I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 6,1-6,16-18
(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.
2. Ý CHÍNH:
Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giê-su đề cập tới một nền đạo đức mới là phải làm các việc lành thế nào cho phù hợp với tinh thần mới của Người. Điều cốt yếu khi làm các việc đạo đức là phải khiêm tốn và theo thánh ý Chúa Cha: Tránh làm các việc đạo đức như cầu nguyện để được người ta ca tụng; Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ khi ăn chay để mong được thiên hạ nể phục.
3. CHÚ THÍCH:
– C 1-2: + Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pha-ri-sêu (Biệt Phái), là những kẻ “nói mà không làm”, “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (x Mt 23,3.5). + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật đòi hỏi tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải có, khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được hưởng công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha trên trời.
– C 3-4: + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giê-su cần tránh cho mọi người biết việc bố thí của mình, nên phải thực hiện trong sự âm thầm khiêm tốn.
– C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện phải như sau: Phải cầu nguyện cách khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x Lc 18,10-14) và người đời (x Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được Chúa chấp nhận khi cầu nguyện với lòng tin (x Mt 21,22); Khi cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20); và khi xin Chúa ban những điều tốt lành (x Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ muốn tránh ý đồ phô trương công đức để được ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a khi ông cầu nguyện để làm cho đứa bé mới chết được sống lại (x 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng” là hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này sẽ không còn là sự cầu nguyện đích thực nữa.
– C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục lệ ăn chay mỗi khi có tang chế (x 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta sẽ không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do Thái chỉ buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng Chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá và những lúc gặp thiên tai. Riêng người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12), nhưng việc chay tịnh chỉ mang tính bề ngoài nhằm phô trương (x Mc 2,18), nên Đức Giê-su đã không chấp nhận sự khổ chế này của họ (x Mc 2,19-20). + Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự kín đáo khiêm tốn: thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn… thì họ phải rửa mặt, chải dầu thơm giống như họ vẫn thường làm mỗi khi đi ra đường để người khác không biết họ đang ăn chay.
4. CÂU HỎI:
– HỎI : 1) Khi nói: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh” (c. 4b.6b.18b), phải chăng Đức Giê-su cổ võ một thứ luân lý vụ lợi: Cho đi để được nhận lại ? 2) Muốn có giá trị trước mặt Thiên Chúa và đón nhận được nhiều ơn lành Chúa ban, thì trong Mùa Chay này chúng ta cần tránh và cần làm những công việc gì ? 3) Nguồn gốc và ý nghĩa của nghi thức xức tro trong ngày lễ Tro ra sao ?
– ĐÁP:
1) Đức Giê-su không dạy chúng ta tìm lợi ích cho bản thân mình khi làm việc thiện để được Chúa trả công. Vì nếu như vậy thì Người đã hứa ban thưởng cho họ những gì thuộc về thế gian như tiền bạc, sức khỏe, thành công… Nhưng ở đây Người không nói rõ họ sẽ được Chúa Cha ban cho phần thưởng gì. Nơi nhiều đoạn khác, phần thưởng được hứa hầu như luôn là Nước Trời hay một trong những hoa trái thiêng liêng của nó là sự sống muôn đời (x. Mt 25,46; Mc 10,30). Các môn đệ sẽ được tham dự vào quyền bá chủ của Người (x. Lc 22,28-29), được xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en trong ngày tận thế (x. Mt 19,28). Như vậy, phần thưởng Đức Giê-su hứa cho những kẻ làm việc lành đều qui hướng về mầu nhiệm Cánh Chung sau này, và được Chúa ban cho không, không do việc làm của họ đáng được thưởng, mà chỉ vì tình thương và lòng nhân hậu vô biên của Người mà thôi (Dụ ngôn đầy tớ vô dụng: Lc 17,7-10). Hơn nữa, phần thưởng ở đây còn là chính Thiên Chúa. Những ai làm việc thiện trước mặt Thiên Chúa, với ý hướng làm vui lòng Ngài và nhằm tôn vinh Ngài, thì sẽ được gặp gỡ Ngài, được nhìn thấy nhan Ngài và sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời.
2) Muốn cho việc ăn chay có giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì cần tránh cách ăn chay hình thức bề ngoài như dân Do thái đã bị Đức Chúa quở trách. Nhưng để xứng đáng được Chúa chấp nhận, việc ăn chay phải kèm theo các việc lành như I-sai-a tuyên sấm: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn…”. Nào, cách ăn chay mà Đức Chúa ưa thích chẳng phải thế này đó sao: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ. Thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục”. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu Người liền đáp: “Có Ta đây!” (Is 58,6b-9a).
3) Về nguồn gốc và ý nghĩa của nghi thức xức tro: Lễ nghi xức tro đã thay đổi như sau: những ai phạm tội nặng công khai, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đoàn. Để được hòa nhập trở lại, họ phải thi hành việc sám hối công khai trong Mùa Chay như sau:
– Đầu tiên vào Thứ Tư trước Chúa nhật I Mùa Chay, các tội nhân công khai sẽ phải tập trung trong nhà thờ chính toà. Sau khi mỗi tội nhân lần lượt công khai xưng thú các tội đã phạm, Đức Giám mục sẽ trao cho họ một chiếc áo nhặm để mặc vào và rắc một ít tro trên đầu họ. Sau đó họ sẽ từ nhà thờ đi đến một tu viện để có giờ hồi tâm sám hối. Đến sáng Thứ Năm Tuần thánh, họ sẽ lại đến nhà thờ chính toà. Sau khi xem xét thái độ sám hối của hối nhân trong Mùa Chay, Đức giám mục sẽ ban phép xá giải các tội lỗi cho họ và giao hoà họ lại với cộng đoàn. Từ dây, họ sẽ được tham dự vào các buổi cử hành bí tích.
– Khi xức tro trên đầu hối nhân, chủ sự sẽ đọc một trong hai câu: “Là thân cát bụi sẽ trở về với cát bụi” (St 3,19); hoặc: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Các Thừa Tác Viên không có chức thánh cần phải được chuẩn bị nghi thức và học thuộc các câu nói trên.
– Tro dùng trong phụng tự từ thời Cựu Ước để biểu tượng cho u buồn, cái chết và sự thống hối. Mordecai đã mặc áo vải thô và xức tro khi nghe chiếu chỉ tru diệt dân Do Thái (x. Et 4,1). Ông Gióp cũng mặc áo vải thô và xức tro khi sám hối (x. G 42, 6). Dân thành Ninivê ăn chay, mặc áo nhặm, ngồi trên đống tro (x. Gn 3, 5-6) khi Giona rao giảng về sự thống hối và hoán cải.
Chúa Giê-su nói về sự cần thiết cho một số người tội lỗi để làm việc đền tội, là mang áo nhặm và xức tro (x. Mt 11, 21). Từ thế kỷ thứ hai, Giáo Hội đã dùng tro trong nghi thức Sám Hối. Nhiều Giáo Phụ nhắc đến việc thực hành này.
Lòng sám hối sẽ thúc bách các tín hữu dấn thân sống Tin Mừng, bằng việc từ bỏ mọi xa hoa không cần thiết và thể hiện tình liên đới với người đau khổ.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CẦU NGUYỆN LÀ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời :
– Thưa cha, Chúa chẳng nói gì cả, Ngài chỉ nghe con nói.
– Vậy à ? Thế thì cụ nói gì với Chúa ?
– Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa !
Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là sự hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ :
a) Ta nói và Chúa nghe.- b) Chúa nói và ta nghe.- c) Không ai nói nhưng cả hai cùng nghe.- d) Không có nói mà cũng chẳng có ai nghe.
Ngoài ra chúng ta còn thực hành lời Chúa: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22,40). Làm sao chúng ta có thể luôn cầu nguyện khi chúng ta có trăm công nghìn việc phải làm? Hãy biến mọi công việc ta làm trở thành lời cầu nguyện. Hãy cùng làm việc với Chúa, làm vì lòng mến Chúa và phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo khổ chung quanh chúng ta. Qua đó những việc chúng ta làm và những lời chúng ta nói đều vì Chúa, trong Chúa, với Chúa và để cứu rỗi các linh hồn… như thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng đã nêu gương cho chúng ta.
2) CHỖ NÀO TRONG NHÀ THỜ LOÀI CHUỘT ÍT BỊ QUẤY RẦY NHẤT ?
Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ !”. Nghe vậy, chuột thứ hai cảm thông với bạn nên đề nghị: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy !” Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở lý tưởng như thế trong nhà thờ này thật ư ? Hãy cho tớ biết là chỗ nào vậy ?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo đặt ở cuối nhà thờ này đấy !”.
3) BÁC ÁI YÊU THƯƠNG THA NHÂN LÀ CÁCH ĂN CHAY ĐẸP Ý CHÚA NHẤT:
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.
Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và bị khát nước, nhưng theo luật giữ chay nghiêm ngặt nên thầy trò đều không dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất hết công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc bị mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai nước mang theo ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi như bày tỏ lòng biết ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì hành động không hãm mình vừa qua. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao sáng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương tha nhân của thày, Chúa đã cho xuất hiện thêm một ngôi sao nữa.
4) TÁC HẠI CỦA RƯỢU TRÊN CON NGƯỜI :
Trong kho tàng chuyện cổ nước Pháp có câu chuyện về tác hại của rượu trên con người như sau:
Khi ông Nô-e trồng nho, Sa-tan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:
– Ông đang trồng gì thế?
– Cây nho.
– Nó có lợi gì không?
– Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho, ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.
– Vậy thì để tôi giúp ông.
Sa-tan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Sa-tan lấy máu của chúng tưới vào gốc cây nho. Thế là cây nho lớn rất nhanh. Ông Nô-e lấy trái nho làm rượu.
Từ đó trở đi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ và dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì trở nên mạnh bạo như con sư tử; Nếu uống thêm ly nữa thì sẽ hóa ra ngu dốt như con lừa; Nếu lại uống thêm nữa thì… sẽ tìm hưởng lạc thú bất chính như con heo vậy. Giữ chay sẽ giúp người ta biết lúc nào phải dừng lại. Một người có bản lãnh, sẽ có khả năng làm chủ mình là người biết dừng lại đúng lúc.
3. SUY NIỆM:
1) YÊU THƯƠNG LÀ CHO ĐI: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có một đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì ?” (Gc 2,15-16).
2) HÃY BỐ THÍ CHIA SẺ CƠM ÁO CHO THA NHÂN: Việc đạo đức chúng ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay này là sự bố thí chia sẻ « cơm áo gạo tiền » cho những kẻ nghèo đói bệnh tật. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:
– Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người quảng đại mới thực hiện được tốt công việc bác ái chia sẻ này.
– Việc bố thí giúp ta sử dụng đồng tiền Chúa ban theo ý Chúa muốn: Ý thức được giá trị tương đối của tiền bạc ; Biết dùng tiền để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn ; Giúp ta biết từ bỏ của cải vật chất để có thể thuộc về Chúa trọn vẹn như lời Đức Giê-su khuyên thanh niên giàu có muốn nên hoàn thiện: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia sẻ cho người nghèo, để sẽ có được một kho báu trên trời, rồi hãy đến đây theo tôi” (Mc 10,21).
– Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Ra-pha-en đã khuyên bảo hai cha con Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà cư xử bất công. Làm phúc bố thí thì tốt hơn có nhiều vàng bạc. Việc bố thí sẽ cứu người ta khỏi chết và sẽ tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí chắc sẽ được sống lâu” (Tb 12,8-9).
3) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ? :
Trong Mùa Chay, ngoài việc chăm chỉ dự lễ đọc kinh tại nhà thờ, chúng ta cần tham dự các buổi tĩnh tâm và hồi tâm xét mình Mùa Chay để khám phá ra mình mang mối tội đầu hoặc thói hư nào nơi bản thân để tu sửa và sửa bằng cách nào ?
– Việc đạo đức: Ngoài việc năng dự lễ và rước lễ hằng ngày, chúng ta nên làm thêm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình, hay uống rượu say xỉn, dự lễ Chúa Nhật trễ, xem phim ảnh xấu…
– Hãy dốc lòng làm một việc tốt đối lập với thói xấu, và nói một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin ban ơn Thánh Thần giúp con chừa bỏ được thói ưa nói xấu những kẻ không ưa con hoặc con không ưa họ, bằng cách kể ra một điều tốt của họ với người khác, để mỗi ngày con được nên tốt lành giống Chúa nhiều hơn”.
– Đấm ngực kèm theo lời xin Chúa tha tội mỗi lần đọc kinh cáo mình.
5. LỜI CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con bắt đầu bước vào Mùa Chay. Con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con một thời gian thuận lợi để có dịp duyệt xét lại đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh các sai lỗi thiếu sót nơi bản thân mình. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp, con mới có thể trỗi dậy và quyết tâm đi xưng tội để quay về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã.
– LẠY CHÚA. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn được nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin Chúa giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để con làm vui lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời ở đời sau.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM