Lời Chúa Mỗi Ngày : Thứ Sáu Tuần Thánh

Thứ Sáu Tuần Thánh
Bài đọc: Isa 52:13 – 53:12; Heb 4:14-16, 5:7-9; Jn 18-19.
1/ Bài đọc I: 13 Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. 14 Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, 15 cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.
1 Điều chúng ta đã nghe, ai mà tin được? Cánh tay uy quyền của Đức Chúa đã được tỏ cho ai? 2 Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn. Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. 3 Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới. 4 Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề. 5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. 6 Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. 7 Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. 8 Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt.
9 Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa. 10 Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. 11 Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. 12 Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.
2/ Bài đọc II: 14 Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
3/ Phúc Âm: 1 Sau khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kidron. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào.
2 Giuđa, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ.
3 Vậy, Giuđa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisees; họ mang theo đèn đuốc và khí giới.
4 Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: “Các anh tìm ai?”
5 Họ đáp: “Tìm Giêsu Nazareth.” Người nói: “Chính tôi đây.” Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói: “Chính tôi đây!” thì họ lùi lại và ngã xuống đất.
7 Người lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?” Họ đáp: “Tìm Giêsu Nazareth.”
8 Đức Giêsu nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” 9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
10 Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô.
11 Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”
12 Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến ông Hannah là nhạc phụ ông Caiaphas. Ông Caiaphas làm thượng tế năm đó. 14 Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.
15 Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16 Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào. 17 Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?” Ông liền đáp: “Đâu phải.”
18 Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. 19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người.
20 Đức Giêsu trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.”
22 Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?”
23 Đức Giê-su đáp: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”
24 Ông Hannah cho giải Người đến thượng tế Caiaphas, Người vẫn bị trói.
25 Còn ông Simon Phêrô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?” Ông liền chối: “Đâu phải.”
26 Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?”
27 Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
28 Vậy, người Do-thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caiaphas đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được.
29 Vì thế, tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: “Các người tố cáo ông này về tội gì?”
30 Họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.”
31 Ông Philatô bảo họ: “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” Người Do-thái đáp: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.”
32 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33 Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”
34 Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”
35 Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”
36 Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”
37 Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
38 Ông Philatô nói với Người: “Sự thật là gì?”
39 Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?”
40 Họ lại la lên rằng: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Barabba! ” Mà Barabba là một tên cướp.
1 Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người.
2 Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ.
3 Họ đến gần và nói: “Kính chào Vua dân Do-thái!” rồi vả vào mặt Người.
4 Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.”
5 Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: “Đây là Người!”
6 Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Philatô bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.”
7 Người Do-thái đáp lại: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
8 Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa.
9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: “Ông từ đâu đến?” Nhưng Đức Giêsu không trả lời.
10 Ông Philatô mới nói với Người: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”
11 Đức Giêsu đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
12 Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Caesar. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Caesar.”
13 Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Do-thái là Gabbatha.
14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa. Ông Philatô nói với người Do-thái: “Đây là vua các người!”
15 Họ liền hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá! “Ông Philatô nói với họ: “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?” Các thượng tế đáp: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar.”
16 Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
17 Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Do-thái là Golgotha; 18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa.
19 Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: “Giêsu Nazareth, Vua dân Do-thái.”
20 Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Do-thái, La-tinh và Hy-lạp.
21 Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết: “Vua dân Do-thái”, nhưng viết: “Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái”.”
22 Ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!”
23 Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.
25 Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cleopas, cùng với bà Maria Magdala.
26 Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. 28 Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!”
29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
30 Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày Sabbath, mà ngày Sabbath đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.
36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
38 Sau đó, ông Joseph, người Arimatha, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Joseph này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Joseph đến hạ thi hài Người xuống.
39 Ông Nicodemus cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.
41 Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Vinh quang tuyệt đỉnh qua đau khổ tột cùng
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tập trung trong những đau khổ của Đức Kitô và lý do tại sao Ngài phải chịu những đau khổ này.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói rõ lý do tại sao Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ: Ngài mang lấy thương tích của chúng ta. Ngài đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm. Ngài đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Trong Bài Đọc II, tác-giả Thư Do Thái chứng minh Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế tuyệt hảo, vì Ngài vừa biết những gì nơi Thiên Chúa, vừa biết những gì nơi con người; nên Ngài có thể cầu bầu với Thiên Chúa một cách hiệu quả cho con người. Hơn nữa, vì sự vâng phục Thiên Chúa và những đau khổ Chúa Giêsu chịu, Ngài đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Trong Phúc Âm, thánh-sử Gioan tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, từ khi Ngài bị phản bội bởi Judah cho tới khi ông Joseph Arithmatha và Nicodemus an táng Ngài trong huyệt mộ, Chúa Giêsu biết tất cả những đau khổ xảy đến cho Ngài, và Ngài luôn can đảm đối phó và chịu đựng.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung của Thiên Chúa
Trong Bài ca thứ tư, Thiên Chúa cho biết lý do tại sao Người Tôi Trung phải chịu đau khổ: (1) để gánh chịu hình phạt cho nhân lọai, và (2) để đạt được vinh quang tuyệt đỉnh.
1.1/ Người Tôi Trung được vinh quang tuyệt đỉnh qua đau khổ tột cùng: Tiên tri Isaiah muốn nhấn mạnh đến cách thức được vinh quang: “qua đau khổ tột cùng.” Cần chú ý đến 4 động từ dùng trong câu này: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ cư xử khôn ngoan (sakal), sẽ được vươn cao (rum), được tuyên dương (nasa), và được suy tôn đến tuyệt đỉnh (gabah meod). Vì Người Tôi Trung biết hành động khôn ngoan và hiệu quả, nên Người được vươn cao, được tuyên dương, và đạt tới vinh quang tuyệt đỉnh. Một người không thể đọc câu này mà không suy nghĩ đến (Phi 2:6-11, Acts 2:33, và Acts 3:13, 26). Tác giả Stier so sánh 3 giai đọan được nâng cao của Người với 3 giai đọan sống lại, lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa (Psa 110:1). Ai là Người Tôi Trung biết cư xử khôn ngoan để đạt được vinh quang tuyệt đỉnh như thế? Vua David? dân Israel? tiên tri? Chỉ có Đức Kitô mà thôi.
Đau khổ mà Người Tôi Trung phải chịu vượt quá đau khổ con người có thể tưởng tượng được: “bao kẻ đã sửng sốt khi thấy người tôi trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ con người nữa.” Điều này tác giả muốn nhấn mạnh đến hậu quả của hình phạt: Vì chịu quá nhiều đau khổ nơi thân xác, Người Tôi Trung không còn giữ được dáng vẻ con người nữa.
Có một sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản Do Thái trong câu 52:15: Nhóm PVCGK dịch theo Bản Bảy Mươi: “Nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ…” Theo Bản Do-thái: “Nó sẽ rẩy (yazah) trên các dân tộc …” E.J. Young cắt nghĩa: Động từ yazah là một động từ đặc biệt, dùng trong luật Moses cho việc rẩy dầu, nước, hay máu như một lễ nghi thanh tẩy bởi các tư tế (Lev 4:6, 8:11, 14:7a). Chúa Giêsu rẩy máu của người trên các dân tộc để thanh tẩy tội lỗi của họ như lời người Do-thái nói: “Máu của nó sẽ đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27:25).
1.2/ Phản ứng của con người khi nhìn thấy Người Tôi Trung.
(1) Phản ứng của các vua chúa: Khi được chứng kiến tòan bộ: vinh quang tuyệt đỉnh cũng như đau khổ tột cùng của Người Tôi Trung, “các vua chúa sẽ phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ.”
(2) Phản ứng của dân Chúa: “Ai mà tin được điều chúng ta đã tường thuật? Cánh tay uy quyền của Đức Chúa đã được mặc khải cho ai?” Vì điều Thiên Chúa làm quá cao siêu, vượt quá trí hiểu biết của con người; hậu quả là con người sẽ khó lòng tin được. Thánh Phaolô gọi Thập Giá là một điên rồ với người Hy-lạp, và sự sỉ nhục với người Do-thái. Họ không thể nào hiểu được một Thiên Chúa uy quyền muốn con mình chấp nhận điều đó. Nhưng Thiên Chúa uy quyền sẽ làm cho con người hiểu được Mầu Nhiệm Thập Giá và tin vào Đức Kitô, đó là Tin Mừng mà chúng ta rao giảng.
Tiên-tri tường thuật về cuộc đời của Người Tôi Trung với các động từ ở thời quá khứ tiên tri: “Người tôi trung đã lớn lên tựa chồi non trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn (Isa 11:1). Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích. Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới.”
1.3/ Lý do tại sao Người phải chịu đau khổ: Người Tôi Trung chịu đau khổ vì con người.
* Lý do đúng: “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.”
* Lý do sai: “Còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.”
“Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả. Nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người tội lỗi của tất cả chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa.”
1.4/ Những thắng lợi của Người Tôi Trung được hưởng.
(1) Ý muốn của Thiên Chúa được thực hiện: Người Tôi Trung là nhân vật chính trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, chính Ngài sẽ đưa kế hoạch này tới chỗ thành tựu và hòan hảo: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện.”
(2) Ức triệu sinh linh được cứu độ: Mục đích của Kế Hoạch Cứu Độ là giải thóat con người khỏi quyền lực của tội lỗi và mang lại ơn cứu độ cho muôn người: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi.”
2/ Bài đọc II: Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.
2.1/ Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội (Heb 4:14-16): “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
– Vai trò của vị Thượng Tế: mang những gì Thiên Chúa nói cho dân và hướng dẫn dân ra trước sự hiện diện của Ngài. Vị Thượng Tế hòan hảo là người vừa biết Thiên Chúa vừa biết dân. Vai trò này chỉ Chúa Giêsu mới có thể hòan thành.
(1) Chúa Giêsu biết Thiên Chúa: vì bản chất của Ngài là Thiên Chúa. Tác giả Thư Do-thái xác tín: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.”
(2) Chúa Giêsu biết con người: vì Ngài mang thân xác con người. Hơn nữa, “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.”
– Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng cám dỗ hơn ai hết: Lý do, chúng ta sa chước cám dỗ trước khi ma quỉ dùng hết thủ đoạn của nó; Chúa Giêsu biết, chịu, và thắng vượt tất cả thủ đoạn của ma quỉ. Ví dụ, khi gián điệp tra tấn, họ sẽ dùng các tra tấn từ nhẹ tới nặng. Tra tấn nặng nhất chỉ dành cho con người can đảm nhất. Một người yếu bóng vía sẽ không biết mọi thủ đọan tra tấn.
– Ngài muốn chịu khổ đau của con người: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta.” Người Hy-lạp và Do-thái không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa chịu đau khổ; họ không thể chấp nhận một Thiên Chúa chết treo trên Thập Giá. Đây là một ý tưởng hay quan niệm hoàn toàn mới. Họ tin một Thiên Chúa vô cảm (apatheia); vì một Thiên Chúa nhạy cảm sẽ thay đổi trước những đau khổ của con người; và nếu Thiên Chúa thay đổi, Ngài không còn là Thiên Chúa nữa. Người nào làm Thiên Chúa phải thay đổi, người đó sẽ lớn hơn Thiên Chúa. Họ không thể tưởng tượng một Thiên Chúa muốn liên quan với thế giới vật chất này.
– Ngài hiểu biết sự đau khổ con người phải trải qua: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Ngài có thể giúp đỡ con người cách hiệu quả: Vì đã trải qua tất cả, Ngài có kinh nghiệm tất cả. Vì thế, không ai có thể giúp con người hiệu quả hơn người đi trước đã có kinh nghiệm về điều đó.
2.2/ Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Heb 5:7-9). Tác giả Thư Do Thái tóm tắt công trình cứu độ của Đức Kitô như sau:
(1) Chúa Giêsu biết những gì sẽ xảy đến cho Ngài trong Cuộc Thương Khó: Ngài đã khóc trong vườn Ghetsemane vì sắp phải đương đầu với chúng. Trong giây phút sợ hãi, Ngài đã cầu nguyện để xin Thiên Chúa chọn cho Ngài một con đường khác, nếu có thể: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính.”
(2) Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha cho đết chết: Dẫu vậy, Ngài vẫn xin vâng theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Hậu quả của sự vâng phục là Ngài đã phải chết trên Thập Giá.
(3) Chúa Giêsu trở nên nguồn cứu độ: Vì sự vâng phục qua những đau khổ Ngài chịu, Chúa Giêsu đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó Chúa Giêsu theo thánh Gioan
3.1/ Judah bán Chúa Giêsu: “Sau khi nói những lời đó, Đức Giêsu đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối Kedron. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. Judah, kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. Vậy, Judah tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pharisees; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: “Các anh tìm ai?” Họ đáp: “Tìm Giêsu Nazareth.” Người nói: “Chính tôi đây.” Judah, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ. Khi Người vừa nói: “Chính tôi đây!” thì họ lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi một lần nữa: “Các anh tìm ai?” Họ đáp: “Tìm Giêsu Nazareth.””
– Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Đức Giêsu nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi.” Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.” Ông Simon Phêrô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế, mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Mankhô. Đức Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”
3.2/ Chúa Giêsu trước dinh Thượng Tế: “Bấy giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức Giêsu và trói Người lại. Trước tiên, họ điệu Đức Giêsu đến ông Hannah là nhạc phụ ông Caiaphas. Ông Caiaphas làm thượng tế năm đó. Chính ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì hơn.”
(1) Thẩm vấn Chúa Giêsu:
– Vị thượng tế tra hỏi Đức Giêsu về các môn đệ và giáo huấn của Người.
– Đức Giêsu trả lời: “Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.”
– Đức Giêsu vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào mặt Người mà nói: “Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?”
– Đức Giê-su đáp: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?”
Ông Hannah cho giải Người đến thượng tế Caiaphas, Người vẫn bị trói.
(2) Phêrô chối Chúa Giêsu 3 lần: “Ông Simon Phêrô và một môn đệ khác đi theo Đức Giêsu. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giêsu vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phêrô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phêrô vào.”
– Lần thứ nhất: Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phêrô: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?” Ông liền đáp: “Đâu phải.”
– Lần thứ hai: Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Người ta nói với ông: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?” Ông liền chối: “Đâu phải.”
– Lần thứ ba: Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phêrô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: “Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?” Một lần nữa ông Phêrô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
3.3/ Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vậy, người Do-thái điệu Đức Giêsu từ nhà ông Caiaphas đến dinh tổng trấn. Lúc đó trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được.
(1) Quan Philatô từ chối không xử Chúa Giêsu:
– Tổng trấn Philatô ra ngoài gặp họ và hỏi: “Các người tố cáo ông này về tội gì?”
– Họ đáp: “Nếu ông này không làm điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.”
– Ông Philatô bảo họ: “Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.”
– Người Do-thái đáp: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.”
Thế là ứng nghiệm lời Đức Giêsu đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
* Kiểu Do-thái: ném đá cho tới chết. Người Do-thái từ chối không xử tử Chúa Giêsu.
* Kiểu Rôma: đóng đinh vào thập giá. Chúa Giêsu bị xử tử theo kiểu Rôma.
(2) Quan Philatô thẩm vấn Chúa Giêsu:
– Ông Philatô trở vào dinh, cho gọi Đức Giêsu và nói với Người: “Ông có phải là vua dân Do-thái không?”
– Đức Giêsu đáp: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?”
– Ông Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?”
– Đức Giêsu trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”
– Ông Philatô liền hỏi: “Vậy ông là vua sao?”
– Đức Giê-su đáp: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.”
– Ông Philatô nói với Người: “Sự thật là gì?”
– Chúa Giêsu không trả lời. Một người không biết sự thật, làm sao có thể sống và làm chứng cho sự thật như tổng trấn Philatô?
(3) Philatô muốn tha Chúa Giêsu:
– Theo tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?
– Họ la lên rằng: “Đừng tha nó, nhưng xin tha Barabba!” Mà Barabba là một tên cướp.
(4) Philatô cho quân lính đánh đòn Chúa Giêsu: “Bấy giờ ông Philatô truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Người. Bọn lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ. Họ đến gần và nói: “Kính chào Vua dân Do-thái!” rồi vả vào mặt Người.”
(5) Philatô không tìm ra lý do để kết tội Chúa Giêsu:
– Ông Philatô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: “Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.” Vậy, Đức Giêsu bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình khoác áo choàng đỏ. Ông Philatô nói với họ: “Đây là Người!”
– Khi vừa thấy Đức Giêsu, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: “Đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá!”
– Ông Philatô bảo họ: “Các người cứ đem ông này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội ông ấy.”
– Người Do-thái đáp lại: “Chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.” Nghe lời đó, ông Philatô càng sợ hơn nữa.
(6) Philatô tìm cách tha Chúa Giêsu:
– Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giêsu: “Ông từ đâu đến?”
– Nhưng Đức Giêsu không trả lời.
– Ông Philatô nói với Người: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”
– Đức Giêsu đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
Từ đó, ông Philatô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: “Nếu ngài tha nó, ngài không phải là bạn của Caesar. Ai xưng mình là vua, thì chống lại Caesar.”
(7) Philatô trao Chúa Giêsu cho họ đóng đinh: Khi nghe thấy thế, ông Philatô truyền dẫn Đức Giêsu ra ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Do-thái là Gabbatha.
Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai giờ trưa.
– Ông Philatô nói với người Do-thái: “Đây là vua các người!”
– Họ liền hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!”
– Ông Philatô nói với họ: “Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?”
– Các thượng tế đáp: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar.”
Bấy giờ ông Philatô trao Đức Giêsu cho họ đóng đinh vào thập giá.
– Người Do-thái phạm thượng khi họ nói: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Caesar.” Họ chỉ có một vua là Thiên Chúa.
3.4/ Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào Thập Giá: Chính Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Do-thái là Golgotha; tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giêsu thì ở giữa.
(1) Người Do-thái xin sửa bảng viết: “Ông Philatô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: “Giêsu Nazareth, Vua dân Do-thái.” Trong dân Do-thái, có nhiều người đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giêsu bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành. Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Do-thái, La-tinh và Hy-lạp.”
– Các thượng tế của người Do-thái nói với ông Philatô: “Xin ngài đừng viết: “Vua dân Do-thái;” nhưng viết: “Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái.””
– Ông Philatô trả lời: “Ta viết sao, cứ để vậy!”
(2) Chia nhau áo của Chúa Giêsu: “Đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: “Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là những điều lính tráng đã làm.”
3.5/ Chúa Giêsu sinh thì trên Thập Giá: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cleopas, cùng với bà Maria Magdala.”
(1) Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho Gioan: Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
(2) Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: “Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.”
3.6/ Táng xác Chúa Giêsu:
(1) Chúa Giêsu bị đâm thâu: “Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày Sabbath, mà ngày Sabbath đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Philatô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập. Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.”
(2) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu: “Sau đó, ông Joseph, người Arithmatha, xin ông Philatô cho phép hạ thi hài Đức Giêsu xuống. Ông Joseph này là một môn đệ theo Đức Giêsu, nhưng cách kín đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Philatô chấp thuận. Vậy, ông Joseph đến hạ thi hài Người xuống. Ông Nicodemus cũng đến. Ông này trước kia đã tới gặp Đức Giêsu ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương. Các ông lãnh thi hài Đức Giêsu, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.
Nơi Đức Giêsu bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mỗi khi đọc lại Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, chúng ta phải nhận thức: lẽ ra chúng ta là người phải ngang qua những đau khổ này, chứ không phải là Con Thiên Chúa.
– Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục Thiên Chúa và tất cả các đau khổ là để cứu chuộc con người. Chúng ta đã làm gì để đáp lại tình thương của Thiên Chúa?
– Nếu Chúa Giêsu chấp nhận vâng phục và đau khổ để chứng tỏ tình thương cho Thiên Chúa và cho con người; chúng ta cũng phải làm tương tự để đền bù lại tình thương Thiên Chúa và mang sự sống cho tha nhân.

FRIDAY OF THE HOLY WEEK
Readings: Isa 52:13 – 53:12; Heb 4:14-16, 5:7-9; Jn 18-19.
1/ Reading I: NAB Isaiah 52:13 See, my servant shall prosper, he shall be raised high and greatly exalted. 14 Even as many were amazed at him– so marred was his look beyond that of man, and his appearance beyond that of mortals– 15 So shall he startle many nations, because of him kings shall stand speechless; for those who have not been told shall see, those who have not heard shall ponder it. 53:1 Who would believe what we have heard? To whom has the arm of the LORD been revealed? 2 He grew up like a sapling before him, like a shoot from the parched earth; there was in him no stately bearing to make us look at him, nor appearance that would attract us to him. 3 He was spurned and avoided by men, a man of suffering, accustomed to infirmity, one of those from whom men hide their faces, spurned, and we held him in no esteem. 4 Yet it was our infirmities that he bore, our sufferings that he endured, while we thought of him as stricken, as one smitten by God and afflicted. 5 But he was pierced for our offenses, crushed for our sins, upon him was the chastisement that makes us whole, by his stripes we were healed. 6 We had all gone astray like sheep, each following his own way; But the LORD laid upon him the guilt of us all. 7 Though he was harshly treated, he submitted and opened not his mouth; like a lamb led to the slaughter or a sheep before the shearers, he was silent and opened not his mouth. 8 Oppressed and condemned, he was taken away, and who would have thought any more of his destiny? When he was cut off from the land of the living, and smitten for the sin of his people, 9 A grave was assigned him among the wicked and a burial place with evildoers, though he had done no wrong nor spoken any falsehood. 10 (But the LORD was pleased to crush him in infirmity.) If he gives his life as an offering for sin, he shall see his descendants in a long life, and the will of the LORD shall be accomplished through him. 11 Because of his affliction he shall see the light in fullness of days; through his suffering, my servant shall justify many, and their guilt he shall bear. 12 Therefore I will give him his portion among the great, and he shall divide the spoils with the mighty, because he surrendered himself to death and was counted among the wicked; and he shall take away the sins of many, and win pardon for their offenses.
2/ Reading II: NAB Hebrews 4:14 Therefore, since we have a great high priest who has passed through the heavens, Jesus, the Son of God, let us hold fast to our confession. 15 For we do not have a high priest who is unable to sympathize with our weaknesses, but one who has similarly been tested in every way, yet without sin. 16 So let us confidently approach the throne of grace to receive mercy and to find grace for timely help. NAB Hebrews 5:7 In the days when he was in the flesh, he offered prayers and supplications with loud cries and tears to the one who was able to save him from death, and he was heard because of his reverence. 8 Son though he was, he learned obedience from what he suffered; 9 and when he was made perfect, he became the source of eternal salvation for all who obey him.
3/ Gospel: NAB John 18:1 When he had said this, Jesus went out with his disciples across the Kidron valley to where there was a garden, into which he and his disciples entered. 2 Judas his betrayer also knew the place, because Jesus had often met there with his disciples. 3 So Judas got a band of soldiers and guards from the chief priests and the Pharisees and went there with lanterns, torches, and weapons. 4 Jesus, knowing everything that was going to happen to him, went out and said to them, “Whom are you looking for?” 5 They answered him, “Jesus the Nazorean.” He said to them, “I AM.” Judas his betrayer was also with them. 6 When he said to them, “I AM,” they turned away and fell to the ground. 7 So he again asked them, “Whom are you looking for?” They said, “Jesus the Nazorean.” 8 Jesus answered, “I told you that I AM. So if you are looking for me, let these men go.” 9 This was to fulfill what he had said, “I have not lost any of those you gave me.” 10 Then Simon Peter, who had a sword, drew it, struck the high priest’s slave, and cut off his right ear. The slave’s name was Malchus. 11 Jesus said to Peter, “Put your sword into its scabbard. Shall I not drink the cup that the Father gave me?” 12 So the band of soldiers, the tribune, and the Jewish guards seized Jesus, bound him, 13 and brought him to Annas first. He was the father-in-law of Caiaphas, who was high priest that year. 14 It was Caiaphas who had counseled the Jews that it was better that one man should die rather than the people. 15 Simon Peter and another disciple followed Jesus. Now the other disciple was known to the high priest, and he entered the courtyard of the high priest with Jesus. 16 But Peter stood at the gate outside. So the other disciple, the acquaintance of the high priest, went out and spoke to the gatekeeper and brought Peter in. 17 Then the maid who was the gatekeeper said to Peter, “You are not one of this man’s disciples, are you?” He said, “I am not.” 18 Now the slaves and the guards were standing around a charcoal fire that they had made, because it was cold, and were warming themselves. Peter was also standing there keeping warm. 19 The high priest questioned Jesus about his disciples and about his doctrine. 20 Jesus answered him, “I have spoken publicly to the world. I have always taught in a synagogue or in the temple area where all the Jews gather, and in secret I have said nothing. 21 Why ask me? Ask those who heard me what I said to them. They know what I said.” 22 When he had said this, one of the temple guards standing there struck Jesus and said, “Is this the way you answer the high priest?” 23 Jesus answered him, “If I have spoken wrongly, testify to the wrong; but if I have spoken rightly, why do you strike me?” 24 Then Annas sent him bound to Caiaphas the high priest. 25 Now Simon Peter was standing there keeping warm. And they said to him, “You are not one of his disciples, are you?” He denied it and said, “I am not.” 26 One of the slaves of the high priest, a relative of the one whose ear Peter had cut off, said, “Didn’t I see you in the garden with him?” 27 Again Peter denied it. And immediately the cock crowed. 28 Then they brought Jesus from Caiaphas to the praetorium. It was morning. And they themselves did not enter the praetorium, in order not to be defiled so that they could eat the Passover. 29 So Pilate came out to them and said, “What charge do you bring (against) this man?” 30 They answered and said to him, “If he were not a criminal, we would not have handed him over to you.” 31 At this, Pilate said to them, “Take him yourselves, and judge him according to your law.” The Jews answered him, “We do not have the right to execute anyone,” 32 in order that the word of Jesus might be fulfilled that he said indicating the kind of death he would die. 33 So Pilate went back into the praetorium and summoned Jesus and said to him, “Are you the King of the Jews?” 34 Jesus answered, “Do you say this on your own or have others told you about me?” 35 Pilate answered, “I am not a Jew, am I? Your own nation and the chief priests handed you over to me. What have you done?” 36 Jesus answered, “My kingdom does not belong to this world. If my kingdom did belong to this world, my attendants (would) be fighting to keep me from being handed over to the Jews. But as it is, my kingdom is not here.” 37 So Pilate said to him, “Then you are a king?” Jesus answered, “You say I am a king. For this I was born and for this I came into the world, to testify to the truth. Everyone who belongs to the truth listens to my voice.” 38 Pilate said to him, “What is truth?” When he had said this, he again went out to the Jews and said to them, “I find no guilt in him. 39 But you have a custom that I release one prisoner to you at Passover. Do you want me to release to you the King of the Jews?” 40 They cried out again, “Not this one but Barabbas!” Now Barabbas was a revolutionary. 19:1 Then Pilate took Jesus and had him scourged. 2 And the soldiers wove a crown out of thorns and placed it on his head, and clothed him in a purple cloak, 3 and they came to him and said, “Hail, King of the Jews!” And they struck him repeatedly. 4 Once more Pilate went out and said to them, “Look, I am bringing him out to you, so that you may know that I find no guilt in him.” 5 So Jesus came out, wearing the crown of thorns and the purple cloak. And he said to them, “Behold, the man!” 6 When the chief priests and the guards saw him they cried out, “Crucify him, crucify him!” Pilate said to them, “Take him yourselves and crucify him. I find no guilt in him.” 7 The Jews answered, “We have a law, and according to that law he ought to die, because he made himself the Son of God.” 8 Now when Pilate heard this statement, he became even more afraid, 9 and went back into the praetorium and said to Jesus, “Where are you from?” Jesus did not answer him. 10 So Pilate said to him, “Do you not speak to me? Do you not know that I have power to release you and I have power to crucify you?” 11 Jesus answered (him), “You would have no power over me if it had not been given to you from above. For this reason the one who handed me over to you has the greater sin.” 12 Consequently, Pilate tried to release him; but the Jews cried out, “If you release him, you are not a Friend of Caesar. Everyone who makes himself a king opposes Caesar.” 13 When Pilate heard these words he brought Jesus out and seated him on the judge’s bench in the place called Stone Pavement, in Hebrew, Gabbatha. 14 It was preparation day for Passover, and it was about noon. And he said to the Jews, “Behold, your king!” 15 They cried out, “Take him away, take him away! Crucify him!” Pilate said to them, “Shall I crucify your king?” The chief priests answered, “We have no king but Caesar.” 16 Then he handed him over to them to be crucified. So they took Jesus, 17 and carrying the cross himself he went out to what is called the Place of the Skull, in Hebrew, Golgotha. 18 There they crucified him, and with him two others, one on either side, with Jesus in the middle. 19 Pilate also had an inscription written and put on the cross. It read, “Jesus the Nazorean, the King of the Jews.” 20 Now many of the Jews read this inscription, because the place where Jesus was crucified was near the city; and it was written in Hebrew, Latin, and Greek. 21 So the chief priests of the Jews said to Pilate, “Do not write ‘The King of the Jews,’ but that he said, ‘I am the King of the Jews.'” 22 Pilate answered, “What I have written, I have written.” 23 When the soldiers had crucified Jesus, they took his clothes and divided them into four shares, a share for each soldier. They also took his tunic, but the tunic was seamless, woven in one piece from the top down. 24 So they said to one another, “Let’s not tear it, but cast lots for it to see whose it will be,” in order that the passage of scripture might be fulfilled (that says): “They divided my garments among them, and for my vesture they cast lots.” This is what the soldiers did. 25 Standing by the cross of Jesus were his mother and his mother’s sister, Mary the wife of Clopas, and Mary of Magdala. 26 When Jesus saw his mother and the disciple there whom he loved, he said to his mother, “Woman, behold, your son.” 27 Then he said to the disciple, “Behold, your mother.” And from that hour the disciple took her into his home. 28 After this, aware that everything was now finished, in order that the scripture might be fulfilled, Jesus said, “I thirst.” 29 There was a vessel filled with common wine. So they put a sponge soaked in wine on a sprig of hyssop and put it up to his mouth. 30 When Jesus had taken the wine, he said, “It is finished.” And bowing his head, he handed over the spirit. 31 Now since it was preparation day, in order that the bodies might not remain on the cross on the sabbath, for the sabbath day of that week was a solemn one, the Jews asked Pilate that their legs be broken and they be taken down. 32 So the soldiers came and broke the legs of the first and then of the other one who was crucified with Jesus. 33 But when they came to Jesus and saw that he was already dead, they did not break his legs, 34 but one soldier thrust his lance into his side, and immediately blood and water flowed out. 35 An eyewitness has testified, and his testimony is true; he knows that he is speaking the truth, so that you also may (come to) believe. 36 For this happened so that the scripture passage might be fulfilled: “Not a bone of it will be broken.” 37 And again another passage says: “They will look upon him whom they have pierced.” 38 After this, Joseph of Arimathea, secretly a disciple of Jesus for fear of the Jews, asked Pilate if he could remove the body of Jesus. And Pilate permitted it. So he came and took his body. 39 Nicodemus, the one who had first come to him at night, also came bringing a mixture of myrrh and aloes weighing about one hundred pounds. 40 They took the body of Jesus and bound it with burial cloths along with the spices, according to the Jewish burial custom. 41 Now in the place where he had been crucified there was a garden, and in the garden a new tomb, in which no one had yet been buried. 42 So they laid Jesus there because of the Jewish preparation day; for the tomb was close by.
I. THEME: Christ reaches the highest glory by passing through the most painful suffering.
Today Liturgical of the Words center on Christ’s sufferings and the reasons why he wanted to go through these sufferings.
In the first reading, the prophet Isaiah clearly declared that the reason why God’s Suffering Servant endured sufferings is to bear our injuries. “It was our infirmities that he bore, our sufferings that he endured… He was pierced for our offenses, crushed for our sins, upon him was the chastisement that makes us whole, by his stripes we were healed.”
In the second reading, the author of the Letter to the Hebrews proved that Christ is the most excellent high priest because he knew both what are in God and what are in men, so that he could effectively intercede with God for human beings. Moreover, due to his obedience to God and his sufferings, he becomes the source of salvation to all.
In the Gospel, the evangelist of the Fourth Gospel reported Christ’s Passion, from the time he was betrayed by Judas Iscariot until Joseph Arithmatha and Nicodemus buried him on a tomb. Jesus knew in advance all sufferings shall happen to him, he courageously faced and endured them.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: The fourth song of God’s Suffering Servant
In the fourth and last song, God gave the reasons why His Suffering Servant must suffer; that are: first, to suffer all punishments for human beings; and secondly, to reach the highest glory.
1.1/ The Suffering Servant reached the highest glory by passing through the most painful suffering: The prophet Isaiah wanted to emphasize on the way the Suffering Servant reached the highest glory is through the most intensely painful sufferings.
We need to pay a special attention to the four verbs which the prophet used on the first verse: “See, my servant shall prosper, he shall be raised high and greatly exalted, even as many were amazed at him.” The NAB version didn’t either translate correctly the verse or used the MT version. According to the MT version, one can see the author’s intention in using of the four verbs: “See, My Suffering Servant shall act wisely (sakal), shall be raised high (rum), be praised (nasa), and be greatly exalted (gabah meod).” Since the Suffering Servant knew how to act wisely and effectively, he shall be raised, praised and greatly exalted. We can’t read this verse without thinking of these following passages: Phi 2:6-11; Acts 2:32-33 and Acts 3:13, 26). The author Stier compared three periods of “be raised high, be praised, and be greatly exalted” with three periods of resurrection, ascension and sitting at God’s right hand (Psa 110:1). Who is the Suffering Servant, knew how to act wisely to chieve the highest glory? Some said it was King David; others said it was the Israelites as the whole; some said it was Cyrus, the Persian king. The correct answer was none other than Jesus Christ.
The sufferings which the Suffering Servant must endure, were exceeding all sufferings which people can think of: “so marred was his look beyond that of man, and his appearance beyond that of mortals.” The author wanted to emphasize the result of punishments; the Suffering Servant endured so many wicked treatment that he no longer had an appearance of a human being.
There is a textual difference between LXX and MT versions in verse 52:15. The NAB followed the LXX version and translated it as: “So shall he startle many nations.” According to the MT, “So he shall sprinke (yazah) many nations.” E.J. Young in his commentary of Isaiah explained: The verb “sprinkle” (yazah) is a special verb, is used in Moses’ law for sprinkling oil, water or blood in purifing ceremonies by the priests (cf. Lev 4:6, 8:11, 14:7a). This verse might imply Jesus shall sprinkle his blood on many nations to purify their sins, as the Jews said to Pilate, “His blood be on us and on our children!” (Mt 27:25).
1.2/ Human reactions when they saw the Suffering Servant:
(1) Kings’ reactions: When they witnessed the whole thing, the highest glory and the intense painful sufferings of the Suffering Servant, “kings shall stand speechless; for those who have not been told shall see, those who have not heard shall ponder it.”
(2) People’s reactions: “Who would believe what we have heard? To whom has the arm of the Lord been revealed? Since what God has done through the Suffering Servant exceeded human understanding, so they couldn’t believe him. St. Paul called the cross is absurd to the Greek, and shameful to the Jews. They can’t understand why a powerful God wanted His Son to be incarnated in a human body and suffered! But the powerful God shall help people to understand the mystery of the cross and to believe in Christ. This is the content of the Good News.
The prophet Isaiah reported the Suffering Servant’s life with all the verbs at the past tense: “He grew up like a sapling before him, like a shoot from the parched earth; there was in him no stately bearing to make us look at him, nor appearance that would attract us to him. He was spurned and avoided by men, a man of suffering, accustomed to infirmity, one of those from whom men hide their faces, spurned, and we held him in no esteem.”
1.3/ The reason for his suffering: The Suffering Servant endured suffering for human beings.
* The correct reason: “Yet it was our infirmities that he bore, our sufferings that he endured.”
* The wrong reason: “While we thought of him as stricken, as one smitten by God and afflicted.”
The prophet explained more in details: “But he was pierced for our offenses, crushed for our sins, upon him was the chastisement that makes us whole, by his stripes we were healed. We had all gone astray like sheep, each following his own way; But the Lord laid upon him the guilt of us all. Though he was harshly treated, he submitted and opened not his mouth; like a lamb led to the slaughter or a sheep before the shearers, he was silent and opened not his mouth. Oppressed and condemned, he was taken away, and who would have thought any more of his destiny? When he was cut off from the land of the living, and smitten for the sin of his people, a grave was assigned him among the wicked and a burial place with evildoers, though he had done no wrong nor spoken any falsehood.”
1.4/ The victories of the Suffering Servant
(1) God’s will is achieved: The Suffering Servant is the main character in God’s plan of salvation. He shall bring God’s plan to fulfillment and perfection: “If he gives his life as an offering for sin, he shall see his descendants in a long life, and the will of the Lord shall be accomplished through him. Because of his affliction he shall see the light in fullness of days.”
(2) Many shall inherit salvation: The purpose of God’s plan of salvation is to liberate people from sins and to bring salvation to them. These shall be accomplished by the Suffering Servant: “Through his suffering, my servant shall justify many, and their guilt he shall bear. Therefore I will give him his portion among the great, and he shall divide the spoils with the mighty, because he surrendered himself to death and was counted among the wicked; and he shall take away the sins of many, and win pardon for their offenses.”
2/ Reading II: Christ learned obedience through his sufferings.
2.1/ Christ was tested in all aspects as us, but never committed a sin (Heb 4:14-16): The role of the high priest is to convey God’s message to people and to lead people before God’s presence. A perfect high priest must know both God and people. This role can be fulfilled only by Jesus, the High Priest.
(1) Christ knows God: because his first nature is God. The author of the Hebrews ascertained this faith: “we have a great high priest who has passed through the heavens, Jesus, the Son of God, let us hold fast to our confession.”
(2) Christ knows human beings: because he was incarnated in a human body. Moreover, “We do not have a high priest who is unable to sympathize with our weaknesses, but one who has similarly been tested in every way, yet without sin.”
Christ knew, endured and won over temptations more than all human beings. We felt into temptation before the devil use all of their wiched plans, while Christ knew, endured and won over all the devil’s wicked plans. An example will help us to understand this point. When a suspect is tortured, the secret agents shall use the method of torture from light to heavy. The heavy torture is only used for the most courage person. A normal person shall not know all the wicked tortures. Christ was the most courageous person and he knew all the devil’s wicked plans during his life on earth.
Christ wanted to endure all human sufferings: Both the Greeks and the Jews, even ourselves, couldn’t understand why God wanted to suffer. This is a completely new idea to them. The Greeks believed God is apathy (apatheia). If God is sensitive, he shall change before human sufferings; and if God changes, he is no longer a true God. The one who makes God to change, he shall be greater than God. They couldn’t understand a God who wants to have a relationship with this material world.
Christ understood all sufferings which human beings must go through. None can effectively help a person to solve his problem better than the one who had experience about that problem. Christ can effectively help people because he went through all sufferings and was victorious over all of them.
2.2/ Christ becomes the source of salvation to all who obeys him (Heb 5:7-9). The author of Hebrews briefly summarized Christ’s work of salvation as follows:
(1) Christ knew what shall happen to him in the Passion: According to the Synoptics, Jesus wept in the Ghetsemane garden because he must face his Passion and Death. During this moment, he prayed to the Father to choose for him another way, if it is possible. The author of Hebrews described this moment in other words: “In the days when he was in the flesh, he offered prayers and supplications with loud cries and tears to the one who was able to save him from death, and he was heard because of his reverence.”
(2) Jesus obeyed his Father even he must accept death: The author continued: “Son though he was, he learned obedience from what he suffered.”
(3) When he was made perfect, he became the source of eternal salvation for all who obey him.
3/ Gospel: The Passion of Jesus Christ according to St. John
We have four Passion accounts from the four evangelists; and no account is exactly the same with others. Is this meant Jesus’ Passion didn’t happen? None can conclude as such because all four evangelists reported many similar things besides their small differences. This can happen to any event if we have four reporters to report it, because each sees the event under different angle and reports it according to what information are avaiable to him; what he believes they are true; and his way to present the report.
In order to help the reader to recognize what are common to all four accounts, I outlined the main frame of Jesus’ Passion and Death which are:
(1) Judas’ betrayal and Jesus was arrested;
(2) Jesus before the high priest(s) and Peter’s denial;
(3) Jesus before Pilate;
(4) Jesus was scourged and crucified to the cross;
(5) Jesus was on the cross; and
(6) Jesus was buried.
On Holy Friday, we always read the Passion account according to St. John. We can outline John’s view of Jesus’ Passion as follows:
(1) Jesus knew everything which are going to happen to him, and he was willing to accept them. He was very confident of God’s plan; therefore, in John, there were: no agony on the Ghetsemane garden; no Simon Cyrene to help Jesus carrying the cross; no complaining to the Father on the cross.
(2) There are events which are particular to John: The leaders and soldiers felt to the ground when Jesus declared “I AM;” John paid a special attention to Pilate’s and a little attention to the high priest’s interrogations; Jesus protected and esteemed the truth during both the high priest’s and Pilate’s interrogations; the wonderful exchange between Mary and the beloved disciple at the foot of the cross.
(3) There was no Jesus’ institution of the Eucharist in Johannine Passion. This institution was replaced by Jesus’ discourse on the Eucharist (chapter 6) and Jesus’ washing of the apostles’ feet (chapter 13).
3.1/ Judas’ betrayal: “Jesus went out with his disciples across the Kidron valley to where there was a garden, into which he and his disciples entered. Judas his betrayer also knew the place, because Jesus had often met there with his disciples. So Judas got a band of soldiers and guards from the chief priests and the Pharisees and went there with lanterns, torches, and weapons.”
(1) Jesus confidently handled his arrest: “Jesus, knowing everything that was going to happen to him, went out and said to them, “Whom are you looking for?” They answered him, “Jesus the Nazorean.” He said to them, “I AM.” Judas his betrayer was also with them. When he said to them, “I AM,” they turned away and fell to the ground. So he again asked them, “Whom are you looking for?” They said, “Jesus the Nazorean.”” The title “I AM” was John’s favotite title; there are seven times Jesus used this titles with the object, such as: the bread of life, the Good Shepherd; the way, the truth and the light, etc.
(2) Jesus protected his apostles: “Jesus answered, “I told you that I AM. So if you are looking for me, let these men go.” This was to fulfill what he had said, “I have not lost any of those you gave me.””
(3) Peter protected Jesus: “Then Simon Peter, who had a sword, drew it, struck the high priest’s slave, and cut off his right ear. The slave’s name was Malchus.”
(4) Jesus said to Peter, “Put your sword into its scabbard. Shall I not drink the cup that the Father gave me?”
3.2/ Jesus went before the high priests: “So the band of soldiers, the tribune, and the Jewish guards seized Jesus, bound him, and brought him to Annas first. He was the father-in-law of Caiaphas, who was high priest that year. It was Caiaphas who had counseled the Jews that it was better that one man should die rather than the people.”
(1) The high priest Hannah questioned Jesus: “The high priest questioned Jesus about his disciples and about his doctrine. Jesus answered him, “I have spoken publicly to the world. I have always taught in a synagogue or in the temple area where all the Jews gather, and in secret I have said nothing. Why ask me? Ask those who heard me what I said to them. They know what I said.””
(2) Jesus stood for the truth: “When he had said this, one of the temple guards standing there struck Jesus and said, “Is this the way you answer the high priest?” Jesus answered him, “If I have spoken wrongly, testify to the wrong; but if I have spoken rightly, why do you strike me?” Then Annas sent him bound to Caiaphas the high priest.”
(3) Peter denied Jesus three times: “Simon Peter and another disciple followed Jesus. Now the other disciple was known to the high priest, and he entered the courtyard of the high priest with Jesus. But Peter stood at the gate outside. So the other disciple, the acquaintance of the high priest, went out and spoke to the gatekeeper and brought Peter in.”
In John, Peter’s trial happened at the same time with Jesus’ trial; while Jesus was questioned by the high priest inside, Peter was questioned by the his household members outside.
– The first time: “Then the maid who was the gatekeeper said to Peter, “You are not one of this man’s disciples, are you?” He said, “I am not.””
– The second time: “Now the slaves and the guards were standing around a charcoal fire that they had made, because it was cold, and were warming themselves. Peter was also standing there keeping warm. And they said to him, “You are not one of his disciples, are you?” He denied it and said, “I am not.””
– The third time: “One of the slaves of the high priest, a relative of the one whose ear Peter had cut off, said, “Didn’t I see you in the garden with him?” Again Peter denied it. And immediately the cock crowed.”
3.3/ Jesus went before Pilate, the Roman Prefect of Judah: “Then they brought Jesus from Caiaphas to the praetorium. It was morning. And they themselves did not enter the praetorium, in order not to be defiled so that they could eat the Passover.”
(1) Pilate denied to judge Jesus: “So Pilate came out to them and said, “What charge do you bring (against) this man?” They answered and said to him, “If he were not a criminal, we would not have handed him over to you.” At this, Pilate said to them, “Take him yourselves, and judge him according to your law.” The Jews answered him, “We do not have the right to execute anyone,” in order that the word of Jesus might be fulfilled that he said indicating the kind of death he would die.”
The Sandherin had power only on religious matters and no right to execute anyone. In the Synoptic accounts, they condemned Jesus of blasphemy because Jesus declared that “he is the son of God.” They knew that Pilate shall not persecute Jesus because of his blasphemy; therefore they must find a political cause, that is: “Jesus called himself the king.” Anyone who proclaimed himself a king, he was against emperor Caesar. If Jesus were died according to Jewish way, he shall be stoned to death because of blasphemy. If Jesus was condemned to die by the Roman Prefect, he shall be crucified on the cross.
(2) Pilate interrogated Jesus: So Pilate went back into the praetorium and summoned Jesus and said to him,
– “Are you the King of the Jews?”
– Jesus answered, “Do you say this on your own or have others told you about me?”
– Pilate answered, “I am not a Jew, am I? Your own nation and the chief priests handed you over to me. What have you done?”
– Jesus answered, “My kingdom does not belong to this world. If my kingdom did belong to this world, my attendants (would) be fighting to keep me from being handed over to the Jews. But as it is, my kingdom is not here.”
– So Pilate said to him, “Then you are a king?” Jesus answered, “You say I am a king. For this I was born and for this I came into the world, to testify to the truth. Everyone who belongs to the truth listens to my voice.”
– Pilate said to him, “What is truth?”
Jesus stopped because Pilate had no concept of the truth. Such person can’t live and witness for the truth. Jesus accepted that he is the king; but not a political or worldly king like Caesar.
(3) Pilate wanted to set Jesus free. “When he had said this, he again went out to the Jews and said to them, “I find no guilt in him. But you have a custom that I release one prisoner to you at Passover. Do you want me to release to you the King of the Jews?” They cried out again, “Not this one but Barabbas!” Now Barabbas was a revolutionary.”
The Jews treated Jesus less than a criminal when they chose to set free Barabbas!
(4) Pilate let his soldiers mock and scourge Jesus: “Then Pilate took Jesus and had him scourged. And the soldiers wove a crown out of thorns and placed it on his head, and clothed him in a purple cloak, and they came to him and said, “Hail, King of the Jews!” And they struck him repeatedly.”
(5) “Once more Pilate went out and said to them, “Look, I am bringing him out to you, so that you may know that I find no guilt in him.” So Jesus came out, wearing the crown of thorns and the purple cloak. And he said to them,
– “Behold, the man!”
– When the chief priests and the guards saw him they cried out, “Crucify him, crucify him!”
– Pilate said to them, “Take him yourselves and crucify him. I find no guilt in him.”
– The Jews answered, “We have a law, and according to that law he ought to die, because he made himself the Son of God.”
– Now when Pilate heard this statement, he became even more afraid.
(6) Pilate tried to find a way to release Jesus.
– Pilate went back into the praetorium and said to Jesus, “Where are you from?” Jesus did not answer him. So Pilate said to him, “Do you not speak to me? Do you not know that I have power to release you and I have power to crucify you?”
– Jesus answered, “You would have no power over me if it had not been given to you from above. For this reason the one who handed me over to you has the greater sin.”
Consequently, Pilate tried to release him; but the Jews cried out, “If you release him, you are not a Friend of Caesar. Everyone who makes himself a king opposes Caesar.”
(7) Pilate gave Jesus for them to be crucified. When Pilate heard these words he brought Jesus out and seated him on the judge’s bench in the place called Stone Pavement, in Hebrew, Gabbatha. It was preparation day for Passover, and it was about noon. And he said to the Jews, “Behold, your king!” They cried out, “Take him away, take him away! Crucify him!” Pilate said to them, “Shall I crucify your king?” The chief priests answered, “We have no king but Caesar.” Then he handed him over to them to be crucified.
The Jews committed blasphemy when they said, “We have no king but Caesar.” They believed that they have only one king, that is God.
3.4/ Jesus is crucified to the cross: “So they took Jesus, and carrying the cross himself he went out to what is called the Place of the Skull, in Hebrew, Golgotha. There they crucified him, and with him two others, one on either side, with Jesus in the middle.”
(1) The Jews made a petition to change the sign on Jesus’ head: “Pilate also had an inscription written and put on the cross. It read, “Jesus the Nazorean, the King of the Jews.” Now many of the Jews read this inscription, because the place where Jesus was crucified was near the city; and it was written in Hebrew, Latin, and Greek. So the chief priests of the Jews said to Pilate, “Do not write ‘The King of the Jews,’ but that he said, ‘I am the King of the Jews.'” Pilate answered, “What I have written, I have written.””
This is the truth. Pilate unintentionally declared the truth and the Jews must accept it, though unwillingly.
(2) The soldiers divided Jesus’ garments: “When the soldiers had crucified Jesus, they took his clothes and divided them into four shares, a share for each soldier. They also took his tunic, but the tunic was seamless, woven in one piece from the top down. So they said to one another, “Let’s not tear it, but cast lots for it to see whose it will be,” in order that the passage of scripture might be fulfilled (that says): “They divided my garments among them, and for my vesture they cast lots.” This is what the soldiers did.”
3.5/ Jesus died on the cross: “Standing by the cross of Jesus were his mother and his mother’s sister, Mary the wife of Clopas, and Mary of Magdala.”
(1) The wonderful exchange at the foot of the cross: “When Jesus saw his mother and the disciple there whom he loved, he said to his mother, “Woman, behold, your son.” Then he said to the disciple, “Behold, your mother.” And from that hour the disciple took her into his home.”
(2) Jesus’ last words: After this, aware that everything was now finished, in order that the scripture might be fulfilled, Jesus said, “I thirst.” There was a vessel filled with common wine. So they put a sponge soaked in wine on a sprig of hyssop and put it up to his mouth. When Jesus had taken the wine, he said, “It is finished.” And bowing his head, he handed over the spirit.
Jesus is thirsty of people’s love, not of water. When Jesus said “It is finished,” he knew that he has completed his mission on earth and brought God’s will to perfection. St. John carefully used the words, “And bowing his head, he handed over the spirit.” Jesus fulfilled his promise to the apostles that he shall pray to the Father to send them the Spirit to be with them all the days of their life (cf. Jn 14:17, 26, 15:26). He officially sent the Spirit to them at the Pentecost.
3.6/ Jesus was buried: “Now since it was preparation day, in order that the bodies might not remain on the cross on the sabbath, for the sabbath day of that week was a solemn one, the Jews asked Pilate that their legs be broken and they be taken down. So the soldiers came and broke the legs of the first and then of the other one who was crucified with Jesus.”
(1) Jesus was pierced on the side: “But when they came to Jesus and saw that he was already dead, they did not break his legs, but one soldier thrust his lance into his side, and immediately blood and water flowed out. An eyewitness has testified, and his testimony is true; he knows that he is speaking the truth, so that you also may (come to) believe. For this happened so that the scripture passage might be fulfilled: “Not a bone of it will be broken.” And again another passage says: “They will look upon him whom they have pierced.”
This event is also peculiar to the Fourth Gospel. Water and blood are two symbols for sacraments of Baptism and Eucharist in John.
(2) Jesus’ burial: There were two peoples that buried Jesus in the Fourth Gospel. St. John briefly gave the backgrounds of these two:
– Joseph of Arimathea: “secretly a disciple of Jesus for fear of the Jews, asked Pilate if he could remove the body of Jesus. And Pilate permitted it. So he came and took his body.”
– Nicodemus: “the one who had first come to him at night, also came bringing a mixture of myrrh and aloes weighing about one hundred pounds.” Nicodemus was mentioned three times in the Fourth Gospel (cf. Jn 3:1-9, 7:50, 19:39).
“They took the body of Jesus and bound it with burial cloths along with the spices, according to the Jewish burial custom. Now in the place where he had been crucified there was a garden, and in the garden a new tomb, in which no one had yet been buried. So they laid Jesus there because of the Jewish preparation day; for the tomb was close by.”
III. APPLICATION IN LIFE:
– Every time we read the Passion of Christ, we should realize that we are the ones who must go through these sufferings, not Jesus Christ, the Son of God.
– Christ obeyed God and accepted all sufferings to redeem us; what should we do to return God’s love for us?
– If Jesus accepted obedience and sufferings to show his love for the Father and us, we must also do the same to return God’s love and to bring God’s salvation to all.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP