I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Nếu 4 Sách Phúc Âm đều có Bài Tường Thuật về cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su thì Bài Tường Thuật về cuộc Thương Khó trong Tin Mừng Mát-thêu (26,14 – 27,66) là Bài Tường Thuật đầy đủ và gây xúc cảm nhất. Vì thế mà Giáo Hội cho chúng ta đọc Bài Tường Thuật ấy ngay đầu Tuần Thánh. Với tâm tình kính tôn, yêu mến và cảm tạ chúng ta hãy chiêm ngắm dung mạo tuyệt đẹp của Con Thiên Chúa làm người và chịu đau khổ để cứu chuộc chúng ta và toàn thể nhân loại.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BỐN BÀI THÁNH KINH
2.1 TRONG BÀI PHÚC ÂM PHẦN KIỆU LÁ: Mt 21, 1-11: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”. (Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu).
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay”. Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
“Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ”.
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô con vua Đavit! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!”
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: “Người đó là ai vậy?” Dân chúng trả lời rằng: “Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa”.
2.2 TRONG BÀI ĐỌC I CỦA THÁNH LỄ: : Is 50, 4-7: “Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”. – (Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)- (Trích sách Tiên tri Isaia).
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
2.3 TRONG BÀI ĐỌC II CỦA THÁNH LỄ: Pl 2, 6-11: “Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”. (Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê).
Chúa Giêsu Kitô, tuy là Đthân phậnđThiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
2.4 TRONG BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26, 14 – 27, 66 “Sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
C. Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:
S. “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?”
C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:
S. “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?”
C. Chúa Giêsu đáp:
LM: “Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”.
C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói:
LM: “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.
C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:
S. “Thưa Thầy, có phải con không?”
C. Người trả lời rằng:
LM: “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!”
C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:
S. “Thưa Thầy, có phải con chăng?”
C. Chúa đáp:
LM: “Đúng như con nói”.
C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:
LM: “Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta”.
C. Đoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:
LM: “Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy”.
C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:
LM: “Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: ‘Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác’. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.
C. Phêrô liền thưa:
S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm”.
C. Chúa Giêsu đáp:
LM: “Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”.
C. Phêrô lại thưa:
S. “Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy”.
C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.
Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:
LM: “Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện”.
C. Đoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:
LM: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”.
C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:
LM: “Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn”.
C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:
LM: “Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối”.
C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:
LM: “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha”.
C. Đoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:
LM: “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần”.
C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:
S. “Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy”.
C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:
S. “Chào Thầy”.
C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
LM: “Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?”
C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:
LM: “Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?”
C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:
LM: “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép”.
C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.
Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:
S. “Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày”.
C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:
S. “Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?”
C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:
S. “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa không?”
C. Chúa Giêsu trả lời:
LM: “Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây”.
C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:
S. “Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Đây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?”
C. Họ đáp lại:
S. “Nó đáng chết!”
C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:
S. “Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?”
C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:
S. “Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa”.
C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:
S. “Tôi không hiểu chị muốn nói gì?”
C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:
S. “Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét”.
C. Ông thề mà chối rằng:
S. “Tôi không biết người ấy”.
C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:
S. “Đúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi”.
C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần”, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.
Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:
S. “Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính”.
C. Nhưng họ trả lời:
S. “Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!”
C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:
S. “Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu”.
C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: “Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Đấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi”.
Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:
S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”
C. Chúa Giêsu đáp:
LM: “Ông nói đúng!”
C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:
S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”
C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:
S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”
C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:
S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.
C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:
S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”
C. Họ thưa:
S. “Baraba!”
C. Philatô hỏi:
S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”
C. Họ đồng thanh đáp:
S. “Đóng đinh nó đi!”
C. Quan lại hỏi:
S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”
C. Chúng càng la to:
S. “Đóng đinh nó đi!”
C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:
S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.
C. Toàn dân đáp:
S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.
C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.
Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:
S. “Tâu vua dân Do-thái!”
C. Đoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.
Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.
Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:
S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”
C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:
S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”
C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:
LM: “Eli, Eli, lema sabachtani!”
C. Nghĩa là:
LM: “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”
C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:
S. “Nó gọi tiên tri Elia”.
C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:
S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”
C. Đoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:
S. “Đúng người này là Con Thiên Chúa”.
C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.
Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.
Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:
S. “Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: ‘Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại’. Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng:Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước”.
C. Philatô trả lời:
S. “Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý”.
C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ. Đó là lời Chúa.
III. CHIÊM NGẮM DUNG MẠO CỦA CHÚA GIÊ-SU VÀ KHÁM PHÁ RA SỨ ĐIỆP CỦA BÀI THƯƠNG KHÓ TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU.
3.1 Dung Mạo Chúa Giê-su trong Bài Thương Khó Mt 26,14 – 27,66 có những nét đáng chúng ta ghi nhận trong tâm trí, như sau:
– Một là Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a bị bán rẻ cho kẻ thù, bởi một trong mười hai môn đệ là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tại sao Giu-đa lại bán Thày mình lấy một số tiền còm như thế? Có người cho rằng vì hắn tham tiền! Có người cho rằng không phải là vì Giu-đa tham tiền mà vì ý đồ chính trị. Có người cho rằng vì Giu-đa vừa tham tiền vừa có ý đồ chính trị. Ý đồ chính trị làm động cơ cho việc Giu-đa bán Thày là: Giu-đa đã chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu và tin rằng Thày mình đúng là Đấng phải đến để thiết lập Vương Quốc của Thiên Chúa. Nhưng Giu-đa không đủ kiên nhẫn chờ đợi ngày Thiên Chúa ra tay và nhất là không chấp nhận con đường cứu thế của Đức Giê-su là con đường đau khổ. Con đường mà Giu-đa muốn Đức Giê-su theo là con đường vinh quang tức chiến thắng bằng bạo lực. Thấy Đức Giê-su cứ “dùng dằng” và “vô tư” trước âm mưu của kẻ thù, Giu-đa tìm cách đẩy Đức Giê-su vào chân tường để cưỡng ép Người dùng quyền năng và vũ lực mà làm cho thiên hạ phải bái phục. Giu-đa bị cám dỗ y như chính Đức Giê-su đã từng bị Xa-tan cám dỗ trong hoang địa. Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng Xa-tan và cám dỗ của nó, còn Giu-đa thì đã thất bại và nghe theo nó. Đức Giê-su chọn là Mê-si-a tự hạ, tự hủy, khiêm cung và tự hiến, còn Giu-đa thì đã không chấp nhận điều ấy.
– Hai là trong bữa ăn cuối cùng của Thày trước lễ Vượt Qua năm 33, Chúa Giê-su là Đấng hết mực yêu thương chăm sóc các môn đệ bằng viêc lập Bí Tích Thánh Thể là Hiến Tế Tình Yêu và các Thừa Tác Viên có chức thánh để các ngài lặp lại Hiến Tế ấy : “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thày; Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thày…Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.”
– Ba là trong vườn Cây Dầu Chúa Giê-su đã phải chịu nỗi cô đơn tột cùng trước viễn cảnh cuộc Thương Khó. Kể cả ba môn đệ thân tín nhất là Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê, cũng không chia sẻ được những gì chứa chất trong tâm hồn Người và những gì đang chờ đợi Người ở phía trước. Nhưng Chúa Giê-su đã tỏ ra rất dũng cảm và tuyệt đối vâng phục Thánh Ý của Cha: ”Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi,, thì xin vâng ý Cha”. Tại đây chúng ta còn khám phá Chúa Giê-su là Đấng bị rình bắt, như một tên bất lương; đồng thời bị phản bội bằng một cái hôn gỉa hình mang tính “chỉ điểm” của Giu-đa! Cũng tại đây chúng ta còn khám phá Chúa Giê-su có tấm lòng hiền lành, dịu dàng, ưa chuộng hòa bình và chủ trương bất bạo động: “Hãy xỏ gươm vào vỏ…”
– Bốn là Chúa Giê-su là Đấng đã bị chối bỏ bởi một trong bốn môn đệ đầu tiên và hết sức thân cận là Phê-rô, Tông đồ Trưởng của Nhóm Mười Hai. Phê-rô đã được Đức Giê-su ưu ái cách đặc biệt khi được chứng kiến những giây phút rất riêng tư và bí mật của Thày (trên Núi Ta-bo, trong Vườn Cây Dầu). Tại sao Phê-rô lại chối bỏ Thày mình một cách quá dễ dàng như thế? Chỉ có một lý do: Phê-rô là một kẻ nhát gan! Mới trước đó không lâu, chính Phê-rô còn khăng khăng quả quyết với Thày: “Dầu tất cả có vấp ngã đi chăng nữa, thì con cũng nhất định là không?” Nhưng chỉ mấy giờ sau thì Phê-rô đã chối phăng mối liên hệ của mình với Thày khi bị hai đứa tớ gái và gia nhân nhà thượng tế hạch hỏi. Ba lần bị hỏi là ba lần chối thẳng thừng: “Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì! Tôi thề là không có biết người mà các ông nói đó!”
– Năm là sau khi bị Phê-rô chối, Chúa Giê-su còn bị các môn đệ khác bỏ rơi. Giu-đa đã bán Chúa. Phê-rô đã chối Chúa. Còn các môn đệ khác thì cũng chẳng hơn gì. Trừ Gio-an có mặt dưới chân thập giá (theo Tin Mừng Gio-an) thì tất cả các môn đệ khác đều đã cao chạy xa bay và trốn biệt tăm biệt tích vì sợ hãi. Họ cũng nhát sợ như Phê-rô! Thế mà trước đó họ cũng thề thốt với Thầy như Phê-rô vậy.
– Sáu là tại dinh thượng tế Cai-pha, Chúa Giê-su là nạn nhân của những âm mưu đen tối và hèn hạ của giới hữu trách Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và Do-thái giáo của người Ít-ra-en: Họ là các thượng tế, kinh sư và kỳ mục của dân, tức là giới lãnh đạo cao cấp của Đền Thờ. Họ tìm mọi cách (kể cả vu oan, chứng dối) để loại trừ Người, chỉ vì Người không đi theo họ, không phục vụ quyền lợi của họ và làm giảm uy tín của họ. Tại dinh tổng trấn Phi-la-tô là đại diện của chính quyền đế quốc Ro-ma đô hộ, Chúa Giê-su là nạn nhân của viên tổng trấn vừa nhát gan vừa tham quyền cố vị, khi ông ta nhắm mắt làm ngơ trước người vô tội bị oan và đồng lõa với giới lãnh đạo Do-thái giáo, để khử trừ vị thiên sai và ngôn sứ vô tội.
– Bầy là Chúa Giê-su là Đấng bị đóng đinh và treo trên cây Thập giá trên ngọn đồi Gol-go-tha, nơi hành quyết những tên tội phạm hình sự. Ở đây trước khi nhắm mắt lìa đời Chúa Giê-su còn bị nhạo báng, sỉ vả và thách thức! Nhưng chính ở trên Cây Gỗ này mà Tình Yêu Cứu Chuộc của Thiên Chúa đã được thể hiện một cách mãnh liệt và huy hoàng nhất!
3.2 Những Sứ Điệp của Bài Thương Khó Mt 26,14 – 27,66:
– Sứ điệp đầu tiên là chúng ta hãy đón nhận và tôn vinh Tình Yêu vô bờ bến của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa làm người, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Vì yêu thương và cứu độ loài người theo ý định của Chúa Cha, nên Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi cực hình trong tinh thần và thể xác.
– Sứ điệp thứ hai là chúng ta hãy suy gẫm và tìm hiểu tính bí nhiệm của chương trình hay kế hoạch của Thiên Chúa. Thiên Chúa toàn năng toàn trí có thể cứu chuộc loài người bằng trăm triệu cách mà lại chọn con đường Thập giá. Thiên Chúa cựchúaánh đã trở thành một kẻ tội phạm đáng khinh bỉ, bị phản bội, bị đầy đọa một cách bất công….
– Sứ điệp thứ ba là chúng ta hãy cảnh giác với sự tráo trở của lòng dạ con người nơi chính bản thân chúng ta. Chúa Giêsu đã là nạn nhân của sự nhát gan của các tông đồ và tổng trấn Philatô. Người cũng đã là nạn nhân của sự xảo trá, ghen tỵ nhỏ nhen của giới lãnh đạo tôn giáo. Người còn là nạn nhân của sự tàn ác, vũ phu của bọn lính và sự vô ơn của đám đông quần chúng, thì chúng ta đừng quá ngây thơ mà cho rằng không ai có thể phản bội chúng ta!
IV. PHẦN ĐÁP TRẢ CỦA CHÚNG TA
Đọc/Nghe bài Thương Khó của Tin Mừng Mátthêu (26,14 – 27,66) chúng ta không thể không đặt cho mình ba câu hỏi sau:
– Một là tôi có suy nghĩ và hành động giống Giuđa không? Có bao giờ tôi muốn Chúa Giêsu làm theo ý mình không? Có bao giờ tôi đã cam tâm bán rẻ Chúa Giêsu và Đạo Thánh của Người để lấy một chút vinh hoa, phú quí, quyền chức, tiền bạc hay thú vui không?
– Haì là tôi có suy nghĩ và hành động giống Phêrô không? Phêrô yêu Thày thật sự và với tất cả tâm hồn và bầu nhiệt huyết. Nhưng Phêrô ỷ vào sức riêng mình và sợ chết. Còn tôi, tôi có ỷ sức mình, có tự cao, tự đại, kiêu căng mà coi thường sự giòn mỏng của bản thân mình không? Tôi có sợ bị liên lụy với Chúa Giêsu không?
– Ba là tôi có suy nghĩ và hành động giống như các môn đệ khác của Chúa Giêsu không? Tôi có nhát đảm, có sợ bị thiệt thòi, sợ bị sa thải, sợ mất việc làm, sợ bị trù dập, sợ bị mang tiếng là người duy tâm lạc hậu khi người ta biết tôi là người Công giáo, là Kitô hữu không?
V. CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu là Ngôi Lời Nhập Thể, là Bánh Hằng Sống, là Hy Lễ dâng lên Chúa Cha vì tội lỗi thế gian và tội lỗi của con.
Xin ban cho con
ơn nhận biết và can đảm tuyên xưng Chúa là Ngôi Lời,
ơn biết rao giảng, loan truyền Chúa là Sự Thật,
ơn biết đi theo con đưòng của Chúa vì chỉ có Chúa là Đường,
ơn biết thắp lên Ánh Sáng Tin Mừng vì Chúa là Ánh Sáng,
ơn biết chết cho mình và sống cho Chúa vì Chúa là Sự Sống,
ơn biết yêu Chúa và yêu thương tha nhân vì Chúa là Tình Yêu,
ơn biết chia sẻ niềm vui với mọi người vì Chúa là Niềm Vui,
ơn biết tận hiến đời con cho Chúa vì Chúa là Của Lễ,
ơn biết trở nên khí cụ trao ban bình an của Chúa vì Chúa là Bình An,
ơn biết khao khát và ơn năng rước Thánh Thể vì Chúa là Bánh Hằng Sống.
(Phỏng theo tư tưởng của Thánh Têrêxa Calcutta).
Sàigòn ngày 29/03/2023
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.