiên của mình. Ở điểm này, Phúc Âm nêu ra cả một tập hợp những câu hỏi không thể giải đáp ngoài phạm vi những viễn ảnh đức tin sống động. Muốn có giải đáp theo chủ trương Đức Kitô, phải thật sự dốc lòng tin vào Đức Kitô. Chúng ta có thể áp dụng Lời Chúa cho xã hội, cho chính chúng ta.
1) Xã hội không tin mấy vào Đức Kitô, vậy mà Chúa nói với chính xã hội, với bất cứ cá nhân nào. Chúng ta quan sát cái xã hội mệnh danh là xã hội tiêu thụ. Người ta rất quan tâm đến của cải vật chất, lợi nhuận, đầu tư, đến những kho tàng, theo Lời Chúa, dễ bị trộm cắp lai vãng, dễ bị tiêu tan. Người ta chú tâm nhiều vào việc khéo xoay sở để khỏi phải nhịn mua sắm mà vẫn thăng bằng được ngân sách gia đình hàng tháng. Kho tàng ở đâu, lòng người ở đó – ở chiếc xe hơi lộng lẫy, ở thời trang tối tân, v.v… Trong cái xã hội hưởng thụ ấy, Kitô hữu phải có thái độ nào? Kitô hữu sử dụng của cải thế gian mà không tham lam vô độ, biết đặt lên trên hết những giá trị nhân bản và siêu nhiên là sự công bằng, sự thờ phụng Thiên Chúa, tình liên kết với anh em vì yêu mến Thiên Chúa, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tình cảm.
2) Lời Đức Kitô áp dụng cho Kitô hữu như cho kẻ tôi tớ, sống giữa thế gian mà luôn thức tỉnh về phạm vi siêu nhiên. Trong cộng đồng nhân loại, Kitô hữu được Thầy cắt cử làm ‘quản lý’, có nghĩa vụ sinh lợi những thực tại siêu nhiên. Kitô hữu nào ngủ mệt, nghĩa là đua đòi mọi người chạy theo vật chất, mải mê lo việc đời này, kẻ ấy lúc tỉnh dậy dễ gặp nguy hiểm khủng khiếp. Kẻ tôi tớ nào ham mê ăn uống say sưa, ông chủ sẽ tới vào ngày giờ kẻ ấy không ngờ, ông chủ nghiêm trị, đuổi đi. Trái lại, kẻ tôi tới tỉnh thức sẽ được khen thưởng. Kitô hữu nhận được nhiều do ân huệ đức tin, cho nên sẽ bị đòi nhiều. Lại có giời Kitô hữu nhận được nhiều hơn nữa vì được ơn gọi sống làm chứng cho Phúc âm bằng thiên chức mình. Giới được ưu đãi này sẽ bị đòi nhiều hơn nữa. Dẫu sao, bất cứ Kitô hữu nào cũng phải cảnh giác để trả lời một câu hỏi hai vế: Trong đời sống nghề nghiệp chức vụ, tức là trong phạm vi sản xuất – trong đời sống bình thường, tức là trong phạm vi tiêu thụ, mình có triệt để thực thi san sẻ bắt buộc phải làm vì đức công bằng, vì lòng mến Chúa không?
21. Phải luôn sẵn sàng
“Các con hãy sẵn sàng”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa dạy chúng ta về một điều kiện cần thiết để được vào Nước Trời: ấy là phải luôn luôn sẵn sàng. Sẵn sàng như người đầy tớ trung tín đợi chủ, như người khôn ngoan trông chừng tên đạo tặc, như người quản lý khôn ngoan biết làm theo ý chủ.
Như vậy, bài Phúc Âm được nối kết bởi một dụ ngôn riêng rẽ (theo Mátthêu và Marcô), nhưng được gom góp lại dưới một chủ đề theo lối văn pháp thường quen của Luca.
Muốn vào Nước Trời “hãy tỉnh thức và sẵn sàng”.
Xưa nay, nhiều cuộc thất bại đắng cay trong lịch sử cá nhân, gia đình, xã hội đều do một nguyên do là không chuẩn bị đủ, chưa sẵn sàng.
Đại tướng Mac Arthur sau đệ nhị thế chiến có nói: Lịch sử của những thảm bại trong chiến tranh có thể gồm tóm trong hai chữ: ‘quá muộn’. Quá muộn vì chưa sẵn sàng. Quá muộn vì chưa chuẩn bị đủ.
Trong phạm vi thiêng liêng, đi chinh phục Nước Trời, ơn cứu rỗi cũng vậy. Để giải thích, Chúa đưa ra ba dụ ngôn. Dụ ngôn người giúp việc luôn tỉnh thức đợi chủ về. “Thầy bảo thật, chủ sẽ thắt lưng đặt chúng vào bàn ăn và đi lại hầu hạ chúng”.
Dụ ngôn về tên ăn trộm, ăn trộm thì có bao giờ báo trước. Vậy hãy tỉnh thức, “giờ nào các ông không ngờ thì Con Người sẽ đến”.
Dụ ngôn người quản lý trung tín luôn làm theo ý chủ, chủ tín nhiệm trao cho quyền trông coi tất cả gia sản.
Tóm lại, muốn được cứu rỗi, phải luôn luôn sẵn sàng: Tỉnh thức, cầu nguyện, hành động và chiến đấu với ma quỷ, với chước cám dỗ.
Một nhà văn hào kể một câu chuyện giả tưởng. Satan họp đại hội thảo luận về phương thức chiếm đoạt các linh hồn. Nhiều ý kiến của các cấp quỷ được phát biểu. Nhưng ý kiến được đại hội tán đồng là của một quỷ già đầy kinh nghiệm. Đó là rỉ tai câu này: ‘Gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã!’
Bao nhiêu linh hồn hư mất không sẵn sàng.
Lạy Chúa, xin cho con biết luôn cầm đèn sáng trong tay.
22. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tỉnh thức là để làm gì? Đối với người Ki-tô hữu, tỉnh thức kiểu nào là hữu hiệu nhất, đẹp ý Chúa nhất?
2. Trong đời sống giáo dân, có thể cầu nguyện khi làm bất cứ việc gì không? Có cách nào biến tất cả mọi việc ta làm thành lời cầu nguyện không?
Suy tư gợi ý:
1. Hãy tỉnh thức… hãy sẵn sàng…
Đức Giêsu khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức để làm gì? Để luôn luôn sẵn sàng đến trước mặt Chúa bất cứ lúc nào Chúa gọi, với tâm hồn trong sáng, đầy tình yêu và đáng yêu. Một người luôn sống đẹp lòng Chúa, yêu thương mọi người, thì luôn luôn cảm thấy mình sẵn sàng đến trước mặt Chúa. Tỉnh thức đối với họ không phải là một tâm trạng bất an của người phải luôn canh chừng kẻo kẻ trộm hay kẻ cướp tới nhà. Tỉnh thức ở đây là một tâm trạng luôn luôn bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được mình cái gì. Tỉnh thức kiểu này mới là khôn ngoan nhất.
Từ nhỏ tôi đã nghe cha linh hướng của tôi kể câu chuyện về ông thánh còn rất trẻ tuổi Đaminh Saviô. Đó là câu chuyện tôi rất thích và ảnh hưởng đến đời sống của tôi rất nhiều. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi:
– «Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?»
– «Con vẫn tiếp tục chơi!»
– «Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?»
– «Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!» …
Khi kể câu chuyện ấy xong, cha linh hướng bảo rằng: «Nếu vào giờ chơi luật tu viện buộc phải chơi, mà các con vào nhà thờ cầu nguyện, thì việc cầu nguyện ấy không đẹp lòng Chúa đâu! Vả lại, chính khi các con chơi để đẹp lòng Chúa, vì Chúa muốn giờ đó các con chơi, thì lúc ấy chơi chính là cầu nguyện, mặc dù các con chẳng có vẻ gì là cầu nguyện, hay chẳng có ý hướng cầu nguyện gì lúc ấy cả». Từ khi nghe cha linh hướng nói như thế, tôi bắt đầu có ý nghĩ đến hình thức cầu nguyện bằng hành động hay bằng việc làm, và làm việc trong cầu nguyện.
2. Tỉnh thức theo kiểu … cầu nguyện bằng hành động
Tỉnh thức kiểu của Saviô trên có vẻ như không tỉnh thức, nhưng đích thực là luôn luôn tỉnh thức, có vẻ như không cầu nguyện, nhưng đích thực là luôn luôn cầu nguyện.
Tôi cũng thích câu chuyện 2 người ghiền hút thuốc hỏi cha linh hướng. Một người hỏi: «Thưa cha, vừa cầu nguyện vừa hút thuốc có được không?» Cha nói: «Không được!». Còn người kia hỏi: «Vừa hút thuốc vừa cầu nguyện có nên chăng?» Cha đáp: «Tốt lắm! Nên lắm!» Hai câu trả lời ấy rất đúng nhưng lại làm cho hai người có hai thái độ cầu nguyện khác nhau: một người bỏ hút thuốc để cầu nguyện, và một người vẫn cứ hút, nhưng có thói quen hễ bắt đầu hút thuốc là bắt đầu cầu nguyện.
Thì ra không nên làm gì khác trong khi cầu nguyện, nhưng lại có thể cầu nguyện khi làm bất cứ điều gì. Thế là từ đấy về sau, nhất là trong đời sống giáo dân của tôi vốn không thể dành nhiều giờ để cầu nguyện, tôi thường tập cầu nguyện và kết hiệp với Chúa khi làm bất cứ điều gì. Vì thế, công việc tôi làm thường được chìm trong ý hướng tỉnh thức và cầu nguyện. Nhờ đó, tôi dễ làm tốt đẹp công việc của mình, với ý hướng siêu nhiên. Và khẩu hiệu của tôi là «biến mọi hành động, mọi công việc thành cầu nguyện». Đời sống nội tâm của tôi nhờ thế phát triển hơn, mà có vẻ như rất ít khi cầu nguyện.
Tuy nhiên, tôi vẫn dành ra mỗi ngày vài lần, mỗi lần ít phút để cầu nguyện «nghiêm túc», nghĩa là trong những phút cầu nguyện ấy tôi không làm gì khác. Chính nhờ những giây phút «cầu nguyện kiểu thuần túy» ấy, tôi mới trung thành được với thói quen vừa làm mọi việc vừa cầu nguyện.
3. Cầu nguyện bằng hành động cũng là cách cầu nguyện tuyệt vời
Cầu nguyện là nói với Chúa. Nhưng quả thật, trong đời sống con người, lời nói không phải luôn luôn đi đôi với hành động. Biết bao người khi cầu nguyện, họ nói với Chúa một đằng, còn trong đời sống thực tế họ lại hành động một đằng khác. Họ giống như người con thứ hai trong dụ ngôn «hai người con» trong Tin Mừng (Mt 21,28-32): nói rất hay mà làm rất dở. Đây cũng là một căn bệnh của thời đại, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội. Tuy nhiên, có những người không nói, hoặc nói ít, nhưng hành động thật sự. Họ không nói hay tuyên bố là họ yêu ai cả, nhưng hành động và cách xử sự của họ chứng tỏ họ yêu thương mọi người thật sự.
Xét điều ấy, ta thấy hành động cũng là một cách nói rất có giá trị. Nói tôi yêu bạn, hoặc biểu lộ tình yêu bằng hy sinh thật sự cho bạn, thì cách nào nói lên tình yêu nhiều hơn và chân thật hơn? Nếu hy sinh thật sự có giá trị hơn lời nói, thì cầu nguyện bằng hành động là một cách cầu nguyện tuyệt vời, chắc chắn có giá trị hơn hẳn trước mặt Thiên Chúa. Đó cũng là kết hợp với Chúa qua ý chí và hành động. Nếu chỉ cầu nguyện bằng lời nói xuông, không có hành động kèm theo bảo chứng cho những lời nói ấy, thì hóa ra lời cầu nguyện của ta chỉ toàn là nói «sạo», hoặc hứa hão với Chúa! Đức Giêsu cũng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi» (Mt 7,21). Như vậy, những Ki-tô hữu nào không thể dành nhiều thì giờ để «cầu nguyện kiểu thuần túy», vẫn có thể cầu nguyện khi làm tất cả mọi việc, hoặc biến tất cả mọi việc ấy thành cầu nguyện. Thiết tưởng đó là một cách tỉnh thức rất hữu hiệu và đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lúc nào con cũng có thể hành động trong ý hướng muốn làm đẹp lòng Cha, và làm theo cách Cha mong muốn con làm. Nghĩa là con phải làm cách nào hoàn chỉnh nhất, hợp lý nhất, đem lại ích lợi và hạnh phúc cho nhiều người nhất. Con muốn hiệp nhất ý của con với ý của Cha trong từng hành động một. Và con nghĩ đó là cách cầu nguyện bằng hành động, hay biến hành động thành cầu nguyện. Xin cho con đủ tình yêu để thực hiện được điều ấy. Amen.
23. Maranatha: Lạy Chúa xin hãy đến – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
“Maranatha” có nghĩa là: “Lạy Chúa, xin hãy đến!” Đây là từ cuối cùng của Thánh Kinh, đây là lời nguyện tha thiết của những Kitô hữu đầu tiên. Từ này lại trở nên lời nguyện của một số Kitô hữu ngày nay, nhất là trong những cộng đoàn đặc sủng. Lời này đáng được suy niệm.
Maranatha kêu gọi ngày tận thế, cái ngày kinh khủng là ngày mà Chúa Kitô xuất hiện trong vinh quang khởi đầu cuộc sống mới của con người tràn đầy sinh khí của Chúa. Bởi vì như Chúa Giêsu đã nói với chúng ta chính Thiên Chúa sẽ mời gọi chúng ta vào hưởng sự vui vẻ của Ngài: “Ngài sẽ cho các ngươi ngồi vào bàn và lần lượt phục vụ các ngươi.”
Nhưng mặc dầu kỳ diệu và tràn đầy tình yêu đến thế, cái kết cục vĩ đại này có lẽ không ngày đêm ám ảnh chúng ta lắm. Chúng ta ít hiểu điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta làm khi nói với chúng ta: “Hãy sống như những người đang chờ đợi”. Và khi chúng ta ngoan ngoãn lặp lại theo Ngài: “Lạy Cha, xin cho Nước Cha trị đến”. Điều này không làm lòng chúng ta hướng về ngày cánh chung, trong khi đó ý nghĩa đầy đủ là: “Xin cho thế giới chung cuộc nơi mà Cha sẽ trị vì mau đến”.
Thế giới đó đã đến. Chúng ta đi đến sự viên mãn nhưng thế giới đó đến trong sự khởi đầu của chúng ta. Thời kỳ cánh chung (nghĩa là những mục tiêu cuối cùng) là một bình minh xa xăm soi sáng sự tiến triển của nhân loại (tổng kết, như một nhà chính trị nổi tiếng đã nói, đó là một sự tiến triển) hướng về các mặt trời vĩnh cửu.
Cho nên sự chờ đợi Kitô giáo không có tính cách tĩnh tại và giải phóng. Nó là ý thức (có thể không sống động lắm) về một sự sản sinh vĩ đại.
Nền linh đạo chắc chắn nhất mà người ta luôn dạy chúng ta thì rõ ràng: phải sống tràn đầy ngày hôm nay. Nhưng đó là “ngày hôm nay của Chúa, tràn đầy Chúa và tràn đầy sự chờ đợi Ngài.
Liều lượng giữa hoạt động tức thì và sự chờ đợi thì rất tế nhị. Nó thay đổi theo các thời đại hoặc thậm chí theo mỗi tâm trạng. Sẽ có cho tới cùng những người miệt mài với thế gian và những người mơ ước trời cao. Tuy vậy, nói đến liều lượng tức phải có cả hai, và có nơi mỗi người trong lòng chúng ta: sự chờ đợi, vâng, nhưng trong một sự nhẫn nại rất tích cực. Biện chứng giữa ngày hôm nay và ngày mai là luôn luôn phải tỉnh thức. Biện chứng này suýt bị sai lệch ngày từ khi Kitô giáo mới ra đời. Các tín hữu Thessalonica của thánh Phaolô bị Maranatha tác động đến nỗi họ không còn làm gì nữa cả. Thánh Phaolô phải nói với họ: “Không, ngày của Chúa chưa đến! Phải sống, phải làm việc” (2Ts)
Chúng ta đã ghi nhận rất tốt bài học bởi vì ngày hôm nay của chúng ta hết sức bận dịu đến độ không tin vào thời kì cánh chung. “Những mục tiêu cuối cùng sao? Để rồi xem!” Ngay cả nơi những người Kitô hữu, người ta nhượng bộ hai cách sống (thường chỉ là hai gian đoạn của một cuộc sống) dưới trần thế này vì Maranatha: cái tôi bất cần và cái lịch sống cuồng sống vội.
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta có cuộc sống tỉnh thức: “Hãy là những người đang chờ đợi”, hãy ý thức việc ngày tháng qua đi và chấm dứt. Nhưng “theo kiểu người quản lý trung thành và khôn ngoan”. Một người quản lý “bận bịu” lắng nghe trong tiếng động của những ngày đang đi qua tiếng của Ngày tận thế đang tới. Cho nên Maranatha không phải là một lời nguyện giả hình, kêu xin Chúa cho ngày tận thế “đến” mà không muốn Ngài đến. Chúng ta có thể nói với Ngài “Xin hãy đến” bởi vì Ngài đang đến và để Ngài đến nhiều hơn nữa, ngày từ bây giờ, thấm nhuần những ngày hôm nay của chúng ta những giá trị cho ngày mai. Maranatha thông truyền cái vĩ đại vào trong điều gì có nguy cơ nhỏ nhặt, tẻ nhạt hoặc lệch lạc. Đó là những ngày lê thê hoặc chạy theo thời gian, những ngày khổ hình bị giết chết bằng những liều thuốc an thần. Nếu trong tất cả những điều đó tôi mất đi sự chờ đợi cơ bản của tôi, Maranatha của tôi, thì tôi chỉ còn là một kẻ chia nhỏ thời gian mà thôi, tôi không xây dựng gì cả, tôi không tự chuẩn bị cho gì cả.
Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin hãy thâm nhập những ngày cuối cùng. Qua việc Ngài đến dần dần, xin hãy chuẩn bị việc Ngài đến tràn đầy nơi chúng con và nơi thế giới. Ánh sáng Mừng vui, Ánh sáng vĩnh cửu của Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô Thánh thiện và Hạnh phúc.
24. Linh đạo lữ hành – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Cuộc đời quá vắn vỏi. Phải chăng phải lo tận hưởng lạc thú thế trần?
Những người đang trên đường
Đức Giêsu nói: “Đừng tích trữ những gì có thể mục nát hay trộm cướp có thể lấy đi được, nhưng hãy tích trữ những gì không hư nát và không thể bị đánh cắp”. Cái mình cho là quý, mình luôn bận tâm và hướng lòng về đó. Cái mình cho là quý, có thực sự là những điều trường tồn? Tiêu chuẩn nào giúp mình nhận ra cái có giá trị thực sự? Cái chết giúp con người nhận ra, mình chỉ là lữ khách.
Cái chết đến với mình lúc nào mình đâu có biết! Một tai nạn giao thông có thể xảy ra ai lường trước được. Mình đâu có thể mang tài sản vật chất đi với mình được. Cuộc đời này qua mau. Ai hành động như thể sống vĩnh viễn trên cõi đời này, là người không khôn ngoan. Giờ chết đến, tôi sẽ ra đi tay trắng, và chỉ mang theo chính mình, ngay cả thân xác này cũng không thể mang theo được.
Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn người đầy tớ chờ chủ về để dạy thái độ phải có khi sống trên dương thế này. “Sẵn sàng”. Phải tỉnh thức vì không biết giờ nào chủ về đến. Cái chết là chung cho tất cả mọi người, cho cả các tông đồ và dân chúng. Cách đối xử của Thiên Chúa với mọi người đều như nhau, dù ở bất cứ địa vị hay bậc sống nào. Sự trung thành không hệ tại ở chức vụ nhưng qua cuộc sống, nơi việc làm.
Đức tin giúp sống linh đạo lữ hành
Chính đức tin giúp mỗi người sống linh đạo lữ hành trong đời trần thế này. Vì tin vào Lời Chúa, mà Noê đã đóng tàu khi tất cả dường như rất bình yên. Vì tin mà Abraham đã bỏ quê cha làng xóm để đi đến phương trời xa, đi theo lời mời gọi vừa chắc chắn vừa rất xa vời. Ngay cả khi chết Abraham vẫn còn phải tin rằng mình sẽ có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển, vẫn phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho mình và con cháu đất để sở hữu và canh tác (vì khi vợ Abraham là Sara chết, Abraham phải mua đất chôn vợ). Vì tin mà bao nhiêu người đã dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa.
Nếu không có đức tin, Noê, Abraham, và các anh hùng tử đạo đã không hành xử như vậy. Nếu không có đức tin, các tín hữu đã chẳng sống nghèo và giúp đỡ những người khốn khổ. Nếu không có đức tin, chắc người ta đã sống phóng đãng và bất chấp tất cả, cốt sao để được lợi trước mắt.
Đức tin giúp con người hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, chấp nhận những điều không vừa ý một cách can đảm và anh hùng, cũng như giúp con người sống hạnh phúc trong những điều kiện mà người ta tưởng rằng không có thể.
Linh đạo lữ hành
Khi coi cuộc sống trần gian như cuộc lữ hành, không có nghĩa, coi thường cuộc sống trần thế, nhưng muốn nói, cuộc sống trần thế là thời gian dẫn ta tới sự sống vĩnh cửu.
Cuộc sống trần thế này rất quan trọng, nếu ta không tận dụng hoặc không sống nó một cách trọn vẹn, ta không thể dễ dàng tới đích ở cuối đường đời. Cuộc đời chóng qua, nhưng rất quan trọng. Cũng tương tự dùng máy bay để đi tới một nơi nào đó, tuy dù chỉ bay trong mấy giờ nhưng rất quan trọng, nếu không dùng thời giờ đó một cách đúng đắn nghiêm chỉnh, người ta không đi được tới nơi người ta muốn. Đời tạm dẫn ta về quê trời, nếu không sống trọn vẹn đời tạm, e rằng khó đạt đến quê trời.
Đức tin giúp người ta nhận biết đúng thực tại, và Thiên Chúa luôn luôn ban ơn giúp người ta sống với Ngài ngay trong cuộc sống đời tạm này. Thiên Chúa làm tất cả cho ta. Hãy tin tưởng và vui sống, ngay cả trong “biển đời” này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là nét đẹp của cuộc đời này?
2. Thiên Chúa muốn bạn làm gì trong suốt đời bạn?
3. Điều gì ngăn cản bạn sống hạnh phúc trong cuộc sống này?
25. Tất cả các bạn
Tin mừng lớn lao nhất đã chấn động trong lịch sử của loài người đó là Tin Mừng về Tình Yêu của Chúa. Một Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng ta và còn tiếp tục bảo tồn chúng ta toàn vẹn trong cuộc sống. Chúng ta cùng nhau vui sướng tán dương tình yêu của Chúa cho chúng ta và mong muốn chúng ta trở nên hoàn mỹ và trọn vẹn.
Một buổi sáng, sau khi bà mẹ đã chuẩn bị điểm tâm sáng xong thì sai hai người con gái của bà chạy lên lầu nói với ông bố xuống dùng. Người con gái lớn chạy nhanh hơn nên đã lên lầu trước, và cô nũng nịu chạy vô lòng bố và nói, “Mời bố xuống dùng điểm tâm.” Người con thứ hai cũng đến, và cô bị người chị lớn chọc, “Chị đã chiếm hết tình thương của bố rồi!” Thế nhưng ông bố lại nhìn người con thứ hai với ánh mắt trìu mến và cũng đưa cánh tay kia ra để ôm lấy cô. Người con thứ hai quay sang chị nó nói, “Có lẽ chị đã chiếm hết tình thương của bố, nhưng bố lại chiếm hết tình yêu của em!” (You may have all there is of daddy, but daddy’s got all there is of me!)
Thiên Chúa tốt lành đã tạo dựng nên chúng ta thì Ngài cũng muốn chúng ta thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn biết chọn Ngài làm kho tàng, Ngài sẽ chiếm hết con người của các bạn.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em…Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể nào hao hụt ở trên trời… Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12:32-34).
Đôi lúc, đó là một điều khó để tìm lời mà diễn tả cái cảm nghiệm sâu xa về con người nói chung. Thí dụ ai trong chúng ta có thể diển tả nổi cái kho tàng lớn lao nhất: Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn bạn, hoặc cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Nền tảng đức tin, nền tảng tôn giáo chân chính, nền tảng của sự cảm nghiệm lòng sốt sắng chúng ta là những gì mà Cựu Ước gọi là “yêu Chúa hết lòng”, và Tân Ước thì gọi là “Ơn thánh của Chúa.” Điều đó có nghĩa là cho dù chúng ta có nghĩ hoặc cảm thấy điều gì về Thiên Chúa, hoặc là thần học có dạy cho chúng ta điều gì đi nữa, thì điểm cốt yếu của đức tin chúng ta vẫn là Thiên Chúa là cùng đích của chúng ta. Thiên Chúa yêu thương săn sóc cho chúng ta. Nếu điều đó được chúng ta cất giữ và suy niệm trong tận đáy thâm tâm của mình thì chúng ta sẽ được biến đổi. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô luôn luôn bắt đầu thư của Ngài bằng lời chào “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta chúc lành cho anh em.” Ngài có ý làm như vậy là để cho chúng ta phải biết biến đổi ý tưởng trước khi lắng nghe lời ngài bởi vì đó là tâm điểm của đức tin.
Đó là do ơn thánh của Chúa mà Ngài đã đến với chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô, và trở nên một với chúng ta hầu chỉ cho chúng ta biết sống thế nào cho phải lẽ.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà Ngài đã trở nên một trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần, và làm cho chúng ta lớn lên.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta được gọi để hiệp nhất trong tình yêu của Ngài, điều mà Chúa Giêsu gọi là tối hảo cần thiết của con người.
Đó là do ơn thánh, sự tốt lành của Ngài, mà chúng ta đón nhận món quà sự sống và hy vọng trong tương lai và sức mạnh để yêu thương kẻ khác với đức ái.
Trong ngày Chúa Nhật hôm nay, khi chúng ta tụ họp lại nơi đây để lắng nghe Lời Chúa, không phải chỉ là nghe lại, nhưng tôi xin các bạn hãy nghe và hãy suy nghĩ với lòng chân thành và giữ trong lòng chúng ta.
Một điều quan trọng chúng ta cần phải hỏi mình: chúng ta có ôm ấp Tin Mừng của Chúa ở tận đáy tâm hồn của mình nơi mà chúng ta thường hay làm những quyết định cho những gì chúng ta muốn làm? Chúng ta có đứng vững trên nền đá của đức tin hay trên nền cát?
Nếu một người đến Hoa Kỳ từ một nước khác, họ thật ngạc nhiên khi nhìn thấy đủ loại thực phẩm ở các cửa hàng: sữa bột, chỉ cần pha với nước là có sữa, nước cam bột, chỉ cần pha với nước là có một ly nước cam, rồi fast food (đồ ăn liền), xe đủ loại, máy điện toán… Chúng ta có thể kể ra đủ mọi thứ loại hàng mà chúng ta có thể nhìn thấy. Thế nhưng nếu cuộc sống của chúng ta chỉ để tâm đến những thứ này thì là một điều đáng tiếc.
Tôi cầm thử những thứ thế gian, ôi chúng chỉ là kho tàng chóng qua, chúng có lợi ích gì? Tôi cầm thử những thứ thuộc về tôi, lạy Chúa, xin cho con cầm lấy thật chặt tất cả những gì thuộc về Ngài.
Khi các bạn biết chọn Chúa Giêsu làm kho tàng, Ngài sẽ là phần thưởng cho các bạn.
26. Thức tỉnh chờ đón cuộc sống thật
Ai trong chúng ta cũng công nhận cuộc sống của con người trên trần gian này chỉ là tạm bợ và chóng qua. Dù muốn dù không một ngày nào đó tất cả con người chúng ta cũng phải lìa bỏ cuộc sống trần gian này. Cho dù người ta có giàu sang hay nghèo khó, sinh sống nơi thành thị hay vùng thôn quê hẻo lành, có quyền cao chức trọng hay chẳng có địa vị nào trong xã hội thì tất cả đều phải chấp nhận sự thật này. Sự thật là sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ còn có một cuộc sống thật bền vững và chắc chắn nếu chúng ta biết sống thức tỉnh.
Tuần trước Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12, 15). Vì con người chúng ta thường dễ bị cám dỗ để gắn bó quá nhiều với những gì thuộc thế giới này – vào của cải vật chất. Thế nhưng, những của cải vật chất đó không thể bảo đảm cho chúng ta cuộc sống thật mai sau.
Cũng trong những lời nhắc nhở đó, hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy sống thức tỉnh như thái độ của người đầy tớ luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón chủ đi ăn cưới về. “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. (Lc 12, 35 – 37)
Mỗi người chúng ta từ Thiên Chúa mà đến. Vì “lá rụng về cội” nên chúng ta đ ược kêu mời sống làm sao để được trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Trở về với Thiên Chúa để được hưởng lại cuộc sống thật do tội nguyên tổ đã đánh mất. Điều đáng nói là không biết ngày giờ nào hay lúc nào Chúa mời gọi chúng ta trở về.
Nếu thật sự tin vào cuộc sống thật sau cuộc sống tạm bợ này chúng ta sẽ sống rất tích cực và lạc quan. Ngược lại, chắc hẳn chúng ta sẽ sống rất uể oải và không chút hy vọng gì vào tương lai. Nếu như vậy thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên hết sức vô nghĩa, chẳng có giá trị gì.
Như vậy, sống thức tỉnh trong hy vọng vào cuộc sống thật mời gọi chúng ta phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa. Phó thác trọn vẹn cho Chúa bằng cách gắn bó với Người qua việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích. Đồng thời, hằng ngày chúng ta biết chu toàn tốt bổn phận của mình – bổn phận trong gia đình, trong Giáo hội hay ngoài xã hội.
27. Tin là sống – Lm. Bùi Quang Tuấn
“Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay” (Lc 12,35).
Bản thống kê mới nhất của Liên Hiệp Quốc cho hay cứ trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng 270 ngàn người chết: chết vì bệnh tật, bom đạn, hoạn nạn, thiên tai… Có lắm người chết vì bị hạ sát, nhưng cũng không thiếu người chết vì tự sát. Có nhiều kẻ chết do người khác gây ra như vụ nổ bom toà đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya, vụ tàn sát tập thể tại Nam Tư, song cũng không thiếu kẻ chết vì tai hoạ thiên nhiên như lũ lụt tại Trung quốc, sóng thần tại New Guinea, đất động tại Ấn độ.
Mỗi ngày có 270 ngàn người chết. Như thế mỗi giờ có trên 10 ngàn người, và mỗi phút có gần 200 người phải rời khỏi thế gian. Nhưng thử hỏi: “Rời thế gian để đi đâu?” Đi vào cõi nửa thực nửa hư như người Do thái hằng quan niệm? Đi vào cõi thinh không hư vô, hoặc đi đầu thai ở một kiếp khác? Hay chết là hết?
Nếu nói chết rồi sẽ đi đầu thai kiếp khác thì e rằng người ta chẳng cần phải quan tâm lo lắng về đời sống ăn ngay ở lành làm gì. Vì có kẻ cho rằng: “Tại sao không ăn chơi hưởng thụ cho thoải mái để bù lấp những ngày cơ cực. Nếu không may sau này có bị đầu thai làm kiếp trâu bò lừa ngựa, thì cũng không thành vấn đề, bởi vì hiện nay cũng từng phải vất vả quần quật, ‘cày bừa’ tối ngày nên có kinh nghiệm rồi.” Có người còn tâm sự: Ở Việt nam còn được sinh ra trong tuổi con rồng, con gà hay con rắn…, chứ qua bên Mỹ, dường như ai cũng cầm tinh giống nhau: tinh con trâu. Vì ai cũng phải đi cày tối ngày. Thế nên nếu có đầu thai làm kiếp trâu bò, tưởng cũng không đáng ngại ngùng.
Thành ra nếu chết rồi đi đầu thai kiếp khác thì không công bằng và đáp ứng xứng hợp với nhân phẩm cao cả của con người chút nào. Với lại thú vật thì đâu có tri thức để phân biệt đúng sai, lành dữ, và như thế làm sao chúng có dịp chọn lựa hay từ khước, lập công hay phạm tội? Làm sao có cơ may để đi đến một kiếp tốt hơn hay xấu hơn?
Còn nếu nói chết là hết thì càng bất công và xúc phạm đến phẩm giá con người cách khủng khiếp. Chính chủ nghĩa vô thần, những triết thuyết cộng sản và chủ nghĩa hưởng thụ đã đưa con người đến với khái niệm chết là hết đầy bất nhân kia.
Nếu chết là tận tuyệt thì tội tình chi người ta phải hy sinh hãm mình, ăn ngay ở lành, quảng đại tha thứ, hay từ tâm nhân ái? Nếu chết là hết thì dại gì người ta phải dấn thân tu hành, đi lễ giữ luật cho vất vả?
Nếu chết là hết thì đúng là con người đang sống trước một ngõ cụt vô cùng bất công. Bởi vì rồi đây người lành kẻ ác cũng như nhau, người dấn thân phục vụ yêu thương nhân loại cũng chẳng hơn gì kẻ gây tang thương khốn khổ cho bao người.
Nếu chết là hết thì tôi phải tỉnh thức làm chi, ngày Chúa đến hay không nào có quan hệ gì.
Nhưng không. Ngàn lần không! Chết không phải là hết. Niềm tin Kitô giáo xác quyết chết là bước vào một cuộc sống mới và đời đời. Trong cuộc sống đó tôi sẽ khổ đau ngàn thu hay hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào cung cách sống niềm tin hiện nay của tôi. Như thế tôi cần phải tự vấn: niềm tin của mình đang ngủ vùi, chìm đắm, hay tỉnh thức hoạt động? Nó đang sống hay đã chết tiệt rồi?
Cách đây không lâu, trên chương trình truyền hình Public Eye có trình chiếu một vụ xử án rất cảm động. Số là cách đây 19 năm, một tài xế xe truck say rượu đã gây ra tai nạn và làm cho em bé tên Josehp V. mới được một tuổi phải mang thương tật suốt đời.
Suốt 19 năm qua, bé Joe, nay là một thanh niên 20 tuổi, đã phải sống trong cay đắng tủi hờn. Đi đâu cũng bị kinh tởm ruồng rẫy. Gia đình cũng đã phải chia sẻ nỗi đau khổ không kém.
Mới đây, người tài xế, sau thời gian dài lẩn trốn, đã bị bắt lại và đem ra xét xử. Tại toà, trước khi vị chánh án buộc tội, các nạn nhân và những người liên hệ được phép tiến lên phát biểu cảm tưởng, trong đó có anh Joe. Nhiều tâm tư—căm thù, uất hận, thương cảm—đã được phát biểu, nhưng có ba tâm tư đã làm cho tôi khó quên.
Người bố của anh Joe tiến lên trước toà và nói: “Trong suốt 19 năm qua, tôi không biết nên cầu cho con tôi sống hay xin cho nó chết. Cầu cho sống thì quả là đau khổ cho nó quá, bởi vì sau khi tại nạn xảy ra hai cánh tay con tôi bị cắt cụt, chỉ có khúc xương và cục thịt lủng lẳng ở hai đầu cánh tay. Gương mặt bị phỏng nặng và biến dạng. Môi cũng như mí mắt không còn nữa. Da thì chảy ra nên không còn hình thù của một gương mặt con người, đến nỗi các đứa bé khác khi nhìn vào thì tưởng là nó đeo mặt nạ. Bước đến đâu con tôi cũng bị kinh tởm hất hủi. Cho nên tôi không biết có nên cầu cho nó sống không. Còn cầu cho chết thì tôi không thể, vì tôi là người tin Chúa, nên tôi không thể cầu cho ai chết được hết”.
Đến phiên người mẹ của Joe bước lên trước máy vi âm. Bà nói: “Trong suốt 19 năm qua tôi đã phải đau cái nỗi đau của con tôi. Ví dụ lúc được 5 tuổi Joe hỏi tôi: ‘Mẹ ơi khi nào thì các ngón tay của con mọc ra hả mẹ?’ Hay lúc được 8 tuổi, bé đã thắc mắc: ‘Mẹ ơi, sao da của con không được trơn như của mẹ hay của mấy em vậy?’” Người mẹ vừa thổn thức vừa nói tiếp: “Tôi không biết phải trả lời thế nào chỉ biết ôm lấy con tôi mà khóc, mà thương nó thôi.”
Cuối cùng anh Joe cũng tiến lên để nói những lời có tính cách quyết định cho bản án. Anh hướng về phía người tài xế và nhẹ nhàng nói: “Thưa ông, nếu không có đức tin thì có lẽ tôi đã kết thúc đời mình từ lâu rồi. Đời tôi sẽ bị kết thúc bởi sự chối từ kinh tởm của người khác, hoặc khi tôi chợt nhìn vào trong gương và thấy được nét mặt kinh khủng của mình. Nhưng tôi không muốn hủy diệt đời mình trong sự thù hận ghen ghét. Tôi không thù ông, không giận ông và cũng không kết án ông. Tôi chỉ xin nói với ông một điều cuối cùng này: bất cứ chuyện gì có xảy đến thì cũng hãy biết rằng ơn phúc của Thượng đế vẫn hằng tràn đầy trên chúng ta, vì Ngài yêu thương chúng ta.”
Tôi tự hỏi: Do đâu mà một chàng thanh niên đầy bất hạnh lại có thể nói lên được những lời đầy khích lệ, yêu thương và tha thứ như vậy? Nhờ đâu mà cha mẹ anh Joe có thể can đảm cảm thông và gánh vác nổi đau khổ của đời mình và đời con như vậy? Tựa vào đâu mà họ có được sức mạnh để yêu thương và duy trì sự sống chứ không tận diệt hay khước từ như vậy?
Câu trả lời duy nhất chính là nhờ vào đức tin—một đức tin tỉnh thức và sống động, một đức tin được tôi luyện qua năm tháng và những bước thăng trầm trong cuộc đời. Những câu nói của ba con người trên kia đã xác quyết điều đó.
Thế giới, gia đình và lương tâm của nhiều người đang ngủ vùi trong hận thù, chôn sâu trong chiến tranh, sa đoạ trong các đam mê hưởng thụ trần tục. Chính vì sự hưởng thụ thiếu ý thức và vô trách nhiệm của người tài xế kia đã gây nên bao khổ đau cho người khác, nhưng chính nhờ niềm tin vào chân lý yêu thương mà người ta đã tồn tại để xoa dịu bao nhiêu u sầu và đem lại hạnh phúc cho nhiều tâm hồn.
Hạnh phúc và sự sống phát xuất từ niềm tin tỉnh thức như vậy chắc chắn không bị chấm dứt với cái chết, không bị đi vào hư không trống rỗng, cũng chẳng phải đầu thai kiếp này hay kiếp khác, nhưng sẽ tồn tại đến muôn đời trong tình yêu cua Thiên Chúa.
28. Ngạc nhiên – Lm Vũ Đình Tường
Cuộc đời có lắm ngạc nhiên và những ngạc nhiên này tô điểm cho đời thêm thú vị. Không ngạc nhiên đời nhàm chán. Ngạc nhiên đến từ những sinh hoạt hàng ngày ta dành cho người và người dành cho ta. Không ai có khả năng chuẩn bị để đón ngạc nhiên bởi vì chúng đến bất thình lình, không thể tiên đoán. Nếu tiên đoán được đâu còn là ngạc nhiên.
Sống thoải mái, bình thường, trung thành làm công việc hàng ngày, làm với một tâm tình vui, thoải mái, chân thành. Như thế là chuẩn bị chu đáo đón ngạc nhiên. Ai có thể đoán được buổi nói chuyện với người kia cuộc đời mình thay đổi. Ai đoán được đứa con mình sau này xóm làng ai cũng mến. Ai tiên đoán được sách dậy Bảo vệ Hạnh Phúc Gia Đình làm cho gia đình hàng xóm chia lià. Cũng là đoạn Kinh Thánh đó năm nào cũng nghe nhưng sao lần này tôi cảm thấy rất gần gũi. Quả là ngạc nhiên trước khi vào thánh đường lòng rối tơ vò, tâm động thác lũ mà chỉ sau ít phút bình an trở lại, tâm hồn yên lặng. Rồi cũng có lần đầu lễ sốt sắng, nửa sau lo ra, bồn chồn chỉ muốn ra về sớm.
Có những ngạc nhiên ta vui mừng đón nhận và chia sẻ với người lại cũng có những ngạc nhiên ta từ chối, dẫy nảy nhưng nó vẫn bám theo, không tài nào dứt ra. Không ngạc nhiên sao giữ gìn sức khoẻ đến thế mà lại bệnh sớm hơn mọi người. Không ngạc nhiên sao mặc dù chuẩn bị mọi thứ nhưng khi đến việc vẫn thấy bồn chồn, lo lắng.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta một ngạc nhiên lớn trong đời. Ngạc nhiên ở chỗ ông chủ khen người đầy tớ trung thành sẵn sàng đợi chủ về. Người đầy tớ không làm điều gì to, cũng chẳng làm việc bất thường. Tất cả những gì anh ta làm mọi người đều có thể làm. Anh trung thành, vui vẻ trong công việc. Sẵn sàng đón chủ về bất cứ khi nào, sáng trưa, chiều tối, và ngay cả đêm khuya. Lúc nào anh cũng sẵn sàng chu toàn công việc. Chính điểm này mà chủ khen là người đầy tớ khôn ngoan, trung thành và giao cho trách nhiệm lớn, quan trọng hơn.
Là môn đệ Đức Kitô chúng ta cũng cần có tâm tình đó, luôn sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô, luôn sẵn sàng chia sẻ tình yêu Chúa cho tha nhân. Thiên Chúa không kêu gọi chúng ta làm công việc vĩ đại, không cần phải chuyển núi dời non, không cần phải xây cất lâu đài đồ sộ. Ngài kêu gọi chúng ta chia sẻ tâm tình của mình với mọi người. Ngài kêu gọi chúng ta sống khiêm nhường và trung thành với công việc hàng ngày. Ngài mong chúng ta sống vui mỗi ngày, hoàn thành công việc trong tinh thần vui vẻ đón nhận tất cả, sẵn sàng làm những gì cần làm trong ngày, dù là bếp núc hay vườn tược, dù là kinh doanh hay chăn nuôi. Hãy hoàn thành công việc với tâm tình yêu mến, khiêm nhu. Đây là khuôn mẫu của người đầy tớ khôn ngoan. Bạn sẽ ngạc nhiên nhận được lời ông chủ khen tặng là người khôn ngoan, trung thành. Bạn sẽ được những người khác coi là thân hữu và luôn kính trọng.
Có lẽ ngạc nhiên lớn nhất trong đời là ngạc nhiên sau những năm tháng phục vụ cuối đời bạn nhìn lại thấy không hối tiếc việc đã làm nhưng hài lòng vì đã sống một đời sống thành nhân. Người thành nhân là người yêu người quí mình với tất cả tấm lòng. Ai chân thành yêu mến người thì cũng chân thành yêu mến Thiên Chúa.
29. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường
Tỉnh thức rất cần cho cuộc sống về cả hai phương diện tri thức và tâm thức.
Tỉnh thức khác với canh thức. Trong lúc canh thức có trường hợp ngủ gà, ngủ vịt, mơ màng. Tỉnh thức đòi hỏi một mức độ cao hơn lúc nào cũng phải tỉnh táo đề phòng trong tư thế sẵn sàng.
Ngoài ra tỉnh thức đòi hỏi tinh thần sáng suốt giúp mau chóng nhận định sự việc và giải quyết vấn đề một cách tốt đẹp hầu tránh được những đáng tiếc xảy ra. Tỉnh thức như thế có nghĩa là sẵn sàng đối phó mau lẹ đáp ứng với tình thế mới khi biến cố ập đến. Tỉnh thức giúp tránh hầu hết sai lầm trong việc nhận định sự việc. Nếu có sai lầm cũng không trầm trọng và sai lầm có thể kịp thời sửa chữa, bổ sung vì tỉnh thức giúp sớm nhận ra sai lầm.
Biến cố trong cuộc sống liên kết với nhau như sợi giây xích, như chiếc đồng hồ hoạt động. Một bộ phận dù nhỏ cũng đủ gây cho đồng hồ chạy sai hay ngưng chạy và người ta sớm nhận ra để sửa chữa kịp thời. Tương tự như trên người tỉnh thức có khả năng sớm nhận điều sai lầm, kịp thời sửa sai mà không cần mất thời gian hoặc có người mách bảo.
Tỉnh thức về phương diện tâm linh đòi hỏi cố gắng cao hơn. Tỉnh thức để nhận biết mình đang phục vụ Chúa qua anh em, nhận biết mình đang trung thành với Chúa và nhận biết Chúa qua mọi biến cố của cuộc sống. Tỉnh thức về tâm linh giúp nhận ra sai lầm, nhận ra tội ngay trước khi phạm tội để tránh. Tránh được hay không lại là vấn đề khác nhưng người tỉnh thức có khả năng nhận biết đúng sai, phải trái, tội phúc trước khi người đó bắt tay vào việc. Tiếng nói lương tâm ngăn cản đóng một phần trong việc giúp người tỉnh thức nhận biết việc nên làm và điều nên tránh.
SẴN SÀNG
Tỉnh thức và sẵn sàng đi chung với nhau, có thể nói người sẵn sàng là người tỉnh thức và ngược lại. Tỉnh thức và sẵn sàng có chung mục đích.
Tỉnh thức trong Phúc Âm một là sẵn sàng ra đón khi chủ về, khi chủ mời gọi như bài đọc hôm nay xác định. Không để cho chủ đợi ta nhưng chính ta sẵn sàng đợi chủ về.
Tỉnh thức còn một mục đích nữa là tránh được cơn cám dỗ. Điều này có thể thực hiện được khi tỉnh thức và cầu nguyện đi chung với nhau. Trên vườn Cây Dầu Chúa kêu gọi các tông đồ. Hãy tỉnh thức cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ vì hồn thì sẵn sàng nhưng xác thì yếu đuối.
Thiếu tỉnh thức con người có thể bị mê hoặc bởi các thú vui trần thế mà quên đi nhiệm vụ hoặc ngay cả giữ đạo một cách cứng nhắc đưa đến việc bất đồng với anh chị em khác, phê bình người khác kẻ cấp tiến, người lạc đạo. Chống lại cả việc Chúa Thánh Thần âm thầm làm việc đổi mới tâm hồn. Ma quỷ thường dùng bùa mê ru ngủ con người và dẫn đưa họ vào con đường phạm tội. Một khi đã mê ngủ thì không còn tỉnh táo để nhận định, quyết định, ngay cả việc sai trái kẻ mê ngủ cũng không nhận ra. Chính vì thế mà lọt tròng kẻ lập mưu tính kế. Họ dụ dỗ bằng lời nói ngon, nói ngọt đưa người đó đến chỗ thích thú và nhập cuộc rồi bị sai khiến, hướng dẫn làm điều sai trái.
30. Hãy tỉnh thức sẵn sàng
1. Cách đây ít lâu, tôi nhận được tin một linh mục ngủ vào ban tối và sau đó ngài không còn thức dậy nữa, khi người ta phát hiện thì ngài đã qua đời từ lúc nào không ai hay biết! Hằng ngày, qua các phương tiện truyền thông, biết bao tin tức về cái chết của người nầy người kia được loan đi, cá nhân có, tập thể có, với nhiều lý do khác nhau; nhưng có khi nào chúng ta nghĩ về sự ra đi về thế giới bên kia của mình hay không? Có ai ngờ rằng cứ một phút trôi qua, bình quân gần 200 người trên trần gian nầy phải lìa thế? Mang thân phận con người, có sinh ắt có tử, thế nhưng có những người sống như không bao giờ phải chết. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy luôn tỉnh thức sẵn sàng, bởi vì không biết lúc nào chúng ta sẽ phải trình diện trước mặt Chúa.
2. Với dụ ngôn thứ nhất, về “Người Đầy Tớ Tỉnh Thức” (x. Lc 12,35-38), Đức Giêsu dạy ta bài học tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh chờ, như người đầy tớ canh chờ ông chủ đi ăn cưới trở về. Với dụ ngôn thứ hai, về “Chủ Nhà Tỉnh Thức” (x. Lc 12,39-40), Ngài dạy chúng ta tỉnh thức sẵn sàng là luôn canh phòng. Dụ ngôn nầy không nhằm so sánh Thiên Chúa với tên trộm, mà so sánh việc Thiên Chúa đến cũng bất ngờ như kẻ trộm. Như ông chủ từ tiệc cưới trở về cách bất ngờ hay như kẻ trộm lúc nào đột nhập vào nhà để trộm cướp không thể biết trước được, cũng vậy không ai trong chúng ta biết ngày giờ nào ta phải ra trước toà Chúa phán xét hay là khi nào Chúa sẽ trở lại trong vinh quang, vì thế cách tốt nhất mà Đức Giêsu mời gọi chúng ta là hãy luôn có thái độ canh chờ và canh phòng.
3. Nếu thái độ tỉnh thức sẵn sàng bằng cách ngồi nhưng không thì rất phí thời gian. Thậm chí không làm gì thì dễ sinh ngủ gục, chừng đó không đón được chủ trở về đúng lúc, cũng như không thể canh phòng được kẻ trộm! Vì thế Đức Giêsu muốn dạy ta cách tích cực hơn trong việc canh chờ và canh phòng đó là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó. Điều nầy được minh hoạ qua dụ ngôn thứ ba, về “Người Quản Gia Trung Thành”(x. Lc 12,41-48). Cái quý của người quản gia nầy là không dùng chức vụ được giao để tư lợi cho bản thân, mà để phục vụ theo ý chủ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy tỉnh thức bằng cách chu toàn tốt nhất nhiệm vụ được giao phó. Nhờ ơn Chúa giúp, người Kitô hữu cố gắng dùng những khả năng mà Thiên Chúa ban cho để phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Đó chính là thái độ tỉnh thức sẵn sàng, có như thế thì dù chúng ta trở về cùng Ngài lúc nào, ta cũng vẫn có thể bình an thanh thản ra đi.
4. Trong cuộc sống, có nhiều điều làm cho chúng ta mãi mê chìm đắm mà thiếu tỉnh thức sẵn sàng, nhất là trong thời đại con người có khuynh hướng hưởng thụ, những lợi ích trước mắt được coi trọng mà xem nhẹ những giá trị tinh thần. Vì thế có những người đắm chìm trong sắc dục, rượu chè, cờ bạc mà không lo nghĩ đến sự sống đời sau. Có những người lo học hành, công danh mà không nghĩ gì đến việc thiêng liêng, hay chỉ xem đó là thứ yếu. Có những người lo làm giàu trước mắt mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa… Cũng có những người chỉ lo cho bản thân mà thiếu quan tâm chăm sóc cho những người mình có trách nhiệm về vật chất và tâm linh. Có những người rất mật thiết với Chúa nhưng lại xa cách anh em, hay ngược lại có những người tích cực trong công việc xã hội nhưng dửng dưng với niềm tin vào Thiên Chúa… Tuy những cách sống khác nhau như thế, nhưng tựu chung lại đều là thiếu tỉnh thức sẵn sàng, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với Chúa, tha nhân và ngay cả bản thân, điều nầy không thể chấp nhận nơi người Kitô hữu.
5. Những người không biết Thiên Chúa và lời dạy của Ngài, nếu có làm điều sai trái, họ có thể được khoan hồng hơn khi ra trước toà Chúa phán xét. Bởi họ không được giao phó, hoặc giao phó ít thì họ sẽ được đòi hỏi ít. Còn những ai được danh dự làm con Chúa, được giao phó nhiều mà không cố gắng sống tốt thì sẽ đáng trách hơn (x. Lc 12,47-48).
Đừng chần chừ gì nữa mà ngay từ bây giờ, hãy tỉnh thức sẵn sàng như lời Đức Giêsu mời gọi. Chúng ta thường muốn làm vui lòng những ông chủ trần gian, tại sao chúng ta không cố gắng để làm vui lòng ông chủ thật là Thiên Chúa? Chúng ta thường canh giữ cẩn mật không để thất thoát những đồ vật xem ra quý giá hay tiền bạc dù những thứ đó chỉ là tạm bợ, mà lại dửng dưng với mạng sống thật, đó là linh hồn (x. Mc 8,36)? Chúng ta thường cố gắng chu toàn bổn phận nhiệm vụ trần thế, tại sao chúng ta không cố gắng chu toàn bổn phận công dân Nước Trời?
Hãy tỉnh thức sẵn sàng bằng cách sống hết mình cho Thiên Chúa và tha nhân (x. Lc 10,27), chính là phương cách dẫn đưa ta đến sự sống đời đời vậy.
31. Tỉnh thức – Sẵn sàng
Cha đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em
Hãy bán tài sản của mình mà bố thí
Như người đợi chủ đi ăn cưới về. Phúc cho… chủ sẽ thắt lưng đưa họ vào bàn ăn và phục vụ từng người.
Nếu chủ nhà biết giờ nào trộm đến… Anh em hãy sẵn sàng vì lúc không ngờ thì Con Người đến. Người quản gia trung tín, khôn ngoan… thật là phúc. Chủ sẽ đặt lên coi sóc tất cả tài sản mình. Trái lại, chủ sẽ bắt phải chịu số phận của kẻ bất trung.
Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều.
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều.
Là dụ ngôn, phải hiểu theo nghiã ẩn dụ. Nói về giờ của mỗi người, giờ quyết định cho số phận vĩnh viển của mỗi người. Một lần cho mãi mãi. Vì không hiểu đúng nên bị coi thường, bị bỏ qua. Nghe rồi bỏ. Lười học Lời Chúa sẽ thiệt thòi đấy. Không học, không biết- khỏi làm. Làm bậy không có tội (vì không biết không có tội). Người ta thích vậy.
