Lời Chúa Mỗi Ngày : Chủ Nhật Lễ Lá A, Năm A

Chủ Nhật Lễ Lá A, Năm A
Bài đọc: (Làm phép lá: Lk 19:28-40); Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mt 26:14-27:66.
1/ Bài đọc I: 4 Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. 5 Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. 6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. 7 Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
2/ Bài đọc II: 5 Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giê-su Ki-tô. 6 Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, 7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. 8 Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 9 Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. 10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; 11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa.”
3/ Phúc Âm: 14 Bấy giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng tế 15 mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
17 Ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
18 Người bảo: “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: “Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy.”
19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và dọn tiệc Vượt Qua.
20 Chiều đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ.
21 Đang bữa ăn, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”
22 Các môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: “Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?”
23 Người đáp: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24 Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!”
25 Giu-đa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!”
26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.”
27 Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.”
30 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu.
31 Bấy giờ Đức Giê-su nói với các ông: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. 32 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.”
33 Ông Phê-rô liền thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã.”
34 Đức Giê-su bảo ông: “Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.”
35 Ông Phê-rô lại nói: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
36 Bấy giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các môn đệ: “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.”
37 Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. 38 Bấy giờ Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.”
39 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.”
40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? 41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.”
42 Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.”
43 Rồi Người lại đến, thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu.
44 Người để mặc các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó.
45 Bấy giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. 46 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
47 Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế và kỳ mục trong dân sai đến. 48 Kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu, hắn dặn rằng: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!”
49 Ngay lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức Giê-su và nói: “Ráp-bi, xin chào Thầy!” rồi hôn Người.
50 Đức Giê-su bảo hắn: “Này bạn, bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi!” Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giê-su.
51 Một trong những kẻ theo Đức Giê-su liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.
52 Đức Giê-su bảo người ấy: “Hãy xỏ gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.
53 Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! 54 Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy.”
55 Vào giờ ấy Đức Giê-su nói với đám đông: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông không bắt. 56 Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.
57 Họ bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến thượng tế Cai-pha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu sẵn đó.
58 Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
59 Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình.
60 Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, 61 khai rằng: “Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày, sẽ xây cất lại.”
62 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su: “Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?”
63 Nhưng Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?”
64 Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.”
65 Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, 66 quý vị nghĩ sao? ” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết!” 67 Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người 68 và nói: “Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”
69 Lúc đó ông Phê-rô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giê-su, người Ga-li-lê đó chứ gì?”
70 Ông liền chối trước mặt mọi người mà nói: “Tôi không biết cô nói gì!”
71 Ông đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó: “Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy.”
72 Nhưng ông Phê-rô lại thề mà chối: “Tôi không biết người ấy.”
73 Một lát sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phê-rô mà nói: “Đúng là bác cũng thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.”
74 Bấy giờ ông Phê-rô liền thề độc mà quả quyết rằng: “Tôi thề là không biết người ấy.” Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. 75 Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.
1 Trời vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Đức Giê-su, để xử tử Người. 2 Sau đó, họ cho trói Người lại và giải đi nộp cho tổng trấn Phi-la-tô.
3 Bấy giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục 4 mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!” 5 Giu-đa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ.
6 Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: “Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu.” 7 Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. 8 Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” cho đến ngày nay.
9 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. 10 Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”
11 Đức Giê-su bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: “Ông là vua dân Do-thái sao?” Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó.”
12 Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng.
13 Bấy giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: “Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?” 14 Nhưng Đức Giê-su không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.
15 Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn.
16 Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17 Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: “Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi là Ki-tô?” 18 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
19 Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: “Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy.”
20 Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức Giê-su.
21 Tổng trấn hỏi họ: “Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người?” Họ thưa: “Ba-ra-ba!”
22 Tổng trấn Phi-la-tô nói tiếp: “Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây?” Mọi người đồng thanh: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
23 Tổng trấn lại nói: “Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!”
24 Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: “Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!”
25 Toàn dân đáp lại: “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!”
26 Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.
27 Bấy giờ lính của tổng trấn đem Đức Giê-su vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người.
28 Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, 29 rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!” 30 Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. 31 Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.
32 Đang đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập giá của Người. 33 Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, 34 chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống.
35 Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau.
36 Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người.
37 Phía trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: “Người này là Giê-su, vua dân Do-thái.” 38 Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.
39 Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu 40 vừa nói: “Mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!”
41 Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: 42 “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! 43 Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!” 44 Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
45 Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín.
46 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
47 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Hắn ta gọi ông Ê-li-a!”
48 Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống.
49 Còn những người khác lại bảo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không!”
50 Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
51 Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ.
52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.
53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người.
54 Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”
55 Ở đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người. 56 Trong số đó, có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê.
57 Chiều đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành A-ri-ma-thê, tên là Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su. 58 Ông đến gặp ông Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. Bấy giờ tổng trấn Phi-la-tô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. 59 Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà liệm, 60 và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về.
61 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ.
62 Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo nhau đến ông Phi-la-tô, 63 và nói: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.” 64 Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước.”
65 Ông Phi-la-tô bảo họ: “Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!” 66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ.
________________________________________
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Qua đau khổ tới vinh quang
Con người không thích kỷ luật, kiêng cữ, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa. Thánh Phêrô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang, và Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Matthew tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Với một niềm xác tín vào Thiên Chúa như thế, Người Tôi Trung có can đảm đương đầu với mọi đau khổ, vì biết mình sẽ chiến thắng.
1.2/ Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo như: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường, các nhân đức… Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn biết nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người. Kiêu ngạo tiêu hủy cả người kiêu ngạo lẫn tha nhân; nhưng khiêm nhường xây dựng người khiêm nhường và mang lại lợi ích cho tha nhân.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.””
Chúa Giêsu và thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người” (Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo thánh Matthew
Vì bài Thương Khó rất dài, những ai muốn đọc chú giải có thể theo Cuộc Thương Khó theo Marcô, năm B, vì trình thuật về Cuộc Thương Khó của Matthew theo rất sát với trình thuật của Marcô. Chỉ có hai phần đặc biệt tập trung trong con người của Judas Iscariot, chúng ta sẽ chú giải chi tiết hai phần này trong sự phản bội của Judah. Thay vào đó, chúng ta sẽ chú trọng đặc biệt đến phản ứng của Chúa Giêsu khi Ngài đối diện với Cuộc Thương Khó, và các phản ứng của con người, đại diện bằng bốn thành phần: Simon Phêrô, Judas Iscarriot, Philatô, và những người trong Thượng Hội Đồng.
3.1/ Thái độ của Chúa Giêsu: Bốn thái độ của Chúa Giêsu chúng ta học được qua Cuộc Thương Khó.
(1) Ngài rất can đảm và sẵn sàng chấp nhận đau khổ: vì Ngài biết đau khổ chỉ tạm thời, và phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Trước khi bước vào Cuộc Thương Khó, Ngài biết đau khổ chỉ kéo dài trong 3 ngày (Thứ Năm, Sáu, và Bảy Tuần Thánh), sau đó là vinh quang Phục Sinh như lời Ngài đã báo trước cho các tông-đồ. Chính niềm tin vững mạnh nơi Chúa Cha sẽ cho Ngài chiến thắng khải hoàn đã giúp Ngài vượt qua tất cả đau khổ. Chúng ta có thể dẫn chứng thái độ tự tin này bằng những biến cố xảy ra trong Cuộc Thương Khó.
– Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Chúa Giêsu có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
– Sau bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu cùng hát thánh vịnh tạ ơn Thiên Chúa với các môn đệ để ca tụng sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, cho dẫu Ngài sắp phải đương đầu với quyền lực của thế gian. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu rất tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa và không sợ hãi hay buồn sầu.
(2) Ngài luôn vâng lời làm theo thánh ý Chúa Cha: Hai biến cố chứng tỏ sự vâng phục, luôn tìm làm theo thánh ý Chúa Cha của Ngài.
– Thứ nhất, Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Ghetsemane. Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ mình. Tuy vậy, Ngài vẫn can đảm cầu nguyện: “Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Sau khi cầu nguyện lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
– Thứ hai, là giờ hấp hối của Chúa Giêsu trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Eli, Eli, lema sabacthani,” nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Elijah.” Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không.” Còn những người khác lại bảo: “Khoan đã, để xem ông Elijah có đến cứu hắn không!” Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.
Những người đứng đó chỉ nghe hai chữ đầu, nên họ tưởng Chúa Giêsu đang gọi ngôn sứ Elijah. Sự kiện bức màn phân biệt chỗ cực thánh trong Đền Thờ khỏi tầm mắt của dân chúng được các học giả phân tích là kể từ nay, con người không cần đợi đến Ngày Xá Tội để được thầy Thượng Tế xin tha tội, nhưng con người có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa để xin tha thứ. Sự kiện này cũng báo trước sự xụp đổ của Đền Thờ Jerusalem (70 AD), con người không cần phải vào đó để dâng lễ vật để được tha tội nữa.
(3) Ngài luôn thành tín (nói sự thật) khi đương đầu với đau khổ và phản bội.
– Thứ nhất, Chúa Giêsu đối xử với Judah rất tốt đẹp. Ngài biết rõ Judah phản bội, nhưng vẫn không chửi mắng và cũng không tố cáo tội của ông cho các môn đệ khác biết; vì nếu họ biết, Judah sẽ khó giữ được tính mạng của mình. Nhưng Ngài phải nói cho Judah biết, với hy vọng nhờ cách đối xử nhẹ nhàng, Judah sẽ ăn năn trở lại. Chúa Giêsu muốn phân biệt hai điều ở đây: theo kế hoạch của Thiên Chúa, Chúa Giêsu phải chết; tuy nhiên, con người vẫn có tự do cộng tác hay phá hủy kế hoạch của Thiên Chúa. Nếu Judah không phản bội, vẫn có những Judah khác sẽ phản bội. Hơn nữa, sau khi phản bội, con người phải biết ăn năn.
– Thứ hai, Chúa Giêsu không sợ nói sự thật, dẫu biết khi nói sự thật, có thể mang lại cho Ngài án tử thình: Ông Philatô hỏi Người: “Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: “Đúng như ngài nói đó.” Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: “Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!” Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên. Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng “Đúng như ngài nói đó.” Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này … ” (Jn 18:36). Ngài không trả lời cho các thượng tế và người Do-thái, vì có trả lời cho họ, cũng chẳng có ích chi!
(4) Ngài luôn yêu thương và tha thứ: Đang khi sắp phải đương đầu với cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu vẫn nhớ tới những người còn ở lại, nhất là các thế hệ tương lai. Đó là lý do Ngài thiết lập bí-tích Thánh Thể để tiếp tục ở lại và nuôi dưỡng linh hồn con người.
– Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.” Mỗi khi cử hành bí-tích Thánh Thể, con người được nhắc nhở hướng về tương lai, sẽ có ngày họ sẽ cùng được uống thứ rượu mới trong Nước Chúa với Đức Kitô.
– Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội. Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
– Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
– Dù biết trước tất cả tông đồ đều phản bội, Chúa sẵn sàng tha thứ, hòa giải, và cung cấp hy vọng cho các ông khi Ngài nói: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em.”
3.2/ Tính ích kỷ, gian dối, và phản bội của con người.
(1) Của Simon Phêrô và của các môn đệ khác: Khi Chúa Giêsu tiên đoán một người trong các ông sẽ phản bội, các môn đệ buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: “Chẳng lẽ con sao?” Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai trong trình thuật của Matthew, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy. Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ, biến hình, báo trước … nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
– Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” Chúa Giêsu nói với ông: “Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình. Vì thế, con người phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình nói.
– Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình. Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Khi các binh lính bắt và trói Chúa Giêsu, bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và phải chịu thiệt thân.
– Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh. Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: “Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!” Ông liền chối: “Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi. Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: “Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.” Nhưng ông Phêrô lại chối. Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: “Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!” Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!” Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã nói với mình: “Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần.” Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông kia không dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình, và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng cho Chúa Giêsu. Phêrô trở thành nhân chứng cho niềm tin Chúa Giêsu phục sinh trước THĐ.
(2) Của Judah Iscariot: Trước bữa tiệc Vượt Qua, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Judah Iscariot, đi gặp các thượng tế mà nói: “Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.” Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Đức Giêsu.
– Hầu hết các môn đệ đều là người Galilee, chỉ có Judah là người thuộc làng Iscariot, trong xứ Judah. Tất cả các Tin Mừng đều không nói gì tới việc Chúa Giêsu gọi Judah. Hầu như tất cả các nơi trong Tin Mừng mà Judah được đề cập tới, đều có bên cạnh tên Judah danh xưng kẻ phản bội, người bán Chúa hay nộp Chúa.
– Giá cả 30 đồng mà người ta ấn định cho Judah là một giá rẻ mạt, chỉ bằng tiền chuộc của một nô lệ rẻ tiền. Để hiểu rõ giá, chúng ta có thể so sánh với giá hiện kim bây giờ: một đồng Mỹ trị giá khoảng 4 shekels, 30 shekels chỉ tương đương khoảng 8 dollars. Dĩ nhiên, chúng ta phải so sánh với giá cả của thời đó. Một đồng của Rôma (denarius) thời đó tương xứng với tiền trả của một ngày làm công, 30 denarii bằng lương tháng của một người. Chúng ta không thể hiểu nổi tại sao Judah bán Chúa với một giá rẻ như thế? Lọ dầu cam tùng nguyên chất mà Maria đổ trên đầu và chân Chúa trị giá 300 đồng! Có nhiều nguồn gốc trong Kinh Thánh ám chỉ việc buôn bán này, gần nhất là Zech (11:11-13), sau đó đến Jer (32:6-15, 18:23, 19:1), và xa nhất là việc các anh em bán ông Giuse với giá 20 đồng bạc (Gen 37:28).
– Các học giả tranh luận để hiểu lý do tại sao Judah bán Chúa Giêsu: Có hai lý do chính: (1) Theo Tin Mừng Gioan (12:6) và một số đông học giả, lý do chính là lòng tham tiền. (2) Có một số học giả cho Judah biết Chúa Giêsu có uy quyền, nên việc bán Chúa chỉ là nguyên cớ làm cho Chúa Giêsu phải ra tay uy quyền của Đấng Messiah để tiêu diệt những kẻ phản nghịch. Sau này, khi Judah thấy sự suy luận của mình không đúng, nên đem tiền trả lại; và khi các thượng tế không nhận, Judah ném tiền vào Đền Thờ. Có lẽ ý kiến thứ nhất đúng hơn, vì nói lên được bản chất và phù hợp với chức quản lý của Judah.
– Có một hiện tượng lạ trong Tin Mừng Matthew: Các môn đệ khác đều gọi Chúa Giêsu là Thầy (Lord), chỉ riêng có Judah gọi Chúa là Rabbi (hai lần). Danh xưng Rabbi rất xa lạ, chỉ dùng cho các Pharisees và scribes, và bị Chúa Giêsu cấm các môn đệ: đừng để ai gọi mình là Rabbi.
– Judah biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.” Judah tiến lại gần Người và nói: “Thưa Thầy!” rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
– Judah đi thắt cổ: Bấy giờ, Judah, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp người vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: “Can gì đến chúng tôi. Mặc kệ anh!” Judah ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: “Không được phép bỏ vào quỹ Đền Thờ, vì đây là giá máu.” Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền đó tậu “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. Vì vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” (Haceldama) cho đến ngày nay. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Jeremiah: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Israel đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm,” theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”
– Có ba sự khác biệt giữa trình thuật của Matthew và Công Vụ Tông Đồ (Cv 1:18-19). Thứ nhất, cách Judah chết: thắt cổ trong Matthew và té lòi ruột trong CVTĐ. Thứ hai, các thượng tế dùng tiền để mua thửa ruộng; trong khi chính Judah dùng tiền mua thửa ruộng. Thứ ba, giá máu là máu của Chúa Giêsu trong Matthew; trong khi máu là của Judah trong CVTĐ.
– Mặc dù Judah chỉ chối Chúa Giêsu một lần, sau đó biết hối hận mang tiền lại trả cho các thượng tế; nhưng điều khác biệt với Phêrô là Judah không tin tưởng nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, nên đã ra đi và quên sinh đời mình.
(3) Của những người trong Thượng Hội Đồng:
– Khi các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
– Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: “Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ thân thể của Ngài.
– Tội phạm thượng: Vị thượng tế nói với Người: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?”
Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” Bấy giờ vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: “Hắn đáng chết!” Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: “Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương Khó.
Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
(4) Của Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
– Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabbas: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Barabbas, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: “Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?” Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Barabbas thì hơn.”
– Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: “Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” Họ la lên: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Philatô lại hỏi: “Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
– Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: “Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.”
– Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: “Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!”
– Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
– Mai táng Đức Giêsu (Mk 15:42-47; Lk 23:50 -55; Jn 19:38-42): Họ đã vi phạm trầm trọng luật của ngày Sabbath là không được ra khỏi nhà và vào chỗ ở của Dân Ngoại. Hôm sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pharisees kéo nhau đến ông Philatô, và nói: “Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp bợm ấy khi còn sống có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.” Vậy xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước.” Ông Philatô bảo họ: “Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi biết!” Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt lính canh mồ. Matthew muốn chứng tỏ uy quyền của Thiên Chúa: Ngài sống lại và ra khỏi mộ giữa bao nhiêu lính canh phòng cẩn mật, mà không một ai biết.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta hãy học cách hành xử khôn ngoan, can đảm, và đầy tình thương của Chúa Giêsu trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Ngài.
– Ngài vui lòng chịu đau khổ là vì tình thương dành cho con người; nhưng con người đã mù lòa không chịu nhận ra và đáp trả tình thương của Thiên Chúa.
– Đau khổ chỉ tạm thời, nhưng vinh quang dành được sau đau khổ không gì có thể so sánh được. Chúng ta hãy bắt chước cách chịu đựng đau khổ của Chúa Giêsu.

PASSION SUNDAY, YEAR A
Readings: (PROCESSION: Mt 21:1-11); Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mt 26:14-27:66.
1/ Reading I: RSV Isaiah 50:4 The Lord GOD has given me the tongue of those who are taught, that I may know how to sustain with a word him who is weary. Morning by morning he wakens, he wakens my ear to hear as those who are taught. 5 The Lord GOD has opened my ear, and I was not rebellious, I turned not backward. 6 I gave my back to those who smote me, and my cheeks to those who pulled out the beard; I hid not my face from shame and spitting. 7 For the Lord GOD helps me; therefore I have not been confounded; therefore I have set my face like a flint, and I know that I shall not be put to shame.
2/ Reading II: RSV Philippians 2:6 who, though he was in the form of God, did not count equality with God a thing to be grasped, 7 but emptied himself, taking the form of a servant, being born in the likeness of men. 8 And being found in human form he humbled himself and became obedient unto death, even death on a cross. 9 Therefore God has highly exalted him and bestowed on him the name which is above every name, 10 that at the name of Jesus every knee should bow, in heaven and on earth and under the earth, 11 and every tongue confess that Jesus Christ is Lord, to the glory of God the Father.
3/ Gospel: RSV Matthew 26:14 Then one of the twelve, who was called Judas Iscariot, went to the chief priests 15 and said, “What will you give me if I deliver him to you?” And they paid him thirty pieces of silver. 16 And from that moment he sought an opportunity to betray him. 17 Now on the first day of Unleavened Bread the disciples came to Jesus, saying, “Where will you have us prepare for you to eat the Passover?” 18 He said, “Go into the city to a certain one, and say to him, `The Teacher says, My time is at hand; I will keep the Passover at your house with my disciples.'” 19 And the disciples did as Jesus had directed them, and they prepared the Passover. 20 When it was evening, he sat at table with the twelve disciples; 21 and as they were eating, he said, “Truly, I say to you, one of you will betray me.” 22 And they were very sorrowful, and began to say to him one after another, “Is it I, Lord?” 23 He answered, “He who has dipped his hand in the dish with me, will betray me. 24 The Son of man goes as it is written of him, but woe to that man by whom the Son of man is betrayed! It would have been better for that man if he had not been born.” 25 Judas, who betrayed him, said, “Is it I, Master?” He said to him, “You have said so.” 26 Now as they were eating, Jesus took bread, and blessed, and broke it, and gave it to the disciples and said, “Take, eat; this is my body.” 27 And he took a cup, and when he had given thanks he gave it to them, saying, “Drink of it, all of you; 28 for this is my blood of the covenant, which is poured out for many for the forgiveness of sins. 29 I tell you I shall not drink again of this fruit of the vine until that day when I drink it new with you in my Father’s kingdom.” 30 And when they had sung a hymn, they went out to the Mount of Olives. 31 Then Jesus said to them, “You will all fall away because of me this night; for it is written, `I will strike the shepherd, and the sheep of the flock will be scattered.’ 32 But after I am raised up, I will go before you to Galilee.” 33 Peter declared to him, “Though they all fall away because of you, I will never fall away.” 34 Jesus said to him, “Truly, I say to you, this very night, before the cock crows, you will deny me three times.” 35 Peter said to him, “Even if I must die with you, I will not deny you.” And so said all the disciples. 36 Then Jesus went with them to a place called Gethsemane, and he said to his disciples, “Sit here, while I go yonder and pray.” 37 And taking with him Peter and the two sons of Zebedee, he began to be sorrowful and troubled. 38 Then he said to them, “My soul is very sorrowful, even to death; remain here, and watch with me.” 39 And going a little farther he fell on his face and prayed, “My Father, if it be possible, let this cup pass from me; nevertheless, not as I will, but as thou wilt.” 40 And he came to the disciples and found them sleeping; and he said to Peter, “So, could you not watch with me one hour? 41 Watch and pray that you may not enter into temptation; the spirit indeed is willing, but the flesh is weak.” 42 Again, for the second time, he went away and prayed, “My Father, if this cannot pass unless I drink it, thy will be done.” 43 And again he came and found them sleeping, for their eyes were heavy. 44 So, leaving them again, he went away and prayed for the third time, saying the same words. 45 Then he came to the disciples and said to them, “Are you still sleeping and taking your rest? Behold, the hour is at hand, and the Son of man is betrayed into the hands of sinners. 46 Rise, let us be going; see, my betrayer is at hand.” 47 While he was still speaking, Judas came, one of the twelve, and with him a great crowd with swords and clubs, from the chief priests and the elders of the people. 48 Now the betrayer had given them a sign, saying, “The one I shall kiss is the man; seize him.” 49 And he came up to Jesus at once and said, “Hail, Master!” And he kissed him. 50 Jesus said to him, “Friend, why are you here?” Then they came up and laid hands on Jesus and seized him. 51 And behold, one of those who were with Jesus stretched out his hand and drew his sword, and struck the slave of the high priest, and cut off his ear. 52 Then Jesus said to him, “Put your sword back into its place; for all who take the sword will perish by the sword. 53 Do you think that I cannot appeal to my Father, and he will at once send me more than twelve legions of angels? 54 But how then should the scriptures be fulfilled, that it must be so?” 55 At that hour Jesus said to the crowds, “Have you come out as against a robber, with swords and clubs to capture me? Day after day I sat in the temple teaching, and you did not seize me. 56 But all this has taken place, that the scriptures of the prophets might be fulfilled.” Then all the disciples forsook him and fled. 57 Then those who had seized Jesus led him to Caiaphas the high priest, where the scribes and the elders had gathered. 58 But Peter followed him at a distance, as far as the courtyard of the high priest, and going inside he sat with the guards to see the end. 59 Now the chief priests and the whole council sought false testimony against Jesus that they might put him to death, 60 but they found none, though many false witnesses came forward. At last two came forward 61 and said, “This fellow said, `I am able to destroy the temple of God, and to build it in three days.'” 62 And the high priest stood up and said, “Have you no answer to make? What is it that these men testify against you?” 63 But Jesus was silent. And the high priest said to him, “I adjure you by the living God, tell us if you are the Christ, the Son of God.” 64 Jesus said to him, “You have said so. But I tell you, hereafter you will see the Son of man seated at the right hand of Power, and coming on the clouds of heaven.” 65 Then the high priest tore his robes, and said, “He has uttered blasphemy. Why do we still need witnesses? You have now heard his blasphemy. 66 What is your judgment?” They answered, “He deserves death.” 67 Then they spat in his face, and struck him; and some slapped him, 68 saying, “Prophesy to us, you Christ! Who is it that struck you?” 69 Now Peter was sitting outside in the courtyard. And a maid came up to him, and said, “You also were with Jesus the Galilean.” 70 But he denied it before them all, saying, “I do not know what you mean.” 71 And when he went out to the porch, another maid saw him, and she said to the bystanders, “This man was with Jesus of Nazareth.” 72 And again he denied it with an oath, “I do not know the man.” 73 After a little while the bystanders came up and said to Peter, “Certainly you are also one of them, for your accent betrays you.” 74 Then he began to invoke a curse on himself and to swear, “I do not know the man.” And immediately the cock crowed. 75 And Peter remembered the saying of Jesus, “Before the cock crows, you will deny me three times.” And he went out and wept bitterly. 27:1 When morning came, all the chief priests and the elders of the people took counsel against Jesus to put him to death; 2 and they bound him and led him away and delivered him to Pilate the governor. 3 When Judas, his betrayer, saw that he was condemned, he repented and brought back the thirty pieces of silver to the chief priests and the elders, 4 saying, “I have sinned in betraying innocent blood.” They said, “What is that to us? See to it yourself.” 5 And throwing down the pieces of silver in the temple, he departed; and he went and hanged himself. 6 But the chief priests, taking the pieces of silver, said, “It is not lawful to put them into the treasury, since they are blood money.” 7 So they took counsel, and bought with them the potter’s field, to bury strangers in. 8 Therefore that field has been called the Field of Blood to this day. 9 Then was fulfilled what had been spoken by the prophet Jeremiah, saying, “And they took the thirty pieces of silver, the price of him on whom a price had been set by some of the sons of Israel, 10 and they gave them for the potter’s field, as the Lord directed me.” 11 Now Jesus stood before the governor; and the governor asked him, “Are you the King of the Jews?” Jesus said, “You have said so.” 12 But when he was accused by the chief priests and elders, he made no answer. 13 Then Pilate said to him, “Do you not hear how many things they testify against you?” 14 But he gave him no answer, not even to a single charge; so that the governor wondered greatly. 15 Now at the feast the governor was accustomed to release for the crowd any one prisoner whom they wanted. 16 And they had then a notorious prisoner, called Barabbas. 17 So when they had gathered, Pilate said to them, “Whom do you want me to release for you, Barabbas or Jesus who is called Christ?” 18 For he knew that it was out of envy that they had delivered him up. 19 Besides, while he was sitting on the judgment seat, his wife sent word to him, “Have nothing to do with that righteous man, for I have suffered much over him today in a dream.” 20 Now the chief priests and the elders persuaded the people to ask for Barabbas and destroy Jesus. 21 The governor again said to them, “Which of the two do you want me to release for you?” And they said, “Barabbas.” 22 Pilate said to them, “Then what shall I do with Jesus who is called Christ?” They all said, “Let him be crucified.” 23 And he said, “Why, what evil has he done?” But they shouted all the more, “Let him be crucified.” 24 So when Pilate saw that he was gaining nothing, but rather that a riot was beginning, he took water and washed his hands before the crowd, saying, “I am innocent of this man’s blood; see to it yourselves.” 25 And all the people answered, “His blood be on us and on our children!” 26 Then he released for them Barabbas, and having scourged Jesus, delivered him to be crucified. 27 Then the soldiers of the governor took Jesus into the praetorium, and they gathered the whole battalion before him. 28 And they stripped him and put a scarlet robe upon him, 29 and plaiting a crown of thorns they put it on his head, and put a reed in his right hand. And kneeling before him they mocked him, saying, “Hail, King of the Jews!” 30 And they spat upon him, and took the reed and struck him on the head. 31 And when they had mocked him, they stripped him of the robe, and put his own clothes on him, and led him away to crucify him. 32 As they went out, they came upon a man of Cyrene, Simon by name; this man they compelled to carry his cross. 33 And when they came to a place called Golgotha (which means the place of a skull), 34 they offered him wine to drink, mingled with gall; but when he tasted it, he would not drink it. 35 And when they had crucified him, they divided his garments among them by casting lots; 36 then they sat down and kept watch over him there. 37 And over his head they put the charge against him, which read, “This is Jesus the King of the Jews.” 38 Then two robbers were crucified with him, one on the right and one on the left. 39 And those who passed by derided him, wagging their heads 40 and saying, “You who would destroy the temple and build it in three days, save yourself! If you are the Son of God, come down from the cross.” 41 So also the chief priests, with the scribes and elders, mocked him, saying, 42 “He saved others; he cannot save himself. He is the King of Israel; let him come down now from the cross, and we will believe in him. 43 He trusts in God; let God deliver him now, if he desires him; for he said, `I am the Son of God.'” 44 And the robbers who were crucified with him also reviled him in the same way. 45 Now from the sixth hour there was darkness over all the land until the ninth hour. 46 And about the ninth hour Jesus cried with a loud voice, “Eli, Eli, lama sabachthani?” that is, “My God, my God, why hast thou forsaken me?” 47 And some of the bystanders hearing it said, “This man is calling Elijah.” 48 And one of them at once ran and took a sponge, filled it with vinegar, and put it on a reed, and gave it to him to drink. 49 But the others said, “Wait, let us see whether Elijah will come to save him.” 50 And Jesus cried again with a loud voice and yielded up his spirit. 51 And behold, the curtain of the temple was torn in two, from top to bottom; and the earth shook, and the rocks were split; 52 the tombs also were opened, and many bodies of the saints who had fallen asleep were raised, 53 and coming out of the tombs after his resurrection they went into the holy city and appeared to many. 54 When the centurion and those who were with him, keeping watch over Jesus, saw the earthquake and what took place, they were filled with awe, and said, “Truly this was the Son of God!” 55 There were also many women there, looking on from afar, who had followed Jesus from Galilee, ministering to him; 56 among whom were Mary Magdalene, and Mary the mother of James and Joseph, and the mother of the sons of Zebedee. 57 When it was evening, there came a rich man from Arimathea, named Joseph, who also was a disciple of Jesus. 58 He went to Pilate and asked for the body of Jesus. Then Pilate ordered it to be given to him. 59 And Joseph took the body, and wrapped it in a clean linen shroud, 60 and laid it in his own new tomb, which he had hewn in the rock; and he rolled a great stone to the door of the tomb, and departed. 61 Mary Magdalene and the other Mary were there, sitting opposite the sepulcher. 62 Next day, that is, after the day of Preparation, the chief priests and the Pharisees gathered before Pilate 63 and said, “Sir, we remember how that impostor said, while he was still alive, `After three days I will rise again.’ 64 Therefore order the sepulcher to be made secure until the third day, lest his disciples go and steal him away, and tell the people, `He has risen from the dead,’ and the last fraud will be worse than the first.” 65 Pilate said to them, “You have a guard of soldiers; go, make it as secure as you can.” 66 So they went and made the sepulcher secure by sealing the stone and setting a guard.
I. THEME: How Christ endured sufferings.
St. Thomas Aquinas answered the question whether fortitude is a virtue as followed:
Wherefore it belongs to human virtue to make man good, to make his work accord with reason. This happens in three ways: first, by rectifying reason itself, and this is done by the intellectual virtues; secondly, by establishing the rectitude of reason in human affairs; and this belongs to justice; thirdly, by removing the obstacles to the establishment of this rectitude in human affairs. Now the human will is hindered in two ways from following the rectitude of reason. First, through being drawn by some object of pleasure to something other than what the rectitude of reason requires; and this obstacle is removed by the virtue of temperance. Secondly, through the will being disinclined to follow that which is in accordance with reason, on account of some difficulty that presents itself. In order to remove this obstacle fortitude of the mind is requisite, whereby to resist the aforesaid difficulty even as a man, by fortitude of body, overcomes and removes bodily obstacles (ST IIaIIae, Q. 123, A.1).
Applying St. Thomas’ explanation into Christ’s sufferings, we will see the logic of his suffering. First, Christ knows the good he shall get from his sufferings, that is, the salvation for all human souls. Secondly, he established the rectitude of reason in human affairs, that is, by his sufferings he takes away all their sins so they don’t have to suffer God’s judgment. He establishes justice between God and people. In order to achieve this purpose, Jesus did two things: First, he paid attention only to his mission which is to convince people to believe in him to attain salvation; and secondly, he must overcome all obstacles during his Passion and Death.
We can see this process in all the readings of the Passion Sunday. In the first reading, the Isaiah’s third song, the Suffering Servant didn’t yield when he is persecuted because he knows that he shall not be confounded or put to shame. He was trained to face hardship. In the second reading, only in five short verses, the author of the Letter to the Philippians describes the whole mission of Jesus when he entered the world. Though he is God, he emptied himself and put on the human form so he can suffer for people. By his suffering and death, God has highly exalted him and bestowed on him the name which is above every name. In the Matthew’s Gospel, the author reported in details Christ’s Passion, Death and Resurrection.
II. ANALYSIS:
1/ Reading I: The Third Song of God’s Suffering Servant
1.1/ The Suffering Servant endured sufferings because he trusted in God: As a human being, everybody is afraid of sufferings. The reason why one wants to suffer because he firmly believes in the result he shall get after sufferings; for example, a medal for an athlete. The Suffering Servant wanted to suffer because he believed in God and shall liberate God’s people from sins. He confessed his faith in God: “I gave my back to those who beat me, my cheeks to those who plucked my beard; my face I did not shield from buffets and spitting. The Lord God is my help; therefore I am not disgraced; I have set my face like flint, knowing that I shall not be put to shame.”
1.2/ The Suffering Servant knew how to support those in suffering: An athlete received not only the medal after the competition, but also other rewards such as: a healthy body, a strong will, etc. The Suffering Servant received not only praise by the Father, but also compassion to support those in suffering. He stated: “The Lord God has given me a well-trained tongue, that I might know how to speak to the weary a word that will rouse them. Morning after morning he opens my ear that I may hear; aand I have not rebelled, have not turned back.”
2/ Reading II: Jesus must go through sufferings to achieve glory.
2.1/ Christ humbly suffered: St. Paul used Christ’s exemplar of suffering to teach the Philippians: “Have among yourselves the same attitude that is also yours in Christ Jesus, who, though he was in the form of God, did not regard equality with God something to be grasped. Rather, he emptied himself, taking the form of a slave, coming in human likeness; and found human in appearance, he humbled himself, becoming obedient to death, even death on a cross.”
Jesus himself is God; but he humbled himself to put on a human body. The Greek can’t understand this action. While they were trying to escape their human body because they considered them as a prison to confine their soul; Jesus wanted to incarnate in a body to become like men. Moreover, Jesus has God’s absolute power to wipe out all sufferings; but he volunteered to go through the way of his Father: to die on the cross to redeem people.
2.2/ God greatly exalted Christ: Since none is humble, obedient, and suffered like Christ; as a result, none has such a glory like him. St. Paul described this glory as followed: “Because of this, God greatly exalted him and bestowed on him the name that is above every name, that at the name of Jesus every knee should bend, of those in heaven and on earth and under the earth, and every tongue confess that Jesus Christ is Lord, to the glory of God the Father.”
Jesus also taught his disciples the way to be greatest: “The kings of the Gentiles exercise lordship over them; and those in authority over them are called benefactors. But not so with you; rather let the greatest among you become as the youngest, and the leader as one who serves” (Lk. 22:25-26). St. Paul also encouraged his faithful: “provided we suffer with him in order that we may also be glorified with him” (Rom 8:17b).
3/ Gospel: Christ’s Passion and Death according to St. Matthew
Since the Passion is long, those who want to read the commentary can follow the commentary on Mark’s Passion in year B because Matthew closely followed Mark’s Passion. There are only two differences which were on Judas Iscariot; we shall comment in details these two differences in Judas’ betrayal. In addition, we shall pay a special attention to Jesus’ acts when he faced his Passion and the reactions of four kinds of people which are represented by Simon Peter, Judas Iscariot, Pilate and the Sandherin.
3.1/ Jesus’ attitudes: Four attitudes we learned from Christ in his Passion.
(1) He was very courageous and ready to accept sufferings because he knew suffering is only temporal and the way to reach glory. Before entering his Passion, Jesus knew sufferings are lasted only three days, from Thursday to Saturday of the Holy Week, after that is the glorious resurrection as he forewarned his disciples. It is his firm faith in his Father that helped him to overcome all sufferings to the glorious victory. We can illustrate his confidence with the events that happened before the Passion.
– During the Passover meal, Jesus said, “Truly, I say to you, one of you will betray me” (26:21). Jesus could point out Judas is the betrayer and he shall not escape the disciples’ hands; and Jesus shall escape his plan. But Jesus didn’t accuse Judah because he wanted to give him a chance to repent; but Judas chose to be indifferent with Jesus’ warning, “The Son of man goes as it is written of him, but woe to that man by whom the Son of man is betrayed! It would have been better for that man if he had not been born” (26:24).
– After the meal, Jesus sang the hymn with his disciples to thank God’s wise providence though he is going to confront worldly powers. This shows that Jesus completely believed in God’s plan, without fear or sadness.
(2) He always obeyed his Father’s will: There are two events that shows his obedience and willing to do his Father’s will.
– First, Jesus prayed in Gethsemane Garden: He said to his disciples, “Sit here, while I go yonder and pray.” And taking with him Peter and the two sons of Zebedee, he began to be sorrowful and troubled, he said to them, “My soul is very sorrowful, even to death; remain here, and watch with me.” During the hours before the Passion, Jesus wanted to have the support from the Father and his disciples; but he got none from both sides. The Father seems to hide from him; the disciples though they were there but offered no help. Running back and forth, Jesus felt all forsook him. However, he was still courageous and prayed, “My Father, if it be possible, let this cup pass from me; nevertheless, not as I will, but as thou wilt” (26:39). Jesus, in his human nature, feared what are going to happen so he prayed his Father to take away the cup because he knows God can do all things. However, he is ready to do God’s will more than his will. After the third prayer, he came back to his disciples and told them, “Are you still sleeping and taking your rest? Behold, the hour is at hand, and the Son of man is betrayed into the hands of sinners. Rise, let us be going; see, my betrayer is at hand” (26:45-46).
– Next is Jesus’ dying moment on the cross: Matthew reported this moment as followed, “Now from the sixth hour there was darkness over all the land until the ninth hour. And about the ninth hour Jesus cried with a loud voice, “Eli, Eli, lama sabachthani?” that is, “My God, my God, why hast thou forsaken me?” And some of the bystanders hearing it said, “This man is calling Elijah.” And one of them at once ran and took a sponge, filled it with vinegar, and put it on a reed, and gave it to him to drink. But the others said, “Wait, let us see whether Elijah will come to save him.” And Jesus cried again with a loud voice and yielded up his spirit. And behold, the curtain of the temple was torn in two, from top to bottom; and the earth shook, and the rocks were split; the tombs also were opened, and many bodies of the saints who had fallen asleep were raised” (27:45-52).
Those standing nearby heard only the first two words “Eli, Eli,” they though Jesus is calling the prophet Elijah. The event of the curtain which was split in half is commented by the author of the Letter to the Hebrews as follows, “Therefore, brethren, since we have confidence to enter the sanctuary by the blood of Jesus, by the new and living way which he opened for us through the curtain, that is, through his flesh” (Heb. 10:19-20). From this moment, people no longer need to wait for the Day of Atonement so that the high priest can enter the Holy of the Holies to ask God to forgive their sins; but they can come directly to God to ask for His forgiveness. This event also foretold the Jerusalem destruction (70 A.D.); people no longer have to go to the temple to offer sacrifices for their sins.
(3) Jesus was always truthful when facing sufferings and betrayals.
– First, Jesus treated Judas very nicely: He knew Judas is the betrayer but didn’t revile him or made known his betrayal with other disciples. If they know, Judas shall not be in one piece. But Jesus must let Judas know with the hope that Judas shall repent by his gently treatment. Jesus wanted us to differentiate between two things: According to God’s plan of salvation, Jesus must die; however, people have freedom to cooperate or to destroy God’s plan. If Judas Iscariot weren’t betrayed, there is still other betrayer; moreover, Judas can repent after his betrayal. Unfortunately, he chose not to repent.
– Secondly, Jesus was not afraid to speak the truth though he knew it can lead to his death; for example, when Pilate asks him, “Are you the King of the Jews?” Jesus said, “You have said so.” But when he was accused by the chief priests and elders, he made no answer. Then Pilate said to him, “Do you not hear how many things they testify against you?” But he gave him no answer, not even to a single charge; so that the governor wondered greatly” (Mt. 27:11-14).
Jesus’ answer isn’t completely positive as “exactly;” but, “You have said so.” Jesus wanted to tell Pilate that he isn’t a political king as accused by the Jews, but only as the religious king. In John’s account, Jesus was more clearly, “My kingship is not of this world; if my kingship were of this world, my servants would fight, that I might not be handed over to the Jews; but my kingship is not from the world” (Jn 18:36). He didn’t answer the high priest and the Jews because if he answers them, there is no good for them!
(4) He always loves and forgives: Though faced with the coming Passion, Jesus still remembered his disciples and the future generations. That is the reason why he established the sacrament of the Eucharist to remain and to nourish people’s souls.
– Jesus established the sacrament of the Eucharist, the new Passover: During the meal, “Jesus took bread, and blessed, and broke it, and gave it to the disciples and said, “Take, eat; this is my body.” And he took a cup, and when he had given thanks he gave it to them, saying, “Drink of it, all of you; for this is my blood of the covenant, which is poured out for many for the forgiveness of sins. I tell you I shall not drink again of this fruit of the vine until that day when I drink it new with you in my Father’s kingdom”” (26:26-29). When people celebrate the sacrament of the Eucharist, they are reminded to think about the future when they shall drink the new wine with Christ in God’s kingdom.
– In the background of the old Passover, Jesus wanted his disciples to understand what are going to happen in the new Passover. Like the loaf of bread is divided for many people to eat, Jesus’ body is also broken for his disciples and many people. Like the thanksgiving cup (the third cup of the old Passover), Jesus’ blood is poured out for many people so they will receive their salvation. The Old Covenant which God was established is the covenant on Mount Sinai (Exo 24:3-8). According to this covenant, God shall protect and bless the Israelites as His own people while the Israelites must carefully keep the Ten Commandments. Since the Israelites violated this covenant by not keeping the Ten Commandments, Jesus must establish the New Covenant. According to this covenant, Jesus’ blood must be poured out to redeem people. People are no longer dependent on the law to receive God’s blessing and protection; but are completely dependent on His love, based on Jesus’ blood which is going to be poured out for them.
– When saying these words, Jesus confirmed two things: First, he knew he is going to die, but also knew God’s kingdom is coming. He knew he must carry the cross, but the glory shall be his after all. Secondly, God’s love and his love for people shall overcome all of their sins.
– Though he knew all the apostles shall betray, Jesus is ready to forgive, to reconcile and to provide hope for them when he said, “You will all fall away because of me this night; for it is written, `I will strike the shepherd, and the sheep of the flock will be scattered.’ But after I am raised up, I will go before you to Galilee” (Mt. 26:31-32).
3.2/ The betrayals of Simon Peter and other apostles: When Jesus forewarned one amongst them shall betray him, they were very sorrowful, and began to say to him one after another, “Is it I, Lord?” The apostles didn’t know who is the betrayer in Matthew’s account? They might know their weakness so they took turn to ask Jesus that question. Jesus foreknew and prepared everything he can for them to understand what are going to happen, such as: teaching, transfiguring, forewarning, but what shall happen must happen; they shall run away from him! However, he believes they shall recognize the truth and completely believe in him after his Passion, Death and Resurrection.
– Peter didn’t know his weakness, so he said to Jesus, “Though they all fall away because of you, I will never fall away.” But Jesus said to him, “Truly, I say to you, this very night, before the cock crows, you will deny me three times.” Peter said to him, “Even if I must die with you, I will not deny you.” And so said all the disciples” (Mt 26:33-35). Only God knows for certain what shall happen to people; they don’t know surely what shall happen to them. Therefore, people must believe in what God said more than what people or they themselves said.
– The one who drew the sword and cut off the right ear of the high priest’s servant is Peter, as said in John’s account (Jn 18:10). This reaction is proper with Peter’s temperament. He is the only one who has courage to protect his master. At this moment, things happened exactly as Jesus illustrated, “I will strike the shepherd, and the sheep of the flock will be scattered” (26:31). When the soldiers seized and tied up Jesus, all his disciples ran away from him; they feared they shall be persecuted with him.
– Peter was also gone through the investigation at the same time with Jesus: while Jesus was investigated officially in the palace, Peter was investigated unofficially in the garden. Matthew reported Peter’s denial of Jesus three times as follows: The first time, Peter was sitting outside in the courtyard. And a maid came up to him, and said, “You also were with Jesus the Galilean.” Peter denied it before them all, saying, “I do not know what you mean.” The second time, when he went out to the porch, another maid saw him, and she said to the bystanders, “This man was with Jesus of Nazareth.” Again he denied it with an oath, “I do not know the man.” The last time, while the bystanders came up and said to Peter, “Certainly you are also one of them, for your accent betrays you.” Then he began to invoke a curse on himself and to swear, “I do not know the man.” And immediately the cock crowed. And Peter remembered the saying of Jesus, “Before the cock crows, you will deny me three times.” And he went out and wept bitterly.
Though Peter denied Jesus three times, he is still more courageous than other apostles because they didn’t follow Jesus to the high priest’s palace. Different with Judas Iscariot, Peter recognized his betrayal and his truly repentance helped him to begin the process of reconciliation and of witness for Jesus. Peter shall become the witness for Jesus’ resurrection before the Sanhedrin.
3.3/ The selfishness and betrayal of Judah Iscariot: Before Jesus’ Passover meal with his apostles, “Judas went out to meet the high priests and said to them, “What will you give me if I deliver him to you?” And they paid him thirty pieces of silver. And from that moment he sought an opportunity to betray him” (Mt 26:15-16).
– Most of Jesus’ apostles are the Galileans, only Judas belongs to the village of Iscariot in Judea. All the gospels didn’t mention Jesus’ calling of Judas. Most of the places in the gospels where Judas is mentioned, there is another title that follows his name, such as: the betrayer, the one who sold Jesus or the one who handed Jesus over.
– The price which the high priests paid Judas is very cheap; it is the price for a cheap slave. To understand how cheap it is, we can compare with the present currency. A dollar is equivalent with four shekels; thirty shekels is about eight dollars. However, we must compare with the currency at that time. A denarius of that time is equivalent with a day of labor, so thirty denarii is the monthly salary of a working person. We can’t understand why Judas sold Jesus with such a cheap price! The pound of costly ointment of pure nard which Mary poured on Jesus’ head and feet costs three hundred denarii!
– There are many events in the Old Testament which imply Judas’ selling of Jesus, the most near to Jesus’ time is in Zechariah 11:11-13; then Jeremiah 32:6-15; 18:23; 19:1; and the farthest is the selling of Joseph by his brothers for twenty silver pieces in Genesis 37:28.
– The scholars tried to find out the reason why Judas decided to sell Jesus. There are two different opinions: First, according to the Fourth Gospel (Jn. 12:6) and many scholars, Judas sold Jesus due to his greed of money. Secondly, some said since Judas knew Jesus has great power, the selling is the cause that forces Jesus to use the Messiah’s power to destroy his enemies. Later, when Judas saw his reasoning isn’t correct, he returned the money back to the high priest. When they refused to receive the money, Judas threw it in the temple. The first opinion is more correct because it has a Scripture basis and is proper with Judas’ attitude and his title as a bursar.
– There was a strange phenomenon in Matthew’s gospel: while other disciples called Jesus as the Lord, Judas called Jesus as Rabbi twice. The latter is very foreign, used only for the Pharisees and the scribes. Jesus forbade his disciples: Do not let anyone call them Rabbi.
– Judas knew well the place where Jesus used to pray. To differentiate between Jesus and his disciples, Judas had given soldiers a sign, saying, “The one I shall kiss is the man; seize him.” He came up to Jesus at once and said, “Hail, Master!” and he kissed him. They seized him at once. People use the kiss to show their love for others; the Jews have a habit of kissing their master; but Judas used his kiss to betray his master. He might think that he could bluff Jesus. In Luke’s account, Jesus let Judas know his betrayal when he said, “Judas, would you betray the Son of man with a kiss?” (Lk 22:48).
– Judas went out and killed himself: Matthew reported, “When Judas, his betrayer, saw that he was condemned, he repented and brought back the thirty pieces of silver to the chief priests and the elders, saying, “I have sinned in betraying innocent blood.” They said, “What is that to us? See to it yourself.” And throwing down the pieces of silver in the temple, he departed; and he went and hanged himself. But the chief priests, taking the pieces of silver, said, “It is not lawful to put them into the treasury, since they are blood money.” So they took counsel, and bought with them the potter’s field, to bury strangers in. Therefore that field has been called the Field of Blood (Haceldama) to this day. Then was fulfilled what had been spoken by the prophet Jeremiah, saying, “And they took the thirty pieces of silver, the price of him on whom a price had been set by some of the sons of Israel, and they gave them for the potter’s field, as the Lord directed me” (Mt. 27:3-10).
– There are three differences between Matthew’s account and the Acts 1:18-19: First, the way Judas killed himself, hanging in Matthew and falling with his guts out in the Acts. Secondly, the high priests used the money to buy a field. Lastly, the blood money is Jesus’ blood in Matthew while it is Judas’ blood in the Acts.
– Though Judas only denied Jesus one time; after that he regretted and returned the money to the high priests; but the difference between the two apostles is that Judas didn’t believe in God’s mercy, so he went out and killed himself.
3.4/ The dishonesty of the Sanhedrin:
– When the high priests and the entire Sanhedrin tried to find a reason to condemn Jesus to death, they couldn’t find it, because though they had many wrong accusations, but these couldn’t match with others. Some of these are listed by Matthew.
– The sin of planning to destroy the temple: Someone accused Jesus, “This fellow said, `I am able to destroy the temple of God, and to build it in three days’” (26:61). This is a wrong accusation because Jesus said, “Destroy this temple, and in three days I will raise it up” (Jn. 2:19); not “I shall destroy.” Moreover, Jesus didn’t imply the Jerusalem temple but his own body.
– The blasphemy sin: “And the high priest said to him, “I adjure you by the living God, tell us if you are the Christ, the Son of God.” Jesus said to him, “You have said so. But I tell you, hereafter you will see the Son of man seated at the right hand of Power, and coming on the clouds of heaven.” Then the high priest tore his robes, and said, “He has uttered blasphemy. Why do we still need witnesses? You have now heard his blasphemy. What is your judgment?” They answered, “He deserves death”” (Mt. 26:63-66).
This high priest seriously violated the law when he asked Jesus this question, because the law doesn’t permit the inquisitor to ask the accused the question which by answering the question, the accused is condemned. The high priest knew what Jesus shall answer when he asks him about the relationship between him and God because Jesus can’t lie. Jesus wasn’t hesitated to answer that he is the Messiah; partly because it is the truth, partly because he wanted to end the Sandherin’s dirty game. By his answer, he wanted to let them know that he has courage to speak the truth though by saying the truth, it can lead him to death. If he weren’t saying that, they shall have no reason to condemn him. Moreover, he wanted to let them see that all things they shall do to him are just temporal. They will see his glorious victory after his Passion.
– The initial investigation before the Sandherin: The Sandherin was considered the highest court of the Jews; it has seventy-one people who are the high priests, the elders and the scribes. The Sandherin has power only over the problems that related to the Jews’ religion; they can’t kill people. The Sandherin must organize their meeting at the Hewn Stone, in the area of the temple.
The Sandherin broke many laws when they judged Jesus in that night. The law doesn’t permit them to judge people in the night, the feast days and the wrong place. All witnesses must be investigated at different places and their witnesses must be corrected in single detail. Each member of the Sandherin must give their own judgment, beginning with the youngest. If it is the death sentence, it needs a passed night before the sentence is executed. Its purpose is for all the members to have an opportunity to carefully think if there exists a lighter sentence than death. In short, since they wanted to eliminate Jesus right away, they judged and condemned Jesus illegally.
– The burial of Jesus (Cf. Mk 15:42-47; Lk 23:50 -55; Jn 19:38-42): The high priests and the Pharisees seriously violated the Sabbath law when they left their house and entered the Gentiles’ place. Matthew reported this violation as follows, “Next day, that is, after the day of Preparation, the chief priests and the Pharisees gathered before Pilate and said, “Sir, we remember how that impostor said, while he was still alive, `After three days I will rise again.’ Therefore order the sepulcher to be made secure until the third day, lest his disciples go and steal him away, and tell the people, `He has risen from the dead,’ and the last fraud will be worse than the first.” Pilate said to them, “You have a guard of soldiers; go, make it as secure as you can.” So, they went and made the sepulcher secure by sealing the stone and setting a guard” (27:62-66). Matthew wanted to show God’s power: Jesus resurrected and got out of the tomb and even the guard didn’t know it.
3.5/ The effeminacy and cowardice of Pilate: At the morning break, the high priests organized a meeting with the elders and the scribes in the Sanhedrin. Then, they led Jesus out and handed him over to Pilate. As said above, the Sanhedrin only has power over the religious problem and can’t execute the death sentence. Therefore, after they found the religious reason to condemn Jesus as blasphemy; now they must find a political reason for Pilate to kill Jesus because they knew Pilate shall not concern with the different opinion about their religion as reported in Luke’s account. They found the political reason for Pilate to sentence Jesus to death: Jesus proclaimed himself as the king of the Jews. When he proclaimed this, he is against the Roman power and Emperor Caesar!
So, Pilate the governor asked him, “Are you the King of the Jews?” Jesus said, “You have said so.” But when he was accused by the chief priests and elders, he made no answer. Then Pilate said to him, “Do you not hear how many things they testify against you?” But he gave him no answer, not even to a single charge; so that the governor wondered greatly… Besides, while he was sitting on the judgment seat, his wife sent word to him, “Have nothing to do with that righteous man, for I have suffered much over him today in a dream.”
– Pilate tried to find a reason to release Jesus: “Now at the feast, the governor was accustomed to release for the crowd any one prisoner whom they wanted. And they had then a notorious prisoner, called Barabbas. So when they had gathered, Pilate said to them, “Whom do you want me to release for you, Barabbas or Jesus who is called Christ?” For he knew that it was out of envy, they had delivered him up; but they wanted him to release Barabbas, a murder.
– They asked Pilate to crucify Jesus: Pilate said to them, “Then what shall I do with Jesus who is called Christ?” They all said, “Let him be crucified.” And he said, “Why, what evil has he done?” But they shouted all the more, “Let him be crucified.” So when Pilate saw that he was gaining nothing, but rather that a riot was beginning, he took water and washed his hands before the crowd, saying, “I am innocent of this man’s blood; see to it yourselves.” And all the people answered, “His blood shall be on us and on our children!” Then he released for them Barabbas, and having scourged Jesus, delivered him to be crucified” (27:22-26).
3.6/ The centurion proclaimed Jesus is the Son of God: “When the centurion and those who were with him, keeping watch over Jesus, saw the earthquake and what took place, they were filled with awe, and said, “Truly this was the Son of God!”” (27:54).
III. APPLICATION IN LIFE:
– We should learn Christ’s way of acting which is full of wisdom, courage and love in his last hours on earth to achieve his purpose, that is, to attain salvation for all people.
– We must also know that our mission in this world is to attain the salvation for ourselves and those who God sends to our life.
– In order to achieve these purposes, we must also go through sufferings. We must know all sufferings are only temporal and can’t be compared with the glory which God prepares for us through Christ’s sufferings.

LM. Anthony Đinh Minh Tiên, OP