CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN – C

CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Hc 27,4-7; 1Cr 15,54-58; Lc 6,39-45
MỤC LỤC
1. Cọng rơm và cái xà 3
2. Nghe mà không thực hành 6
3. Đạo đức giả 9
4. Những bậc thầy mới – R. Gutzwiller 12
5. Đạo đức giả 15
6. Bài giảng là hoa quả của trái tim 17
7. Sống những gì Chúa muốn 20
8. Ánh sáng thế gian 23
9. Cái rác – cái xà 25
10. Mù không thể dắt mù 27
11. Hãy tự biết mình 28
12. Cái rác, cái xà 30
13. Cẩn thận về việc xét đoán 32
14. Suy niệm của NCK 44
15. Chớ xét đoán 49
16. Tốt xấu 51
17. Đồng hành với Chúa 53
18. Đừng lên mặt 55
19. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi 57
20. Lấy rác, lấy xà 60
21. Lời nói – Việc làm – Ơn Chúa 63
22. Lòng an vui thì dường như không xét đoán 70
23. Đừng xét đoán 72
24. Cây đời xanh tươi – Thiên Phúc 74
25. Xem quả biết cây 77
26. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên 79
27. Đức tin 82
28. “Coi vậy” 84
29. Chú giải của Noel Quesson 86
30. Suy niệm của Noel Quesson 92
31. Chú giải của William Barclay 95
32. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin 97
33. Chú giải của Fiches Dominicales 99
34. Những điều kiện của lòng nhiệt thành 103
35. Từ tự vẫn đến tự lực cánh sinh 107
36. Suy niệm của Lm. Damien, OFM. 112
37. Suy niệm của Lm. Trọng Hương 115

1. Cọng rơm và cái xà
Sống trên đời, chúng ta giống như một người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì chất đầy những sai lỗi của bản thân.
Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sau lỗi của người khác để rồi lên tiếng phê bình một cách gay gắt và chỉ trích một cách thậm tệ.
Trong khi đó, những sao lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa:
– Vì thế này, bởi thế kia, tại thế nọ… nên mới ra nông nỗi. Còn nếu cứ như thế này, cứ như thế kia, cứ như thế nọ… thì đâu đến nỗi.
Chúng ta nên nhớ một câu danh ngôn của người Pháp:
– Avec les “si”, on peut mettre Paris dans une bouteille. Có nghĩa là với những chữ “nếu”, người ta có thể bỏ cả thành phố Paris vào trong một cái chai.
Sở dĩ như thế nhiều khi chỉ vì cái dã tâm, cái ác ý của chúng ta mà thôi. Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh.
Sự ghen ghét làm mờ cả đôi mắt chúng ta , như tục ngữ đã diễn tả:
– Việc người thì sáng, còn việc mình thì quáng.
– Chân mình những phẩm lê nhê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khác với bản thân mình mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại, cư xử nghiêm khắc với người khác mà rộng rãi với chính bản thân mình.
Đáng lẽ ra chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt chúng ta trước đã, rồi mới thấy mà lấy cái rơm, cái rác ra khỏi mắt anh em mình, thì trái lại, chúng ta chỉ thấy được cái rơm, cái rác trong mắt anh em, mà quên đi cái xà còn đang nằm ở trong mắt mình.
Hơn thế nữa, người xưa đã nói:
– Nhân vô thập toàn, có nghĩa là chẳng ai là người hoàn toàn, trái lại ai cùng có những khuyết điểm của mình.
Hay như Thánh vĩnh cũng đã bảo:
– Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi tới bảy lần, huống nữa là chúng ta.
Thân phận con người thật là mỏng dòn và dễ vỡ như một chiếc bình sành, chúng ta có thể vấp ngã bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Sở dĩ chúng ta còn đứng vững và trung thành cho tới ngày hôm nay, tất cả đều do sự trợ giúp và nâng đỡ của tình thương và ơn sủng Chúa.
Vì thế, điều quan trọng đó là phải biết nhìn nhận những sai lỗi khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng uốn nắn, nỗ lực sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Đức Hồng y Verdier đã phát biểu như sau:
– Kể từ khi làm Tổng Giám mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá, một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều. Hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi. Ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi.
Vì thế, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm nhường để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem trong mối liên hệ đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với bản thân có gì là trục trặc, có gì là bất ổn.
Việc xét mình và kiểm điểm như thế giống như việc chúng ta soi mình vào trong gương, xem trên khuôn mặt chúng ta có nhọ nhem và mang vết bẩn hay không, nếu có thì chúng ta phải vội vã cọ rửa và lau chùi ngay.
Người xưa đã từng khuyên nhủ:
– Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Có nghĩa là biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.
Muốn biết mình, không gì hơn là phải xét mình, phải kiểm điểm bản thân và cuộc sống chúng ta.
Ngày xưa, thánh Augustinô vốn thường có thói quen cầu nguyện vời những lời lẽ như thế này:
– Domine, noverim te et noverim me. Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để nhờ đó con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để nhờ đó sẽ uốn nắn sửa đổi nhưng sai lỗi khuyết điểm, hầu luôn sống đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa.

2. Nghe mà không thực hành
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.
Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.
Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật:
“Xem quả thì biết cây” (c. 44).
Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.
Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.
Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.
Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.
Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,
qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.
Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.
Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.
Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.
Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.
Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy
bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”
Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).
Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:
Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,
lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).
Nghe thôi thì chưa đủ.
Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,
chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.
Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.
Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,
nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó?
Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.
Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.
Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.
Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.
Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.
Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.
Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,
nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.
Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,
vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.
Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

3. Đạo đức giả
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.
Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.
“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy Lạp.
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.
Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.

4. Những bậc thầy mới – R. Gutzwiller
1. Tinh thần
Bản tính con người là muốn dạy bảo người khác. Có những người quyền thế luôn cho mình là người hữu lý, họ muốn chinh phục những ai nghĩ tưởng khác họ về với ý kiến của họ. Lối phê bình đó đưa họ tới chỗ xét đoán và kết án mọi chuyện, mọi người, dĩ nhiên là trừ một mình họ. Quả thực, những người ưa phê bình tỏ ra rất nhậy cảm trước những lời người ta ca thán về mình.
Trong nước Chúa, sự việc phải xảy ra khác hẳn: người ta không xét đoán, không trù rủa nhưng cho đi và tha thứ.
Điều này không có nghĩa là mọi phán đoán đều bị đình chỉ. Giữa sự đoán xét của cá nhân và sự xét đoán theo lương tâm chức nghiệp có một sự khác biệt về căn bản. Khi cha mẹ xét đoán con cái, người có bổn phận giáo dục đối với thanh thiếu niên, bề trên đối với bề dưới, quan toà với tội nhân, những người đó hoàn tất một bổn phận cần thiết và do Thiên Chúa muốn. Thái độ của họ tuỳ thuộc vào tinh thần hướng dẫn họ. Và đó phải là một tâm tình khiêm hạ: không coi mình là hay hơn, tốt hơn người khác, phải xét đoán họ theo những quy tắc của họ, và phải áp dụng cho mình những đòi buộc tương tự, nếu không muốn nói là áp dụng cho mình những đòi hỏi cao hơn…
Sự dèm pha chua chát, kiểu phê bình không chút xót thương, những cách kết án phi nhân đạo, chủ nghĩa giáo điều vênh vang tự đắc, tất cả những cái đó nghịch với tinh thần của Đức Kitô.
2. Động lực
Chúa Giêsu đưa ra ba động lực chính để điều chỉnh thái độ của chúng ta:
Thứ nhất và trọng nhất là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước pháp đình và không thể tự bào chữa cho mình được. Do đó, hẳn ta sẽ nghĩ đến lòng nhân từ. Như vậy ta phải thông cảm với bất cứ con nợ nào, và phải có tâm hồn bao dung, không xét đoán theo những luật lệ khắc nghiệt. Nhưng hành động theo lòng trắc ẩn. Những quan hệ đứng đắn với Thiên Chúa sẽ điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau.
Thứ hai là mối quan hệ giữa người với người. Ai dạy dỗ người khác thì coi mình là người hướng đạo, trường hợp này điều chủ yếu là hướng dẫn viên phải sáng suốt để tránh tình trạng mù lại dẫn mù, và cả hai đều sa xuống hố.
Chỉ có hướng dẫn viên nào biết mình và xét đoán bản thân mình cách quân bình mới có thể hiểu biết và xét đoán tha nhân. Trong việc điều khiển chính xác, những điều kiện đầu tiên nhằm vào vị thủ lãnh. Mọi sự cải tổ đúng nghĩa đều phải khởi sự từ chính bản thân mình. Ta chỉ có thể phê bình người khác sau khi đã tự phê chính bản thân ta.
Thứ ba là phải có một caí nhìn thấu suốt chính bản thân mình. Bởi vì kẻ cho mình là tốt hơn tha nhân, theo lời Chúa Giêsu, là kẻ giả hình. Y tạo cho mình vẻ bề ngoài giả dối và hành động của y cũng như vậy. Y kêu rêu vì cọng rơm trong mắt anh em như thể mắt y không có gì cả, đang khi thực sự mắt y lại có cả một cái xà che khuất.
Như vậy, lý do Chúa Giêsu đưa ra đây hạ dần từ Thiên Chúa xuống tha nhân, và rồi đến chính mình. Ai tỏ ra lạnh nhạt với động lực đạo đức (quan hệ với Thiên Chúa). Thì ít là phải tỏ ra mẫn cảm với động lực xã hội… Nếu không, hẳn sẽ phải nhận mình là dị hợm vì khi đi khiển trách tha nhân và đề cao mình khi tìm cách cải thiện những kẻ tốt hơn mình và khi để ý đến lầm lỗi tha nhân, thì lại bị mọi người chế nhạo.
3. Lửa thử vàng
Muốn biết vị thày nào đáng cho ta tin cậy hay không, nên xem xét những việc ông ta làm, đây là tiêu chuẩn chắc chắn. Xem quả thì biết cây. Những hành vi lương hảo tượng trưng cho hoa trái chín thơm trên thân cây lành mạnh; còn hành động xấu xa là hoa trái ung thối do thân cây sâu bệnh mà ra.
Sự thiếu hoạt động nơi con người, có thể ví như một cây khô héo không còn sinh hoa kết quả: bởi vì không lẽ ta hái vả nơi bụi gai và vặt nho nơi cây dâu đất. Chẳng nên căn cứ vào lời lẽ bay bướm, hứa hẹn hay chương trình ồn ào phĩnh phờ, tình cảm kiểu cách biểu lộ hấp dẫn, hàng chuỗi sưả soạn nội bộ.
Bình tĩnh nhận xét hành vi và nếp sống là tiêu chuẩn định giá trị, là bằng chứng điều họ xác tín, và như thế ta biết có thể tin vào sự hướng dẫn của họ hay không. Nói cho cùng, hành động tinh thần chỉ là một, sự nhất trí này là mức độ sự thành toàn.
Bài giảng trên núi kết thúc bằng hình ảnh đặt quan trọng ở cách cư xử. Một ngôi nhà xây trên nền đá vững chãi, bão tố không làm chi được; còn căn nhà dựng trên bãi cát, sẽ sụp đổ một khi mưa giông, bão giật đổ tới. Người nào không chỉ nghe suông, nhưng mang ra thực hành, thì giống như người xây nhà trên đá; còn người nghe và hồ hởi đón nhận, nhưng tư cách không phù hợp với giáo lý là người xây nhà trên cát.
Chỉ có cách sống được tinh thần Chúa Kitô hướng dẫn mới là một Kitô giáo chân thực mà thôi.

5. Đạo đức giả
Suy Niệm
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là: bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.
Tiếng Việt của chúng ta dùng từ “sư phạm” để ám chỉ người dạy học. Sư là thầy, phạm là cái khuôn. Ý nói người làm thầy phải nên gương mẫu để học trò noi theo. Người thầy không chỉ là người truyền thụ một số kiến thức nhưng quan trọng còn là người phải nêu gương về cách sống, đạo đức.
Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tính xấu, tật hư để tự sửa sai bản thân mình: “Tiên trách kỷ” sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác “hậu trách nhân”. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “Mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy lẫn trò sẽ sa xuống hố.
Đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn mình. Do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?”. Trong nhà thờ, người Công giáo hay đấm ngực mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì đấm ngực người khác: “Lỗi tại nó…”.
Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết tự sửa sai chính mình trước khi sửa sai người khác. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những thiếu xót, tội lỗi của bản thân và can đảm sửa đổi. Để nhờ cuộc đời thánh thiện, chúng con góp ý cho nhau trong tình huynh đệ chân thành nhằm làm lợi cho Nước Chúa. Amen.

