HIỆP SỐNG TIN MỪNG, CHÚA NHẬT II MÙA CHAY B (St 22,1-2.9a.10-13.15-18 ; Rm 8,31b-34 ; Mc 9,2-10) VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NHỜ THẦN KHÍ

2muachayaI.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 9,2-10
(2) Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Thưa thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái”. (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. (8) Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Người đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, những vẫn bàn hỏi nhau xem câu “Từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?
2. Ý CHÍNH:
Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.
3. CHÚ THÍCH:
– C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trốn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi Gio-su-ê lãnh đạo dân Ít-ra-en tiến chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết mộ phần của Mô-sê ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và ban ơn Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) – mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).
– C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng phải ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông được chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ Xuất Hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người dạy (x. Mt 16,14 ; Cv 3,22-23).
– C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là chính Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai của Người đúng theo Ý muốn của Thiên Chúa. Nếu sớm nói ra sự thật này thì sẽ làm cho dân Do thái bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây ra bạo loạn, làm cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người “từ cõi chết sống lại”. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, cho đến sau khi Người chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế mà phải qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Núi cao ở đây là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung nhằm mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a ra sao và nhằm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy Giê-su cho phép dựng 3 lều trại? 6) Đám mây muốn diễn tả gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải điều gì về Đức Giê-su với 3 môn đệ thân tín của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su lại cấm ba môn đệ không nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao sau cuộc biến hình các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” của Đức Giê-su?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) VÂNG LỜI QUÝ GIÁ HƠN BÁU VẬT:
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
– Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:
– Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi !
Quan Tể Tướng liền nói:
– Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc quý.
Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý ấy cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi :
– Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
– Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
– Khanh hãy đập bể nó ra !
– Đập vỡ viên ngọc này ư ? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :
– Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không ?
– Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
– Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Ab-dul. Họ hỏi ông rằng:
– Sao nhà ngươi lại dám làm như thế ?
Ab-dul bình tĩnh đáp lại:
Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.
Trước thái độ thần phục tuyệt đối của Ab-dul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Chúa Cha khi luôn vâng nghe lời Cha, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).
2) GIÁ TRỊ BIẾN ĐỔI CỦA ĐAU KHỔ:
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt : bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giê-su trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng , xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.
3) THIÊN THẦN BIẾN THÀNH ÁC QUỈ:
Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua đường, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.
Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”
Bấy giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá lớn. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:
“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản cha mẹ để lại để lao mình vào các đam mê trác táng… Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn xấu đi trộm cướp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian nan tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác yếu đuối hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi đang ở trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là đi ăn xin như ông thấy đó”.
Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những người thắc mắc về sự xuất hiện của hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách 20 năm sống phóng đãng mà thôi!”.
3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng như thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào bằng những việc làm cụ thể để loại trừ một thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
4. SUY NIỆM:
1) BIẾN ĐỔI LÀ QUY LUẬT CỦA CUỘC SỐNG:
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước đến nay không còn, nhưng lại có nhiều chiếc lá mới mọc ra. Và nhiều chiếc lá hiện nay đến tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà chỉ là một cây giả.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Hê-ra-clite đã nói “Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”. Tuy vẫn là con sông ấy nhưng nước sông hôm nay không phải là nước sông của ngày hôm qua.
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn có thay đổi, cái này chết nhường chỗ cho cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào cũ của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thế nào thì cuộc sống thiêng liêng cũng giống như thế. Mùa Chay chính là thời gian giúp chúng ta biến đổi nên người mới tốt hơn. Nhờ được ơn biến đổi trong Mùa Chay này, chúng ta hy vọng sẽ được sống lại thật về phần linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
2) CUỘC BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
– Đức Giê-su biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang Thiên Chúa của Người: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giê-su đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây khi nhìn thấy. Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật nổi tiếng là Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và Ê-li-a, đại diện cho Ngôn Sứ, đã xin Thầy cho dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Bấy giờ có tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người” (x. Mc 9,7).
– Vâng lời Đức Giê-su chính là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy” (Lc 10,16). Trong tiệc cưới Ca-na, đức Ma-ri-a cũng dạy gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
Cụ thể vâng lời Đức Giê-su nghĩa là chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa, chấp nhận con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” như Đức Giê-su đã tiên báo khi đi lên Giê-ru-sa-lem mà tông đồ Phê-rô đã can trách, nên đã bị Người mắng như sau: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
Hiểu được giá trị biến đổi của đau khổ thập giá, thánh nữ Bec-na-dét đã cầu nguyện với Chúa Giê-su như sau: ”Con không xin Chúa cất khỏi con sự đau khổ, nhưng chỉ xin Chúa đừng bỏ con khi con chịu đau khổ”.
3) CẦN BIẾN HÌNH NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:
– Họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta chấp nhận dìm mình trong dòng nước và trồi lên mặt nước giống như Đức Giê-su đã qua cuộc tử nạn, đến ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường chết và sống lại này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải chấp nhận đi con đường của Đức Giê-su, nghĩa là sẵn sàng bị thua thiệt, bị mất việc làm, mất địa vị xã hội vì lòng tin yêu Chúa…
– Thánh Phao-lô đã dạy các tín hữu: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời.” (Gl 6,7-8). ”Vì thế anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
4) VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN HÌNH NHỜ THẦN KHÍ:
– Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta hãy xét mình mỗi buổi tối và quyết tâm loại trừ các thói hư như: lười tham dự lễ, bỏ đọc kinh tối gia đình, loại trừ thói tham lam ích kỷ và vô trách nhiệm, tránh nói hành những kẻ vắng mặt, biết nín nhịn kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái cụ thể kèm theo những lời nguyện tắt… chúng ta hy vọng sẽ được Thần Khí Chúa biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).
– Noi gương Đức Ma-ri-a sau khi đón nhận Thai Nhi Giê-su, đã đem Người đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng trong dạ mẹ. Noi gương An-rê sau khi gặp Đức Giê-su đã gặp Si-mon và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giê-su để trở thành tông đồ đi chài lưới các linh hồn. Người tín hữu chúng ta sau khi được ơn biến đổi cũng phải chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa, giới thiệu Chúa cho những người thân như cha mẹ, anh chị em, bạn bè chưa biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa và được hưởng ơn cứu độ với chúng ta.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi khi con bị những tiếng ồn ào vây hãm, xin cho con biết tìm những phút giây thinh lặng được gần bên Chúa.
Khi tâm trí con bị căng thẳng phải lo trăm công ngàn việc, xin cho con biết quý chuộng những giờ phút được hiện diện trước nhan thánh Chúa.
Khi lòng trí con bị giao động và không biết phải làm gì, xin cho con biết tìm đến ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi thân xác con bị lôi cuốn bởi các đam mê dục vọng, xin cho con biết vượt lên cao nhờ biết sử dụng đôi cánh thiên thần là cầu nguyện và chay tịnh.
Lạy Chúa. Ước gì tinh thần ăn chay cầu nguyện thấm nhuần vào cuộc đời con. Trong Mùa Chay này xin giúp con biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường giống như Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM