Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
1/ Bài đọc I: 5 Ai là kẻ thắng được thế gian,
nếu không phải là người tin rằng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa?
6 Chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;
không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu.
Chính Thần Khí là chứng nhân, và Thần Khí là sự thật.
7 Có ba chứng nhân: 8 Thần Khí, nước và máu.
Cả ba cùng làm chứng một điều.
9 Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm,
thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn,
vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10 Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình.
Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối,
vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
11 Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời,
và sự sống ấy ở trong Con của Người.
12 Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
13 Tôi đã viết những điều đó cho anh em là những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
2/ Phúc Âm: 12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
13 Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh.
14 Rồi Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”
15 Tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh.
16 Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Để có thể tin một điều là sự thật, con người cần: chính mắt nhìn thấy, hay cảm thấy hậu quả của nó, hay dựa vào lời của các nhân chứng. Nhiều người nghĩ rằng chỉ khi nào họ thấy tận mắt, họ mới tin; như Tông-đồ Thomas khi được các Tông-đồ thuật lại việc Chúa hiện ra. Chúa Giêsu nói với Thomas: thấy và tin là chuyện thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Đàng khác, có những cái dù không thấy, nhưng phải tin vì hậu quả của nó: gió, điện, sự sống. Đa số những trường hợp chúng ta tin là qua các nhân chứng; nhất là sau khi được phối kiểm bởi 2 hoặc 3 nhân chứng có thế giá.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào việc con người phải tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa qua các bằng chứng. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan đưa ra 3 nhân chứng cho Đức Kitô: Thánh Thần, nước, và máu. Nếu ai, sau khi đã được làm chứng, mà vẫn không chịu tin Đức Kitô, người ấy biến Thiên Chúa thành kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu, sau khi chữa người phong cùi, sai anh đi trình diện các tư tế và dâng của lễ đền tội, để làm chứng mình đã hòan tòan sạch. Điều này cũng là bằng chứng Đức Kitô đã chữa lành cho anh, vì Ngài có sức mạnh của Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần, nước, và máu; cả ba cùng làm chứng một điều.
1.1/ Ba chứng nhân của Đức Kitô: “Chính Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu; không phải chỉ trong nước mà thôi, nhưng trong nước và trong máu. Chính Thánh Thần là chứng nhân, và Thánh Thần là sự thật. Có ba chứng nhân: Thánh Thần, nước và máu. Cả ba cùng làm chứng một điều.” Để hiểu đọan văn này, chúng ta cần đọc lại Phúc Âm Gioan, và hòan cảnh lịch sử thời đại của Ngài. Đọan văn trong Phúc Âm nói về “nước và máu” như sau: “Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, “máu cùng nước” chảy ra. Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Jn 19:34-35). Nước và Máu là 2 biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Nước khi Ngài chịu Phép Rửa bởi Gioan trong giòng sông Jordan. Máu khi Ngài chịu chết trên Đồi Golgotha.
Sở dĩ Gioan nhấn mạnh đến “nước và máu” là vì có bè rối “Thuần Tri Thức.” Cerinthus, người đại diện cho bè rối này, tin Chúa Kitô đến bằng “nước,” khi Ngài chịu Phép Rửa. Thánh Thần hiện xuống và ở lại trong Đức Kitô, và làm cho Ngài trở thành Con Thiên Chúa. Họ không chấp nhận “máu,” vì họ không tin Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Họ giải thích: trên Đồi Golgotha, Thánh Thần xuất khỏi Đức Kitô và về trời. Có người còn cho người chịu đóng đinh là ông Simon, chứ không phải là Đức Kitô. Thánh Gioan muốn chống lại bè rối này bằng cách nhấn mạnh đến cả 3 nhân chứng đều cần thiết để tin vào Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến để chuộc tội cho nhân lọai.
(1) Thánh Thần: hiện xuống và xức dầu cho Đức Kitô khi Ngài chịu Phép Rửa (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). Phép Rửa này hòan tòan khác với Phép Rửa của Gioan (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). Thánh Thần hiện xuống với các Tông-đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần (Acts 2:4), và trong đời sống của Giáo-Hội (Acts 8:17, 10:14).
(2) Nước: Tại biến cố Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho Đức Kitô: “Tôi đã thấy Thánh Thần tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thánh Thần xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Jn 1:32-34).
(3) Máu: Theo truyền thống Do-Thái, máu súc vật phải đổ ra để làm lễ hy sinh đền tội cho con người. Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đến xóa tội trần gian bằng lễ tế hy sinh của Ngài trên Thập Giá. Ngài thiết lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly, và Giáo Hội chúng ta hằng ngày cử hành Thánh Lễ để liên tục tái diễn Hy Lễ của Đức Kitô trên Thập Giá để xóa tội cho con người.
1.2/ Chúng ta phải tin lời của các chứng nhân: Đức Kitô đến từ Thiên Chúa.
(1) Lời chứng của Thiên Chúa cao trọng hơn lời chứng của người phàm: Luật dạy khi có 2 hoặc 3 nhân chứng, lời chứng đó là sự thật. Đức Kitô có rất nhiều nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, các phép lạ Ngài làm, Kinh Thánh, các Tông-đồ …, nhưng lời chứng của Chúa Cha qua tiếng vọng từ trời “Đây là Con Ta yêu dấu,” và lời chứng của Thánh Thần qua hình ảnh chim bồ câu đậu lại trên Đức Kitô, là những lời chứng có thế giá hơn cả. Con người phải nhận những lời chứng này và tin vào Đức Kitô; vì “Ai không tin Đức Kitô, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.”
(2) Tin vào Đức Kitô mới có sự sống đời đời: “Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.”
2/ Phúc Âm: Làm chứng cho người ta biết mình đã được sạch.
2.1/ Chúa Giêsu chữa người phong cùi được sạch:
(1) Thái độ của người phong cùi: Trước hết, thái độ khiêm nhường của anh được biểu tỏ bằng cách anh sấp mặt trước mặt Ngài. Thứ đến, sự tin tưởng của anh nơi Chúa Giêsu được bày tỏ trong câu xin “Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Sau cùng, lời cầu xin của anh rất đẹp lòng Thiên Chúa: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Nếu Thiên Chúa muốn, chứ không phải chỉ riêng con người muốn mà thôi; vì có rất nhiều điều con người muốn, nhưng không đẹp lòng Thiên Chúa.
(2) Thái độ yêu thương trìu mến của Đức Kitô: Chúng ta biết luật lệ của Do-Thái rất nghiêm nhặt với người cùi: họ phải ở trong trại xa cách với mọi người, và phải tránh tiếp xúc với mọi người bằng cách la to câu “Không sạch! Không sạch!” mỗi khi có người đi ngang qua, để họ khỏi trở nên không sạch. Nhưng Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh.
2.2/ Hai điều Chúa truyền cho người được chữa lành:
(1) Đừng nói với ai: Chúa làm phép lạ vì lòng thương dân, và để họ tin vào Ngài để được sự sống đời đời, chứ không phải để nổi tiếng. Đó là lý do tại sao Ngài ngăn cản anh “Đừng nói với ai!” Nhưng tiếng đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để được chữa bệnh. Phần Chúa Giêsu, Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
(2) Để làm chứng cho người ta biết, hãy đi trình diện với các tư tế và hãy dâng của lễ như Luật dạy. Để chứng tỏ mình đã khỏi bệnh, người phong cùi phải đi trình diện các tư tế để chịu khám xét. Nếu quả thực đã lành, các tư tế sẽ chứng nhận cho về sống với mọi người. Ngòai ra, người đó còn phải dâng của lễ như được mô tả chi tiết trong (Lev 14).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta tin Đức Kitô đến từ Thiên Chúa, không phải chúng ta đã thấy Ngài, nhưng dựa vào lời của nhiều nhân chứng.
– Hai nhân chứng có thế giá nhất là Kinh Thánh chúng ta đọc từ bên ngòai và Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta từ bên trong. Ngòai ra, còn có nhiều các chứng nhân khác nữa như: lời chứng của các Tông-đồ, gương chứng nhân của các thánh Tử-đạo, đời sống tốt lành của các thánh và của những người sống chung quanh chúng ta.
– Sau khi đã tin Đức Kitô, chúng ta cũng phải làm chứng cho Ngài bằng việc rao giảng và cuộc sống chứng nhân, để người khác cũng nhận ra và tin vào Đức Kitô.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP
Friday after Epiphany
Viết bởi Lan Hương
Readings: I Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
1/ First Reading: NAB 1 John 5:5 Who (indeed) is the victor over the world but the one who believes that Jesus is the Son of God? 6 This is the one who came through water and blood, Jesus Christ, not by water alone, but by water and blood. The Spirit is the one that testifies, and the Spirit is truth. 7 So there are three that testify, 8 the Spirit, the water, and the blood, and the three are of one accord. 9 If we accept human testimony, the testimony of God is surely greater. Now the testimony of God is this, that he has testified on behalf of his Son. 10 Whoever believes in the Son of God has this testimony within himself. Whoever does not believe God has made him a liar by not believing the testimony God has given about his Son. 11 And this is the testimony: God gave us eternal life, and this life is in his Son. 12 Whoever possesses the Son has life; whoever does not possess the Son of God does not have life. 13 I write these things to you so that you may know that you have eternal life, you who believe in the name of the Son of God.
2/ Gospel: NAB Luke 5:12 Now there was a man full of leprosy in one of the towns where he was; and when he saw Jesus, he fell prostrate, pleaded with him, and said, “Lord, if you wish, you can make me clean.” 13 Jesus stretched out his hand, touched him, and said, “I do will it. Be made clean.” And the leprosy left him immediately. 14 Then he ordered him not to tell anyone, but “Go, show yourself to the priest and offer for your cleansing what Moses prescribed; that will be proof for them.” 15 The report about him spread all the more, and great crowds assembled to listen to him and to be cured of their ailments, 16 but he would withdraw to deserted places to pray.
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Tien M. Dinh, O.P.
I. THEME: To be a witness for Christ.
In order to believe one thing is true, people need to: either see with their eyes, or to feel its effect, or to have witnesses. Many people say that they only believe when they see with their eyes, as St. Thomas, the apostle, when the other apostles told him of Jesus’ appearance to them. In the next appearance, Jesus said to Thomas that to believe when seeing is normal; but blessed are those who believe without seeing. Moreover, there are something people must believe though they don’t see, but can feel of their effects, such as: wind, electricity and life. Lastly, in most of cases, people believe through witnesses; especially after it is proved by two or three witnesses.
Today readings center on the theme: people must believe that Christ comes from God through witnesses. In the first reading, St. John listed out three witnesses for Christ which are the Spirit, water and blood. Whoever doesn’t believe in Christ, after has been witnessed, that one makes God a liar. In the Gospel, Jesus, after healing a leprosy, sent him to present himself to the priest and to offer a sacrifice, to prove that he is completely clean. This healing miracle is also a proof that Christ had healed him because he has God’s power.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: The Spirit, water and blood, all three witness one thing.
1.1/ Three of Christ’s witnesses: St. John said, “This is the one who came through water and blood, Jesus Christ, not by water alone, but by water and blood. The Spirit is the one that testifies, and the Spirit is truth.So there are three that testify,the Spirit, the water, and the blood, and the three are of one accord.”
To understand this passage, we need to read Johannine gospel to understand the historical background behind Jesus’ life. The passage in his gospel talked about water and blood as follows: “but one soldier thrust his lance into his side, and immediately blood and water flowed out. An eyewitness has testified, and his testimony is true; he knows that he is speaking the truth, so that you also may (come to) believe” (Jn 19:34-35). Water and blood are two important events in Jesus’ life. Water was used when he was baptized by John Baptist in Jordan river. Blood was poured out when he died on Golgotha Mt.
The reason why John emphasized on “water and blood” is because of the Gnostic heresy. Cerinthus, the represetative of this heresy believes that Jesus came in water but not blood. He believes that when Jesus was baptized, the Holy Spirit descended upon him and made him as the son of God. He doesn’t believe Jesus, as the son of God, died on the cross because God can’t suffer. He explained the Golgotha scene as follows: The Spirit went out of Christ and came up to heaven, the spirit of Simon Cyrene took the place of Christ and was nailed to the cross. St. John wanted to oppose this heresy by emphasizing that all three witnesses are necessary for one to believe in Christ who was sent by God to redeem people, especially by blood.
(1) The Holy Spirit: descended and anointed Christ when he was baptized by John Baptist (Mk 1:9-11, Mt 3:16-17, Lk 3:21, Jn 1:32-34, Acts 10:38). This baptism is completely different with John Baptist’s baptism (Mk 1:8, Mt 3:11, Lk 3:16, Acts 1:5, 2:33). The Holy Spirit also descended to the apostles on the Pentecost (Acts 2:4), and is still active in the Church (Acts 8:17, 10:14).
(2) Water: At Jesus’ baptism, John Baptist bears witness for him, saying: “I saw the Spirit come down like a dove from the sky and remain upon him. I did not know him, but the one who sent me to baptize with water told me, ‘On whomever you see the Spirit come down and remain, he is the one who will baptize with the Holy Spirit.’ Now I have seen and testified that he is the Son of God” (Jn 1:32-34).
(3) Blood: In the Old Testament, the blood of animal must be poured out to redeem people’s sins. In the New Testament, Christ is the Lamb of God who takes away people’s sins by his death on the cross. He instituted the sacrament of the Holy Eucharist in the Last Supper, and the Church celebrates the Mass daily to continuously repeat Christ’s sacrifice on the cross to take away people’s sins.
1.2/ We must believe in Christ’s witnesses that he came from God.
(1) God’s witness is more important than human witnesses: The Law teaches that when there are two or three witnesses, their witness is true. Christ has many witnesses; for examples, John Baptist, the miracles that he did, the apostles, etc., but God’s witnesses are more important than human witnesses. There are at least two witnesses from God in Jesus’ baptism: the Father’s witness through the voice from heaven, saying: “This is my beloved son. Listen to him;” and the Holy Spirit’s witness through the image of a dove who descended and remained in him. People must believe these witnesses and believe in Christ, because “Whoever does not believe God has made him a liar by not believing the testimony God has given about his Son.”
(2) Must believe in Christ to have the eternal life: St. John said, “And this is the testimony: God gave us eternal life, and this life is in his Son.Whoever possesses the Son has life; whoever does not possess the Son of God does not have life.”
2/ Gospel: Show yourself to the priests to verify that you are clean.
2.1/ Jesus healed a man from leprosy:
(1) The leprosy’s proper attitude: First of all, he is a humble man and this was expressed by the fact that he fell prostrate before Jesus. Secondly, his trust in Jesus is expressed by his pleading, “Lord, if you wish, you can make me clean.” Lastly, his pleading pleased Jesus because he chose to follow Jesus’ will, not his own will; because there are many things which people want aren’t please God.
(2) Christ’s loving attitude: The Jewish law is very strict for the leprosies, they must live in camps, separated from people, and must avoid all contacts with people by shouting out: “Unclean! Unclean” when they see anyone coming close to them. But Jesus wasn’t fearful of becoming unclean, he stretched his arm to touch him and saying, “I do will it. Be made clean.” And the leprosy left him immediately.
2.2/ Jesus commanded him to do two things:
(1) Don’t tell anyone: Jesus did the healing out of his love for people so that they might believe in him and have eternal life, not to become famous. This is the reason why he ordered him not to tell anyone.
(2) “Go, show yourself to the priest and offer for your cleansing what Moses prescribed; that will be proof for them.” To certify that he is clean, he must present himself to the priest so that if the priest finds him clean, he shall issue a certification and the man can live with people. Moreover, he also has to offer a sacrifice as described in Leviticus 14.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We believe Christ came from God, not because we saw him, but because of his many witnesses. Our two most important witnesses are Scripture which wrote about God and the Spirit which enlighten us from inside.
– After believed in Christ, we must also witness for him by preaching the Gospel and living a worthy life so that others may recognize and believe in him.