Thứ Hai, Tuần V TN
Bài đọc: Gen 1:1-19; I Kgs 8:1-7, 9-13; Mk 6:53-56.
1/ Bài đọc I (năm lẻ): 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
3 Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. 4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày,” bóng tối là “đêm.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
6 Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy.
8 Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
9 Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy.
10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất,” khối nước tụ lại là “biển.” Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
11 Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. 12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
14 Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): 1 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa lên, từ Thành vua Đa-vít tức là Xi-on.
2 Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức là tháng thứ bảy để mừng Lễ. 3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia,
4 và đưa Hòm Bia của Đức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên.
5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể, không sao đếm nổi. 6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung Đơ-via của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim. 7 Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng. 9 Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp, khi Đức Chúa lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
10 Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.
11 Các tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây: quả thật, vinh quang Đức Chúa đã tràn ngập Đền Thờ Đức Chúa. 12 Bấy giờ vua Sa-lô-môn nói: “Đức Chúa đã phán: Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng, 13 Con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời.”
3/ Phúc Âm: 53 Khi qua biển rồi, Đức Giê-su và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghen-nê-xa-rét và lên bờ. 54 Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giê-su.
55 Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó.
56 Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải biết ơn tác giả của sự sống.
Trong thế giới con người, chúng ta thường thấy có 2 hạng người tiêu biểu: một hạng người chịu để tâm nghiên cứu để tìm ra sự thật, nguồn gốc, và căn nguyên mọi loài như: “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa trong vũ trụ.” Hay “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa nơi phòng thí nghiệm.” Ngược lại, có những người lười biếng, không chịu học hỏi lịch sử, và truy tầm nguồn gốc và căn nguyên của mọi loài; lại còn có thái độ tự tôn, kiêu ngạo, và nghĩ mình có thể làm mọi sự; chẳng hạn lời tuyên bố của triết gia hiện sinh F. Nietzsche “Tôi đã giết chết Thiên Chúa!” hay lời phê phán của K. Marx, ông tổ cộng sản, về niềm tin vào Thiên Chúa: “Tôn giáo là thuốc phiện mê ngủ con người.”
Nếu con người chịu khó học hỏi lịch sử và tìm về nguồn cội, con người sẽ khám phá ra trái đất con người đang sống chỉ là một hành tinh nhỏ và mỏng giòn của vũ trụ, chứ không phải là trung tâm điểm hay cái rốn của vũ trụ như nhiều người lầm tưởng. Trái đất tự nó không thể sống một mình, nhưng tùy thuộc vào các hành tinh chung quanh; nhất là 2 hành tinh lớn mặt trời và mặt trăng. Nhận ra thân phận yếu đuối của mình sẽ giúp con người khiêm nhường hơn, biết ơn, và trông cậy vào sự khôn ngoan, uy quyền, và sức mạnh của Đấng Sáng Tạo.
Hai Bài Đọc hôm nay nói lên sự tương phản giữa Đấng Sáng Tạo uy quyền và con người yếu đuối bệnh tật. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Sách Sáng Thế Ký, dù không có một dụng cụ nghiên cứu thiên văn nào, cả hàng mấy ngàn năm trước đây, đã biết dùng trí óc lý luận của mình, nhận ra uy quyền sáng tạo của Thiên Chúa trong vũ trụ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon khánh thành Đền Thờ và cho rước Hòm Bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Thiên Chúa cho vua và dân chúng biết sự hiện diện của Ngài với dân bằng đám mây dày đặc.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa, tác giả của sự sống, cũng là người chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Điều kiện để được chữa bệnh: con người phải nhận ra tình trạng bệnh tật của mình và đến với Thiên Chúa để được chữa lành.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa tạo dựng trời đất.
Điều đầu tiên chúng ta cần chú ý khi đọc trình thuật tạo dựng: Đây không phải là thứ tự những gì Thiên Chúa làm; nhưng là một tường thuật về công cuộc tạo dựng theo con mắt đức tin, dưới sự linh hứng của Thánh Thần. Tác-giả quan tâm tới ai là người sáng tạo, chứ không quan tâm đến cách thức chi tiết phải làm sao. Tác giả quan tâm đến sự thật đặt căn bản trên những sự kiện lịch sử, chứ không tới thứ tự lịch sử của những biến cố. Tác giả quan tâm đến sự cứu độ hơn là thần học về việc tạo dựng. Tác giả tường thuật công trình sáng tạo theo sự hiểu biết và suy tư của con người thời đó, khi chưa có những kiến thức khoa học về sự vận chuyển trong trời đất.
1.1/ Ngày thứ nhất, Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối: Ngay từ khởi thủy, chỉ có một Thiên Chúa; khác hẳn với những tôn giáo đa thần. Ánh sáng và bóng tối là do Thiên Chúa tạo dựng, cả hai đều ở dưới uy quyền của Thiên Chúa, chứ không là 2 thần khác nhau. Uy quyền của Thiên Chúa trên ánh sáng và bóng tối được diễn tả bằng việc Chúa muốn và phán và sự vật liền có, và Chúa gọi là sự vật liền được gọi. Theo tâm thức của người Do-thái xưa, người được đặt tên là người có toàn quyền trên sự việc. Theo sự suy luận của tác giả, ánh sáng phải có trước khi làm các việc khác, nên Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng trước khi tạo dựng các sự vật khác.
1.2/ Ngày thứ hai, Thiên Chúa tạo dựng bầu trời: Theo sự mô tả của tác-giả ở trên, toàn thể địa cầu bao bọc bởi nước; do đó, địa cầu cần được phân chia ranh giới hẳn hoi. Để làm điều này, Thiên Chúa chế tạo một cái vòm, và bầu trời giống như hình một cái phễu lớn giổng ngược để phân rẽ nước phía trên và nước phía dưới. Chỗ nước chảy xuống được khóa lại và mở ra khi muốn làm mưa.
1.3/ Ngày thứ ba, Thiên Chúa phân tách đất liền ra khỏi biển và tạo dựng cây cỏ: Sau khi đã phân cách nước phía trên, Thiên Chúa phân cách nước phía dưới khi Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất,” khối nước tụ lại là “biển.” Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Chỗ nào có đất là có cây cỏ mọc. Theo sự suy nghĩ của tác gỉa, đến lúc Thiên Chúa tạo dựng chúng nên Ngài phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Điều cần chú ý là tiềm năng sự sống và sự tái tạo đã có trong các hạt giống khi Thiên Chúa tạo dựng; và không bao giờ cạn. Bao lâu còn đất, các hạt giống sẽ sinh hoa trái cho con người hưởng dùng.
1.4/ Ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo dựng các hành tinh: mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao.
Có lẽ tác giả phân biệt 2 thứ ánh sáng: ánh sáng của ngày thứ nhất là để nhìn, và ánh sáng đến từ mặt trời. Có lẽ tác giả chưa đủ kiến thức để biết ánh sáng ban ngày đến từ mặt trời. Thiên Chúa nghĩ: Để phân biệt ngày với đêm, cần có 2 nguồn sáng khác nhau, nên Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.
2.1/ Ngày khánh thành Đền Thờ của Thiên Chúa: Ước ao có được một Đền Thờ để Hòm Bia Thiên Chúa được đặt vào có từ thời vua David; nhưng Thiên Chúa không muốn David xây dựng Đền Thờ cho Ngài, vì tay David đã vấy máu Uriah, người vô tội. Ngài dành đặc quyền này cho vua Solomon, con của David. Tuy không được xây dựng Đền Thờ của Thiên Chúa, David cũng chuẩn bị nhiều thứ vật liệu để Solomon có thể hoàn thành dự án đó.
Hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ, vua Solomon triệu tập bên mình, tại Jerusalem, các kỳ mục Israel, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Israel, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa lên, từ Thành vua David tức là Sion. Tất cả các kỳ mục Israel đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia, và đưa Hòm Bia của Đức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung điện bên trong của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Cherubim. Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Moses đã đặt vào đó, trên núi Horeb, khi Đức Chúa lập Giao Ước với con cái Israel vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
2.2/ Thiên Chúa hiện diện trong Đền Thờ: Mục đích của việc xây dựng Đền Thờ không phải cho Thiên Chúa, nhưng là cho lợi ích của con người. Thiên Chúa hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, vì tất cả là của Ngài. Con người cần có một nơi để họ biết chắc chắn Thiên Chúa đang ở giữa họ, để họ có thể đến cầu nguyện và cảm thấy được Thiên Chúa bảo vệ.
Trình thuật hôm nay xác nhận sự kiện Thiên Chúa ở giữa dân, vì “khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.” Cột mây là dấu chứng sự hiện diện của Thiên Chúa với con cái Israel kể từ khi họ xuất hành ra khỏi Ai-cập và lang thang suốt 40 năm trong sa mạc. Kể từ nay, vua Solomon và dân chúng có thể lui tới Đền Thờ để gặp gỡ Thiên Chúa và làm các việc thờ phượng.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa lành con người.
3.1/ Bệnh tật đe dọa sự sống con người: Tuy Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành; nhưng những điều dữ luôn đe dọa con người, một trong những điều dữ này là các bệnh tật. Bệnh tật có nhiều nguyên do, một trong những nguyên do chính là sự ô nhiễm môi trường và tính vô trách nhiệm của con người.
2.2/ Con người nhận ra tác giả của sự sống: Trình thuật kể: “Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.” Hai điều kiện để được chữa lành bệnh: (1) Nhận ra mình mắc bệnh, và (2) Chạy đến với Chúa Giêsu, tác giả của sự sống, để được chữa lành.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Mọi vật hiện hữu là do Thiên Chúa tạo dựng. Tuy trình thuật của Sách Sáng Thế Ký không mô tả chi tiết và lý do, nhưng đó là sự thật về nguồn gốc và căn nguyên của sự vật.
– Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Ngài tạo dựng mọi sự: nước, đất, ánh sáng, hạt giống … để bảo vệ sự sống của muôn loài. Không phải ngẫu nhiên có sự sống như nhiều người lầm tưởng.
– Thiên Chúa không chỉ tạo dựng, rồi để mặc cho các tạo vật muốn ra sao thì ra như một số người lầm tưởng; nhưng Ngài luôn quan phòng điều khiển mọi sự sao cho hòa hợp và phát triển. Ngài luôn hiện diện giữa con người để dạy dỗ, chữa lành, và bảo vệ.
– Quan sát thiên nhiên và đọc trình thuật tạo dựng giúp con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật.
MONDAY OF THE 5 OT2
Readings: I Kgs 8:1-7, 9-13; Mk 6:53-56.
1/ First Reading: RSV 1 Kings 8:1 Then Solomon assembled the elders of Israel and all the heads of the tribes, the leaders of the fathers’ houses of the people of Israel, before King Solomon in Jerusalem, to bring up the ark of the covenant of the LORD out of the city of David, which is Zion. 2 And all the men of Israel assembled to King Solomon at the feast in the month Ethanim, which is the seventh month. 3 And all the elders of Israel came, and the priests took up the ark. 4 And they brought up the ark of the LORD, the tent of meeting, and all the holy vessels that were in the tent; the priests and the Levites brought them up. 5 And King Solomon and all the congregation of Israel, who had assembled before him, were with him before the ark, sacrificing so many sheep and oxen that they could not be counted or numbered. 6 Then the priests brought the ark of the covenant of the LORD to its place, in the inner sanctuary of the house, in the most holy place, underneath the wings of the cherubim. 7 For the cherubim spread out their wings over the place of the ark, so that the cherubim made a covering above the ark and its poles. 9 There was nothing in the ark except the two tables of stone which Moses put there at Horeb, where the LORD made a covenant with the people of Israel, when they came out of the land of Egypt. 10 And when the priests came out of the holy place, a cloud filled the house of the LORD, 11 so that the priests could not stand to minister because of the cloud; for the glory of the LORD filled the house of the LORD. 12 Then Solomon said, “The LORD has set the sun in the heavens, but has said that he would dwell in thick darkness. 13 I have built thee an exalted house, a place for thee to dwell in for ever.”
2/ Gospel: RSV Mark 6:53 And when they had crossed over, they came to land at Gennesaret, and moored to the shore. 54 And when they got out of the boat, immediately the people recognized him, 55 and ran about the whole neighborhood and began to bring sick people on their pallets to any place where they heard he was. 56 And wherever he came, in villages, cities, or country, they laid the sick in the market places, and besought him that they might touch even the fringe of his garment; and as many as touched it were made well.
________________________________________
I. THEME: Human beings must give thanks to the author of life.
In human world, we used to see two typical kinds of people. One kind spends time to learn and to find out the truth, the origin and the cause of things, as one of scientist confessed: “I had found God in the world.” Another said: “I had found God in the laboratory.” These people didn’t see God because He is invisible but they saw His effects in the world. In opposition, other kind is lazy, they don’t spend time to learn history of the world and humankind or to find out the origin or the cause of things; they also let their pride take over so that they proclaimed some very arrogant statements. For examples, F. Nietzsche, an existentialist, declared: “I had killed God.” Another, K. Mark, the originator of Communism, derided religions: “Religion is the opium of the people.”
If people are humble and eager to learn about history of the world and of humankind, they shall know the earth is just one small and fragile of many planets, not the center of the universe as many thought. The earth can’t support itself but relies on other planets, especially two planets: the sun and the moon. When people recognize their weakness and fragility, they shall be more humble, in gratitude, and relied on the Creator’s wisdom, power and strength.
Today readings help us to recognize the contrast between the powerful Creator and human weakness. In the first reading, king Solomon dedicated the Jerusalem Temple and carried the Ark to the most sacred place of the Temple. He knew God’s presence is the reason for the survival of his nation. God let people know His presence by columns of thick cloud that covered up the Temple. In the Gospel, Jesus, the author of life, healed all sickness and returned healthy life to people. Two conditions which people needed to be healed are to recognize their sickness and to come to Jesus.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: “I have built thee an exalted house, a place for thee to dwell in for ever.”
1.1/ The dedication of the Jerusalem Temple: The desire to have a temple for the Ark of God began with David; but God didn’t want David to build up for Him a temple because his hands became impure with Uriah’s innocent blood. God had this priviledge preserved for Solomon, David’s son. Though he wasn’t permitted to build a temple, David prepared many building materials so his son could carry out this project.
Today passage reported the day of which the First Jerusalem Temple was dedicated. King Solomon assembled the elders of Israel and all the heads of the tribes, the leaders of the fathers’ houses of the people of Israel, before him in Jerusalem, to bring up the ark of the covenant of the Lord out of the city of David, which is Zion.
All the men of Israel assembled to King Solomon at the feast in the month Ethanim, which is the seventh month. All the elders of Israel came, and the priests took up the ark. The priests and the Levites brought up the Ark of the Lord, the tent of meeting, and all the holy vessels that were in the tent. Then, King Solomon and all the congregation of Israel, who had assembled before him, were with him before the ark, sacrificing so many sheep and oxen that they could not be counted or numbered. Then, the priests brought the ark of the covenant of the Lord to its place, in the inner sanctuary of the house, in the most holy place, underneath the wings of the cherubim. There was nothing in the ark except the two tablets of stone which Moses put there at Horeb, where the Lord made a covenant with the people of Israel, when they came out of the land of Egypt.
1.2/ God presented in the Jerusalem Temple: The purpose of building up the temple isn’t for God’s sake because all the universe can’t contain him; but it is for human sake. People need a physical place so they can be sure that God is dwelling among them and they can come to worship Him, to offer sacrifices for the forgiveness of sins, and be protected by Him.
Today passage verified God’s presence among His people because when the priests came out of the holy place, “a cloud filled the house of the Lord, so that the priests could not stand to minister because of the cloud; for the glory of the Lord filled the God’s house. Then Solomon said, “The Lord has set the sun in the heavens, but has said that he would dwell in thick darkness. I have built thee an exalted house, a place for thee to dwell in for ever.”
The columns of cloud was the sign of God’s presence when the Israelites wandered in the desert for 40 years. Everytime they saw the column of clouds, they know God’s presence with them. The dedication of the temple marked the official ending of the wandering time. From now, God settled in the Temple, instead of the Tabernacle; and His people can come to the Temple to worship Him.
2/ Gospel: Jesus healed all human sickness.
2.1/ Sickness threatens human life: Though God created everything good, but evil always threaten human life; one of common evils is sickness. There are many causes of sickness; two of main causes are the pollution and human irresponsibility. To avoid sickness, people need to be educated so they can protect the surrounding environment and their own life.
2.2/ People recognized the author of life: Mark reported: “And when they had crossed over, they came to land at Gennesaret, and moored to the shore. And when they got out of the boat, immediately the people recognized him, and ran about the whole neighborhood and began to bring sick people on their pallets to any place where they heard he was. And wherever he came, in villages, cities, or country, they laid the sick in the market places, and besought him that they might touch even the fringe of his garment; and as many as touched it, were made well.”
How many people were healed by Jesus? We don’t know because the author didn’t give us a consice number; but it must be many according to Mark. People were healed by just touching the fringe of Jesus’ garment, because he had power to heal all sickness. Two conditions people must meet to be healed: first, they must recognize of their sickness; and second, they must come to Jesus, or to be carried out near to him.
III. APPLICATION IN LIFE:
– We must confess that God is the author of life. He created all things, such as: water, land, light, seeds… to protect life of all creation. It is not accident as many thought.
– God not only created and let creation to live by itselves, but He also controls and provided necessary things for all creation to develop and to come to their fulfillment. He always presents among people to educate, to heal and to protect them.
– By keenly observing nature and carefully reading Scripture, we can recognize God’s presence among His creation and increase our trust in Him.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP