I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Tuần Thánh bắt đầu với Chúa Nhật Lễ Lá và kết thúc với Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Tuần Thánh là thời gian thuận lợi nhất để các Ki-tô hữu suy ngắm và cảm tạ Thiên Chúa là Đấng có tấm lòng và hành động yêu thương vô bờ vô bến đối với loài người. Trong “cuộc khổ nạn” Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa mang hình ảnh, dáng dấp và thân phận của Người Tôi Tớ Đau Khổ mà ngôn sứ I-sai-a đã miêu tả từng chi tiết từ mấy trăm năm về trước.
Chúng ta được Hội Thánh mời gọi chiêm ngắm dung nhan tàn tạ của Chúa Giê-su và đi sâu vào tâm hồn của Thiên Chúa để khám phá ra Tình Yêu Thập Giá đem lại ơn cứu độ cho loài người chúng ta!
II. KÍNH NHỚ CUỘC KHỔ NẠN CỦA CHÚA
Kiệu Lá
BÀI PHÚC ÂM: Lc 19, 28-40
“Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.
Khi ấy, Chúa Giê-su đi trước lên Giê-ru-sa-lem. Và xảy ra là khi Người đến gần Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, giáp núi gọi là núi Cây Dầu, Người sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp con lừa con cột sẵn đó chưa ai cỡi bao giờ; các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con “Tại sao các ông mở dây?”, thì hãy nói thế này: “Vì Chúa cần dùng đến nó”. Hai người được sai ra đi, và gặp lừa con đứng đó như Chúa đã bảo. Hai ông đang mở dây lừa con, thì chủ nó hỏi rằng: “Sao các ông mở dây lừa con?” Hai ông đáp: “Vì Chúa cần đến nó”. Hai ông dắt lừa về cho Chúa Giê-su, trải áo lên mình lừa và đặt Chúa lên trên. Dọc đàng, người ta trải áo trên lối đi. Khi Người đến gần triền núi Cây Dầu, tất cả đoàn môn đệ hân hoan lớn tiếng ca ngợi Chúa về mọi phép lạ họ đã thấy mà rằng: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời”. Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: “Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi”. Chúa Giê-su nói: “Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên”.
THÁNH LỄ
BÀI ĐỌC I: Is 50, 4-7
“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri I-sai-a.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
BÀI ĐỌC II: Pl 2, 6-11
“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.
Trích thư Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Phi-lip-phê.
Chúa Giê-su Ki-tô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
BÀI THƯƠNG KHÓ: Lc 22, 14 – 23, 56 (bài dài)
“Sự Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
Bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, theo Thánh Lu-ca.
Đến giờ, Chúa Giê-su vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: “Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa”. Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: “Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!” Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!” Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó. Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: “Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn (trong) các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu hạ. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy, và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Is-ra-el!” Rồi Chúa nói: “Si-mon, Si-mon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin”. Ông thưa Người: “Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết”. Nhưng Người đáp: “Phê-rô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã ba lần chối rằng không biết Thầy”. Và Người bảo các ông: “Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?” Các ông thưa: “Không thiếu gì cả”. Vậy Người nói: “Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: ‘Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác’. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất”. Các ông thưa Người: “Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây”. Và Người bảo: “Đủ rồi”.
Đoạn Người ra đi lên núi cây ô-liu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: “Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ”. Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha”. Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: “Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ”. Người còn đang nói, thì này đây (xuất hiện) một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giê-su để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: “Giu-đa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?” Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: “Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?” Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giê-su lên tiếng bảo: “Thôi, đủ rồi”. Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại. Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm”. Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phê-rô đi theo xa xa.
Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phê-rô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: “Cả ông này cũng theo hắn”. Nhưng ông chối và nói: “Này chị, tôi đâu quen biết người ấy”. Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói: “Chính ông cũng là người trong bọn đó”. Nhưng Phê-rô đáp: “Này anh, đâu có phải tôi”. Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: “Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Ga-li-lê-a”. Phê-rô đáp: “Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?” Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giê-su quay lại nhìn Phê-rô. Bấy giờ Phê-rô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phê-rô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: “Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó”. Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người. Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: “Nếu ông là Đấng Ki-tô, hãy nói cho chúng tôi hay”. Người trả lời: “Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng”. Mọi người đều hỏi lại: “Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?” Người đáp: “Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa”. Bấy giờ họ nói: “Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói”. Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Phi-la-tô.
Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cê-sa-rê, và còn tự xưng là Ki-tô Vua”. Phi-la-tô bảo các thượng tế và đám đông rằng: “Ta không thấy người này có tội gì”. Nhưng họ cố nài rằng: “Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giu-đê-a, bắt đầu từ Ga-li-lê-a đến đây”. Phi-la-tô vừa nghe nói đến Ga-li-lê-a, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Ga-li-lê-a không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hê-rô-đê, quan liền sai giải Người cho Hê-rô-đê cũng có mặt tại Giê-ru-sa-lem trong những ngày ấy. Hê-rô-đê thấy Chúa Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hê-rô-đê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Phi-la-tô. Chính ngày đó, Hê-rô-đê và Phi-la-tô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: “Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hê-rô-đê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi”. Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: “Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi”. Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Phi-la-tô muốn tha Chúa Giê-su, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói: “Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!”. Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng: “Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi”. Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Phi-la-tô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giê-su thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xy-rê-nê, tên Si-mon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giê-su. Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giê-su ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: “Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: “Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con”. Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: “Hãy đổ xuống đè chúng tôi”, và nói với các gò nổng rằng: “Hãy che lấp chúng tôi đi”. Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?” Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giê-su than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: “Nó đã cứu được kẻ khác, thì hãy tự cứu mình đi nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “Người này là vua dân Do-thái”. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Đấng Ki-tô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa Chúa Giê-su rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giê-su đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giê-su kêu lớn tiếng rằng: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha”. Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng: “Ông này quả thật là người công chính”. Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về.
Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Ga-li-lê-a, họ cũng chứng kiến. Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giu-se, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, ông quê ở thành A-ri-ma-thi-a trong xứ Giu-đê-a, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Phi-la-tô và xin xác Chúa Giê-su. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đá đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sab-bat. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Ga-li-lê-a, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sab-bat, các bà nghỉ theo đúng luật.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Is 43, 16-21) là một đoạn văn tuy ngắn nhưng rất quan trọng đối với I-sai-a và mạc khải Ki-tô giáo. I-sai-a nói về ơn gọi và thân phận ngôn sứ của chính mình. Nhưng I-sai-a cũng nói tiên tri về Đấng sẽ đến trong lịch sử Ít-ra-en mà chỉ sau khi Chúa Giê-su bị đóng đinh trên thập giá và trỗi dậy từ cõi chết thì người tin mới khám phá ra ơn gọi, dung mạo và thân phận của Người.
Trong đoạn sách I-sai-a 43,16-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa Ngôi Hai làm người đã tự chọn một thân phận có thể gọi là “hẩm hiu” mà không một ai lại dại đột và khùng điên đến độ tự chuốc lấy cho mình. Đó là thân phận của người mà Sách Thánh gọi là Người Tôi Tớ Đau Khổ.
3.1.2 Bài đọc 2 (Pl 3,8-14) là đoạn Sách Thánh đáng được xếp vào hạng hay nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ viết về Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Những lời nói trên chỉ được rút ra từ những giờ phút chiêm niệm đắm mình trong mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô. Cũng có thể nói đó là những soi sáng, những mạc khải mà Chúa Thánh Thần đã ban cho Thánh Phao-lô để ngài chia sẻ với Hội Thánh là các tín hữu Phi-líp-phê và các tín hữu của mọi thời mọi nơi trong đó có chúng ta.
Trong đoạn Pl 3,8-14 trên, Thánh Phao-lô trình bày Chúa Giê-su ở ba giai đoạn: Trước, trong và sau cuộc Khổ Nạn. Trước & trong cuộc Khổ Nạn thì Chúa Giê-su mang thân phận và chân dung của Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa. Nhưng sau cuộc Khổ Nạn thì Chúa Giê-su mang thân phận và chân dung của Đức Chúa khải hoàn chiến thắng vinh quang. Trước và trong cuộc Khổ Nạn là mầu nhiệm Nhập Thể và Thương Khó. Sau cuộc Khổ Nạn là mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển.
3.1.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 22,14 – 23,56) là cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su theo Tin Mừng Lu-ca.
Qua bài Thương Khó của Tin Mừng Lu-ca, chúng ta có được một tường trình về những nỗi ĐAU ngoài thân xác và những nỗi KHỔ trong tâm hồn của Chúa Giê-su, Chúa chúng ta:
* Những nỗi ĐAU ngoài thân xác là Chúa Giê-su bị bắt, trói, đánh đập, tra tấn, vác thập giá, bị đóng đinh vào cây gỗ và vị treo lên như một tên tội phạm. Gương mặt và thân xác Chúa bị bầm dập một cách tàn tạ khiến không ai chứng kiến mà có thể cầm được nước mắt!
* Còn những nỗi KHỔ trong tâm hồn của Chúa Giê-su thì khủng khiếp hơn nhiều. Đó là Chúa Giê-su bị người Do-thái và nhất là những người có quyền chức lãnh đạo trong tôn giáo khinh khi, thù ghét, tra vấn, đánh đập, chế diễu, kết án và giết chết. Nhưng còn một nỗi KHỔ tinh thần lớn hơn nữa là bị bán, bị từ chối và bỏ rơi bởi chính các môn đệ thân tín của mình! Thậm chí Người còn bị chính Chúa Cha bỏ rơi.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy nhìn nhận Chúa Giê-su là Con Một Thiên Chúa, là Đấng đã vì yêu thương nhân loại mà chấp nhận mọi cực hình thập giá, để cứu chuộc chúng ta. Tình yêu vô biên ấy của Chúa Giê-su Ki-tô đòi chúng ta đáp lại bằng tình yêu của chúng ta.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng thương yêu loài người đến độ đã ban Con Một Người cho thế gian để Người Cứu Chuộc thế gian bằng cái chết thập giá.
Là Chúa Giê-su, Thiên Chúa Ngôi Hai xuống thế làm người, Đấng đã yêu thương loài người đến độ đã chịu chết trên thập giá vì loài người.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Người
Để thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay, tôi chẳng những phải biết cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa Tình Yêu mà tôi còn phải biết rao giảng Mầu Nhiệm Tình Yêu Thập Giá cho người xung quanh!
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI & HỘI THÁNH
5.1 «Khi vừa nghe Danh Thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các dân các nước trên địa cầu này được ơn nhận ra Chúa Giê-su bị đóng đinh thập giá là Cứu Chúa của mọi người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất các cả các Ki-tô hữu, cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để mọi thành phần Dân Chúa sống mật thiết với Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá và nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng Thập Giá!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người phản bội Tình Yêu và từ chối Sự Chăm Sóc của Thiên Chúa để họ được ơn hoán cải mà trở về trong Mùa Phục Sinh này.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy khám phá ra ý nghĩa của Mầu Nhiệm Thập Giá mà sống cho thích hợp với Tình Yêu Thập Giá của Thiên Chúa!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Sàigòn ngày 06 tháng 04 năm 2019
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.