Thiên Chúa yêu thương, nhân hậu vô cùng – là ban cho mỗi người – đủ thời gian và phương tiện dồi dào – để đủ khả năng bảo đảm lo được cho phần rỗi đời đời của mình. Mọi người đều bảo đảm có đủ như vậy. Đó là lòng nhân hậu vô cùng của Thiên Chúa. Vậy đó! Chứ không phai là cho làm xấu thả ga mà không bắt tội, tội bao nhiêu cứ tha hết, cho Nước Chúa hết. Mới là thương vô cùng.!
Thiên Chúa cho thời gian ba năm “đã ba năm ta tìm trái nơi cây vả nầy”. Xin cho nó thêm một năm nữa. Tôi sẽ bón phân thêm…sang năm ông hãy đốn. Vậy là chờ thêm một năm. Nhưng một năm thôi nhé! Sang năm đốn đấy! Không có thêm nữa đâu! Đừng đợi. Đừng nói Chúa khoan nhân vô cùng thì phải cho thêm và thêm vô cùng. Đừng lợi dụng quá đáng. Đừng coi Chúa như trẻ con muốn lợi dụng cỡ nào cũng được, theo ý xấu của ta. Thiên Chúa cho tự do là nhân hậu đó. Tôn trọng tự do của ta là Thiên Chúa nhân hậu đó. Quá nhân hậu rồi đó.
Thiên Chúa không bắt bí ta, không bắt ta bất ngờ nhưng vì ta không chịu ngờ rồi cho là bất ngờ. Không hề có bất ngờ, ngay cả trong thiên nhiên. Tại vì ta không biết thôi. Một sợi tóc trên đầu ta cũng không rụng xuống mà không có sự sắp đặt của Thiên Chúa, Thiên Chúa chờ đợi và chờ đợi đủ rồi thì mới đến. Bất ngờ là phía con ngừời. Là con người quá đáng.
Lời của Đức Giêsu: Làm việc và phần thuởng/phạt. Con người có cả cuộc đời trước mặt Chúa chứ không chỉ là trong giây phút Chúa dến. Không chỉ chờ giây phút Chúa đến giờ chết. Tới đó hẳn lo! Phải có cả một cuộc đời sẳn sàng.
Nguời đầy tớ – bổn phận là thức đợi chủ đi ăn cưới về – bất cứ lúc nào – ban ngày thì thức rồ – ban đêm cũng phải thức – dù canh hai canh ba. Chủ sẽ thưởng: chủ thắc lưng- đặt người đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ. Lạ đời! Là dụ ngôn Nước Trời. Thiên Chúa sẽ thết tiệc khao thưởng các dầy tớ trung thành. Người thết tiệc là phuc vụ. Người đến để phục vụ. Người thắt lưng cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người ăn tiệc là người ngồi bàn. Phần thưởng thật là lớn! Kinh ngạc!
Nhưng thức chờ đợi không phải là không ngủ. Không phải là ngồi yên mở mắt. Mà là làm người quản gia trung thành và khôn ngoan. Làm tốt bổn phận mình từng giây từng phút. Chủ về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho đầy tớ ấy. Chủ sẽ tin tưởng mà dặt nó cai quản mọi tài sản mình. Trái lại, nếu nó nghĩ là chủ về muộn nên sai sưa rồi đánh đập tớ trai tớ gái trong nhà như mình là chủ. Chủ sẽ về lúc nó không ngờ vào giờ nó không biết, sẽ loại trừ nó và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung.
Chưa mà. Hôm qua chưa mà, Hôm nay cũng chưa. Ngày mai, ngày kia cũng chưa. Sang năm……cũng chưa. Hầu hết đều nghĩ như vậy. Bỏ Phục sinh, khuyên lo đi. Cha để con từ từ mà. Cứ thế từ từ năm nầy rồi năm nữa rồi chết vẫn chưa. Ôi!
Chúa muốn gặp ta đang làm việc thế nào chứ không phải tính sổ hay phán xét gi cả: Làm việc đẹp lòng Chúa, theo ý Chúa, đúng ý Chúa. Dominico Savio đang chơi ngoài sân với các bạn. Cha linh hướng hỏi: nếu 15 phút nữa con chết thì con làm gì? Con tiếp tuc chơi vì chơi là bổn phận lúc nầy. Làm bổn phận cho tốt là ý Chúa , đẹp lòng Chúa. Là sẳn sàng.
Làm tốt bổn phận. Khi chủ về – bất cứ lúc nào – cũng không bị bất ngờ. Phải trung thành mọi phút giây. Không xao lãng giây phút nào. Đó Là tình thức – sẳn sàng cụ thể. Là điều cốt yếu nhất nói lên sự trung thành xứng đáng hưởng phần thưởng lớn lao Nước Trời. Phần thưởng lón lao thì đòi hỏi một mức độ xứng đáng nào đó là hợp lý thôi. Càng lớn lao đòi hỏi càng cao. Sự liên tục trung thành bù đắp cho sự bất cân xứng giữa việc làm của ta và phần thưởng của Chúa. Người ta thường muốn làm ít mà được thưởng nhiều. Thậm chí muốn làm “toàn bậy” mà được thưởng Nước Trời lớn lao vô cùng. Hợp lý không? Chúng ta muốn làm cho Thiên Chúa là một Thiên Chúa không hợp lý sao! Mà không hợp lý là loạn cả.
Xin Chúa tha thứ? Rước cha. Cha tha cho. Chỉ cần cha nói “cha tha tội cho con” thì sạch hết. Dể ịu! Không gặp cha thì xin chuông tử, xin lễ an táng, xin đưa đón, làm phép huyệt, xin cầu lễ…… Cũng như tham nhũng có chết thằng tây con tàu nào đâu thì có ngu mới không à. Dại gì mà tỉnh mà thức mà chờ mà đợi. Dại gì mà không chè chén say sưa, không đánh đập tớ trai tớ gái cho oai ra phết! Có khoản nào Chúa Giêsu đã ám chỉ như vậy không? Đừng có mơ!
Rất rõ ràng. Biết ý chủ mà không làm hoặc làm sai thì bị đòn nhiều hơn. Có đạo, đạo dòng, là tu sĩ, linh mục……..sẽ bị phán xét nghiêm ngặt hơn (không phải dễ dàng hơn).
Được cho nhiều thì sẽ bị đòi lại nhiều. Được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. Phần thưởng sẽ lớn nhưng phạt cũng nặng. Giao cho nhiều phải sinh lợi nhiều, được hưởng nhiều và trái lại.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp chúng con hiểu thấu Lời Chúa và biết áp dụng cho có lợi để được phần thưởng Nước Cha mà Cha đã vui lòng ban cho.
32. Các con hãy sẵn sàng- Lm. Nguyễn Tiến Huân
“Các con hãy sẵn sàng vì vào chính giờ các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40). Đó là lời Chúa Giêsu khuyên dạy và cảnh tỉnh chúng ta trong bài phúc âm hôm nay. Thiên Chúa như một ông chủ đã sắm sẵn cho chúng ta, những tôi tớ Người, một gia sản rất lớn mua bằng giá Máu Cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô: “Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12,32). Chúng ta sẽ hưởng gia tài đó hay sẽ bị mất: điều đó sẽ được định đoạt dứt khoát vào giờ chúng ta chết. Sự định đoạt này lại hoàn toàn lệ thuộc vào cuộc sống lành thánh hay bê tha của chúng ta hãy lo làm việc lành phúc đức: hãy lo sắm cho mình những kho tàng trên trời”, “hãy lo thắt lưng” hãy biết hy sinh chịu khó tuân giữ luật Chúa, “hãy cầm đèn sáng”, hãy giơ cao ngọn nến Đức Tin ấy chiếu sáng và chỉ lối cho mọi hành động của cuộc sống. Sau hết, điều quan trọng nhất là hãy cứ sống như vậy trong tư thế sẵn sàng “chờ ngày Chúa đến” vì: “phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức… chủ sẽ đặt người ấy trông coi tất cả gia sản mình” (Lc 12, 36-44). Cái hồi hộp, cái nguy cơ là chúng ta không biết “Chúa đến lúc nào?” Canh hai hay canh ba? vào giờ chúng ta không ngờ”. Vậy luôn luôn phải sẵn sàng như sách Gương Phúc dạy: “Trong mọi hành động, mọi ý nghĩ bạn hãy xử sự như thể bạn sẽ chết hôm nay. Hôm nay bạn chưa sẵn sàng thì đến mai bạn sẵn sàng thế nào được? Mà ngày mai có gì là chắc. Bạn có chắc được bạn sẽ sống đến ngày mai không? Sáng thức dậy, bạn nên nghĩ, bạn sẽ không sống đến sáng mai. Vậy hãy sẵn sàng luôn, hãy sống thế nào để giờ chết khỏi đến lúc bạn chưa sẵn sàng. Hạnh phúc người luôn để giờ chết trước mặt và ngày dọn mình sẵn sàng luôn” (Gp 23)
Những chân lý ai trong chúng ta cũng đã biết và nó còn được chứng minh cụ thể bằng những cái chết bất ưng của nhiều người quanh chúng ta trên báo chí, trên tin tức TV hàng ngày. Bây giờ thì đến lượt chúng ta hãy nghĩ tới chính mình kẻo có thể là đã quá trễ.
Lạy Chúa, tuần này con quyết dành ít giây phút tối sớm để xét mình sẵn sàng như Chúa dạy chưa? và nếu chưa thì con phải làm gì để sẵn sàng?
33. Sống tỉnh thức – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một người kể rằng: Nghe ai đó quảng cáo “nấm tróc ăn ngon lắm”, bạn tôi liền trổ tài đầu bếp. Trong ngày sinh nhật của mình, nó làm nấm rồi chế biến thức ăn rất ngon.
Trước khi nhập tiệc, nó tuyên bố sẽ đãi chúng tôi một món ăn lạ, nhưng hãy an tâm vì nó đã cho con chó ăn thử rồi. Tiệc sinh nhật sắp kết thúc, trong lúc mọi người đang vui vẻ, đứa em của bạn tôi chạy về vừa nói vừa thở: “Chị Duyên ơi, con chó nó chết rồi.” Không ai bảo ai, chúng tôi chạy tán loạn, ai cũng muốn đi bằng phương tiện nào đó đến bệnh viện nhanh nhất. Ngay lúc đó, người ta kéo xác con chó mới bị đụng xe về, mọi người thở phào nhẹ nhõm như vừa thoát chết.
Tôi thầm nghĩ: Cuộc sống đời này chỉ là tạm thời, ai cũng sẽ chết, thế mà người ta lại lo lắng, chăm sóc, bảo vệ. Nhưng bên cạnh sự sống này còn có một sự sống bất diệt, một cuộc sống cần phải gìn giữ hơn lại bị coi là thứ yếu vì không mấy người sợ phải chết đời đời.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy sắm sẵn cho mình một gia tài trên trời, là nơi không có mối mọt, không có trộm cắp. Gia tài đó được xây dựng trên việc lành phúc đức khi mà chúng ta biết cho đi. Cho đi tiền bạc, thời giờ để phục vụ, để yêu thương. Cuộc sống con người tựa như một quản gia của Thiên Chúa. Thiên Chúa rộng rãi ban cho chúng ta muôn vàn ơn lành hồn xác, không phải để ta thoả mãn bản thân mà để ta có điều kiện phục vụ mọi người. Ngày Chúa đến. Chúa không hỏi gia tài Chúa ban còn hay mất mà Chúa hỏi chúng ta đã làm gì với nén bạc Chúa trao? Đã tiêu xài cho bản thân hay sinh lời cho Chúa?
Thế nhưng, khi nhìn vào cuộc sống hôm nay, người ta chỉ thấy bon chen, ích kỷ. Con người sống giành giật nhau, “cá lớn nuốt cá bé”. Cuộc sống như một chiến trường mà con người luôn phải tỉnh thức để chiến đấu, để tồn tại trong thế giới lắm thị phi. Con người dường như không có giờ để nghĩ tới đời sau vì cái ăn, cái mặc và cả cái tính đua đòi đã làm con người không còn thời giờ nghĩ tới đời sau. Con người bước vào trần thế như đang lâm vào một thế trận luôn phải chiến đấu để tồn tại, để thắng hơn người. Con người đã “tối mày tối mặt” bởi những chuyện trần gian mà quên tìm kiếm Nước Trời.
Con người sống như thể chỉ có đời này. Họ vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn cưới vợ gả chồng… Cuộc đời tưởng chừng chỉ đi loanh quanh trong vòng luẩn quẩn đấy đã dẫn dắt con người như lạc trong một mê hồn trận của danh lợi thú trần gian. Con người chỉ lo tích trữ tiền cho đời này mà quên còn phải tích đức cho đời sau. Con người nhiều khi dám đánh đổi cả mạng sống mình vì tiền nhưng họ lại ngại hy sinh, ngại tích đức cho đời sau!
Cuộc đời là phù vân. Nếu con người biết cuộc đời này chẳng là gì so với sự sống đời đời sẽ giúp con người biết dùng đời này để mua lấy đời sau. Chúa không bảo chúng ta bỏ đời này, chê ghét đời này, mà Chúa bảo chúng ta phải biết dùng đời này để tích góp sự sống đời sau. Đời nà sẽ qua đi nhưng chúng ta sẽ được gì ở đời sau? Hãy biết dùng đời này để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đừng vì mải mê trong danh lạc thú mà đi ngược đường về trời.
Xin cho chúng ta luôn biết tỉnh thức để chiến thắng những mê muội trần gian. Xin đừng vì những danh lợi thú mau qua mà đánh mất gia tài trên trời. Amen.
34. Chúa đang đi tìm ta, Người sẽ đến
(Suy niệm của Lm. Đỗ Bá Công)
Người ta kể rằng, khi thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lúc còn thơ ấu, thánh nữ đọc bài thương khó của Chúa Giêsu, và được nghe nói rằng vì yêu thương nhân loại, Ngài đã trải qua cuộc khổ nạn ấy. Têrêxa đâm đầu chạy, cứ chạy mà không biết mình chạy đi đâu. Chạy được một quảng đường xa, thì gặp một cậu bé trai cùng tuổi chận lại. Cậu ấy hỏi Têrêxa:
– Cô đi tìm ai? Và cô là ai?
– Tôi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Và Têrêxa hỏi ngay lại rằng:
– Còn cậu, cậu là ai mà lại hỏi tên tôi?
– Ta là Giêsu Hài Đồng của Têrêxa.
Thì ra, khi Têrêxa đi tìm Chúa, chính Chúa lại đến tìm Têrêxa.
Cuộc đời của người tín hữu chúng ta là cuộc đời lên đường đến với Chúa. Thật vậy, ít nữa là trên nguyên tắc, thế nên:
1- Người tín hữu cần phải tìm kiếm Thiên Chúa.
2- Và phải ý thức rằng Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ.
Chúng ta cần phải đi tìm kiếm Thiên Chúa: Cũng như Abraham trong bài đọc II và thánh nữ Têrêxa trong câu chuyện kể trên, họ đã lên đường “ra đi mà không biết mình đi đâu”, nhưng cả hai đều biết “vì ai mà mình đã ra đi”. Như thế, tương tự Abraham và Têrêxa, chúng ta biết, chúng ta đang đi tìm Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Ngài vừa là một con người vừa là một vị Thiên Chúa, đến thế gian để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa. Không có Ngài thì không có ơn cứu rỗi.
Charles de Foucauld đã đi tìm Chúa trong sa mạc Sahara và qua những cuộc thám hiểm rừng núi ở Phi châu, một cuộc tìm kiếm khắc khoải và bồn chồn, nhưng những quanh cảnh bao la hùng vĩ ấy lại nói cho ngài có Thiên Chúa, và ngài quyết đi tìm, và ngài đã tìm được Chúa trong cảnh bao la hùng vĩ ấy. Và sự kiện ấy bắt đầu ngài phải dấn thân. Ngài đã thốt lên câu nói lịch sử đáng ghi nhớ: “Thà tôi không biết Thiên Chúa thì thôi, nhưng một khi tôi đã biết và tôi đã tin, tôi đã yêu, thì tôi không thể không sống cho Ngài.”
Bài Tin Mừng cho chúng ta hay: Người biết ý chủ mình mà không chịu làm theo ý chủ, thì khi gặp chủ, những người ấy phải bị trận đòn khủng khiếp. Còn những người không biết ý chủ mà làm những điều xằng bậy, khi chủ về sẽ lãnh những trận đòn ít thôi (x Lc 12: 47-48).
Đến đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm: chúng ta biết Chúa, chúng ta đã tìm Chúa và đã gặp Chúa. Gặp Ngài ta mới ngồi trước mặt Ngài đây. Nhưng thử hỏi chúng ta đã dấn thân chưa, như một Charles de Foucauld, một Têrêxa vừa mới nêu trên?
Thiên Chúa đang tìm kiếm chúng ta để gặp gỡ: Đúng vậy, Thiên Chúa đang đi tìm ta. Chúng ta đừng tưởng Chúa ngồi một nơi nào đó rồi chờ đón chúng ta đến với Ngài. Không. Chính Ngài đã đi tìm chúng ta. Câu chuyện của thánh nữ Têrêxa trong phần mở đầu làm chứng điều ấy: “Chính Thiên Chúa đã kêu gọi Abraham, chính Thiên Chúa thúc giục Môisen, rồi chính Thiên Chúa đến với chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô. Lời của Ngài, tức là chính Ngài, vẫn đang trên đường đến với tâm hồn chúng ta”. Đành rằng lắm khi chúng ta đã dựng lên biết bao rào chắn ngăn cách, chẳng hạn những bận rộn, những nỗi lo âu, những chuyện lo lắng vu vơ, những thú vui luôn thay đổi, tiền tài danh vọng… Nhưng Thiên Chúa vẫn tìm kiếm tâm hồn chúng ta. Ngài đến tìm chúng ta qua làn gió nhẹ, qua tiếng chuông chiều thánh thót, qua giọt sương mai, và có khi qua những tiếng gió bão bùng, như tiếng quở trách của chủ nhà về lúc đêm khuya trên các tôi tớ đắc tội. “Mỗi hoàn cảnh, mỗi cuộc gặp gỡ là mỗi dịp Chúa đến với chúng ta. Ngài đến với chúng ta mang theo những băn khoăn gieo vào lòng chúng ta, cùng với những đòi hỏi đặt ra cho chúng ta”. Vậy, chúng ta đi tìm Chúa qua những công trình vĩ đại Ngài làm chung quanh chúng ta, qua những biến cố tay Ngài tạo ra để cảnh tỉnh, đánh thức chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy nêu lên chính hình ảnh chúng ta trên con đường đi về nhà Chúa: đôi mắt chúng ta hãy nhìn thẳng trước mặt, đôi chân ta phải bước thoăn thoắt, và đôi tay ta, một bên ngả ra để đón nhận từng hồng ân phải đón nhận, và tay kia biết nắm lại để khước từ từng cám dỗ phải từ khước và vừa đi vừa tin vững chắc rằng từ phía bên kia Thiên Chúa đang đến đón ta.
35. Hãy sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Chúng tôi vừa tiễn đưa một cha già về nơi an nghỉ đời đời. Việc cha ra đi từ giã cõi đời nầy là một việc bình thường không ai tránh khỏi được.
Nhưng trước mắt những người chung quanh thì có người cho đây là một việc hết sức bất ngờ, vì mới tiếp xúc với cha trước đó chừng vài giờ, cha còn rất tỉnh, còn ngồi được, còn đi được, không có vẻ gì là yếu đuối. Đối với một số người hiểu biết hơn về căn bệnh của cha, thì dường như cũng không ngờ là nhanh đến thế. Còn đối với cha, dường như không có gì là bất ngờ, cha đã chuẩn bị xong tất cả những gì cần thiết, ngay cả những lời xin tha thứ. Đó là những gì thuộc khía cạnh con người với nhau mà cha còn chuẩn bị chu đáo đến thế. Tôi thiết nghĩ, cha chuẩn bị hết sức chu đáo cho đời sống vĩnh cửu, cho việc bước vào đời sống mới, đời sống của một công dân nước trời. Đối với cha, tất cả mọi việc đã sẵn sàng.
Các con hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ thì Con Người sẽ đến.
Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe, nhắc mọi người luôn sẵn sàng chuẩn bị cho ngày trọng đại của cuộc đời. Các môn đệ ngỡ rằng, Chúa Giêsu chỉ nói những điều đó cho người đời, còn các ông thì ngoại lệ. Không, Ngài không bảo thế. Mỗi người có một trách nhiệm và Thiên Chúa đòi hỏi mọi người chu toàn trách nhiệm đã được trao phó một cách tốt đẹp. Trách nhiệm càng cao thì đòi hỏi càng nặng. Đã trao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn. Tất cả mọi người đều chuẩn bị, luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, nếu lơ đểnh thì hối tiếc không kiệp, vì không biết giờ nào, chủ sẽ đòi để trình bày về trách nhiệm đã được trao cho.
Nhìn vào trào lưu xã hội, mọi người đang tìm cái vĩnh cửu nơi cái bất toàn của cuộc sống trần gian nầy. Mọi người đang cố bám lấy những gì mà nó có thể rời khỏi tầm tay con người bất cứ giờ phút nào. Mọi người cũng dường như không bao giờ nghĩ đến cái chết, hay đúng hơn là không dám nghĩ đến nó.
Chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu, những môn đệ của thời đại mới, những người đã từng nghe từng biết rất nhiều về những lời giảng dạy, những việc làm của Ngài. Những người đã từng được chỉ dạy về nước trời. Chúng ta cũng từng tự hào, mình biết rất nhiều về đời sống đạo và cũng chỉ dạy rất nhiều người. Thế thì nghe lời Chúa ngày hôm nay, chúng ta có dám hỏi như Phêrô: Thầy nói những điều đó về chúng con hay về người khác. Nếu dám hỏi như thế, thì chúng ta cũng sẽ có câu trả lời để suy nghĩ.
Mỗi người nhìn vào đời sống của chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua và trong hiện tại:
Là một người công giáo, nhưng trách nhiệm đối Chúa, nhiều khi còn rất là lếu láo, chúng ta chỉ cho Chúa những thời gian dư thừa. Vậy mà trong thời gian dư thừa đó, chúng ta còn xén bớt, còn ăn gian Chúa nữa. Cứ nhìn xem, những lần đến nhà thờ, những lần đọc kinh, những lần làm việc đạo đức, chúng ta cảm thấy khó khăn và tìm mọi cách cho thoải mái hết sức có thể. Chúng ta tính toán với Chúa từng giây từng phút. Dường như nhà thờ là nơi để chúng ta tìm sự yên tịnh, để dể dàng tính toán cho công việc làm ăn tiếp sau đó. Như vậy trong một giờ ngồi trong nhà thờ, chúng ta để trọn vẹn cho Chúa được bao nhiêu?
Còn về cách sống của một người công giáo trong trách nhiệm ở đời, giữa người với người. Thiên Chúa đã đặt để mỗi người một hoàn cảnh. Trách nhiệm đó Ngài sẽ đòi mỗi người trả lời. Nếu giờ nầy Ngài đến, Ngài nhìn thấy gì nơi mỗi người? Ngài nhìn thấy những người quản lý trung thành của Ngài đang chu toàn trách nhiệm hết sức tốt đẹp, hay Ngài nhìn thấy họ đang tìm cách hưởng thụ cho sung sướng bản thân, mà làm khổ những người tôi tớ khác của Ngài. Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang kêu than vì bị chúng ta hành hạ cách này hay cách khác không? Chúng ta có nhìn thấy mọi người đang phàn nàn vì chúng ta lôi thôi trong trách nhiệm của mình không? Thế thì chúng ta đã chuẩn bị ra đi như cha già đã ra đi trong tuần qua như thế nào?
Xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết luôn sẵn sàng chờ đón Chúa cách tốt đẹp như lòng Chúa mong ước.
36. Suy niệm của Lm. Cao Tấn Tĩnh
“HÃY THẮT LƯNG VÀ THẮP ĐÈN LÊN SẴN SÀNG”
Bài Phúc Âm Thánh Luca đoạn 12 cho Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh hôm nay chính thức chỉ có 5 câu, từ 35 đến 40. Tuy nhiên, nếu muốn, Giáo Hội cũng cho phép đọc bài Phúc Âm dài hơn, gồm 16 câu, từ câu 32 đến 48. Tất nhiên, ý tưởng chính của bài Phúc Âm sẽ nằm ở trong 5 câu buộc phải đọc cho Chúa Nhật hôm nay. Như tuần trước đã đề cập đến, ý nghĩa phụng vụ của bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh tuần này chính là lời Chúa Kitô khuyên dạy nằm ở ngay đầu bài Phúc Âm hôm nay: “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Thế nhưng, “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì? Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? Thành phần nào cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”? “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
1. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” đây nghĩa là gì?
Trước hết, nếu để ý chúng ta thấy rằng, Chúa Giêsu không khuyên dạy chỉ “thắt lưng” hay chỉ “thắp đèn lên”, mà là cả hai, “thắt lưng” trước và “thắp đèn lên” sau. Vậy ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên này cũng liên quan đến cả thứ tự của lời khuyên nhất cử lưỡng động này. Theo tôi, một trong những ý nghĩa của lời Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” đây là “hãy tỉnh thức và cầu nguyện”, như Người đã nói thẳng ra cho các môn đệ biết trong vườn Cây Dầu ngay trước giây phút Người tự trao nộp cho giáo quyền Do Thái, một lời nói đã được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 26 câu 41. Theo thứ tự “tỉnh thức” trước và “cầu nguyện” sau này, “tỉnh thức” là điều kiện tiên quyết và tối cần để có thể “cầu nguyện”, hay ngược lại, muốn “cầu nguyện” cần phải hoàn toàn “tỉnh thức”, bằng không, không thể nào cầu nguyện được, điển hình nhất là trường hợp của ba vị tông đồ thân cận của Chúa Giêsu, theo đoạn Phúc Âm Thánh Mathêu trên đây thuật lại, buồn ngủ đến nỗi Vị Thày đang “buồn sầu đến nỗi chết được” của các vị đã phải lắc đầu than lên: “Các con không thể thức nổi với Thày dù chỉ một giờ đồng hồ hay sao?”. Thật thế, về phương diện thể lý, một khi con người ăn no thường dễ buồn ngủ và khó tỉnh táo thế nào, thì về phương diện tâm linh cũng vậy, một khi con người không “giữ mình khỏi mọi tham lam” theo lời Chúa Kitô khuyên dạy ở bài Phúc Âm tuần trước, nghĩa là chỉ biết sống hưởng thụ, họ cũng rất dễ bị mù tối như vậy, nhất là mù tối trước những cùng quẫn của anh em mình, như trường hợp Chúa Giêsu nêu lên ở dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 16, câu 19-20, một tình trạng mù tối về phương diện tâm linh đến nỗi, theo lời Chúa Giêsu diễn tả, “có một người ăn xin tên Lazarô mình đầy ghẻ lở nằm ngay trước cổng nhà mình” mà “nhà phú hộ ăn mặc lụa là và yến tiệc linh đình hằng ngày” cũng không hay biết gì cho đến khi cả hai qua đi. Giá người phú hộ này biết “thắt lưng” buộc bụng, nghĩa là biết “giữ mình khỏi mọi tham lam”, thì cây đèn đức tin đầy dầu đức cậy của ông đã sáng lên đức mến rồi vậy, nhờ việc ông biết “thắp đèn lên”, một tác động biểu hiệu cho đời sống liên lỉ “cầu nguyện” của ông,
2. Tại sao cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng”?
Lý do tại sao Chúa Giêsu khuyên dạy “Hãy thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, theo cùng bài Phúc Âm cho biết đó là vì sự vắng mặt của chủ, ở chỗ, như lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm cho biết là “chủ đi ăn cưới”. Nếu vậy thì khi chủ có mặt thì chẳng lẽ những người trong nhà không phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” hay sao? Đúng thế, vì, trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 9 câu 15, khi trả lời cho các môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô khi họ hạch Người về vấn đề chay tịnh của môn đệ Người, chính Chúa Giêsu đã đích thân xác quyết rằng: “Làm sao các khách dự tiệc cưới lại ưu buồn trong khi chàng rể còn ở với họ chứ. Đến ngày nào chàng rể bị mang đi khỏi họ bấy giờ họ mới chay tịnh”. Chàng rễ đây là ai, nếu không phải là chính Chúa Giêsu, “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14). Tình trạng không cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên” chẳng những ở vào thời gian Chúa Giêsu còn tại thế, mà cả vào thời điểm cánh chung nữa, như Sách Khải Huyền diễn tả ở đoạn 21 câu 23: “Thành không cần mặt trời hay mặt trăng, vì vinh quang của Thiên Chúa chiếu soi nó, và đèn của nó là Con Chiên”. Như thế, sau thời gian Chúa Giêsu không còn trên thế gian như “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” cho đến khi Người lại đến trong vinh quang, thời điểm Người ở cùng Giáo Hội, “Tân Đô Giêrusalem là Thành Thánh từ trời nơi Thiên Chúa mà xuống”, như Thánh Gioan thị kiến thấy trong Sách Khải Huyền ở đoạn 21 câu 2, thì chính là thời gian vắng mặt chủ hay thời gian chủ đi vắng, do đó, cũng là thời gian Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”. Đó là lý do, để trả lời cho câu tông đồ Phêrô hỏi trong bài Phúc Âm hôm nay trong phần không buộc đọc: “Lạy Chúa, Chúa ám chỉ dụ ngôn này vào chúng con hay Thày có ý nói cho cả thế giới nữa”, Chúa Giêsu đã gợi ý để vị trưởng tông đồ tự nghĩ về bản thân của mình và chức phận của mình như sau: “Theo ý con thì ai là người quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình để phân phát phần lúa thóc cho họ”. Qua câu trả lời này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được thêm một ý nghĩa nữa về hành động “thắt lưng” và “thắp đèn lên” nơi thành phần môn đệ của Chúa Kitô là biểu hiệu cho thái độ của họ cần phải “trung thành” và “khôn ngoan”, một nhất cử lưỡng động liên quan đến chức phận “quản lý” là để phục vụ nhau, như những gì đã được chia sẻ ở cuối vấn đề thứ hai trên đây về dụ ngôn người phú hộ và Lazarô.
3. “Thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” để làm gì?
Nếu lý do cần phải “thắt lưng” và “thắp đèn lên sẵn sàng” là vì chủ vắng nhà, thì mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động này là, như Chúa Giêsu đã rõ ràng nói đến trong bài Phúc Âm: “Để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ”. Nghĩa là, làm gì thì làm, lúc nào cũng thế, thành phần “quản lý trung thành khôn ngoan được chủ đặt lên trông coi gia nhân của mình” đều làm với mục đích để sửa soạn mọi sự cho chủ, để trông mong chủ về. Ở đây chúng ta thấy có hai điều rất lạ như sau: thứ nhất là việc chủ mà không có chìa khóa để tự động mở cửa vô nhà của mình, đến nỗi cần phải gõ cửa để viên quản lý của mình mở cửa cho mới vô được; và thứ hai là việc chủ mà lại “thắt lưng, đặt họ vào bàn mà hầu hạ họ” khi “chủ về thấy họ còn tỉnh thức”.
Trước hết, cái lạ đầu tiên là việc chủ mà không có chìa khóa để có thể tự động vô nhà trong dụ ngôn này không phải là vì ông bỏ quên chìa khóa ở nhà, mà là vì ông đã hoàn toàn tin tưởng và tuyệt đối tín nhiệm thành phần “quản lý” của mình, đến nỗi, như Chúa Giêsu phán cùng tông đồ Phêrô trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 16 câu 19 như sau: “Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời. Những gì con tuyên bố cầm buộc dưới thế cũng bị cầm buộc trên trời; những gì con tuyên bố tháo cởi dưới đất cũng được tháo cởi trên trời”. Nếu dưới đất cầm buộc hay tháo cởi thì trên trời cũng cầm buộc hay tháo cởi như thế, thì không phải là chỉ có một quyền bính tối thượng, một chìa khóa duy nhất đã được trao vào tay vị đại diện của Người trên thế gian này sao? Và chiếc chìa khóa quyền linh này còn được các vị thừa tác viên thánh chức của Người dùng để mở cửa chuồng chiên là Chúa Kitô ra mà nuôi dưỡng chiên của Người (xem Jn 10:7, 9), bằng các phép bí tích Người lập.
Sau nữa, cái lạ thứ hai là việc chủ trở thành đầy tớ để hầu hạ thành phần gia nhân đã cố gắng tỉnh thức chờ ông về, không phải là vì ông cảm thấy nợ nần họ, ở chỗ, trong khi ông đi ăn cưới vui vẻ thì họ phải vất vả thay ông coi nhà, hay ông cần phải nịnh bợ họ, để lần sau họ tiếp tục giữ nhà cho ông một cách “trung thành” và “khôn ngoan”, kẻo ông bị thiệt hại cách nào. Trái lại, ông “thắt lưng” phục vụ họ hoàn toàn là vì yêu thương trọng kính họ và muốn họ cũng được dự phần làm chủ với ông, như Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ của Người trước Bữa Tiệc Ly trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 13, từ câu 3 đến câu 5: “Biết rằng mình đã từ Thiên Chúa mà đến và phải trở về cùng Thiên Chúa là Cha, Đấng đã trao ban mọi sự cho mình, Chúa Giêsu chỗi dậy khỏi bàn ăn và cởi áo choàng của mình ra. Người lấy tấm khăn quấn quanh mình. Đoạn đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn quấn bên mình mà lau chân cho họ”.
Như thế, mục đích của thái độ nhất cử lưỡng động “thắt lưng” và “thắp đèn lên”, của thành phần môn đệ Chúa Kitô nói chung và của các vị thừa tác viên thay mặt Người nói riêng, còn là để nhờ đó họ được Người làm cho họ xứng đáng hiệp thông với Người, như Người dứt khoát với riêng tông đồ Phêrô trước khi rửa chân cho ngài: “Nếu Thày không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thày”.
Vấn đề thực hành sống đạo: Ý nghĩa câu “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng”, như Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIX Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh hôm nay, có thể được hiểu theo hai ý nghĩa: thứ nhất, đó là hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”, và thứ hai, đó là hãy “trung thành và khôn ngoan”. Tuy nhiên, dầu sao hai ý nghĩa thực hành này cũng mới chỉ là nguyên tắc hướng dẫn mà thôi. Tức là, Kitô hữu chúng ta phải làm sao biết áp dụng hai ý nghĩa của nguyên tắc hướng dẫn này vào đời sống hằng ngày của chúng ta nữa mới được. Chẳng hạn, là một người chồng và cha, hay là một người vợ và mẹ, hoặc là một người con và cháu, hay là một tu sĩ, giáo sĩ, hoặc là một sinh viên, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, cán sự xã hội, chuyên viên tâm lý v.v. chúng ta cần phải “thắt lưng và thắp đèn lên sẵn sàng” như thế nào?
37. Làm giàu
Giả sử như bây giờ, có mấy chục ngàn đồng trong túi, tôi có thể rủ bè bạn vào tiệm ăn, làm một chầu nhậu. Giả sử như được cha mẹ để lại một số tiền lớn, tôi có thể mua nhà và mua xe, sắm TV và sắm tủ lạnh, để rồi sẽ sống một cuộc sống tiện nghi và an nhàn.
Chính vì thế, người xưa đã bảo:
– Có tiền mua tiên cũng được.
Còn ngày nay, người ta thường nói:
– Tiền là tiên là phật.
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Đúng thế, tiền bạc không phải chỉ mua được cơm ăn và áo mặc, mà trong rất nhiều trường hợp, nó còn mua được cả tình nghĩa và bè bạn, cả công lý và lẽ phải, cả danh vọng và địa vị, như tục ngữ cũng đã bảo:
– Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
– Hạt tiêu nó bé nó cay,
Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền.
– Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
Bởi đó, thiên hạ thường ra sức tìm tiền kiếm bạc, ngày cũng như đêm, với ước mơ được giàu sang phú quí. Người thì tìm kiếm một cách chính đáng bằng sức lao động của mình. Kẻ thì tìm kiếm một cách bất chính bằng gian tham lừa đảo, chẳng hạn như ăn trộm, ăn cắp, ăn hối lộ…miễn sao vơ vét vào cho đầy cái túi tham của mình.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy làm giàu về phương diện vật chất, tuy cần thiết, nhưng lại không quan trọng, bởi vì đứng trước cái chết, tất cả chúng ta chỉ là những lữ khách cô đơn mà thôi, vì chúng ta không thể đem bất cứ của cải hay tiền bạc nào sang thế giới bên kia:
– Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
Vì thế, điều cần thiết đó là phải biết làm giàu về phương diện thiêng liêng, phải biết sắm sẵn cho mình một kho tàng, không bị ai cướp mất và có thể chuyển về đời sau.
Cách thức làm giàu về phương diện thiêng liêng, theo tôi nghĩ, không gì bằng là ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo túng. Sự giúp đỡ ấy có thể là tiền bạc vật chất, có thể là một lời nói ủi an, một ánh mắt khích lệ hay một nụ cười cảm thông. Đó là điều mà tất cả chúng ta đều có thể và phải làm được.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy đây cũng là điều kiện Chúa đòi buộc những người muốn bước theo Ngài:
– Con hãy về, bán hết tài sản, làm phúc bố thí cho người nghèo, rồi hãy đến mà theo Ta.
Sở dĩ những hành động bác ái yêu thương có được một giá trị to lớn vì khi làm những hành động ấy cho người khác là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
Vào một ngày mùa đông giá rét, thánh Martinô, bấy giờ còn là một sĩ quan, thấy một người ăn xin đang run rẩy bên vệ đường. Xúc động trước cảnh tượng ấy, thánh nhân liền dừng ngựa và nói:
– Tiền bạc tôi không có.
Nói đoạn, thánh nhân tuốt gươm, xẻ dọc chiếc áo choàng ra làm hai và cho người ăn xin một nửa.
Ban đêm,trong một giấc mơ, thánh nhân thấy Chúa Giêsu hiện ra, mặc một nửa tấm áo choàng và ngỏ lời cám ơn thánh nhân.
Hẳn chúng ta còn nhớ về hoạt cảnh ngày phán xét, Chúa Giêsu đã nói với những người lành như sau:
– Hãy vào hưởng niềm hạnh phúc đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Và rồi Ngài đã kết luận:
– Mỗi khi các ngươi làm những việc ấy cho một người anh em hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Bởi đó, ngay từ giờ chúng ta hãy ra sức thực hiện những hành động bác ái yêu thương, giúp đỡ những người chung quanh, bởi vì đó là cách thức chúng ta tích lũy cho mình một kho tàng quí giá chẳng hề mục nát, đó là cách thức chúng ta làm giàu về phương diện thiêng liêng trước mặt Chúa và đó cũng là cách thức chuyển tài sản của mình về đời sau.
Chúng ta nên nhớ rằng: những gì chúng ta tích lũy hôm nay thì ngày mai sẽ thuộc về người khác, những gì chúng ta mua sắm hôm nay thì ngày mai người khác sẽ hưởng dùng, chỉ những gì chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng ta mãi mãi mà thôi.
38. Tỉnh thức
Tin mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta một vài nét đặc biệt về cuộc sống đức tin của người Kitô. Người Kitô là kẻ sống trên trần gian này, sống với và giữa những thực tại trần gian, nhưng với một tâm hồn tỉnh thức lúc nào cũng hướng về trời, về sự sống đời đời, bên kia cuộc sống trần gian tạm bợ này, vừa đồng thời dấn thân trọn vẹn, chu toàn những sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó cho.
Nữ tu Angelica, người hiện nổi tiếng trong dư luận Hoa Kỳ và Quốc Tế, vì đã thành công trong việc thiết lập hệ thống truyền thanh và truyền hình để phổ biến Lời Chúa. Một hôm, bất ngờ nữ tu gặp một luật sư giàu có, được hưởng mọi tiện nghi vật chất trên đời, có gia đình, con cái hoàn toàn sum họp và vị luật sư này khoe với nữ Angelica là không có gì trên đời này mà ông không hưởng được, nếu ông muốn, vì phương tiện vật chất, tiền của không bao giờ thiếu với ông. Nhưng nữ tu Angelica chỉ hỏi lại ông có một câu:
Ông có sống hạnh phúc hoàn toàn không?
Câu hỏi bất ngờ này đánh động đúng vào niềm thao thức sâu xa của ông, ông thú thật với nữ tu Angelica là tuy có đầy đủ mọi tiện nghi vật chất, nhưng ông không cảm thấy được an vui hạnh phúc thực sự trong tâm hồn, vì lúc nào tâm hồn ông cũng cảm thấy trống rỗng. Ông hỏi nữ tu Angelica bí quyết để sống hạnh phúc thật.
Câu trả lời của nữ tu Angelica cho vị luật sư giàu có này lặp lại câu trả lời của Chúa Giêsu cho chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm đến hỏi Chúa phải làm sao để được sống đời đời. Nữ tu Angelica khuyên ông ta: “Sống đừng chỉ nghĩ đến sự sống siêu việt thần thiêng, hãy nghĩ đến sự sống đời đời, hãy lo tích trữ cho mình những sự đời đời”.
“Con hãy về bán tất cả mọi gia tài con có, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Đó là bí quyết được Chúa Giêsu mạc khải cho chàng thanh niên giàu có, và cách nào đó không ngừng được thông truyền qua các thế hệ cho những người tin Chúa. Người Kitô sống đức tin của mình không nên chỉ nghĩ đến của cải vật chất trên trần gian, mà còn và nhất là phải nghĩ đến của cải thiêng liêng trên trời. Tâm hồn người Kitô sống giữa trần gian nhưng phải luôn luôn tỉnh thức, luôn luôn hướng về trời, hướng về ngày Chúa đến gặp ta. Và để hướng về trời dễ dàng thì phải chấp nhận bán đi những của cải: “Của cải chúng con ở đâu thì lòng trí chúng con ở đó”.
Người Kitô hướng về trời nhưng không sống thụ động giữa những bổn phận trần gian. Sự tỉnh thức đợi chờ Thiên Chúa ngự đến không phải là cớ để người Kitô, để người đồ đệ của Chúa ngồi không, sống một cách thụ động. Cần phải có một thái độ chờ đợi tích cực với hết sức dấn thân, chu toàn công việc mà Thiên Chúa muốn chúng ta chu toàn trên trần gian này, như những người tôi tớ được Chúa Giêsu kể lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
Trong khi chờ đợi chủ mình về, những người tôi tớ đó phải chu toàn những bổn phận được chủ trao phó cho. Những người tôi tớ trong dụ ngôn chờ đợi ông chủ về trong tư thế làm việc, ăn mặc gọn ghẽ, cầm đèn cháy sáng trong tay. Họ chờ đợi trong khi chu toàn việc bổn phận họ phải làm, chứ không ở trong tư thế ngủ để mà chờ.
Chi tiết cầm đèn cháy sáng trong tay nhắc chúng ta nhớ đến dụ ngôn Chúa Giêsu nói về các cô khờ dại và các cô khôn ngoan. Các cô khôn ngoan đến với Chúa Giêsu với đèn cháy sáng trên tay, với những công việc tốt lành đã thực hiện. Các đầy tớ đợi chờ chủ về với đèn cháy sáng trong tay, với những công việc chu toàn đúng theo ý chủ. Người Kitô chúng ta cũng phải chờ đợi Chúa đến với những công việc tốt lành để phục vụ cho những nhu cầu của anh chị em xung quanh
Hơn nữa, một khi có tâm hồn luôn hướng về trời, hướng về Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ biết phải sử dụng những của cải trần gian Thiên Chúa ban cho như thế nào để phục vụ anh chị em, để chờ đợi Chúa đến. Ai có thể tin rằng, chúng ta sống hướng tâm hồn về Chúa, chờ đợi Chúa đến, nếu chúng ta ngày đêm chỉ lo nghĩ đến của cải, chỉ bám víu với những của cải vật chất và đóng kín tâm hồn trước những người anh chị em cần được trợ giúp.
39. Các con hãy sẵn sàng – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Bài Tin Mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần trước chúng ta được nghe Chúa Giêsu nhắc nhở là đừng quá lo lắng thu tích của cải vật chất, nhưng phải làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Bài tin mừng theo thánh Luca Chúa Nhật tuần này Chúa Giêsu lại nói đến “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”. Xem ra Chúa Giêsu cho chúng ta đi dần đến viễn cảnh đích thực của đời sống Kitô hữu, đó là Nước Trời vĩnh cửu mai sau.
Mặc dầu đời này là cuộc lữ hành để ta tiến đến nước trời vĩnh cửu đó, nhưng là một cuộc đời đã được chúc phúc và đầy ân sủng. Vì đã được Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đến ở cùng chúng ta và đồng hành với chúng ta, một cuộc đời đẹp đẽ biết bao, đáng sống biết bao. Tuy nhiên, nó chỉ là cuộc lữ hành, chúng ta cần phải nhắm tới phía trước và thẳng tiến.
Tỉnh thức và sẵn sàng, đó là thái độ tích cực để mỗi người hoàn tất cái hiện tại tiến đến tương lai trong bình an. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay vừa nói đến giờ Chúa đến bất ngờ, vừa nói sự thưởng phạt công minh. Ai cũng thấy ngờ ngợ lo lắng và chúng ta cũng có ít là một lần kinh nghiệm bàng hoàng khi nghe tin một người thân qua đời đột ngột
Tôi cũng vậy, cách đây khoảng một tháng tôi nghe tin người quen đã từng lái xe chở tôi đi đây đó đã bị bắn chết mới 24 tuổi; thật không ngờ. Cách đây hai tuần, một em theo mẹ đi lễ, tung tăng vui vẻ cuối nhà thờ, gặp tôi em còn lễ phép cúi chào, vậy mà tối về đã trượt cầu thang, té từ trên lầu xuống, bị chấn thương sọ não và đã chết trên đường đến bệnh viện cấp cứu, em mới có 5 tuổi; thật không ngờ. Và cách đây mấy ngày, một cha già mới viết thư cho tôi vào lễ thánh Đaminh (mồng 8 tháng 8) thì ngày hôm sau (9.8) tôi đã nghe tin ngài qua đời đột ngột vì một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 74 tuổi; thật không ngờ.
Những cái không ngờ đó giúp chúng ta sống tỉnh thức hơn, nhưng cuộc sống của chúng ta không phải là bi quan, thụ động để ngồi chờ cái chết. Chắc chắn không ai muốn điều đó, nhưng cũng không phải vô tư để hưởng thụ cho tận kiệt cái sống đời này, mặc kệ tương lai.
Trái lại, chúng ta ý thức cuộc sống là một hồng ân Chúa ban, nên nó thật quí giá, thật đáng sống. Vì thế chúng ta sống và hưởng dùng như một người quản lý trung tín và khôn ngoan. Chúng ta sống trọn ý nghĩa đời này là một con người, con người Kitô hữu có niềm tin và hy vọng.
Lời của một bài hát nào đó cách đây 20 năm mà bất cứ một người trẻ thanh niên xung phong nào cũng biết, đó là: “Đời ta chỉ sống có một lần thôi, cho nên cuộc sống quí giá vô cùng. Phải sống sao cho xứng để chết đi không còn oán than gì. Chỉ thấy sung sướng khi đời mình cống hiến cho anh em”. Lời nhạc đã nói lên một thái độ biết sống, sống tích cực và sống khôn ngoan.
Tỉnh thức và sẵn sàng mà bài tin Mừng đề cập đã được làm rõ nghĩa khi bài đọc I sách Khôn Ngoan nói đến đến mà Thiên Chúa thực hiện lời hứa của Ngài đối với dân Do Thái. Và càng làm rõ nghĩa hơn nữa trong bài đọc II thư Do Thái khi nói một kinh nghiệm hành trình đức tin của tổ phụ Abraham, đó cũng chính là cuộc hành trình của một đời chúng ta đang sống hiện tại và đang tiến về tương lại.
Cuộc hành trình trong đức tin Kitô hữu, một hành trình mà mỗi người chúng ta đang tiến về, nhưng đức tin sẽ không cứu sống chúng ta, nếu chúng ta không sống đức tin đó. Thánh Giacôbê đã chứng minh điều này trong thơ của ngài khi nói đến đức tin phải có hành động, nếu không chỉ là đức tin chết và ngài còn nói rõ chính tổ phụ Abraham đã trở nên công chính là vì đức tin của ông có hành động. Vì thế, nhờ Đức tin cho phép chúng ta sống tích cực hơn, sống yêu đời hơn, đồng thời cũng nhờ đức tin chúng ta sống có hy vọng hơn vào cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Chính đức tin đó mà giờ đây mỗi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng.
40. Đèn sáng trong tay – G. Nguyễn Cao Luật.
Thiên Chúa và người ăn trộm
Thời đại ngày nay đang sống trong nỗi ám ảnh về những tên ăn trộm. Sự bất an làm gia tăng nỗi sợ hãi. Lúc nào người ta cũng phải đề phòng, phải cảnh giác trước những bất ngờ có thể xảy đến, những bất ngờ gây ra những mất mát, những thiệt hại. Báo chí vẫn nhan nhản những tin như thế. Đề phòng rất cẩn thận, mà vẫn có những bất ngờ. Chỉ sơ hở một chút, đã phải gánh lấy những hậu quả đau lòng.
Vậy mà Đức Giêsu tự đồng hoá với tên trộm. Người muốn lấy của chúng ta cái gì? hay Người muốn bắt chộp lấy chúng ta?
Có thể nói, Chúa của chúng ta cũng giống như người ăn trộm. Chúng ta không thể đóng khung Đức Ki-tô trong một hình ảnh nhất định với đầy đủ tiện nghi. Đức Ki-tô không phải là người mà chúng ta có thể nhận ra ngay tức khắc, không chút lầm lẫn. Người không đến trên chiếc xe lộng lẫy với trống kèn thổi vang. Người là ông chủ của vương quốc đã trao phó của cải cho các đầy tớ, nhưng cũng là ông chủ yêu mến những ai trông đợi Người; Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để hiến mình, để phục vụ và làm cho người khác được vui mừng.
Chúa của ánh sáng không chỉ là Đấng chiếu soi, Đấng rạng ngời vào buổi sáng Phục Sinh, Người cũng là Chúa của những cuộc gặp gỡ âm thầm, những bước đi êm dịu, bất ngờ, những cuộc trượt dài trong đêm tối đầy nghi ngờ và sợ hãi. Người không phải là vị Thiên Chúa muốn áp đặt, nhưng là Đấng đến gõ cửa căn nhà ít chờ đợi, vào lúc bất ngờ nhất.
Tỉnh thức suốt cả đời
Trước một vị Thiên Chúa như thế, trước những điều không ngờ, người ta sẽ làm gì? Đức Giêsu nhắn nhủ là phải tỉnh thức, phải sẵn sàng. Nhưng tỉnh thức theo tinh thần của bài Tin Mừng là gì? Chắc chắn không phải là “không được ngủ”. Vẫn có những đêm không ngủ, nhưng là để làm một điều gì khác, có thể là để vui chơi, có thể là làm việc… Những đêm đó đâu phải là tỉnh thức. Điều Chúa muốn nói chính là một thái độ, một tình trạng tỉnh thức, nghĩa là luôn biết cảnh giác trước mọi biến chuyển, biết nhận ra các dấu chỉ, và nhất là, biết đọc, biết lý giải ý nghĩa, thông điệp do các dấu chỉ ấy đem lại.
Trong xã hội, người ta hơn nhau ở chỗ có nhiều kinh nghiệm trường đời. Một nhà kinh doanh biết phải ứng phó ra sao trước một tình thế có lợi hay bất lợi cho công cuộc làm ăn. Một nhà chính trị cũng cần quyết định sao cho phù hợp với các chuyển biến của thế giới. Tỉnh táo, sáng suốt, chuẩn xác, nhẫn nại, đó là bí quyết thành công; ngược lại, là những hậu quả thê thảm, thân bại danh liệt.
Còn hơn cả người làm kinh tế, làm chính trị. Ki-tô hữu có trách nhiệm đối với sự sống còn, với hạnh phúc mai sau của mình. Giá trị đó không gì sánh được hay thay thế được. Bởi vậy họ phải luôn cảnh giác, tỉnh thức.
Trước hết, họ phải tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện đầy sinh động của Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống. Người Ki-tô hữu tỉnh thức không phải chỉ để đợi chờ Thiên Chúa vào giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng là nhận ra Người vẫn đang đến, vẫn hoạt động, vẫn cứu độ trong từng giây phút, từng biến cố. Người Ki-tô hữu tỉnh thức là người đọc được ý nghĩa của biến cố, của sự việc; họ coi đó là những dấu chỉ về sự hiện diện sâu xa của Thiên Chúa; họ coi đó là bề mặt của một bề sâu rất dầy, rất thâm trầm, và họ hiểu được chiều sâu ấy (ít ra là một phần nào). Như thế, trước mắt người Ki-tô hữu, bất cứ điều gì cũng cho thấy những ý nghĩa lớn lao, những chiều kích sâu xa, bởi vì họ nhìn những điều đó bằng con mắt đức tin, bằng ánh mắt đợi chờ, bằng tấm lòng sẵn sàng.
Đàng khác, người Ki-tô hữu tỉnh thức để khỏi tìm cách an phận thủ thường trong cuộc đời này, trong những cảnh giàu sang, thừa mứa vật chất, bởi vì khi tìm những thứ đó, họ đã vô tình đặt lòng mình trên một thứ nền tảng không vững chắc. Những thứ ấy chỉ là cát bụi, sẽ bị trôi giạt khi có mưa giông, nước lũ. Phải cảnh giác để không dễ dàng bị mê hoặc, bị ru ngủ vì những hứa hẹn của các giá trị phàm tục; sức mạnh của khoa học kỹ thuật và ngay cả những thành công, những kết quả trong công tác mục vụ tông đổ. Đó là những cơn cám dỗ khủng khiếp có nguy cơ làm cho con người đặt hết tin tưởng, hy vọng và yêu mến vào đó, thay vì vào một Đấng Cao Cả đã sáng tạo và bảo vệ những thành quả ấy.
