HIỆP SỐNG TIN MỪNG, LỄ GIÁNG SINH ABC, LỄ RẠNG ĐÔNG, (Is 62,11-12; Tt 2,4-7 ; Lc 2,15-20.) GÓP PHẦN CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ CHO THA NHÂN

I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2,15-20
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng lễ Rạng Đông nối tiếp Tin Mừng lễ Nửa Đêm mừng Giáng Sinh. Nội dung ghi lại thái độ của các mục đồng sau khi được sứ thần hiện đến loan báo tin vui về sự ra đời của Đấng Cứu Thế. Họ đã tích cực đáp trả bằng cách vội vã rủ nhau lên đường đi sang thành Bê-lem, để coi xem sự việc xảy ra mà Chúa mới cho biết. Theo lời sứ thần hướng dẫn, họ đã sớm tìm thấy Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ và hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đứng bên. Rồi họ thuật lại mọi sự từ khi được sứ thần loan báo tới việc tìm thấy Hài Nhi, đúng với những điều họ đã nghe biết. Cuối cùng họ vui vẻ về nhà, vừa đi vừa ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đã ban Đấng Cứu Thế cho loài người.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hai Nhi này” (Lc 2,16-17).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁNG SINH: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU CỦA THIÊN CHÚA :
Vào thời trung cổ, ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) hoàng tử có một tình thương rất đặc biệt dành cho những người nghèo khổ. Hầu như ngày nào hoàng tử cũng dành ra buổi chiều để đi đến các xóm nghèo và ân cần thăm hỏi giúp đỡ những ai gặp cảnh khó khăn cơ cực. Tuy vậy, hoàng tử rất ngạc nhiên khi thấy dân chúng tỏ vẻ thờ ơ khi thấy chàng xuất hiện. Một hôm hoàng tử đến gặp một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan để xin chỉ giáo phương cách chinh phục tình cảm của dân chúng.
Một thời gian khá lâu sau đó người ta không thấy hoàng tử xuất hiện đi thăm người nghèo. Nhưng rồi một ngày kia, dân chúng lại thấy một người tuổi trung niên đến thăm khu xóm nghèo. Khác với hoàng tử trước kia ăn mặc sang trọng, còn người này mặc áo quần màu trắng đơn sơ giống như một thầy thuốc. Ông ta thuê một căn nhà bình thường để ở. Rồi hàng ngày từ sáng sớm đã ra khỏi nhà, tay xách một chiếc cặp đựng các dụng cụ y tế và thuốc men. Ông ta đến thăm các gia đình có người đau nặng để khám bệnh và phát thuốc miễn phí chữa bệnh. Ông thầy thuốc này có tài chữa bệnh, nên rất nhiều bệnh nhân bị những chứng nan y nhưng chỉ được ông chữa vài lần là khỏi hẳn. Không bao lâu, ông ta đã chinh phục được cảm tình quí mến của mọi người lớn trẻ nhỏ trong vùng. Đây là điều mà trước đó hoàng tử A-lếch-xít không sao đạt được. Ông thầy thuốc kia đã dần dần được nhiều người tín nhiệm. Mỗi khi thấy ông là mọi người bu lại chung quanh nhờ cậy. Hôm thì ông dàn hòa được hai người đang tranh cãi ẩu đả. Hôm khác ông lại hòa giải được đôi vợ chồng giận ghét muốn lìa bỏ nhau. Ông cũng hòa mình chơi chung và khuyên dạy các trẻ em ngỗ nghịch dần dần trở nên ngoan ngoãn dễ dạy và học hành tấn tới.
Thật ra người thầy thuốc đó không ai khác hơn là chính hoàng tử A-lếch-xít. Sau khi gặp vị ẩn sĩ, và nghe lời khuyên của vị này, hoàng tử dành thời giờ đi học nơi một thầy thuốc lành nghề khoảng mười năm. Sau khi thành tài, hoàng tử đã rời bỏ cung điện, đến sống hòa mình giữa xóm lao động nghèo khó, trở thành một người như họ và yêu thương phục vụ họ tận tình. Chính tình thương kèm theo sự khiêm hạ và hy sinh mình của hoàng tử, đã đem lại kết quả tốt đẹp: Hoàng tử đã chinh phục được tình cảm yêu mến kính trọng của thần dân, đặc biệt là những người nghèo khổ bất hạnh.
2) “LỄ NO-EN THỜI THƠ ẤU”:
– Trong quyển tự thuật “Đứa Trẻ Duy Nhất”, một nhà văn Ai-len tên là PHĂNG Ô CON-NO (Frank O’ Connor) đã tự thuật câu chuyện về lễ No-en trong đời ông như sau:
Khi còn bé, vào một ngày trước lễ Giáng Sinh, Ô CON-NO được ông già No-en tặng cho một món đồ chơi chạy bằng giây cót. Thế rồi vào chiều ngày lễ hôm ấy, cậu bé Con-no theo mẹ đi đến một tu viện ở gần nhà. Cậu bé mang theo món quà duy nhất mới nhận được để khoe với mấy nữ tu thân thiết với gia đình cậu.
Một nữ tu dẫn cậu đến viếng máng cỏ được dựng trong nhà nguyện của tu viện. Nhì vào hang đá, cậu bé suy nghĩ khi thấy Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ mà không có món quà nào bên cạnh cả. Cậu nghĩ có lẽ bé Giê-su sẽ rất buồn vì không được ai tặng quà cho. Cậu quay lại hỏi vị nữ tu tại sao Chúa Hài Đồng lại không có món quà nào cả ? Bấy giờ nữ tu kia trả lời: “Vì quá nghèo, nên Mẹ Ma-ri-a không có tiền mua quà cho con trẻ mới sinh”. Câu trả lời ấy tuy giải tỏa phần nào thắc mắc của cậu, nhưng cậu vẫn suy nghĩ: “Mẹ của mình cũng nghèo như thế, mà tại sao Mùa Giáng Sinh nào mẹ cũng dành được tiền mua quà tặng cho mình ?” Món quà có khi là một hộp bút chì màu, khi khác là một chiếc cặp da… Rồi lòng quảng đại chợt dâng lên trong lòng, cậu bé liền cầm lấy món đồ chơi mang theo, leo rào vào bên trong hang đá rồi đặt món quà kia vào giữa đôi tay đang mở rộng của trẻ Giê-su. Cậu còn hướng dẫn cách lên giây cót, sợ rằng trẻ Giê-su còn quá nhỏ không biết cách sử dụng thành thạo món quà cậu mới trao tặng.
– Câu chuyện trên cho thấy lễ Giáng Sinh là một cơ hội để mỗi người chúng ta bày tỏ sự quan tâm đối với tha nhân. Đây là điều chính Thiên Chúa đã làm gương bằng cách ban Con Một mình cho nhân loại chúng ta. Con Thiên Chúa không đến trong quyền lực và giàu sang phú quí, nhưng trong sự yếu đuối nghèo khó cùng cực. Người đến trong vẻ yếu đuối để giúp chúng ta thêm tự tin vào các tài năng Chúa ban và sử dụng chúng theo Thánh Ý Chúa muốn. Người đến trong sự nghèo khó để an ủi chúng ta và mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ cho những kẻ nghèo đang sống chung quanh chúng ta.
3. SUY NIỆM:
1) CON THIÊN CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI ĐỂ CON LOÀI NGƯỜI NÊN CON THIÊN CHÚA :
Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế đã yêu thương nhân loại chúng ta và đã từ trời cao xuống thế làm một người phàm. Người được sinh ra trong thân phận nghèo khó, sống một cuộc đời lao động vất vả tại Na-da-rét như bao dân làng. Người đã trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Quả thật: “Con Thiên Chúa đã trở nên loài người, để làm cho con loài người trở nên Con Thiên Chúa”.
2) LỊCH SỬ HANG ĐÁ BE-LEM:
– Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta thường thấy nhiều hang đá tại nhà thờ hay tư gia. Trong hang có Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, bên cạnh là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se quì thờ lạy. Cũng có mấy con bò và lừa đang quì gần bên thở hơi ấm cho Hài Nhi mới sinh.