6. Bài giảng là hoa quả của trái tim
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller)
Chúng ta sống trong thời đại kỳ diệu giống như Tivi, máy tính và những cuộc du hành không gian. Hàu như mỗi ngày, những điều kỳ diệu đều hé mở. Ai biết được những gì sẽ xảy ra kế đó? Và một trong những điều kỳ diệu lớn nhất mà chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày sống, cũng giống như là từ khi bình minh của nòi giống con người. Đó là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Quả thật nếu không có ngôn ngữ thì khó thấy được sự kỳ diệu của thời đại chúng ta có thể phát triển bởi vì sự cộng tác giữa những con người với nhau thì quá khó khăn, ngn làm cho mọi sự có thể ngay khi không thể.
Ngôn ngữ của con người không đơn giản được rút ra từ trên một ngàn năm qua do kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một đặc ân của Thiên Chúa tuôn trào từ chân lý mà chúng ta đã được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Điều đó nâng chúng ta lên như là hữu thể con người vượt trên những tạo vật khác và thật sự đã làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa. Từ đời đời chính Thiên Chúa đã là Ngôi Lời. Ngôi Lời mà chúng ta đã biết từ mạc khải Người Con thần linh của Cha. Ngài đã có từ nguyên thủy với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Tất cả những lời nói của con người chúng ta thì không có vấn đề gì trong ngôn ngữ nhưng được thông dự vào trong Lời của Thiên Chúa. Đặc ân ngôn ngữ của Thiên Chúa thì quý giá biết bao mà chúng ta không được coi thường. Những lời đến từ chúng ta như là hoa quả đến từ cây. Trái xấu thì đến từ cây xấu và sách Khôn ngoan ngày hôm nay đã cảnh cáo chúng ta rằng, những lỗi của con người đã xuất hiện khi hắn nói. Nói một cách khác, trái tốt thì đến từ cây tốt. Như thế Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng một người tốt sẽ sinh điều tốt, như từ điều tốt ở trong lòng của nó. Những từ ngữ của con người chúng ta sẽ là một diễn tả sự tốt lành của chúng ta.
Dĩ nhiên con người chúng ta được tự do sử dụng những đặc ân của Thiên Chúa theo điều đúng hoặc sai. Có lần chúng ta nói điều tốt nhưng lúc khác chúng ta lại nói điều xấu. Có lần chúng ta diễn tả sự kính trọng và tình yêu với những lời hay ý đẹp, nhưng lúc khác chúng ta lại tỏ ra mất kiên nhẫn và thù hận. Lúc này chúng ta nói sự thật, lúc khác chúng ta lại không nói sự thật.
Chúng ta có thể đồng ý rằng chúng ta không khinh thường những đặc ân của Thiên Chúa, cố gắng để sửa sai những từ ngữ của mình, nhưng sự thay đổi trái tim của chúng ta thì giống như cố gắng sinh sản ra những trái tốt từ cây xấu vậy. Chúng ta cần thay đổi bên trong của chúng ta. Đó là lý do vì sao mà Thiên Chúa muốn khi Ngài nói: “Mỗi người hãy nói từ sự phong nhiêu của lòng mình”.
Sự phong nhiêu nơi tâm hồn của chúng ta là gì? Với sự tốt lành nào mà tâm hồn đó đã được tràn đầy? Không có điều gì hơn sự tốt lành phong phú của Thiên Chúa. Vào mỗi ngày Chúa Nhật nơi Thánh Lễ chúng ta đã nghe những lời, những lời rất quan trọng, những lời phản ảnh Ngôi Lời lớn lao của Thiên Chúa. Chúng ta nghe những lời trong Thánh Kinh. Đức Kitô Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nói với chúng ta khi những lời Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ. Từ những lời thánh này, chúng ta học được về Thiên Chúa và học được về chúng ta. Thí dụ trong bài đọc thứ hai của Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nói với chúng ta về giá trị lớn lao như là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta rất giá trị trong đôi mắt của Thiên Chúa, cái chết thì không phải là tận cùng của chúng ta, sự chết đã được Đức Kitô chế ngự, Thánh Phaolô đã tuyên bố chân lý này để cho tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng ngài cũng trình bày cho chúng ta là lời nói của chúng ta phải tuôn trào một sự hiểu biết về sự nhân lành đó. Ngài cũng nói thêm sự tuôn trào đó sẽ có giá trị phát xuất từ tâm hồn của chúng ta: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Nếu tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành của Thiên Chúa và những lời của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành. Chúng ta sẽ không dùng những lời xấu nhưng là những lời tốt. Chúng ta sẽ làm tốt nếu mọi người nghe chúng ta nói có thể cảm nhận rằng chúng ta nói như Đức Giêsu Kitô đã nói xưa kia trên mặt đất này. Tiếp đó, đối với lời nói của chúng ta, chúng ta có thể đáp cách đúng đắn rằng: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa”.

7. Sống những gì Chúa muốn
Những lời trong Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do Thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải “biết” điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì “mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố” (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.
Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
– Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
– Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
– Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
– Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lỗi của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.
2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến rũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. “Sao anh lại có thể nói với người anh em: ‘Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”(Lc 6,42)
Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì, thì Chúa đã làm trước.
Các việc ở đời cũng vậy.
Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. “Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người” thì không được.
Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:
Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói:
– Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein thản nhiên đáp lại bố:
– Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?
Bố ân cần nói với Einstein:
– Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sạch sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tưởng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dínhđầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tưởng rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.
Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.

8. Ánh sáng thế gian
Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.
Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi”. Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.
Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.
Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.

9. Cái rác – cái xà
(Suy niệm của Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng)
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”
Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”.
Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.
Anh chị em thân mến,
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.
Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.
Lạy Chúa, “Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.

10. Mù không thể dắt mù
(Suy niệm của Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP)
Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!
Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình…
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.
Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.
Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác… để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.

11. Hãy tự biết mình
“Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán.” (Lc 6,32)
Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người sẽ đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân.
Ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó con người sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Lịch sử đời sống tu trì ở những thế kỷ đầu của Kitô Giáo có ghi lại một giai thoại như sau:
Tại một tu viện nọ, có một tu sĩ bị bắt quả tang phạm một lỗi nặng. Vì ích chung của cộng đoàn, các tu sĩ ở chung nhà liền mở một phiên xử và mời vị Tu Viện Trưởng đến tham dự, nhưng ngài đã từ chối. Một vài người đại diện các tu sĩ đến nài nỉ:
– Xin cha đến giúp chúng con, vì chỉ có cha mới giúp cho chúng con biết phải phán xét và sửa trị người anh em này như thế nào.
Vì thế vị Tu Viện Trưởng nhận lời đến dự phiên xử.
Khi ngài đến thì mọi người ngạc nhiên, vì thấy ngài mang trên vai một cái giỏ đầy cát. Những hạt cát chui theo một lỗ hổng chảy dài trên lưng của ngài. Thấy mọi người ngạc nhiên, ngài giải thích như sau:
– Anh em hẳn đã thấy những hạt cát rơi lã trã trên lưng của tôi, nhưng tôi thì không hề nhìn thấy. Tội lỗi của tôi cũng giống như những hạt cát này, nó chảy tràn lan trong tôi mà tôi không nhìn thấy. Tội lỗi đầy tràn mà tôi không thấy, thì làm sao tôi dám đoán xét người khác.

12. Cái rác, cái xà
Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em! (Lc. 6, 42)
Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.
Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.
Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!
Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.

13. Cẩn thận về việc xét đoán
“Xem quả thì biết cây” (Lc 6,44)
Sợi chỉ đỏ:
Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán:
– Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)
– Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì “xem quả thì biết cây” (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.
Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.
– Chúng con hay phê phán và lên án người khác.
– Chúng con thường sống giả hình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)
Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:
– Lời nói bộc lộ cái dở của một con người
– Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.
– Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.
2. Đáp ca (Tv 91)
Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.
3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
– Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
– Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
– Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)
Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:
– Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.
– Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bàn về lời nói
Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.
Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng “Họ nói mà không làm” (Mt 23,3).
Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. “Lời nói” mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.
Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.
Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:
– Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.
– Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.
– Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.
* 2. Sửa mình trước khi sửa người
Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.
Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.
Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:
– Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.
– Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.
* 3. Cây đời xanh tươi
Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố” (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích; và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình
Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: “Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy”. Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: “Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!” Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.
Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.
Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.
Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?
Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!
Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)
* 5. Cái xà trong con mắt
Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.
Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.
Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.
Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: “Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?”. Con chích choè không chịu thua, cãi lại: “Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết”. Con tê giác nghĩ trong bụng: “Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo”. Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: “Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi”. Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.
Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!
Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)
* 6. Sửa đổi tính tình
Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.
Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.
Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.
Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.
Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới”
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con”. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
1. Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.
2. Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.
3. Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.
4. Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

14. Suy niệm của NCK
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn là người đang có trách nhiệm hướng tinh thần hoặc tâm linh dẫn một số người, chẳng hạn những người trong gia đình bạn, con cái bạn, hay một tập thể lớn nhỏ nào đó. Bạn có ý thức rằng nếu bạn không đủ khôn ngoan sáng suốt thì bạn sẽ dẫn cả gia đình hay tập thể của bạn vào con đường sai lầm tai hại không? Bạn phải làm gì để tránh được tình trạng đó?
2. Có thể căn cứ vào lời nói của một người để biết người đó tốt hay xấu, ngay thẳng thật thà hay quanh co gian dối không? Kinh nghiệm cho bạn thấy thế nào về những người khéo nói, nói hay, nói giỏi?
3. Tại sao thấy lỗi của người thì dễ, mà thấy lỗi của mình thì khó? Bạn có thấy mình có khuynh hướng xấu ấy không? Làm sao để sửa?
Suy tư gợi ý:
1. Những người dẫn lối chỉ đường cần phải sáng mắt
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?. Đức Giêsu đưa ra một chân lý liên quan đến việc hướng dẫn, lãnh đạo bằng một minh họa rất cụ thể. Về tinh thần hay tâm linh, người không đủ khôn ngoan sáng suốt về mặt này mà lại dẫn lối chỉ đường cho người khác đi, thì chỉ có nước làm hại người ta thôi. Làm hại người ta về mặt vật chất nhiều khi không tai hại bằng làm hại người ta về mặt tâm linh. Vì thế, những người đang có trách nhiệm hướng đạo về mặt tâm linh cần phải có khả năng đích thực, phải biết nhìn xa trông rộng, và nhất là phải có tình yêu rộng mở, có lòng nhiệt thành, và có một đời sống tốt đẹp phù hợp với những hiểu biết về tâm linh.
Những người hướng dẫn người khác về mặt tinh thần hay tâm linh, không những phải có những kiến thức đúng đắn và lành mạnh về tâm linh, mà còn phải có một đời sống tâm linh thật sự và sâu xa nữa. Thời nay, rất nhiều người hướng dẫn tâm linh quá chú trọng tới những kiến thức (về tâm linh, về đời sống tâm linh, về Thiên Chúa, về đạo đức, về những việc phải làm), nhưng lại quá ít chú trọng tới kinh nghiệm đích thực về tâm linh, không chủ yếu giúp người khác cảm nghiệm về Thiên Chúa, có tương quan thật sự cá nhân với Ngài. Người được họ hướng dẫn nhận thấy họ nói quá nhiều và quá hay so với thực tế họ sống và cảm nghiệm được. Họ quên rằng đời sống nội tâm của người hướng dẫn về tâm linh có sâu xa thì mới có khả năng hấp dẫn và lôi cuốn người khác đi vào con đường ấy. Lời nói hay chỉ có tác động thoảng qua, còn gương sống mới có tác dụng lôi cuốn đích thực. Người hướng dẫn sáng suốt là người giúp người khác sống được, thực hành được, chứ không phải chỉ giúp họ hiểu rõ hay hiểu đúng mà thôi.
2. Căn cứ vào hành động mà biết được con người
Ngày nay, người ta chán ngán nhiều người trong xã hội cũng như trong Giáo Hội nói quá hay mà làm chẳng ra làm sao. Nhiều từ ngữ, nhiều tuyên bố kiểu dao to búa lớn, nghe rất kêu nhưng nội dung rỗng tuếch được lập đi lập lại hằng ngày trên các đài phát thanh, trên tivi, trên các chương trình quảng cáo, trên các bài giảng, bài báo, trong các mẩu đối thoại, những cuộc nói chuyện, v.v. Nhiều người lầm tưởng những người nói hay như vậy, là những người tốt. Nhưng Đức Kitô đã đưa ra cho chúng ta một nguyên tắc rất thực tiễn để biết được ai tốt ai xấu: Cứ xem quả thì biết cây. Để biết một người là tốt hay xấu, phải nhìn vào hành động của họ, chứ không chỉ nghe lời họ nói. Lời nói hay chỉ có thể chứng minh được sự thông minh và lanh lợi, khả năng suy nghĩ sâu xa hay nông cạn của người đó, chứ không nói lên được tính đạo đức, tình yêu thương, sự quảng đại, cao thượng, ngay thẳng, trong sáng, can đảm của họ.
Kinh nghiệm đời thường cho thấy người càng hô hào cổ vũ bằng miệng nhiều, càng tuyên bố nảy lửa, giật gân, hùng hồn, thì càng ít hướng về hành động. Nghĩa là càng nói nhiều thì càng làm ít.
Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là một đường lối sống, là một con đường hành động, chứ không phải là một lý thuyết để học hỏi, để bàn luận, tranh cãi. Đặc tính của Kitô giáo – cũng như linh hạnh Khôi Bình – là nghiêng về hành động, hay hướng về hành động. Lý thuyết tuy rất cần thiết, nhưng chỉ là phương tiện để đi đến hành động. Lý thuyết mà không đi đến hành động chỉ là lý thuyết xuông, vô giá trị. Thế giới được biến đổi nên tốt đẹp hơn là nhờ những con người hướng đến hành động hơn là những con người lý thuyết.
Vì thế, mỗi Kitô hữu, mỗi thành viên Khôi Bình, muốn sống đúng lý tưởng hay bản chất của mình, thì phải tự phấn đấu để trở nên một con người của hành động. Nghĩa là phải biến tất cả những điều mình chủ trương thành thực tế, phải biến Tin Mừng của Chúa Kitô thành hành động cụ thể. Tuyệt đối tránh tình trạng nói mà không làm, hay nói nhiều mà làm ít. Tốt nhất người Kitô hữu hay thành viên Khôi Bình nên nói ít mà làm nhiều. Làm cho bằng được rồi mới nói mới khuyên. Chưa làm được thì chưa nói gì, chưa khuyên ai.
3. Tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác
Người chủ trương làm nhiều hơn nói, tự nhiên sẽ quan tâm tới hành động của mình hơn là xét nét hành động của người khác. Họ sẽ tự xét xem hành động của mình còn thiếu sót chỗ nào, cần phải sửa chỗ nào. Họ nhận thấy sửa chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, họ muốn chính mình nên thánh trước đã. Mình đã là thánh rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu bản thân mình còn đầy khiếm khuyết, thì mình sửa sang ai được? Người ta sẽ bảo Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Đức Kitô muốn chúng ta – những Kitô hữu, hay những thành viên Khôi Bình – hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Thường thì ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu. Khi chỉ thấy lỗi của người khác, thì mình sẽ dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác, và sẽ thấy thật đau khổ khi phải sống chung với những người ấy.
Đây là một khuynh hướng chung trong tâm lý mọi người. Nếu chúng ta không ý thức và phản tỉnh, hay nói theo từ của Tin Mừng là không tỉnh thức, thì chúng ta khó lòng thoát khỏi tật xấu đó. Rất có thể ta đang có tật đó mà không biết, hoặc tưởng là không có. Chính tôi – người viết bài này – nhận thấy nhiều người chung quanh mình được coi là loại khá phản tỉnh mà cũng mắc phải tật này. Và biết đâu người khác nhìn vào tôi cũng thấy tôi có tật như vậy, đang khi chính tôi lại tưởng mình không hề có tật ấy!? Phải xét mình thường xuyên ta mới tránh được tật xấu này.
Nguyện:
Lạy Cha, xin cho con nhận ra những lầm lỗi của con, chứ không phải thấy lỗi của người khác. Thấy được lầm lỗi của mình thì có lợi hơn thấy lầm lỗi kẻ khác. Nhờ đó mà khiêm nhượng hơn, dễ sống với người khác hơn. Xin cho con đủ thành thật và khiêm nhượng để thấy được lỗi của chính mình. Amen.

15. Chớ xét đoán
Vào thời xa xưa, trước khi con người phát sinh ra các phương tiện phát thanh vá phát hình, tại một làng quê nọ có một thân viên nhà nước có bổn phận coi điện và phải trả lời cho những ai trong làng gọi đến muốn biết lúc đó là mấy giờ. Anh nhân viên này luôn luôn cho biết giờ giấc m cách xác tín, vì hằng ngày anh thường có thói quen kiểm soát lại đồng hồ và gờ giấc dựa theo tiếng còi hú gần nhấ của xưởng thợ duy nhất nhất gần đó. Nhưng một hôm đồng hồ của anh bị ngưng bất ngờ và có người gọi điện thoại đến hỏi xem là mấy giờ. Anh nhân viên trả lời rằng: anh đang chờ tiếng còi hú ở xưởng thợ gận bên để điều chỉnh lại đồng hồ, vì anh có thói quen canh giờ và điều chỉnh đồng hồ theo tiếng còi hú của xưởng thợ. Sau một lúc thinh lặng, người hỏi giờ trả lời: tôi là người có trách nhiệm kéo còi hú tại xưởng thợ đây và mỗi ngày tôi đều gọi anh để biết đúng giờ mà kéo còi hú. Vòng luẩn quẩn trên rất thường xảy ra trong cuộc sống và có lẽ trong chúng ta đôi khi có những người đã từng là nạn nhân bị cuốn vào trong cái vòng luẩn quẩn này, đó là trường hợp người mù dẫn người mù mà Chúa Giêsu nói đến trong phúc âm hôm này “thử hỏi người mù có thể dẫn người mù được không? Cả hai không sa xuống hố ứ?”. Trên bình diện thiêng liêng và luân lý khi phải phân biệt giữa điều nào tốt, điều nào xấu thì có những kẻ không biết phân biệt điều nào tốt hoặc xấu, nhưng họ dám lên tiếng góp ý, nếu không muốn nói là ra lệnh về việc tốt xấu, đó là trường hợp người mù dẫn người mù. Chúng ta cần tiến bước theo Đấng là ánh sáng thế gian “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước đi trong tối tăm”. Chúng ta không lo chữa trị chính sự mùa lòa của tinh thần mà lại muốn làm tài khôn lo đi chữa lành sự mù lòa tinh thần của anh em. Chúa Giêsu dạy tiếp như sau: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong mắt ngươi, người lại không thấy”. Mỗi người cần khiêm tốn đến với Chúa Giêsu, Đấng là Ánh Sáng có quyền trao ban ánh sáng cho chúng ta, có quyền giải thoát chúng ta khỏi tối tăm, khỏi những tật xấu làm lu mờ khả năng phán đoán và che khuất ý nghĩa cùng đích của đời sống con người. “Môn đệ không hơn Thầy”, đó là một chân lý mà Chúa Giêsu đã nói với mỗi người môn đệ muốn đi theo Chúa, vì thế mà chúng ta không thể khôn hơn, cao trọng hơn thầy chúng ta là được như Thầy mình là Chúa Giêsu, nghĩa là được chia sẻ sự sống và sự khôn ngoan của Ngài mỗi ngày một giống Chúa hơn. Đời sống Đức tin đòi môn đệ Chúa phải cố gắng liên lỉ để thanh luyện chính mình luôn mãi và chỉ có khi nào chúng ta thực hiện được điều này cho chính mình, thì chúng ta mới có thể trở thành hữu ích cho anh em, có thể iup anh em nhìn thấy Chúa và chấp nhận những mặc khải. Nếu chúng ta không sống theo ý Chúa, không canh tân chính mình theo giáo huấn của Ngài mà lại cả gan lên tiếng chỉ dạy anh em, thì quả thật chúng ta đáng Chúa trách là kẻ giả hình, là kẻ mù muốn dắt người mù.

16. Tốt xấu
Câu truyện cổ tích kể: một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thẳng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu chuyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xâu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xí ke, nhiễm Sida lây lan cho vơ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xẫu đê nên tốt và sửa xấu.
Theo tin mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: là bài thuốc chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cùng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng cn d tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: có tội đâu mà xưng. Trong khi đức Piô X, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vò mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinhra trái xấu”. Nha buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sốntg đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.

17. Đồng hành với Chúa
Chàng thanh niên trong một họ đạo kia có một lối sống khô khan: hững hờ với Chúa, không tha thiết với những công việc giữ đạo và sống đạo… Một hôm, gặp một linh mục, anh nói: Thưa cha, dầu sao đi nữa thì đời sống cũng vất đi! Vị Linh mục: Tại sao anh nói như vậy? Chành thanh niên: bởi vì sống chính là để chết đi! chết là hết chuyện! Vị linh mục: cha tin rằng con có lý. Sống là để chết đi. Hay đúng hơn là cho đi. Nhưng sống còn là để yêu. Nếu ta dâng hiến đời sống của ta cho những người mình yêu thì cao quí biết bao! Đúng vậy, sống là để yêu. Người ta có thể sống thiếu của cải vật chất, nhưng không thể sống thiếu tình yêu: hoa quả của tình yêu là sư hy sinh. Hy sinh càng nhiều, tình yêu càng tràn đầy. “ không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã dạy thế, và Chúa đã minh chứng bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa nhật này, chúng ta được nghe tiếng kêu hy vọng của thánh Phaolô: “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu?” Chính vì thế, thánh phaolô trấn an chúng ta: “Anh em hãy ăn ở bền đỗ và không nao núng, hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải uổng phí trong Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải giữ vững đức tin. Vây, tin vào Chúa, mặc dầu có buồn đau, bệnh tật, chết chóc! Tin vào Chúa mặc dầu thế gian có những thủ đoạn lừa đảo, là những tay chân của thần chết là tội lỗi. Bạn chưa xác tín ư? Điều này không có gì lạ cả. Pascal nói: “Phải biết nghi ngờ đúng, phải biết tin tưởng đúng “. Thánh Tôma tông đồ đã nghi ngờ Chúa sống lại và đã xác tín Chúa sống lại. Như thánh Tôma tông đồ, người Kitô hữu không tin một cách mơ hồ, không tin nhảm nhí, mà là những người biết tin tưởng chắc chắn.
Đức tin công giáo, trước hết không phải là sự hiểu biết, mặc dầu một số cha mẹ vẫn nghĩ như vậy khi cho con đi học giáo lý. Đức tin công giáo không phải là sự khôn ngoan mặc dầu một số tín hữu chỉ biết giữ đạo theo nguyên tắc mà quên đi dự uyển chueỷn của cuộc sống. Đức tin công giáo cúng không phải là một tôn giáo, mặc dầu một số tín hữu đóng khung việc sống bí tích rửa tội trong một số nghi lễ phải giữ. Đức tin công giáo chính là sự tiếp đón, đón tiếp Thiên Chúa, là nhận biết sự hiện diện sống động và mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đức tin chính là chấp nhận Thiên Chúa đồng hành, để Ngài ban cho ta sự sống của Người.
Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi chuẩn bị tâm hồn bước vào mùa Chay. Mùa Chay là mùa bước theo Chúa trên đường khổ nạn để cùng Ngài sống lại vinh quang. Cuộc sống này đã được bắt đầu ngay từ đời này, ngay tại đây. Nó liên hệ tới sự đòi buộc của Phúc Âm hôm nay. “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu… Cứ xem quả thì biết cây”.

18. Đừng lên mặt
Hẳn Chúa Giêsu đã mỉm cười khi vẽ ra bức họa về một người có cây xà trong mắt mình mà cứ gắng moi một mảnh bụi nhỏ ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi vì “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có điều tốt nhất trong những người xấu nhất. Giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn nói tội kẻ khác.”
Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã qué sạch rồi. Bà nội hỏi lại: “Có thật quét xong chưa? để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái: “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi!” cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói: “Nhà cũng chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. Quét xong, nó cũng đến trình cho nội. Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả. Chỉ có cắp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.
Để phân biệt cây tốt xấu phải căn cứ vào quả – công việc – chứ không phải lá – lời nói “vì có nhiều người chỉ tìm thấy lá khi đến gần. Nào là lá to, lá rậm, lá bóng…lá, chỉ có lá, ngoài ra không có gì khác! nhiều người chạy đến chúng ta nói hy vọng tìm được giải khát, họ đang khát mong Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta đang có trong tay tất cả những điều ấy. Chúng ta có đầy đủ giáo lý, với ơn Chúa, mặc dầu chúng ta không xứng đáng”.
Có người đã nói với một giáo sư rằng: “ tôi không thể nghe lời ông nói vì đã được thấy con người của ông rồi. “ Giảng và dạy, cả hai đều là sự thật qua nhân cách. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt.
Một nhà chế tạo làm được một con ong, cũng vỗ cánh bay được, cũng kêu vo vo, người đứng xem không tài nào biết được ong giả cho tới khi hỏi rằng: “Nó có làm ra mật không?” Chỉ một sự thí nghiệm đơn sơ ấy đủ phân biệt ong thật với ong giả. Cứ xem quả thì biết cây. Khi có ai khoa khoang về đời sống đạo của họ, chỉ cần hỏi như thánh Phaolô: “Thế thì anh em được kết quả gì?” Con đường duy nhất để chứng tỏ Kitô giáo là đạo thật là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản sinh ra những người tốt thật.

19. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.
Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.
Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).

20. Lấy rác, lấy xà
Suy Niệm
Biết mình là chuyện không dễ.
Ở một đền thờ bên Hy Lạp có khắc câu: Hãy biết mình.
Chẳng ai gần gũi với mình bằng chính bản thân mình.
Vậy mà tôi vẫn là một bí ẩn đối với tôi.
Người ta thích làm những bản trắc nghiệm
để biết về chỉ số thông minh, về tâm lý, tính tình…
Nhưng để biết mình cần trắc nghiệm bằng cả cuộc đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình.
Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ.
Tôi không thấy cái xà trong mắt mình,
nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng
mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi.
(Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!)
Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em.
Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác
dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình.
Phải chăng vì đứng gần mình quá nên tôi không thấy rõ,
hay vì tôi vẫn coi mình là hoàn hảo
nên khó chấp nhận những thiếu sót nơi mình?
Ðể thấy mình, cần khiêm tốn hỏi và nghe người khác.
Anh em tôi biết về tôi hơn tôi biết tôi.
“Hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh.
Tôi vẫn thường nói như vậy và làm như vậy.
Hăng hái, vội vã giúp người khác sửa mình,
sửa cả những chuyện chẳng đáng gì.
Ðức Giêsu không cấm ta góp ý cho người khác,
nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình,
để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em.
Bao dung hơn với tha nhân,
và nghiêm khắc hơn với chính mình.
Không coi cái xà của mình nhỏ hơn cái rác của anh em.
Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình.
Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Ðức Giêsu còn cho ta những nguyên tắc nhận định.
Nguyên tắc thứ nhất: xem quả thì biết cây.
Bụi gai không sinh trái vả, bụi rậm không sinh trái nho.
Nhìn hậu quả, ta biết được nguồn gốc, nguyên nhân.
Ðể khỏi bị lừa, hãy để ý đến hậu quả cuối cùng:
quả tốt do cây tốt, quả xấu do cây xấu.
Lắm khi ma quỷ giả dạng thiên thần sáng láng,
lừa phỉnh dụ dỗ, cho ta trái thơm ngon.
Nhưng cuối cùng trái ngon lại là trái độc.
Cần có thời gian lâu dài và theo dõi kỹ lưỡng
ta mới thấy ma quỷ lòi đuôi xấu xa của nó.
Nguyên tắc thứ hai: lòng có đầy, miệng mới nói ra.
Lời nói là hoa quả của lòng dạ con người.
Những lời giả dối sớm muộn cũng sẽ bại lộ.
Nếu chúng ta được Chúa biến đổi cái tâm của mình,
hẳn toàn bộ đời sống bên ngoài của ta cũng đổi.
Nhưng đổi bên ngoài cũng ảnh hưởng đến bên trong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hiểu rõ về “cái xà” trong mắt bạn không? Nhờ đâu mà bạn biết được “cái xà” này?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc “xem quả thì biết cây” và “lòng có đầy, miệng mới nói ra”?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
Không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước gì đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)

21. Lời nói – Việc làm – Ơn Chúa
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
1. Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống… Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
2. Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ “lòng” người ta, vì “người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác”.
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ “lòng” con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?
3. Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như “thần thánh”. Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.

22. Lòng an vui thì dường như không xét đoán
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT)
Trong cuộc sống thường ngày, con người chúng ta dễ có khuynh hướng khen, chê và phán xét người khác. Ta phán xét người khác có thể bằng lời nói, bằng cử chỉ, hoặc đôi khi chỉ là nghĩ thầm trong bụng về chuyện này chuyện khác của người ta.
Nhất là khi ngồi lại với nhau để chuyện trò, chúng ta thường có khuynh hướng khoe những điều tốt về bản thân mình bằng cách so sánh cái tốt của mình với cái dở của người khác, còn những cái dở, cái xấu của mình thì cố giấu cho bằng được. Gắn với xét đoán tiêu cực người khác thường là một thái độ ganh tị, đả phá, trả thù cho bõ tức. Còn khi nhận xét để góp ý cho người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, thì bao giờ ta cũng dễ dàng có sự bao dung, nhẹ nhàng trong cử chỉ và lời nói.
Hơn nữa, có một sự thật khá hiển nhiên: Một khi lòng ta nhẹ nhàng, thanh thản, an vui, thì ta thường nghĩ đến người khác với một thái độ tích cực và đầy bao dung, chứ chẳng muốn phán xét hay nặng lời với họ. Còn khi ta thích phán xét, thích nói xấu người khác thì lại là lúc chính ta thiếu sự bình an, hạnh phúc trong lòng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô bảo rằng “những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình.” Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì nói trực tiếp vào vấn đề hơn: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”
Đặt mình trước Lời Chúa hôm nay, tôi với bạn thử ngẫm lại xem, mỗi khi ta chỉ trích, phán xét người khác, thì thật sự trong lòng ta đang an vui, hạnh phúc hay lòng ta đang ấm ức, bức xúc, tị hiềm? Nếu thấy lòng ta còn ấm ức, hậm hực, thì Chúa bảo ta rằng: Con hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ con sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh chị em con!

23. Đừng xét đoán
Cuốn phim “Người lính đại đồng” được trình chiếu tại Manila là một trong những cuốn phim ăn khách nhất hiện nay. Cuốn phim kể lại cuộc chiến một mất một còn của hai người máy. Đây không phải là hai người máy hoàn toàn, mà là hai xác chết được hồi sinh và trang bị bằng hệ thống điện toán tinh vi để sinh hoạt như những con người bằng xương bằng thịt. Trước đây hai người đã từng chiến đấu bên nhau tại Việt Nam. Một hôm, do sự thù hận ngấm ngầm, một người đã nhẫn tâm tàn sát một đôi trai gái Việt Nam. Thế là cuộc xô xát đã diễn ra giữa hai người và kết thúc là cả hai đã tàn sát lẫn nhau. Người ta đã bí mật đưa hai tử thi về Mỹ và biến thành hai người máy chuyên trách diệt trừ khủng bố, cũng như bất cự mục tiêu quân sự nào. Thừa lệnh chủ thi hành bất cứ công tác nào, kể cả việc thủ tiêu những người tình cờ biết được việc làm của chủ, hai người máy này hành động không chút suy nghĩ và do dự. Thế nhưng, một hôm trí nhớ bỗng được phục hồi một trong hai người, cùng với trí nhớ, lương tri cũng được sồng lại. Kể từ đó anh không chỉ là một người máy chỉ biết có chém giết, mà là một con người hành động theo lẽ phải và sự thật. Kể từ đó cuộc chiến của anh đã trở thành cuộc chiến chống lại tội ác mà hiện thân là người máy đã một thời chiến đấu với anh.
Cuốn phim trên hẳn muốn minh hoa cho một luận đề: không người nào sinh ra trên đời này là một con người xấu xa hoàn toàn. Nơi một góc nào đó của tâm hồn, ngọn lửa của nhân tính vẫn luôn âm ỉ cháy, và trong những điều kiện thuận lợi, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên. Đó cũng là cái nhìn của Kinh Thánh về con người, con người vốn được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, do đó dù nghèo hèn, xấu xa đến đâu vẫn luôn mang trong mình khát vọng vô biên về thiện hảo.
Chúa Giêsu đã nhìn con người bằng cái nhìn ấy. Ngài kết thân với những người tội lỗi và giai tầng thấp nhất trong xã hội là để nói với mọi người rằng mỗi người có một giá trị, mỗi người có một chỗ đứng cá biệt trong tình yêu Thiên Chúa. Chính cái nhìn ấy về con người đã khiến Chúa Giêsu luôn tỏ ra cảm thông, khoan dung trước những vấp ngã yếu hèn của con người. Tin mừng kể lại rằng khi đám đông lôi một người đàn bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trước tòa án nhân dân và dựa trên luật Môsê để nám đá chị. Họ chờ đợi một án quyết của Chúa. Ngài với họ: “ Ai vô tội thãy ném đã chị ta trước đi”. Rồi Ngài nói với người Phụ nữ “ Chị hãy về đi, tôi không kết án chị”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta có cái nhìn của Ngài về con người và cư sử như chính Ngài, nghĩa là cảm thông, tha thứ trước những vấp ngã của người anh em Ngài nói với chúng ta “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước rồi lấy cái rác khỏi mắt anh em”.
Cảm thông tha thứ là thái độ của niềm tin. Người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn tha thứ cho những vấp ngã của mình. Qua sự tha thứ ấy, người Kitô hữu cảm nhận được cơ may mà Thiên Chúa luôn dành cho họ. Tin ở sự tha thứ của Thiên Chúadành cho mỗi người, người kitô hữu cũng được mời gọi tha thứ cho người anh em và qua đó dành cho người anh em một cơ may mới. Thật vậy, tha thứ cho một người nào đó là muốn nói rằng người đó không hoàn toàn là một con người xấu, rằng sự vấp ngã không phải là một chấm hết. Tha thứ là đánh thức dậy cái phần cao quí nhất trong tâm hồn con người. Tha thứ là tạo ra cơ may mới cho con người. Trong ý nghĩa ấy, tha thứ mà người kitô hữu thể hiện chính là tham dự vào sự tái tọa của Thiên Chúa.

24. Cây đời xanh tươi – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Triệu Quát là con trai của Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên, Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ “nói phét”. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6,39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấy hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6, 41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Kitô, nhất là những việc lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Âu-tinh thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích, và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cay xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi, để sinh hoa kết trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen.

25. Xem quả biết cây
Tại một làng đánh cá bên Ấn độ, một đêm nọ có một ngư phủ nghèo lẻn vào trong đầm của người giàu có để thả lưới. Người ngư phủ nghèo kia chưa kịp kéo lưới lên thì bị phát giác. Người giàu có cho gia nhân bủa đi khắp nơi trong đầm của mình để lùng bắt cho bằng được tên trộm. Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp mọi nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm. Trong khi đó, người ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy người và ngồi dưới một gốc cây y hệt như một hiền triết hay một đạo sĩ. Đám gia nhân không tìm thấy tên trộm, nhưng chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ trong ngày hôm sau tiếng đồn vang đi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ đầm của nhà phú hộ. Thế là thiện nam tín nữ từ các ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng nhà đạo sĩ: người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc, chẳng mấy chốc quà cáp tuôn đổ xuống nhà đạo sĩ bất đắc dĩ. Tất nhiên nhà đạo sĩ nghì thầm: thà đánh lừa dân chúng để sống hơn là nhọc công đánh cá suốt ngày mà không được gì. Nghĩ như thế, ông ta tiếp tục đóng vai nhà đạo sĩ, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân chúng. Người đánh cá bất đắc dĩ trở thành nhà đạo sĩ trên đây có thể là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Một cách nào đó, nhiều khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một lớp áo đạo đức để đánh lừa người khác và chính mình. Có những sự kiện đáng chúng ta suy nghĩ: nhà thờ Việt Nam nào xem ra cũng đầy người, người ngoại quốc nào đến Việt Nam lúc đầu cũng cảm kích trước sự sốt sắng của tín hữu Việt Nam. Thế nhưng, liệu đó có là lòng đạo đức đích thực không? Mỗi Chúa nhật tôi đến nhà th để cho người khác thấy rằng tôi đã giữ trọn luật Chúa và luật Giáo Hội. Nhưng tuân giữ như thế đã đủ để được gọi là sống đạo chưa, nếu tôi không màng đến những đòi hỏi của công bằng bác ái trong việc làm của tôi cũng như trong quan hệ của tôi với khác. Cõ lẽ chúng ta giữ đạo nhưng chưa sống đạo, có lẽ chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài những chưa có thực chất của một lòng đạo đức đích thực. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông, khoan dung đối với tội lỗi và yếu hèn của con người, nhưng Ngài lại có thái độ gay gắt đối với thói giả hình của Biệt Phái. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ Ngài để phòng trước men gia hình của Biệ Phái. Tin mừng hôm nay một lần nữa lặp lại lời cảnh giác của Chúa Giêsu với hình ảnh cây tốt phải sinh trái tốt và ngôi nhà xây tên nền móng vững chắc. Chúa Giêsu muốn nói chúng ta chúng ta rằng một niềm tin đích thực phải được tuyên xưng và thể hiện bằng những hành động cụ thể, một niềm tin đích thực phải được nuôi dưỡng bằng nền móng của những việc làm tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm cách thể hiện niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta đóng khung niềm tin ấy trong bốn bức tường nhà thờ hay những kinh kệ dài dòng, mà không thể hiện niềm tin ấy bằng những công việc của công bằng bác ái, thì có lẽ chúng ta chỉ là những căn nhà xây trên cát khó đứng vững được trước sóng gió của cuộc đời.
Nguyện xin Chúa củng cố niềm tin chúng ta và ban cho chúng ta sức sống của Ngài, để trong mọi sự chúng ta luôn thực thi thánh ý Ngài.

26. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Một lần nữa, Lời Chúa lại muốn nói nhiều hơn với những ai được đặt lên làm “lãnh đạo”, “làm đầu”: “Hãy lấy cái đà ra khỏi con mắt mình trước đã”. Cái “đà” Chúa nói ở đây không phải chỉ là những sai lầm thường có, nhưng là những sai lầm cơ bản và nghiêm trọng. Thậm chí có thể nói như Chúa nói, nó làm cho chúng ta trở thành những kẻ mù, và làm tiêu hủy cái sứ vụ. Và dường như Chúa cũng muốn nói nhiều hơn về “lời nói” trên môi miệng người “làm đầu”, khi muốn kết thúc lời dạy bằng nhận định ” và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra”.
Có thể là có một liên đới trong cùng một suy nghĩ khi bài Đức Huấn Ca kết luận “Lời nói là sự thử thách của con người”, vì “nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy.”
Trọng tâm Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay rõ ràng cảnh báo chúng ta về lời nói, lời rao giảng. Chắc chắn nhiều giáo dân cũng được cởi mở nỗi lòng để tin Chúa hơn, khi thấy Chúa cũng rất là thông cảm với họ khi phải nghe các “lãnh đạo” chúng ta rao giảng. Họ nhận ra rằng dù sao Chúa cũng đích thực có cái tình thương giản đơn nhưng thực tế và mãnh liệt, điều ấy khiến họ yêu Chúa hơn. Ước gì cảm nghiệm đó lớn mạnh lên trong lòng mỗi tín hữu.
Thực vậy, khi nghe các bài giảng ở nhà thờ, ngày nay người tín hữu có một nhạy cảm và “dị ứng” với những bài giảng luân lý-đạo đức. Đó là một thực tiễn, cho dù muốn hiểu và muốn nhìn nó thế nào. Thực ra người giảng trong thời đại này cũng đã tự hạn chế rất nhiều. Cái băn khoăn và trăn trở chính là nền luân lý và đạo đức càng ngày càng suy thoái. Nhưng có lẽ chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội của Tin Mừng để khám phá lại nguồn mạch của công cuộc loan báo Lời Chúa. Bối cảnh của một xã hội cũng trên đà suy thoái…Những cung đình thời đó cũng là những trung tâm gieo rắc lối sống sa đoạ. Thánh Phaolô từng phải đối diện với một thế giới có lẽ cũng dị ứng với những vấn đề tôn giáo không kém thời đại hôm nay. Đã có những người chủ trương lấy lề luật làm trọng điểm canh tân. Nhưng Phaolô bằng kinh nghiệm bản thân, bằng mạc khải đã lãnh nhận có một chủ trương khác: Người viết “Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật”. Bởi vì cũng chính là luật đã thúc bách người lên đường tầm nã các Kitô hữu, cũng chính là luật đã lôi Đức Kitô ra tòa… qủa thật luật là thế lực của tội. Vì vậy Thánh Phaolô luôn khẳng định “chúng tôi không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh”. Và hôm nay người nói với chúng ta “Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô.”
Với Đức Giêsu, Ngài đã đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn. Luật, đối với Ngài, là mặc khải về Thiên Chúa cho con người, do đó người ta phải giải thích lề luật bằng chính mầu nhiệm thẳm sâu của Thiên Chúa. Mầu nhiệm ấy được Đức Giêsu trình bày qua sự chết và sống lại của Ngài: mầu nhiệm của một tình yêu lớn hơn sự chết. Nơi Đức Giêsu, đúng hơn, nơi sự chết và sống lại của Ngài, Luật đã được tôn vinh và đạt tới tầm vóc siêu việt của nó. Trong khi nơi chính những con người hô hào bảo vệ luật pháp, thì Luật đã bị họ chôn vùi và đầy đoạ, trở thành cái thế lực cho họ khống trị và giết chết anh em mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi lời rao giảng luôn bộc lộ Tình Yêu đã thành Luật Vĩnh Hằng nơi Đức Giêsu Kitô.
Sống trong sứ vụ phải rao giảng Lời Chúa, lời “Hỡi kẻ giả hình,, hãy lấy cái đà ra khỏi con mắt mình trước đã…” là lời có ý nghĩa rất đặc biệt. Tôi luôn cảm thấy sức nặng của lời Chúa, luôn nhận ra sự mong manh giữa “giả hình” và suy niệm Lời. Không mấy khi tôi không hãi sợ đến thấm mồ hôi… Nhưng dù sao, chính Đức Giêsu cũng đã thấy rất rõ chân tướng của mình, nên Ngài bảo “Chúng con đừng sợ là phải nói gì. Khi đó sẽ dạy cho chúng con biết phải nói gì” tôi vẫn tin vào cái ơn Chúa hứa, mà tôi quen nghĩ đó là “ơn đấng bậc”. Và tôi nghĩ chính ơn này khiến cho lời tôi rao giảng được đón nhận.

27. Đức tin
Một người giầu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giầu: Ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giả rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giầy có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quảnlý và thưởng cho căn nhà đó. Trong những năm kếtiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước đâh là căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Đức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm mến được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngày từ đời này. Và nhận được gấp trăm người từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặ lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động của bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của tin mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?

28. “Coi vậy”
(Suy niệm của Br. Minh Trân, CRM)
Kỳ vừa qua tôi có dịp thăm một gia đình người quen ở Port Arthur. Trước nhà họ có trồng cây hồng mềm, nhiều trái vàng tươi, trông rất bắt mắt. Thấy vậy tôi buột miệng: “Chà! hồng chín xem ngon hén.” Nhưng anh chồng nói: “Coi vậy chứ chưa ăn được đâu thầy ơi. Chát lắm… và nhựa không à. Phải đợi cho nó thật chín mềm mới ăn được.” Chồng vừa dứt lời thì vợ liền tiếp: “Nhưng mà con nghe người ta mách là nếu muốn ăn trước hình như phải ngâm nước muối một ngày, rồi đem ủ vào hũ gạo thêm một hai ngày nữa thì hồng sẽ hết chát và hết nhựa…” Nhìn mấy trái hồng treo lủng lẳng trên cây, tôi thầm nghĩ ăn được mấy trái hồng này xem ra cũng vất vả thiệt. Và hình như đọc được ý tôi, chị vợ bèn thốt lên: “Coi dzị mà hổng phải dzị đâu thầy ơi.”
Qua Lời Chúa hôm nay, tôi rút ra được hai bài học: đối với mình phải sống thế nào, và đối với tha nhân phải xử thế làm sao. Thứ nhất, Chúa dạy rõ: “… giống như những cây tốt sinh trái tốt, người lành phát sinh những việc thiện hảo…” Theo thánh kinh, nói về cây tốt là nói về “phẩm hạnh đi trước hành động.” Hay nói cách khác, các việc làm của một người tỏ cho thấy tình trạng “trái tim” của họ. Điều này có nghĩa là Chúa muốn dạy chúng ta phải sống liêm chính, bác ái yêu thương, sống thật thà ngay thẳng, có sao nói vậy, và nói thì phải làm. Đừng nói một đàng rồi làm một nẻo. Thứ hai, đối với người khác Chúa dạy chúng ta nên thận trọng, ý tứ trong việc xử thế — đừng xét đoán, cũng đừng kết án, vì rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng đã cảm nhận “coi dzị mà hổng phải dzị.” Đọc lại mấy câu trước đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy thánh sử Luca ghi rõ: “Hãy từ tâm, cảm thông với người khác như Cha các con trên trời… đừng xét đoán… cũng đừng kết án… hãy tha thứ….” Suy nghĩ kỹ chúng ta thấy xét đoán hoặc kết án người khác thật là một điều bất công. Thử hỏi sao lại không bất công một khi mình không biết rõ họ là ai, không hiểu được hoàn cảnh của họ thế nào, cũng chẳng đả thông ý định trong lòng của họ ra sao… thế mà lại xét đoán, kết án họ? Con người chỉ nhìn thấy bề ngoài. Chỉ Thiên Chúa mới nhìn thấy bên trong, và đó mới là điều can hệ. Hạnh các thánh đã chứng nhận điều đó. Thử hỏi được bao nhiêu vị thánh mà lại không có một quá khứ đáng phàn nàn? Nhưng khác một điều là quá khứ của các ngài đã được nhận ra, được tha thứ, và được khắc phục. “Coi dzị mà hổng phải dzị.” Phải chăng Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là một lời cảnh tỉnh? “… Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã…” (6:42) Theo tiếng Hy lạp, từ ngữ giả hình chỉ về kịch sĩ. Trong Phúc âm, từ ngữ giả hình luôn luôn làm giảm uy tín cũng như danh dự cá nhân, và ám chỉ đến sự thiếu thành thật. Thánh Luca dùng từ ngữ giả hình ba lần: một lần ám chỉ những người Pharisêu (12:1), và hai lần nhắm đến những người chống đối Chúa Giêsu (12:56, 13:15). Nhìn trái hồng mềm có người biết khi nào ăn được và cũng có người chẳng biết khi nào ăn được. Nhưng nhìn những người sống liêm chính, và năng “để ý đến những lỗi lầm của mình trước” thì có lẽ ai cũng nhận ra. Điều này thường hay được nhắc đi nhắc lại trong nền luân lý Hy lạp, và thiết tưởng cũng chính là lẽ sống mà Chúa Giêsu hằng khuyên dạy chúng ta.

29. Chú giải của Noel Quesson
Luca đã tập họp trong bài diễn từ này của Đức Giêsu, những câu ngắn, những “logia ” hoặc “lời” về thái độ của các môn đệ chân chính: Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe giớ răn phải yêu thương các kẻ thù… hôm nay, vấn đề là thái độ của chúng ta đối với anh em trong cộng đoàn…
Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù, được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?”
Đây là một dụ ngôn hết sức ngắn như một câu tục ngữ. Chúng ta lưu ý thể nghi vấn của dụ ngôn ấy: Đức Giêsu không trả lời thay chúng ta. Người khêu gợi ý thức của chúng ta. Trong đoạn văn song song của Thánh Mát-thêu: nhận xét này dùng để cảnh giác chống lại: Người Biệt Phái, họ tự hào “hướng dẫn” những người khác nhưng lại là những “người mù ” trước biến cố trọng đại của Đức Giêsu.. Đấng. phát ngôn của Thiên Chúa (Mt 15,14; Ga10, 40). Phần Luca, ngài nghĩ nhiều đến những người đứng đầu các cộng đoàn Kitô hữu mà ở nơi khác, ngài gọi là các “người hướng dẫn” (Lc 22.26) “hégouménoi”. Ở Đông Phương, các Cha dòng đứng đầu tu viện luôn luôn được gọi là các Hogoumènes.
Lời của Đức Giêsu về những người “hướng dẫn mù” tự hào mình dẫn dắt được những người khác có thể được áp dụng cho tất cả chúng ta bởi vì trong lãnh vực này hay trong lãnh vực khác, chúng ta đều có trách nhiệm “hướng dẫn”: một gia đình, một xí nghiệp, một nhóm, một hiệp hội, một đô thị. Trách nhiệm của tôi là gì? Tôi có trách nhiệm với ai? Ai thuộc về tới? Tôi có khả năng không? Tôi có sáng suốt không? Tôi có nhìn thấy rõ ràng không? Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho tất cả những người mà con có trách nhiệm. Xin Chúa giúp con tránh được các cạm bẫy đó, những cái “hố” đó trên đường đi của chúng con. Xin Chúa làm cho con nhìn thấy rõ.
Học trò không hơn thầy, có học hết chứ cũng chỉ bằng thầy mà thôi.
Một dụ ngôn ngắn khác: thầy và trò. Để được sáng suốt để trở nên một’ “Người hướng dẫn” tốt, một người phụ trách tốt, phải được một ông thầy tốt đào tạo. Trong việc đào tạo ở trường Đại học, các nhà bác học danh tiếng nhất hôm nay đều nói về các ông thầy “đỡ đầu” của họ với lòng tôn kính và biết ơn; các ông thầy đỡ đầu ấy đã hướng dẫn việc học tập của họ cũng như khi họ làm luận văn và khi họ gặp khó khăn trong công việc, họ lại đến gặp các ông thầy ấy để tham vấn. Cũng thế “Người thợ học việc” phải tôn kính và biết ơn “thầy dạy nghề” của mình.
Tuy nhiên ngày nay, người ta nhận thấy một sự từ khước ông thầy, một sự đề cao bệnh hoạn về tính chất không định hướng trong sư phạm cũng như trong các thương vụ. Thời thượng bây giờ là chia sẻ, giao lưu… và người ta khó mà chấp nhận những bài giảng của các bậc thầy, những bài thuyết giáo. Khía cạnh tích cực của xu hướng này đang được đánh giá: Đó là lúc nào cũng hoạt động hơn và sự tham gia của cá nhân trong việc lãnh hội một kiến thức nào đó. Nhưng khía cạnh tiêu cực của việc từ chối ông thầy là một lòng kiêu ngạo, một sự từ chối tiếp nhận mà trong thực hành dẫn đến một thứ bình quân ở cấp thấp (cào bằng xuống thấp).
Thật vậy không có chân lý hay khoa học nào mà không được tiếp nhận. Điều đó đúng với các chân lý khoa học, chúng chỉ phát triển nhờ một thứ tuân theo thực tại, khuôn mình theo các sự vật. Điều đó càng đúng hơn đối với các chân lý đức tin vốn không phải để chinh phục mà là để tiếp nhận. Khi điều chủ yếu là tiếp nhận sự mạc khải thì học trò không thể hơn thầy… mà chỉ có thể để cho thầy đào tạo. Và Đức Giêsu tự giới thiệu như vị thầy đó; Người biết nhưng việc mà chúng ta không biết.
Nền văn minh của các sách vở in ấn đã thay đổi sâu sắc tương quan “thầy trò” bằng cách trí thức hóa tương quan ấy. Trong những nền văn minh truyền khẩu, người ta không thể học một mình, tiến bộ một mình, nhưng chỉ tiếp xúc lâu dài với “ông Thầy”, nhà “hiền triết”, “thầy guru”: Lúc đó, không chỉ là sự truyền đạt kiến thức bằng đầu óc nhưng là học tập một nghệ thuật sống… mà không một cuốn sách nào có thể truyền đạt được. Đức tin trước hết được chuyển thông từ người này qua người khác. Còn hơn cả mốt kiến thức, đó chính là một đời sống. Đức Giêsu tự giới thiệu như “vị thầy của sự sống”: phải chăng tôi thường tìm gặp Người? phải chăng tôi khao khát sự “đào tạo” sống ấy mà Người đề nghị? Tôi có là một “môn’ đệ” chân chính không? Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con để con không nên bằng lòng với những kiến thức lý thuyết về Tin Mừng, những biết sống với Chúa ngày này qua ngày khác.
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?
Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe Đức Giêsu nói với chúng ta đừng xét đoán đừng lên án. Nhưng, khi người ta có trách nhiệm (và chúng ta đều có trách nhiệm ở một số điểm) người ta phải đưa ra những phán đoán, chỉnh, lý những sai lầm, giúp đỡ những người khác thậm chí nói trái ý họ và sẵn sàng xung đột với họ nếu chúng ta nhận thấy có cả điều xấu. Đó là bổn phận của trách nhiệm “cảnh cáo anh em”: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi” (Mt 18,15; Lc17,3) Môn đệ của Đức Giêsu không thể giữ sự trung lập trước một số hoàn cảnh hay tình – thế.Những trong vai trò sửa chữa, chỉnh lý, trong cuộc chiến đấu chống lại điều ác Đức Giêsu cảnh giác chúng ta trước một cám dỗ rất thường gặp: Chúng ta có nguy cơ phóng đại điều xấu nơi những người khác và giảm thiểu điều xấu trong chúng ta! Hình ảnh cái rác và cái xà khó mà quên được và một Câu Chuyện giống vậy thuộc Phương Đông làm cho câu chuyện chua chát hơn. Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con trước hết phải trở nên đòi hỏi đối với chính mình, phải sắng suốt đối với chính mình. Xin Chúa giúp chúng con nhìn thấy trong những người khác điều tích cực nhiều hơn đều tiêu cực.
Hỡi kẻ đạo đức giả! lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!
Đức Giêsu đối xử mạnh mẽ với Người phóng đại cái rác trong con mắt người anh em, như “kẻ đạo đức giả”, trong bản văn tiếng HyLạp là “upocritès:. Từ này dịch ra tiếng Do Thái là “hanef”, có nghĩa là “Con Người có phán đoán sai lầm và không biết nhận ra chân lý, còn quay lưng lại với Thiên Chúa”. Theo Lu ca, Đức Giêsu còn dùng từ ngữ mạnh mẽ đó trong hai lần khác: “Những kẻ đạo đức giả kia, sao các người lại không biết nhận xét những dấu chỉ của thời đại” (Lc 12,56) “Những kẻ đạo đức giả kia. Thế ngày Sabát ai trong các ngươi không chăm sóc súc vật của mình…?” (Lc 13,15). Từ ngữ còn mạnh hơn sự giả hình. Dụ ngộn này về “cái xà và cái rác” đã trở thành truyền thuyết. Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ mà xói rằng: “Quả đúng như thế mà! “… Khi nghĩ về người khác. Nhưng một cách chính xác, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải cáo giác chính mình… Trước khi thay đổi xã hội, như người ta nói, việc canh tân chính mình không phải là vô ích. Một lần nữa, người ta phải ngạc nhiên mà thừa nhận rằng Đức Giêsu ít khuyến cáo những “canh tân về cơ’ cấu” vốn chẳng thay đổi được gì nếu lòng người không thay đổi.
Và chính Giáo Hội phải không ngừng canh tân trước khi có ý định đổi thay thế giới. Và mỗi Kitô hữu phải không ngừng hoán cải bản thân trước khi hoán cải những người khác. Thay vì “kết án”, thay vì tuyên bố “rứt phép thông công”, thay vì mất thời gian để “xét đoán”… Đức Giêsu mời gọi chúng ta biết khiêm nhượng để cùng nhau tìm cách cải thiện và phải bắt đầu từ chính mình.
Không có cây nào tốt mà lại sinh quả xấu, cũng chẳng có cây nào xấu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!
Đây là dụ ngôn cụ thể thứ tư. Đức Giêsu là một người thực tế: người ta phán đoán một con người theo hành động thực tế của người ấy, như nhận xét một cây theo quả, mà không theo những ý định hoặc lời tuyên bố đẹp đẽ. Con người hiện đại cũng có đặc tính quan tâm đến hiệu quả. Đức Giêsu cũng thế. Nhưng Người nhấn mạnh để cái bên ngoài phải tương ứng với cái bên trong.
Vì thế, người ta nhận ra người môn đệ chân chính qua các hành động của người ấy. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng sự phân biệt “lừng danh”: “tín hữu không hành đạo” chỉ là một ảo tưởng và một sự biện minh dễ dãi.
Chính quả cho biết cây tốt hoặc có sâu… sống hoặc có bệnh.
Chính những “hành động” cho biết một người “tin” hay không… Yêu mến hay không… hy vọng hay không. Và Tin Mừng của ‘Luca ‘tiếp tục bằng những lời này mà sách kinh đã cắt quá sớm: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. “…Tại sao anh em gọi Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa mà anh em không làm điều Thầy dạy?” Lạy Chúa, xin giúp chúng con thực hành điều chúng con tin tưởng.

30. Suy niệm của Noel Quesson
Trong bản văn Lc 6, 34-49, ta thấy một chuỗi những phán quyết của Đức Giêsu hơi bất thường, được nối kết giữa những phán quyết này với những phán quyết kia nhờ những từ mốc nối (“mức độ”, “mắt”, “cây”, “miệng”, “nhà”). Sự lặp đi lặp lại những từ thường được gọi là “tiếng này gợi lại tiếng kia”, là một cách thức được sử dụng trong các nền văn minh truyền khẩu, không có chữ viết, để ghi nhớ một số lời nói nào đó. Nhờ đó, ta mới có một bằng chứng tốt về sự nắm giữ Lời Chúa Giêsu mà các thế hệ đầu tiên của Kitô giáo đã bảo trì, không phải ở trong “sách vở”, nhưng ở trong “ký ức và trong lòng họ”.
Còn tôi, tại sao tôi không biết học thuộc lòng một số câu nào của Chúa Giêsu?
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?
Qua hình ảnh cụ thể này, Đức Giêsu muốn cảnh giác: hãy có thái độ sáng suốt. Anh em đừng để người ta lôi cuốn mà không kiểm chứng mình đang đi đâu, đang theo ai? Có những người hướng dẫn giả, những ngôn sứ giả, làm dân chúng lầm lạc … Anh em hãy mở to mắt mà nhìn.
Sao ngươi thấy cái rác trong con mắt của anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không thấy?
(Từ móc nối: người mù, con mắt).
Qua hình ảnh cụ thể khác, Đức Giêsu dạy: anh em hãy tỏ ra sáng suốt đối với chính mình. Anh em biết phòng ngừa biết bao người hướng dẫn giả, các ngôn sứ giả … Anh em thường phẩm bình những vị có trách nhiệm hay các người anh em khác dễ dàng … Vậy anh em hãy nhìn kỹ vào đời sống riêng tư của mình cách sâu xa hơn … Hãy mở to mắt trên chính mình! Hãy tự phê bình mình trước đi.
Anh em rất dễ nhìn thấy khiếm khuyết của Giáo Hội, của các linh mục, các Kitô hữu, thường không đồng lập trường với anh em về một số điểm nào đó … Thế thì, thỉnh thoảng anh em hãy để ý nhìn ra những khiếm khuyết riêng của mình xem sao.
Sao ngươi lại dám nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”… Đồ giả hình! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã …
Chúng ta không thường làm giảm nhẹ sắc thái của Tin Mừng sao! Ta không ưa những lời nói thẳng nhặt! Nhất là chúng lại nhắm thẳng vào ta. Đức Giêsu có thể đang nói với tôi, tôi thật là giả hình khi mở miệng phẩm bình kẻ khác.
Cuộc sống chung quanh chúng ta sẽ vui thú hơn biết bao, nếu ta đối xử nghiêm chỉnh với mình hơn với người khác, nếu chính ta biết áp dụng cho mình những lời khuyên tốt mà ta thường nhiều lần nhắc nhở kẻ khác, nếu ta cùng mau mắn cải thiện mình, đồng nhịp với việc cải thiện tha nhân.
Ta không luôn đổ thừa rằng, chính vì lỗi lầm của “kẻ khác” mà mọi sự trở nên xấu hơn sao! Chẳng hạn như: Vì chính quyền làm điều này … Các nghiệp đoàn đã không thực hiện việc kia … Giá kể các chủ nhân tăng cường hơn ở lãnh vực này … Giá kể các thợ thuyền tích cực hơn ở vấn đề đó … Nếu các Cha sở đã làm việc tốt hơn … Nếu chồng tôi khá hơn ở điểm này … Nếu những người lối xóm của tôi …
Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt anh em.
“Nhìn lại đời sống” là một tập luyện thiêng liêng phản ánh tinh thần Tin Mừng rất cao: đó là đặt lại vấn đề về chính mình, là ngắm lại, nhìn lại đời sống cá nhân và những dấn thân riêng tư của mình. Nhưng thay vì duyệt xét lại đời sống của mình, ta lại chỉ nhắm đến việc phẩm bình kẻ khác; thì đó là một bức hí họa đáng ghét!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt, biết nhìn rõ, nhờ đó chúng con có thể giúp đỡ anh em chúng con nhìn rõ hơn.

31. Chú giải của William Barclay
LUẬT SỐNG
Chúng ta đọc thấy một chuỗi những câu nói có vẻ không liên hệ nhau. Có hai cách giải thích: có thể Luca thâu góp những lời Chúa Giêsu đã nói trong những dịp khác nhau và ông cho chúng ta một bảng tóm lược các luật sống. Hoặc có thể đây là điển hình về phương pháp giảng dạy của Do Thái. Người Do Thái gọi giảng dạy là charaz, nghĩa là xâu chuỗi. Các rapbi có dạy rằng diễn giả không nên nói lâu về một đề tài, nhưng để hấp dẫn thính giả, nên thay đổi mau chóng từ đề tài này sang đề tài khác. Vì thế lời giảng của người Do Thái có vẻ rời rạc đối với chúng ta. Đoạn Kinh Thánh này được chia làm bốn phần.
1. Câu 39-40, Chúa Giêsu cảnh cáo thính giả rằng không giáo sư nào có thể đưa học trò mình đi xa mức độ mà chính mình đã đạt và đây là lời cảnh cáo hai chiều cho chúng ta. Trong khi học, chúng ta chỉ nên học với một giáo sư tốt nhất vì chỉ có giáo sư ấy mới có thể đưa chúng ta tới một độ cao nhất. Trong khi dạy, chúng ta đừng quên rằng chúng ta không thể dạy điều gì mình không biết.
2. Câu 41-42, đây là một tỷ dụ về tính khôi hài của Chúa Giêsu. Hẳn Ngài đã mỉm cười khi vẽ bức hoạ về một người có cái xà trong mắt mình mà cứ cố gắng moi một cái rác ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có nhiều điều tốt trong những người xấu nhất giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn moi tội kẻ khác”.
3. Câu 43-44 nhắc nhở chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ. Có người nói với một giáo sư: “tôi không thể nghe lời ông nói vì đã thấy con người của ông rồi”. Giảng và dạy, cả hai điều là “sự thật qua nhân cách”. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt. Điều đó rất thích hợp cho ngày nay. Chúng ta sợ hãi tiếng đe doạ của các phong trào thế tục. Chúng ta không bao giờ đánh bại được các phong trào đó bằng cách viết nhiều sách báo và tổ chức nhiều cuộc giảng thuyết. Con đường duy nhất để chứng tỏ tính siêu việt của Kitô giáo là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản xuất ra những người tốt thật.
4. Câu 45. Trong câu này Chúa Giêsu nhắc chúng ta xét cho cùng, lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Chúa nếu Thánh Linh không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không ý tứ lúc nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy. Nếu bạn hỏi thăm đường đến một chỗ nào đó, người thì bảo nó ở gần nhà thờ nọ, người khác lại bảo nó ở gần rạp hát kia, người khác lại chỉ nó gần sân bóng đá, người khác nữa nói nó gần một công sở. Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thường tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.

32. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Luca bất ngờ lưu ý độc giả rằng họ đang đứng trước một dụ ngôn, từ này mời gọi tìm ý nghĩa các câu mà không dừng lại ở hình ảnh. Chúng ta thấy ở đây việc từ chối đoán xét người khác, bởi vì những lời nói khác nhau, riêng lẻ của Chúa Giêsu đã được tập họp lại bởi sự liên kết các ý tưởng với nhau. Sự thay đổi thể văn ở câu 39a là có ý nghĩa: nó được dùng để biểu lộ việc thay đổi các nhân vật mà các môn đệ phải tỏ ra nhân ái; sau kẻ thù bây giờ là anh em, là tha nhân trong cộng đoàn Giáo Hội.
Nhưng hãy chú ý! Không đoán xét không có nghĩa là đặt tất cả trên một bình diện (cc. 39-42)! Có nhiều Kitô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Kitô giáo (x. 1Cr 3,1-3); vì người mù tối họ không có thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin, cũng không thể phê bình người khác được. Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị dài lâu để trở nên hoàn thiện (được huấn luyện đầy đủ); cuối cùng môn đệ sẽ như Thầy là Chúa Kitô: Ngài nghĩ rằng mỗi người có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo gương mẫu Chúa Giêsu để lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân sẽ làm cho họ có khả năng hướng dẫn người khác. Ngoài ra, sẽ là đạo đức giả, là đóng kịch, khi rêu rao về một cuộc sống chính trực mà chính mình lại không dấn thân vào. Chỉ có một cuộc hoán cải liên tục, dẫn tới một cách hành xử đúng đắn, mới giải thoát ta khỏi mù loà và cho phép ta sửa đổi được cách sống của người khác.
Khi mời gọi ta ”quét dọn trước cửa nhà mình”, dụ ngôn cọng rơm và cái xà nhắc ta phải tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được; nó cũng dẫn vào đề tài của các câu 43-49: người môn đệ đích thực phải có những hành vi phù hợp với đức tin của mình. Điều đặc biệt là động từ ”làm” (thực hành) trở đi trở lại năm lần, từ những cây sinh (làm ra) quả tốt (c.43) đến người đem ra thi hành (làm) –hoặc không- những lời của Chúa Giêsu (cc.46-47.49). Một cách có ý nghĩa, người ta thấy hai hạng người (hoặc hai loại cây) đối nghịch nhau, tốt và xấu, như trong các mối phúc.
Hai dụ ngôn về cây và quả, tiếp theo là việc áp dụng, bắt đầu bằng việc soi sáng cho những gì là cội nguồn của hành động (cc. 43-45). Như phẩm chất của trái cho phép lượng giá phẩm chất của cây, cũng vậy, tất cả những gì con người làm nảy sinh ra –cách sống của họ, điều tốt hoặc điều xấu, cũng như những lời họ nói- đều biểu lộ những gì ở tận thâm cung lòng họ. Vì không ai thấy và chỉ có Chúa biết, tâm hồn là một nơi định đoạt phần rỗi của con người, bởi lẽ chính nơi tâm hồn mình mà con người yêu hay ghét.

33. Chú giải của Fiches Dominicales
NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ MÔN ĐỆ
ĐÍCH THỰC CỦA ĐỨC GIÊSU
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
l. Một cái nhìn sáng suốt và ân cần,
Hai tuần trước, với “các mối phúc” “những lời than” ta khai mào điện từ trong bình nguyên. Chúa nhật tuần rồi, ta tiếp tục với giáo huấn về tình yêu không giới hạn, tình yêu, như Chúa Cha giàu lòng thương xót, đến độ yêu thương cả kẻ thù Hôm nay, ta sẽ đọc đoạn kết gồm 4 câu riêng rẽ của Đức Giêsu mà Luca tập hợp lại do liên ý, rồi xếp chúng vào mục “các dụ ngôn”.
Ba câu đầu nói về cái nhìn. Cái nhìn phải sáng suốt và trước tiên phải nhìn vào chính mình. Với tha nhân, cái nhìn phải ân cần.
Đó là những lời “chỉ nam” cho đời sống cộng đoàn. Vì đôi khi cộng đoàn trở nên mù quáng, lôi kéo những người khác sa ngã theo. Những lời đó cũng có thể nói cho các môn đệ, lúc nào cũng vội vàng xét đoán và chỉ trích người khác hơn là sửa đổi chính mình. Sẽ sai lầm nếu muốn trở nên nhân chứng của lòng xót thương mà lại có trái tim và ánh mắt không thương xót.
Hugues Cousin viết: “Sống đức tin là một cuộc chuẩn bị lâu dài để nên hoàn thiện” (“được đào tạo chu đáo “) theo câu ai cũng có thể hoán cải, thay đổi lối sống. Ước gì mọi người đều được đào tạo trong trường học Đức Giêsu để lòng thương cảm đối với người tội lỗi sẽ khiến họ có khả năng hướng dẫn người khác: Thật là giả hình đóng kín, khi ca tụng một con đường (chính trực mà bản thân không theo. Chỉ có sự hoán cải không ngừng nghỉ mới đưa tới nếp sống chân thực, giúp thoát khỏi cảnh mù tối và cho phép ta sửa lỗi người khác” (L’Evangile de Luc”, Ccntunon, trg 98).
2. Một hành động thấm đẫm Tin Mừng:
Câu cuối cùng đề cập đến hành động của Kitô hữu: như ta biết “cây” nhờ “quả”, cũng thế hành vị và lời nói bộc lộ cho thấy trái tim người Kitô hữu có thực sự thấm nhuần Tin Mừng không. Louis Monloubou bình luận rất xác đáng rằng: “Vì con người hành động theo bản chất của mình; dù giả dối, hành vi và lời nói cũng phản chiếu chính xác những gì sâu xa trong đáy lòng anh ta. Ai không có tinh thần Tin Mừng không thể nói ra những lời lẽ mang âm hưởng Tin Mừng”. (“L’Evangile de Luc”, Salvator, tr. 149).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Ánh mắt Đức Giêsu.
(Mgr. L. Daloz, trong “Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”, DDB, trg 50-51)
Anh mắt Đức Giêsu nhìn khác ta và Người mong ánh mắt ta cũng được đổi mới: sao cho ánh mắt ấy không phải là ánh mắt đui mù dẫn người khác sa vào hố sâu. Sao cho ánh mắt ta không bị cây xà che kín nhưng được sáng tỏ. Anh mắt Đức Giêsu, ánh mắt Thiên Chúa nhìn vào thực tế hiện hữu của ta, vào sự thực của nếp sống ta, là một ánh mắt khích lệ, khơi gợi, hoạt động. Lời lẽ mà ánh mắt ấy phiên dịch không chỉ là những chỉ dẫn cho trí khôn, nhưng đã trở nên lời lẽ động viên. Lời ấy dẫn đến hành động và xây dựng một đời sống mới trên nền đá vừng chắc. Khi nhìn ai, Người thấy trong đó hình ảnh Thiên Chúa, Cha của Người, Người thấy những đứa con. Người tỏ cho họ biết họ là ai và phải sống như thế nào để trở nên những người con đích thực của Cha”.
2. Những người thực sự kiến tạo một thế giới mới.
(“Sách lễ các Chúa nhật Emmaus”, trg l012).
Ai chẳng mong muốn kiến tạo một thế giới mới chan hòa mình yêu và bình an?
Nhưng rất nhiều khi, hành động vì thế giới của ta bắt đầu bằng phê phán kẻ khác.
Thế là ta đã tự động chiếm chỗ của Thiên Chúa phán xử. Làm thế, ta chỉ chà đạp những người chung quanh và loại mình ra ngoài cuộc chơi mà thôi. Cứ nghĩ mình ngay tình, cứ tưởng mình hành động cho việc thiện ích, ta tiếp tục gây chia rẽ.
Khi tố cáo giới chức quyền Do Thái, những kẻ thực sự phản chứng do thái độ của họ, Đức Giêsu kết án xu hướng bản năng của mọi người. Chúng ta ai mà chẳng kết án tha nhân, khi cứ tự coi chân lý của riêng mình như là Chân Lý viết hoa. Như thế ta chỉ là những tiên tri giả, phá huỷ thế giới mới mà ta tự hào là góp tay kiến tạo.
3. “Lời lẽ và con tim”.
(Mgr. L. Daloz, trong “Nước Trời đã đến gần” DDB. 1994, trg 182- 183).
“Điều nói ngoài miệng, tràn ra từ tâm hồn…”
Nhiều lần, Đức Giêsu đã phải lên tiếng về tầm quan trọng của lời nói.
Đức Giêsu mời ta khám phá lại nguồn cội của lời nói. Thật hữu ích khi nghe Người, nhất là trong thời buổi mà người ta dễ dãi cho rằng lời nói bay đi. Tìm lại tính chất nghiêm trọng của lời nói, nội dung và hệ quả của nó, là góp phần vào việc sám hối của Kitô hữu. Ngày nay lời nói thường hối hết mau qua. Đức Giêsu tái lập trách nhiệm của con người với lời nói. Người truy nguyên lời nói từ trái tim. Lời nói mang dấu ấn của người nói. Lời nói chứa chất những ý hướng và tình cảm của người nói, ngay cả khi lời nói trung dung hoặc diễn tả dưới hình thức thật khách quan: luật Rôma, luật Napôlêon đều mang dấu ấn tinh thần của thời đại họ sống và quan niệm của những nhà làm luật!… Tin Mừng soi sáng mọi hoàn cảnh, kể cả những hoàn cảnh hiện thực nhất. Lối so sánh mà Đức Giêsu sử dụng thật mạnh mẽ: so sánh cây và quả. So sánh mạnh mẽ và rất ý nghĩa, vì quả lớn lên nhờ nhựa cây nên quả chứa đựng nhiều phẩm chất cũng như những khiếm khuyết của cây…
Cũng vậy, lời lẽ không chỉ bên ngoài con người. Lời nói chính là sự bộc bạch của tâm hồn: “Và lòng có đầy miệng mới thốt ra”. Lời nói cho biết con người, và những gì họ chất chứa trong lòng. Lời nói chứa đầy những tư tưởng, tình cảm, đam mê của người nói. Như thường lệ, Đức Giêsu kéo ta chú ý đến nội tâm con người. Người đi đến tận thâm tâm con người. Chẳng có luật lệ bên ngoài để xét xử lời nói. Chính lời nói biểu lộ phẩm chất, con người của họ. “Người tốt rút ra từ kho tàng tốt lành của mình những điều tối dẹp. Người xấu, rút ra từ kho tàng xấu xa của mình những điều xấu xa”. Lời nói bộc bạch loại kho tàng mà người nói cất giấu trong mình.

34. Những điều kiện của lòng nhiệt thành
Bố cục: Có thể chia đoạn này thành 5 phần:
– cc 39-40: thí dụ về người hướng đạo mù.
– cc 41-42: thí dụ về cái xà và cọng rác.
– cc 43-44: thí dụ về cây và trái.
– câu 45: thí dụ về “kho tàng” trong lòng.
– câu 46-49: phải thi hành những lời dạy trên
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu từng phần theo bố cục này.
DẪN NHẬP
Đoạn này là một phần của “Bài giảng trên cánh đồng” (6,17-49).
Bài này giảng cho ai? Cho các môn đệ (c.20 “Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói…”).
Nội dung chính: Đức Giêsu dạy cách sống của người môn đệ.
Trong “Bài giảng trên núi” do Mt ghi lại, cách sống của người môn đệ chủ yếu là phải gương mẫu. (như muối ướp trần gian, như đèn tỏa sáng trước mặt mọi người, Mt 5,13-16). Còn trong “Bài giảng trên cánh đồng” do Luca ghi lại. Luca kể ra những điều kiện cần có để có thể là một môn đệ gương mẫu.
I – NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO MÙ: 39-40
1) Phần này gồm hai câu nói của Đức Giêsu: c.39 “làm sao kẻ mù dắt được kẻ mù…” và c.40 “môn đệ không hơn Thầy được…”.
Hai câu này được Mt ghi lại ở hai nơi khác nhau (Mt 15,14 và Mt 10,24) vậy có lẽ đây là hai logia, nghĩa là hai câu nói rời mà Đức Giêsu đã nói vào hai lúc khác nhau, nhưng ở đây chúng được Luca tập họp chung lại. Vì thế mà ta thấy sự liên hệ giữa chúng không được chặt chẽ, đưa đến một logic cũng lỏng lẻo.
2) Muốn cho có logic, có lẽ ta phải đảo ngược lại như sau:
– Trên nguyên tắc, môn đệ dốt hơn thầy.
– Do đó, nếu thầy mà mù quáng để dạy những điều sai lầm, thì môn đệ còn bị sai lầm hơn nữa.
– Người môn đệ của Đức Giêsu có trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác (họ trở nên “thầy” của kẻ khác). Trước khi làm việc hướng dẫn này, họ phải cẩn thận đừng để mình bị sai lầm.
Muốn thế, một mặt họ phải cố gắng rập khuôn theo Đức Giêsu – Tôn sư của họ. Và mặt khác phải tự phê tự sửa trước khi phê bình và sửa chữa người khác.
3) Tóm lại: điều kiện thứ nhất của người môn đệ gương mẫu là phải sáng suốt bằng cách rập khuôn theo Tôn sư Giêsu và tự phê tự sửa.
II – CÁI XÀ VÀ CỌNG RÁC: 41-42
41 – Ngoài trách nhiệm hướng dẫn người khác theo đúng giáo huấn của Tôn sư Giêsu, người môn đệ đôi khi cũng phải sửa lỗi người khác (“lấy cái rác trong con mắt anh em ra”). Những câu trong phần này không cấm đoán việc sửa lỗi, trái lại chúng nói về việc sửa lỗi ấy.
– Nhiều khi việc sửa lỗi không được công bằng vì lý do thành kiến, tự ái, hồ đồ vv… khiến ta xem một lỗi nhỏ của người khác thành lỗi nặng. Ngược lại xem một lỗi nặng của bản thân như lỗi nhỏ. Cho nên để việc sửa lỗi được công bằng và hữu ích thì trước tiên không được sửa lỗi người khác do động cơ tự ái, thành kiến hoặc chỉ để chứng tỏ uy quyền.
42 – Nguy hiểm thứ hai phải đề phòng khi sửa lỗi người khác, đó là giả hình (“Thấy cái rác trong con mắt anh em mà không thấy cái xá trong con mắt mình” ; “Hỡi kẻ giả hình”). Nghĩa là bên trong và bên ngoài của ta không hợp nhau: trong lòng mình xấu thế mà mình tỏ ra tốt và muốn sửa cái xấu nơi người khác. Vậy trước khi sửa người thì phải sửa chính mình (“Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ để lấy cái rác trong con mắt người anh em”)
III – CÂY VÀ TRÁI: 43-44
1) Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Đức Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Trên thực tế, lòng người không phải tuyệt đối hoặc tốt hoặc xấu, không ai hoàn toàn tốt mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Thí dụ về cây và trái ở phần này xem ra không thực tế vì nó giả thuyết lòng người đơn thuần là tốt hẳn hoặc xấu hẳn.
Đây là kiểu nói đơn giản và cường điệu của Đức Giêsu để làm nổi bật bài học của Ngài và cũng dễ hiểu cho độc giả bình dân vốn không quen những phân biệt tế nhị của người trí thức.
IV – KHO TÀNG TRONG LÒNG: 45
1) Trong phần này, Đức Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
2) Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Đức Giêsu.
V. PHẢI THI HÀNH: 46-49
Tất cả những lời dạy trên đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Đức Giêsu. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
KẾT LUẬN
Người môn đệ của Đức Giêsu không phải chỉ là người chấp nhận thương yêu kẻ thù (đoạn trước: cc 27-36), mà còn phải là người nhiệt thành muốn cho người khác tiến bộ trên con đường tốt. Cho nên người môn đệ lo hướng dẫn người khác, đôi khi nếu cần thì sửa lỗi người khác. Nhưng trước khi hướng dẫn người ta thì mình phải sáng suốt theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu. Trước khi sửa lỗi người khác thì mình phải tự sửa mình cho đúng với giáo huấn của Đức Giêsu.

35. Từ tự vẫn đến tự lực cánh sinh
(Suy niệm của Lm. Augustine SJ.)
Cha Phêrô (tức Abbé Pierre Grouès sinh ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon, Pháp) là người sáng lập nên cộng đoàn Emmau lo giúp người nghèo, người vô gia cư theo chương trình tự lực cánh sinh, có kể câu chuyện về một người trở nên cộng sự viên đắc lực của cha như sau:
Đó là một người khi ra khỏi tù phải đi lang thang không nơi nương náu. Người đàn ông này thất vọng đến độ lấy dao cắt mạch máu ra! Có người phát hiện ra sự việc chẳng lành đó, liền gọi điện thoại cho cha Phêrô. Cha lập tức tới hiện trường. Nhìn người đàn ông cánh tay máu me chảy đầm đìa, cha Phêrô đã không lên tiếng an ủi mà còn ra lệnh cho anh: “Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay!”
Những lời cha Phêrô nói vừa tới tai anh liền khiến cặp mắt lờ đờ của anh bỗng sáng lên! Anh để cho người ta băng bó vết thương. Rồi từ đó anh trở nên một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha Phêrô.
Hình ảnh của cha Phêrô gợi cho thấy hình ảnh của chính Đức Kitô. Còn hình ảnh của người đàn ông lấy dao cắt mạch máu mình ra chỉ vì thất vọng, là hình ảnh của thế giới hôm nay mà Đức Giêsu đến để cứu thoát. Người muốn cứu thế giới loài người bằng cách huy động nơi con người, nguồn ơn chính Người ban cho họ. Họ không những cần cứu lấy bản thân mà còn phải nỗ lực cứu giúp nhiều người theo chương trình cứu nhân độ thế chính Đức Giêsu đứng ra thực hiện.
Băng bó những tấm lòng tan nát
Toàn bộ sách Tin Mừng của Luca là để cho thấy Đức Kitô thực hiện chương trình đó như thế nào. Ngay tại hội đưòng Nadarét, Người đã trích dẫn sách ngôn sứ I-sa-i-a cho thấy Người được sai đến với thế giới là để “Công bố một năm hồng ân của Chúa và băng bó những tấm lòng tan nát” (Is 61,1-2; Lc 4,18). Rồi khi Người đã qui tụ được một số môn đệ và chọn trong số họ mười hai Tông Đồ, tượng trưng mười hai chi tộc của Dân Mới của Thiên Chúa, thì Người giảng bài giảng quan trọng về các mối phúc thật. Đó là lúc Người xuống núi cùng với các môn đệ trong đó có mười hai người mới được chọn làm Tông Đồ. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi tuốn đến, kể cả vùng duyên hải Tia và Xiđon ngoại đạo. Thế mà Luca cho thấy Đức Giêsu ngước mắt lên “nhìn các môn đệ và nói với họ” (Lc 6,20) về các mối phúc! Điều đó cho thấy điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc thật là phải sống gắn bó với bản thân Đức Kitô trong tư cách là môn đệ của Người. Ai đã được gọi làm môn đệ thì phải duy trì và tăng triển trong ơn đó. Những người hãy còn “chân ướt chân ráo” lần đầu tiên tiếp cận với lời rao giảng của Đức Kitô, họ cũng cần phải có thái độ sẵn sàng bước theo Người, thì mới lãnh hội được điều Ngưòi giảng dạy.
Vậy trong bài giảng quan trọng “nơi đồng bằng” Đức Giêsu lần lượt công bố cho thấy
– Những mối phúc thật và những bất hạnh (Lc 6,20-26)
– Phải yêu kẻ thù để trở nên con Đấng Tối Cao (cc.27-35)
– Đề tài của bài Tin Mừng hôm nay (cc.39-45)
– Phần kết là phải thực hành lời Đức Giêsu dạy (cc.46-49)
Quả thật mối giây liên lạc giữa các câu 39-45 của bài Tin Mừng hôm nay xem ra không được rõ theo ý kiến của nhiều nhà bình giải Kinh Thánh.
Mù lại dắt mù sao được
C.39: “Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này…” Thực ra Người kể 5 dụ ngôn liên tiếp. Mỗi dụ ngôn chỉ là một so sánh ngắn đòi người ta phải suy nghĩ về ẩn ý ở trong đó
Mù lại dắt mù sao được? Mt 15,14 cũng dùng hình ảnh này để áp dụng với người Pharisêu là người dẫn dắt dân chúng đi lạc đường. Ở đây Luca áp dụng hình ảnh “người mù” với các môn đệ và đòi hỏi họ phải sáng suốt trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn.
C.40: Đồ đệ không hơn Thầy: câu này có thể được nối kết với câu trước bằng mối giây được hiểu ngầm. Thử hỏi khi nào người môn đệ Đức Kitô được kể là sáng suốt, tức không bị mù quáng? Thưa: đó là lúc người ấy chấp nhận giáo huấn của Thày Giêsu một cách đầy đủ, với niềm thâm tín rằng mình luôn phải cố gắng hơn nữa, không bao giờ được dừng lại trên đường theo sát gót bước Thày.
Tại sao chỉ thấy rác nơi mắt người khác?
C.41-42: Tại sao anh chỉ thấy cái rác nơi con mắt người anh em?… Phải sáng suốt, đó là điều người môn đệ Đức Kitô phải áp dụng cho chính bản thân mình trước đã. Anh phải nhận thấy chính mình cần phải được sửa chữa khi tra tay sửa chữa người khác.
Lời dạy của Đức Kitô ở đây gây nên vấn đề là: nếu mọi người đều phải đấm ngực ăn năn về những lỗi lầm của mình, tức là còn có “rác cả đống” nơi con mắt mình, thì có được lo chuyện sửa chữa anh em mình qua việc rao giảng, huấn dụ và khuyên bảo họ chăng? Chưa sửa chữa mình xong mà cứ còn tiếp tục làm những chuyện đó thì có sợ mình trở nên “người đạo đức giả hình” theo bài Tin Mừng hôm nay chăng? Vấn đề vừa nêu càng trở nên gay cấn đối với thế hệ trẻ ngày nay là thế hệ đòi mọi người phải sống thực với mình. Cần phải thống nhất lại đời sống. Bên trong ăn khít với bên ngoài. Đó là những điều kiện phải có để người ta tin.
Nóng như lửa trở nên dịu hiền!
Vài điều suy nghĩ sau đây có thể là cần thiết:
(1) Chúng ta có gương của các thánh tông đồ, như thánh Phaolô rất ý thức về sự bất toàn của mình (Phi.3,12; 2Co 9,7) nhưng ngài vẫn tiếp tục thi hành bổn phận rao giảng. (2) Thực ra, người lo thừa tác vụ rao giảng chẳng bao giờ được quyền tự đắc cách chung hay cách riêng về đề tài mình trình bày. Ngược lại, phải nói rằng người đó giảng cho chính mình trước khi rao giảng cho người khác. (3) Ai không lo sửa mình thì sớm muộn sẽ bị anh em chỉnh. Chính thánh Phêrô đã bị tông đồ Phaolô chỉnh trong thư cho Ga-lát 2,11-14. (4) Chư thánh nêu gương cho chúng ta về việc rao giảng chống lại những tật xấu mà chính các ngài phải đối phó. Thánh Phanxicô Salêsiô trước nóng như lửa sau trở nên con người hết sức dịu hiền. Thánh Inhaxiô Lôi-ô-la mở ra cả một lối sống khiêm nhường theo bề sâu trong Linh Thao khi chính ngài phải đối phó với tính kiêu căng cả thể. Riêng thánh Âu-tinh đã giảng về khiết tịnh sau khi chính ngài đã từ bỏ con đường đam mê xác thịt.
C.43-45: Cây tốt không sinh trái hư thối… Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau mới tránh được cái gọi là đạo đức giả hình, là điều mà Đức Giêsu luôn chống đối. Nuôi dưỡng ý xấu ở trong lòng sớm muộn sẽ phát sinh ra hành động xấu cũng như cây xấu sẽ sinh ra trái hu thối vậy.
Bật lên tia sáng ở cuối đường hầm
Trở lại câu chuyện cha Phêrô cứu sống con người thất vọng muốn tự huỷ mình. Khi cha Phêrô lên tiếng nói với người ấy “Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay”, lời đó bật lên như một tia sáng ở cuối đường hâm. Lời cha Phêrô thực là trong suốt cho thấy giá trị sự sống của một con người đang sa xuống vực thẳm. Anh cần bước ra khỏi đó vì có nhiều người cần đến anh. Cha Phêrô thực đã thực thi lời Chúa vì biết tránh tình trạng người mù dắt người mù thì cả hai đều sa xuống hố (c.39); ngược lại người sáng mắt là kẻ có khả năng kéo người mù bước ra khỏi vực thẳm.
Cha Phêrô là con người thao thức, luôn cố công theo sát gót bước thầy chí thánh là Chúa Giêsu. Chào đời vào ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon nước Pháp trong một gia đình có 8 người con, mà cha Phêrô là người con thứ 5. Ở tuổi 19, cậu Phêrô đã gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn Ca-pu-xi-nô của thánh Phanxicô Á-xi-di và đã chịu chức linh mục ở tuổi 26. Nhưng vì sức khỏe không cho phép, nên cha đã sống đời linh mục triều. Cha luôn đứng về phía người nghèo và người bị áp bức. Tại nhà thờ chánh toà thành phố Gơ-nốp (Grenoble) cha đã từng bao che cho người Do Thái bị lính Quốc Xã của Hít-le bắt bớ. Năm 1949 cha thiết lập nên cộng đoàn E-mau để giúp những người nghèo và người vô gia cư tự lực cánh sinh. Cha là người có thể hiểu thấu lời Chúa dạy hôm nay là “Học trò không hơn thày, có học hết chữ cũng chỉ bằng thày mà thôi” (c.40).
Lòng có đầy thì miệng mới nói ra
Khi kêu gọi kẻ thất vọng đang tìm đường hủy diệt mạng sống mình, cha Phêrô đã tế nhị xin người đó giúp đỡ mình làm việc thiện để giúp đỡ những người khác không được may mắn trong cuộc sống. Làm như vậy là cha đã thực thi lời Chúa dạy ở cc.41-42. Quả thật, cha đã khéo léo khơi dậy lòng thương người nơi đương sự thay vì lên án đương sự. Vì chính cha luôn nuôi dưỡng lòng thương người nên miệng mới dễ dàng nói lên được điều tốt lành có sức cứu sống một người đang tìm cách tự hủy mình (c.45).

36. Suy niệm của Lm. Damien, OFM.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người mù và cái rác cái xà để dạy các môn đệ phải nhìn lại chính mình trước khi nhìn kẻ khác; và dụ ngôn xem trái thì biết cây, để dạy các môn đệ cách phân biệt kẻ lành với người bất lương.
Mù lại dắt mù.
Phải chăng khi dùng dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu muốn nhắm đến những Biệt phái và kinh sư Do thái? Họ mù đối với Thiên Chúa vì không nhận ra Ngài là con Thiên Chúa. Họ mù đối với con người vì chỉ đánh giá con người trên luật lệ bề ngoài nhưng lại thiếu lòng nhân ái. Họ mù đối với chính cuộc sống của họ vì họ chỉ chú trọng đến cái bên ngoài mà bỏ quên tâm hồn mình: “Các ngươi như mồ mả,bên ngoài thì sơn phết tốt đẹp, nhưng bên trong thì thối tha.”
Ở trong tình trạng mù đó, làm sao họ lại có thể dẫn dắt kẻ khác được: “Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố”.
Cái rác và cái xà.
Trong dụ ngôn nầy cũng thế, Chúa Giê-su nhắm đến những kinh sư và Biệt phái, những kẻ tự cho mình là công chính vì đã giữ đúng luật lệ bề ngoài . Trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chuá Giêsu đã lột mặt nạ họ bằng một câu ngắn gọn: “Ai thấy mình không có tội thì ném đá chị ấy trước đi !” Khi nhìn rõ chính mình, họ liền rút lui có trật tự .
Chúa Giêsu luôn là mục tiêu để Biệt phái và kinh sư rình mò và giăng bẩy để bắt bẻ và lên án: Chúa có vi phạm luật sabbat không, có nói lời phạm thượng không… Và trước các phép lạ hiển nhiên không chối cãi được, họ tìm cách cắt nghĩa sai với ác ý và cố chấp: ông ấy lấy quyền qủi cả mà trừ quỉ. Thái độ hay bắt bẻ , dò xét và sẵn sàng lên án của Biệt phái và Kinh sư hoàn toàn đi ngược với thái độ khoan dung của Chúa Giêsu . Và cuối cùng họ như đã thắng vì họ đã lên án tử được cho Chúa.
Tục ngữ Ba tư có câu: ” Mỗi người chúng ta đều mang trên mình hai cái giỏ rác, dỏ rác của mình thì mang sau lưng còn dỏ rác kẻ khác thì mang trước ngực, nên chỉ ngửi thấy mùi hôi thối của kẻ khác mà không bao giờ ngửi thấy mùi hôi thối của chính mình.
Khi suy gẫm những dụ ngôn trên đây, tôi thấy lời Chúa như một luồng ánh sáng chiếu dọi vào cuộc sống của tôi, cũng như vào xã hội mà tôi đang sống. Và tôi không được an tâm lắm . Bởi lẽ nhiều khi vô tình hay hữu ý, tôi cũng sống thiếu lòng nhân ái, cũng có những thái độ hay lời lẽ chỉ trích phê bình hoặc lên án kẻ khác một cách dễ dàng. Những xích mích giữa người với người, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xóm giềng hầu hết là do thái độ tiêu cực trên đây mà ra. Và có lẽ tôi phải luôn lặp lại cho chính mình lời dạy của Chúa: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Xem trái thì biết cây.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cách phân biệt người tốt và người xấu: “Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra”. Trái đây là lời nói, căn cứ vào lời nói mà phân biệt kẻ tốt người xấu . Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến những người Biệt phái và Kinh sư Do thái là những người luôn rình chực bắt bẻ, lên án Chúa cũng như kẻ khác. Vì tâm địa họ xấu.
Trong xã hội hôm nay, tật xấu mà Chuá Giêsu đề câp đến trên đây chưa phải là hết mà hình như còn gia tăng nữa là đàng khác. Một sự thật hiển nhiên là hễ khi đề cập đến kẻ khác thì không mấy khi nghe nói tốt mà phần nhiều chỉ nghe nói xấu: “Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra.”
Khi suy gẫm lời Chuá trên đây, một lần nữa, tôi cũng không được an tâm cho lắm. Nhiều khi vô tình, tôi cũng không tránh được những lời nói hay thái độ thiếu lòng nhân ái khoan dung đối với kẻ khác. Tôi không có quyền chê trách ai cả, vì chính tôi cũng đang phạm phải cái sai lầm của Biệt phái và Kinh sư xưa.
Lời Chúa luôn là ánh sáng, đang cật vấn tôi và thúc dục tôi phải cố gắng bắt chước Đức Kitô, sống khoan dung như Cha trên Trời.
Tiêu diệt kẻ thù.
Một hoàng đế Trung Hoa nói: ” Một khi chinh phục được quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt hết tất cả địch thù của ta.”
Ông đã chinh phục được như lời ông nói. Cả đình thần ai cũng hồi hộp chờ đợi lệnh thảm sát của ông. Họ xì xầm: máu sẽ chảy thành sông! Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với nhà vua, nói nói cười cười rất vui vẻ; họ bèn tâu:
– Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã nói sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù kia mà! Sao lại thế nầy ? Vị hoàng đế trả lời:
– Thì ta đã tiêu diệt hết cả bọn rồi còn gì, các khanh không thấy sao? Đây toàn là bạn của ta, đâu có địch thù nữa đâu. Ta đã tiêu diệt họ bằng cách biến thù thành bạn.
Đó là cách Thiên Chuá đã tiêu diệt kẻ thù của Người, và vũ khí là lòng nhân hậu.

37. Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống…
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
– Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
– Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
– Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
B…. nẩy mầm.
1. Thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình. Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải. Những người ưu tú nhất thời Chúa Giêsu là biệt phái và luật sĩ đã mắc phải một cách nặng nề đến vô phương cứu chữa…. Huống chi tôi. Chắc chắn tôi đang bị hai thứ bệnh mù quáng và giả hình này. Chỉ cần xét mình một chút là tôi sẽ nhận ra ngay.
2. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian dành để tự xét đoán mình chỉ chừng 10 phút, mà nhiều khi tôi cũng để nó trôi qua một cách trống rỗng.
3. Một chiếc đồng hồ chạy sai có thể do rất nhiều nguyên nhân bên trong bộ máy. Muốn xét đoán đúng, thì chẳng những xem hiện tượng bên ngoài mà còn phải hiểu rất rõ những nguyên nhân bên trong. Bởi vậy, có thể nói, kẻ “có gan cùng mình” mới dám xét đoán. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói “Tôi không kết án chị đâu”; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.
4. Tôi dễ đưa ra những lời xét đoán, nhưng tôi có nghĩ tới hậu quả của việc tôi làm không? Một quan tòa kết án sai thì sẽ khiến nạn nhân chịu khổ oan trong một thời gian lâu dài. Khi xét đoán, tôi cũng là quan tòa, sao tôi không nghĩ tới nỗi oan của người khác nếu tôi sai?
5. “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (Lc 6,41)
Truyện kể về một viên tướng, sau khi xông pha trận địa và lập được nhiều chiến công, được nhà vua mở yến tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, viên tướng vì quá vui đã xúc phạm đến một trong các cung phi. Thế là mọi người đua nhau lên án. Lúc đó, mọi công trạng của ông hầu như biến mất. Trước mắt mọi người, ông chỉ là một tội nhân.
Nói xấu anh em thật dễ lỗi phạm biết bao. Những người ở đó quên rằng chính họ lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Và chính bản thân tôi vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.
Lạy Cha, con xin đến với Cha như những gì con là, chứ không “tô sơn điểm phấn” (Hosanna)
6. Về dụ ngôn cây và trái: muốn có trái thì phải chăm sóc cây, đó là một quy luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Thế nhưng tôi thường chỉ lo đến những thể hiện bề ngoài chứ không lo bồi dưỡng chính tâm hồn mình.
7. Về kho tàng trong lòng: tôi cũng thường “kiểm kê tài sản” xem mình đang có bao nhiêu tiền, bao nhiêu món đồ v.v. Hôm nay tôi hãy kiểm kê kho tàng trong lòng xem hiện giờ có được những gì.