Người Ki-tô hữu phải tỉnh thức, không phải chỉ vì mạng sống của mình, nhưng còn vì sự sống của cả nhân loại. Họ phải bén nhạy để phát hiện ra những mưu mô, hầu tránh cho mình và cho xã hội loài người thảm hoạ “thờ bò vàng kiểu mới”. Họ phải nhìn thấy trước và loan báo cho nhân loại những hiểm hoạ đang đe doạ, đang rình rập, và nhất là họ phải bày tỏ cho nhân loại sự có mặt cách vô hình của ông chủ đầy quyền năng và yêu thương. Họ phải dũng cảm nêu gương sáng của người tôi trung, lúc nào cũng tỉnh thức chờ đợi chủ về, để bất cứ giây phút nào, vừa nghe tiếng chủ gọi, họ mau mắn mở rộng cửa đón Người.
Nói cách khác, Ki-tô hữu phải là con chiên có mắt sáng, có tai thính, không vì hám ăn hám sống mà mất cảnh giác với thú dữ, với các hiểm hoạ chung quanh có thể bất ngờ xảy ra, và nhất là không bao giờ rời mắt theo dõi bóng dáng của Mục Tử kính yêu, luôn bước đi trên đường của Người, và không bao giờ làm ngơ trước tiếng Người kêu gọi, để nhanh chân chạy đến với Người, bất chấp mọi thử thách, mọi cản trở.
Tỉnh thức và chờ đợi
Tỉnh thức đi liền với chờ đợi. Ý tưởng chờ đợi gợi lên hình ảnh một người không làm gì cả, hết đứng lại ngồi, đi qua đi lại, mong sao người hẹn mình, hoặc giờ hẹn mau đến. Tâm trạng bổn chổn làm cho người ta không thực hiện được một công việc nào.
Thực ra, trong Ki-tô giáo, chờ đợi không có nghĩa là ngổi yên, là trông mong, nhưng hoàn toàn có ý nghĩa tích cực. Đang khi chờ đợi ông chủ của mình, người Ki-tô hữu vẫn hăng say làm việc, họ “thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn”. Họ làm tất cả những gì có thể làm được để cho cuộc trở về được tốt đẹp, và hơn nữa, còn làm cho ngày ấy mau đến. Chính trong khi làm việc, họ nhận ra những dấu hiệu của ông chủ, họ thấy Người đang trở về. Thiên Chúa không xuất hiện với những con người không biết kiếm tìm, không biết chuẩn bị, bởi vì cuộc xuất hiện của Người không theo cách thế của loài người, và có khi, Người xuất hiện mà người ta không biết, vì thiếu chuẩn bị, thiếu để ý.
Người Ki-tô hữu là tôi tớ: họ không chờ đón Thiên Chúa theo cách thế, theo suy nghĩ của mình, nhưng là theo cách thế của ông chủ, chuẩn bị những gì chủ mong muốn. Điều đó thực là khó khăn với con người, vì họ phải vượt ra khỏi chính mình để đón tiếp Thiên Chúa theo cách thế Người mong muốn. Người ta không thể bắt Thiên Chúa theo những chương trình của mình, nhưng là sẵn sàng để bước đi theo Thiên Chúa, là mở rộng tâm hổn đón luổng gió tình yêu. Đó mới thực là tỉnh thức và chờ đợi.
Tỉnh thức và kho tàng
Theo những dụ ngôn của Tin Mừng, ông chủ ra đi và trao lại cho đầy tớ những nén bạc để sinh lợi. Đến khi chủ trở về, ai sinh lợi thêm sẽ được thưởng, còn người đem cất những nén bạc rổi trao lại y nguyên, sẽ bị phạt. Người tỉnh thức và chờ đợi đúng cách nhất là sử dụng những gì mình đang nắm giữ để sinh lợi nhiều hơn. Đành rằng “kho tàng ở đâu thì lòng ở đấy”, nhưng nếu chỉ ngổi đó mà canh chừng thì nào có ích gì. Kho tàng là kết quả của một thời gian làm việc; có thể là tiền bạc, có thể là kiến thức… Bảo vệ ư? Đóng kín để khỏi mất mát ư? Những điều ấy chẳng giúp ích gì cả. Đó là một kho tàng, một vốn chết vì không được luân chuyển, không nuôi dưỡng sự sống. Phải bỏ nhiều công sức để tạo được một kho tàng, nhưng còn phải bỏ nhiều công sức hơn nữa để làm cho kho tàng ấy được phát triển thêm.
Một khi kho tàng được luân chuyển, nó sẽ làm tăng thêm của cải, cho mình và cho mọi người; nó sẽ tạo nên sự hiệp thông, sẽ lưu truyền sự sống. Hình ảnh dễ thấy nhất là trái tim: Máu được chuyển về tim để rồi lại từ tim đi ra, làm cho cơ thể sống động. Nếu máu chỉ ở tim mà không đi ra, các chi thể không còn hoạt động, con người sẽ chết.
Như thế, khi sự sống được lan truyền, chẳng có gì đáng sợ. Những người nào thực sự hiệp thông và trao đỗi, chẳng những đã tạo cho mình một kho tàng vững chắc, nhưng hơn thế, họ chẳng lo sợ gì khi Chúa đến bất ngờ. Họ sẽ sẵn sàng để Chúa nhập cuộc: Người không đến để tính sổ, nhưng là để chia sẻ với người có tinh thần hiệp thông và phục vụ. Ngược lại, ai không có tinh thần này, thì sự xuất hiện của Chúa rõ ràng là một tai hoạ, một cuộc đánh cắp, một cuộc phá vỡ.
Thiên Chúa đã đến, sẽ đến và đang đến. Đối với người không tỉnh thức, thì sự xuất hiện của Người thật là bất ngờ, và cũng thật đáng sợ. Còn đối với chúng ta, những người “cầm đèn sáng trong tay”, thì sự xuất hiện của Người là một niềm vui mừng lớn lao, vì chúng ta vẫn chờ đợi, và Người chính là kho tàng của chúng ta, chúng ta sẵn sàng đánh đỗi tất cả để có được sự hiện diện của Người.
* * *
Hãy kêu lên Chúa vào ban đêm,
để đến bình minh, Người đánh thức bạn dậy.
hãy kêu lên Thiên Chúa như kẻ đang giao chiến trong đêm tối,
để Đấng-không-bao-giờ-biết-sợ
sẽ đặt tay của Người trên bạn,
xoá tan mọi âu lo.
Như một người điên dại, hãy kêu lên Thiên Chúa,
bởi vì những “điều điên cuồng” của Người,
sẽ đưa tới Khôn Ngoan.
Hãy kêu lên Thiên Chúa, hãy xé toang bộ mặt của bạn,
để sự Trong Sáng Vĩnh Cửu được lộ ra.
Nhưng bạn đừng ngỡ ngàng,
khi giấc ngủ
chỉ đưa bạn đến Sự Thật.
theo F. Cockenpot.
41. Vĩnh cửu
“Hãy nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà thôi”.
Nhà thơ Du Tử Lê đã suy tư về một chân lý ngàn đời vẫn tái diễn chung quanh chúng ta, đó là một chân lý về thân phận tro bụi của con người, mọi người cùng có một mẫu số chung: có sinh có tử, tro bụi trở về tro bụi. Và trong Tin Mừng hôm nay thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta chuẩn bị, sẵn sàng chờ đợi Chúa đến đưa vào sự sống vĩnh cửu.
Có thể nói với các bạn đầu tư cho một tương lai sau cái chết khi tuổi các bạn còn trẻ, sức khỏe tràn đầy, có lẽ các bạn cho rằng: nói chuyện không thực tế, sao không đầu tư cuộc sống này để được hạnh phúc, được giầu có, được danh vọng… mà lại đầu tư cho vĩnh cửu xa vời.
Vâng, cuộc sống hiện tại lo cho cuộc sống hiện tại là điều dĩ nhiên, thế nhưng các bạn vẫn biết cuộc sống này không bền lâu, như ngay sự sống con người, ai cũng luôn chăm sóc, bảo vệ cho mình, thậm chí dùng cả gia tài để đổi lấy mạng sống. Vậy mà, con người rồi ai cũng phải chết, chết một cách bất ngờ, huống chi vật chất, một đời ta ba đời nó. “Rồi sẽ có một ngày giã từ cuộc sống, nhan sắc là gì, danh vọng, tiền tài là chi, sẽ lấy được gì ngoài chiếc sọ khô”.
Ngay trong cuộc sống, khi nói đến cái chết ai cũng sợ hãi, không thích ai hăm dọa mình phải chết. Một bệnh nhân đứng trước cơn bệnh nguy hiểm đến tánh mạng, thì họ luôn lo lắng, cầu xin cho được gặp được thầy gặp thuốc, chạy đến bác sĩ này bác sĩ nọ mong cho thoát cái chết. Ngay cả chúng ta đây ngày nào cũng trau chuốt sắc đẹp để mong trẻ đẹp mãi, hay khi phát hiện trên đầu có vài cọng tóc bạc thì lo lắng, than rằng tôi già rồi. Đó là cái gì? Có phải khi nói đến già là xấu đi, già là sẽ chết phải không? Đó chính là các bạn đang mong muốn cho mình sự vĩnh cửu, sống mãi trường sinh bất tử. Vậy sự sống vĩnh cửu luôn có giá trị, và nó là niềm hạnh phúc, là điều các bạn mong ước.
Nếu các bạn hay tất cả mọi người ai cũng nghiêm chỉnh tự đặt cho mình những câu hỏi: Con người bởi đâu mà có? Con người sống đạo đức, thánh thiện,… ở đời này để làm gì? Đâu là hạnh phúc đích thực mà con người luôn khao khát tìm kiếm? Rồi tại sao những người giàu có họ cũng phải khóc? Và cuối cùng con người sẽ đi về đâu sau cái chết? Thì chắc chắn rằng ai cũng đặt niềm tin vào sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa vào Chúa Giêsu, và sẵn sàng tích lũy kho tàng trên trời để chờ đợi ngày Chúa đến. Như Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống một tình yêu thương phục vụ tha nhân, luôn đem hạnh phúc cho những con người nghèo, con người bất hạnh, và mẹ đã được hàng ngàn trái tim bạn trẻ trên toàn thế giới yêu mến, và xem mẹ là một bậc vĩ nhân, một vị thánh sống.
Chính vì thế, Kitô hữu chúng ta tin rằng chết không phải là một dấu chấm hết, nhưng là một cuộc đi đường xa nay trở về với mái ấm gia đình, nơi đây được bình an, thoải mái, hạnh phúc, không có cô đơn, không có thăng trầm của thời gian, mà chỉ có yêu thương, một tình yêu mạnh hơn sự chết, mà chính Thiên Chúa là Cha đã ban cho chúng ta tình yêu này, và đồng thời tình yêu này làm người chết được sống lại và sống lại với Ngài ở trên trời. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Hỡi các bạn trẻ, đừng sợ, vì Cha các bạn đã vui lòng ban Nước Trời cho các bạn”; như lời Chúa Giêsu đã khẳng định với cô marta nhân cái chết của Lagiarô: “Chính Thầy là sự sống lại; ai tin vào Thầy dù đã chết cũng được sống lại”. Và Tin Mừng thánh Gioan cũng cho chúng ta thấy Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại sau ba ngày đã chết, để cho chúng ta hiểu rằng Ngài là ai đối với con người và Ngài có được điều quí giá nhất mà con người mơ ước: đó là sự sống, sự sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin ở đây là một sự kiện hết sức nghiêm chỉnh, hết sức quan trọng, vì niềm tin là điểm tựa cho đời sống các bạn, là nền tảng vững chắc cho đầu tư vào vĩnh cửu.
Thật vậy, không có thành công nào mà lại thiếu hay chẳng có niềm tin, cũng như: học sinh, sinh viên muốn mình học giỏi thi đậu mà lại không đặt niềm tin thầy cô của mình, hay một bệnh nhân muốn hết bệnh thì phải theo sự hướng dẫn của bác sĩ, hay trong bài đọc I sách Khởi Nguyên – cho chúng ta thấy dân Do thái đặt niềm tin vào Giavê Thiên Chúa cứu họ khỏi vòng nô lệ Ai cập, và Giavê Thiên Chúa đã giải phóng cho họ khỏi ách nô lệ trong đêm vượt qua; và bài đọc II cho thấy ông Nôe thoát chết trong trận Đại Hồng thủy, vì ông có niềm tin, và lòng kính sợ Thiên Chúa.
Vẫn biết cuộc sống vĩnh cửu có giá trị. Vậy mà vẫn có một số bạn trẻ Kitô hữu đang sống trong xã hội ngày nay vì miếng cơm manh áo họ có thể chà đạp phẩm giá của mình, có thể tối mặt, chối bỏ luân thường đạo lý, dám làm tất cả dù trái lương tâm mình, và họ chối bỏ cả giáo lý của Chúa: công bằng, bác ái, yêu thương, không còn biết quên mình để nâng đỡ, chia sẻ cho những ai đang sống trong túng thiếu, nghèo khó, đang sống trong đau khổ của bệnh tật. Còn khi không thành công được trong tìm kiếm miếng cơm manh áo, thì họ xem đó như là một định mệnh của Thiên Chúa giáng xuống trên đầu họ, họ oán trách Thiên Chúa, và như thế họ chấp nhận sống trong bóng tối của tội lỗi, trong tuyệt vọng.
Còn một số bạn khác cho rằng tôi còn trẻ, đời còn dài thôi hưởng thụ cái đã, kẻo phải hoang phí tuổi trẻ, mai mốt về già ăn chay cầu nguyện cũng còn kịp chán, người trộm lành còn hốt được nước trời vào phút chót huống chi là tôi.
Những suy nghĩ này trong Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu đã quở trách: “Đồ ngốc nội đêm nay người ta sẽ lấy mạng ngươi”. Và chắc hẳn các bạn từng nghe, từng chứng kiến những cái của người già người trẻ, giàu nghèo, hiền ác, cái chết đã không buông tha ai như có câu thơ: “Lá vàng đeo đẳng trên cây. Lá xanh rụng xuống trời chăng hay trời”. Cái chết đến thật bất ngờ. Niềm tin như thế có đầu tư được cái gì cho vĩnh cửu hay không?
Trong kinh doanh người ta thường nói đầu tư càng nhiều thì thu lợi nhuận càng nhiều, và thánh Phaolô cũng đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”.
Chính vì thế, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức dùng cuộc sống đời này làm vốn đầu tư cho vĩnh cửu: “Hãy bán của cải của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy kho tàng trên trời”, đồng thời: “Hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn” để biết nhạy cảm nhanh lẹ, sang suốt khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho cuộc sống chúng ta, để chúng ta can đảm, nghị lực để khi mưu cầu chén cơm manh áo, chúng ta có đủ khả năng biết khước từ mọi hành động bất chính, mọi sự lừa đảo gian trá, vượt qua những cám dỗ tình thương của con người, từ đó biết vươn lên khỏi miếng cơm manh áo: đó là tình thương, lòng bác ái, khoan dung, tha thứ phục vụ người khác.
Nhờ đó chúng ta mới có thể chôn vùi những sự ích kỷ, nhỏ nhen, mở rộng trái tim với đôi bàn tay, để chia sẻ với mọi người, nhất là những người đau khổ vì miếng cơm manh áo…, chúng ta xem đó như là một cuộc tập dượt, luyện tập để dành được kho tàng Nước trời. “Phúc cho những ai có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ”. Như abraham trong bài đọc II, Thánh Phaolô xem là tấm gương: Abraham tin vào lời hứa của Thiên Chúa ban cho ông một vùng đất chảy đầy mật, sữa, và một dòng dõi tuyển chọn đông như sao trên trời, mà ông dấn thân nhập cuộc với Thiên Chúa là từ bỏ cuộc sống sung sướng ở quê hương, sống tình trạng bấp bênh đi tìm đất hứa, và dâng hiến cho Chúa người con duy nhất khi tuổi ông và vợ ông đã già, mặc dù Chúa chỉ thử lòng ông, và như người đầy tớ trung tín trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nhắc đến.
42. Tỉnh thức
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn… ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc… câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: “Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?”- “Khoảng 40 năm rồi” – “Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?” – “Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi” – “Ông có thư từ gì với cụ không?” – “Không, ông ta bận lắm” – “Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?” – “Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này” – “Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?” – “Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên”.
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, không vì mắt chủ mà vì trách nhiệm, Ông coi việc của chủ như việc của mình, nên đã hết lòng. Thái độ của ông thực là thái độ Chúa muốn mỗi người chúng ta phải có khi làm việc cho Ngài. Trong huấn dụ về sự tỉnh thức Chúa đã dạy chúng ta trong bài Tin Mừng: “Hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ gõ cửa thì mở ngay cho chủ. Nếu canh hai canh ba chủ trở về mà gặp thấy như vậy thì phúc cho các đầy tớ ấy”.
Lời dạy của Chúa chúng ta đã nghe nhiều, nghe đi nghe lại, nhưng có lẽ nó chưa rơi vào óc, chưa thấm vào tim chúng ta. Chúa bảo chúng ta cầm đèn cháy sáng, nhưng đèn chúng ta lại không dầu, chúng ta lại ngủ vùi trong đam mê. Chúa bảo chúng ta đợi Ngài, nhưng chúng ta lại đợi những gì khác Ngài… Vậy nếu canh hai canh ba Ngài về thì phúc cho chúng ta hay họa cho chúng ta? Linh hồn và thân xác chúng ta là tòa lâu đài Chúa trao, vườn hoa chính là nhân đức Chúa đã gieo trồng, rồi ủy thác cho chúng ta chăm sóc. Hôm nay nhìn lại, tòa lâu đài còn xứng đáng với danh xưng của nó hay đã biến thành nhà hoang, nhà điếm hoặc hang trộm cướp? Vườn hoa nhân đức giờ này còn khởi sắc hay chỉ phơi bày sự úa tàn? Trong hoàn cảnh này, nếu Chúa trở về, Ngài sẽ buồn hay vui? Vui buồn của Ngài cũng là quyết định cho khổ đau hay hạnh phúc của chúng ta.
Suy nghĩ và nhận ra những thiếu sót của mình, chúng ta hãy tức thời tu sửa. Thời gian của vũ trụ thì con dài, nhưng thời gian của đời mình thì thật ngắn ngủi. Sự chấm dứt chẳng biết lúc nào. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “Lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời”. Ông Lã Phụng Tiên kể một câu chuyện ngụ ngôn: có một cụ già kia đang cuốc đất trồng cây, có ba chàng thanh niên tình cờ đi qua, thấy vậy các cậu nói: “Cụ ơi, cụ lẩm cẩm quá, già rồi mà còn trồng cây. Thôi cụ ơi, việc ấy để tụi cháu, cụ lo dọn mình chết là vừa”. Cụ già vui vẻ ân cần trả lời: “Chắc gì lão chết trước. Chắc gì các cháu sống lâu hơn lão. Tử thần xưa rày có phân biệt trẻ hay già đâu. Trẻ hay già có khác chi nhau về phương diện đó. Các cháu cứ lo làm cho đàng hoàng công việc của các cháu đi”. Một thời gian sau, cụ già lần lượt được tin ba chàng thanh niên, vì công việc đều chết cả: người thì chết vì tai nạn xe hơi, người thì chết trận, người thì bị đắm tàu trong một chuyến kinh doanh. Cụ già được tin buồn, khóc thương ba chàng trai trẻ đó.
Giả sử chúng ta cho là mình còn trẻ, còn khỏe mạnh, còn lâu mới chết cũng được đi. Nhưng Chúa dạy chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải quan tâm và chấp hành nghiêm chỉnh. Tỉnh thức không phải là không ngủ mà là ngủ trong thức tỉnh. Tỉnh thức không phải là ngồi không mà chờ đợi, nhưng vẫn làm như thường trong tư thế chờ đợi. Có những người tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Tỉnh thức cũng không phải là suốt ngày đọc lời Chúa nhưng là để lời Chúa chi phối đời sống của mình. Như vậy, thái độ tỉnh thức của chúng ta không phải là một thái độ tiêu cực, chạy trốn, tránh né bổn phận, không dấn thân trong hiện tại, nhưng ngược lại, vẫn sống tích cực, vẫn chu toàn bổn phận hàng ngày, vẫn liên đới với mọi người… sống và làm việc cách tốt đẹp. Tóm lại, sự tỉnh thức của chúng ta là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ. Đây chính là ý nghĩa đích thực của sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng.
Chúng ta còn trẻ hay đã già, khỏe mạnh hay đau yếu, điều đó không quan trọng, nhưng quan trọng là chúng ta đang sống thế nào? Đang tỉnh thức hay ngủ mê? Nếu chúng ta đang sống tốt đẹp, chúng ta cứ vui sống. Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm, một số trẻ em đang vui chơi, một giáo sư đi tới hỏi các em: “Nếu bây giờ Chúa gọi các con chết, các con sẽ làm gì?”. Nghe hỏi thế, em thì nói: “Con vào nhà thờ cầu nguyện”. Em khác thưa: “Con đi xưng tội”. Có một em hồn hiên trả lời: “Phần con vẫn vui chơi như thường”. Vị giáo sư hỏi: “Tại sao con lại vui chơi như thường?”. Em trả lời: “Vì con luôn sống tốt đẹp, nên con chẳng có gì phải lo sợ”. Em bé đó chính là thánh trẻ Bec-man.
Khi đời chúng ta luôn sẵn sàng, khi lương tâm chúng ta không trách cứ chúng ta điều gì, khi mọi nợ nần của chúng ta với Chúa và anh em đều sòng phẳng, chúng ta không có gì phải lo sợ, chúng ta cứ vui sống.
43. Tin là sẵn sàng
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dạy chúng ta đừng quá dính bén với của cải vật chất đời này. Người kêu gọi chúng ta hãy biết làm giàu trước mặt Chúa. Đó là một trong những điều quan trọng trong đời sống của người kitô hữu. Nếu không tin vào Chúa, không tin vào sự sống đời sau chắc hẳn chúng ta sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này của Chúa Giêsu. Cũng trong cái nhìn ấy, Chúa nhật hôm nay Người kêu gọi chúng ta hãy biết thức tỉnh và sẵn sàng. Thức tỉnh và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến.
Sẵn sàng luôn luôn là một thái độ chủ động tích cực. Người có thái độ sẵn sàng là người luôn sống trong tâm trạng bình an, không phải nơm nớp lo sợ, vì mọi sự đã được xếp đặt an toàn, kẻ trộm có đến bất ngờ thì cũng bó tay, chẳng lấy được của mình cái gì. Đây là một thái độ khôn ngoan nhất. Với cái nhìn đức tin, đây là người biết sống đẹp lòng Chúa. Vì họ đã nhận ra được tình thương của Chúa dành cho mình. Cho nên, bất cứ lúc nào Chúa gọi họ cũng đã chuẩn bị sẵn sàng như 10 trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị sẵn dầu để đón chàng rễ. (Mt 25, 1 – 13)
Có lẽ, khi nhắc đến Thánh Đaminh Saviô thì không ai trong chúng ta có thể quên một sự kiện đặc biệt về ngài. Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với những bạn ngoài sân. Cha Gioan Boscô mới gọi thánh nhân ra và hỏi: “… Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
“… Con vẫn tiếp tục chơi!”
“… Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
“… Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!…”
Câu trả lời của Saviô đã làm cho nhiều bạn và cho cả Cha Gioan Boscô hết sức ngạc nhiên. Quả thật, đấy mới là một thái độ sẵn sàng đúng nghĩa. Thánh nhân đã tin vào Chúa một cách vững mạnh.
Ngược lại, đó là thái độ của một người luôn bê trễ, ù lì. Thái độ của người đầy tớ xấu nghĩ rằng: ” Chủ ta còn lâu mới về, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa”. Cũng giống như 10 cô trinh nữ dại khờ không biết chuẩn bị dầu đèn để đón chàng rễ. (Mt 25, 1-13)
Do đó, khi chúng ta biết chu toàn bổn phận của mình trong từng giây phút của cuộc đời là chúng ta đang sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người chồng, người cha trong gia đình.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một người vợ, người mẹ trong gia đình.
Hãy chu toàn tốt bổn phận của một con trong gia đình…
Và trên hết hãy chu toàn tốt bổn phận của một người tín hữu, một người con Chúa trong niềm tin yêu phó thác.
44. Bấp bênh
Trong tất cả mọi chuyến bay, khi máy bay vừa cất cánh và đã ổn định đường bay, các tiếp viên hàng không đều chỉ dẫn cho hành khách phải làm những gì khi rủi mà máy bay gặp tai nạn. Sự việc này có nghĩa là mặc dù chuyến bay đã được chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, nhưng người ta vẫn chưa dám chắc là sẽ an toàn 100/o, do đó phải chuẩn bị đối phó với điều bất ngờ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng ban cho chúng ta những chỉ dẫn cho chuyến bay cuộc đời. Ngài bảo chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng, như một người đầy tớ chuẩn bị sẵn mọi thứ để chờ chủ về bất cứ lúc nào.
Lời dạy của Chúa rất hợp lý, bởi vì cuộc sống con người rất bấp bênh. Càng sống nhiều năm, con người càng cảm nhận sự bấp bênh của cuộc sống: người ta có thể chết ở bất cứ tuổi nào, bất cứ ở đâu và chết vì đủ thứ lý do.
Ở những vùng thường bị lũ lụt, người ta luôn chuẩn bị sẵn sàng để nếu có lũ thì tài sản không bị hư hao. Vào mùa hè thường xảy ra hỏa hoạn, người ta cũng nhắc nhau lúc nào cũng chuẩn bị sẵn sàng. Đối với nhà cửa và tài sản, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng. Vậy tại sao không biết chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống đời đời?
Chuẩn bị sẵn sàng không có nghĩa là đã hoàn thành hết mọi việc phải làm (được như vậy thì càng tốt, nhưng ít ai được như vậy), mà là lúc nào cũng đang làm tốt việc bổn phận.
Một tu sĩ kia đang quét nhà trong tu viện. Chợt một người đến hỏi “Nếu một giờ nữa anh phải chết thì anh sẽ làm gì?” Vị tu sĩ trả lời “Tôi cứ tiếp tục quét nhà cho xong”.
Làm việc bổn phận không phải chỉ là làm cho xong việc bổn phận đó, mà còn là làm cách vui vẻ và với lòng yêu mến. Cựu tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông Dag Hammarskjold đã để lại câu sau đây: “Có ngày nào mà niềm vui thì lớn còn nỗi buồn thì nhỏ không?” Và chính ông trả lời: “Thưa có, ngày nào chúng ta biết sống với bổn phận và chu toàn bổn phận thì ngày đó chúng ta sẽ thấy niềm vui thật lớn và thấy những nỗi buồn thật nhỏ nhoi”. Thi hào Tagore cũng có một câu tương tự: “Tôi ngủ mơ thấy đời sống là vui. Tôi thức giấc thấy đời sống là bổn phận. Tôi làm việc và thấy bổn phận là niềm vui”.
Cách đây vài năm, một thày dòng Phanxicô kia phụ trách một trường giáo dục các trẻ em hư hỏng. Trong một chuyến đi vận động các nhà hảo tâm trợ giúp tài chánh cho trường, thầy đã bị tai nạn xe và chết. Nhiều người tội nghiệp cho thầy vì chết đột ngột quá. Nhưng cũng có nhiều người khác cho rằng thầy đã chết một cách tuyệt đẹp, bởi vì chết đang khi thi hành bổn phận mình.
45. “Một nơi chưa bao giờ đến”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói về một nơi mà trước đây chúng ta chưa bao giờ đến: “Các con đừng sợ, vì Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12, 32).
Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa rằng Thiên Chúa Cha, Đấng luôn yêu thương, sẽ ban tặng cho chúng ta với điều kiện chúng ta phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng nơi Ngài bằng cách: “Các con hãy bán những của cải các con có mà bố thí. Hãy sắm cho các con những túi không hư nát. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó” (Lc 12, 33-34). Vậy Nước Trời ở đâu?
Sách Giáo Lý Công Giáo đã dạy (số 2816- 2820) và Thánh Phaolô để diễn tả: “Nước Thiên Chúa là công chính, an bình và vui vẻ trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14, 17)
Trong bài đọc thứ hai (Dt 11, 1-2; 8- 19) chúng ta nghe lại câu chuyện của tổ phụ Abraham, cha của những người có lòng tin. Qua đức tin, Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để ra đi đến “một nơi chưa bao giờ đến” để được lãnh nhận làm gia nghiệp. Ông đã lên đường theo tiếng Chúa phán. Abraham có đức tin vào Đấng đã ban lời hứa. Ông tin vào lời Thiên Chúa hứa và biết rằng Thiên Chúa đồng hành với mình trên đường về đất hứa. Cuộc hành trình của Abraham là một cuộc hành trình đức tin (Dt 11,12-16). Giống như Abraham, cuộc đời của chúng ta cũng là một cuộc hành trình của niềm tin đi về Nước Trời mà Chúa Giêsu đã hứa hôm nay: “Cha các con đã vui lòng ban Nước Trời cho các con” (Lc 12, 32). Ngài đòi hỏi chúng ta phải tin, phải lên đường ngay. Phải có đối tượng và mục đích rõ ràng. Phải dự trù hành trang cần thiết cho cuộc hành trình dài. Hành trang phải thật nhẹ nhàng. Từ bỏ của cải vật chất là điều kiện cần thiết (1 Pr 1,17), “Hãy bán những của các con có mà bố thí. Vì kho tàng các con ở đâu, thì lòng các con cũng ở đó” (Lc 12, 33-34). Tuy nhiên, con người thời đại đã làm ngược lại với Lời Chúa dạy hôm nay (Pl 3, 19). Họ tin vào của cải, trương mục ngân hàng, vốn đầu tư, công ăn việc làm, chế độ bảo hiểm, hưu dưỡng, đất đai, nhà cửa. Khi đặt trọn vẹn tin tưởng vào của cải vật chất thì hãy coi chừng kẻo sẽ bị mất tất cả, mất hết của cải đời này lẫn hạnh phúc đời sau (Gc 4, 4).
Tiền của vật chất đã không làm con người dễ dàng hướng về Nước Trời được (Mt 19, 23). Và nó cũng không làm con người biết sẵn sàng chờ đợi giờ phút “Con Người” đến nữa.
Hành trình đức tin về Nước Trời phải từ bỏ của cải vật chất và thế gian để giúp ta sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào Thiên Chúa muốn (2 Ga 4, 6-8). Chúa Giêsu đã dùng những hình ảnh của người ăn mặc sẵn sàng lúc làm việc: “Các con hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 35-40)
Thánh Augustino là một con người tội lỗi, sau này lại trở thành một Giám Mục, là thánh tiến sĩ của Giáo Hội. Mẹ của ngài, bà thánh Monica đã cầu nguyện kiên trì để ngài bỏ đường tội lỗi để phục vụ Chúa Giêsu Kitô, nhưng Augustino vẫn chứng nào tật nấy. Cho đến một hôm, đang khi kể chuyện cuộc đời mình cho một anh bạn nghe, Augustinô đã bật khóc nức nở khi nghe có tiếng thôi thúc: “Hãy cầm lên mà đọc; hãy cầm lên mà đọc”. Sau này, Augusttinô đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau:
“Ngay lúc đó tôi liền ngưng khóc, tôi bước đi lấy cuốn Thánh Kinh, mở ra và đọc đoạn đầu tiên đã được biểu tỏ cho tôi, vì tôi nghĩ rằng đây là lệnh từ trời. Rồi nhanh chóng, tôi trở lại chiếc ghế dài nơi bạn tôi, Alypius đang ngồi, và đặt cuốn Thánh Kinh xuống ghế. Thình lình tôi lại chộp lấy nó, mở ra, và trong thinh lặng tôi đọc đoạn Thánh Kinh in ngay vào mắt tôi: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người sống giữa ban ngày: Không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14). Tôi không muốn đọc thêm nữa, cũng chẳng cần phải đọc thêm. Ngay lập tức, khi câu cuối cùng vừa kết thúc, giống như luồng ánh sáng của sự thật rót vào trong tim tôi. Và tất cả bóng tối của nghi ngờ đã biến mất.”
Nếu “Con Người” đã đến trước cái ngày định mệnh này thì Augustinô đã bị bắt quả tang chưa sẵn sàng chuẩn bị gì cả. Có lẽ ngài đã còn đang ngủ. Tuy nhiên từ lúc đó trở đi, Augustino đã sửa soạn sẵn sàng Ngài đã cảnh giác và thức tỉnh khỏi tội lỗi.
Một tác giả nào đó đã cho chúng ta những lời khuyên chân thành và thực tế về giá trị của những giây phút hiện tại trong cuộc sống trần gian như sau:
Để nhận ra giá trị của một năm: Hãy hỏi một học sinh thi rớt cuối năm.
Để nhận ra giá trị của một tháng: Hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để nhận ra giá trị của một tuần: Hãy hỏi người chủ bút của tờ tuần báo.
Để nhận ra giá trị của một ngày: Hãy hỏi công nhân lao động phải nuôi 10 đứa con.
Để nhận ra giá trị của một giờ: Hãy hỏi những tình nhân phải chờ đợi nhau.
Để nhận ra giá trị của một phút: Hãy hỏi người vừa trễ chuyến xe lửa, hay xe buýt.
Để nhận ra giá trị của một giây: Hãy hỏi người vừa thoát khỏi tai nạn.
Để nhận ra giá trị của một sao: Hãy hỏi nhà thể thao Olympic được huy chương bạc.
Và sau cùng, để nhận ra gía trị của một đời người: Hãy hỏi, ai sẽ khóc trong buổi tang lễ của bạn.
Vì thế, chúng ta cần thay đổi thái độ sống chưa xứng hợp với vai trò là người Công Giáo. Chúng ta hãy đặt Chúa lên trên hết, để mọi việc việc làm của chúng ta đều hướng về Chúa, nghe theo tiếng Chúa gọi mời là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa”.
Áp dụng Lời Chúa hôm nay, tôi xin đề nghị đối với các bậc làm cha mẹ: Bởi vì Thiên Chúa đã trao trách nhiệm cho các cha mẹ nên chúng ta hãy biết cách giáo dục, nuôi nấng, hướng dẫn, sửa dạy và chịu trách nhiệm về con cái.
Trên hết, cha mẹ hãy làm gương lành cho chúng và phải chỉ dạy cho chúng. Hãy tham dự thánh lễ, năng lãnh nhận các bí tích. Đừng say sưa, cờ bạc; tránh cãi vã, và những việc không tốt thường con em sẽ theo vết chân bạn.
Gia đình cùng quây quần đọc kinh hôm, kinh mai với nhau ngay từ khi con cái còn nhỏ. Đọc Lời Chúa và lần chuỗi. Bên cạnh đó, Cha mẹ nên đọc gương thánh nhân cho con cái nghe để khuyến khích chúng bắt chước những đức tính tốt ấy
Mặt khác, để giáo dục con cái thì Cha mẹ nên làm gương cho chúng nó: Biết lắng nghe con cái, hãy cho con cái có dịp trình bày hoàn cảnh của chúng. Thông cảm, sẵn sàng dành thời gian chia sẻ, dạy dỗ và tỏ ra quan tâm đối với những khó khăn mà chúng gặp phải khi tiếp xúc với xã hội, tập cho chúng nó biết quan sát, nhận định và phán đoán theo lề luật của Chúa và Giáo hội. Cha mẹ dạy cho chúng nó biết quý trọng những giá trị Nước Trời, không ham mê của cải, không ăn trộm cắp, biết giữ giới răn của Chúa. Cha mẹ nên tránh nói những câu: “Đồ khùng, đồ ngu, im đi…”.
Ngoài ra, hãy hy sinh chú ý tới những cái con cái thích. Khen thưởng để khích lệ, tha thứ để khích lệ và sửa sai cho chúng nó.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết qúy trọng những giá trị Nước Trời, để chúng con luôn biết sống theo Lời Chúa chỉ dạy ngay từ hôm nay, biết sống tỉnh thức và chu toàn bổn phận của công dân Nước Trời bởi vì quê hương của chúng con là Nước Trời.
46. Hành trình
Trong một bài đăng trên báo The Tablet (Ngày 1 tháng 4 năm 2000), Pastor Ignotus viết rằng có hai cách để sống cuộc đời mình: một là làm như một người lập chương trình, hai là làm như một kẻ hành hương.
Người lập chương trình muốn kiểm soát toàn bộ đời mình và đặt chương trình cho từng giai đoạn cuộc đời theo những mục tiêu định sẵn, đó là những thứ mà xã hội coi là thành đạt. Người lập chương trình tốn rất nhiều thời giờ để bắt chước kiểu sống của những người khác và theo đuổi những giá trị của những người khác. Thế nhưng nếu không đạt được những mục tiêu ấy thì họ sẽ thất vọng ê chề.
Còn người hành hương thì trái lại. Đó là người đón nhận cuộc sống như một quà tặng bao gồm cả mặt phải và mặt trái của nó. Người hành hương không thể kiểm soát tất cả những gì xảy đến trong đời mình, nhưng biết thưởng thức tất cả những điều ấy, xem tất cả là những cơ hội cho mình lớn lên. Không như người lập chương trình, người hành hương không bao giờ cảm thấy dễ chịu hay khó chịu với những giá trị mà những người khác trong xã hội nhắm tới.
Nói tóm lại, người lập chương trình không biết sống theo đức tin. Còn người hành hương thì luôn sống theo đức tin. Người hành hương ý thức rằng cuộc đời có nhiều việc khó lường nhưng biết chấp nhận chúng. Người hành hương đặt mình trong bàn tay Thiên Chúa, phó thác đời mình cho Thiên Chúa chở che. Vì biết sống giây phút hiện tại nên người hành hương có thể sống tròn đầy cả cuộc đời mình.
Ông Abraham (bài đọc I) là một tấm gương của người hành hương trong đức tin. Nghe theo lời Chúa gọi, ông rời bỏ quê hương, lên đường đi đến một xứ sở mà Chúa hứa ban cho ông mặc dù ông chưa biết xứ sở ấy ở đâu. Ông đi chỉ vì ông tin vào lời Chúa hứa, thế thôi.
Chúng ta là con cháu Abraham, nên chúng ta phải noi gương đức tin của Abraham. Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khó lường. Chúng ta không biết ngày mai sẽ ra sao. Nhưng chúng ta cứ mạnh dạn tiến bước vì chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình, có Chúa cùng bước với chúng ta. Hơn nữa chúng ta còn biết rằng nơi mà Chúa dẫn chúng ta tới chính là Đất Hứa, một nơi đầy tràn bình an và hạnh phúc.
47. Tỉnh thức – R. Gutzwiller
Tránh xa nguy hiểm mà thôi chưa đủ, còn phải sẵn sàng tỉnh thức.
Mọi người đều phải có đức tính này, nhưng nhất là những môn đệ mang sứ mạng của Chúa
1. Tất cả phải tỉnh thức.
Chúng ta dễ dàng thấy được ý nghĩa của dụ ngôn. Người chủ đi dự tiệc cưới. Các gia nhân ở nhà không biết lúc nào ông về: đêm hay ngày. Tuy vậy, họ vẫn thức, chong đèn và mặc quần áo làm việc, hoàn toàn chuẩn bị sẵn sàng. Dụ ngôn cho thấy người chủ ngạc nhiên, khi trở về. Gia nhân càng cất công chờ đợi lâu, niềm vui của người chủ càng mãnh liệt đến ông làm một việc khác thường: đảo ngược công việc chủ tớ, mời gia nhân ngồi ăn tiệc, và đích thân hầu hạ họ.
Dụ ngôn thứ hai một lần nữa đề cao ý tưởng tỉnh thức. Một gia chủ biết thế nào cũng có lúc trộm đạo đến viếng nhà mình. Nhưng ông không biết đến khi nào nên phải canh chừng luôn, để khỏi bị mất trộm lúc chẳng ngờ.
Người ta không biết rõ ngày giờ chết của mình. Nhân loại không biết được khi nào xẩy ra cuộc Tái lâm, tức là ngày Chúa trở lại. Cho nên phải mở rộng tâm hồn và tỉnh thức trong tinh thần. Hơn nữa, trong cuộc sống hằng ngày, Thiên Chúa có thể bất ngờ xuất hiện vào lúc người ta chưa chuẩn bị và dùng ân sủng kêu mời, khuyến dụ, thúc bách và bổ sung con người. Nói theo kiểu cách đạo đức, kẻ nào còn sống trong mơ màng, mải mê sự đời, thì không chú tâm vào việc Chúa đến, và như vậy đã đánh mất đi kho tàng ân sủng.
Tâm hồn sẵn sàng và tinh thần tỉnh thức hoàn toàn hữu ích cho quyết định dấn thân nghiêm chỉnh trong công việc bổn phận, vì tương phản với tính biếng nhác, chúng chứng tỏ có sự liên kết với Thiên Chúa.
2. Môn đệ được sai đi phải tỉnh thức.
Phêrô thưa với Chúa xem dụ ngôn này có ám chỉ về các môn đệ không, Đức Giêsu trả lời không do dự. Vì trong dụ ngôn sau, Ngài nói đến mấy gia nhân được chủ trao cho một sứ mạng đặc biệt và được nhiều quyền hành. Có người lợi dụng lúc chủ vắng nhà đánh đập các gia nhân khác, ăn uống say sưa, và chỉ nghĩ đến tư lợi.
Trái lại, có người nhân lúc đó, làm hết những công việc còn lại với cả tâm tình. Khi người chủ trở về, họ sẽ thấy hậu quả đến với họ. Những kẻ bất trung sẽ bị gia phạt theo thói luật thời đó. Trái lại, các gia nhân khác được khen thưởng, được củng cố quyền hành và khen thưởng với lòng tín nhiệm.
Trong Nước Thiên Chúa, ở bậc linh mục cũng như các bậc khác, hẳn phải có sứ mệnh đặc biệt: trách nhiệm lo cho tha nhân, cho nên các Ngài càng phải sẵn sàng hơn. Lời đòi hỏi của Chúa nhắm vào các vị nhiều hơn. Càng cao danh phận thì càng nhiều trách nhiệm, có chức vụ tất nhiên sẽ có bổn phận. Ai được cất nhắc lên một chức vụ nào để phục vụ Giáo Hội, người đó sẽ có nhiều khó nhọc hơn trong cuộc sống, và phải luôn hướng về Thiên Chúa.
Ai cũng phải có đức tính đó, nhất là những ai vì phục vụ Chúa Kitô mà phải chia sẻ gánh nặng với anh em. Kitô hữu là người hướng về tương lai và việc Chúa Tái lâm. Họ biết mình phải ‘phục vụ’, dấn thân, phải trả lẽ. Ý hướng đó đã làm cho công việc của họ có một giá trị đặc biệt: Vì ‘người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều: vì đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn’.
Mỗi chức vụ trong Giáo Hội đều mang một trách vụ đối với các linh hồn.
48. Đừng sợ
Bài Phúc Âm hôm nay là một phần bài diễn văn rất dài của Chúa Giêsu, có ý để cho các môn đệ đừng để mình bị lo lắng bởi những công việc trần thế, nhưng trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có nhiều dụ ngôn. Chúa đã dùng những lúc, những nơi khác nhau được đặt gần lại nhau nhằm cùng hướng về một đề tài như đã nói trên. Đầu tiên Chúa ban Nước Trời nhưng nước Ngài là kho tàng qúy giá hơn mọi thứ của cải vật chất ở đời này, vì thế đòi người ta phải mộ mến hơn và phải bỏ của cải để dễ dàng xứng đáng lãnh nhận. Nước Chúa sẽ được ban cho ta một cách hoàn toàn và như một phần thưởng khi Đức Kitô quang lâm, vì thế trong khi chờ đợi ta phải sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Thiếu sự tỉnh thức này thì thật là tai hại.
Đức Giêsu đã sánh ví các môn đệ của Ngài với đoàn chiên nhỏ bé bị đe dọa bởi sói rừng. Ngài biết trước và Ngài cũng đã loan báo rồi đây họ sẽ gặp nhiều nỗi khốn khổ vì Ngài. Ngài thông cảm nỗi lo lắng sợ hãi của họ. Để an ủi khích lệ họ Ngài đã tuyên bố: “Đừng sợ hỡi đoàn chiên nhỏ bé, vì Cha các người hứa ban nước của Người cho các ngươi”. Như thế Ngài muốn bảo các ông rằng không được sợ hãi trước sức mạnh của kẻ thù. Một số ít người không phải là dấu hiệu của sự bại trận, Cha đã dành cho vương quốc mà kẻ thù không đủ sức cản trở đâu. Đó là ơn cứu độ, là sự giải thoát, là vinh dự và là hạnh phúc. Những của cải trần gian là thứ sẽ hư hỏng, hao mòn và bị hủy diệt nữa, mối mọt có thể gặm… chỉ có Nước Chúa là kho tàng vĩnh cữu. Vì thế tinh thần siêu thoát là điều cần phải có. Hơn nữa sự từ bỏ của cải là cách tốt nhất để đạt được Nước Trời, vì chính Chúa Giêsu đã trả lời cho người hỏi Ngài: phải làm thế nào đễ được vào Nước Trời. Ngài đã trả lời cách khẳng định: “hãy bán đi và bố thí cho kẻ khó rồi đến mà theo Ta”. Để đạt được Nước Trời không phải chỉ từ bỏ là đủ, nhưng đòi hỏi người môn đệ phải biết trung tín như người đầy tớ đợi chủ về. mà biết tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi chủ. Đó chính là nỗ lực mà mọi người đều có thể đạt được, nếu chúng ta đủ lòng mộ mến. Chính Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi những áp bức của kẻ thù, Ngài chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta đừng quên cùng đích của cuộc đời, và phải dùng hết cách để đạt tới Nước Trời như Ngài đã sẵn sàng ban cho
Thường thì vào những giờ phút gay go nhất của cuộc đời, chúng ta thường hay rơi vào ngõ bí, hoặc rơi vào giếng sâu như Giêrêmia, thì Chúa gần chúng ta nhất và chờ đợi lòng tin cậy nơi chúng ta để ra tay hành động. Chúng ta đừng để mất lòng tin cây nơi Chúa, Đấng có thể cứu chúng ta, giải thoát chúng ta, chữa lành chúng ta. Hạy nhìn thẳng tới đích mà chúng ta phải đến là Nước Trời. Nói khác đi là Nước Chúa,hay đúng hơn là chính Cháu vì ngài là hạnh phúc đời đời của ta. Tất cả những gì cản trở cho cuộc hành trình này chúng ta phải dẹp bỏ, kể cả những gì thân thiết nhất của ta cũng vậy. Tinh thần siêu thoát rất cần thiết cho cuộc hành trình được dễ dàng thêm.
Hãy mau mắn đáp lại tiếng gọi của Chúa một cách tin tưởng phó thác. Có nhiều điều Chúa muốn lại là cái ta không thấy, không hiểu lúc bây giờ. Tất cả những ơn gọi đều có những khó khăn và bấp bênh, những cái không dự đoán trước được. Cũng có khi cũng giống như Apraham, chúng ta đi nhưng không biết Chúa muốn dẫn mình đi đâu. Chính những yếu tố đó sẽ đánh giá niềm Tin – Cây – của chúng ta và cho ta dịp theo Chúa thật sự.
Những thất bại tạm thời của ta không được làm chúng ta nãn lòng. Chúng ta còn nhớ mẻ cá lớn tiếp theo một đêm vất vả mà chăng được gì. Cho nên chúng ta đừng ngại hãy thả một lần nữa với một lòng trông cậy vào sự can thiệp của Chúa. Đức tin đoì hỏi ở người tín hữu nhiều hy sinh lắm.
Sự chết của Đức Kitô mà chúng ta tưởng niệm bắng cách cử hành bí tích thánh thề nhắc cho chúng ta sự can thiệp cứu độ đặc biệt của Thiên Chúa, tình yêu của Ngài, khiến chúng ta phải tạ ơn và thêm tin tưởng cậy trông. Dự tiệc bàn thánh ở đời này chúng ta nỗ lực làm những gì Chúa muốn để được dự tiệc vĩnh viễn với Ngài trên trời. Amen.
49. Chú giải của Fiches Dominicales
GIÁO HỘI, MỘT DÂN TỘC TỈNH THỨC CHỜ CHÚA TRỞ LẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một con tim gắn liền với một giá trị duy nhất…
Đang trên đường lên Giêrusalem, có người cầu khẩn Đức Giêsu phân xử một cuộc tranh chấp về gia tài. Nhân dịp này, Người cảnh báo đám đông thính giả, khuyên họ giữ mình khỏi: “mọi thứ tham lam”, và lập tức Người minh họa bằng dụ ngôn người giàu có khờ dại (12, 16-21) để đi đến kết luận: “Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như vậy”. Rồi quay sang các môn đệ mà Người thường gọi là “đoàn chiên nhỏ bé”, Đức Giêsu kêu gọi hãy biết từ bỏ. Chúa Cha đã cho họ tất cả, đến lượt họ, tại sao họ lại không thể cho đi tất cả? Người nói với họ: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí”.
H. Cousin bình luận: “Cho người nghèo của cải mình có (dù là tất cả hay chỉ một phần nhỏ để chia sẻ), chính là làm giàu trước mặt Chúa (12,21), là xây dựng cho mình một kho tàng vô tận nơi Chúa; tóm lại, là bảo đảm cho mình một phần thưởng đời dời. Tuy nhiên, đó không phải là phần thưởng cuối cùng, nhưng biên cố Nước Chúa đến phải động viên các Kitô hữu và giúp họ dấn thân với cả tâm hồn, đó chính là giá trị duy nhất. (Tin Mừng theo thánh Lc. Centurion, trg 184)
2. Tích cực đón chờ Đức Giêsu trở lại.
Tiếp tục câu chuyện với các môn đệ, Đức Giêsu đề cập đến một đề tài mới: tỉnh thức và trung tín. Người đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ được “đưa lên cao”; bởi vậy Người cần chuẩn bị cho các bạn hữu của mình sống trong một hoàn cảnh mới mà họ sẽ biết sau cuộc Phục Sinh của Người: Chúa của họ sẽ vắng mặt về thể lý, họ sẽ phải đón chờ Người trở lại trong vinh quang.
Ba dụ ngôn sẽ minh họa cho giáo huấn của Đức Giêsu: Trước hết là dụ ngôn những người đầy tớ sẵn sàng trong bộ đồ phục vụ, nghĩa là thắt lưng gọn gàng, vạt áo được săn lên và xiết chặt bằng dây thắt lưng như mọi người thường làm trong bữa tiệc vượt qua mà bài đọc thứ nhất đã thuật lại. Họ còn thắp đèn sẵn đợi chủ về. Họ tỉnh thức.
Cũng như những người đầy tớ trong dụ ngôn, các môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng đón chờ ngày trở lại của Thầy mình, và họ sẽ kinh ngạc khi thấy Đấng họ trông đợi ‘thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ’.
Liền sau đó là dụ ngôn ông chủ nhà tỉnh thức, biết đề phòng kẻ trộm đến bất ngờ.
Cũng vậy, các môn đệ của Đức Giêsu phải sẵn sàng vì Chúa trở lại thật bất ngờ.
– Dụ ngôn viên quản lý trung tín và viên quản lý bất trung kết thúc toàn bộ đoạn Tin Mừng này. Qua câu hỏi của Phêrô, dụ ngôn này giúp nhận rõ Chúa muốn nói với ai: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”
Trong khi hai dụ ngôn trước nhắm đến tất cả các môn đệ, thì dụ ngôn thứ ba nhắm đến những ai có trách nhiệm riêng trong cộng đoàn và vì trách nhiệm này, họ phải xử sự như những đầy tớ của Đức Kitô và như những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
H. Cousin kết luận: “Câu hỏi của Phêrô khiến Đức Giêsu phải đề cập đến một điểm đặc biệt. Sau khi cảnh báo tất cả mọi Kitô hữu qua các câu 36-40, thì ở đây, Người đòi hỏi thái độ trung tín nơi một số các môn đệ là những người thi hành trách nhiệm mục vụ trên các anh em khác trong cộng đoàn. Vì những phận vụ được trao phó trước mặt mọi người, họ phải luôn sẵn sàng hơn những Kitô hữu khác để trả lời trước mặt Thầy mình, về những thái độ xử sự của họ khi Người bất ngờ đến (sđd, tr. 187).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Một đức tin đâm rễ trong quá khứ, hướng về tương lai và thể hiện trong hiện tại như một bước tiến”.
Nói đến hiện hữu của người Kitô hữu là nói đến đức tin. Đức tin hướng về quá khứ, dựa vào một lời nói, chỉ một lời, một lời hứa.
Đức tin cũng hoàn toàn hướng về tương lai, vì chờ đợi lời hứa được thực hiện dù lời hứa ấy chỉ được bảo đảm bằng một lời nói. Người tín hữu tin rằng Thiên Chúa có thể thực hiện điều Ngài đã nói nhưng đức tin là tiến bước từ lời hứa này đến lời hứa khác mà không nắm giữ hoặc chiếm hữu điều gì.
Trong giây phút hiện tại, đức tin là một cuộc lữ hành, một bước đi, giống như Abraham và các tổ phụ là những di dân, khách lữ hành và những người rày đây mai đó.
Như vậy, phải chăng chúng ta bị kết án là chẳng có gì, chúng nắm giữ được gì? Đây chính là điều nghịch lý của đức tin: đức tin là “phương tiện giúp chiếm hữu được điều chúng ta mong đợi.”
Sự chờ đợi đã có đầy tràn tương lai rồi. Đức Kitô, Đấng sẽ đến, Đấng chúng ta đón chờ, đã hiện diện rồi. Người ở giữa chúng ta qua những ai phục vụ. Như vậy, công việc của đức tin là loại trừ khỏi chúng ta những gì chúng ta tin là đã nắm vững và đặt trong tay chúng ta giá trị duy nhất của tương lai. Chúng ta tiến về giá trị đó và trông đợi nó: giá trị đó là phục vụ và chia sẻ. Đó là cách thế tốt để đón chờ, để tỉnh thức trong đức tin.
2. “Hãy thắt lưng sẵn sàng phục vụ”
Thiên Chúa gõ cửa nhà tôi. Người tỏ lộ qua các biến cố và lời khẩn nài của mọi người. Người còn tỏ lộ cho tôi qua lời kêu gọi của những người chung quanh và bè bạn. Người ước mong được ở với tôi. Và tôi có nguy cơ không quan tâm đến những ước muốn của Người. Người gọi tôi nhưng tôi không có mặt để trả lời. Tôi thuộc loại những kẻ thuê bao vắng mặt.
Đúng, từ lâu lắm, có thể nói là suốt cả cuộc đời, tôi đã là loại người như thế? Thiên Chúa không ngừng đi qua nhà tôi để chỉ thấy nơi tôi sự trống vắng và bóng tối.
Phải chăng chúng ta đã đánh mất sở thích chờ đợi và ước ao? Chúng ta muốn tất cả mọi sự và muốn chúng phải có ngay lập tức. Toàn bộ cuộc sống của chúng ta đã được hoạch định.
Điều bất ngờ khó có chỗ đứng.
Chính Thiên Chúa ước ao đến nhà chúng ta. Vào bất cứ giờ nào. Ngay cả buổi tối khi chúng ta đã chuẩn bị lên giường. Hoặc thậm chí ban đêm khi chúng ta muốn được yên ắng nghỉ ngơi sau một ngày lao động mệt nhọc.
Thiên Chúa không để ý đến giờ giấc. Người luôn hiện diện. Người can thiệp thường xuyên, bất cứ lúc nào. Khi thấy chúng ta tỉnh thức và chờ đợi, Người sẽ sung sướng và vui mừng chia sẻ của ăn và những phương diện tết đẹp nhất trong đời sống của chúng ta.
Nếu thấy chúng ta vì ao ước mà săn sàng. Người sẽ “đốt lên” trong ta ngọn lửa sự sống. Người sẽ trao cho chúng ta Lời của Người. Người sẽ liên kết chúng ta với sứ mạng loan báo Nước Thiên Chúa của Người.
Chúng ta phải thắt lưng sẵn sàng, đó là thái độ của người sẵn sàng tham dự. Không phải một giờ mỗi tuần. Cũng không phải vài phút mỗi ngày, nhưng luôn luôn, thường xuyên. Đến nỗi Chúa đến bất cứ giờ phút nào cũng không bao giờ có thể làm chúng ta bất ngờ. Người sẽ thấy chúng ta luôn thắt lưng sẵn sàng. Và ngọn đèn của chúng ta luôn thắp sáng để nhận ra Đấng đang đến mà đón tiếp Người, mọi lúc. Một thái độ như vậy không có nghĩa là chúng ta không bao giờ kịp thở. Không có nghĩa là chúng ta không ngừng lại, không nghỉ ngơi. Nhưng có nghĩa là đôi mắt chúng ta luôn dò xét đôi tai luôn lắng nghe. Con tim luôn sẵn sàng. Tinh thần luôn tỉnh thức.
50. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ SỰ TỈNH THỨC
Tiếp tục trò chuyện riêng với các môn đệ, Chúa Giêsu bàn về một đề tài mới, sự tỉnh thức và lòng trung thành. Trên đường hướng về Giêrusalem nơi mà Ngài sắp thực hiện cuộc xuất hành của mình, Ngài phải chuẩn bị cho các người thân thuộc sống trong tình trạng mà sau ngày Phục Sinh họ phải sống: trông đợi Chúa của họ Đấng sẽ vắng mặt. Trình thuật về cuộc thăng thiên (Cv 1,9-11) ý nghĩa đặc biệt rằng thời kỳ của Giáo Hội là giai đoạn vắng bóng Chúa Kitô, Đấng mà người ta kêu cầu:”Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!”. Trong thời kỳ này, mọi tín hữu phải sẵn sàng (cc.35-40); nhưng các môn đệ, được gọi để thi hành nhiệm vụ đặc biệt của những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn được mời gọi cách đặc biệt phải sống trung thành (cc.41-48). Để được vậy, Chúa Giêsu sắp kể những dụ ngôn để tức thời trao ban cho một thái độ mà họ phải bắt chước.
1. Những đầy tớ tỉnh thức.
Người chủ nhà tỉnh thức (12,35-40)
Chúa Giêsu bắt đầu mời gọi các môn đệ trong tư thế đang làm việc; sau ngày thăng thiên, chính trong lúc không ngừng lo lắng thi hành nhiệm vụ mà họ phải đợi chờ giây phút mở cửa cho Chúa của họ (c.35). Họ được so sánh (cc. 36-38) với các đầy tớ mà ông chủ đi ăn cưới có thể trở về bất cứ lúc nào trong đêm; như thế việc áp dụng dụ ngôn thứ nhất lại được nói trước dụ ngôn (đây không phải là điều thường xảy ra). Hai lần Chúa Giêsu tuyên bố phúc cho những đầy tớ mà chủ thấy tỉnh thức: họ sẽ được ngồi ăn với ông. Việc ám chỉ bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa đã dự kiến cho dân Ngài (x.Is 25,6-8) sẽ được sáng tỏ với 13, 29 và, rõ hơn nữa, với 22,30 nơi đó Chúa Kitô loan báo rằng những kẻ thuộc về Ngài sẽ ăn uống với Ngài trong Vương Quốc của Ngài. Hơn nữa, phần thưởng được diễn tả trong việc đảo ngược các vai trò: chính ông chủ sẽ phục vụ để tiếp đãi họ. Ở đây nữa, một lời của Chúa Giêsu mang đến ánh sáng cần thiết: Ngài ở giữa họ như một người phục vụ (22,27).
Để minh hoạ cũng đề tài tỉnh thức này, dụ ngôn thứ hai nhắc lại rằng một ông chủ nhà không bao giờ biết được khi nào kẻ trộm đến. Không thể tỉnh dậy đúng lúc! Bài học được rút ra từ đó –phải không ngừng canh gác- lần này rõ ràng được áp dụng cho những thành viên của Giáo Hội trong việc họ chờ đợi ngày Quang lâm, ngày Con Người đến lần cuối cùng. Nếu ở đây Chúa Giêsu tự xưng mình bằng tước hiệu này chứ không dùng tước hiệu Chúa chẳng hạn, chính là để nhấn mạnh đến vai trò thẩm phán hoàn vũ của Ngài (x.21-36) và nhấn mạnh đến tính chất hoàn toàn bất ngờ của việc Ngài đến (x.17,23-26).
2. Người quản gia trung thành (12,41-48)
Một câu hỏi của Phêrô làm cho việc áp dụng dụ ngôn được tinh tế hơn: dụ ngôn này được nói cho ai? Cho mọi người –kể cả đám đông dân chúng- hảy chỉ nói cho các môn đệ (c.41)? Bằng một cách thức có ý nghĩa, Luca ghi chú rằng chính Chúa, người chủ của Giáo Hội, sẽ trả lời bằng dụ ngôn thứ ba. Tình trạng mà dụ ngôn nêu ra rõ rằng là ở vào sau ngày Phục Sinh: các động từ ở thì tương lai, đặc biệt động từ kể lại việc đặt định của người quản qua. Những câu 42-44 nhắc lại một phần các câu 36-38: Chúa Giêsu đưa vào hoạt cảnh một người đầy tớ mà khi trở về ông chủ gặp thấy đang làm việc và Ngài tuyên bố phúc cho anh ta. Nhưng có điều mới ở đây: đó là một đầy tớ-quản gia có nhiệm vụ cung cấp lương thực cho kẻ ăn người ở. Thi hành đúng mức nhiệm vụ này đó là trung thành đáng tin cậy và khôn ngoan – biết rằng đời sống vĩnh cửu có liên quan tới công việc hằng ngày. Để thưởng công, người đầy tớ này được giao phó một nhiệm vụ đáng kể hơn, coi sóc tất cả tài sản của chủ mình.
Khi phác hoạ một trường hợp ngược lại, các câu 45-46 nêu lên một chi tiết khá rõ. Nghĩ bụng rằng chủ về muộn, người đầy tớ quản gia lợi dụng cơ hội để hống hách. Đó là một ám chỉ khá rõ về thời hạn, trong Giáo Hội, kéo dài từ ngày Chúa thăng thiên đến khi Chúa quang lâm, khi Chúa đến vào thời cuối cùng (x.Cv 1,6-8; 2Pr 3,8tt). Không những không thi hành nhiệm vụ –anh ta chè chén say sưa- anh ta lại còn hành hạ tôi trai tớ gái những kẻ mà anh ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng. Sau khi nhắc lại việc trở về bất ngờ, là đến hình phạt: ông chủ cách chức anh ta và bắt phải chung số phận với những kẻ bất trung, trường hợp của một sự chểnh mảng cố ý; một sự bất tuân phục như thế sẽ bị trừng trị nghiêm khắc. Còn kẻ nào chểnh mảng, vô tình, vô ý, vì thiếu khả năng, sẽ bị phạt ít hơn (c.48a).
Như thế câu hỏi của Phêrô đã khiến Chúa Giêsu bàn đến một điểm riêng biệt. Sau lời cảnh cáo các câu 36-40 nói cho tất cả mọi tín hữu, ở đây Ngài đòi hỏi một thái độ trung thành nơi một số môn đệ, những người có trách nhiệm mục vụ đối với những anh em khác trong cộng đoàn. Tuy nhiên ta đừng quên rằng ở đây Chúa Kitô nói bằng dụ ngôn: tất cả mọi chi tiết đều được coi là phóng dụ, chẳng hạn việc đánh đòn (cc.47-48a). tuy nhiên giáo huấn không vì thế mà kém phần trong sáng: Chúa Kitô trông đợi rất nhiều ở các vị lãnh đạo cộng đoàn, điều đó được biểu lộ qua câu châm ngôn bình dân mà Người đưa ra (c.48b). vì được Thiên Chúa trao phó những chức vụ ở giữa dân Ngài, họ phải luôn luôn, hơn tất cả các tín hữu khác, sẵn sàng trả lẽ, bằng cách hành xử của họ, với vị Tôn Sư khi Ngài đến bất ngờ.
51. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em”.
Luca đã cân nhắc khi đặt những lời này của Đức Giêsu trong cuộc hành trình dài lên Giêrusalem mà chúng ta cùng đi theo: từ mấy Chúa nhật qua. Đức Giêsu tiến lên cái chết của Người, sự “xuất phát” của Người (Lc 9,51). Không cần phải là một thầy bói để đoán trước tương lai. Trong một số trường hợp, người ta biết rất rõ điều gì sẽ xảy ra. Đối với Đức Giêsu và các bạn hữu Người, trong những tuần lễ cuối cùng trước lễ Vượt qua, điều đó rõ ràng và đáng ngại: Người sắp đối đầu với sự thù nghịch cứng rắn và không nao núng của những vị đứng đầu tôn giáo… giữa sự ác cảm của quần chúng không còn chút quan tâm đến con người đã từ khước trở thành Đấng Mêsia “của họ”, Đấng Mêsia công thành danh toại và chiến thắng tất cả. Cứ bề ngoài mà xét, thất bại chung cuộc đang đến gần: Một dự án thất bại, một cuộc đời thất bại.
Vả lại chính trong bối cảnh đó mà Đức Giêsu nói: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!”. Thật vậy, nhóm các môn đệ ít ỏi ấy nhỏ bé và mong manh làm sao! Đức Giêsu cố động viên họ khi gọi họ bằng từ thân ái ấy: “Đoàn chiên bé nhỏ”.
Nhưng từ ngữ ấy cũng là một cách diễn tả của Thánh Kinh mang một ý nghĩa thần học. “Đoàn chiên” có “chủ chiên” dẫn dắt, hình ảnh này muốn nói rằng Thiên Chúa yêu mến và bảo vệ dân được chọn của Người (St 48,15; Gr 31,10; Ed 34). “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ” (Tv 22).
Thế là một lần nữa, chính miệng con người Giêsu Nadarét đưa ra một khẳng định đầy táo bạo: Nhóm nhỏ này, yếu ớt và nghèo khổ, không quyền thế, không văn hóa, không chỗ dựa, không có lòng can đảm là “Israel mới”, dân mới của Thiên Chúa. Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ!
Ngày nay, Đức Giêsu nói với tôi cũng lời đó, trong những lúc tôi gặp thử thách. Ngày nay, Đức Giêsu nói lại điều đó với Giáo Hội hiện nay, trong những lúc Giáo Hội gặp khủng hoảng.
Tôi lắng nghe. Tôi lắng nghe.
Theo Đức Giêsu vì sao chúng ta phải xua tan sự sợ hãi? “Bởi vì Cha anh em coi việc ban cho anh em Nước của Người là điều tốt lành”. Đời sống anh em có một ý nghĩa trong Thiên Chúa, cho dù vì lý do này hay lý do khác, đời sống ấy có một bề ngoài thất bại, cho dù bạn bè bỏ rơi anh em, kẻ thù đè bẹp anh em, mọi người không hiểu anh em, cho dù anh em đến phải nói rằng: Lạy Chúa con, lạy Chúa con, tại sao Chúa lại bỏ con? Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu công bố rằng Thiên Chúa ban Nước của Người cho những “người nghèo khó”, cho những người khốn khổ, sa cơ thất thế. Cả người làm kinh doanh đã phá sản, cả người chồng bị ly dị hoặc bị tổn thương trong tình yêu, cả gái giang hồ đã tàn phai hương sắc, cả phạm nhân bị kết án tử hình, cả người tội lỗi đã chối bỏ thầy mình, cả nhưng Người đã bỏ rơi Thầy vì một lý do nào đó. Tất cả đều có thể vượt qua nỗi tuyệt vọng trong Đức Giêsu. Nước của Thiên Chúa không phải là một cuộc chinh phục đang thắng lợi nhưng là một ơn của Chúa Cha. Khi đổ đầy ơn ấy cho anh em Chúa Cha thấy điều đó là tốt lành.
“Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thế hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em cũng ở đó”.
Đây là kết luận đơn giản của tất cả những gì chúng ta vừa nghe. Chúng ta hãy nhớ lại câu chuyện ông, phú hộ mà chúng ta đã nghe Chúa nhật vừa qua. Đối với người đã đặt mọi sự an toàn trong Thiên Chúa, các “của cải trần gian” không quan trọng gì mấy! Vậy thì, chúng ta hãy chia sẻ, hãy cho và hãy yêu thương không đòi đáp lại, dù chịu thiệt. Bạn hãy bố thí bằng tấm lòng thời gian và tài sản của bạn. Tất cả đều là hư vô, không có gì thật trừ tình yêu?
Trái tim của bạn ở đâu? Bạn có yêu không?.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay”.
Tách rời khỏi những giá trị và những thành công ảo tưởng, lòng chúng ta có thể tìm thấy kho tàng của nó, xua đuổi mọi sợ hãi, trở thành sung sướng Vậy bí quyết của sự triển nở đích thực ấy là gì dù trong những hoàn cảnh bất lợi nhất? Đức Giêsu gợi ý để chúng ta quan niệm cuộc đời mình như một cuộc hẹn gặp của tình yêu: Hãy chuẩn bị lòng mình cho một Người đang đến. Thiên Chúa “đến”. Người tới gần. Người ở đây rồi.
Đức Giêsu đã loan báo Người sẽ trở lại vào thời sau rốt, trong ngày Quang Lâm. “Maranatha” “Xin Chúa hãy đến” Đối với mỗi người, cái chết không thể tránh khỏi có thể được xem như cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với Đấng Chí ái: “Chính vì thế mà thánh nữ Têrêxa Avila nghĩ đến giây phút cuối cùng của đời bà như lúc mà “dải lụa của cuộc gặp gỡ êm dịu ấy được tháo tung”. Nhưng Thiên Chúa, dưới dải lụa: “trong bóng đêm” ẩn giấu, không ngừng đi đến. Vậy, trang Tin Mừng này nói về vô số lần Thiên Chúa đến mà chúng ta thường lỡ hẹn, bởi vì chúng ta ở chỗ khác và chúng ta không “tỉnh thức”.
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy thì thật là phúc cho họ!”
Thêm một mối phúc thật nữa: “Phúc cho những ai tỉnh thức” “Thật là phúc cho họ!”
Trái tim của chúng ta được tạo ra là vì Chúa. Làm sao chúng ta lại ngạc nhiên nếu chỉ mình Chúa, sau cùng mới có thể làm cho tim ta no thỏa? Trái tim này rất lớn! Bạn không thể chỉ làm đầy nó bằng các tình yêu trần thế. Chỗ trũng ước vọng của bạn lớn như Thiên Chúa. Hãy yêu thương! Hãy yêu thương? Bạn chớ bao giờ ngừng yêu thương? Bạn sẽ không bao giờ hết yêu thương bởi vì thanh Thiên Chúa muốn đổ đầy cho bạn. Dĩ nhiên, bạn phải sống những yêu thương nơi gian trần với sự mạnh mẽ như một biểu tượng và sự thực hiện ban đầu của tình yêu cao cả.
“Người làm chồng, hãy yêu thương vợ mình, và người làm vợ, hãy yêu thương chồng mình… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh” (Ep 5,32). Hôn nhân là một “bí tích”, một “dấu chỉ”: Thiên Chúa đã cưới nhân loại trong Đức Giêsu Kitô. Nếu bạn có may mắn yêu thương và được yêu thương, bạn hãy sung sướng và không ngừng sống tình yêu thương của bạn “trong Chúa”. Nhưng cả khi bạn có cảm tưởng làm hỏng tình yêu thương ấy; Bạn hãy đặt tình yêu thương ấy “trong Chúa”. Bạn được “mời gọi đến bàn ăn của Thiên Chúa”. Chính Người muốn phục vụ bạn? làm cho bạn no thỏa. “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và: mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta (Kh 3,20). Có người gõ cửa! Chúng ta hãy ra mở nhanh lên, chính là Người.
Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Hình ảnh mới lạ này, hình ảnh kẻ trộm rất táo bạo và đúng kiểu của Đức Giêsu. Giờ đây khi nói về: giờ kẻ trộm đến, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh hoàn toàn bất ngờ, làm hoang mang, thoạt đầu không thể hiểu được nhiều lần Người đến. Đức Giêsu cũng gợi ý rằng chúng ta thật sự “lâm nguy”, nếu chúng ta không tỉnh thức: Phải lay động sự đờ đẫn, sự ngủ thiếp của chúng ta. Lúc đang chờ đợi lâu dài, trong đêm tối, ngọn gió gay gắt của buồn chán như muốn dập tắt ngọn lửa trong lòng chúng ta. Tôi đang “ngủ quên” hoặc đang “tỉnh thức”.
Bấy giờ ông Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người?”. Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ, đúng lúc? Khi chủ, về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình”.
Vậy là ở đây trên cùng một chủ đề về sự tỉnh thức là một dụ ngôn mới, lần này gởi cho những người có trách nhiệm về các cộng đoàn Kitô hữu; họ là những người “quản lý” họ không phải là những “ông chủ”. Họ phải có hai đức tính: Sự trung tín và lương tri! Họ chỉ có một vai trò duy nhất: nuôi sống mỗi người! Tôi muốn cầu nguyện cho họ, xuất phát từ đoạn Tin Mừng này. Tôi cũng có thể nhìn thấy ở đấy một định nghĩa tốt về mọi người “có trách nhiệm” trong tất cả các lãnh vực.
Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của tên đây tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt hắn phải chung số phận với những tên thất tín”.
Như trong ba dụ ngôn khác nói về sự mong đợi, Đức Giêsu nêu lên sự chậm trễ và sự bất ngờ. Ong chủ lâu về quá ông trễ nải. Có lẽ ông ấy sẽ không bao giờ về? Có lẽ việc Thiên Chúa đến là một ảo tưởng? Thế thì, chúng ta cứ ăn, cứ uống, cứ vui chơi; cho dù điều đó có dẫn chúng ta đến chỗ đàn áp, thống trị và đánh đập ngược đãi những người khác. Cơn cám dỗ ấy của “người có trách nhiệm”, chúng ta hãy ghi nhận điều này, có thể: là của Phêrô và các Tông đồ. Chúng ta đã được cảnh báo rõ ràng. Các nghệ sĩ thời Trung cổ không ngần ngại chạm hình các giám mục và các Giáo hoàng xếp hàng cùng với đoàn người bị kết án trong ngày phán xét trên mặt dựng của các nhà thờ. Và sau này, các họa sĩ cũng làm như thế trong các bục họa. Điệu nhảy tư thần. Lời lảnh báo đáng sợ cho tất cả mọi người: Không ai có đặc quyền trước mặt Thiên Chúa.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn”.
Luôn luôn là chủ đề về trách nhiệm. Sự phán xét tùy thuộc vào mức độ ý thức và hiểu biết mà người ta có. Trách nhiệm của chúng ta có thể chỉ là một phần. Đức Giêsu đã nói như thế với biết bao tinh tế! Khi áp dụng nguyên tắc này chúng ta thường phải phán xét người khác với lòng khoan dung và phán xét chính mình với sự thật.
52. Chú giải của Lm FX. Vũ Phan Long
TỈNH THỨC ĐỂ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
1.- Ngữ cảnh
Cuộc hành trình lên Giêrusalem đang tiếp diễn. Đến Lc 12,22, Đức Giêsu lại ngỏ lời với các môn đệ trong đám đông. Đề tài của những lời Người nói nhắm đến các của cải trần thế (12,22-32). Có thể nói phân đoạn 12,22-32 là bài bình luận Dụ ngôn Ông phú hộ. Bản văn Phụng vụ đọc hôm nay giữ lại c. 32: ta thấy Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé” và trấn an họ. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống hiệp nhất với nhau.
Lời khuyến khích ngỏ với các môn đệ lại được tiếp nối bằng mộtlời khuyên triệt để về cách sử dụng của cải trần thế hầu có được một kho báu trên trời (12,33-34).
Sau đó, trong bản văn Lc, Đức Giêsu thay đổi đề tài. Từ mối quan tâm đến các của cải trần thế, Người chuyển sang đề tài sự tỉnh thức và trung thành (12,35-46). Sự tỉnh thức và trung thành liên hệ với kho báu trên trời và ý nghĩa của cuộc sống ở chỗ chính những thái độ này giúp đạt tới kho báu ấy. Để nêu bật đề tài sự tín nhiệm và trung thành, Đức Giêsu lại nói đến biện pháp được đề ra để xử những tôi tớ không chu toàn nhiệm vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34);
2) Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (12,35-48):
a) Dụ ngôn 1 (cc. 35-38),
c) Dụ ngôn 2 (cc. 39-40),
d) Dụ ngôn 3 (cc. 41-48).
3.- Vài điểm chú giải
– đoàn chiên nhỏ bé (32): Hình ảnh này có thể là mộtgợi ý tới Is 41,14 LXX. Ở c. 32, có mộtsự đối lập giữa cộng đoàn nhỏ bé gồm các môn đệ Đức Giêsu và ân huệ lớn nhất Thiên Chúa hứa ban cho họ (“Nước của Người”).
– Hãy bán tài sản của mình đi (33): Xem Lc 18,22; Mt 19,21. Lý do của hành vi này được diễn tả ở 12,21, hầu trở nên “giàu có trước mặt Thiên Chúa”.
– bố thí (33): Xem Lc 11,41; Tb 4,7-11; Hc 35,2.
– một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời (33): Xem Lc 16,9c; 18,22e.
– Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó (34): Câu này có nghĩa là: Nếu anh em đặt kho tàng của anh em trên trời, thì lòng (trái tim) của anh em cũng sẽ hướng về những sự trên trời.
– Anh em hãy thắt lưng cho gọn (35): Lời huấn thị này có thể gợi tới lệnh được ban cho con cái Israel khi cử hành lễ Vượt Qua đầu tiên (Xh 12,11.22-23). Nhưng sau này, ở trong Cựu Ước, công thức trở thành một lời huấn dụ quen thuộc về sự sẵn sàng hoặc về việc phục vụ (x. 1 V 18,46; 2 V 4,29; 9,1; G 38,3; 40,7).
– thắp đèn cho sẵn (35): Xem Lc 8,16; 11,33. Hình ảnh các đèn cháy sáng nói lên sự tỉnh thức.
– canh hai hoặc canh ba (38): Đây là cách chia thời gian của đêm (từ 6g chiều đến 6g sáng) theo người Rôma: thành bốn khoảng (“canh”, phylakai) đều nhau (6-9, 9-12, 12-3, 3-6); mà cũng có thể là cách chia của người Hy-lạp và Do-thái: thành ba canh (6-10, 10-2, 2-6). Theo Cv, tác giả Lc dường như xác định bốn canh (Cv 12,4).
– khoét vách nhà mình (39): Các vách nhà Paléttina được trét đất, nên trộm có thể khoét thủng.
– ông sẽ loại hắn ra (46): dịch sát là “ông sẽ xẻ đôi hắn ra” (dichotomeô, “xẻ đôi, cắt đôi; trừng phạt dữ tợn”). Có lẽ sự trừng phạt này liên hệ đến hai đòi hỏi nơi người quản lý, “trung tín và khôn ngoan”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời khuyến khích của Đức Giêsu về cách sử dụng của cải (12,32-34)
Đức Giêsu gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé”. Điều này hé cho thấy ý thức của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi về bản thân qua cuộc đấu tranh để được nhìn nhận, để sống liên kết và hiệp nhất. Đức Giêsu trấn an họ: “Đừng sợ!”, cho dù họ chỉ là mộtnhóm bé nhỏ. Điều này khiến độc giả nhớ lại những đoạn tóm rất lý tưởng về đời sống của cộng đoàn tiên khởi trong sách Cv (2,42-47; 4,32-35).
Sau đó, Đức Giêsu nêu ra mộtcách sử dụng triệt để các của cải vật chất. Các môn đệ phải “bán” chúng đi và cho đi như “của bố thí”. Chỉ bằng cách đó, họ mới sắm được cho mình “những túi tiền” không hề cũ rách và tích lũy được “một kho tàng” không thể hao hụt ở trên trời. Đức Giêsu sẽ trở lại với đề tài này ở 16,13.
Trong bài Lc 12,13-21, chúng ta đọc truyện Nhà phú hộ. Ông này phạm hai sai lầm: ông đã không làm giàu cho mình “trước mắt Thiên Chúa” và ông để cho cái chết bắt chợt ông. Đức Giêsu đã giải thích cho các môn đệ cách trở nên giàu có trước mắt Thiên Chúa: chia sẻ những gì mình có với những người kém may mắn hơn. Còn để tránh bị cái chết bắt chợt, Người kể ba câu truyện (cc. 35-38; cc. 39-40; cc. 41-48).
* Những dụ ngôn của Đức Giêsu về tỉnh thức và trung thành (35-48)
Sự ẩn mình và vẻ bề ngoài vắng mặt hoàn toàn của Thiên Chúa luôn luôn là mộtgánh nặng và mộtthử thách cho các tín hữu. Thiên Chúa có vẻ xa vời và yếu đuối. Từ đó, chúng ta sống buông thả, vô trách nhiệm. Với các dụ ngôn sau đây, Đức Giêsu gây ý thức cho các môn đệ về những mối nguy đang rình rập họ, và cho thấy là Người vẫn đang có đó, Người biết và Người sẽ ban thưởng.
Yếu tố chung của các dụ ngôn là sự vắng mặt của ông chủ. Các bản văn này dạy các tôi tớ biết phải làm gì khi ông chủ đi vắng. Bổn phận dầu tiên của họ là tỉnh thức và sẵn sàng. Theo phong tục thời ấy, ai đã tháo dây lưng và cởi áo khoác, là ngưng làm việc để đi nghỉ. Còn ai thắt áo khoác bằng dây lưng thì sẵn sàng làm việc hoặc sẵn sàng lên đường. Với ngọn đèn cháy sáng, người ta có thể làm mộtcông việc đột xuất ngay ban đêm. Như thế, người ta được yêu cầu là phải sẵn sàng mọi giờ. Đoạn văn kế tiếp so sánh chuyện Chúa đến cũng đột xuất và bất ngờ như là việc trọm đến; nghĩa là không có lúc nào mà ta không phải sẵn sàng tính sổ với Người.
Các dụ ngôn đặc biệt cho thấy rằng giữa người đi vắng và những người có mặt có mộttương quan bậc trên – lệ thuộc. Những người hiện diện không phải là những chủ nhân tự do của chính mình. Họ phải điều chỉnh cách sống và cư xử theo ý của ông chủ. Để cho quan hệ giữa ông chủ và các tôi tớ không bị buông lỏng, các dụ ngôn yêu cầu phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là luôn ra sức quy hướng về Chúa. Cho dù Người có xa cách theo tầm nhìn, Người vẫn phải luôn ở trong tim các tôi tớ.
Bản văn lại cho thấy phản ứng lạ lùng của ông chủ khi trở về mà thấy các tôi tớ sống như vậy. Ông sẽ thế chỗ họ. Ông đảm nhận nhiệm vụ tôi tớ và xử với họ như với các ông chủ: cho họ ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ. Cách xử sự của ông chủ khiến các môn đệ Đức Giêsu hiểu rằng ông chủ đánh giá cao cách sống của họ, ông thât sự vui mừng và ông diễn tả ra lòng biết ơn đối với họ. Dĩ nhiên ông vẫn là ông chủ – nhưng chính vì thế, việc phục dịch của ông mới đáng kể – và họ vẫn là các tôi tớ – nhưng chính vì thế, vinh dự ông chủ ban cho họ thật là to lớn. Nhưng ta thấy rằng tương quan chủ–nô này không có gì là bất nhân và phi ngã cả. Ông chủ ước mong các tôi tớ của ông liên kết bền vững với ông theo cách riêng tư và thân tình và ông biết đánh giá cách sống này theo cách rất riêng tư. Các tôi tớ phải luôn mang ông chủ vắng mặt trong tim và phải để cho ý muốn của ông luôn hướng dẫn mình. Nhưng họ cũng có thể tin chắc rằng ông chủ cũng dành trái tim cho họ.
Tất cả các tôi tớ đều phải tỉnh thức khi ông chủ trở về. Nhưng sau câu hỏi của Phêrô, ta thấy có những tôi tớ có mộttrách nhiệm đặc biệt. Ông chủ đã giao cho những người này mộtnhiệm vụ điều hành và lãnh đạo các tôi tớ khác. Điều này hàm chứa mộtnguy cơ đặc biệt và do đó, họ có trách nhiệm đặc biệt. Họ chỉ là những người quản lý, chứ không phải là những lãnh đạo theo đúng lý. Họ phải trung thành làm theo những bố trí của ông chủ và phải tỏ ra bén nhạy. Họ phải coi sóc và phục vụ các tôi tớ khác. Họ không được tìm cách thoát ra khỏi dây liên kết với ông chủ vắng mặt, nhưng phải sống dây liên kết này mộtcách đặc biệt mạnh mẽ. Nếu họ lạm dụng địa vị và cư xử với các bạn cách độc tài, họ sẽ bị trừng phạt đặc biệt (“xẻ đôi”); còn nếu họ tỏ ra trung tín, ông chủ sẽ bày tỏ lòng biết ơn và sự tín nhiệm của ông đối với họ.
+ Kết luận
Chính vì Chúa Cha đã sẵn sàng ban sự sống đời đời (Nước Ngài) cho chúng ta, chúng ta phải biết cách sống theo chiều hướng đó. Vì thế Đức Giêsu dạy chúng ta vừa phải biết sử dụng của cải vừa phải biết điều hành cuộc sống của chúng ta theo chiều hướng đó. Đức Giêsu chính là Đấng đến bày tỏ cho chúng ta biết ý muốn đó của Thiên Chúa và giúp chúng ta thi hành. Rồi ngày nào đó, Người sẽ thay mặt Thiên Chúa đến kiểm chứng về cách sống của chúng ta. Đến đây chúng ta phải ghi khắc rằng không thể nào phủ nhận dây liên kết với Đức Giêsu và sự trung thành phải có đối với nhiệm vụ Người đã giao phó. Các đòi hỏi trong các dụ ngôn thật ra không phải là những mệnh lệnh độc đoán. Chúng cho thấy những điều dứt khoát phải làm, phải sống, để chuẩn bị đón Chúa đến và sống với Người, để đi vào hiệp thông trọn vẹn với Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mãi mãi Giáo Hội của Đức Kitô là một “đoàn chiên bé nhỏ”. Do đó, Giáo Hội phải luôn tin tưởng vào Vị Mục Tử của mình là Đức Kitô cũng như vào Chúa Cha. Sự tin tưởng đó phải được diễn tả ra bằng việc kiên trì sử dụng của cải vật chất mà tậu cho mình kho tàng đích thực trên trời.
2. Những con người, những tương quan, những sức mạnh thiên nhiên, các bệnh tật, các biến cố trong lịch sử… can thiệp dứt khoát vào cuộc sống của chúng ta và tìm cách chế ngự chúng ta. Đứng trước những sức mạnh và thế lực mà chúng ta cảm nhận rất rõ ấy, Thiên Chúa dường như ở xa và lại yếu đuối nữa. Chúng ta dám có thể cảm thấy mệt mỏi; dây liên kết chúng ta với Ngài ngày càng nên mong manh hơn, ngày càng ít ảnh hưởng trên đời sống chúng ta hơn. Chúng ta rất có thể để sang mộtbên nhiệm vụ mà Ngài đã giao phó cho ta và xử sự vô trách nhiệm theo tính ngẫu hứng. Hôm nay, Đức Giêsu lưu ý về những mối nguy ấy và cho biết Người sẽ ban gì cho những ai tỉnh thức và trung thành.
3. Tục ngữ có câu: “Xa mặt, cách lòng”. Chúng ta luôn cần có sự hiện diện của người khác, cần liên tục gặp gỡ người khác, để có mộttương quan bền chặt và sống động với người ấy. Để sống trong tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, chúng ta phải luôn hướng về Người bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Cuộc sống của chúng ta phải luôn là mộtnỗ lực quy hướng về Người. Người có “xa mặt”, nhưng Người vẫn ở với “lòng” chúng ta; trái tim chúng ta phải “đầy” Người.
4. Hôm nay, bằng nhiều cách, Chúa Giêsu vẫn hiện diện: trong bánh và rượu là Mình và Máu Người; trong Lời Người; trong những người túng quẫn (x. Mt 25,31-46); trong mọi con người mà Người đã nắn đúc nên theo hình ảnh Người, mà càng ngày họ càng nên như thế do gặp gỡ sống động với Người. Chúng ta có thể và phải sống gắn bó mật thiết với Người. Khi đó, chúng ta đang tỉnh thức và sẵn sàng.
5. Chúa Giêsu không bắt chúng ta gắn bó với Người như những tên nô lệ, dù tư cách chúng ta đúng là như thế. Sự gắn bó với Người sẽ đưa tới niềm vui và hạnh phúc Người ban cho sau này. Người muốn chúng ta sống theo ý Người chỉ là để ban cho chúng ta tất cả.
6. Các thủ lãnh của cộng đoàn cũng được mời gọi suy nghĩ về cách mình đang chu toàn trách nhiệm. Các ngài phải “trung tín và khôn ngoan” trong khi thi hành bổn phận: Chúa Giêsu đã đặt các ngài lên coi sóc những người ở dưới quyền của Chúa để phục vụ họ. Đây là mộttrách nhiệm nặng nề vì đòi hỏi luôn luôn đúng giờ và trung tín; nếu họ lạm quyền, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề. Chúng ta cầu nguyện nhiều cho các ngài.
53. Hãy sẵn sàng – William Barclay
Qua dụ ngôn phú nông khờ dại Chúa cảnh cáo các môn đệ đừng để cho tâm trí bận bịu với việc lo làm giàu cách ích kỷ, rồi phải đặt niềm tin nơi Chúa quan phòng mà quên đi lo âu về cơm ăn áo mặc hàng ngày, nhưng phải quan tâm hết sức về Nước Thiên Chúa sẽ hiện ra khi gặp Ngài trở lại.
Về những biến cố trước khi Ngài trở lại, cùng những tình hình và hậu quả của sự trở lại ấy, Ngài sẽ dạy họ rõ ràng hơn trước khi Ngài qua đời; ở đây Ngài chỉ dạy họ giữ thái độ canh thức, ngụ ý rằng nếu lúc nào tâm trí họ cũng hướng về sự trở lại của Chúa, thì họ sẽ ở ngoài vòng cương tỏa của trần thế, của lo âu, để cần mẫn phục vụ Ngài.
Ngài minh họa thái độ canh thức ấy bằng dụ ngôn ông chủ trở về và kẻ trộm đến. Trong dụ ngôn đầu: ông chủ đi dự tiệc cưới, tôi tớ ở nhà ăn mặc tươm tất, chong đèn thức đợi, sẵn sàng đợi ông chủ về. Về đến nhà, ông hân hoan thấy họ kiên tâm như vậy, ông biểu lộ niềm vui bằng cách cho họ đồng bàn trong bữa tiệc họ đã dọn cho ông.
Dụ ngôn thứ hai biểu lộ chân lý việc đến bất ngờ của kẻ trộm. Trộm đến không bao giờ báo trước, nên chỉ còn một cách là lúc nào cũng rình chờ hắn đến. Chúa thêm: “Cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Tại đây cũng như nhiều chỗ khác, Chúa cho biết còn lâu nữa Ngài mới trở lại. Thời gian Ngài vắng mặt sẽ như một đêm dài, còn nhiều điều cần phải được biểu lộ, còn nhiều điều cần thiết trước khi Ngài trở lại. Thế nhưng họ không phải chờ đợi trong bồn chồn lo âu, hoặc ngày Ngài đến đã gần kề, nhưng chỉ cần họ đứng tại vị trí của bổn phận, trung thành thi hành công việc đã được trao phó cho.
Chúng ta có thể dựa vào thái độ canh thức, chú tâm đến sự trở lại của Chúa, mà đón định tư cách của các giáo sư và những người lãnh đạo Giáo Hội. Đó là động lực khiến Phêrô đưa ra câu hỏi. Ông hỏi rằng mọi người sẽ cùng hưởng phước hạnh về sự của Chúa ngang nhau hay những người như các tông đồ, đã phục vụ Chúa nhiều hơn sẽ lãnh phần thưởng lớn hơn. Chúa trả lời cho thấy đặc quyền lớn bao nhiêu thì thử thách lớn về trách nhiệm nặng hơn.
Như vậy đoạn Kinh Thánh này có hai ý nghĩa: nghĩa hẹp chỉ sự trở lại của Chúa vào ngày thế mạt, nghĩa rộng chỉ về thời điểm mà mỗi người chúng ta được gọi trình diện Thiên Chúa. Có lời khen ngợi là dành cho người đầy tớ biết sẵn sàng. Chiếc áo dài lướt thướt của Đông phương gây trở ngại khi làm việc. Vì thế để làm việc, người ta vén áo cao lên, buộc vào thắt lưng để hoạt động thoải mái. Chiếc đèn ở Đông phương chỉ là một sợi tim (bấc) thả trên một đĩa dầu. Tim đèn phải luôn luôn được cắt tỉa và đèn phải luôn luôn đầy dầu, nếu không đèn sẽ tắt. Không ai có thể nói ngày giờ nào cõi đời đời sẽ xâm nhập vào thời gian và khi nào tiếng gọi của Chúa sẽ đến.
Vậy chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta trong tình trạng thế nào?
1. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta lúc đã chu toàn bổn phận của mình.
Biết bao người trong chúng ta có đời sống dở dang, có những việc chưa làm và những việc mới làm một nửa. Có những việc bỏ bê và có những việc chưa bắt đầu. Các bậc vĩ nhân bao giờ cũng nghĩ đến bổn phận phải làm trọn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Con đã làm xong công việc mà Cha đã trao ban cho con”. (Ga 17,4). Không ai được coi thường, bỏ bê công tác mà mình phải chu toàn, hay có thể hoàn tất trước khi đêm đến.
2. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang sống hòa thuận cùng mọi người.
Thật đáng sợ nếu ta lìa khỏi thế gian này mà lòng còn cay đắng với một người nào. Không ai được để cho mặt trời lặn trên cơn giận của mình (Ep 4,26), nhất là khi mặt trời lặn lần cuối cùng trong đời mình, và ai có thể biết được ngày nào mình nhìn thấy mặt trời lặn lần cuối.
3. Chúng ta muốn Chúa gặp chúng ta đang bình an với chính Ngài.
Trong giờ cuối cùng, chúng ta cảm thấy mình sắp phải gặp một người xa lạ, một kẻ thù, hay sắp được nằm yên trong vòng tay êm ái của Cha lành, đó là tất cả sự khác biệt.
Trong phần thứ hai của đoạn Kinh Thánh này, Chúa Giêsu cho biết thế nào là người quản gia khôn ngoan và không khôn ngoan. Bên Đông phương, người quản gia có quyền hạn rất rộng. Bản thân là nô lệ, nhưng anh ta có quyền điều khiển các nô lệ khác. Một quản gia tín nhiệm được coi sóc mọi việc trong nhà và điều hành gia tài của mình. Người quản gia không khôn ngoan đã phạm hai lỗi lầm:
1. Anh ta nói: “Ta sẽ làm theo ý thích của ta trong khi chủ ta đi vắng”, vì anh ta quên rằng ngày tính sổ phải đến. Chúng ta thường chia đời sống ra nhiều phần. Trong phần này của đời sống thì chúng ta nhớ Chúa hiện diện, trong phần khác thì chúng ta chẳng nghĩ đến Chúa chút nào. Chúng ta có khuynh hướng vạch một đường ranh giới giữa những hoạt động thiêng liêng và những hoạt động thế tục. Nhưng nếu hiểu rõ Kitô giáo là gì? Chúng ta hẳn biết rằng không có phần nào trong đời sống chúng ta khuất mắt của Chúa được. Chúng ta đang làm việc và sống động mãi dưới cái nhìn thấu suốt của Chủ Lớn của chúng ta.
2. Anh ta nói: “Ta có đủ thời giờ sắp xếp mọi công việc trước khi chủ đến”. Không có gì nguy hiểm cho bằng cảm tưởng là chúng ta có đủ thời giờ. Chính Chúa Giêsu phán: “Ta phải làm công việc của Đấng đã sai Ta đang khi còn ban ngày, đêm đến thì không ai còn làm việc được nữa” (Ga 9,4). Một trong những chữ rất nguy hiểm trong đời sống con người là chữ “ngày mai”.
Đoạn Kinh Thánh chấm dứt với lời cảnh cáo rằng sự nguy hiểu biết và đặc ân bao giờ cũng mang theo trách nhiệm. Tội trở nên nặng gấp đôi cho người nào hiểu biết mà cứ phạm. Thất bại sẽ đáng trách gấp đôi cho người nào có điều kiện để thành công mà lại không chịu lợi dụng các điều kiện ấy.
54. Muốn được cứu độ: “Hãy tỉnh thức!”
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Ngày 21/07/2013 vừa qua, giới ca sĩ và những người hâm mộ ca nhạc đã cảm thấy bàng hoàng sau cái chết của chàng trai ca sĩ Wanbi Tuấn Anh. Nhiều người đã bày tỏ cảm xúc tiếc thương cho số phận xấu số của anh. Anh ra đi vĩnh viễn ở tuổi ươm mơ dệt mộng khi mới 26 tuổi đời.
Xa hơn một chút, trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã cướp đi sinh mạng của hơn 16.000 người. Không ai biết trước nên chẳng chuẩn bị gì. Khi sóng thần ập tới, nó quét sạch mọi sự, sau trận động đất đó, chỉ còn lại một đống đổ nát và hoang tàn.
Như vậy, sự sống sự chết của mình không ai biết trước được. Cái chết nó đến với bất cứ ai, vào bất cứ lứa tuổi nào. Vì thế, khi nhà thơ Nguyễn Khuyến nghĩ về thân phận mỏng manh của kiếp người, ông đã thốt lên: “Ôi nhân sinh là thế ấy! Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình bài học: “Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng”; hay nói cách khác, muốn được sống: hãy học cách chết.
1. Tỉnh thức, sẵn sàng là thái độ cần của người môn đệ
Nếu Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu khiển trách nhà phú hộ giàu có là “đồ ngốc” vì ông ta đã cảm thấy an tâm và cậy dựa vào tiền bạc thái quá mà quên đi phần hồn của mình; đồng thời ông cũng không biết sử dụng tiền bạc bất chính để mua lấy Nước Trời, thì Chúa Nhật này, Đức Giêsu đi xa hơn để dạy cho các môn đệ bài học “sẵn sàng”; “tỉnh thức” để đón đợi Chúa đến trong ngày Quang Lâm.
Hãy “thắt lưng cho gọn”, là hình ảnh của những người trong tư thế sẵn sàng. Thật vậy, khi xưa, người Do Thái thường hay may áo với những tua dài, khi đi nhanh hoặc chạy, họ phải vận tua áo vào thắt lưng để cho gọn gàng, như thế khi di chuyển mới không bị vướng. Đức Giêsu bảo các môn đệ “thắt lưng cho gọn”, là Ngài muốn dạy các ông phải trong tư thế sẵn sàng, để khi cần hành động thì được thanh thoát, nhẹ nhàng, không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc.
Còn hình ảnh “thắp đèn cho sẵn”, là hình ảnh của những người trong tư thế chuẩn bị. Họ phải chuẩn bị đèn, dầu, để khi cần phải thắp sáng lúc đêm khua là có ngay, tránh tình trạng đến nơi rồi mới đi tìm, e rằng quá trễ như 5 cô trinh nữ khờ dại.
Thật thế, ngày Chúa đến không ai biết. Ngài đến như kẻ trộm lúc đêm khua. Ngày đó chính là ngày chết của mỗi người. Vì thế, Đức Giêsu đã mời gọi “hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng” như người đầy tớ chuyên cần: “Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức”.
2. Thái độ tỉnh thức của mỗi người chúng ta
“Hãy thắt lưng”; “hãy cầm đèn trong tay” là thái độ sẵn sàng để đón Chúa đến của mỗi người chúng ta. Có một câu chuyện giả tưởng kể về một cuộc họp kín của hội đồng Satan, rất nhiều kế sách được đưa ra… nhưng đều bị bãi bỏ hết, chỉ có một ý kiến được tất cả hội đồng nhất trí, đó là sáng kiến của một Quỷ già. Quỷ này đưa ra một chiêu thức như sau: gấp gì, còn kịp chán, để gần chết rồi ăn năn trở lại, hãy sống vui đã! Thật thế, không ít người đã vấp phải cạm bẫy này. Họ vẫn cứ ăn chơi trác táng, cờ bạc, rượu chè, trai gái… vẫn sống bất chính, tham ô, bóc lột, thờ ơ trước nỗi khổ của anh em… họ viện vào lý do là mình còn trẻ, vẫn khỏe nên chưa thể chết được, vì thế, để đến khi về già mới hay, đâu có muộn! Thế nhưng trong thực tế đời thường, có biết bao người chết khi tuổi mới đang độ thanh xuân…Có những người chết vì thiên tai, tai nạn, bệnh tật, hay chỉ một cơn gió độc ập đến đã đủ để cướp đi sinh mạng của mỗi người… Chính vì thế, phải “sẵn sàng” trong tư thế “tỉnh thức”.
Tuy nhiên, tỉnh thức ở đây không có nghĩa là không ngủ, cũng không phải là cứ ngồi ì ra đó và chờ đợi, đôi khi cũng không hẳn là đọc nhiều kinh, xem nhiều sách, hoặc chỉ giữ đạo vì luật… Nhưng tỉnh thức ở đây chính là hãy lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái, yêu thương, là sám hối, canh tân, là sống đạo và đáp lại lời mời gọi của Tin Mừng cách trung thành. Mặt khác, khi tỉnh thức là chúng ta phải chuẩn bị để can đảm đối diện với cái chết. Nói như thánh Phaolô: “mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết”. Hay như câu ngạn ngữ sau: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Đối diện với nó để đón đợi nó. Cái chết đối với người có tinh thần chuẩn bị được ví như một cuộc hẹn của tình yêu. “Maranatha: Xin Chúa hãy đến” phải là niềm mong đợi cho những ai có sự sẵn sàng. Khi chuẩn bị sẵn sàng như thế, ta thấy cái chết đến với ta bất cứ lúc nào, ở đâu…ta đều thấy an vui thanh thoát vì đã chuẩn bị.
Được như thế, là chúng ta đang trong tư thế sẵn sàng đón chờ Chúa đến với ta bất cứ lúc nào. Và, cái chết đến với ta như một “cõi đi về” trong hãnh diện: “Còn tôi, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã thi đấu trong cuộc đấu cao đẹp, đã chạy hết quãng đường dài. Giờ đây, tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính. Chúa sẽ trao phần thưởng đó cho tôi, và không phải chỉ cho tôi, nhưng cho tất cả những ai mong đợi người” (2 Tm 4,6-8).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực cho chúng con, để chúng con can đảm vượt qua những cám dỗ và chuẩn bị cho tốt ngày Chúa đến với mỗi người chúng con khi Chúa Quang Lâm. Xin cũng ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, một tinh thần sẵn sàng, để ngày Chúa đến với mỗi người chúng con như một ngày hội của tin yêu và phó thác. Amen.
55. Trung tín và tỉnh thức – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày nay, “Mạnh Thường Quân” là một cụm từ khái niệm hóa, hiểu như một danh từ chung để chỉ một mẫu người hào phóng và nhân ái.
Mạnh Thường Quân tên thật là Điền Văn, người nước Tề thời Chiến Quốc. Ông là một người giàu sang, có lòng nghĩa hiệp, thích chiêu hiền đãi sĩ, văn cũng như võ trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn tân khách. Tiếng tốt đồn vang khắp các nước chư hầu thời bấy giờ.
Một hôm Mạnh Thường Quân nhìn vào sổ nợ, biết dân đất Tiết, một nước nhỏ bị Tề diệt, vua Tề tặng Mạnh Thường Quân làm phong ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) còn nợ mình nhiều, thuộc loại “nợ xấu khó đòi” nhưng nhất thiết chỉ dãn mà không cho xóa. Ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Huyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Huyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đó nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Huyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Phùng Huyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Huyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua khó khăn, được ơn nghĩa với dân chúng.
1. Trung tín
Trong bài Phúc Âm hôm nay nói đến dụ ngôn người quản lý “trung tín” và “khôn ngoan”, khác với người quản lý “bất lương” trong dụ ngôn sau này (16,1-10).
Người quản lý được giao hai trách nhiệm: coi sóc gia nhân và tài sản.
Trung tín từ việc nhỏ trước khi đến việc lớn, trung tín với của cải riêng trước khi đến của cải người khác. Người quản lý ở đây được giao cho chăm sóc gia nhân của chủ, và ông sẽ được cắt đặt coi sóc tải sản khi chủ thấy người này đã trung tín với việc trước.
Khôn ngoan, người quản lý sẽ được tuyên bố là “có phúc” và được cắt đặt coi sóc gia sản của chủ nếu chủ về và gặp thấy đang làm như vậy.
Người quản lý bất trung với hai khía cạnh tiêu biểu là đánh đập tớ trai tớ gái thay vì coi sóc họ cách chu đáo, và ăn uống say sưa hay vì phân phát phần thực phẩm cho gia nhân. Người quản lý này bị chủ cho nghỉ việc vì đã không làm đúng chức năng quản lý mà chủ đã giao cho anh.
Khi khen người quản lý khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Chúng ta chỉ là những người quản lý của Thiên Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng thôi. Mọi sự chúng ta có đều do nhận lãnh. Chúng ta nhận lãnh từ nơi vòng tay yêu thương của cha mẹ rồi công lao dưỡng dục mỗi ngày “chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm”. Lớn lên, tiếp tục nhận được từ nơi nhà trường và xã hội một vốn tri thức của nhân loại đã được tích góp từ hàng ngàn năm qua bao thế hệ. Và còn nhận được một gia sản đức tin từ bao thế hệ cha anh trong Giáo Hội để lại cho chúng ta.Tất cả những điều đó, cho thấy tất cả những gì chúng ta có đều do người khác trao ban.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng.
2. Tỉnh thức
Chúa Giêsu lưu ý về của cải đích thực các môn đệ cần thu tích. Đó là của cải “chẳng bao giờ cũ rách” và “chẳng thể hao hụt”. Của cải trên trời, kho tàng trên trời hoàn toàn khác với của cải nơi trần gian. Của cải trần thế càng nhiều, lòng người càng nặng trĩu. Nặng trĩu lo âu. Kho tàng trên trời càng nhiều, lòng người càng thanh thoát. Bởi kho tàng trên trời là chính Chúa. Càng đến gần Chúa, được Chúa ở cùng, con người càng thoát khỏi những trói buộc của trần gian,trở nên nhẹ bổng, tự do.Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian. Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Càng nuôi lòng khao khát, lòng dạ hướng về kho tàng của Chúa nên tâm hồn phong phú bởi chính của cải tràn trề chất đầy kho tàng. Đó là của cải tình yêu như Chúa đã nói: “Kho tàng anh em em ở đâu, lòng anh em cũng ở đó”.
Để luôn hướng lòng về Chúa là kho tàng đích thực, con người phải tỉnh thức luôn. Chúa Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về. Người tôi tớ đợi chủ đi ăn cưới về không thể biết đích xác giờ phút của chủ. Thời giờ hoàn toàn tùy thuộc chủ. Tôi tớ không can dự việc riêng của chủ. Phận tôi tớ là làm theo ý chủ. Người chủ muốn tôi tớ trung thành. Lòng trung thành thể hiện qua sự trung tín trong mọi việc được chủ trao phó. Trung thành chờ đợi giờ phút chủ trở về nên luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để “đợi chủ về”. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.