– Việc dựng các hang đá như trên đã có từ thế kỷ thế 13. Vào năm 1223, thánh Phan-xi-cô khó khăn, lúc đó đang là bề trên một tu viện bên Ý. Ngài cho dọn một hang đá trong vườn cây ở gần Gờ-réc-xi-ô. Bên trong hang đá, ngài đặt tượng Hài Nhi Giê-su nằm trên máng cỏ, bên cạnh là một con bò và một con lừa. Vào đêm khuya hôm lễ Giáng Sinh, thánh Phan-xi-cô cùng các tu sĩ và dân chúng lân cận kéo nhau đến đứng chung quanh hang đá. Bên cạnh hang có đặt một bàn thờ, và thánh lễ đã được cử hành trang nghiêm. Từ đó, việc trưng bày hang đá tại nhà thờ và tư gia càng ngày càng phổ biến trở thành tập tục chung của cả thế giới.
3) GIÁNG SINH LÀ MẦU NHIỆM TÌNH THƯƠNG VÔ CÙNG CỦA THIÊN CHÚA:
Mầu Nhiệm Giáng Sinh là cách Thiên Chúa diễn tả tình thương lớn lao nhất đối với nhân loại. Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm người, trở nên giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội. Người đã yêu thương chúng ta đến cùng, và biểu lộ tình yêu bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, lựa chọn và huấn luyện các tông đồ, lập các Bí Tích và cuối cùng sẵn lòng chịu chết nhục nhã trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta, và sống lại để ban lại sự sống cho chúng ta.
4) ĐỨC GIÊ-SU LÀ ĐƯỜNG LÊN TRỜI DUY NHẤT:
Đức Giê-su đã mở ra con đường lên trời cho chúng ta. Đó là con đường yêu thương, quên mình và phục vụ, là chấp nhận “Qua đau khổ tử nạn để vào vinh quang phục sinh”. Người mời gọi mọi người muốn được ơn cứu độ thì “hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo Người”. Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ được sống lại với Người, và sau này sẽ cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên đàng với Người.
5) CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ VỚI THA NHÂN:
Trong mùa Giáng Sinh tại nhiều nước truyền thống Ki-tô giáo, có thói tục tằng quà cho người thân và cho người nghèo. Chúa sinh ra trong cảnh nghèo hèn để mời gọi các tín hữu chúng ta biết nghĩ đến tha nhân, cảm thông và chia sẻ giúp đỡ những người bất hạnh với hết khả năng của chúng ta. Mỗi chúng ta phải trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, sẵn sàng trao tặng cho tha nhân một nụ cười thân ái, một lời nói động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Mỗi người chúng ta hãy đi thăm những người bất bạnh để chia sẻ tình thương của Chúa cho họ, là những món quà vật chất, là lời nói chân thành động viên những ai đang bị bệnh tật, đau khổ bất hạnh… phấn đấu vượt qua những khó khăn gặp phải, cùng hợp tác với nhau để biến đổi gia đình, khu phố, nhà thờ, nơi làm việc của mình trở thành mooth thiên đàng trần gian yêu thương hòa bình, vui tươi và hạnh phúc, đúng như những lời chúc mừng luôn được ghi trên các cánh thiệp Giáng Sinh và đầu Năm Mới : “Chúc mừng Giáng Sinh vui vẻ và Năm Mới hạnh phúc”.
4. THẢO LUẬN:
Sau khi được sứ thần loan báo tin vui, các mục đồng đã vội vã lên đường đi Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế. Rồi sau đó họ đã thuật lại những gì mắt thấy tai nghe về Hài Nhi này. Trong Mùa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Giáng Sinh cho các bạn bè và những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay lễ Giáng Sinh lại về, trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, các bài thánh ca vang lên đó đây, người người chia sẻ niềm vui bên nhau. Nhưng còn biết bao người vẫn đang bị cô đơn lạc lõng, đang âm thầm đau khổ và không có niềm hy vọng. Xin Chúa cho chúng con biết nghĩ đến họ và giúp đỡ họ với hết khả năng của chúng con. Xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng trao tặng cho tha nhân một nụ cười thân ái, một lời nói động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến thăm những người bất bạnh để chia sẻ tình thương của Chúa cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày lễ Giáng Sinh không dừng lại ở những của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối lại thành vòng tay lớn, hầu cùng nhau chung lo xây dựng một thế giới mới đầy niềm vui, bình an và hạnh phúc.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM