I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,14-20
(14) Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15) Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. (16) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. (17) Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (18) Lập tức hai ông bỏ chài lưới đi theo Người. (19) Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. (20) Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su bắt đầu sứ mạng giảng đạo tại xứ Ga-li-lê mà nội dung được tóm gọn trong câu: “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Người cũng gọi bốn môn đệ tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng là hai đôi anh em: Si-mon và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an. Các ông đã mau mắn đáp lại bằng sự dứt khoát từ bỏ nghề cũ, từ giã cha già mà theo làm môn đệ của Người.
3. CHÚ THÍCH:
– C 14-15: + miền Ga-li-lê: do vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị, là một miền đất trù phú và có đông dân ngoại sinh sống. Khi khởi sự thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng tại Ga-li-lê miền đất có đông dân ngoại, cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng của Người. +Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối là loại bỏ nếp sống cũ tin thờ tà thần và thay bằng nếp sống mới theo Đức Chúa là Đấng trọn lành. Đức Giê-su kêu gọi dân chúng phải ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng do Người loan báo.
– C 16-18: + Biển hồ Ga-li-lê: Cũng gọi là hồ Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1), hay Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1). Biển hồ này rất lớn hình quả trám, dài 21 cây số và ngang 12 cây số, thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải tới 208 mét. Đây là nơi Đức Giê-su đã kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên và nhiều lần Người giảng dạy dân chúng tại ven biển (x. Lc 5,3). Người cũng làm nhiều phép lạ tại biển hồ này : dẹp yên sóng gió (x. Mt 8,23-27), đi trên mặt nước (x. Ga 6,16-21) mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-11)… + Ông Si-mon với người anh là An-rê: Ông Si-mon sau được Đức Giê-su đổi tên là Phê-rô (x. Mt 16,18). Ông là em ông An-rê và là con ông Giô-na (x. Mt 16,17) hay Gio-an (x. Ga 1,42). Ông Si-mon quê thành Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), làm nghề lưới cá tại biển hồ Ga-li-lê (x. Mc 1,16). + Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người: Hai anh em An-rê và Si-mon đã mau mắn đáp lại tiếng gọi của Đức Giê-su, bỏ nghề chài lưới bắt cá để theo làm môn đệ Người.
– (C 19-20) + Ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an: Đây là Gia-cô-bê Tiền, vì theo Đức Giê-su trước. Ông là con của ông Dê-bê-đê và là anh của Gio-an (x. Mt 4,21). Ông là một trong nhóm 3 người, được Đức Giê-su ưu ái (x. Mt 17,1). Hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an cũng được Đức Giê-su đặt cho biệt danh là “Bo-a-nê-ghê”, nghĩa là “Con của Thiên Lôi” (x. Mc 3,17). + Bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền mà đi theo Người: Hai ông đã dứt khoát đáp lại tiếng Chúa mời gọi bằng việc từ giã gia đình để dấn thân theo làm môn đệ của Đức Giê-su.
4. CÂU HỎI: 1) Ga-li-lê là miền nào trong nước Do thái thời Đức Giê-su? 2) Lời kêu gọi “sám hối và tin vào Tin Mừng” của Đức Giê-su có ý nghĩa thế nào? 3) Đặc điểm của Biển Hồ Ga-li-lê là gì? 4) Bạn biết gì về thân thế của ông Si-mon Phê-rô? 5) Hai anh em An-rê và Si-mon đã đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào? 6) Bạn biết gì về thân thế của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an? Tại sao hai ông này lại có biệt danh là “con của thiên lôi”? 7)Thái độ của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su thế nào?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
2. CÂU CHUYỆN:
1) KHÔNG SÁM HỐI SẼ KHÔNG ĐƯỢC ƠN THA THỨ:
Một hôm Xa-tan kêu trách Thiên Chúa rằng: “Chúa thật bất công! Cụ thể là có nhiều kẻ phạm đủ thứ tội ác, thế mà Ngài vẫn tha cho chúng. Có nhiều kẻ sa đi ngã lại nhiều lần cùng một thứ tội, mà khi chúng ăn năn sám hối thì Ngài vẫn tha cho chúng. Còn tôi, chỉ phạm tội không vâng lời một lần, thế mà Ngài lại phạt tôi phải sa hỏa ngục đời đời, và không bao giờ tha thứ cho tôi!”. Bấy giờ Thiên Chúa mới ôn tồn nói với tên quỉ rằng: “Sở dĩ Ta tha tội cho con cái loài người vì chúng đã khiêm tốn tự nhận là kẻ có tội, đã hồi tâm sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống. Còn ngươi, từ khi phạm tội kiêu ngạo không vâng lời Ta và bị phạt trong lửa hỏa ngục đến nay, có khi nào ngươi khiêm nhường nhận lỗi và hồi tâm sám hối xin Ta tha thứ hay chưa?”. Tên quỷ nghe vậy liền vênh mặt lên cười khẩy và trả lời như sau: “Hồi tâm sám hối ư? Ta đâu có tội gì để phải ăn năn sám hối ? và ta cũng chẳng cần ai phải tha thứ cho ta !”
2) PHẢI ĂN NĂN SÁM HỐI VỚI LÒNG CẬY TRÔNG:
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tu sĩ kia đã phạm tội và bị phạt phải vào sa mạc để ăn chay đền tội trong một năm trời, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các anh em của cộng đoàn đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; còn người kia thì ốm o xanh xao. Cả hai được đòi phải đến trình diện trước mặt Bề Trên và ban cố vấn cộng đoàn để được phán quyết có đáng được tái hòa nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong năm qua đã suy niệm về điều gì?
Người ốm o xanh xao trả lời:
– Trong năm qua, ngày ngày con luôn nhớ lại những tội con đã lỗi phạm và những hình phạt đáng phải chịu, nên con luôn mang tâm trạng sợ hãi không sao chợp mắt được.
Đến lượt người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
– Suốt một năm qua, từng giây từng phút, con luôn cảm tạ Chúa vì Người đã tha thứ cho con nên con luôn vui vẻ lúc nào cũng ca tụng Chúa và ăn ngon ngủ yên.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã trở thành lời ca tụng và cảm tạ tri ân tình yêu của Chúa.
3) GƯƠNG SÁNG TỪ BỎ MỌI SỰ ĐỂ CHUYÊN LO VIỆC NHÀ CHÚA:
Bà Thánh JEANNE-FRANCOISE CHANTAL (1572-1641) là một bà mẹ rất đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dạy và lo liệu cho bốn đứa con nên người. Sau khi cả bốn người con đều lập gia đình và có cuộc sống ổn định, bà đã được Chúa kêu gọi hãy tận hiến cuộc đời còn lại để phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật. Nhưng đến ngày từ giã gia đình lên đường thì cả bốn người con đều không đồng ý cho mẹ đi. Họ khóc lóc và nằm chận ở cửa nhà. Bấy giờ trong nước mắt nghẹn ngào, bà nói với các con : “Mẹ tuy là mẹ phải lo cho các con, nhưng mẹ cũng là con của Chúa phải lo việc nhà Chúa. Mẹ phải chu toàn bổn phận phụng sự Người đang hiện thân trong những người nghèo khổ bất hạnh». Nói xong bà đã bước qua các con để đi đến An-ne-cy, tiến hành việc thành lập một dòng tu. Đến tháng 6 năm 1610, dòng Thăm Viếng đã ra đời.
4) MỖI TÍN HỮU PHẢI TRỞ THÀNH ĐÔI TAY CỦA CHÚA:
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh đã cố gắng phục chế bức tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã bị bể tan tại quảng trường trước một nhà thờ nhỏ, là trung tâm sinh hoạt của một ngôi làng ở miền cực nam nước Ý.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn ráp lại hầu như toàn bộ bức tượng. Nhưng chỉ còn đôi tay của bức tượng là chưa thể hoàn tất do đã bị nát vụn. Sau nhiều giờ bàn luận và việc phục chế bức tượng sắp đi vào ngõ cụt, thì một người trong toán lính đã có sáng kiến. Anh ta mang tới hai khúc gỗ gắn vào hai tay của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ không những đã đánh động tâm hồn của dân làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến thăm. Hàng chữ ấy như sau: “Bạn chính là đôi tay của Chúa”.
Thực vậy, mỗi tín hữu chúng ta phải trở thành đôi bàn tay của Chúa, tiếp tục chu toàn sứ mạng được Chúa Cha trao phó là xây dựng Nước Trời, là loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa đi khắp thế gian, đến tận cùng bờ cõi trái đất.
5) SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỰ TIN:
Một cậu học sinh kia luôn mang mặc cảm vì trên lưng có hai vết thẹo nhăn nhúm trông rất khó coi, kéo dài từ bả vai xuống đến eo lưng. Mỗi ngày khi đi học ở trường, cậu rất lo bị bạn bè phát hiện ra hai vết sẹo và chế nhạo… Nhưng rồi một ngày nọ, một số bạn bè cùng lớp đã tình cợ nhìn thấy vết sẹo trên lưng cậu bé và lên tiếng trêu chọc: “Eo ơi, ghê quá!” “A,…quái vật!” “Ôi, thật khủng khiếp!” Những lời vô tâm ấy đã làm đau lòng cậu bé. Cậu vừa khóc vừa chạy vào núp sau cánh cửa lớp. Rồi từ hôm đó cậu bé không dám đi học vì sợ bị lũ bạn chọc quê.
Sau khi hỏi han và biết được sự việc, mẹ cậu bé đã dắt con đến gặp cô giáo chủ nhiệm, vốn là một nữ giáo viên khôn ngoan và đôn hậu. Bà mẹ cho cô giáo xem vết sẹo của con và cho biết từ lúc mới sinh, cậu bé đã mắc khối u ở lưng. Qua cuộc giải phẫu khó khăn, cậu đã được chữa lành, nhưng đã để lại hai vết thẹo lớn trên lưng. Nói đến đó, người mẹ đã bật khóc.
Ngày hôm sau, cậu bé tiếp tục đến trường ngồi ở bàn cuối lớp, các bạn khác thấy thế, lại thốt lên những lời vô tâm: “Ôi, thật đáng sợ!” ; “Ghê quá, trên lưng cậu ấy có 2 con trùn to lắm.” Ngay lúc ấy, cô giáo chủ nhiệm xuất hiện và nghe thấy những lời trêu chọc ác ý, liền tiến lại gần cậu bé, đặt nhẹ tay lên vai nhỏ bé và mỉm cười nói với các bạn bè cùng lớp với câu: “Trước đây nhiều lần cô đã định kể cho các con nghe một câu chuyện về cậu bé này, nhưng có lẽ cô phải kể cho chúng con nghe ngay lúc này.” Các bạn trẻ đến vây quanh cô giáo. Cô nhẹ nhàng kéo chiếc áo của cậu bé lên làm lộ rõ hai vết thẹo lớn và nói với đám trẻ như sau:
“Đây là một truyền thuyết. Ngày xưa, các thiên thần trên trời đã bay xuống và hóa thân thành các bạn nhỏ như chúng ta đây. Tất nhiên, có thiên thần nhanh nhẹn đã kịp tháo gỡ đôi cánh của mình khi hóa thân thành người. Nhưng cũng có thiên thần hơi chậm, không kịp tháo hết đôi cánh của mình và đã để lại hai vết sẹo như trên lưng em này.”
Một em hỏi: “Vậy đó là cánh của thiên thần hả cô?” Cô giáo mỉm cười: “Đúng rồi!” Một bạn gái khác lên tiếng: “Thưa cô, chúng con có thể sờ được không?” Từ nãy đến giờ cậu bé vẫn đứng ngẩn người ra không nói được câu nào, và bây giờ thì cậu lại khóc. Nhưng cô giáo đã mỉm cười và diụ dàng nói: “Chúng ta phải xin phép vị thiên thần nhỏ của chúng ta trước đã phải không ?” Sau một lát chần chừ, cậu bé đã lấy lại sự bình tĩnh và đáp: “Vâng, được ạ ! Thưa cô. »
Các bạn nhỏ khác đều vây quanh cậu bé, hết bạn này đến bạn khác đến sờ vào “đôi cánh” ấy. “Ôi, tuyệt thật. Hôm nay con đã sờ được vào cánh của thiên thần rồi!”
Năm tháng dần trôi, người bạn nhỏ của chúng ta đã lớn lên thành người trưởng thành. Cậu vẫn thầm cảm ơn cô giáo đã đem lại cho cậu một niềm vui và một nghị lực mới. Cậu đã mạnh dạn đăng ký tham gia giải bơi lội học sinh cấp thành phố, và cậu đã đoạt giải. Cậu thầm cám ơn cô giáo, và cậu xác tín rằng vết thẹo trên lưng cậu thực là đôi cánh thiên thần mà cô giáo năm xưa đã tặng cho cậu với tất cả tình thương.
Câu chuyện trên cho thấy cô giáo đã thay đổi cái nhìn của học sinh của mình, nên đã biến đổi số phận của cậu học sinh có vết sẹo lớn ở lưng: Cậu đang bị mặc cảm tự ti đã tự tin và thành công trong cuộc sống… Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã kêu gọi bốn môn đệ từ bỏ nghề chài lưới bắt cá trở thành tông đồ học nghề chài lưới các linh hồn. Người cũng kêu gọi chúng ta đi theo làm môn đệ để trở thành những vị sứ giả đi loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.
3. SUY NIỆM:
1) Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng:
Lời đầu tiên Đức Giê-su công bố khi khởi đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đức Giê-su đã nối kết việc sám hối với việc rao giảng Tin Mừng. Sám hối chính là điều kiện phải có để đón nhận ơn Chúa, giống như trước khi bước vào mùa mưa, người nông dân phải làm vệ sinh lau chùi các lu vại sạch mọi bụi bẩn để có nước mưa dùng cho cả năm. Sám hối không nhất thiết kèm theo thái độ buồn sầu, nhưng là sự biến đổi tâm hồn để gặp được Chúa, lắng nghe lời Chúa để tin yêu Chúa và giới thiệu Người cho tha nhân.
2) Mau mắn đáp lại ơn kêu gọi của Chúa:
– Bài đọc trong sách ngôn sứ Giô-na hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Chúa kêu gọi ông Gio-na làm ngôn sứ và sai ông đi giảng cho dân thành Ni-ni-vê hồi tâm sám hối tội lỗi để tránh bị trừng phạt. Lúc đầu Gio-na sợ trách nhiệm nên đã lên thuyền đi về hướng khác. Nhưng con thuyền đã gặp bão lớn, Gio-na bị quăng xuống biển và bị một con cá lớn nuốt vào bụng, rồi sau ba ngày nó nhả ông nằm trên bãi biển gần thành Ni-ni-vê. Giô-na đã vâng lời Chúa tiến vào thành phố đi một ngày đàng, rồi rao giảng rằng: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá huỷ”. Dân thành tin tưởng nơi Chúa: họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó (x. Gn 3,3-5.10).
– Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giê-su kêu gọi 4 môn đệ đầu tiên. Một là đôi anh em An-rê và Simon đang thả lưới dưới biển; Hai là đôi anh em Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trên thuyền. Các ông nghe lời Chúa kêu gọi đã mau mắn bỏ nghề đánh cá, bỏ lại cha già và những người làm công trên thuyền để đi theo làm môn đệ Chúa Giê-su.
– Ngày nay, Chúa Giê-su cũng kêu gọi các tín hữu chúng ta theo làm môn đệ Người bằng nhiều cách khác nhau: Người thì được Chúa gọi khi nghe một bài giảng trong thánh lễ; Người thì cảm phục gương sáng tốt lành, nghe lời khuyên của một linh mục hay một nữ tu thân quen; Người thì được ơn Chúa gọi sau một biến cố như cơn bệnh nặng, sau một thất bại, sau khi bị lừa đảo, ….
Còn chúng ta, sau khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, chúng ta sẽ đáp lại thế nào: Lảng tránh trách nhiệm như ông Giô-na, hay mau mắn đáp lại như ông Sa-mu-en, sẵn sàng từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa như bốn môn đệ trong Tin Mừng hôm nay ?
3) Tầm quan trọng của việc loan báo Tin Mừng:
Nếu thế giới được thu gọn thành một ngôi làng có 100 người, thì chúng ta sẽ dễ hình dung ra các thành phần trên thế giới theo lỷ lệ tương ứng như sau:
– Về dân số: 57 người thuộc Á Châu, 21 người thuộc Âu Châu, 8 người thuộc Phi Châu và 14 người thuộc các châu lục khác như Mỹ châu, Úc châu và châu Đại Dương.
– Về màu da: 30 người là da trắng; 70 người là da màu như da vàng, da đỏ, da đen.
– Về tôn giáo: 30 người là Kitô hữu gồm Công Giáo, Tin lành, Chính Thống, Anh giáo; 70 người thuộc các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, thần đạo hay không theo tôn giáo nào.
– Về của cải vật chất: 50 phần trăm của cải sẽ do 6 nhà tỷ phú, đều là người Mỹ chiếm hữu.
– Về trình độ tối thiểu: 70 người mù chữ không biết viết biết đọc.
– Về đời sống: 50 người thiếu ăn, bị suy dinh dưỡng.
– Về nhà ở : 80 người ở nhà ổ chuột không đủ tiêu chuẩn hay lang thang không nhà.
– Về văn hóa: Chỉ có một người là tốt nghiệp đại học!
Thực trạng nói trên cho thấy nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế nào?
4) Chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng:
– Mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi: Đức Giê-su đã kêu gọi các môn đệ đi theo Người làm việc tông đồ: « Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17). Các ông đã lập tức bỏ nghề, bỏ cha già mà đi theo làm môn đệ Người.
– Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và việc làm: Không những bằng việc rao giảng, mà còn bằng việc làm chứng nhân cho Chúa (x Cv 1,8), tích cực góp phần kiến tạo « Trời Mới Đất Mới » từ việc tu sửa bản thân, góp phần xóa bỏ các tệ nạn và bất công trong xã hội, xây dựng cho gia đình và khu phố ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn theo ý Chúa muốn.
– Tin cậy vào sự trợ giúp của Chúa : Trước sứ mạng được Chúa trao phó, thay vì sợ hãi thoái lui như ngôn sứ Gio-na xưa, chúng ta hãy tin cậy phó thác vào ơn Chúa giúp như câu chuyện tông đồ Si-mon thả lưới bắt cá khi xưa. Bấy giờ Đức Giê-su bảo Si-mon : “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá ». Si-mon thú nhận sự bất lực của mình rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc.5,5). Chính nhờ ơn Chúa, mà Si-mon đã bắt được nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách. Qua đó cho thấy: về phạm vi đức tin: Nếu ta làm theo ý riêng sẽ bị thất bại. Nhưng nếu làm theo ý Chúa, chắc ta sẽ thành công như Si-mon xưa.
4. THẢO LUẬN:
Trong những ngày này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để giới thiệu Chúa cho các người thân trong gia đình, cho bà con lối xóm, và góp phần biến đổi môi trường sống và làm việc ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Từ hôm nay con xác tín rằng: Chúa chính là chủ cuộc đời chúng con và con quyết tâm sẽ yêu mến Chúa trên hết mọi sự, sẵn sàng chọn Chúa hơn chọn tình cảm gia đình ruột thịt, hơn chọn công ăn việc làm theo sở thích chúng con… Xin cho chúng con ý thức sứ mạng phải tích cực làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
Để chu toàn sứ mạng, xin cho chúng con biết năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa, chu toàn các công tác bác ái như: đi thăm bà con lương dân, chia sẻ tiền bạc vật chất cho những người nghèo khó, khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật neo đơn, an ủi động viên những người đau khổ bất hạnh… Xin cho chúng con biết cảm thông với Hội Thánh bằng cách cộng tác với các vị chủ chăn đưa nhiều chiên lạc về với Chúa và Hội thánh, vì xác tín rằng: chỉ mình Chúa mới thực là niềm vui và là hạnh phúc cho cuộc đời chúng con.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM