I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 8,1-11
(1) Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. (2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người : “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao ? (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ : “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói : “Này chị, họ đi đâu cả rồi ? Không ai lên án chị sao ?” (11) Người đàn bà đáp : “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giê-su nói : “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !”.
2. Ý CHÍNH : Tin mừng hôm nay trình bày tình thương bao dung của Thiên Chúa, thể hiện qua thái độ của Đức Giê-su đối với một phụ nữ phạm tội ngọai tình. Câu chuyện được trình bày như một màn kịch gồm 3 hồi như sau :
– Hồi một (x Ga 8,1-5) : Để có cớ tố cáo Đức Giê-su, các Kinh sư và người Pha-ri-sêu đã giải một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình yêu cầu Người xử lý.
– Hồi hai (x Ga 8,6-9) : Hiểu được ý đồ của họ, Đức Giê-su im lặng ngồi xuống và lấy ngón tay viết trên đất. Khi họ gặng hỏi thì Người mới nói : “Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá ném trước đi”. Câu trả lời của Đức Giê-su đã làm cho những kẻ tố cáo tội nhân phải âm thầm rút lui.
– Hồi ba (x Ga 8,10-11) : Chỉ còn lại mình Đức Giê-su là người duy nhất trong sạch và có quyền kết án tội nhân. Nhưng Người lại tỏ lòng khoan dung với kẻ có tội khi tuyên bố : “Tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
3. CHÚ THÍCH :
– C 1-3 : + Đến núi Ô-liu : Núi Ô-liu còn được gọi là vườn Ghết-sê-ma-ni, nằm về phía Đông gần thành Giê-ru-sa-lem, (x. Lc 22,39). Đây là một nơi yên tĩnh thuận tiện cho việc cầu nguyện. + Trở lại Đền thờ : Đền thờ nằm trong Thủ đô Giê-ru-sa-lem. Đền thờ đầu tiên do vua Sa-lo-mon xây dựng vào năm 970 trước Công nguyên. Sau đó nhiều lần được tái thiết. Đền thờ được đề cập trong Tin mừng hôm nay do vua Hê-rô-đê trùng tu và mở rộng thêm từ năm 20 trước CN, nhưng sau đó đã bị quân Rô-ma tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công nguyên. + Người ngồi xuống giảng dạy họ : Các Thầy “ráp-bi” Do thái khi dạy Thánh kinh, thường ngồi trên một chiếc ghế hay một tảng đá, còn các thính giả thì đứng ngồi xung quanh. + Một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình : Đây là một thiếu phụ đã có chồng, nhưng đã quan hệ bất chính với một người khác không phải chồng mình.
– C 4-6a : + Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền phải ném đá hạng đàn bà đó: Luật Mô-sê quy định về hình phạt dành cho tội ngoại tình như sau : “Người đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10). Luật cũng quy định xử tử cả hai kẻ phạm tội bằng hình phạt ném đá (x. Đnl 22,24). Nhưng thời Đức Giê-su, người Rô-ma đã cấm dân Do thái áp dụng luật này (x Ga 18,31). + Họ nhằm thử Người để có bằng cớ tố cáo Người : Các Kinh sư và người Pha-ri-sêu muốn đưa Đức Giê-su vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” để có cớ tố cáo Người. Theo họ nghĩ : Đức Giê-su trả lời đàng nào cũng không ổn : Nếu Người truyền kết án tử hình theo Luật Mô-sê thì họ sẽ tố Người chống lại nhà cầm quyền Rô-ma, vì người Do thái đã bị tước quyền xử tử tội nhân, và Người sẽ bị chính quyền Rô-ma coi là phản lọan. Còn nếu Người truyền tha bổng tội nhân, thì họ sẽ lại nói Người chống lại Luật pháp Mô-sê và đi ngược truyền thống của cha ông.
– C 6b-8 : + Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay vẽ trên đất : Viết trên đất là để bày tỏ thái độ không quan tâm đến sự việc đang xảy ra. + “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” : Qua câu nói này, Đức Giê-su tuy theo Luật Mô-sê để cho phép ném đá tội nhân, nhưng Người cũng nhắc cho những kẻ tố cáo kia biết rằng : Chính họ cũng là kẻ tội lỗi đáng bị xử phạt ! Họ cần tránh thái độ xét đoán ý trái và kết án kẻ khác cách bất công, để khỏi bị Thiên Chúa xét đóan và kết án sau này. Vì dưới cái nhìn của Thiên Chúa, thì mọi người đều là tội nhân và đều cần được xét xử khoan dung (x. Lc 6,36-38).
– C 9-11 : + Họ bỏ đi hết : Tất cả những kẻ tố cáo đều rút lui. + Bắt đầu từ người lớn tuổi : Người lớn tuổi bỏ đi trước, phần vì càng sống lâu thì càng nhiều sai phạm ! Phần khác cũng có thể do các người lớn tuổi khôn ngoan hơn, nên khi thấy không làm gì được Đức Giê-su thì áp dụng nguyên tắc “Tam thập lục kế : đào vi thượng sách !” để tránh khỏi bị liệt vào hạng “đạo đức giả” (x. Lc 11,37-54). + “Tôi không lên án chị đâu!” : Đức Giê-su không xét đoán ai vì Ngừơi đầy lòng từ ái khoan dung (x Ga 8,15). Sứ vụ của Người là đến để cứu độ thế gian (x Lc 9,10). + “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !” : Tuy tha thứ cho tội nhân, nhưng để tránh lạm dụng, Đức Giê-su cũng đòi hối nhân phải thành tâm sám hối, bằng việc quyết tâm không tái phạm nữa. Trong thực tế, để tránh khỏi tái phạm tội thì hối nhân cần ăn năn dốc lòng chừa. Lòng ăn năn sám hối thực sự được biểu lộ qua việc khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp, thành thật xưng thú tội lỗi, quyết tâm xa lánh dịp tội và làm việc đền tội cân xứng (x. Kinh Ăn năn tội).
4. CÂU HỎI :
1) Hãy cho biết Đền thờ Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giê-su do ai xây dựng và xây từ khi nào ? Số phận cuối cùng của Đền thờ này ra sao ? 2) Luật Mô-sê qui định hình phạt dành cho các kẻ phạm tội ngọai tình là gì ? 3) Các đầu mục Do thái có ý đồ gì khi bắt người đàn bà phạm tội ngọai tình đến yêu cầu Đức Giê-su xử lý ? 4) Đức Giê-su thể hiện lòng khoan dung đối với tội nhân qua câu nói nào ? 5) Lòng ăn năn thực sự phải được biểu lộ bằng những việc gì ? 6) Phải chăng khi tha thứ cho tội nhân là Đức Giê-su đã gián tiếp khuyến khích họ lạm dụng tình thương để tiếp tục phạm tội ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
2. CÂU CHUYỆN :
1) CÂY THÁNH GIÁ KHOAN DUNG.
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh Giá rất đặc biệt : Trên cây thập giá, Chúa Giê-su chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai bàn chân, còn tay phải đã rời khỏi thập giá và giơ ra phía trước như đang ban phép lành cho hối nhân tại tòa giải tội bên dưới.
Chuyện kể rằng : Một lần kia, khi một linh mục đang ngồi tòa thì một tội nhân vào xưng tội. Vị linh mục ngồi tòa nổi tiếng là nghiêm khắc đối với những tội nhân không chịu chừa cải. Anh chàng vào tòa xưng tội lần này đã nhiều lần phạm tội ngoại tình và cha giải tội cũng nhiều lần ngăm đe. Nhưng chứng nào tật đó, cứ ra khỏi tòa giải tội được ít ngày, anh ta lại tiếp tục sa ngã phạm tội ngoại tình mới xưng. Sau nhiều lần tha thứ, cuối cùng trong lần xưng tội mới đây cha giải tội đã phải nói với anh : “Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Chàng thanh niên ra khỏi tòa giải tội trong tâm trạng nặn trĩu u buồn. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội và lại vẫn xưng tội ngoại tình như mấy lần trước. Nhưng lần này vị linh mục đã từ chối giải tội cho anh và nói : “Anh đừng có đùa với Chúa ! Lần này ta không tha tội cho anh nữa”. Nhưng một điều kỳ diệu đã xảy ra : Cha giải tội và hối nhân trong tòa đều nghe thấy có tiếng của Chúa Giê-su phán ra từ cây thập giá phía trên tòa giải tội : “Nhưng Ta tha tội cho hối nhân này !”. Rồi Chúa nói riêng với vị linh mục : “Chính Ta mới chịu đổ máu để rửa sạch tội lỗi của loài người chứ không phải con đâu !”
Cũng từ ngày đó, người ta thấy trên cây thánh giá tại tòa giải tội trong nhà thờ trên, cánh tay phải của Chúa Giê-su không còn gắn vào cây thập giá, nhưng bị bung ra trong tư thế đang cúi xuống ban phép lành cho hối nhân trong tòa giải tội, như một lời mời gọi tội nhân hãy tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Chúa.
2) ĐƯỢC ƠN HOÁN CẢI THỰC SỰ NHỜ PHÉP GIẢI TỘI.
TA-XI-A-NA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là “Về một cuộc đổi đời kỳ diệu”. Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Ta-xi-a-na được tóm gọn như sau :
Ngay từ khi còn bé, Ta-xi-a-na đã được chịu phép rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do cứng đầu và hay gây gỗ nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ khó dạy. Ngay từ nhỏ, Ta-xi-a-na đã tỏ ra căm thù tất cả những gì mang tính gò bó, ép cô vào khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy mất tự do vì không thể hoàn toàn làm theo ý mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Ta-xi-a-na đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám ma cô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen…! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yô-ga. Khi tập luyện Yô-ga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha thay cho bài văn vần kia. Ta-xi-a-na đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Ta-xi-a-na : “Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh ?” Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giê-su. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được ơn biến đổi hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau : “Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà tôi đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi bị mất khả năng sinh sản. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự : Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa !” Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tận tâm can tôi. Sau cùng tôi rất xúc động khi đón nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân”.
Sau lần xưng tội ấy, Ta-xi-a-na đã cảm nghiệm gặp được chính Chúa Giê-su và được Người tha thứ hết mọi lỗi lầm quá khứ. Ta-xi-a-na không những đã được tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô thành một tạo vật hòan tòan mới của Người.
3. CHUYỆN TÌNH TRÊN NON CAO.
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống hạnh phúc với nhau trên một ngọn núi cao. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ đã cùng nhau hô to giữa bầu trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá !” Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi để hưởng hạnh phúc. Người chồng hằng ngày phải xuống núi làm việc để có tiền mua sắm lương thực và các vật dụng cần. Rồi một ngày nọ, khi đi làm việc, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một phụ nữ khác. Khi biết được điều này, chị vợ tỏ ra rất giận và từ hôm đó không thèm nói chuyện với chồng. Phần người chồng cũng hối hận nhưng không thể xin lỗi để làm hoà với vợ được, vì mỗi lần anh định mở miệng xin lỗi thì chị vợ lại bỏ ra chỗ khác không muốn nghe. Một đêm kia người chồng trên đường về nhà thì đã gặp cơn bão tuyết, chiếc xe ngựa của anh bị đổ xuống bên đường. Con ngựa bị què và anh chồng thì bị gãy xương chân. Nhưng anh vẫn cùng con ngựa cố lết về đến nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng cố lê lết lên hè cửa, nhưng vẫn không chịu ra mở cửa cho vào nhà. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã bị chết cứng ngay trước cửa mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế đó, chỉ vì người vợ đã thiếu lòng khoan dung, không cho chồng có cơ hội để quay về.
Cuộc đời con người chúng ta thật không đơn giản mà tốt xấu trắng đen lẫn lộn nhau : có những lúc người ta có thể tốt như thiên thần, nhưng cũng có lúc lại xấu xa như ác quỷ. Tâm hồn có phần sáng phần tối, dù đã lỡ phạm tội nhưng vẫn muốn nên tốt. Do đó trong cuộc sống chung, mỗi người cần có lòng thương xót để tạo điều kiện giúp kẻ trót lầm đường lạc lối có cơ hội trở về.
4. KHÔNG AI HOÀN TOÀN VÔ TỘI.
Ngày xưa tại một nước Hồi giáo, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua làm quan án xét xử. Nhà vua ra lệnh treo cổ tên trộm này đúng như luật định. Khi bị áp giải đến giá treo cổ, tên trộm đã nói với viên quan thi hành án rằng : anh ta có một bí mật do cha anh truyền lại, là có thể gieo trồng hạt giống cây lựu sai quả, khiến nó mọc nhanh và sinh hoa trái chỉ trong thời gian một đêm. Và sẽ thật đáng tiếc, nếu điều bí mật này bị mất đi theo với cái chết của anh. Anh muốn truyền bí quyết này cho hậu thế nhưng chỉ truyền qua nhà vua mà thôi.
Viên cai ngục thay vì thi hành án đã vội giải hắn đến trước mặt vua. Tại đây, tên trộm xin được đào một cái lỗ trên đất, rồi lấy trong túi ra một hạt giống lựu và nói :
– Tâu Đức Vua, hạt giống này chỉ có kết quả kỳ diệu nếu do một người chưa từng phạm tội ăn cắp vun trồng. Vì là một tên trộm cắp, nên thảo dân không thể trồng nó. Thế rồi anh ta quay sang viên quan đứng gần và nói với ông ta :
– Ngài có thể trồng hạt giống này không ạ ?
Nhưng viên quan này vội xua tay từ chối và nói :
– Khi còn trẻ, tôi đã có lần lấy một vài đồ vật của bạn bè.
Sau đó, tên trộm lại quay sang nói với viên quan thủ kho của nhà vua :
– Ngài là thủ kho công minh liêm chính. Vậy chắc ngài có thể trồng hạt giống này ?
Nhưng viên quan giữ kho tàng của hoàng cung cũng từ chối :
– Cách đây nhiều năm, tôi cũng có lần đã lấy cắp tiền trong kho.
Và cứ như thế, hết người này đến người khác được mời nhưng ai cũng từ chối… Cuối cùng chỉ còn mình nhà vua. Quay sang nhà vua, tên trộm nói :
– Có lẽ bệ hạ sẵn sàng trồng hạt giống này ?
Nhưng nhà vua nói :
– Ta phải xấu hổ mà nói rằng : Ta cũng có lần lấy một viên ngọc quý của vua cha.
Bấy giờ tên trộm tử tội nói :
– Tất cả các ngài đều là những người có địa vị và quyền lực, sở hữu không thiếu bất cứ thứ gì. Thế mà không ai trong các ngài cảm thấy mình trong sạch đủ để trồng được hạt giống này. Còn tôi chỉ ăn trộm ít tiền để mua đồ ăn cho khỏi chết đói, mà tôi lại phải bị chết treo cổ hay sao ?
Cuối cùng nhà vua đành phải tha bổng cho tên tử tội. Như vậy, câu chuyện trồng hạt lựu chứng tỏ cho thấy : không ai hoàn toàn vô tội !
3. THẢO LUẬN :
Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói : “Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục chỉ là tội nhân giống như mình ? Hoặc xưng tội là điều vô ích, vì chỉ sau một thời gian ngắn tội nhân sẽ tái phạm ? Sao không đợi đến lúc phải nằm liệt giường mới xưng tội rồi chết và sẽ không tái phạm nữa ?”.
4. SUY NIỆM :
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay : thuật lại câu chuyện Đức Giê-su bênh vực và tuyên bố tha tội cho một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Khi cúi xuống vẽ trên đất, có thể Đức Giê-su đang viết tội của các đầu mục Do thái ra hay đang suy nghĩ để trả lời họ. Nhưng các đầu mục Do thái tưởng đã bắt bí được Đức Giê-su, nên cứ gặng hỏi mãi. Bấy giờ Người ngẩng lên trả lời họ rằng : “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi ” (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám cầm đá ném vì ai cũng ý thức mình đã phạm nhiều tội lỗi… nên sau đó cả bọn từng người lần lượt bỏ đi. Chỉ có Đấng vô tội là Đức Giê-su còn ngồi lại, nhưng Người lại không lên án khi nói với người phụ nữ : “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu ! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa !” (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, là những người tội lỗi. Chúa không đe phạt nhưng đã tin tưởng khích lệ, và muốn các tội nhân hồi tâm sám hối. Người không dung túng tội lỗi, nhưng nâng đỡ và muốn tội nhân sám hối để được sống.
2) Một số suy nghĩ lệch lạc của con người ngày nay về bí tích giải tội :
Ngày nay một số khá đông các tín hữu không đi xưng tội dựa vào các lẽ như sau:
* Do các vị chủ chăn cũng bất toàn : Các chủ chăn cũng chỉ là những con người đầy yếu đuối và đã từng phạm tội, nên không xứng đáng tha tội cho họ.
Tuy nhiên, chính Đức Giê-su đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các môn đệ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông cũng đã từng phạm tội trước đó như : Tức giận muốn tiêu diệt dân làng Sa-ma-ri vì đã từ chối đón tiếp Thầy trò vào ở trọ; Giành nhau chỗ ngồi, hèn nhát bỏ Thầy chạy trốn, chối không biết Thầy là ai… Dù biết rõ sự yếu đuối bất toàn của các ông, nhưng Chúa Phục Sinh vẫn trao quyền “cầm buộc và tháo cởi” cho các ông như Tin Mừng thuật lại : “Nói xong, Chúa Giê-su thổi hơi vào các ông và bảo : Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,22-23).
* Do chưa hiểu đúng về hiệu quả của bí tích giải tội : Có người nói : “Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng một số tội đã từng xưng nhiều lần trước đó mà không thể chừa được. Do đó xưng tội là một việc làm thiếu hiệu quả nếu không muốn nói là vô ích.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác của chúng ta : Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh nan y như : Cao huyết áp cần phải uống thuốc hằng ngày, dị ứng nổi mề đay, bệnh “gút” gây đau nhức cần uống thuốc giảm đau… Mỗi khi căn bệnh tái phát, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa khám và dùng một số loại thuốc giống nhau… Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do rồi bệnh sẽ tái lại ? Nếu ta không đi khám bệnh và không uống các thứ thuốc quen thuộc nói trên mới là sai lầm. Ngoài ra mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa, dù biết rằng đến mai cơ thể sẽ lại bị dơ cần phải tắm lại… Về phạm vi tâm linh cũng vậy : Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như : Dễ nổi nóng, nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ và tự ái cao, lười biếng việc đạo đức, uống rượu say sỉn, xem phim ảnh xấu rồi thủ dâm… Dù đã nhiều lần quyết tâm chừa nhưng rồi sau đó vẫn cứ tái phạm… Dù vậy, chúng ta cần phải xưng thú các tội ấy để xin Chúa thứ tha. Hy vọng nhờ ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ từng bước chừa bỏ được thói hư để ngày một nên hoàn thiện hơn.
* Do cách xét mình cẩu thả khi xưng tội : Có người chữa mình rằng : “Tôi đã xét mình mãi mà chẳng tìm thấy tội gì mới phạm để xưng khi vào toà giải tội, nhiều khi tôi phải xưng lại một “tội trọng cũ” để đủ điều kiện lãnh phép giải tội. Việc không tìm ra tội nào mới không chứng minh chúng ta đã nên hoàn thiện. Vì có thể do tâm hồn chúng ta đã hoá chai lỳ, khi coi các việc sai trái không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều phạm tội do sự yếu hèn của mình, như thánh Phao-lô đã phải thú nhận : “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra có thể do họ đã xét mình cẩu thả và tự lừa dối mình, như thánh Gio-an dạy : “Nếu chúng ta nói mình không có tội, là đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1,8).
* Do chưa ý thức về tầm quan trọng của những tội thiếu sót : Trong kinh cáo mình có câu : “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai… hay tội đã bỏ qua không làm điều tốt lẽ ra phải làm như : Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần được trợ giúp… Trong Tin mừng, Đức Giê-su đã đề cập đến tội thiếu sót này như trong dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu đã làm ngơ không chịu giúp đỡ La-da-rô, một người nghèo khổ đang nằm trước cổng nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giê-su cũng sẽ tuyên phạt những kẻ đã bỏ các việc lành lẽ ra phải làm như sau : “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các ngươi đã không viếng thăm …” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể trở thành tội nặng nếu do thiếu tình thương mà ta đã gây thiệt hại nặng cho người cần phải được cấp thời trợ giúp. Chẳng hạn bỏ qua không cứu giúp một người sắp bị chết đuối, không mang đi cấp cứu người bệnh tim bị đột quỵ hay người bị thương do tai nạn xe cộ mất nhiều máu… Tội làm ngơ này đồng nghĩa với giết người như thánh Gio-an viết : “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
3) Phải sám hối cụ thể trong Mùa Chay thế nào ? :
– Ngoài việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, mỗi người chúng ta cần dọn mình xưng tội. Điều quan trọng là phải tìm ra mối tội đầu của mình để quyết tâm chừa cải bằng việc tập các nhân đức đối lập với thói xấu như sau:
– Đối với bản thân : Mỗi ngày chúng ta cần dành ít phút xét mình trong giờ kinh tối gia đình, để ý thức về sự yếu đuối bất toàn của mình. Hãy dọn mình xưng tội mỗi đầu tháng để thánh hóa bản thân. Hãy loại bỏ những đố kỵ ganh ghét, bỏ qua những lời xúc phạm của kẻ khác đối với mình…
– Đối với người thân trong gia đình : Một trong những lý do chính đưa đến đổ vỡ hạnh phúc và ly hôn nơi các gia đình trẻ hiện nay là vợ chồng không bỏ qua lỗi lầm cho nhau. Đôi vợ chồng nên nhất trí với nhau ngay từ khi bắt đầu sống chung : Mỗi khi có điều chi bất bình tranh cãi nhau thì cả hai đều phải sẵn sàng đi bước trước làm hòa, như lời thánh Phao-lô : “Anh em đừng phạm tội : chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. Đừng để ma quỷ thừa cơ lợi dụng ! (Ep 4,26-27). Sau cơn giận, mỗi người hãy lập tức dâng một lời cầu xin Chúa giúp và ai chủ động bắt chuyện trước sẽ là người chiến thắng, vì đã thắng được tính tự ái của mình.
– Đối với tha nhân ngoài xã hội : Điều chúng ta cần làm ngay trong Mùa Chay này là : Mỗi ngày hãy xét mình để biết có ai đó đang bất hòa với mình để quyết tâm làm hòa với họ. Mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, cần lưu ý câu : “Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Mỗi ngày hãy đọc lời Chúa về sự tha thứ. Hãy suy nghĩ lời ông chủ trong dụ ngôn hai con nợ : “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33).
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nào đó nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng thấy và không biết ? Xin cho chúng con quyết tâm bỏ đi chiếc mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên chứng nhân tình thương của Chúa trước mặt người đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH – HHTM