I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Sau lời thưa “xin vâng” với sứ thần truyền tin, Ngôi Lời đã nhập thể làm người trong lòng trinh nữ Ma-ri-a. Sau đó Mẹ đã vội vã đem thai nhi Giê-su đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng vì đã nhận được ơn cứu độ là được khỏi tội tổ tông truyền. Chúa Thánh Thần đã tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét ken cô em Ma-ri-a có phúc vì đã tin những lời Chúa phán sẽ được thực hiện. Còn Ma-ri-a cũng dâng lời Ngợi Khen tình thương cứu độ của Thiên Chúa thể hiện trong lịch sử dân Ít-ra-en và với bản thân mình là tớ nữ hèn mọn của Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Có lẽ thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ thật ra là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là vị tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ mệnh ngôn sứ bằng động tác nhảy lên trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón rước Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được Mẹ Đấng Mê-si-a mang Người đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng cô em họ Ma-ri-a thực là diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang là “Chúa”. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà cảm nghiệm vừa xảy ra nơi bản thân. Đó cũng chính là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và Mẹ đã trở thành tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại là ông Da-ca-ri-a chồng của bà đã không tin lời Chúa và đòi được thấy dấu lạ, nên ông đã bị câm cho đến ngày các điều đó xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen có phúc, Ma-ri-a đã quy lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đến lúc lời hứa cứu độ của Đức Chúa đã được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của Da-ca-ri-a: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để phục vụ và giúp đỡ cho bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà giúp đỡ bà, trong thời kỳ cuối trước khi sinh con, khi bà không thể làm việc bình thường được. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ ho tới khi bà sinh con mà thôi. + rồi trở về nhà: Sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh con, con trẻ đã được đặt tên và được chịu phép Cắt Bì để gia nhập làm công dân của Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về làng Na-da-rét là quê hương của mình.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a phải vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu nào ? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông chồng Gia-ca-ri-a của bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh những điều nào ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và ở lại để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a), và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ VÀ CÂU CHUYỆN :
1) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Vaticăng I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và cùng thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung trong ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết như sau: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã được Chúa gìn giữ cho khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được tôn lên
Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
2) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN KÊU CẦU NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý của Giáo Hội, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái của cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô ta là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới mục đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười lên khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ TRONG GIỜ SAU HẾT NHỜ CÓ LÒNG MẾN ĐỨC MẸ:
Một hôm trong đám những người hành hương đến giáo xứ Ars có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gio-an Ma-ri-a Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
– Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
– Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
– Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
3. SUY NIỆM:
1) KÍNH MỪNG MA-RI-A ĐẦY ƠN PHÚC: Ma-ri-a đã được dư đầy ơn phúc và luôn được Thiên Chúa ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Mẹ đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Mẹ có phúc vì đã tin Lời Chúa: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Mẹ có phúc vì cưu mang Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa làm người: Nên Mẹ được ví như Hòm Bia Giao Ước Mới của Thiên Chúa (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhất là Mẹ có phúc vì đã nghe và thực hành Lời Chúa: như Đức Giê-su đã bổ túc lời khen Mẹ của một phụ nữ bằng lời sau: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU VÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Chính Chúa Giê-su đã đặt Đức Ma-ri-a làm Mẹ Hội Thánh khi trao Mẹ cho môn đệ Gio-an đại diện Hội Thánh, để ông thay Người phụng dưỡng Mẹ sau khi Người lên trời, như Tin Mừng Gio-an thuật lại: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước Bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
+ Đức Ma-ri-a là Mẹ của Hội Thánh vì là mẹ của Đức Giê-su là Đầu, nên cũng là Mẹ của Hội Thánh là thân thể của Người, trong đó có chúng ta, như thánh Phao-lô dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18).
3) ĐỨC MA-RI-A ĐƯỢC CHÚA BAN THƯỞNG HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết mật thiết với Đức Giê-su Đấng Cứu Độ như sau:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Đức Giê-su sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ân sủng là luôn có Chúa, là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Mẹ không phải chết như loài người chúng ta. Đức Ma-ri-a đã được Chúa chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít để cai trị Ít-ra-en, và triều đại Người sẽ luôn vững bền. (x Lc 1,31).
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Mẹ đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11) và tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn nên cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người. Đức Giê-su/ A-đam Mới đã qua đau khổ thập giá để phục sinh và lên trời, thì tiếp theo Chúa là Đức Ma-ri-a/ E-và Mới cũng được Thiên Chúa triệu hồi về trời cả hồn lẫn xác.
4) ĐỂ ĐƯỢC CÙNG MẸ LÊN TRỜI:
+ “Quê hương chúng ta ở trên trời. Nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ được lên trời nếu tin yêu Chúa Giê-su, bỏ ý riêng và các thói hư tội lỗi, sẵn sàng vác thập giá mình hằng ngày theo chân Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã nêu gương.
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến noi gương Đức Mẹ: Năng nghe Lời Chúa phán, suy niệm để tìm hiểu ý Chúa và sẵn sàng xin vâng noi gương Mẹ như Tin Mừng ghi nhận: “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19.51).
+ Năng cầu nguyện tín thác vào Chúa như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn và Đức Giê-su đã biến nước lã thành rượu ngon giúp đôi tân hôn như lời Mẹ xin (x. Ga 2,1-11).
+ Bác ái khi lập tức đi thăm bà chị Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui với bà. Thai nhi Gio-an đã “nhảy mừng” trong lòng mẹ khi gặp Thai Nhi Giê-su. Sau đó Mẹ ở lại với bà 3 tháng cho tới khi bà sinh con để phục vụ, rồi mới về Na-da-rét (x. Lc 1,39-56).
4. THẢO LUẬN:
1) So sánh giữa việc lên trời của Đức Mẹ giống và khác với việc thăng thiên của Chúa Giê-su thế nào ? 2) Những kẻ khi còn sống mà bị mù què câm điếc, mặt mũi xấu xí, thì khi sống lại có tiếp tục bị như vậy nữa không ?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY MẸ MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”.
LẠY MẸ. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ mỗi khi gặp gian nan thử thách như bị thất bại trong việc làm ăn; Những lúc con không biết phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn nan giải… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ ủi an che chở, để được Mẹ cầu cùng Chúa Giê-su ban cho chúng con các ơn lành hồn xác. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe và làm theo Lời Chúa Giê-su, như Mẹ đã dạy các người giúp việc tại Ca-na xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM