Bài đọc: Jer 23:5-8; Mt 1:18-24.
1/ Bài đọc I: 5 Này, sẽ tới những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA –
Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít
một chồi non chính trực.
Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là
người khôn ngoan tài giỏi
trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.
6 Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu thoát,
Ít-ra-en được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy
sẽ là: “ĐỨC CHÚA, sự công chính của chúng ta.”
7 Vì thế, này đây sẽ tới những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – người ta không còn nói như sau nữa: “Nhân danh ĐỨC CHÚA hằng sống, Đấng đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi đất Ai-cập!”,
8 nhưng sẽ nói: “Nhân danh ĐỨC CHÚA hằng sống, Đấng đã đưa dòng dõi nhà Ít-ra-en lên khỏi đất phương Bắc và khỏi mọi miền đất Người đã xua họ đến, để họ được cư ngụ trên đất của họ!”
2/ Phúc Âm: 18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.
19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ:
23 Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”
24 Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Công chính và tội lỗi
Mọi người đều phạm tội. Làm thế nào để con người trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa? Con người có thể trở nên công chính bằng việc giữ luật không? Thánh Phaolô quả quyết rằng “Không!” vì không ai có thể giữ trọn vẹn Lề Luật. Chỉ có niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, mới có thể làm con người nên công chính. Trong Bài Đọc I, Tiên Tri Jeremiah tiên báo: Đức Chúa (Chúa Kitô) là sự công chính của chúng ta. Trong Phúc Âm, Thánh Giuse là “người công chính,” muốn bỏ Mẹ Maria cách kín đáo; nhưng khi được Thiên Thần mộng báo, đã vâng theo ý Thiên Chúa và chấp nhận Bà Maria và Chúa Giêsu về nhà mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.
1.1/ Giòng dõi David từ chỗ hy vọng tan tành tới chỗ hòan tất của lời hứa: Khi người Do-Thái sống trong nơi lưu đày, chắc họ đã nhận thấy hy vọng của họ vào những gì Thiên Chúa đã chúc lành cho họ qua Tổ-phụ Jacob và những lời tiên tri của Isaiah, quyển I, Micah, và các tiên tri khác bị tan tành theo mây khói. Làm sao có thể khôi phục lại đất nước trong hòan cảnh lưu đày? Làm sao có thể khôi phục lại vương triều của giòng dõi Judah để Đấng Cứu Thế xuất hiện? Nhưng Tiên Tri Jeremiah vẫn hy vọng: “Này, sẽ tới những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà David một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh.”
1.2/ Vua công chính: “Thời bấy giờ, Judah sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: “Đức Chúa, sự công chính của chúng ta.”
(1) Đấng đưa con cái Israel lên khỏi đất Ai-Cập: chỉ biến cố Xuất Hành, khi Thiên Chúa đưa dân ra khỏi đất nô lệ của Ai-Cập qua sự lãnh đạo của Moses và Aaron.
(2) Đấng đã đưa dòng dõi nhà Israel ra khỏi đất phương Bắc: chỉ sự hồi hương và tái thiết quốc gia cùng Đền Thờ, khi Thiên Chúa giải thóat dân khỏi cảnh lưu đày ở Babylon.
2/ Phúc Âm: Chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội.
Tin Mừng Matthêu tường thuật hòan cảnh đính hôn của cha mẹ Chúa Giêsu như sau: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô: Bà Maria, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.”
2.1/ Nỗi khó khăn của Thánh Giuse: Để hiểu lời tường thuật của Matthêu, chúng ta phải hiểu phong tục của Do-Thái liên quan tới việc kết nghĩa vợ chồng. Giống như phong tục Việt-Nam, có 3 giai đọan:
(1) Hứa hôn: Khi hai trẻ còn nhỏ, cha mẹ hai bên muốn kết nghĩa sui gia; nên cha mẹ hai bên hứa hẹn với nhau, sẽ gả con cho nhau khi hai trẻ tới tuổi lập gia đình. Đây chỉ là một lời hứa và không bị ràng buộc về khía cạnh pháp lý. Nếu hai trẻ không đồng ý hay hai cha mẹ đổi ý, lời hứa không còn hiệu lực.
(2) Đính hôn: Đó là từ chính xác Matthêu dùng để chỉ hòan cảnh của Ông Giuse và Bà Maria hôm nay. Khi gia đình hai bên và hai trẻ đồng ý tiến tới, họ bước vào giai đọan đính hôn để tìm hiểu nhau kỹ càng hơn trong thời hạn một năm. Trong giai đọan này, theo luật Do-Thái, lời hứa bị ràng buộc, hai người được coi như vợ chồng; mặc dù chưa được “ăn ở” với nhau như vợ chồng. Nếu chồng không tiến tới, ông phải làm đơn xin ly dị và nêu rõ lý do. Nếu chồng chết trong giai đọan này, người vợ được gọi là “góa phụ đồng trinh.”
(3) Thành hôn: Sau thời hạn đính hôn một năm, hai người tiến tới giai đọan chính thức thành vợ chồng.
Nỗi khó khăn của Ông Giuse, như trình thuật nói, vì ông là người công chính nên ông không thể dung thứ tội lỗi cho Bà Maria. Theo Lề Luật, Ông phải tố cáo Bà Maria để bị ném đá cho tới chết vì đứa con trong bào thai không phải là của Ông. Nhưng Ông chắc cũng linh tính một trường hợp đặc biệt liên quan đến Bà Maria và đứa con trong bụng, nên cuối cùng Ông quyết định lìa bỏ Bà cách âm thầm kín đáo.
2.2/ Ý muốn của Thiên Chúa: Trong khi Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Tên Giêsu là tiếng Hy-Lạp dịch từ tiếng Do-Thái Joshua, có nghĩa là “giải thóat hay cứu độ.” Chúa Giêsu được gọi là Đấng Giải Thóat, Cứu Thế, hay Chuộc Tội, vì Ngài gánh tội và giải thóat cho nhân lọai khỏi tội.
Sứ Thần của Thiên Chúa biết những gì Ông Giuse đang suy nghĩ và cung cấp câu trả lời cho Ông: người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Để hiểu “quyền năng Chúa Thánh Thần,” chúng ta cần hiểu vai trò của Chúa Thánh Thần trong chương trình của Thiên Chúa. Truyền thống Do-Thái hiểu 4 công việc chính của Thánh Thần:
(1) Ngài là Sự Thật, Ngài đem sự thật từ Thiên Chúa đến cho con người. Chúa Giêsu hứa với các môn đệ Ngài: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Jn 16:13).
(2) Ngài làm cho con người hiểu và nhận ra sự thật. Thánh Gioan hiểu rõ: Nếu không có Thánh Thần giúp sức, con người không thể hiểu những gì Chúa Giêsu mặc khải: “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Jn 14:26).
(3) Ngài hiện diện với Thiên Chúa ngay từ khi sáng tạo vũ trụ. Ngài là hơi thở của Thiên Chúa: để phát ra Lời (Ngôi Hai) và ban hơi thở và sự sống cho muôn lòai. Tác giả của Thánh Vịnh 33 hiểu rõ sứ vụ của Ba Ngôi Thiên Chúa trong việc sáng tạo: “Một Lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Psa 33:6). Sự khôn ngoan của Thiên Chúa phải có Hơi (pneuma) và Lời (logos) để tạo thành vũ trụ.
(4) Ngài cũng là nguyên nhân chính của “đổi mới và tái tạo.” Thị kiến của Tiên Tri Ezekiel về “Ruộng Xương Khô” là một ví dụ cho công việc này của Thánh Thần: “Người lại bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh.” Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Eze 37:9-10). Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu tới để đổi mới và ban sinh lực cho con người. Ngài tiêu diệt tội lỗi trong con người cũ và ban ơn thánh để làm cho con người trở nên con người mới tinh tuyền và thánh thiện.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Vì chúng ta đều phạm tội, chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình.
– Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng tin vào Đức Kitô, Đấng gánh tội và giải thóat chúng ta khỏi mọi quyền lực của tội lỗi.
December 17th – Advent
Readings: Gen 49:2, 8-10; Mt 1:1-17.
Reading 1 (Gen 49:2, 8-10):
Jacob called his sons and said to them:
“Assemble and listen, sons of Jacob,
listen to Israel, your father.
“You, Judah, shall your brothers praise
–your hand on the neck of your enemies;
the sons of your father shall bow down to you.
Judah, like a lion’s whelp,
you have grown up on prey, my son.
He crouches like a lion recumbent,
the king of beasts–who would dare rouse him?
The scepter shall never depart from Judah,
or the mace from between his legs,
While tribute is brought to him,
and he receives the people’s homage.”
Gospel (Mt 1:1-17):
The book of the genealogy of Jesus Christ,
the son of David, the son of Abraham.
Abraham became the father of Isaac,
Isaac the father of Jacob,
Jacob the father of Judah and his brothers.
Judah became the father of Perez and Zerah,
whose mother was Tamar.
Perez became the father of Hezron,
Hezron the father of Ram,
Ram the father of Amminadab.
Amminadab became the father of Nahshon,
Nahshon the father of Salmon,
Salmon the father of Boaz,
whose mother was Rahab.
Boaz became the father of Obed,
whose mother was Ruth.
Obed became the father of Jesse,
Jesse the father of David the king.
David became the father of Solomon,
whose mother had been the wife of Uriah.
Solomon became the father of Rehoboam,
Rehoboam the father of Abijah,
Abijah the father of Asaph.
Asaph became the father of Jehoshaphat,
Jehoshaphat the father of Joram,
Joram the father of Uzziah.
Uzziah became the father of Jotham,
Jotham the father of Ahaz,
Ahaz the father of Hezekiah.
Hezekiah became the father of Manasseh,
Manasseh the father of Amos,
Amos the father of Josiah.
Josiah became the father of Jechoniah and his brothers
at the time of the Babylonian exile.
After the Babylonian exile,
Jechoniah became the father of Shealtiel,
Shealtiel the father of Zerubbabel,
Zerubbabel the father of Abiud.
Abiud became the father of Eliakim,
Eliakim the father of Azor,
Azor the father of Zadok.
Zadok became the father of Achim,
Achim the father of Eliud,
Eliud the father of Eleazar.
Eleazar became the father of Matthan,
Matthan the father of Jacob,
Jacob the father of Joseph, the husband of Mary.
Of her was born Jesus who is called the Christ.
Thus the total number of generations
from Abraham to David
is fourteen generations;
from David to the Babylonian exile, fourteen generations;
from the Babylonian exile to the Christ,
fourteen generations.
________________________________________
Written by: Fr. Anthony Dinh M. Tien, O.P.
I. THEME: The Messiah was born in human history.
The faith of people in the Messiah isn’t an abstract faith, such as believing in a god that had no origin; but as a faith in the one who has genealogy in human history. The Messiah was promised by God from the beginning and kept repeating in Jewish history. Scripture called this is God’s plan of salvation.
This plan existed from the beginning and was revealed for human beings right after Adam and Eve committed their sin against God in the garden, when God declared His punishment for the snake: “I will put enmity between you and the woman, and between your seed and her seed; he shall bruise your head, and you shall bruise his heel” (Gen 3:15).
Through Jewish history, God continually prepared for His plan of salvation. We can see a glimpse of this plan in today readings. In the first reading, the forefather Jacob specially blessed Judah’s descendants, because he foresaw the day this tribe will appear kings to govern all of his brothers. Jacob also predicted the Messiah shall come from Judah’s tribe. In the Gospel, the evangelist Matthew began his Gospel with Christ’s genealogy, the Son of God. Beginning with the generation of the forefathers Abraham, Isaac and Jacob to king David’s generation is 14 generations; from king David to the exile is also 14 generations; and from the exile to the Messiah is also 14 generations. Today passage only presented the last period, from the exile to the Messiah’s birthday.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: Jacob blessed Judah’s descendants.
Chapter 49 of the Book of Genesis is Jacob’s (also called Israel) blessings and last words for his twelve sons. These sons represented for the twelve tribes of Israel. Since Levi was not included in this list because they were priestly tribe, Joseph had two tribes which are Benjamin and Manasseh. Jacob called his children to his deathbed before blessed them: “Assemble and hear, O sons of Jacob, and hearken to Israel your father.” Today passage paid attention to Judah’s tribe because the Messiah shall come from this tribe.
1.1/ Judah’s tribe shall govern his brothers: Judah was the only son whom Jacob praised before he blessed him. He blessed Judah and foretold this prophecy about the Judah’s tribe: “Judah, your brothers shall praise you; your hand shall be on the neck of your enemies; your father’s sons shall bow down before you.Judah is a lion’s whelp; from the prey, my son, you have gone up. He stooped down, he couched as a lion, and as a lioness; who dares rouse him up?”
1.2/ There will be kings of Israel from Judah’s tribe: The time of Jacob was tribal age; there was no king in Israel yet. The leaders of this age were high priests, elders and judges. Israel only had a king about 200 years after Moses’ age, beginning with Saul, then David and Solomon. Jacob was permitted by God to foresee the day which Judah’s descendants will be kings: “The scepter shall not depart from Judah, nor the ruler’s staff from between his feet, until he comes to whom it belongs; and to him shall be the obedience of the peoples.”
1.3/ The Messiah shall come from Judah’s tribe: Jacob foresaw not only Israel’s kings shall come from the Judah’s tribe, but also the Messiah shall come form this tribe. Though he shall originate from Judah’s tribe, but he is the owner of the ruler’s staff. He shall have dominion not only the Israelites, but also all people of the world.
2/ Gospel: The Messiah shall come form Judah’s tribe.
2.1/ From king David’s generation to the Babylon exile: “Josiah the father of Jechoniah and his brothers, at the time of the deportation to Babylon.” In Jewish history, the age of king Davis was considered the summit of their history because king David had dominion over all twelves tribes of Israel and the boundary of his nation was extended farthest. However, David’s weakness was his adultery with Bathsheba and gave birth to king Solomon. Because of this event, God divided his kingdom by two, and both kingdoms were gradually reduced until the exile. On 587 BC, Judah’s kingdom was completely destroyed, king Jeconiah and all people were on exile to Babylon, and the Israelites almost had no more hope in Jacob’s blessing. They prayed to God on exile:
“Lord, where is thy steadfast love of old, which by thy faithfulness thou didst swear to David? Remember, O Lord, how thy servant is scorned; how I bear in my bosom the insults of the peoples, with which thy enemies taunt, O Lord, with which they mock the footsteps of thy anointed” (Psa 89:50-52).
2.2/ After the Babylon’s exile: In such desperate situation, God continued to work and His plan of salvation is still coming. According to Matthew’s today passage: “And after the deportation to Babylon: Jechoniah was the father of Shealtiel, and Shealtiel the father of Zerubbabel,and Zerubbabel the father of Abiud, and Abiud the father of Eliakim, and Eliakim the father of Azor,and Azor the father of Zadok, and Zadok the father of Achim, and Achim the father of Eliud,and Eliud the father of Eleazar, and Eleazar the father of Matthan, and Matthan the father of Jacob,and Jacob the father of Joseph the husband of Mary, of whom Jesus was born, who is called Christ.”
Look at Jesus’ genealogy, the Messiah, we can learn many lessons: (1) Jesus’ ancestors included both holy people (Abraham, Isaac, và Jacob) and sinners (Tamar acted as a harlot in order to have a son with Judah, king David committed adultery with Bathsheba); both those who worshipped God and the one who worshipped many gods as Ruth; both Israelites and Gentile. (2) Though Jewish history reached the summit with king David and Solomon, and felt to the bottom as the exile, God’s promise and Jacob’s blessings continued to happen. We can say God draws a straight line of His plan of salvation on the crooked line of Jewish history. God is the faithful One, whatever He promises, He will do it.
III. APPLICATION IN LIFE:
– Our faith in Jesus the Messiah is not an abstract and vague faith; but a faith that had a deep root in human history which was expressed through Jesus’ genealogy.
– God promised to give the Messiah to people from the beginning, and He continued to prepare and to reveal His plan of salvation through generations. This plan is still working in our generation and shall not stop until the Second Coming of Jesus.
– We should put our complete trust in God through all events of our life. Heaven and earth can change, but God’s promise will never change.
LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP