Lời Chúa Mỗi Ngày : Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Phục Sinh

Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Phục Sinh
Bài đọc: Gen 1:1-2:2; Exo 14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk 16:1-8.
1/ Bài đọc I: Gen 1:1-2:2 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
3 Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng.
4 Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối.
5 Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
6 Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.”
7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
9 Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy.
10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
11 Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy.
12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
14 Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm.
15 Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy.
16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao.
17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất,
18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
20 Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.”
21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.”
23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
24 Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy.
25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26 Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.”
29 Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.”
31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
2/ Bài đọc II: Exo 14:15-15:1 15 Đức Chúa phán với ông Moses: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. 16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Israel đi vào. 17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharao cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pharao cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy.”
19 Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được.
21 Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel.
24 Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng.
25 Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: “Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.”
26 Đức Chúa phán với ông Moses: “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.”
27 Ông Moses giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển.
28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharao đã theo dân Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30 Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển.
31 Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người.
1 Bấy giờ ông Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.
3/ Bài đọc III: Isa 54:5-14 5 Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Israel,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.
6 Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn.
“Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành?” Thiên Chúa ngươi phán như vậy.
7 Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi,
nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
8 Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.
9 Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó, Ta đã thề rằng hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,
cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu.
10 Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi,
giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy. 11 Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi, không người ủi an!
Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc,
12 lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc, các cửa thành ngươi, bằng pha lê,
tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.
13 Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng thái bình.
14 Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính; ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.
4/ Bài đọc IV: Isa 55:1-11 1 Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.
2 Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. 3 Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với Đavít.
4 Này, Ta đã đặt Đavít làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh chỉ huy các nước.
5 Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.
6 Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
7 Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương – về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.
8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của Đức Chúa.
9 Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
10 Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
11 thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
5/ Bài đọc V: Eze 36:16-28 16 Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: 17 Hỡi con người, con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt.
18 Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng.
19 Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử.
20 Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng: “Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.”
21 Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. 22 Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.
23 Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng – khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.
24 Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. 25 Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần.
26 Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.
27 Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.
28 Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.
6/ Bài đọc VI: Rom 6:3-11 3 Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao?
4 Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
5 Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.
6 Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa.
7 Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi. 8 Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta.
9 Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người.
10 Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.
7/ Phúc Âm: Mk 16:1-8 1 Vừa hết ngày Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu.
2 Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3 Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?”
4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.
6 Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!
7 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.”
8 Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa
Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa duy nhất trong vũ trụ này. Sự kiện Ngài cho Con của Ngài, Đức Giêsu Kitô, từ cõi chết sống lại một lần nữa chứng tỏ điều này. Nhìn lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy Ngài là Đấng dựng nên vũ trụ và điều khiển muôn loài. Ngài đã chọn Israel như dân riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời. Ngài trung thành trong những gì Ngài đã hứa với con người cho dù con người đã phản bội Ngài. Ngài luôn tìm cách để cứu độ con người qua biến cố Xuất Hành, qua việc giải phóng và cho dân hồi hương từ các nơi lưu đày. Nhưng sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử cứu độ là gởi Đấng Thiên Sai tới mang lấy thân xác con người để chuộc tội cho mọi người. Đấng Thiên Sai đã trải qua cuộc khổ nạn và sống lại vinh quang là trọng tâm của Mầu Nhiệm Phục Sinh chúng ta cử hành đêm nay.
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn các tín hữu nhìn lại lịch sử Cứu Độ của Thiên Chúa, bắt đầu với việc tạo dựng vũ trụ và con người, và kết thúc bằng biến cố Phục Sinh của Đức Kitô. Nơi nào hòan cảnh cho phép, Giáo Hội khuyến khích đọc cả 7 bài; nơi nào hòan cảnh không cho phép, phải đọc đọc 3 bài: Biến cố Xuất Hành, ý nghĩa của Bí-tích Rửa Tội trong Thư Rôma, và Biến cố Phục Sinh theo Marcô. Thông thường, các giáo xứ đọc 5 bài: trình thuật tạo dựng trong Sáng Thế Ký, trình thuật tái tạo một quả tim mới và thần khí mới của tiên tri Ezekiel, và 3 bài phải đọc. Hai bài từ Sách Isaiah về sự trung thành yêu thương của Thiên Chúa, và những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới, cho những nơi có hòan cảnh đọc cả 7 bài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sáng tạo trời đất và mọi lòai trong đó.
Trình thuật tạo dựng này rất quan trọng cho những ai đang muốn tước quyền sống của thai nhi, người già cả, và các bệnh nhân phải chịu bệnh lâu ngày. Con người không có quyền trên sự sống, họ được trao quyền để bảo vệ sự sống mà thôi. Lương thực Thiên Chúa dựng nên không bao giờ cạn, vì các hạt giống đều có tiềm năng sinh nhiều hạt giống khác, chim trời không ngừng đẻ trứng, cá biển mang những buồng trứng khổng lồ, súc vật cũng có khả năng sinh sôi nẩy nở vô số. Vì thế, Thiên Chúa cũng truyền cho con người phải sinh sản cho đầy mặt đất. Con người không được nhân danh thiếu đồ ăn để tước đi quyền sống của bất cứ ai.
(1) Ngày thứ nhất, Thiên Chúa dựng nên ánh sáng và bóng tối: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày,” bóng tối là “đêm.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
(2) Ngày thứ hai, Thiên Chúa dựng nên trời: “Thiên Chúa phán: “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.”
(3) Ngày thứ ba, Thiên Chúa dựng nên đất và các lòai thảo mộc: “Thiên Chúa phán: “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất,” khối nước tụ lại là “biển.” Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.”
(4) Ngày thứ tư, Thiên Chúa dựng nên mặt trời, mặt trăng, và các tinh thể trên vòm trời: “Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.”
(5) Ngày thứ năm, Thiên Chúa dựng nên chim trời, cá biển: “Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.”
(6) Ngày thứ sáu, Thiên Chúa dựng nên thú vật và con người.
– Tạo dựng thú vật: “Thiên Chúa phán: “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
– Tạo dựng con người: Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” Thiên Chúa phán: “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.” Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
(7) Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi: “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.”
2/ Bài đọc II: Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập.
Cuộc xuất hành của Israel ra khỏi Ai-cập: Sau khi ông Giuse qua đời, vị vua mới, Pharaoh, lên ngôi. Ông không còn nhớ gì tới công ơn của Giuse; nhưng hành hạ người Do-thái sống trên đất Ai-cập, bắt họ sống kiếp nô lệ cho người Ai-cập. Dân chúng kêu cầu lên Thiên Chúa, và Ngài đã chọn ông Moses và Aaron để cứu dân thóat khỏi tay người Ai-cập.
(1) Kế họach cứu độ dân được mặc khải cho ông Moses: “Đức Chúa phán với ông Moses: “Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Israel đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pharaoh cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pharaoh cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy.”
(2) Dân Israel đi qua Biển Đỏ ráo chân: Để thóat khỏi đất Ai-cập, dân chúng phải vượt Biển Đỏ. Làm sao dân chúng có thể vượt biển mà không có thuyền bè, nhất là cho một đám đông dân Do-thái như vậy? Thiên Chúa làm rẽ nước biển làm hai, dựng đứng như hai bức tường thành để dân Ngài đi qua: “Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Israel, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Israel. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Moses giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, và con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu.”
(3) Chúa tiêu hủy toàn bộ quân đội của Pharaoh trong Biển Đỏ: Thấy dân Do-thái đi qua Biển Đỏ. “Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pharao tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Israel. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: “Ta phải trốn bọn Israel, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.””
Đức Chúa phán với ông Moses: “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.” Ông Moses giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pharaoh đã theo dân Israel đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.”
(4) Dân Israel nhận ra quyền lực của Thiên Chúa và tin vào Ngài: “Con cái Israel đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Israel khỏi tay quân Ai-cập. Israel thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. Israel thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Moses, tôi trung của Người. Bấy giờ ông Moses cùng với con cái Israel hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng: “Tôi xin hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng: Kỵ binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.””
3/ Bài đọc III: Thiên Chúa trung thành yêu thương dân Ngài đến muôn đời.
3.1/ Tình nghĩa chồng vợ giữa Thiên Chúa và Israel:
– Thiên Chúa được ví như người chồng: “Quả thế, Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt chính là Đấng đã tác thành ngươi, tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh; Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Israel, tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.”
– Israel được ví như người vợ bất trung: “Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về, như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn. “Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành?” Thiên Chúa ngươi phán như vậy. Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi, nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp. Lúc lửa giận bừng bừng, Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót, Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.”
3.2/ Tình yêu Thiên Chúa với Israel sẽ bền vững muôn đời.
– Chúa đánh phạt rồi Ngài lại xót thương: “Ta cũng sẽ làm như thời Noah: lúc đó, Ta đã thề rằng hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt đất nữa, cũng vậy, nay Ta thề sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu. Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay, Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.”
– Ngài sẽ cho dân về để tái thiết thành Jerusalem: “Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi, không người ủi an! Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm, nền móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc, lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc, các cửa thành ngươi, bằng pha lê, tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.”
– Ngài sẽ bảo vệ con cái của Israel: “Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ, chúng sẽ được vui hưởng thái bình. Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính; ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi, sẽ thoát khỏi kinh hoàng, vì kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.”
4/ Bài đọc IV: Những gì sẽ xảy ra khi triều đại của Đấng Thiên Sai tới.
4.1/ Lời tiên đóan về Bí-tích Thánh Thể: “Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào. Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống, tốn công vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng? Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị. Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.”
4.2/ Lời tiên đóan về giao ước mới: Giòng dõi David sẽ làm vua cai trị dân Người.
(1) Giao ước mới và vĩnh cửu: “Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu, để trọn bề nhân nghĩa với David. Này, Ta đã đặt David làm nhân chứng cho các dân, làm thủ lãnh chỉ huy các nước. Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết; một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, vì Đức Thánh của Israel đã làm cho ngươi được vinh hiển.”
– Người sẽ là Vua của các dân tộc, chứ không phải chỉ là Vua của Israel mà thôi.
(2) Kêu gọi dân trở về với Thiên Chúa: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với Đức Chúa – và Người sẽ xót thương – về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.”
4.3/ Sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người:
(1) Về tư tưởng và đường lối họat động: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.”
(2) Hiệu quả của Lời Chúa: “Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
5/ Bài đọc V: Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi.
5.1/ Israel đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng: Tiên tri Ezekiel và dân tộc Israel phải sống trong các nơi lưu đày vì tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Sống trong nơi lưu đày, Thiên Chúa kêu gọi họ hãy bỏ đàng tội lỗi và quay về với Lề Luật của Thiên Chúa; nhưng họ đã không nghe: cuộc sống của họ nơi đất khách quê người càng làm ô danh Thiên Chúa và làm cho đất đai, nơi họ đang sinh sống, ra ô uế.
Tiên tri Ezekiel tường thuật những gì Thiên Chúa phán với ngài: “Có lời Đức Chúa phán với tôi rằng: Hỡi con người, con cái nhà Israel đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử. Chúng đã làm cho Danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng: “Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.” Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Israel xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến.”
5.2/ Vì Danh Thánh, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy dân Ngài: “Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Israel: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Israel, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến.
Ta sẽ biểu dương Danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng – khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng.” Ba điều Thiên Chúa sẽ làm cho Israel:
(1) Cho dân Israel hồi hương: “Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi.”
(2) Thanh tẩy dân chúng: “Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành.”
(3) Ngài sẽ nối lại mối liên hệ với Israel: “Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.”
6/ Bài đọc VI: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người.
6.1/ Ý nghĩa của Bí tích Rửa Tội: Thánh Phaolô nhấn mạnh đến hai chiều kích của Bí-tích:
(1) Chiều đi xuống là dìm mình trong cái chết của Đức Kitô: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người.”
(2) Chiều đi lên là cùng được sống lại vinh hiển với Người: “Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại.”
6.2/ Làm thế nào để sống đức tin của Bí tích Rửa Tội?
(1) Phải từ bỏ con người cũ và nếp sống tội lỗi: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.”
(2) Phải mặc lấy Đức Kitô và sống đời sống mới cho Thiên Chúa (nhân đức và ân sủng): “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.”
7/ Phúc Âm: Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa.
7.1/ Lối suy nghĩ của con người: Các bà này là những người đã chứng kiến cuộc tử nạn, tháo đanh, và táng xác Chúa Giêsu trong hang đá. Khi táng xác, các bà không kịp ướp xác Chúa, vì là ngày Sabbath; nên các bà nóng lòng chờ đến ngày hôm sau để ra mộ ướp xác Ngài. Truyền thống Do-thái tin: người chết mà không được ướp xác là điều xỉ nhục.
(1) Chuẩn bị ướp xác Chúa: “Vừa hết ngày Sabbath, bà Maria Magdala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giêsu. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.”
(2) Nỗi lo sợ không đủ sức để lăn tảng đá khỏi cửa mộ: Các tông đồ đã bỏ trốn cả vì sợ người Do-thái. Các bà có thể đi lại dễ dàng, nhưng không thể tìm một người đàn ông để giúp mình lăn tảng đá ra khỏi mộ, vì là một tảng đá nặng. Đang khi đi đường, các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
7.2/ Tin Mừng Phục Sinh: Các bà không thể hiểu “từ cõi chết sống lại có nghĩa gì;” vì truyền thống Do-thái tin chết là hết. Các bà không thể tin Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
(1) Thiên thần cắt nghĩa cho các bà: “Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!” Đã không thấy xác Chúa, lại còn gặp một thanh niên lạ mặt, các bà còn hỏang sợ hơn nữa. Làm sao có thể tin những lời thanh niên này nói? Nhưng vì quá sợ, nên các bà không dám hỏi. Có lẽ các bà nghĩ như Maria trong trình thuật Gioan: chắc ông này đã lấy xác Chúa!
(2) Các tông đồ sẽ được nhìn thấy Chúa tại Galilee: Người thanh niên nói tiếp: “Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilee trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.”
– Phản ứng của các bà: “Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa thật; Ngài có uy quyền dựng nên tất cả, giải thoát dân khỏi mọi nguy hiểm, và trung thành yêu thương chúng ta đến cùng.
– Thiên Chúa dựng nên con người với một mục đích là cho con người được chung hưởng vinh quang với Ngài sau cuộc đời trên dương thế này.
– Vì Đức Kitô đã chịu chết và sống lại vinh hiển, cho nên, nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng được sống lại vinh hiển với Người.
– Chúng ta phải cố gắng để đạt tới đích điểm là chung hưởng cuộc sống vinh quang với Thiên Chúa trên thiên đàng.

SATURDAY OF THE HOLY WEEK, EASTER VIGIL
Readings: Gen 1:1-2:2; Exo 14:15-15:1; Isa 54:5-14; Isa 55:1-11; Eze 36:16-28; Rom 6:3-11; Mk 16:1-8.
1/ Reading I: NAB Genesis 1:1 In the beginning, when God created the heavens and the earth, 2 the earth was a formless wasteland, and darkness covered the abyss, while a mighty wind swept over the waters. 3 Then God said, “Let there be light,” and there was light. 4 God saw how good the light was. God then separated the light from the darkness. 5 God called the light “day,” and the darkness he called “night.” Thus evening came, and morning followed– the first day. 6 Then God said, “Let there be a dome in the middle of the waters, to separate one body of water from the other.” And so it happened: 7 God made the dome, and it separated the water above the dome from the water below it. 8 God called the dome “the sky.” Evening came, and morning followed– the second day. 9 Then God said, “Let the water under the sky be gathered into a single basin, so that the dry land may appear.” And so it happened: the water under the sky was gathered into its basin, and the dry land appeared. 10 God called the dry land “the earth,” and the basin of the water he called “the sea.” God saw how good it was. 11 Then God said, “Let the earth bring forth vegetation: every kind of plant that bears seed and every kind of fruit tree on earth that bears fruit with its seed in it.” And so it happened: 12 the earth brought forth every kind of plant that bears seed and every kind of fruit tree on earth that bears fruit with its seed in it. God saw how good it was. 13 Evening came, and morning followed– the third day. 14 Then God said: “Let there be lights in the dome of the sky, to separate day from night. Let them mark the fixed times, the days and the years, 15 and serve as luminaries in the dome of the sky, to shed light upon the earth.” And so it happened: 16 God made the two great lights, the greater one to govern the day, and the lesser one to govern the night; and he made the stars. 17 God set them in the dome of the sky, to shed light upon the earth, 18 to govern the day and the night, and to separate the light from the darkness. God saw how good it was. 19 Evening came, and morning followed– the fourth day. 20 Then God said, “Let the water teem with an abundance of living creatures, and on the earth let birds fly beneath the dome of the sky.” And so it happened: 21 God created the great sea monsters and all kinds of swimming creatures with which the water teems, and all kinds of winged birds. God saw how good it was, 22 and God blessed them, saying, “Be fertile, multiply, and fill the water of the seas; and let the birds multiply on the earth.” 23 Evening came, and morning followed– the fifth day. 24 Then God said, “Let the earth bring forth all kinds of living creatures: cattle, creeping things, and wild animals of all kinds.” And so it happened: 25 God made all kinds of wild animals, all kinds of cattle, and all kinds of creeping things of the earth. God saw how good it was. 26 Then God said: “Let us make man in our image, after our likeness. Let them have dominion over the fish of the sea, the birds of the air, and the cattle, and over all the wild animals and all the creatures that crawl on the ground.” 27 God created man in his image; in the divine image he created him; male and female he created them. 28 God blessed them, saying: “Be fertile and multiply; fill the earth and subdue it. Have dominion over the fish of the sea, the birds of the air, and all the living things that move on the earth.” 29 God also said: “See, I give you every seed-bearing plant all over the earth and every tree that has seed-bearing fruit on it to be your food; 30 and to all the animals of the land, all the birds of the air, and all the living creatures that crawl on the ground, I give all the green plants for food.” And so it happened. 31 God looked at everything he had made, and he found it very good. Evening came, and morning followed– the sixth day. 2:1 Thus the heavens and the earth and all their array were completed. 2 Since on the seventh day God was finished with the work he had been doing, he rested on the seventh day from all the work he had undertaken.
2/ Reading II: NAB Exodus 14:15 Then the LORD said to Moses, “Why are you crying out to me? Tell the Israelites to go forward. 16 And you, lift up your staff and, with hand outstretched over the sea, split the sea in two, that the Israelites may pass through it on dry land. 17 But I will make the Egyptians so obstinate that they will go in after them. Then I will receive glory through Pharaoh and all his army, his chariots and charioteers. 18 The Egyptians shall know that I am the LORD, when I receive glory through Pharaoh and his chariots and charioteers.” 19 The angel of God, who had been leading Israel’s camp, now moved and went around behind them. The column of cloud also, leaving the front, took up its place behind them, 20 so that it came between the camp of the Egyptians and that of Israel. But the cloud now became dark, and thus the night passed without the rival camps coming any closer together all night long. 21 Then Moses stretched out his hand over the sea, and the LORD swept the sea with a strong east wind throughout the night and so turned it into dry land. When the water was thus divided, 22 the Israelites marched into the midst of the sea on dry land, with the water like a wall to their right and to their left. 23 The Egyptians followed in pursuit; all Pharaoh’s horses and chariots and charioteers went after them right into the midst of the sea. 24 In the night watch just before dawn the LORD cast through the column of the fiery cloud upon the Egyptian force a glance that threw it into a panic; 25 and he so clogged their chariot wheels that they could hardly drive. With that the Egyptians sounded the retreat before Israel, because the LORD was fighting for them against the Egyptians. 26 Then the LORD told Moses, “Stretch out your hand over the sea, that the water may flow back upon the Egyptians, upon their chariots and their charioteers.” 27 So Moses stretched out his hand over the sea, and at dawn the sea flowed back to its normal depth. The Egyptians were fleeing head on toward the sea, when the LORD hurled them into its midst. 28 As the water flowed back, it covered the chariots and the charioteers of Pharaoh’s whole army which had followed the Israelites into the sea. Not a single one of them escaped. 29 But the Israelites had marched on dry land through the midst of the sea, with the water like a wall to their right and to their left. 30 Thus the LORD saved Israel on that day from the power of the Egyptians. When Israel saw the Egyptians lying dead on the seashore 31 and beheld the great power that the LORD had shown against the Egyptians, they feared the LORD and believed in him and in his servant Moses. 15:1 Then Moses and the Israelites sang this song to the LORD: I will sing to the LORD, for he is gloriously triumphant; horse and chariot he has cast into the sea.
3/ Reading III: NAB Isaiah 54:5 For he who has become your husband is your Maker; his name is the LORD of hosts; Your redeemer is the Holy One of Israel, called God of all the earth. 6 The LORD calls you back, like a wife forsaken and grieved in spirit, A wife married in youth and then cast off, says your God. 7 For a brief moment I abandoned you, but with great tenderness I will take you back. 8 In an outburst of wrath, for a moment I hid my face from you; but with enduring love I take pity on you, says the LORD, your redeemer. 9 This is for me like the days of Noah, when I swore that the waters of Noah should never again deluge the earth; so I have sworn not to be angry with you, or to rebuke you. 10 Though the mountains leave their place and the hills be shaken, my love shall never leave you nor my covenant of peace be shaken, says the LORD, who has mercy on you. 11 O afflicted one, storm-battered and unconsoled, I lay your pavements in carnelians, and your foundations in sapphires; 12 I will make your battlements of rubies, your gates of carbuncles, and all your walls of precious stones. 13 All your sons shall be taught by the LORD, and great shall be the peace of your children. 14 In justice shall you be established, far from the fear of oppression, where destruction cannot come near you.
4/ Reading IV: NAB Isaiah 55:1 All you who are thirsty, come to the water! You who have no money, come, receive grain and eat; Come, without paying and without cost, drink wine and milk! 2 Why spend your money for what is not bread; your wages for what fails to satisfy? Heed me, and you shall eat well, you shall delight in rich fare. 3 Come to me heedfully, listen, that you may have life. I will renew with you the everlasting covenant, the benefits assured to David. 4 As I made him a witness to the peoples, a leader and commander of nations, 5 So shall you summon a nation you knew not, and nations that knew you not shall run to you, Because of the LORD, your God, the Holy One of Israel, who has glorified you. 6 Seek the LORD while he may be found, call him while he is near. 7 Let the scoundrel forsake his way, and the wicked man his thoughts; Let him turn to the LORD for mercy; to our God, who is generous in forgiving. 8 For my thoughts are not your thoughts, nor are your ways my ways, says the LORD. 9 As high as the heavens are above the earth, so high are my ways above your ways and my thoughts above your thoughts. 10 For just as from the heavens the rain and snow come down And do not return there till they have watered the earth, making it fertile and fruitful, Giving seed to him who sows and bread to him who eats, 11 So shall my word be that goes forth from my mouth; It shall not return to me void, but shall do my will, achieving the end for which I sent it.
5/ Reading V: NAB Ezekiel 36:16 Thus the word of the LORD came to me: 17 Son of man, when the house of Israel lived in their land, they defiled it by their conduct and deeds. In my sight their conduct was like the defilement of a menstruous woman. 18 Therefore I poured out my fury upon them (because of the blood which they poured out on the ground, and because they defiled it with idols). 19 I scattered them among the nations, dispersing them over foreign lands; according to their conduct and deeds I judged them. 20 But when they came among the nations (wherever they came), they served to profane my holy name, because it was said of them: “These are the people of the LORD, yet they had to leave their land.” 21 So I have relented because of my holy name which the house of Israel profaned among the nations where they came. 22 Therefore say to the house of Israel: Thus says the Lord GOD: Not for your sakes do I act, house of Israel, but for the sake of my holy name, which you profaned among the nations to which you came. 23 I will prove the holiness of my great name, profaned among the nations, in whose midst you have profaned it. Thus the nations shall know that I am the LORD, says the Lord GOD, when in their sight I prove my holiness through you. 24 For I will take you away from among the nations, gather you from all the foreign lands, and bring you back to your own land. 25 I will sprinkle clean water upon you to cleanse you from all your impurities, and from all your idols I will cleanse you. 26 I will give you a new heart and place a new spirit within you, taking from your bodies your stony hearts and giving you natural hearts. 27 I will put my spirit within you and make you live by my statutes, careful to observe my decrees. 28 You shall live in the land I gave your fathers; you shall be my people, and I will be your God.
6/ Reading VI: NAB Romans 6:3 Or are you unaware that we who were baptized into Christ Jesus were baptized into his death? 4 We were indeed buried with him through baptism into death, so that, just as Christ was raised from the dead by the glory of the Father, we too might live in newness of life. 5 For if we have grown into union with him through a death like his, we shall also be united with him in the resurrection. 6 We know that our old self was crucified with him, so that our sinful body might be done away with, that we might no longer be in slavery to sin. 7 For a dead person has been absolved from sin. 8 If, then, we have died with Christ, we believe that we shall also live with him. 9 We know that Christ, raised from the dead, dies no more; death no longer has power over him. 10 As to his death, he died to sin once and for all; as to his life, he lives for God. 11 Consequently, you too must think of yourselves as (being) dead to sin and living for God in Christ Jesus.
7/ Gospel: NAB Mark 16:1 When the sabbath was over, Mary Magdalene, Mary, the mother of James, and Salome bought spices so that they might go and anoint him. 2 Very early when the sun had risen, on the first day of the week, they came to the tomb. 3 They were saying to one another, “Who will roll back the stone for us from the entrance to the tomb?” 4 When they looked up, they saw that the stone had been rolled back; it was very large. 5 On entering the tomb they saw a young man sitting on the right side, clothed in a white robe, and they were utterly amazed. 6 He said to them, “Do not be amazed! You seek Jesus of Nazareth, the crucified. He has been raised; he is not here. Behold the place where they laid him. 7 But go and tell his disciples and Peter, ‘He is going before you to Galilee; there you will see him, as he told you.'” 8 Then they went out and fled from the tomb, seized with trembling and bewilderment. They said nothing to anyone, for they were afraid.
I. THEME: God’s history of salvation
The Lord God whom we worship is the only God in this universe. The fact that He let His Only Son, Jesus Christ, resurrect from the death, proves this again. When we look back at the history of salvation, we learn that God creates and controls everything in this world. He chose the Israelites as His people to prepare for the Messiah to come. He is faithful with His promise to care for and to protect people though they betrayed Him many times. He always finds the ways to save people through the Exodus event and the liberation of the Israelites from the exile back to their country. But the most important fact of the history of salvation is to send the Messiah to incarnate in a human body to redeem people. The Messiah went through his Passion, Death and Resurrection is the center of the mystery of the salvation which we are celebrating this night.
The Church wants the faithful to look back at the history of salvation through the liturgy of the Word, beginning with the creation of the universe and humankind and concluding with Christ’s resurrection. If the situation permits, the Church encourages the faithful to read seven readings. Where it isn’t possible, the Church permits to read three readings: the Exodus, the meanings of Baptism in the Letter to the Romans, and Christ’s resurrection according to St. Mark. The local churches usually read five readings: the Genesis account of creation, the passage of recreating the new heart and spirit of the prophet Ezekiel and three required readings. Two readings from Isaiah about God’s faithful love for His people and what shall happen when the Messiah’s reign comes, are added if the time permits to read all seven readings.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: God created heaven and earth and everything in it.
This account of creation is very important for those who want to take away the right to live from the unborns, the elders and the terminate diseases. People have no right to life, they are bestowed life to protect it. The food which God created are never run out, because the seed has potential to bear many other seeds, the birds of the air continuously give birth to their young, the fish of the sea have so many eggs, the animals have potential to beget many others. Therefore, God also commanded people to give birth and to fill up the earth. People can’t take away the right to life of anyone because of their lacking of food.
(1) The first day, God created light and darkness: “In the beginning, when God created the heavens and the earth, the earth was a formless wasteland, and darkness covered the abyss, while a mighty wind swept over the waters. Then God said, “Let there be light,” and there was light. God saw how good the light was. God then separated the light from the darkness. God called the light “day,” and the darkness he called “night.” Thus evening came, and morning followed– the first day.”
(2) The second day, God created the heaven: “Then God said, “Let there be a dome in the middle of the waters, to separate one body of water from the other.” And so it happened: God made the dome, and it separated the water above the dome from the water below it. God called the dome “the sky.” Evening came, and morning followed– the second day.”
(3) The third day, God created the earth and all the plants: “Then God said, “Let the water under the sky be gathered into a single basin, so that the dry land may appear.” And so it happened: the water under the sky was gathered into its basin, and the dry land appeared. God called the dry land “the earth,” and the basin of the water he called “the sea.” God saw how good it was. Then God said, “Let the earth bring forth vegetation: every kind of plant that bears seed and every kind of fruit tree on earth that bears fruit with its seed in it.” And so it happened: the earth brought forth every kind of plant that bears seed and every kind of fruit tree on earth that bears fruit with its seed in it. God saw how good it was. Evening came, and morning followed– the third day.”
(4) The fourth day, God created the sun, the moon and all the stars of the universe: “Then God said: “Let there be lights in the dome of the sky, to separate day from night. Let them mark the fixed times, the days and the years, and serve as luminaries in the dome of the sky, to shed light upon the earth.” And so it happened: God made the two great lights, the greater one to govern the day, and the lesser one to govern the night; and he made the stars. God set them in the dome of the sky, to shed light upon the earth, to govern the day and the night, and to separate the light from the darkness. God saw how good it was. Evening came, and morning followed– the fourth day.”
(5) The fifth day, God created all birds of the air and fishes under sea: “Then God said, “Let the water teem with an abundance of living creatures, and on the earth let birds fly beneath the dome of the sky.” And so it happened: God created the great sea monsters and all kinds of swimming creatures with which the water teems, and all kinds of winged birds. God saw how good it was, and God blessed them, saying, “Be fertile, multiply, and fill the water of the seas; and let the birds multiply on the earth.” Evening came, and morning followed– the fifth day.”
(6) The sixth day, God created animals and human beings on the same day:
– Animals: “Then God said, “Let the earth bring forth all kinds of living creatures: cattle, creeping things, and wild animals of all kinds.” And so it happened: God made all kinds of wild animals, all kinds of cattle, and all kinds of creeping things of the earth. God saw how good it was.”
– Human beings: “Then God said: “Let us make man in our image, after our likeness. Let them have dominion over the fish of the sea, the birds of the air, and the cattle, and over all the wild animals and all the creatures that crawl on the ground.” God created man in his image; in the divine image he created him; male and female he created them. God blessed them, saying: “Be fertile and multiply; fill the earth and subdue it. Have dominion over the fish of the sea, the birds of the air, and all the living things that move on the earth.” God also said: “See, I give you every seed-bearing plant all over the earth and every tree that has seed-bearing fruit on it to be your food; and to all the animals of the land, all the birds of the air, and all the living creatures that crawl on the ground, I give all the green plants for food.” And so it happened. God looked at everything he had made, and he found it very good. Evening came, and morning followed– the sixth day.”
(7) The seventh day, God rested: “Thus the heavens and the earth and all their array were completed. Since on the seventh day God was finished with the work he had been doing, he rested on the seventh day from all the work he had undertaken.”
2/ Reading II: The great power of the Lord had shown against the Egyptians.
After Joseph passed away, the new king ascended to the throne. He didn’t remember anything which Joseph had done to his country. He maltreated the Israelites and made them to be slaves for the Egyptians. The Israelites cried out to God and He chose Moses and Aaron to liberate the Israelites from the Egyptians.
(1) God’s plan of saving was revealed to Moses: “The Lord said to Moses, “Why are you crying out to me? Tell the Israelites to go forward. And you, lift up your staff and, with hand outstretched over the sea, split the sea in two, that the Israelites may pass through it on dry land. But I will make the Egyptians so obstinate that they will go in after them. Then I will receive glory through Pharaoh and all his army, his chariots and charioteers. The Egyptians shall know that I am the Lord, when I receive glory through Pharaoh and his chariots and charioteers.””
(2) The Israelites safely went through the Red Sea: To get out of Egypt, the Israelites must cross the Red Sea. How could they cross the sea without boats or ships, especially for such a crowd and animals? Nothing is impossible to God; He divided the sea into two walls of water and the Israelites could cross the sea by their feet. The author described this miracle as follows: “Then Moses stretched out his hand over the sea, and the Lord swept the sea with a strong east wind throughout the night and so turned it into dry land. When the water was thus divided, the Israelites marched into the midst of the sea on dry land, with the water like a wall to their right and to their left. The Egyptians followed in pursuit; all Pharaoh’s horses and chariots and charioteers went after them right into the midst of the sea.”
(3) God completely destroyed Pharaoh’s whole armies in the Red Sea: The reason why God must do that because Pharaoh was so stubborn. God gave him many chances to withdraw so that his people should not be destroyed; but he was so persistent to follow his own design. Therefore, God must act to let him know the result of his stubborness: “In the night watch just before dawn, the Lord cast through the column of the fiery cloud upon the Egyptian force a glance that threw it into a panic; and he so clogged their chariot wheels that they could hardly drive. With that the Egyptians sounded the retreat before Israel, because the Lord was fighting for them against the Egyptians.”
“Then the Lord told Moses, “Stretch out your hand over the sea, that the water may flow back upon the Egyptians, upon their chariots and their charioteers.” So Moses stretched out his hand over the sea, and at dawn the sea flowed back to its normal depth. The Egyptians were fleeing head on toward the sea, when the Lord hurled them into its midst. As the water flowed back, it covered the chariots and the charioteers of Pharaoh’s whole army which had followed the Israelites into the sea. Not a single one of them escaped.”
(4) The Israelites saw God’s power and believed in Him: “But the Israelites had marched on dry land through the midst of the sea, with the water like a wall to their right and to their left. Thus the Lord saved Israel on that day from the power of the Egyptians. When Israel saw the Egyptians lying dead on the seashore and beheld the great power that the Lord had shown against the Egyptians, they feared the Lord and believed in him and in his servant Moses. Then Moses and the Israelites sang this song to the Lord: I will sing to the Lord, for he is gloriously triumphant; horse and chariot he has cast into the sea.”
3/ Reading III: God faithfully loves people till the end.
3.1/ God’s love to Israel was compared as the love between husband and wife: There is no intimate love as strong as the love between a husband and his wife. The prophet Isaiah compared God’s love for the Israelites as intimate as this love.
– God is seen as the husband: “For He who has become your husband is your Maker; his name is the Lord of hosts; your redeemer is the Holy One of Israel, called God of all the earth.”
– Israel is seen as the unfaithful wife: “The Lord calls you back, like a wife forsaken and grieved in spirit, a wife married in youth and then cast off, says your God. For a brief moment I abandoned you, but with great tenderness I will take you back. In an outburst of wrath, for a moment I hid my face from you; but with enduring love I take pity on you, says the Lord, your redeemer.”
3.2/ God’s love for people is an everlasting love.
– God punished and then had mercy: “This is for me like the days of Noah, when I swore that the waters of Noah should never again deluge the earth; so I have sworn not to be angry with you, or to rebuke you. Though the mountains leave their place and the hills be shaken, my love shall never leave you nor my covenant of peace be shaken, says the Lord, who has mercy on you.”
– He shall let people back to Jerusalem to re-establish it: “O afflicted one, storm-battered and unconsoled, I lay your pavements in carnelians, and your foundations in sapphires; I will make your battlements of rubies, your gates of carbuncles, and all your walls of precious stones.”
– He shall protect the Israelites’ children: “All your sons shall be taught by the Lord, and great shall be the peace of your children. In justice shall you be established, far from the fear of oppression, where destruction cannot come near you.”
4/ Reading IV: What shall happen when the Messiah’s age dawns.
4.1/ The prophecy about the sacrament of the Eucharist: “All you who are thirsty, come to the water! You who have no money, come, receive grain and eat; come, without paying and without cost, drink wine and milk! Why spend your money for what is not bread; your wages for what fails to satisfy? Heed me, and you shall eat well, you shall delight in rich fare. Come to me heedfully, listen, that you may have life.”
4.2/ The prophecy about the New Covenant: The one from David’s lineage shall be a king to govern people.
(1) The New Covenant is the lasting covenant: “I will renew with you the everlasting covenant, the benefits assured to David. As I made him a witness to the peoples, a leader and commander of nations, so shall you summon a nation you knew not, and nations that knew you not shall run to you, because of the Lord, your God, the Holy One of Israel, who has glorified you.” The new king shall govern all nations, not only Israel.
(2) Isaiah advised people to return to God: “Seek the Lord while he may be found, call him while he is near. Let the scoundrel forsake his way, and the wicked man his thoughts; Let him turn to the Lord for mercy; to our God, who is generous in forgiving.”
4.3/ The differences between God and man:
(1) In thought and in way: “For my thoughts are not your thoughts, nor are your ways my ways, says the Lord. As high as the heavens are above the earth, so high are my ways above your ways and my thoughts above your thoughts.”
(2) The effect of God’s words: “For just as from the heavens the rain and snow come down and do not return there till they have watered the earth, making it fertile and fruitful, giving seed to him who sows and bread to him who eats, so shall my word be that goes forth from my mouth; it shall not return to me void, but shall do my will, achieving the end for which I sent it.”
5/ Reading V: I shall give you a new heart and put a new spirit in your mind.
5.1/ Israel defiled both their ancestors’ and the exile’s lands: The prophet Ezekiel and the Israelites must painfully live on exile because they sinned against God. During the exile, God continuously called them to repent and to return to God; but they didn’t listen. They continued to defame God’s name and to defile also the exile’s land.
Ezekiel reported to the Israelites what God said to him: “Thus the word of the Lord came to me: Son of man, when the house of Israel lived in their land, they defiled it by their conduct and deeds. In my sight their conduct was like the defilement of a menstruous woman. Therefore I poured out my fury upon them (because of the blood which they poured out on the ground, and because they defiled it with idols). I scattered them among the nations, dispersing them over foreign lands; according to their conduct and deeds I judged them. But when they came among the nations (wherever they came), they served to profane my holy name, because it was said of them: “These are the people of the Lord, yet they had to leave their land.” So I have relented because of my holy name which the house of Israel profaned among the nations where they came.”
5.2/ God shall purify people due to His Name, not because of the Israelites’ good: God commanded the prophet to say these words to the Israelites: “Therefore say to the house of Israel: Thus says the Lord God: Not for your sakes do I act, house of Israel, but for the sake of my holy name, which you profaned among the nations to which you came. I will prove the holiness of my great name, profaned among the nations, in whose midst you have profaned it. Thus the nations shall know that I am the Lord, says the Lord God, when in their sight I prove my holiness through you.” God shall do three things for the Israelites:
(1) God shall let people come back to their country: “For I will take you away from among the nations, gather you from all the foreign lands, and bring you back to your own land.”
(2) God shall purify His people: “I will sprinkle clean water upon you to cleanse you from all your impurities, and from all your idols I will cleanse you. I will give you a new heart and place a new spirit within you, taking from your bodies your stony hearts and giving you natural hearts. I will put my spirit within you and make you live by my statutes, careful to observe my decrees.”
(3) God shall re-establish His relationship with Israel: “You shall live in the land I gave your fathers; you shall be my people, and I will be your God.”
6/ Reading VI: If we die with Christ, we shall be resurrected with him.
6.1/ The meanings of Baptism: St. Paul emphasized two dimensions of the sacrament of Baptism:
(1) The descending dimension is to emerge in Christ’s death: “Are you unaware that we who were baptized into Christ Jesus were baptized into his death? We were indeed buried with him through baptism into death.”
(2) The ascending dimension is to gloriously resurrect with him: “So that, just as Christ was raised from the dead by the glory of the Father, we too might live in newness of life. For, if we have grown into union with him through a death like his, we shall also be united with him in the resurrection.”
6.2/ How to live the promises of the sacrament of Baptism:
(1) Must forfeit our own self and sinful life: “We know that our old self was crucified with him, so that our sinful body might be done away with, that we might no longer be in slavery to sin. For a dead person has been absolved from sin.”
(2) Must put on Christ and live a new life in God: This life is the life of virtues and of grace: “If, then, we have died with Christ, we believe that we shall also live with him. We know that Christ, raised from the dead, dies no more; death no longer has power over him. As to his death, he died to sin once and for all; as to his life, he lives for God. Consequently, you too must think of yourselves as (being) dead to sin and living for God in Christ Jesus.”
7/ Gospel: He raised up and was no longer here.
7.1/ Human thinking: These women witnessed Jesus’ death on the cross and his burial in the tomb. When they buried Jesus’ body, they didn’t anoint Jesus’ body because it was the Sabbath. They eagerly waited for the next morning to anoint him. The tradition believes it is a shame for those who have no one to anoint for.
(1) Preparing to anoint God’s body: “When the Sabbath was over, Mary Magdalene, Mary, the mother of James, and Salome bought spices so that they might go and anoint him. Very early when the sun had risen, on the first day of the week, they came to the tomb.”
(2) Their worry of moving the tomb’s stone: All apostles ran away because they were afraid of the Jews. These women can easily go back and forth because the Jews had little regard for women. They were worry about rolling the stone out of Jesus’ tomb; they were saying to one another, “Who will roll back the stone for us from the entrance to the tomb?” When they looked up, they saw that the stone had been rolled back; it was very large.
7.2/ The Resurrected News: The women didn’t understand what it means “resurrected from the death;” because Jewish tradition had a vague idea about the life after death. They didn’t think Jesus has been resurrected from the death.
(1) The angel’s explannation: “On entering the tomb they saw a young man sitting on the right side, clothed in a white robe, and they were utterly amazed. He said to them, “Do not be amazed! You seek Jesus of Nazareth, the crucified. He has been raised; he is not here. Behold the place where they laid him.”
They didn’t see Jesus’ body, but a young man sitting there; this made them even more afraid. How could they believe in his word? They didn’t dare to ask. They might think as Mary Magdala in John’s account: “This man might steal his body!”
(2) The apostles shall be seen Jesus in Galilee: The angel continued, “But go and tell his disciples and Peter, ‘He is going before you to Galilee; there you will see him, as he told you.’” Before the Passion, Jesus foretold that he shall go to Galilee before them, and he hoped to see them there.
The women’s reaction: “Then they went out and fled from the tomb, seized with trembling and bewilderment. They said nothing to anyone, for they were afraid.”
III. APPLICATION IN LIFE:
– The God we worship is the true God. He has the power to create everything, to liberate people from all dangers, and faithfully loves us till the end.
– God creates people with a purpose which is for them to enjoy eternal happiness with Him after their life on earth.
– Since Jesus has died and gloriously resurrected; if we die with him, we shall also gloriously resurrected with him.
– We should try to reach our ultimate end which is the eternal life with God in heaven.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP