CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
MỤC LỤC
1. Trở về ……5
2. Ăn mừng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu …….8
3. Học hỏi Phúc Âm: CN 4 Mùa Chay ……..10
4. Con ta đây đã chết mà nay sống lại ……..14
5. Ăn mừng vì con ta sống lại – ViKiNi …….18
6. Lòng nhân từ ……..22
7. Tấm lòng người cha. ……..24
8. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ……..26
9. Trở về trong tình thương ……..30
10. Người Cha nhân hậu ………34
11. Chúa nhân hậu ……….38
12. Phục hồi phẩm chất cao đẹp – Lm. Ignatiô Trần Ngà ………42
13. Người con trở về nhà cha ………45
14. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ………49
15. Ba cha con. ……….53
16. Ơn Cha – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ………55
17. Trở về với tình Cha ……….58
18. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót ……….63
19. Niềm vui giao hòa ……….74
20. Thiên Chúa nhân từ tha thứ ………..80
21. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ………84
22. Người Cha tuyệt hảo – AM Trần Bình An ………87
23. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy ………93
24. Lòng Cha trời cao biển rộng – AM. Trần Bình An ……….97
25. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ……….101
26. Người con cả là chúng ta ……….106
27. Trở về với Thiên Chúa ……..110
28. Thiên Chúa- Đấng vô cùng nhân từ ……..113
29. Hãy mau trở về cùng Chúa – Lm. Ignatiô Trần Ngà ……..116
30. Tình cha ……..120
31. Lý lẽ của con tim ………123
32. Bóng Thái sơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ……….127
33. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ………132
34. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt …….135
35. Niềm vui, nước mắt của niềm vui ………140
36. Hồi tâm, đứng dậy, quyết trở về ………..145
37. Vui mừng vì được Chúa xót thương ……….149
38. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành ………..153
39. Thiên Chúa giàu lòng thương xót ………157
40. Trở về với Cha ……….160
41. Cha Già đầy tình tha thứ – Cố Lm Hồng Phúc ……..164
42. Sống trong tình trạng ơn thánh – Radio Veritas Asia ………166
43. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người ……….171
44. Trở thành thụ tạo mới – Radio Veritas Asia. ………174
45. Về với tình yêu Chúa – Lm. PM. Cao Huy Hoàng ……….176
46. Hai người con, hai cuộc trở về – Radio Veritas Asia. ………..180
47. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về. …….183
48. Người Cha nhân từ – Lm. Damien OFM ……..186
49. Cha nhân lành vòng tay rộng mở – Achille Degeest ……..189
50. Trở về trong tình thương. ……..191
51. Cha ơi, con đã về – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn ………195
52. Làm hòa – Lm. Anmai, CSsR ………199
53. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai …….206
54. Người con hoang đàng – McCarthy ……..211
55. Người con trai đi hoang ………216
56. “Tôi muốn trở về với cha tôi” ………221
57. Người con hoang đàng – R. Gutzwiller ……..224
58. Người con phung phí – Lm. Phêrô Thiên ……..227
59. Đứa con hoang đàng ………233
60. Mọi sự ………235
61. Nhân lành 238
62. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ……..241
63. Trở về được đón nhận ………243
64. Đường thành công – Lm. Vũ Đình Tường ………245
65. Lòng thương xót ………248
66. Người Cha nhân hậu ……….250
67. Đôi mắt cha ……….252
68. Được yêu …….255
69. Trở về …….258
70. Bộc lộ ……..260
71. Trở về ………263
72. Trở về trong tình yêu ……..266
73. Người anh cả ………269
74. Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân từ ……..273
75. Sám hối là trở về – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An ………275
76. Hoan nghênh! ………281
77. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Tài ………284
78. “Không sinh quả, thì…” – Nguyễn Văn Nội ……..288
79. Dứt khoát – Trầm Thiên Thu …….291
80. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng ……..296
81. Lòng thương xót của Thiên Chúa ………298
82. Chú giải của Noel Quesson ………307
83. Ba dụ ngôn về lòng thương xót …….314
84. Chú giải của Fiches Dominicales ……..331
85. Chú giải của William Barclay ……..338
86. Thiên Chúa của chúng ta là thế đó! ……..341
87. Lòng Thương Xót cho tất cả chúng ta – Dã Quỳ ……..346
88. Hỏng hết! Hỏng hết ……..350
89. Tình Cha hậu hỉ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ……..354
90. Trong đôi mắt cha – Thiên Phúc ……..358
91. Hãy nhanh khi nghe – chậm khi nói ……..361
92. Thành tâm xét mình – Lm Nguyễn Nguyên ………364
93. Ai là người vô tội? – Lm Trịnh Ngọc Danh ……….367
94. Đáp lại Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ……….372
95. Chúa Nhật 4 Mùa Chay ……..384
96. Suy niệm của Lm. Augustine SJ ………387
97. Người Cha nhân hậu ……..391
98. Trở về cùng Cha – Huệ Minh ……….396
1. Trở về
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó. Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.
Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha. Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.
Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã. Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.
Nhưng người cha không chỉ thương con út. Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí. Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng. Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.
Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha. Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!
Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.
Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình cha. Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.
Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.
Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.
Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em. Đó không phải là “thằng con của cha”, nhưng là “em của con”.
Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình. Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?
Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.
2. Ăn mừng – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng, qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân. Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ, người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống. Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất. Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ. Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy. Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn. Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con. Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32). Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em, một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28). Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào. Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó. Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha. Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm? Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại? Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào, vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải, vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30). Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30). Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói. Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29). Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha. Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em. Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc. Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Chanhư người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ,chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
3. Học hỏi Phúc Âm: CN 4 Mùa Chay
Lc 15,1-3.11-32 – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
1. Nhân vật chính của dụ ngôn này là ai? Trong hai đứa con, đứa con nào là nhân vật mà ta cần để ý hơn? Đọc Lc 15,1-3.
2. Đâu là những hành vi bất hiếu của người con thứ? Tội bất hiếu bị xử như thế nào? Đọc Đnl 21,18-21. Người con thứ được chia mấy phần sản nghiệp của người cha? Đọc Đnl 21,15-17.
3. Đâu là tình cảnh khốn cùng nhục nhã ê chề của người con thứ sau khi bỏ nhà ra đi? Người Do-thái coi heo là con vật như thế nào? Đọc Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49.
4. Đọc Lc 15,17-20a. Bạn có tin người con thứ ăn năn thật sự không, hay anh ta trở về chỉ vì bụng đói?
5. Đọc Lc 15,17-21. Bạn có thấy những bước chính của Bí Tích Giải Tội (Hòa Giải) ở đây không?
6. Người con thứ trở về nhà cha có dễ không? Đâu là những điều anh có thể phải hứng chịu?
7. Đọc Lc 15,25-30. Đâu là tội của người con cả?
8. Người con cả chấp nhận vào nhà cha có dễ không? Để vào nhà, anh phải thay đổi điều gì?
9. Đọc cả bài Phúc âm, cho biết đâu là những hành vi thương xót, tha thứ của ông đối với người con thứ và người con cả?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Bạn nghĩ gì về người cha trong dụ ngôn này? Ông có phải là người nhu nhược, nuông chiều các con? Hãy đặt một tựa đề cho bài Phúc âm này.
PHẦN TRẢ LỜI
1. Nhân vật chính trong dụ ngôn này là Người Cha. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho thấy tấm lòng bao dung của Người Cha đối với cả hai đứa con. Trước đây dụ ngôn này thường được gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng,” như thế tập trung vào đứa con thứ hơn. Thật ra trong dụ ngôn này, người con cả mới là điểm nhấn. Đức Giêsu nói ba dụ ngôn trong chương 15 của Tin Mừng Luca nhắm vào các người Pharisêu và kinh sư đang xầm xì chống đối Ngài, vì thấy Ngài gần gũi những người thu thuế và tội lỗi (Lc 15, 1-3). Nơi người con cả, ta nhận ra hình ảnh các ông Pharisêu và kinh sư.
2. Tội bất hiếu của người con thứ: anh đòi cha chia gia sản cho mình ngay khi cha còn sống (thường chỉ chia sau khi cha qua đời); anh đã bỏ nhà ra đi, lãng quên nhiệm vụ làm con; anh làm gia đình mất uy tín và thể diện; cuối cùng anh đã phung phí toàn bộ tài sản đó vào chuyện ăn chơi đàng điếm. Một đứa con bất hiếu có thể bị ném đá cho chết (Đnl 21,18-21).
Theo sách Đệ nhị luật 21,15-17, người con cả được hưởng hai phần ba tài sản của người cha, như thế người con thứ được một phần ba.
3. Sau khi bỏ nhà cha ra đi, người con thứ đã tiêu hết sạch tài sản. Rồi khi một nạn đói kinh khủng ập tới, anh phải đi chăn heo cho một người dân ngoại, dù heo là con vật bị người Do-thái coi là hết sức ô uế (Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49). Nhưng nghề chăn heo không giải quyết được cơn đói cồn cào, anh vẫn thèm đồ ăn của heo mà không ai cho. Cuối cùng, anh thấy mình có thể chết đói (Lc 15,14-17).
4. Đọc Lc 15,17-20a ta thấy người con thứ có lòng ăn năn thật sự. Anh muốn đứng lên và đi về cùng cha (câu 18), và anh đã làm như thế (câu 20). Anh ý thức về tội mình phạm đến Trời và đến cha (câu 18). Anh thấy sự nặng nề của tội mình đã phạm, nên anh không mong mình được cha nhận lại làm con, chỉ mong được làm công cho cha thôi (câu 19). Tuy nhiên, lòng ăn năn của anh cũng pha yếu tố tự nhiên: anh muốn trở về với cha để có đủ đồ ăn, tránh khỏi bị chết đói. Có thể nói đây là một kiểu ăn năn tội cách chẳng trọn.
5. Đọc Lc 15,17-21 ta có thể thấy một số nét của bí tích Hòa giải ở đây, với những bước như sau. Câu 17: hồi tâm và xét mình, nhận ra tình trạng tồi tệ hiện nay của mình. Câu 18 và 19: quyết tâm trở về với cha và xưng tội với cha. Lòng thống hối và dốc lòng chừa được biểu lộ qua việc chỉ xin làm công cho cha thôi, thay vì làm con. Câu 20: thực hành điều đã quyết định, đi xưng tội. Câu 21: xưng tội, thấy tội nặng nề, thấy mình bất xứng.
6. Cuộc trở về với cha của người con thứ không hề dễ dàng. Anh phải can đảm mới dám trở về, bởi lẽ anh có thể bị cha từ chối và xua đuổi, có thể bị người anh không chấp nhận (và điều đó đã thực sự xảy ra!), có thể bị làng xóm cười chê, có thể bị những người làm công coi thường. Anh phải dám chịu nhục khi trở về trong tình trạng thân tàn ma dại, khác hẳn với lúc ra đi.
7. Người con cả tự hào là người “bao nhiêu năm hầu hạ cha, chẳng bao giờ trái lệnh” (câu 29). Anh ở gần cha, anh không bỏ nhà ra đi như đứa em, nhưng lòng anh lại xa cha. Khi cha vui vì con thứ trở về, thì anh lại buồn giận. Anh ghen tỵ và thấy cha không công bằng khi một đứa con có hiếu như anh lại chưa hề được cha cho một con dê nhỏ, còn thằng em bất hiếu lại được cha giết bê béo ăn mừng khi nó trở về (câu 29-30). Đứa em đã bỏ nhà ra đi, còn anh bây giờ “không chịu vào nhà” (câu 28). Anh không muốn tham dự bữa tiệc vui do cha tết đãi. Anh không muốn chia sẻ niềm vui của người em. Anh đã hỗn với cha khi gọi em mình là “thằng con của cha đó” (câu 30). Người con thứ đã phạm tội bỏ nhà ra đi, còn người con cả đã phạm tội không chịu vào nhà. Cả hai đều bị đói nếu cứ đứng ở ngoài nhà cha.
8. Để vào nhà dự tiệc mừng đứa em, người con cả cần có trái tim bao dung của người cha, cần vui với niềm vui của cha. Anh phải coi đứa em thật là em của mình, chứ không phải là kẻ trở về để chiếm thêm tài sản. Đi từ giận dữ từ khước đến chấp nhận yêu thương là một con đường dài…
9. Người cha thấy con thứ từ đàng xa, chạnh lòng thương, chạy lại, ôm hôn (câu 20). Dù con tội lỗi, người cha vẫn nhìn nhận đứa con thứ là con của mình và cho anh mọi sự trong tư cách là con (câu 22-23). Mở tiệc ăn mừng là quyết định của người cha (các câu 23,24,29 và 32). Người cha còn hạ mình đi ra để năn nỉ người con cả vào nhà (câu 28). Trước cơn giận dữ và sự hỗn hào của con cả (câu 29-30), người cha vẫn ôn tồn giải thích lý do khiến mình cư xử như thế (câu 31-32).
4. Con ta đây đã chết mà nay sống lại
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu là “cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài không ngại hòa mình với hạng người tội lỗi và ăn nhậu với họ, làm xốn mắt những ông Pharisêu. Các ông này tự xem mình như người công chính và khinh miệt những người tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu cho họ biết rằng, Ngài không như họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để chứng minh rằng
Thiên Chúa vẫn thương những người tội lỗi và muốn cứu vớt họ.
Thánh Luca đã gom lại trong một chương những dụ ngôn về lòng thương bao dung của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta chỉ chú trọng đến dụ ngôn người cha nhân hậu mà thôi.
Ai trong chúng ta cũng quá quen thuộc với dụ ngôn này, vì thế chúng ta có cảm tưởng là đã biết rồi. Nhiều người còn cho là nhàm chán. Nhưng lời Chúa vẫn luôn mới đối với tâm hồn muốn tìm Chúa. Cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi sâu vào Lời Chúa và tìm thấy những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay.
Dụ ngôn chứa đựng rất nhiều bài học “sống” cho chúng ta.
Gia đình của chàng thanh niên phung phá này là một gia đình khá giả, chỉ có ba cha con. Không thấy nói đến bà mẹ. Người phụ nữ Do Thái nắm một vai trò rất khiêm tốn. Tất cả đều do quyết định của người chủ gia đình. Hay là bà mẹ đã qua đời. Hai đứa con trai lớn lên, thiếu tình mẹ. Vì thế đứa con trai út đã trở thành “ngông”, không muốn ở nhà với cha, ra sống giữa đời tự do hơn và vui hơn.
Theo tục lệ Do Thái, khi con đã trưởng thành, đủ mười tám tuổi, có quyền xin chia gia tài. (Ở Việt Nam không có quuyền đó). Người cha, dù có thương con, chắc không muốn cho con mình rời xa mái gia đình, cũng phải chiều theo ý con thôi.
Đứa con út, khi đã nắm tiền trong tay, tha hồ tung hoành.
Khi sa cơ thất thế, mới biết mình “ngông”, nhưng không còn cách nào, phải đi làm thuê để sống. Chúa Giêsu đã chú ý đến từng chi tiết.
Nó không thể làm thuê cho người Do Thái vì nạn đói đang hoành hành, không ai mướn. Anh phải xin làm thuê cho một người giàu trong vùng, không phải là người Do Thái. Đó là một sự nhục nhã đối với một người Do Thái.
Nó làm việc gì?
Chăn heo. Đây lại là một điều nhục nhã lớn lao hơn, vì đối với người Do Thái, con heo là một con vật ô uế hơn bất cứ con vật nào. Chạm tới con heo là nhiễm uế, thế mà nó phải chăn heo, dọn chuồng heo… Tình cảnh của chàng thanh niên này thật đốn mạt! Như thế là tận cùng! Đốn mạt hơn nữa, là anh muốn ăn của heo ăn mà không ai cho.
Xưa kia, cậu là một chàng thanh niên giàu có, một công tử, hôm nay là một tên đầy tớ chăn heo. Không có cái nhục nào bằng!
Trong cảnh nghèo nàn cơ cực như thế, anh mới hồi tưởng lại cảnh gia đình, đến cuộc sống ấm no ở gia đình. Anh quyết định trở về nhà.
Quyết định của anh không trong sạch cho lắm vì nó bị thúc đẩy bởi cơn đói và sự nhục nhã khôn cùng chứ không do tình yêu.
Điều này càng làm nổi bật lòng nhân hậu và tình thương của người cha. Ông không cần biết điều gì khác, ông chỉ vui mừng vì con ông đã trở về. Tình thương của ông là vô điều kiện.
Chính người cha đi đến với con trước. Ông chạnh lòng thương, ông chạy ra, ôm lấy con, hôn lấy hôn để. Chúa Giêsu muốn nói đến từng chi tiết để chúng ta thấy được tình thương của Cha chúng ta. Cha trên trời thương chúng ta như thế đấy, chúng ta có nghĩ đến tình thương đó không? Chắc cũng có nhưng nhiều lúc chỉ nhớ qua loa, không chú ý bao nhiêu.
Biết và chú ý là hai điều khác nhau. Vì thế mà chúng ta không cảm thấy hạnh phúc và không hiểu được hạnh phúc của mình. Đôi khi, trong những lúc yên lặng, chúng ta nên nhìn lại khuôn mặt đáng yêu của Cha trên trời. Chúng ta sẽ thấy êm đềm và an ủi. Trầm lắng để chìm sâu vào tình yêu của Cha, đó là một niềm hạnh phúc lớn cho chúng ta.
Cuộc hội ngộ cảm động làm sao!
“Mau đem áo đẹp nhất cho con ta” vì con ta không còn là một tên đầy tớ nghèo mạt tả tơi nữa. “Hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cho cậu”. Tại sao lại chú ý đến chiếc nhẫn? (Theo tục lệ Do Thái, những gia đình quyền quí luôn làm một chiếc nhẫn cho con cái, trên đó có khắc tên của gia đình. Mất chiếc nhẫn đó là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà). Người cha để ý đến chiếc nhẫn, không thấy trên tay cậu. Nó đã bán đi mất rồi. Nó không còn quyền làm con nữa, vì thế, ông trao cho con chiếc nhẫn khác tức là trả lại cho đứa con sa đọa của ông quyền làm con trong gia đình.
Ông mở tiệc ăn mừng. Sự trở về của đứa con phung phá đã trở thành niềm vui cho gia đình, và hàng xóm được mời đến chia vui. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Cả thiên đàng vui mừng khi một người tội lỗi trở về”.
Niềm vui này là niềm vui của tình yêu. Vì nhờ tình yêu mới giúp ta tìm lại được niềm vui. Chúng ta có biết, khi chúng ta trở về, Cha trên trời vui như thế nào không? Nếu chúng ta không thuộc về hạng đứa con phung phá, chúng ta hãy tìm hết cách để kêu gọi những người anh em, những người đang sống “đối nghịch với thập giá” trở về với Cha. Hay chúng ta giống như người con cả, thấy Cha mừng vì em mình trở về lại tức giận? Đó là thái độ của Pharisêu, tự cho mình là công chính và chà đạp người tội lỗi “thằng con khốn nạn kia của cha”.
Chúa Giêsu muốn cho mấy ông Pharisêu thấy rằng người tội lỗi không là đồ bỏ đi mà là đối tượng của tình yêu luôn cứu vớt của Cha trên trời.
Đứng trước thái độ cự tuyệt của người con cả, người cha lại ra năn nỉ anh, mời gọi anh vào niềm vui của sự tha thứ. Ông cho thấy rằng của cải không là cái gì quan trọng “mọi sự của cha là của con”, con đâu mất mát gì đâu! Nhưng đối với cha, đứa con của cha mới đáng giá. Chúng ta có thấy giá trị của chúng ta trước mặt Cha trên trời không?
Chúng ta chỉ là tro bụi, hơn nữa, chúng ta tội lỗi xấu xa, thế nhưng Cha trên trời luôn năn nỉ chúng ta.
Sự độ lượng và lòng nhẫn nại của người cha đã đem lại một nguồn vui mới là hai anh em được hòa thuận với nhau. Ở trần gian này có được bao nhiêu người cha độ lượng như thế? Hơn thế nữa, Ngài dám ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài để hòa giải những đứa con ngỗ nghịch với Ngài, để chúng ta được hoàn toàn hạnh phúc với Ngài.
Làm sao tạ ơn Cha cho hết được!
Và đền đáp lại tình thương vô bờ bến của Cha, chúng ta “hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời, để mọi người nhìn thấy những việc làm của chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời”.
Niềm vui của chúng ta là được đoàn tụ quanh Cha để tạ ơn Cha cùng với Chúa Giêsu. Người Cha kia đã giết con bê béo để ăn mừng, Cha trên trời cho chúng ta ăn chính Con Một của Ngài để chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài và tận hưởng niềm vui bất tận trong nhà Cha muôn đời: “Ta đến để niềm vui của anh em được trọn vẹn”.
5. Ăn mừng vì con ta sống lại – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Cha Boscô thường xuyên vào thăm trại tù thiếu nhi phạm pháp. Một hôm ngài xin ban giám thị cho ngài dẫn các tù nhân đó đi cắm trại ở khu rừng mát mẻ ngoài thành phố Tôrinô. Mọi người ngạc nhiên chưa thấy ai dám cho tù nhân tự do ra ngoài. Ban Giám thị sợ tù nhân trốn hết, họ phải tù thay. Cha Boscô cam đoan nếu có trẻ nào trốn, ngài sẽ tù thế, buộc lòng họ phải chấp thuận và cho một đội lính đi canh. Nhưng ngài khăng khăng không cần lính, chỉ mình ngài lo thôi. Thế là nhà tù mở cửa, các em ào ào ra và xếp thành hàng đôi đi ra rừng cắm trại. Chúng thi đua nhau các trò chơi, ca hát, chạy nhảy, làm trò đủ kiểu em nào cũng hăng say hoạt động vui chơi thỏa thích vô cùng. Em nào cũng răm rắp theo lệnh Cha. Chiều về, ngài dẫn một đoàn thiếu nhi ngoan ngoãn vui vẻ trở vào tù. Ban quản tù điểm danh không thiếu một tên. Họ sửng sốt như thấy phép lạ. Thánh Boscô đã chinh phục được những con ngựa bất kham nhỏ bé nhờ tình yêu tha thiết đối với các thiếu nhi phạm pháp đó.
Tình yêu của thánh nhân làm cho những tâm hồn đã chết được sống lại. Còn hơn nữa, tình yêu của Đức Giêsu làm cho những người thu thuế và tội lỗi đã chết được sống lại, như Tin Mừng kể: “Các người thu thuế và tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người giảng, thấy vậy, những người thuộc phái Pharisiêu và các kinh sư xì xầm với nhau: Ông này niềm nở đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới nói với họ 3 dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền lạc mất và tình phụ tử”.Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu tội nhân thế nào qua câu chuyện một người cha có hai đứa con.
Đứa con thứ bắt cha phải chia gia tài cho nó, được của rồi nó không thèm nói một lời cám ơn, không thèm báo cáo cho cha biết nó làm gì, nó đi đâu, nó ra đi không một lời từ biệt, không hề ngoảnh mặt lại nhìn cha. Nó tự coi mình là tuyệt đối, không còn biết có cha, không còn ai hơn nó. Đứa con thứ là điển hình của những kẻ hoàn toàn bất hiếu với Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình là chủ tất cả của cải trong trời đất, dầu họ không làm ra được một hạt thóc mà còn phá hoại những kho tàng vô tận của trời cho. Thời đại ngày nay, con người đã quá phá sản vào chi phí chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, chi phí những thứ ăn chơi ma túy, rượu chè, si mê đàng điếm gây ra những bệnh tật. Họ còn phá hủy những rừng cây dưới đất, đến tầng khí quyển trên trời, làm đảo lộn sinh thái, ô nhiễm môi trường, gây ra những bão lụt, nóng bức, giá lạnh kinh khủng. Nhận ra những thảm họa khốn cùng đó, con người đang ăn năn sám hối, sửa chữa lỗi lầm như đứa con đi hoang trở về thú tội: “Lạy Chúa, con thật đắc tội với trời và với Cha…”.
Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chầm, hôn nó hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, dầu nó trở về chỉ vì thấy khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, cho thoát khổ, thoát chết. Còn cha nó chỉ thấy nó rách rưới, tiều tụy, đói khổ, nên đã sai đầy tớ mau mau lấy áo mới đẹp nhất, xỏ nhẫn quý nhất cho nó để nó xứng đáng là cậu ấm, cục cưng của cha và mở tiệc giết bê mập ăn mừng: “Vì con ta đã chết, nay đã sống, đã mất, nay tìm thấy”.
Thực ra, thật khó kiếm được người cha trần gian nào như thế! Chỉ có Cha trên trời mới thương yêu con người đến thế thôi, vì Ngài: “Đã dựng nên mặt trời soi sáng cho kẻ công chính cũng như bất lương, làm mưa xuống cho kẻ lành cũng như người dữ… Ngài còn yêu thương vô cùng hơn nữa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống”.
Dù con người bất trung đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, như tiên tri Ôsê ví Thiên Chúa như một người chồng vẫn yêu thương người vợ bất trung bất nghĩa (Ôsê 3, 1; 11, 1-9). Thiên Chúa cũng thương yêu loài người như Giavê đã thương yêu dân Israel: Bất cứ giá nào Ngài cũng giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Bất cứ giá nào, bội bạc, phản loạn đến đâu, Ngài vẫn cho manna từ trời rơi xuống và mạch nước từ tảng đá chảy ra nuôi sống họ suốt 40 năm vượt qua sa mạc để về đất hứa, hân hoan vui sướng mừng đại lễ Vượt qua trong đất chảy sữa và mật (Bài I).
Trong niềm vui dự đại tiệc lễ mừng đó, Thánh Phaolô trong Bài đọc II còn nhắc nhở chúng ta đến một niềm vui vô cùng lớn lao hơn nữa là được trở nên tạo vật mới, được kết hợp với Đức Kitô sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu con người đến tột độ, nhưng con người lại ghen tương, oán ghét nhau như đứa con cả đối với em, như Pharisiêu và kinh sư đối với thu thuế và tội lỗi, không muốn tha thứ, không muốn chúng trở về cùng Cha, chỉ muốn chúng bị nguyền rủa, mất đi, chết đi để độc quyền hưởng lợi lộc chiếm đoạt gia tài. Họ như lính cai tù chỉ biết bắt nhốt trừng phạt những kẻ bé mọn phạm pháp.
Lạy Chúa, con cũng là đứa con đi hoang tù tội, xin Chúa thường xuyên đến viếng thăm, nâng đỡ ủi an và giải thoát khỏi tù đày tội lỗi để con được sống lại, được đứng dậy trở về dự đại tiệc thánh và luôn luôn ở bên Chúa. Lạy Chúa, tâm trạng con còn giống như đứa con cả, như lính cai tù, xin Chúa can ngăn, dạy dỗ con biết tha thiết thương yêu anh em mình như Chúa thương yêu con. Amen.
6. Lòng nhân từ
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về thái độ của chàng trai đi hoang.
Trước hết anh là người có những kinh nghiệm sâu sắc về Tin Mừng cứu độ. Thực vậy, đối với anh, Tin Mừng cứu độ không phải là một mớ lý thuyết rút ra từ những bài học Kinh Thánh, mà là những sự kiện có thực, xảy đến cho chính bản thân anh. Anh đã nhận biết tiếng gọi âm thầm của cha mình trong các biến cố của quãng đời đi hoang. Các biến cố ấy là những tín hiệu mang ý nghĩa gởi về anh. Tất cả như muốn nói với anh: Hãy chỗi dậy và trở về với cha.
Tiếp đến, anh là người đã trở về với thái độ khiêm tốn. Anh nhìn nhận mình đã lầm lỗi, không còn xứng đáng được gọi là con của cha. Anh chỉ dám mơ ước một chỗ hèn hạ nhất trong nhà cha. Nếu được là người rốt hết trong các đầy tớ của cha, thì anh đã cảm thấy thoả mãn lắm rồi. Anh hy vọng và tin tưởng sẽ được như thế. Hy vọng ấy, tin tưởng ấy chính là một Tin Mừng lớn, cứu anh khỏi rơi xuống vực thẳm thất vọng.
Sau cùng anh là người đã thay đổi, đã chuyển biến trước tình thương của cha. Thực vậy, sự việc xảy đến với anh một cách hết sức lạ lùng, ngoài mọi tưởng tượng, ngoài mọi mơ ước. Đó là khi anh được cha chạy lại ôm lấy và anh cảm thấy bản thân mình biến đổi hẳn. Thực vậy, có một cái gì rất mới, rất lạ và rất đẹp, đã thay đổi toàn thể con người anh. Anh cảm thấy có một sự sống mới, những luồng gió mát, như những dòng nước trong tràn vào tâm hồn anh, tẩy rửa những nhơ nhớp của anh. Anh thấy cha nhân từ hơn anh tưởng. Anh thấy lòng cha bao la hơn anh tưởng. Anh thấy cha gần gũi xót thương kẻ tội lỗi hơn anh tưởng. Anh có một cái nhìn rất mới về cha. Cái nhìn ấy mở ra trong anh một nguồn tình mến dạt dào. Anh cảm thấy gắn bó vớ cha, cảm thương cha vô vàn. Đúng là kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều. Trong niềm vui được tha thứ, anh như nhìn thấy một trời mới đất mới. Anh nhìn đời với tầm nhìn xa hơn. Anh nhìn người khác với tâm hồn mở rộng hơn. Anh nhìn lại những bất trung của anh với một khám phá mới. Anh cảm thấy ngay cả những lúc xa cha, thì cha vẫn lặng lẽ đi theo anh, để đưa anh trở về. Anh đã bỏ cha, nhưng không bao giờ cha bỏ anh. Tất cả những biến đổi nội tâm trên đây chính là một Tin Mừng đối với anh.
Và sau cùng, lòng thương xót của Chúa, mà dụ ngôn vừa mới diễn tả đã được thể hiện một cách trọn vẹn nơi Đức Kitô, Người là Tin Mừng giải thoát, là Đấng cứu độ loài người. Địa chỉ mà Người được sai đến là những kẻ tội lỗi, Người đã tỏ ra nhân từ, thương xót và tha thứ cho các tội nhân, Người không dập tắt ngọn đèn còn khói, và không bẻ gãy cây sậy đã giập. Và hơn thế nữa Người đã hy sinh chính mạng sống Ngài để cứu chúng ta khỏi vòng tội luỵ. Bởi vì như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Chúa đã yêu thương tôi và đã nạp mình chịu chết vì tôi.
7. Tấm lòng người cha.
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.
Dụ ngôn này, câu chuyện này được chia làm hai phần. Phần thứ nhất nói đến lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha mòn mỏi trông chờ đứa con trở về. Và khi cậu trở về thì đã mở tiệc ăn mừng, và trao lại cho cậy đầy đủ quyền làm con như khi trước.
Phần thứ hai có tính cách biện hộ khi diễn tả sự phản đối với cách cư xử của người cha lúc đứa em tội lỗi trở về. Đó cũng chính là tình trạng cụ thể mà Chúa Giêsu gặp phải trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Câu chuyện được kể lại bằng những chi tiết rất sống động. Thực vậy, tội của đứa con hoang đàng quả là rất lớn. Nó đã sử dụng tiền của làm ra với bao công lao khó nhọc vào cuộc truy hoan trác táng, để rồi kết thúc trong nghèo đói và túng quẫn. Đối với người Do Thái heo hay lợn là một con vật nhơ bẩn. Chăn heo hay chăn lợn là một việc làm nhờm tởm. Tình cảnh khốn quẫn đã đưa đứa con đến tột cùng của sự thảm hại, bị loại ra khỏi cộng đồng dân Chúa đã đành, mà còn bị loại ra khỏi cộng đồng con người, bởi vì trong cơn đói khát, nó đã thầm ước được ăn chút cám bã dành cho súc vật mà cũng chẳng được.
Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta xúc động vẫn là thái độ của người cha. Câu chuyện kể lại rằng: Ông đã thấy đứa con từ đàng xa. Chi tiết này chứng tỏ ông hằng trông mong và đợi chờ. Và khi đã nhận ra con, ông vội chạy đến ôm chầm lấy con, hôn con một cách nồng nhiệt, đặt đứa con hối cải vào đúng vị trí của nó trong gia đình, rồi mở tiệc ăn mừng.
Thái độ của người con cả cũng được trình bày một cách sống động. Anh là người con chí thú làm ăn, nhưng xem ra quan hệ với người cha không được đằm thắm cho lắm. Tuy ở nhà với cha, nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả là anh đã không hiểu nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp.
Đoạn Phúc Âm hôm nay quả là một tin mừng cho người trở lại, nhưng đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với những người ở trong nhà. Thực vậy, câu chuyện cho thấy người cần phải trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người con vẫn ở nhà với cha, nhưng cõi lòng thì không ở cùng cha.
8. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Có lẽ người cha trong dụ ngôn có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ, Khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già thì anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Nhưng đáng buồn thay, bấy lau nay anh sống với cha chỉ là la\àm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là “em con” nhưng là “cái thằng con của cha kia”. Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của người con cả để cảnh tỉnh thái độ của những người Biệt phái và luật sĩ. Họ luôn coi mình là thành phần ưu tuyển của Chúa vì mình luôn chu toàn lề luật. Họ trách Chúa Giêsu vì đã đi lại với những người thu thế tội lỗi và lại còn ngôì ăn chung với họ nữa. Phải chăng đay cũng là hình ảnh gợi ý cho mỗi người chúng ta. Thay vì thấy mình tốt, mình được sống trong ơn nghĩa Chúa lẽ ra mình phải có bổn phận nâng đỡ những người lầm lỗi, biết vui mừng khi thấy họ ăn năn trở lại, biết yêu thương và nâng đỡ họ vượt qua mặc cảm để bắt đầu lại thì chúng ta lại thường tỏ vẻ khinh thường chỉ trích. Làm như thế khác nào chúng ta lại đẩy họ đi xa hơn.
Cách hành xử của Thiên Chúa khác xa con người. Bằng chứng sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha. Mahadma Gandhi nói “chỉ có người nào trải qua cảm nghiệm được yêu thương khi mình còn là tội lỗi mới cảm nhận được thế nào là tình yêu tha thứ”. Đó cũng là cảm nghiệm của người con hoang đàng trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Bên ngoài trời đang mưa nhưng chúng ta vẫn có thể chết khá nếu không biết dùng thau để hứng nước. Chúa không thể cứu con người nếu con người không chạy đến với Ngài. Bởi vì Ngài luôn trọng tự do của con người, đó là một tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, tự do để yêu mến Thiên Chúa nhưng con người cũng có thể dùng nó để khước từ Thiên Chúa thậm chí chống lại Ngài.
Thiên Chúa dựng nên con người và đặ để mỗi người trong hoàn cảnh khác nhau. có những người giữ đạo sốt sắng, luôn chu toàn bổn phận với Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì ân huệ đó. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết tha thứ và đón nhận những người lầm lỗi, yếu đuối. Bời vì họ là những con người đáng thương. Họ cũng là anh em với chúng ta là con cùng một Cha trên trời. Họ cũng đã được Chúa Giêsu đổ máu ra để cứu chuộc.
Chúng ta đã đi được chặng đường hơn nữa mùa chay, và đang chuẩn bị bước vào Cuộc khổ nạn và Phục sinh của Đức Kitô. Lời Chúa trong mùa chay luôn là lời mời gọi hoán cải và đổi mới để trở về làm hoà với Chúa. Chúng ta hãy can đảm nhận ra những khuyết điểm và tội lỗi của mình không phải để mặc cảm tự ti nhưng là để mạnh dạn trở về cùng Chúa, Đấng luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta. Đừng nghĩ rằng tôi tội quá nặng lỗi quá nhiều nên Chúa không thể tha. Chúng ta hãy nhìn lên thánh giá, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá cũng là vì tội lỗi của chúng ta.
9. Trở về trong tình thương
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đọa đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc … Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về?
Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác làm động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người. Tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, tin rằng mình luôn có một chỗ trong Trái Tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20)
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa sâu xa của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp ông việc nầy việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc. Một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “thằng con của cha kia…”
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…” Dù không bỏ cha, bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em,
Chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Làm sao người con của Cha lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Làm sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc nầy, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
10. Người Cha nhân hậu
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người Con Hoang Đàng. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết, vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta, hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha, đối lại với cảnh nhóm pharisiêu và các kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì đã ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi ba dụ ngôn: Con chiên bị mất; Đồng bạc bị mất; và Người cha nhân hậu. Nội dung của dụ ngôn này có thể được chia ra làm hai màn.
Màn thứ nhất: Người cha và đứa con út. Màn thứ nhất này cho thấy sự tương phản sâu xa giữa lối suy nghĩ và hành động của đứa con với suy nghĩ và hành động của người cha. Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài. Ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến việc vun quén riêng, không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa, không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm, khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cho cha mẹ mau chết đi. Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con, nó tiêu tiền mà không nghĩ đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nó tiêu tiền chỉ để thỏa mãn dục vọng, nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân, khi có tiền nó chẳng nghĩ gỉ đến ai nên khi hết tiền chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về. Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ, không hề nghĩ đến tình thương, nó chỉ nghĩ đến cái bụng, về nhà để ăn cho no, chỉ có thế. Nó còn một chút lương tri để hiểu rằng nó không xứng đáng làm con nữa. Tuy nhiên, nó không tha thiết đến quyền làm con, chỉ mong sao có ăn no bụng là được, thật là ích kỷ đến tận xương tủy.
Nếu đứa con út ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, thì trái lại người cha hoàn toàn quên mình vì con. Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng. Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp. Nhưng con ra đi chẳng hề nhớ nhung gì đến cha mà cha thì chẳng phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi Cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của mà chỉ cần có con. Cảm động nhất và cũng là chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ, một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha, “anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”, khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ già nhòa dòng lệ vì thương nhớ, thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt mà nhìn bằng trái tim, trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con chẳng còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha, trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa, trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa. Ông chạnh lòng thương, trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tụy rách rưới, yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động. Chạy lại ôm cổ con, lại một cử chỉ lạ lùng, cha không chờ con tới cho đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quí của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông chạy đi như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già, vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân nhưng lại bằng trái tim, ông bay bằng tình yêu, tình yêu chấp cánh cho ông. Hôn lấy hôn để, chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào của ông dành cho nó, ông ôm chặt như để giữ cho nó không ra đi nữa. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì cha đã có bốn động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện bốn động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí, ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về, ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dàng, ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc có cả đàn hát múa may nhảy nhót để đón đứa con trở về. Làm thế, chẳng sợ hàng xóm cười cho. Nói tóm lại, ông đã phung phí tình yêu thương, yêu thương quá độ, yêu thương đến vô lý. Có lẽ nào giải nghĩa được yêu thương, chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Đó là người cha nhân hậu.
11. Chúa nhân hậu
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Trình thuật Tin mừng (Lc 15, 1-3. 11-32), được mang nhiều tên gọi: Người con hoang đàng – Người Cha nhân hậu – Chuyện người Cha và hai người con…
Hẳn trình thuật này tên gọi thì nhiều nhưng ý nghĩa quan trọng của trình trình thuật vẫn là: Lòng Chúa nhân hậu.
I. KIÊN NHẪN
Chuyện kể rằng, người cha có hai người con trai. Để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp cho con cái, ông đã gầy dựng cơ nghiệp cho hai con với tâm nguyện “của cha là của con” (Lc 15, 31).
Vậy mà, một ngày kia, sóng gió gia đình nổi lên khi người con thứ đòi chia gia tài và muốn tự giải quyết cuộc đời mình bằng cách bỏ nhà trẩy đi phương xa để sống riêng. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, trong một gia đình, chỉ khi nào người cha mất đi thì các con mới chia nhau gia tài. Cách ứng xử của người con thứ chẳng khác nào anh mong cho cha mình mau chết.
Lòng người cha đau đớn nhưng vì tôn trọng tự do của người con thứ nên ông đã chấp nhận chia gia tài để anh sống riêng. Thế là, ngay từ lúc người con thứ bước chân ra khỏi nhà cũng là lúc người cha sống những ngày mòn mỏi đợi chờ anh ta sám hối quay về với mái ấm gia đình.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng muôn điều tốt đẹp cho con người và ban cho họ làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo với vinh quanh danh dự chẳng thua kém thần mình là mấy. Vậy mà, con người đã lạm dụng quyền tự do của mình để tự định đoạt cuộc đời. Thế nên, họ đã lâm vào cảnh hư ảo và phải mang án chết. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ con người quay về với Chúa.
II. TỰ HẠ
Chuyện tiếp theo, người con thứ sau khi đã phung phí tài sản của cha vào những cuộc ăn chơi đàng điếm, anh đã phải đi làm công cho một ông chủ với công việc chăn heo.
Đối với người Do Thái thời ấy, heo là con vật ô uế, nên họ không bao giờ nuôi heo mà chỉ có người dân ngoại mới nuôi heo. Vậy là, người con thứ đã tử bỏ người cha, từ bỏ gia đình để đi làm công cho người ngoại và hàng ngày tiếp xúc với con vật ô uế. Tất nhiên, anh ta luôn ở trong tình trạng ô uế. Tệ hơn thế, khi cơn đói dày vò, anh ta muốn ăn thức ăn dành cho heo những vẫn không được ăn. Anh đã thua cả heo, con vật ô uế. Anh lao xuống tận đáy sâu của vực thẳm tội lỗi.Thật là bi đát!
May thay, trong cơn cùng khốn, một chút lương tâm trong anh đã trỗi dậy và khai sáng cho anh nhớ về gia đình: trong gia đình anh, biết bao người đầy tớ được cha anh đối xử nhân ái và được sống sống tốt đẹp; vậy mà giờ đây phận là con của người cha giàu có và nhân hậu mà anh lại phải sống trong tình trạng nhầy nhụa bi thảm. Để giải cứu cơn đói, anh đã quyết định “đứng lên” quay về nhà mình và chỉ giám mong được cha đối xử với anh như người làm công. Anh đã chuẩn bị cho ngày về bằng một bài diễn văn: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chăng đáng còn gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công vậy” (Lc 15, 18-19).
Người cha đã hằng mong mỏi ngóng chờ người con quay về. Vừa trông thấy con còn ở đàng xa, ông đã vội chạy ra đón anh, “ôm cổ anh ta và hôn lấy, hôn để” (Lc 15, 20) và không để anh đọc hết bài diễn văn. Ông đã không thể hiện tư thế của một người cha uy nghi quyền thế khiến mọi kẻ phải lạy lục xin ông ban phát ân huệ. Trái lại, ông đã tự hạ mình, nhanh chân chạy đến đỡ lấy người con tội lỗi quay về. Tình thương của người cha đã làm cho người con tội lỗi nghẹn ngào không nói được hết lời xin lỗi.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Dù bao phen con người lầm lỗi phản nghịch Chúa, bỏ Người chạy theo thần của dân ngoại, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người sống ngụp lặn trong tội lỗi. Biết bao lần, Người dùng các ngôn sứ, các thủ lãnh để hướng dẫn dân Chúa trở về với nẻo chính đường ngay và sau cùng Thiên Chúa còn tự hạ mình mang thân phận con người để cứu độ con người cách toàn diện.
III. CỨU ĐỘ
Người cha vui sướng xiết bao khi người con hoang đàng trở về với mái ấm gia đình. Ông tuyên bố: “Con ta đây chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy” (Lc 15, 24) và chỉ thị cho gia nhân: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dẹp vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” (Lc 15, 22, 23).
Người cha ban áo đẹp nhất cho người con để từ nay anh phải rũ đi chiếc áo quá khứ cũ rách của nếp sống tội lỗi để mặc lấy chiếc áo lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc; ban nhẫn cho người con là biểu hiện ban quyền bính, uy thế danh dự của gia đình vương giả; ban dép cho người con là biểu hiện phục hồi lại quyền tự do (người nô lệ không đi dép); ban dê đã “vỗ béo” chứ không ban dê gầy hay dê nào cũng được là biểu hiện người cha đã cho “vỗ béo” dê để sẵn sàng mở tiệc khi người con hoang trở về.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh Thiên Chúa cứu độ con người cách toàn diện. Thiên Chúa đã dọn sẵn hạnh phúc thiên đàng và chờ đợi người tội lỗi ăn năn thống hối quay về, Người “không muốn cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng muốn họ bỏ đường tà để được sống” (Ed 18, 23). Ai trở về cùng Thiên Chúa sẽ được cải tử hoàn sinh “chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy” (Lc 15, 24).
Tiệc vui đoàn tụ đã khai mở, mọi người “bắt đầu ăn mừng” (Lc 15, 24) nhưng sóng gió gia đình lại tiếp tục nổi lên. Người con trưởng xuất hiện. Sau một ngày vất vả nơi đồng áng, về đến nhà trông thấy cảnh tượng cha mừng người em trở về, anh đã không thể chấp nhận nổi; anh không những không vào nhà mà còn buông lời xúc phạm người cha: “Còn thằng con của cha đó…” (Lc 15, 30). Thế mới lộ ra, bấy lâu nay, tuy sống gần bên cha gia nhưng người con trưởng chỉ sống tương quan với cha mình người chủ với tớ…
Lúc này, người cha lại phải xuống nước với anh: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất của những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ vì em con đây đã hết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 31-32).Vậy là, người cha lại phải kiên nhẫn và hạ mình trước người con trưởng để mong anh quảng đại như cha sẵn sàng đón nhận em.
Một lần nữa, Thiên Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, hạ mình và chờ đợi để cứu độ muôn người.
KẾT
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa Chúa được Đức Giê-su diễn tả qua một dụ ngôn về một gia đình người cha và hai người con.
Câu chuyện gia đình ba cha con đã khép lại nhưng chưa có hồi kết (không biết người con trưởng sẽ ra sao). Hẳn hồi kết ấy sẽ do mỗi người tín hữu phải góp phần mình để hoàn thành bằng sự quyết tâm đứng lên sau những lần vấp ngã để trở về cùng Thiên Chúa là cha nhân hậu, đồng thời quảng đại với mọi người.
12. Phục hồi phẩm chất cao đẹp – Lm. Ignatiô Trần Ngà
* Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mác cô 7, 21-23)
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do-Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
* Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc… khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình… thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng…
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng rồi được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: “Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi.” (2C 5,17)
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống hay không.
13. Người con trở về nhà cha
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
1. Một tín hiệu không vui
Từ ngoài đồng về, người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, và người cha đã phải ra tận nơi để năn nỉ cậu. Hai tình huống được đặt ra ở đây:
– Người con cả có vào nhà không?
– Vào hay không vào, đàng nào tốt hơn?
1.1.Tình huống một: không vào nhà, để rồi lại bỏ nhà ra đi
Có người cho rằng anh không chịu vào nhà. Anh không chịu vào, vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh không chịu vào, vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm, bị chia sẻ. Anh không chịu vào, vì anh không hiểu được tấm lòng của người cha.
Hơn nữa, anh còn kết án người cha. Anh kết án cha bất công và keo kiệt. Kết án cha bất công khi anh nói: cha coi, thằng con của cha đó, một thằng ăn chơi đàng điếm trở về thì cha lại ăn mừng. Kết án cha keo kiệt khi anh phàn nàn: cha chẳng cho con lấy một con dê con để vui với bạn bè, còn giờ đây cha lại cho giết cả một con bê béo để mừng thằng con bất hiếu trở về. Như vậy đủ lý do để chúng ta kết luận: người con cả bỏ nhà ra đi.
Người con cả bỏ nhà ra đi, nói lên “niềm vui của Thiên Chúa, hình như không có lúc nào được trọn vẹn khi ở giữa Dân Người”. Một kết thúc làm cho chúng ta suy nghĩ: Thiên Chúa là như thế đó, nỗi khỗ tâm của Thiên Chúa là như thế đó.
1.2.Tình huống hai: người con cả vào nhà và ở lại với người cha.
Một kết luận xem ra có hậu, nhưng thực sự có hậu không?
Chúng ta trở lại với người con thứ, người con hoang đàng trong dụ ngôn. Từ khi người con hoang đàng trở về, mọi sự đều thay đổi. Những người làm công yêu cậu chủ, yêu cậu chủ rồi yêu luôn cả công việc cậu chủ giao phó. Vì yêu cậu chủ, nên yêu luôn cả ông chủ, vì khám phá ra lòng nhân hậu của ông chủ mà suốt cả bao năm dưới quyền người con cả, họ không thấy được điều đó. Từ đây, những người làm công có một cái nhìn so sánh giữa người con thứ và người con cả. Họ càng thương người con thứ bao nhiêu thì lại càng hận người con cả bấy nhiêu.
Đứng trước tình cảnh đó, người con cả sẽ phản ứng ra rao? Liệu anh có thể kiềm chế được tính ghen tương đã nằm sâu trong lòng cậu không?
Thật vô cùng khó! Vì lúc đầu, chỉ có người cha vui mừng vì cậu em trở về mà anh đã tức điên lên rồi, phương chi, giờ đây người cha vui mừng không những vì cậu em trở về, mà cả những người làm công cũng trở thành những người con trong nhà, được hưởng những quyền lợi như một người con trong gia đình.
Như vậy, chắc chắn sự ghen tương sẽ bùng nổ và chúng ta biết hậu quả của ghen tương sẽ dẫn tới đâu. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 16 tại Ấn Độ: trong triều đình có hai viên quan, mỗi người một tính xấu. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ngày kia, nhà vua có một sáng kiến để sửa đổi những tính xấu đó. Nhà vua cho triệu hai viên quan vào triều đình, cho biết sẽ trọng thưởng họ vì đã phục vụ lâu năm. Hai ông có thể xin gì tùy thích,
nhưng người đầu tiên mở miệng xin, chỉ được những gì mình muốn. Còn người thứ hai sẽ được gấp đôi. Những giây phút nặng nề trôi nhưng không ai mở miệng trước. Người tham lam nghĩ trong lòng rằng nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước, để người kia được gấp đôi.
Vì thế không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, nhà vua phải đề nghị người ganh tị nói trước. Người ganh tị lẩm nhẩm: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi, nên ông tâu với vua: tôi xin chặt đứt một cánh tay. Ông ta sung sướng với ý nghĩ: người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Thật là ngớ ngẩn! Hại ai không hại, lại hại chính thân mình. Kẻ ganh tỵ là như thế đó!
2. Điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng” trong Tin Mừng
Sau buổi tiệc hôm đó, cuộc sống của người con thứ sẽ ra sao?
Phải chăng lại âm thầm tiếp tục như những ngày tháng trước khi bỏ nhà ra đi? Phải chăng câu chuyện dừng lại ở đây?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy đọc lại quyết tâm của cậu ta: “thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Một lời cầu xin ân huệ và cũng là một quyết tâm: “xin coi con như một người làm công cho cha thôi”. Trở về và được phục vụ cha như một người làm công, được như thế cũng là mãn nguyện rồi. Thế là từ nay các quyền lợi, các ưu đãi dành cho một người con trong nhà, anh không dám nghĩ tới nữa. Giờ đây chỉ còn một việc phải làm là phục vụ và phục vụ hết mình. Quyết tâm này không những làm người cha xúc động, mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng lớn đối với những người làm công.
Với bao chua cay đau xót, với bao tủi hổ ê chề, khi phải đi chăn heo cho người ngoại bang, nhờ đó mà giờ đây anh có một cái nhìn khác về cuộc sống. Nơi nhà cha cậu, cậu luôn sát cánh bên cạnh những người làm công. Cậu ân cần thăm hỏi từng người một. Cậu đồng cảm với những hành vi, mỗi cái nhìn, cũng như những phản ứng của những người làm công. Nhất là cậu giúp những người làm công tìm được một ý nghĩa, một niềm vui trong cuộc sống.
Cuối năm đó tính sổ lại, người cha vô cùng ngạc nhiên, tại sao cũng một thời gian như nhau, với số người làm công như nhau, mà hoa lợi lại tăng nhiều như vậy. Người cha khám phá ra rằng: chính là do cậu chủ. Cậu chủ thương mến những người làm công, và những người làm công thương mến cậu chủ. Trước đây, khi làm việc, những người làm công chỉ mong cho mau hết ngày để tính công, nhưng giờ đây, họ cố làm cho hết việc chớ không phải hết giờ. Và với số hoa lợi bỗng nhiên dư ra như vậy, ông chủ lại chia sẻ cho những người làm công. Được quan tâm, được nâng đỡ, những người làm công lại mến chủ hơn. Càng mến chủ, họ lại càng làm việc tích cực hơn, và cứ như thế, ông chủ càng ngày càng vui hơn. Ông chủ vui hơn không phải vì tài sản càng ngày càng lớn hơn, nhưng vui hơn, vì giờ đây, nhờ chính đứa con đi hoang trở về, anh đã cảm hóa, anh đã biến đổi những người làm công trở thành những người con thực sự trong gia đình của người cha. Đây mới là điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng”. Amen.
14. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Chúng ta đang sống trong những ngày của mùa chay thánh, Lời Chúa trong các chúa nhật mùa chay luôn mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa bằng con đường sám hối. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe cũng là một lời mời gọi sám hối trở về với Chúa để đón nhận ơn tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Các bạn có thể đặt tên cho bài dụ ngôn này là gì? Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Có mấy nhân vật chính trong dụ ngôn?
Người cha trong dụ ngôn có 2 người con. Có lẽ người ơng có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ. Lẽ ra khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già(thì anh lại lm gì n).anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Anh đang từ ngồi đồng trở về, anh cĩ thi độ thế no khi biết em mình đ trở về? anh cĩ vui? Những lời của anh nĩi cho thấy tấm lịng của anh, bấy lu nay anh sống với cha chỉ là làm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là “em con” nhưng là “cái thằng con của cha kia”. Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con.
Thái độ của anh cả như thế cịn thi độ của người cha như thế no? Ơng trch mắn quở phạt anh ta, ơng khơng muốn nhận lại con?. Chng ta nghe tiếp cu chuyện. Sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha.
Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến ai qua 3 nhân vật trong dụ ngôn?
Người cha? Ám chỉ Thiên Chúa
Người con thứ? Ám chỉ những người có tội biết ăn năn
Người con cả? Ám chỉ những người Biêt phái và những ai tự coi mình tốt và không biết tha thứ
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà Ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đang trở thành người con hoang đàng, là chúng ta đang bỏ Chúa đó. Vậy mỗi khi chúng ta phạm tội với Chúa thì chúng ta trở về với Chúa bằng cách nào? (qua bí tich giải tội- Chúa rất vui khi chúng ta đi xưng tội). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi với anh chị em chúng ta phải làm gì? (xin lỗi- quyết tâm không làm điều đó nữa). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, chúng ta không được tuyệt vọng, và không được nghĩ rằng lỗi của tôi nặng quá không biết Chúa có tha hay không, Chúa luôn luôn tha cho chúng ta chỉ cần chúng ta biết chạy đến với Chúa. Chúa luôn mở rộng đôi tay đón chúng ta trở về
Một bài học khác chúng ta có thể thấy được qua bài dụ ngôn này đó là mình phải biết tha thứ cho người khác. Chúa tha thứ cho chúng ta khi chúng ta có lỗi, và Chúa còn thương chúng ta nhiều hơn vậy thì chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Mỗi khi chúng ta tha thứ cho người khác đó là chúng ta đang trở nên giống Chúa. Các bạn thấy khi mình làm ai giận, hay làm điều gì lỗi với người khác khi được ban mình bỏ qua không giận nữa, tiếp tục chơi với mình, mình có vui không nè?
Mùa chay luôn mời gọi chúng ta biết trở về với Chúa bằng cách từ bỏ con người tội lỗi của mình. Sám hối và trở về với Chúa bằng những việc làm cụ thể, chẳng hạn tôi quyết tâm bỏ bớt đi tật hay nói dối, hay chửi thề nói tục, hay cãi lại cha mẹ. Và sống con người mới là người con của Chúa biết yêu thương người khác, biết tha thứ cho anh chị em, và mau mắn chạy đến với Chúa qua bí tích giải tội khi chúng ta lầm lỗi. Khi làm như thế đó là chúng ta đang sống trong tâm tình là người con của Chúa.
15. Ba cha con.
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba cha con.
Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.
Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.
Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.
Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.
16. Ơn Cha – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói về tình yêu và sự hy sinh của một người cha, người ta thường ví von như biển cả bao la, như cây cao bóng cả, như núi cao vời vợi. Một tình yêu không vồn vã nhưng trầm lắng và rộng lớn bao la. Một tình yêu không cần diễn tả bằng lời, không cần biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương, đôi khi tỏ ra cương quyết nhưng lại là chỗ dựa vững chắc nhất cho con cái vào đời.
Tình thương và tấm lòng người cha như thế, đã được ca sĩ Ngọc Sơn diễn tả qua bài hát “Ơn Cha” như sau:
Ơn Cha như Thái Sơn cao bao tầng
Ngoài tuy cương quyết mà lòng thương mến
Ơn Cha như đuốc soi cao trên đường
Đuốc soi tâm hồn dắt con tìm hướng
Ơn cha như bóng cây xanh trên ngàn
Tình Cha tha thiết, lòng cha âu yếm
Ơn Cha như mái hiên che năm trường
Gió mưa xa gần, nắng mưa không sờn.
Vâng, chính tình thương mênh mông biển cả của người cha luôn phủ lấp cuộc đời của những người con, là hành trang theo con vào đời, là kỷ niệm luôn ghi khắc trong tim của những người con, đến nỗi có nhiều người vẫn thầm hát với cha rằng:
“Mai con lớn lên rồi
Ra đi tung cánh trong đời
Dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha”.
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa tựa như tình của một người cha trong gia đình. Một người cha có hai con. Hai đứa con hai cách sống. Hai đứa con hai mối bận tâm của cha. Mỗi đứa mỗi tính. Vì cha mẹ sinh con trời sinh tính. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi. Con người anh còn thiếu lòng độ lượng biểu lộ qua việc hay ganh tỵ và đòi hỏi quyền lợi. Anh đã từng thốt lên rằng: “Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng”.
Người con thứ thuộc loại “bán trời không văn tự”. Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc đời anh chỉ tìm kiếm những thoả mãn xác thịt tầm thường. Thích ăn ngon, mặc đẹp và vui thú bên những cô gái chốn lầu xanh. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta vì những con bê béo là danh lợi thú mà quên cả tình nghĩa cha con. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen.
17. Trở về với tình Cha
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là một câu chuyện tuyệt vời trong Tin Mừng Luca. Qua đoạn phúc âm ngắn này, Luca cho thấy lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi qua hình ảnh người cha nhân hậu. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để trả lời cho những tiếng xì xầm, bàn tán của người Pharisêu và các kinh sư về việc Người hay tiếp đón những người thu thuế và những kẻ tội lỗi.
Người Pharisêu và các kinh sư tự hào về sự công chính của mình, họ cho rằng mình là người đạo đức vì họ tuân giữ các lề luật một cách nghiêm khắt, giữ các tập tục của họ đưa ra và buộc Thiên Chúa trả ơn cho họ. Vì thế, đôi khi họ tuân giữ hơn những gì mà luật đòi buộc. Họ thường khinh chê, xa lánh và kết án những người bị coi là “tội lỗi”. Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giêsu không những muốn người thu thuế và người tội lỗi ăn năn sám hối mà chính các người biệt phái và các kinh sư cũng cần phải sám hối để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Thật thế, sau khi tội nguyên tổ xâm nhập, tội lỗi lan tràn vào thế gian. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Người xót thương và tìm cách cứu thoát con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Chuộc để giải thoát con người, giao hoà con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với chính họ – chính bản thân chính con người mình. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình thương và lòng nhân ái. Ngài xót thương và thi ân. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Phúc âm chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, có cơm ăn, có áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 22).
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? Thưa, không phải vậy đâu. Nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám trở về. Bởi có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Đó chính là tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương và tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,25).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho công việc này sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu,
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kìa…”.
Rất có thể, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài. Vì thế, chúng ta hãy lắng nghe lời từ tốn nhân từ dịu dàng của người cha: con à! Lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha điều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. (Lc 15, 31 – 32). Mỗi lần sống ích kỷ cho riêng mình là chúng ta đã bỏ rơi người cha. Mỗi lần chúng ta xét đoàn, lên án hay không tha thứ cho anh em mình là mỗi lần chúng ta xa rời tình yêu Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta lỗi phạm đến Chúa chúng ta luôn xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta; Thiên Chúa luôn tiếp nhận chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta có nhiều lỗi lầm nhất. Vậy tại sao chúng ta không đối xử nhân từ với những thiếu xót và lỗi lầm của anh em mình. Chúng ta không đồng tình với tỗi nhưng chúng ta cảm thông với những người tội lỗi. Chúng ta phải mừng khi một người anh chị em nào đó trong cộng đoàn chúng ta đã phạm tội nhưng nay trở về. Hay một người nào còn sống trong tình trạng tội lỗi, chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa. Nhất là chúng ta cần cảm thông nâng đỡ để người ấy có cơ hội quay về, đặc biệt trong mùa chay này. Mỗi lần làm như thế, chúng ta đón nhận được lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, đồng thời chúng ta cũng muốn thể hiện lòng nhân từ ấy cho tha nhân.
Hôm nay, chúng ta cần nhìn lại bản thân mình. Chúng ta là những người đang sống tốt, sống đạo đức nhưng bấy lâu nay chúng ta có thật sự yêu mến Thiên Chúa hết lòng và bác ái đối với tha nhân chưa? Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu Thiên Chúa như Phê rô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và biết trở về với tình Cha. Đồng thời xin cho chúng con sống yêu thương tha nhân và đối xử với họ như anh em mình. Amen.
18. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.
Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân Do Thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
2. Đáp ca (Tv 33)
Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)
Dụ ngôn người cha nhân từ: Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
+ 11-12 – “Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con”: Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì “nắm tiền là nắm quyền”, khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt “nhãn tiền” những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
+ 13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.
“Chăn heo”: người Do Thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.
Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)
+ 20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành:
“Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy”: Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
“Liền động lòng thương”: Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là “liền động lòng thương”.
“Chạy lại”: Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có Do Thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn “chạy”! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.
“Ôm vào lòng hôn con tha thiết”: cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.
+ 21-24 – Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.
“Mau mau đi”: tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
“Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu”: Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc “áo dài tốt nhất” tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú “Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê”.
“Đeo nhẫn vào tay”: nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.
“Xỏ giầy vào chân cậu”: theo tục lệ Do Thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).
“Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo”: không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò “chúng ta đã nuôi cho béo”. Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
+ c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh
“Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông”: biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ “phục vụ” Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.
+ c.30 “Thằng con của ông đó”: người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
+ c.32 “Em con đây”: người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
IV. Gợi ý giảng
1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)
2. Những con tim
Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim:
– Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
– Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
– Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
– Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
– Con tim sám hối và con tim không sám hối.
– Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
– Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)
3. Người con gái hoang đàng
Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau:
Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao?
Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước: Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.
Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.
Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.
4. Trừng phạt và tha thứ
Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.
Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.
Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)
5. Trong đôi mắt cha (Lc 15,1-3. 11-32)
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
***
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
***
Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
6. Mảnh suy tư
– “Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ” (Oscar Wilde)
– Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.
– Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
– Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng về tình thương và lòng thương xót của Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.
2. Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
3. Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
4. Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
19. Niềm vui giao hòa
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
Tuần trước Phụng vụ lời Chúa là mời gọi cấp thiết phải hoán cải cuộc sống thì tuần này phụng vụ Lời Chúa lại là lời mời gọi phải giao hòa với Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha nhân lành luôn sẵn sàng chờ đón người con hoang đàng trở về. Luôn tha thứ và phục hồi mọi phẩm gía và quyền lợi cho đứa con hư trở về. Trở về giao hòa với Thiên Chúa là trở về trong vòng tay ấu yếm của Người để nghe được Người nói với chúng ta: Đây là con của Ta.
I. Tìm hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gs 5, 9-12
Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Tại Đất Thánh
Những Người Do Thái đã đến được miền Đất Hứa. Thời gian dài qua sa mạc đã kết thúc. Lần đầu tiên họ cử hành lễ Vượt Qua trong niềm vui sướng hoan hỉ.
Dưới sự hướng dẫn của Giôsuê, người kế vị Môsê, dân Do Thái đã vượt qua Giođan và tiến vào Canaan, tên cũ của Palestina.
Dân chúng mừng lễ vượt qua để tạ ơn Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa họ vào miền đất phì nhiêu. Cuộc sống của họ giờ đây đã được bảo đảm và có hòa bình.
Với Kitô hữu, lễ Vượt Qua hay Phục Sinh luôn mang tính hiện tại. Đây không phải là chuyện đã qua bây giờ ngồi nhớ lại, nhưng với ân sủng bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, Kitô hữu thực sự đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và đi vào Nước Trời, miền Đất Hứa trong tư cách con cái Chúa, để từ đây luôn sống trong hoan lạc và hạnh phúc.
2. Bài đọc II: 2 Cr 5, 17-21
Giao Hoà Với Thiên Chúa
Trong đoạn trích thư thứ hai gửi Tín hữu Corintô này, Thánh Phaolô minh chứng sự tốt lành khôn cùng của Thiên Chúa đã muốn giao hòa nhân loại với Người bằng việc hiến dâng chính người Con Một của mình. Đây là sứ điệp của niềm vui, nhân loại được Chúa yêu thương giao hòa, tha thứ và quên đi mọi tội lỗi.
Đúng ra Thiên Chúa không phải giao hòa với thế gian, chính thế gian, chính con người mới phải giao hòa với Thiên Chúa vì con người bội phản lại Ngài. Nhưng với lòng thương xót vô bờ bến, Thiên Chúa đã chấp nhận chủ động giao hòa với nhân loại.
Để thực hiện việc giao hòa này Thiên Chúa đã cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu, Đấng không hề biết tội đến liên đới với tội lỗi nhân loại bằng việc hiến dâng chính mình trên thập giá để cứu chuộc và đền thay tội lỗi nhân loại, làm cho con người được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sứ mạng giao hòa này, Đức Giêsu Kitô đã trao phó cho Giáo Hội của Người, cho các vị lãnh đạo, các linh mục, nhưng cũng cho tất cả mọi Kitô hữu. Chúng ta những Kitô hữu hôm nay phải biết quan tâm lo lắng làm sao để anh chị em chung quang cũng được ôm ấp trong lòng thương xót của Thiên Chúa, cùng với mình được giao hòa với Thiên Chúa.
3. Tin mừng: Lc 15, 1-32
Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu
Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy ngay trong sự khốn khổ của kẻ tội nhân xuất hiện khuân mặt từ ái của Thiên Chúa: Ngài là một Người Cha giàu lòng thương xót, chỉ biết đón nhận và tha thứ.
Trả lời cho những định kiến sai lầm của những người Biệt phái, Chúa Giêsu trình bày một dụ ngôn nổi tiếng về lòng thương xót, đặc biệt lòng thương xót của người cha dành cho đứa con hoang đàng.
Vượt trên sự phản bội và vô ý thức của người tội lỗi, Thiên Chúa cho thấy lòng thương xót đáng kinh ngạc của Người. Luôn luôn sẵn lòng tha thứ tất cả và còn hơn nữa làm cho tọi nhân có cơ hội quay trở lại và nên công chính.
Lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn ưu ái dành cho mỗi người chúng ta. Kitô hữu có biết đón nhận lòng thương xót của Chúa để trở về khi lỗi lầm hay không? Và đồng thời có biết hiệp thông với Chúa với Giáo Hội trong niềm vui khi một người anh em biết quay trở về với bàn tiệc gia đình Thiên Chúa không? Mỗi người có biết tha thứ và trở nên những thừa tác viên của sứ mạng giao hòa không?
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Giao hòa là chân nhận Thiên Chúa là Cha nhân lành: Không biết khi đòi chia gia tài người con thứ ngoài việc thấy cha mình là người giàu có, thương con chiều con có nhận thấy cha mình là người cha thực sự nhân hậu, giàu lòng tha thứ hay không? Nhưng khi anh hết tiền, bị đói thì anh nhớ đến cha, đến sự đối đãi tử tế mà cha anh dành cho những người đầy tớ. Nên anh quyết định về nhà, anh không dám mơ đến việc cha anh sẽ tha thứ cho anh, mà chỉ mong sao được làm đấy tớ trong nhà thôi vì như thế sẽ không còn bị đói nữa. Nhưng chuyện kỳ diệu đã đến với anh! Người cha vẫn luôn mong ngóng anh trở về, không chỉ tha thứ mà còn phục hồi lại phẩm ghía người con cho anh. Với người cha anh như đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình yêu thương, lòng tha thứ đã bật lên thành niềm vui sướng nơi người cha. Ông là một người cha đầy lòng nhân hậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận biết được Thiên Chúa là Người Cha Nhân Lành. Thiên Chúa là Cha Nhân Lành khi chủ động giao hòa cùng con cái tội lỗi; Người là Cha Nhân Lành khi sẵn lòng tha thứ và làm cho con cái nên công chính hơn. Giao hòa không dừng lại ở việc xin lỗi, sợ bị Thiên Chúa giáng phạt mà giao hòa là phải nhận ra Thiên Chúa quả thực là người Cha Nhân lành hay tha thứ, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung.
2. Giao hòa là biết đón nhận anh chị em: Trong khi người cha vui sướng vì người con hoang đàng trở về thì người anh lại tỏ ra bất bình giận dữ trước niềm vui của cha. Anh không chấp nhận tha thứ và vui đón người em trở về. Anh trở nên so bì với người em, ganh tức với em và oán trách cả cha mình. Quả thật theo tâm lý thường tình thì đa số mọi người sẽ có phản ứng như người anh cả. Tâm lý này thường tình đến độ tất cả đều cho phản ứng ấy là đúng. Có tội thì bị phạt, làm sai thì bị mắng, phung phá thì bị cúp viện trợ là lẽ tất nhiên. Không ai chê trách gì người anh và cũng chẳng ai oán trách người cha nếu như ông từ chối đón nhận đứa con hoang đàng. Thận chí sẽ có người chê ông xử sự như vậy là ngu dại, là làm cớ cho con cái coi thường. Ở đây mới thấy đựơc tình Chúa bao la biết bao. Dụ ngôn này đã giúp khám phá chân dung tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Và tình yêu ấy cũng đòi buộc mọi người phải biết yêu như Ngài. Ngài đã chủ động giao hòa để mọi người chúng ta cũng chủ động giao hòa với những anh chị em xúc phạm đến chúng ta. Không thể coi người anh là người thảo hiếu nếu chỉ biết răm rắp tuân hành ý cha mình mà không biết chia sẻ tình yêu với cha, không biết thương mến tha thứ cho em mình.
Dụ ngôn nhắc nhở Kitô hữu rằng giao hòa không phải chỉ là thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa mà còn là việc cùng với Ngài giao hòa với anh em của mình nhất là khi họ là những tội nhân. Làm sao là con cái Chúa là Cha Nhân Lành khi mà chúng ta khinh thường anh chị em mình, tránh xa những người đang ngụp lặn trong tội lỗi. Nói như Thánh phaolô, chính Kitô hữu được Thiên Chúa trao phó sứ mạng giao hòa; được Thiên Chúa đặt trên môi miệng lời giao hòa. Vì thế, giao hòa là phải biết đón nhận anh chị em mình.
3. Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa: Dụ ngôn người cha nhân hậu cho chúng ta khám phá ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, đặc biệt là người tội lỗi. Dù muốn hay không thì tình trạng tội lỗi luôn đẩy con người vào trong thảm trạng của kiếp nô lệ, nô lệ cho dục vọng tội lỗi, nô lệ cho ma quỉ và kết cục là phải chết. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa thậtt lớn lao biết bao khi Ngài đã sai Đức Giêsu Kitô đến để cứu độ, để giải phóng. Tình yêu của Thiên Chúa đựơc thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã hết lòng chăm lo cho tội nhân, tìm kiếm và mới gọi người tội lỗi trở về. Hơn tất cả Người đã hy sinh mạng sống Người để đền thay tội lỗi nhân loại. Khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa làm cho chúng ta tràn đầy tin tưởng để rồi quyết tâm quay trở về giao hòa với Thiên Chúa. Chúng ta biết rõ thân phậntội lỗi của mình, biết rõ tình trạng nô lệ của bản thân và khao khát đựơc tự do như thế nào. Nhưng chúng ta không bi quan thất vọng vì Thiên Chúa không chê bỏ chúng ta nhưng trái lại còn yêu thương hơn bao giờ hết. Tình yêu ấy thúc bách chúng ta trở về với Ngài, tình yêu ấy giải phóng chúng ta và đưa vào tình trạng tự do của con cái Chúa. Người con hoang đàng trở về chỉ mong được làm gia nhân cho cha để có cái ăn, nghĩa là cách nào đó vẫn thiếu tự do, nhưng người cha đã tha thứ tất cả, đã phục hồi tư cách phẩm giá người con cho anh. Mỗi tội nhân chúng ta cũng vậy đựơc Chúa Cha yêu thương tha thứ qua sự hy sinh của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng thực sự trở nên con cái dấu yêu của Chúa Cha, đồng thừa tự với Người.
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn yêu thương tha thứ và đón nhận con cái lầm lạc trở về với mình. Tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài chúng ta cùng dầng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội qua các vị chủ chăn được Chúa Giêsu Kitô uỷ thác sứ mạng giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Các Đức Giám mục và các linh mục của chúng ta luôn mang lấy tình yêu mục tử của Chúa Giêsu Kitô để chu toàn sứ mạng hoà giải tội nhân của mình.
2. Trên thế giới ngày nay vẫn còn biết bao đau thương, di họa của chiến tranh và lòng hận thù. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc, các Quốc gia đang trong tình trạng chiến tranh biết ngồi lại với nhau, hoà giải với nhau để mọi người được vui hưởng nền hòa bình thực sự.
3. Mỗi người chúng ta cách này cách khác đều là những tội nhân, những người con hoang đàng trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến bí tích Giao hòa, để thành tâm sám hối trở về với Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha Nhận hậu, chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương tha thứ và chờ đợi chúng con từ bỏ tội lỗi và con đường lầm lạc để trở về với Chúa. Xin gia tăng đức tin, lòng cậy trông và lòng mến Chúa nơi chúng con để chúng con thực sự biết hồi tâm quay trở về nên những người con chí ái của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
20. Thiên Chúa nhân từ tha thứ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đa số người đều nhận biết có một Đấng Tuyệt Đối, nhờ Ngài mà vạn sự vạn vật hiện hữu. Ngài vượt trên mọi sự mọi loài, không ai với tới Ngài được, Ngài ở trên trời. “Ông Trời” trong ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ một thực tại siêu vượt, rất gần và rất xa con người. Một số người tức giận khi thấy cảnh bất công mà không thấy Ông Trời can thiệp, nên họ châm biếm “Ông Trời không có mắt”; họ đòi Ông Trời phải can thiệp bênh đỡ người cô thế cô thân bị áp bức bóc lột. Nhiều người hiểu và diễn tả Tuyệt Đối như một người, và đòi Ngài phải hành xử như họ suy nghĩ. Thực ra, con người hữu hạn nên không thể hiểu và diễn tả trọn vẹn về Tuyệt Đối được; hơn nữa, đường lối của Tuyệt Đối không giống như con người: “như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt quá tư tưởng của các ngươi”.
Với dân Do Thái, Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân ra khỏi Aicập, đã giải phóng dân khỏi kiếp nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa là Đấng đã tuyển chọn tổ phụ của họ là Abraham, Isaac, và Yacóp, là Đấng đã can thiệp vào lịch sử của họ qua Môsê, Yôsua, và các tiên tri, là Đấng đã để các nước lân bang thống trị và thậm chí còn bị lưu đầy sang Babylon nhưng cuối cùng Ngài vẫn cứu thoát họ. Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi dân, Thiên Chúa là Thiên Chúa của dân Israel, và Israel là dân riêng của Thiên Chúa. Niềm hy vọng của dân Do Thái là Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi bị sống trong cảnh đô hộ bị áp bức, dân Do Thái luôn trông chờ Đấng được xức dầu (Kitô), Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Thiên Chúa trong Cựu Ước được trình bày như một vị Thiên Chúa công bằng, có chỗ nhấn mạnh như thể Thiên Chúa trừng phạt con người tội lỗi đến ba bốn đời: “cha ăn nho xanh, đời con ghê răng”. Hôm nay trong tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người cha nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người con, để diễn tả tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với con người.
Thiên Chúa yêu thương và tôn trọng con người, như người cha yêu thương và tôn trọng con mình trong dụ ngôn Lc.15, 11-32. Người con thứ đòi người cha chia gia tài; người cha chia gia tài cho anh ta cho dù người con không có quyền đòi hỏi như vậy, dù biết rằng người con đó chẳng chóng thì chầy sẽ bỏ nhà ra đi. Người cha biết con mình một khi bỏ nhà đi sẽ khổ, sẽ mất hết tài sản, nhưng người cha vẫn tôn trọng người con. Người cha rất đau lòng nhưng ông vẫn làm như người con muốn. Thiên Chúa ban tự do cho con người, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người cho dù con người có lạm dụng tự do đó để phản bội Ngài.
Khi người con thứ bỏ nhà ra đi, người cha sống trong niềm hy vọng và chờ đợi. Người cha chờ đợi người con trở về. Chẳng vậy, khi người con thứ còn ở đằng xa, với quần áo xốc xếch và dáng đi rụt rè e ngại, người cha đã chẳng nhận ra con mình. Ông chạy ra ôm người con hoang trở về và hôn lấy hôn để. Người cha vẫn luôn mong đợi người con trở lại, cho dù người con đã xúc phạm đến mình, cho dù người con đã hoang phí biết bao của cải mà người cha đã tốn bao sức lực, với bao vất vả gian lao mới có thể có được. Tất cả những điều đó không quan trọng đối với người cha; điều quan trọng đối với ông, là người con và sự an nguy của anh ta. Thiên Chúa là Đấng hy vọng và chờ đợi tôi hơn bất cứ ai. Với Thiên Chúa, mỗi người là tuyệt đối quan trọng.
Người cha hy vọng mong chờ người con trở về, và rồi sẵn sàng tha thứ cho dù người con chưa nói lên lời xin lỗi. Thiên Chúa mong chờ người tội lỗi trở về, mong chờ họ ăn năn sám hối, để họ được an bình và hạnh phúc. Như người cha năn nỉ người con trưởng vào nhà, Thiên Chúa cũng năn nỉ con người tội lỗi trở lại với Ngài. Hình ảnh Thiên Chúa trong dụ ngôn người cha nhân hậu, thật là dịu dàng, nhẫn nại, bao dung, tha thứ. Người ta thấy Thiên Chúa như thể rất mềm yếu. Thực vậy, chính vì yêu mà Thiên Chúa kiên nhẫn và nhân từ vô cùng đối với con người.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, người ta nhận ra dung mạo của Thiên Chúa thật đặc biệt: Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với con người. Khi phạm tội xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em mình, tương quan giữa con người với Thiên Chúa bị phá hủy, con người không thể tin tưởng nhau được nữa. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa vẫn yêu thương con người vô cùng. Tương tự như người con hoang đàng trở về vẫn được người cha yêu thương và nhận làm con, con người biết Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của con người. Trước khi được tha thứ, người con hoang đàng không biết số phận của mình như thế nào, vì ao ước của anh ta có thể bị từ chối. Tuy nhiên, khi thấy thái độ của người cha, anh ta nhận ra cha anh là người rất tuyệt vời.
Hôm nay vẫn cần những trung gian để trình bày cho con người thấy dung mạo tuyệt vời của Thiên Chúa: Đấng yêu thương con người vô cùng. Thánh Phaolô đã nói với những người Ngài rao giảng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ và mong ước con người trở lại. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa đi” (2Co.5, 20). Thiên Chúa yêu thương con người, và điều này có thể được thấy qua việc Thiên Chúa mong con người, cần con người trở lại với Ngài. Yêu ai thì cần người đó. Thiên Chúa yêu tôi nên Ngài cần tôi, Ngài cần tôi vì Ngài yêu tôi. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần ai cả, Ngài hạnh phúc với chính Ngài; không cần ai làm gì để Ngài hạnh phúc; Ngài là hữu thể tròn đầy, không ai làm Ngài mất hạnh phúc được. Tuy nhiên, Thiên Chúa được tôn vinh hơn khi tôi triển nở và hạnh phúc; Ngài hạnh phúc khi tôi hạnh phúc. Chính vì yêu mà Ngài cần con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người đến độ không thể hiểu được: Ngài dám ban Con Một của Ngài cho con người, Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người, để giúp con người nhận ra tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với bạn, từ ngữ hay hình ảnh nào diễn tả tuyệt nhất về Thiên Chúa?
2. Bạn được gì khi tin rằng Thiên Chúa yêu thương bạn?
21. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Kính thưa ông bà anh chị em! Mùa chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta sám hối trở về. Hôm nay, qua bài Tin Mừng mà thánh sử Luca tường thuật, Chúa Giêsu cho ông bà anh chị em hiểu trở về để được ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, người con thứ sau khi xài hết tiền, phải đi làm mướn để sống nhưng vẫn đói. Anh nhận ra tình trạng khốn khổ của mình và quyết tâm trở về với cha. Ích lợi mà anh hướng đến là xin làm đầy tớ để được ăn no, một mong muốn hoàn toàn vật chất. Nhưng thực tế, khi trở về, anh nhận được điều gì? Phúc Âm cho ta thấy, anh nhận ra cha chờ anh từ xa, chạy lại ôm cổ anh, hôn anh hồi lâu. Nhưng trong lúc đang hôn hồi lâu ấy, anh hiểu ra chuyện đói no đối với mình không còn quan trọng nữa, không cần phải xin nữa vì anh đã nhận được thứ quý giá gấp trăm ngàn lần, đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi đón nhận tình thương quá sức tưởng trong vòng tay của cha mình.
Kính thưa ông bà anh chị em! Trở về với Chúa không phải để được Chúa ban làm ăn khắm khá, thăng quan tiến chức, được khỏi bệnh, thoát cảnh nghèo, hết cảnh khổ nhưng để được sống một cuộc đời Kitô hữu có Chúa thật sự sống trong vòng tay yêu thương, sống trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là đủ, tất cả những thứ khác không cần thiết, không quan trọng nữa. Con nói như vậy, chắc có một số trong ông bà anh chị em thắc mắc, mình nghèo, mình khổ thấy mồ, muốn trở về với Chúa để thay đổi hoàn cảnh mà lại bảo Chúa thương là đủ, làm sao người ta chấp nhận được? Bây giờ, chúng ta cùng quay về với Lời Chúa hôm nay để tìm câu trả lời.
Đứa con thứ trở về được cha ôm vào lòng, lập tức cha sai đầy tớ mặc cái áo đẹp cho cậu, đeo nhẫn vào tay cậu, mang giày vào chân câu. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, cái áo tượng trưng sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng sự thay thế quyền bính, mang giày nói lên dấu hiệu một đứa con. Như vậy, những thứ đồ đạc cần thiết của một đứa con, người cha đã trao lại cho người con thứ, cũng đồng nghĩa với tha thứ và sẵn sàng đón con vào nhà. Trong đời sống đạo của ông bà anh chị em cũng vậy, một khi chúng ta hối cải trở về với Chúa và nhận ra mình đang sống trong vòng tay, trong lòng thương xót Chúa thì Thiên Chúa cũng sẽ trả lại cương vị đứa con thừa tự Nước Trời cho chúng ta vốn bị đánh mất do tội, hạnh phúc thiên đàng Chúa sẽ trao ban. Khi đó, mục đích sống đạo của mình đã đạt được, đã thành công. Như vậy, ở trong vòng tay yêu thương của Chúa không phải là đầy đủ lắm sao thưa ông bà anh chị em?
Vậy thì đến với Chúa, phần thưởng thiên đàng được ban mà cuộc sống hiện tại vẫn khổ hoài thì tính làm sao? Ông bà anh chị em đừng quá lo lắng vì khi người con thứ được trao lại cương vị làm con thì cái nó muốn là ăn no dĩ nhiên cũng được đáp ứng, làm con thì muốn ăn thứ gì không được. Do vậy, chúng ta hãy can đảm trở về bên Chúa và trình bày với Chúa hoàn cảnh của mình, con tin rằng Chúa cũng sẽ sớm nâng đỡ ông bà anh chị em, vì Chúa cũng từng hứa: “hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, các thứ khác Chúa sẽ ban cho”.
Nhưng bây giờ, ông bà anh chị em phải trở về bằng cách nào đây? Cách thì có nhiều lắm: mau mắn đi xưng tội trong mùa chay này, đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, nhớ tới Chúa trong ngày sống của mình. Vấn đề quan trọng không phải là cách trở về nhưng là với hoàn cảnh sống hiện tại nhiều trở ngại, ông bà anh chị em có muốn trở về và có dám can đảm trở về hay không?
Trong khi ông bà anh chị em đang trên đường trở về với Chúa trong mùa chay này, xin được nhắc lại với ông bà anh chị em một ích lợi lớn lao chúng ta sẽ đạt được, đó là phần thưởng thiên đàng đó thưa ông bà anh chị em.
22. Người Cha tuyệt hảo – AM Trần Bình An
Sau tiếng gọi cửa nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh nhà thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn. Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mặc Đăng Mừng đã từng bị bệnh down từ khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội, đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường ĐH Văn Lang với chuyên ngành đồ họa.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ (bố của Mừng, 66 tuổi) vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kì thi thể dục thể thao. Bắt đầu câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An (66 tuổi) cưới nhau vào năm 1970, sinh được Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc bệnh down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng đồng. Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường”. Những ngày đầu tiên cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng kí cho con học, nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn ở nhà thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.
“Khi đó tôi gõ cửa nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn, thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng tâm sự. Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học, rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở trường đại học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con. Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kĩ thuật viên đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt và tăng tính tư duy hơn. (Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ)
Người cha kể trên chứa chan tình phụ tử, mới kiên nhẫn suốt 27 năm dạy dỗ, huấn luyện đứa con bệnh hoạn nên người hữu dụng, thật đáng khâm phục. Nhưng còn có một Người Cha tuyệt vời hơn thế nữa, luôn thương yêu, thương nhớ, thương xót con cái ngay từ khi lọt lòng mẹ đến trọn cả cuộc đời. Đó chính là Người Cha Tuyệt Hảo ở dụ ngôn trong Tin Mừng Luca hôm nay.
Đức Giêsu chuẩn bị rất chu đáo trước khi bắt đầu thuật dụ ngôn này. Người cẩn thận giáo đầu bằng hai dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền bị đánh mất, tha thiết mời gọi lòng ăn năn, sám hối. Vào nội dung chính, Đức Giêsu phác hoạ chân dung Người Cha Tuyệt Hảo, tràn trề tình yêu dành cho hai người con, mặc dù cả hai người đều không cảm nghiệm thấu đáo tình phụ tử vĩ đại đó.
Thương yêu
Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Không hề can ngăn, thắc mắc, khó dễ, lưỡng lự, Người Cha yêu thương con quá đỗi, sẵn sàng chiều theo ý con, mặc dầu Người Cha nhìn thấy tương lai đen tối, mịt mù của con. Người Cha thương yêu ban cho con đầy đủ tài sản, hình hài, tâm trí, lẫn linh hồn. Hơn thế nữa, Người còn ưu ái trao thêm sức mạnh, tài năng, nghị lực, ý chí, chẳng thiếu thốn chi cả. Chàng trai thứ hăm hở vào đời chinh phục lợi danh, chinh phục địa vị, chinh phục cả những bóng hồng. Thế nhưng, chẳng bao lâu, chính chàng lại bị thế gian khắc phục, bị chế ngự bởi tiền tài, chức tước, lợi lộc, đam mê, hưởng thụ. Chàng trở nên nô lệ cho thân xác, vật chất, thế gian.
Tuy Đức Giêsu đã khẳng nhận: “Ai phạm tội thì thành nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, (chỉ) người con mới được ở luôn mãi.” (Ga, 8, 34-35), nhưng tình phụ tử cao cả vẫn tìm cách cứu vãn con người khỏi thân phận nô lệ: “Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự tự do.” (Ga 8, 36) Vì thương yêu, Thiên Chúa Cha ban chính Con mình, là Đức Giêsu nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chịu chết để cứu chuộc, nhân loại mới thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, trở lại làm con Chúa.
Thương nhớ
Mặc dù thương con vô ngần, Người Cha đành gạt nước mắt, thổn thức nhìn con ra đi, trái tim Cha rướm máu đào, cũng đành nín thinh, cam chịu. Khi con đi xa rồi, Người Cha thương nhớ con da diết, ngày ngày đều ra đầu ngõ lóng ngóng, mong tin con, chờ đón con về. Chàng trai thứ trở về thật, vì sa cơ thất thế, vì chẳng còn chốn nương thân, cũng chẳng có gì có thể làm dịu cơn đói khát dai dẳng bao tháng ngày. Chỉ còn con đường sống duy nhất là trở về với Người Cha thân thương.
Có lẽ chàng trai nghe được lời mời gọi thương nhớ của Cha: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. (Mt 11, 28) Chàng dứt khoát trở về nhà Cha.
Anh ta còn ở đằng xa, thì Người Cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Ôi giây phút trùng phùng hội ngộ, những giọt nước mắt nóng bỏng, vui sướng, lăn trên gò má nhăn nheo, dãi dầu mưa nắng mòn mỏi đợi chờ.
Thương xót
Nhìn thấy con thảm hại, rách rưới, gầy gò, ốm yếu, xanh xao, Người Cha chạnh lòng thương xót, không kịp để con nói hết lời tạ tội, đã chủ động chạy đến ôm hôn con, vội sai gia nhân mang áo mới, nhẫn ngọc, giầy da cho chàng. Giải thoát chàng khỏi kiếp vong thân, nô lệ, phục hồi lập tức phận làm con cho chàng. Rồi Người hân hoan mở tiệc, mời hàng xóm láng giềng đến chung vui, bởi “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Làm sao diễn tả nổi niềm vui tưng bừng trên Thiên Quốc, khi có người hoán cải hồi hương. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15, 10)
Nhưng cuộc vui chưa được trọn vẹn, khi người anh cả cố chấp, đố kỵ, hẹp hòi, không thèm nhận lại người em hoang đàng trở về. Anh giận dỗi không chịu vào nhà dự tiệc. Như vậy, tuy ở nhà với Cha, nhưng người anh cả gần mặt cách lòng, tâm hồn đi hoang từ lâu. Làm sao hiểu nổi Lòng Thương Xót vô ngần của Người Cha.
Vậy người anh cả có vâng lời Cha, đón tiếp em mình, hay người em có thật lòng yêu thương và trở lại mãi với Người Cha và anh? Dụ ngôn vẫn còn bỏ ngỏ cái kết hoàn toàn có hậu, thiếu vĩ thanh. Bởi vì Đức Giêsu muốn mời gọi từng Kitô hữu, sẵn sàng nhập vai vào hai người con, cùng diễn tả cuộc đoàn tụ, hiệp nhất, yêu thương, bình an và hạnh phúc trong nhà Người Cha Tuyệt Hảo.
Mới đây, ĐGH Phanxicô giới thiệu về Người Cha với mười lăm trẻ em từ khắp thế giới, trong buổi gặp gỡ chiều thứ hai, 22-02-2016, tại thính phòng Phaolô VI: “Đừng sợ nếu con lỡ phạm tội. Tình yêu của Chúa Giêsu lớn hơn hết mọi sự, cứ đến với Chúa và để Chúa ôm con.”(JB Thái Hoà, Andrea Tornielli, Vatican Insider)
“Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu, mà người ấy tập yêu suốt đời.” ( Đường Hy Vọng, số 462)
Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin dủ lòng thương xót chúng con, vốn như hai người anh em trong dụ ngôn, người bỏ nhà ra đi hoang, người ở nhà mà xa cách Cha. Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng con biết quy hướng về sự thiện, tốt lành, thánh đức, để chúng con can đảm từ bỏ cám dỗ, thế gian, xác thịt, mà ăn năm sám hối trở về tình yêu của Người Cha Nhân lành, để chúng con biết khoan dung hầu được tha thứ, biết cho đi hầu được lãnh nhận, biết yêu thương để được hưởng Lòng Thương Xót.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ luôn gần gũi, đồng hành với Con Mẹ, xin Mẹ đừng để chúng con xa rời Chúa, đừng nghe theo đam mê, dục vọng, tiền bạc, danh vọng mà bỏ nhà Cha Nhân Lành. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết sám hối trở về, biết yêu thương tha thứ cho nhau, để luôn được sống trong tình yêu Chúa. Amen.
23. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy
ĐƯỜNG CỦA CON NGƯỜI và ĐƯỜNG CỦA THIÊN CHÚA
Dụ ngôn “ Người cha nhân hậu” trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ
Con đường của người con cả.
Và con đường người cha đi gặp người con cả.
Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.
Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.
Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha!
Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ – với sự tự do không có cha – đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.
Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v… Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng!
Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột!
Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha!
Thứ hai: con đường của người con cả – một con đường rừng!
Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.
Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: “ Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm…!” Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: “ Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy…!” Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.
Thứ ba: Con đường của người cha!
Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết… Nhưng tao tha cho lần này là lần chót…! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con! Ðó không phải là “ chiến thuật” sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.
Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau!
Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:
1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.
2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.
3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.
Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.
24. Lòng Cha trời cao biển rộng – AM. Trần Bình An
Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên TP.HCM đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.
Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.
Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho… muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” (Người Lao Động)
Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, (Lc 15, 11- 32) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.
Đi hoang trở về
Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15, 18-19)
Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang ưu uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.
Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến Cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của Cha, khiến cho đôi chân lãng tử quay trở về.
Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. (1Cr 13,8b-10).
Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chở đợi tôi tha phương, trở về nương tựa? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân?
Đi hoang ở nhà
Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà, đang rộn rã niềm vui tái ngộ.
Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con,” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.
Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng!
Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng:“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).
Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được?
Người Cha Nhân Lành
Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.
Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho con thứ, dù biết chàng sẽ phung phí ăn chơi sa đọa. Người vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả, nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui.
Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15, 22-24)
Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc.” (Lc 15, 6) Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” (Lc 15, 9)
Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con”, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…
May thay, bí tích hòa giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.
Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. (Đường Hy Vọng, 664)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.
25. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Suy niệm:
Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui, hay còn gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ đầu của bài Ca Nhập Lễ trích từ sách ngôn sứ Isaia 66,10-11: “Vui lên nào Giêrusalem hỡi…”. Niềm vui của Chúa Nhật IV Mùa Chay là đã đi được nửa chặng đường của việc giữ Mùa Chay Thánh…
Bài đọc I mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đã cho Dân Người tiến vào đất mà Thiên Chúa đã hứa. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với dân Do Thái. Niềm vui ấy được tiến triển trong Tân ước. Bài đọc II cho chúng ta thấy, nhờ Chúa Kitô mà con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha.
Thực ra, người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái thành người, sống đúng với Đạo Trời. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chứ chưa nghĩ về việc con cái có thể phụng dưỡng được mình hay không. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về một gia đình người cha nhân hậu đối xử với hai đứa con trai đáng cho chúng ta liên hệ về chính mình.
Theo truyền thống văn hóa Á Châu, con cái chỉ đề cập đến việc chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời, hoặc nếu khi cha mẹ còn sống thì chính người cha người mẹ muốn chia gia sản cho con cái mới là lẽ thường. Còn việc con cái đề nghị cha mẹ chia gia tài ngay lúc các ngài còn sống thì chẳng khác gì trù cho cha mẹ chết, và sẽ bị xem là nghịch tử. Dầu vậy, người cha trong đoạn Tin mừng vẫn rất mực thương con, sẵn sàng chấp nhận đề nghị của con, ông chia cho cả hai đứa con.
Nhận được gia tài, thay vì phụng dưỡng cha, người con thứ để mặc người cha già lủi thủi ở nhà. Nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng. Đến khi hết tiền hết bạc, nó phải chăn heo, loại động vật mà văn hóa Do Thái xem là dơ bẩn và họ không chăn heo và cũng không ăn thịt heo bao giờ. Người con thứ lâm vào cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.” Hậu quả của việc phung phí gia sản đã dẫn người con đến sự cùng tận của kiếp người, sống không ra người.
Người con thứ dự tính trở về mái nhà của cha không phải vì thương cha mà là vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Lúc gặp khốn cùng, con người mới nghĩ về Thiên Chúa, chạy đến với Ngài. Nhưng lắm khi những điều con người ta suy tính trong lòng chỉ là vụ lợi, việc cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng. Dẫu vậy, Thiên Chúa chấp nhận một cuộc trở về không hoàn hảo, vì Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.
Lẽ thường của một người cha hẳn là rất giận đứa con, có thể không nhìn mặt, hay ít ra cũng chửi cho nó một trận. Nhưng người cha trong câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa nhân từ đến tột cùng. “Anh ta còn ở đằng xa, cha anh chợt trông thấy, liền động lòng thương” Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, hằng ngày người cha tựa cửa mong ngóng đứa con trở về, và còn ra cả góc phố đi đi lại lại trông đợi con và hy vọng con sẽ quay về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của người con còn thấp thoáng từ xa, ông đã trông thấy. Đoạn Tin mừng mô tả người cha “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Đâu rồi một người cha theo văn hóa Đông Phương với định kiến “kính nhi viễn chi”, nào là phải có vẻ mặt cương quyết, khuôn phép uy nghiêm, cử chỉ từ tốn. Nhưng không, người cha chạy tới ôm con như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về, tiếng nói của con tim khiến ông bỏ qua mọi khuôn phép vốn có.
Người con thứ dự định một bài diễn văn thật dài gồm hai phần: phần thứ nhất là “con đáng tội với trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”, và phần thứ hai là “xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Quả thật, tục ngữ có câu: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng dầu người con cái trong gia đình có như thế nào thì đối với cha mẹ, con vẫn là con, vẫn là đứa trẻ non nớt mà mình phải bao bọc. Chính vì thế mà người cha đã cắt ngang, không cho anh nói phần thứ hai để tránh cho anh sự nhục nhã, và cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông phục hồi lại địa vị làm con của người con thứ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” Việc người con trở về đáng để vui mừng: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Ông sẵn sang thứ tha để mở cánh cửa cho con mình trở thành một con người mới, có một khởi đầu lại.
Liệu người cha có thiên vị tình thương dành cho người con thứ không? Người con cả nghĩ như thế, nên anh căm phẩn trách cứ cha. Hẳn là chúng ta cũng đồng cảm với người anh. Nhưng cùng nghe kỹ lại xem: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Những lời trách cứ này là những lời đạo mạo của người Pharisêu tự kiêu xem mình tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, coi mình tốt lành và sẵn sàng lên án tội lỗi của người khác một cách không thương tiếc. Người con cả sống với cha nhưng anh đâu coi ông là cha của mình mà như tương quan ông chủ với đầy tớ, vâng lời cha mà như là thi hành lệnh của chủ, sống với cha mà đếm từng năm tháng, và kể công trách móc cha.
Tệ hơn nữa, anh dùng từ “còn thằng con của cha kia”, vì tính ghen tỵ nhỏ nhen, anh sẵn sàng cắt đứt tình anh em với người em mình khi nó hoạn nạn, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh cắt đứt tình cha con. Anh đang ở nhà đó, nhưng lòng anh đã ra đi, vì thế anh cũng cần phải sám hối và quay về.
Cách xử sự của người cha dành cho người con thứ đi hoang thế nào thì ông cũng xử sự bao dung với đứa con cả ganh tỵ như thế. Với giọng nhất mực trìu mến, người cha nói với con đầy tâm tình: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con”. Đây là một lời đầy tế nhị để nhắc khéo cho cậu rằng ông cần “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Ông yêu thương, chẳng tiếc gì với con thứ, thì cũng vậy, những gì của ông cũng là của con cả.
Xét mình trong mùa Chay Thánh này, chúng ta nhận thấy dáng vấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua gia đình, xóm làng, đồng nghiệp, giáo xứ, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta làm biếng cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lại phạm tội trọng mất lòng Chúa. Có khi chúng ta thấy dáng vấp của chúng ta nơi người con cả kiêu ngạo, ích kỷ, xét đoán, nói xấu, ghen ghét anh chị em mình. Nhiều lúc chúng ta cũng tưởng rằng mình đang giữ đạo rất tốt, tham dự Thánh lễ Chúa nhật đều đặn, giữ Mười Điều Răn chỉ vì sợ Chúa phạt… Chúng ta cần nhìn lại thái độ sống của mình với Chúa trong tương quan cha-con hơn là nghĩ đến việc xét xử, bằng không chúng ta chỉ sống giữ luật vì sợ sệt hơn là yêu mến.
Người cha năn nỉ người con cả bước vào tham dự niềm vui đoàn tụ. Vậy chúng ta hãy tự trả lời cho câu hỏi: Người con cả có chịu bước vào nhà không? Mùa Chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa, làm hòa với anh chị em, nối lại sự nguội lạnh trong đời sống gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa tình anh chị em với nhau. Amen.
26. Người con cả là chúng ta
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ một mình thánh Luca ghi lại, với 2 câu hỏi: (1) Tại sao lại để mắt tới người con cả? (2) Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ, thái độ như người con cả này?
1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?
– Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý- khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nói…): “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo để ăn mừng nó!” Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên đàng những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói:”Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế, tội lỗi, đĩ điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Chúng ta, những người đạo gốc –đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa– chịu thương chịu khó dậy sớm đi lễ, tối đến đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục…, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được (ở đây tôi không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong – chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!).
Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn hôm nay, nên vẽ bức tranh này như sau: “Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha… Còn người cha là một cụ già đáng kính, toả sáng, tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều . Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, người nghiêng một bên, nhắm một mắt, tất cả thái độ của anh ta như toát ra lời trách móc người cha yếu đuối, nhu nhược. Mái tóc của anh làm nổi rõ vầng trán hẹp, cặp lông mày nhướng lên, đôi môi mím lại, chẳng đẹp gì… và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con họ.
Đó, thái độ của chúng ta, -tôi không vơ đũa cẳ nắm-, nhưng hầu như phần đông chúng ta, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.
2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?
Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày làm công, ai nấy đều được 1 đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: “Hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ?” Ngoài câu trả lời này, thì dựa theo đoạn thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình) – đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với “con của cha”. Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại, có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh đàn chị trong đức tin đối với người khác (người chưa Đạo)… hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.
Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật “mắt đền mắt, mạng đền mạng” được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin. Thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: “Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn!” Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: “Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.” Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: Lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.”
Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ “trung tín” (vì ở mãi với cha), nay nếu thêm lòng “quảng đại” nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự “khoan dung tha thứ” của Người Cha đối với đứa em.
Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà nhân từ nữa. Kinh Tin Kính mà chúng ta sắp tuyên xưng –một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói nhân từ, nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ trong đó mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng nhân của Chúa đối với con người hèn yếu chúng ta. Amen.
27. Trở về với Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)
Dụ ngôn người cha nhân hậu trong trang Tin mừng chúa nhật hôm nay cho thấy sự cần thiết của việc trở về cùng Thiên Chúa.
Người con thứ sau khi đã phung phí hết tài sản, đã đi vào đường cùng của sa đoạ, đã đánh mất đi phẩm giá của một con người qua việc thèm khát những thức ăn của bầy heo. Nay anh đã hồi tâm, ước mong thay đổi thái độ sống, muốn quay trở về với người cha nhân hậu của mình.
Và thực sự, anh ấy đã thực hiện thật nghiêm túc với điều mà mình mong muốn. Khi trở về với người cha, người con thứ đã bộc lộ sự khiêm tốn xuất phát từ chuỗi ngày quá khứ đen tối mà anh đã kịp nhìn nhận, khi anh thưa cùng người cha:” Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa…”(Lc 15,21)
Trước thái độ hối cải của người con, chúng ta hình dung như thế nào về tâm trạng của người cha trong lúc này? Đó là sự đón tiếp mừng rỡ hơn xua đuổi, đồng thời niềm vui sướng của người cha trong lúc này đã làm cho ông quên đi gánh nặng đau khổ mà hôm nay chính đứa con này đã gây ra cho ông. Nói chung tâm trạng của người cha trong lúc này chỉ có một điều là vui mừng. Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Thế nhưng bao nhiêu cử chỉ ấy cũng chưa đủ nói lên niềm vui nơi người cha nhân hậu mà chúng ta bắt gặp trong bài dụ ngôn thật độc đáo của chúa nhật hôm nay. Vì nguyên nhân sâu thẳm để người cha có được niềm vui thật sự là khi thấy người con tội lỗi không thất vọng về tình thương và ơn tha thứ của mình. Chắc hẳn thái độ hy vọng vào lòng thương xót của người con đối với cha, còn quý hơn sự hiện diện của anh ấy trước ánh mắt nhân từ người cha.
Thực ra thái độ không thất vọng vào tình thương của Thiên Chúa, không phải chỉ có trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể đâu. Nhưng trong thực tế đã có rất nhiều những mẫu gương nhờ lòng cậy trông và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà họ đã trở nên thánh. Ta thấy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ của Chúa, ông đã sám hối và được ơn biến đổi. Sau này vẫn được Chúa chọn làm trưởng Tông đồ đoàn. Phaolô trước khi trở thành tông đồ của dân ngoại thì ông đã bắt bớ và giết các tín hữu không nương tay. Nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ Phaolô vẫn được Chúa chọn làm tông đồ để thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Augustinô sau thời gian dài ăn chơi buông thả, nhưng nhờ tin vào ơn tha thứ của Chúa, nhờ những dòng lệ thành tâm hối hận, Augustinô đã được Chúa chọn làm Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Và còn biết bao nhiêu chứng nhân hy vọng khác nữa…
Đã là người thì ai cũng có tội. Đó là thân phận chung của con người. Nhưng chúng ta còn có lối thoát để được bình an với lương tâm và hạnh phúc trong nước Thiên Chúa. Lối thóat đó Chúa đã vẽ ra cho chúng ta, và Chúa đang chờ chúng ta ở cuối lối mòn này. Lối thoát ấy chính là đường hy vọng vào tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Khi ta đánh mất đi niềm hy vọng vào ơn tha thứ và tình thương hải hà của Thiên Chúa, thì kể như đời ta đã bế tắc, đi vào đường cùng của sự diệt vong, sự sống tương lai sẽ không còn hy vọng.
Vì thế, Cha Charles De Foucauld có để lại mấy dòng sau: “dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng điều đó… Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nan của con. Chúa không cho con nói: Tôi không thể đi tới được đường lên trời, khó khăn quá tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp… Vậy Chúa muốn con phải cậy trông luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa”.
Như vậy thật may mắn cho chúng ta, vì bao nhiêu lần gục ngã do tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền hướng về hạnh phúc tương lai đang chờ ta. Hạnh phúc đó lệ thuộc vào ta, khi trên hết mỗi người đừng đánh mất trước lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng đánh mất trước sự quảng đại ban ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối chúng ta khi chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Vì Thiên Chúa không nỡ lòng bẻ gẫy cây sậy đã dập và cũng không nhẫn tâm dập tắt tim đèn còn khói.
Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng hạnh phúc Thiên đàng thì con người lại càng khao khát và mong muốn hơn, và Thiên Chúa rất mong chúng ta có được hạnh phúc đích thực này.
Chúng ta sẽ có hạnh phúc khi chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa biết đặt tất cả lòng cậy trông vào ơn tha thứ vô tư của Thiên Chúa. Nói chung ta không được phép thất vọng về lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Chúa chỉ dựng lên chúng ta một lần, nhưng ơn tha thứ cho những người trông cậy nơi Chúa thì Ngài vẫn tha thứ mãi, tha thứ vô điều kiện. Như vậy đón nhận ơn tha thứ của Chúa thường xuyên nơi Bí tích giải tội, hay trong những ngày còn lại của mùa chay thánh này, sẽ là lời minh chứng để nói lên tâm hồn chúng ta còn co hy vọng và tin tưởng nơi ơn tha thứ của Chúa hay không?.
28. Thiên Chúa- Đấng vô cùng nhân từ
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Giêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.
Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa
Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.
Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.
Con người mới trong Đức Kitô
Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Giêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hóa cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.
Ơn thánh hóa, làm con người giao hòa với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.
Thiên Chúa như người cha nhân từ
Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.
Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.
Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?
29. Hãy mau trở về cùng Chúa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vì xích mích với gia đình hàng xóm, anh Năm bị một tên côn đồ, thuộc diện xã hội đen do người hàng xóm thuê mướn, xông đến gây sự và chặt đứt cánh tay. Nhìn máu từ cánh tay bị chặt phun ra cuồn cuộn, nhìn cánh tay bị đứt lìa nằm bất động dưới đất, anh Năm hết sức kinh hoàng, vô cùng đau đớn và tiếc nuối. Sau vài phút, anh ngã xuống trên vũng máu và ngất đi. Thế là từ đây, anh bị mất đi một phần thân thể quan trọng, từ đây anh trở thành người cụt tay, một người tàn phế…
Ngày 13/4/2007, đài BBC đưa tin: Ông Chang Po – yu, một bác sĩ thú y làm việc tại vườn thú Shoushan, thành phố Cao Hùng, Đài Loan, bắn thuốc mê vào một cá sấu thuộc giống hung dữ, nặng đến 200 kg, để chữa bệnh cho nó. Yên trí cá sấu đã bị mê vì thuốc, ông thò tay rút ống tiêm ra. Thình lình, con cá sấu quay đầu và ngoạm luôn cánh tay của ông.
Nhìn cánh tay của mình nằm gọn trong miệng cá sấu, ông Chang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, vô cùng tiếc nuối và đau đớn khôn cùng. Đây là nỗi đau thương mất mát khủng khiếp nhất đời.
Thiên Chúa rất đau lòng khi ta phạm tội
Nỗi đau thương của anh Năm, người bị cắt đứt mất cánh tay trong vụ xung đột trên đây, nói lên phần nào nỗi đau thương khôn nguôi của Thiên Chúa khi Người đánh mất chúng ta là một chi thể rất yêu quý của Người.
Từ ngày lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Giêsu và trở nên một chi thể của Người. (giáo lý công giáo số 1267)
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở chúng ta nhìn nhận sự thật quan trọng nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?” (I Cr 6, 15)
Thế nhưng tội trọng như một nhát dao ác nghiệt cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa, gây ra một hậu quả kép rất đau thương: Về phía mình, chúng ta trở nên như cành nho lìa cành, như bàn tay đứt lìa cơ thể; về phần Chúa, Người trở thành “khuyết tật” vì mất một phần cơ thể rất thân thương!
Như bàn tay lìa thân thì phải hư thối và phải chết thế nào thì Người tội lỗi tách lìa Thiên Chúa cũng gánh lấy hậu quả tương tự: họ trở nên hư hỏng, mất đi phẩm chất cao đẹp và đánh mất sự sống thiêng liêng được Thiên Chúa thông ban từ ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy.
Hậu quả nầy được Chúa Giêsu minh họa bằng hình ảnh đứa con út hoang đàng trong tình trạng đói rách thảm hại, ngày ngày sống giữa đàn heo bẩn thỉu và cầu mong được ăn bớt phần của heo nhưng chẳng ai cho. (Lc 15, 14-16)
Như bàn tay bị cắt lìa thân không thể hoạt động và không mang lại lợi ích gì cho thân thể thì người tội lỗi cũng không thể lập được công đức gì, cho dù có làm được những việc to tát lớn lao. Theo thánh Phao-lô thì khi ở trong tình trạng tội lỗi, dù có nói được các thứ tiếng của loài người và thiên thần, có nói tiên tri và biết nhiều điều bí nhiệm, có chuyển núi dời non hay đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hoặc nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt… thì cũng chẳng đạt được ơn phúc gì. (Cr 13, 1-3)
Thiên Chúa rất mừng vui khi người tội lỗi trở lại với Người
Trở lại phần cuối câu chuyện anh Năm bị cắt đứt lìa cánh tay trên đây.
Khi phát hiện ra anh Năm nằm bất tỉnh bên cạnh cánh tay đứt lìa, những người hàng xóm tốt bụng vội chạy đến cứu anh. Người ta cầm máu vết thương đang rỉ máu, lau rửa thật sạch và khử trùng vết chém; người khác nhặt cánh tay anh lên, lau rửa sạch sẽ rồi cho vào thùng đá ướp lạnh. Người khác nữa vội gọi xe cấp cứu đến và giục xe phóng nhanh vào bệnh viện chuyên khoa tận Sài gòn hòng cứu chữa anh, với hy vọng là đến kịp bệnh viện trong vòng 7 tiếng đồng hồ thì các bác sĩ có thể ráp nối lại cánh tay cho anh được.
May thay, anh đã được cứu chữa kịp thời. Các bác sĩ giỏi đã ráp nối lại cánh tay cho anh, ghép lại xương, nối lại mạch máu và chăm sóc chu đáo.
Sau hai tháng điều trị, anh xuất viện và cánh tay anh có thể hoạt động bình thường. Bấy giờ anh Năm cảm thấy rằng chẳng có niềm vui nào trong đời lớn hơn niềm vui có lại cánh tay tưởng như đã mất.
Niềm vui có lại được cánh tay của anh Năm cũng diễn tả đúng niềm vui của Thiên Chúa khi có người tội lỗi ăn năn hối cải trở lại với Người.
Niềm vui đó được Chúa Giêsu diễn tả qua Tin Mừng hôm nay như sau: Người cha sai bảo các tôi tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.”
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa vô cùng đau đớn khi chúng con phạm tội trọng xa lìa Chúa và Chúa quá đỗi mừng vui một khi chúng con sám hối, ăn năn trở lại với Ngài.
Khi phạm tội xa lìa Chúa, xin giúp chúng con mau mau quay lại với Ngài như cánh tay đứt lìa phải được cấp tốc tháp nối lại với thân mình để Chúa khỏi đau buồn tiếc nuối vì mất đi một chi thể thân thương và để chúng con không trở thành “cánh tay chết” vì phải xa lìa Chúa là nguồn ban sự sống thiêng liêng cho chúng con.
30. Tình cha
“Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con nữa. Xin cha coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15,19).
Lewis Copeland có kể một câu chuyện như sau:
Một người cha muốn răn bảo đứa con có tật xấu đi chơi khuya, ngủ dậy trễ. Ông nói:
– Con sẽ chẳng làm được trò trống gì, nếu không biết sửa đổi. Hãy nhớ rằng con chim dậy sớm mới bắt được sâu.
– Nhưng con sâu ấy thì sao hả bố? Chẳng phải là ngu ngốc khi dậy quá sớm sao?
Bố nghiêm giọng bảo:
– Bởi con sâu ấy cả đêm không ngủ, mà nó đang trên đường trên đường về nhà.
Thằng nhỏ xem ra thông minh. Nhưng người cha thì khôn ngoan hơn. Ông thật nhạy bén ứng phó khiến thằng con phải tâm phục khẩu phục. Ông dạy con rất khéo, nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Nói đến câu chuyện “Người cha nhân hậu” của Chúa Nhật IV mùa chay này chắc là không ai trong chúng ta không biết. Người cha ấy không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. “Con sâu cả đêm không ngủ” đang lần mò quay về trong cái tấm thân tàn ma dạy, trong cái nỗi lòng hối hận như kim đâm muối sát ấy, là người con thứ và cũng là chính chúng ta.
Tôi nhận thấy người cha trong câu chuyện này đánh một ván bài quá đậm. Ông dạy con bằng cách chia cho nó cả một tài sản lớn, cho nó tự do tung cánh thế nào tuỳ ý, chơi bời thế nào mặc tình. Con làm như thế cha đau lòng lắm. Nhưng vì tôn trọng tự do của con mà người cha phải chấp nhận để điều không tốt xảy ra. Để rồi sau cái kinh nghiệm vấp ngã đau thương, người con sẽ hiểu được thế nào là tình yêu, thế nào là tội lỗi. Nhưng có điều tôi hơi tiếc là tại sao người con thứ lại không nhận ra được tình yêu của cha dành cho anh cả trước, trong, và sau khi anh phạm lỗi? “Điều gì của cha là của con”. Anh không cần đòi chia gia sản làm gì. Nó vẫn thuộc về anh. Cha anh vốn vĩ chỉ có hai người con thôi, và ông cũng không phải là người nghèo khó. Anh đương nhiên được thừa kế khối gia tài thuộc phần mình. Rồi sau khi anh ra đi, nếu anh biết được rằng cha anh thương anh, mỏi mòn chờ anh thì anh đã sớm quay về. Tại sao phải bơ vất dưỡng nơi đầu đường xoá chợ, làm thuê cuốc mướn, sống còn không bằng một con heo thì mới nhớ đến cha? mới nghĩ đến chuyện quay về? Và khi đã về đến nhà. Đành là anh khiêm tốn thấy tội mình quá lớn, chỉ đáng là đứa đầy tớ trong nhà. Nhưng tại sao phải là đứa đầy tớ? Anh là con kia mà. Tình yêu của cha không đủ để phục hồi quyền lợi của con sao? Hùm dữ không ăn thịt con, sao cha có thể xoá bỏ thâm tình cha con một cách dễ dàng như vậy. Quá khứ, hiện tại, tương lai, con vẫn là con, mãi mãi con vẫn là con cho dù con có hư đốn thế nào. Tất cả việc làm của cha đã nói lên điều đó. Cha biết con sẽ quay về nên cha đã chuẩn bị mọi thứ cho ngày ấy. Nào là may áo mới, giày mới, làm nhẫn mới, vỗ béo bê bò. Có lẽ ngày nào ông cũng ra ngoài đường đón con nên ông là người đầu tiên phát hiện con quay về. Và cũng không cần anh phải nói lời nào, ông đã chạy ra ôm chầm lấy con. Lập tức sai gia nhân làm tiệc mừng. Thật xúc động không sao kể hết.
Thiên Chúa là thế, tình yêu của Ngài để sẵn cho con người. Con người không cần phải lên tiếng van xin tình yêu ấy cho mình. Tình yêu ấy luôn luôn tồn tại ngay cả lúc con người tắc trách, phản bội, bất trung, hờ hững. Nếu tôi không nói là Thiên Chúa van xin con người “hồi tâm” để dành một tình thương cho Ngài. Vì chúng ta yêu nhiều thứ nhưng trong đó không hề có Thiên Chúa. Còn một điều khác cũng rất quan trọng là chúng ta không nghĩ mình là con, trong khi Chúa đã cho mình gọi Ngài là cha. Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử từ xưa lắm rồi. “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định co ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Kitô” (Ep 1,5).
Và hôm nay vẫn còn chưa muộn để “hồi tâm” quay về. Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Trở về để sớm hồi sinh. Trở về để mãi mãi sống trong ân tình.
đối với người tội lỗi cũng như đối với anh. Người cha muốn anh hãy mặc lấy tâm tình nhân hậu của cha, để xứng đáng là con thảo, đẹp lòng cha mình thật sự.
Trong mùa chay này, chúng ta hãy cùng nhau xét mình, xem chúng ta đã nhận ra tình thương của Chúa đối với mình hay chưa. Chúng ta có khi nào cố tình phạm tội trọng và muốn thoát ly khỏi Chúa như người con hoang để người ta khinh khi, ma quỷ đắc thắng vì có người lầm lạc theo đàng trái. Hay chúng ta như người con cả, ở trong nhà thờ với Chúa cho có hình thức mà chưa có cảm nghiệm yêu mến Chúa đã chết vì yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng hãy học lấy lòng nhân hậu của Chúa khi đối xử với anh em đồng loại để xứng đáng là con Chúa và luôn cảm thấy vui mừng với Chúa khi đối xử với anh em đồng loại hầu xứng đáng là con cái Chúa và đáng được phần thưởng nước trời mai sau.
31. Lý lẽ của con tim
Pascal đã nói một câu rất nổi tiếng: “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến”. Kinh nghiệm cuộc sống cũng nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.. Và nhất là trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy cách ứng xử xem ra “không hợp lý” của người cha.
Thật tình chúng ta không thể hiểu nổi những gì mà người cha đã làm cho hai người con của mình, nhất là đối với người con thứ. Từ khi người con thứ đòi chia gia tài, rồi thu gom tất cả những gì được chia, anh ta đã ra đi thật xa để tiêu sài cho thoả tình dục vọng của mình, thì người cha của anh ở nhà đã tính đến chuyện anh sẽ trở về. Vì thế, ông đã may áo mới mua giày mới, sắm nhẫn để dành cho cậu. Ông còn sai người vỗ béo con bê để chuẩn bị cho cái ngày con ông trở về! Theo thói thường thì người làm cha mẹ cũng chuẩn bị chu đáo và hoành tráng như thế để mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu, bất tài bao giờ! Vinh dự gì mà ăn mừng chứ!? Lý trí không hiểu được rồi! Người con lớn không thể hiểu, người con hoang đàng kia cũng không nghĩ đến cái vinh dự mà anh có được trong giây phút hội ngộ ấy. Có thể chính chúng ta cũng không bao giờ chọn cách làm như người cha trong bài Tin mừng hôm nay. Không có ai theo lý trí tự nhiên mà có thể ngờ hay có thể hiểu được suy nghĩ và hành động của người ch này. Chỉ có con tim với lý lẽ riêng của nó mới có thể hiểu được thôi!
Với suy nghĩ hẹp hòi của mình, người anh cả khăng khăng trong đầu là đứa em tệ bạc kia sẽ không bao giờ còn chỗ trong tâm trí của người cha của anh nữa. Anh nghĩ rằng cha của anh đã khai trừ người con trai đó từ lâu rồi. Chính anh cũng không còn coi đứa em kia là em của mình nữa. Điều đó được biểu hiện rõ rệt qua cách nói của anh với cha mình: “Còn thằng con của cha kia”! Theo lẽ công bằng, theo thói thường thì người anh cả không thể hiểu tại sao cha của mình lại hành xử lạ lùng như thế. Đối với anh, đó là chuyện quá bất công! Người cha của anh hành xử như thế là coi thường anh, sỉ nhục anh và làm cho anh quá đau khổ. Quả thật, anh ở gần cha mà hoá ra tấm lòng của anh còn quá xa cha. Anh nghĩ rằng chỉ có anh mới xứng đáng được gọi là con, chỉ có anh mới có đủ tư cách để được cha anh khen tặng và thưởng công vì anh chưa bao giờ làm sai lệnh cha anh, chưa bao giờ anh phí phạm tài sản của cha anh… Cái sai lầm trong suy nghĩ của anh là làm việc để được thưởng công, để được trả công theo sự công bằng. Anh ở trong nhà cha mà lại coi mình như là tên đầy tớ không hơn không kém: “đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều chi, thế mà cha chưa bao giờ cho con…” Và theo anh, người cha hành động như thế là bất công rồi! Kẻ “có công” mà không được thưởng, không được khen! Còn kẻ đáng bị phạt thì lại được tiếp nhận huy hoàng, được ân “thưởng”. Và như thế là anh đã kết án luôn cha của anh nữa!
Chúng ta hãy xét mình lại xem, hình ảnh của người anh cả có trong lòng chúng ta hay không? Có bao giờ mình nghĩ rằng: “Tôi giữ đạo sốt sắng; tôi đi xem lễ, đọc kinh lần hạt mỗi ngày nhiều chuỗi; tôi làm việc tông đồ hơn ai hết, tôi xông xáo trong mọi sinh hoạt của xứ đạo… và như thế là Chúa phải thưởng công cho tôi. Đó là chuyện công bằng. Chỉ mình tôi mới xứng đáng được thưởng công Nước Trời! Và vì suy nghĩ như thế mà ta thấy rất khó chịu, thậm chỉ “nổi giận” với Chúa khi thấy người này người kia mới vào đạo hay mới trở lại đạo mà được ơn này, ơn nọ, được mọi người chăm lo cho cái nọ cái khia… Đừng bắt Chúa làm theo ý ta. Chúa đã nói: “Cũng như trời cao hơn đất bấy nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng trỗi vượt hơn tư tưởng các ngươi như thế” (Is 55,9). Chúng ta cũng đừng coi mình là đấy tớ trong Giáo hội, làm việc để mong hưởng Chúa trả công xứng đáng! Nếu chúng ta đòi hỏi như thế thì chúng ta là kẻ đáng thương hơn ai hết! Khôn ngoan là hãy coi mình là con cái trong nhà. “Mọi sự của cha đều là của con”, còn gì bằng! Người con thì khi thấy cái gì phải làm và cần thiết thì hãy làm, vì mình là con. Nhất là phải biết ý Cha mình, hiểu Cha của mình cho thật nhiều và quyết tâm trở nên giống Cha ngày một hơn!
Đến mình, người con “hoang đàng” cũng hoàn toàn bỡ ngỡ trước cách hành xử “lạ lùng” của Cha. Anh đã chuẩn bị sẵn tâm lý rồi: sẵn sàng chịu mắng một trận tơi tả, thậm chí có thể bị đuổi đi và không cho vào nhà nữa. Anh ta đã chuẩn bị sẵn một “bài diễn văn” dài lắm, hay lắm, xúc động lắm… để khi gặp cha là tâu liền. Nhưng anh không ngờ và cũng không hiểu nổi tại sao người cha lại đối xử quá tốt với mình như thế! Cha anh không cần nghe hết những gì anh đã chuẩn bị để nói. Hình như trong ông chỉ còn là khao khát được gặp lại con, ông “thèm” được ôm con vào lòng và vui sướng phục hồi lại cho con mình những gì nó đã tự đánh mất (mất tình nghĩa với cha, mất tư cách làm con, mất phẩm giá làm người…). Chúng ta cũng cần ở vào vai của người con thứ trong Tin mừng hôm nay để cảm nghiệm được tình thương mà Chúa Cha dành cho chúng ta thế nào!
Người cha trong Tin mừng chính là Thiên Chúa. Ngài cũng là người cha đầy lòng nhân hậu với và rất yêu thương của chúng ta. Ngài yêu chúng ta bằng một thứ tình yêu lạ lùng, mà theo lý trí chúng ta không tài nào hiểu được. Chúng ta chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa phần nào khi chúng ta biết đến với Ngài bằng tình yêu. Ta hãy chọn cho mình một tư thế trước mặt Thiên Chúa: làm con hay làm đầy tớ? Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng muốn làm con của Chúa rồi. Vậy chúng ta đừng nhìn và đừng suy nghĩ về Chúa như ông chủ nữa, nhưng là người cha rất nhân hậu và yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng rất cần có một tấm lòng, một cái nhìn giống như Thiên Chúa: yêu thương, tha thứ và sẵn sàng đón nhận mọi anh chị em của mình như Thiên Chúa đã từng yêu thương, tha thứ và đón nhận chúng ta trong những ngày tháng chúng ta lầm đường, lạc lối và đi hoang! Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta: “Hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
32. Bóng Thái sơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một người phú hộ giàu có nọ, khi đến tuổi già yếu, biết mình đã gần đất xa trời, ông liền gọi những người mắc nợ đến để yêu cầu thanh toán nợ nần.
Ông phán bảo những con nợ rằng: nếu các ngươi không thể trả nợ cho ta ở đời này thì các ngươi phải cam kết thề hứa một cách trọng thể là sẽ hoàn trả các món nợ của các ngươi ở kiếp sau, ta sẽ đốt hết các tờ khế ước mà các ngươi đã ký kết với ta. Nghe vậy, người thứ nhất mắc nợ ông 10 lượng vàng đến qùy gối thưa:
– Thưa ông, trong kiếp sau con hứa trả nợ cho ông bằng cách làm con ngựa để ông cưỡi lên và con sẽ đưa ông đi bất cứ nơi nào ông muốn.
Người thứ hai mắc nợ ông 100 lượng vàng cũng đến qùy gối và thưa:
– Thưa ông, trong kiếp sau con xin chấp nhận làm trâu kéo cày, kéo xe chở đồ cho ông để hoàn trả món nợ đời này.
Người phú hộ ưng nhận lời hứa của hai người này và bằng lòng đốt tờ khế ước xóa nợ cho họ.
Sau cùng, người thứ ba với món nợ cũng rất khổng lồ là 1000 lượng vàng cũng đến qùy gối trước mặt ông và thưa:
– Thưa ông, để hoàn trả món nợ khổng lồ của con với ông từ trước đến nay, kiếp sau con sẽ làm cha của ông.
Nghe vậy, người phú hộ tức giận, ông truyền đem roi sắt đến đánh cho một trận nhừ tử vì tội vô lễ và bất kính, nhưng người này bình tĩnh giơ tay ngăn cản người phú hộ và xin được phân trần sự việc. Ông nói:
– Thưa ông, con vốn biết món nợ của con lớn lao lắm, cho dù kiếp sau con có làm thân trâu ngựa cũng không đủ trả nợ cho ông, nhưng con sẵn sàng làm cha của ông, vì chắc hẳn ông cũng quá rõ trách nhiệm nặng nề của cha mẹ đối với con cái mình. Con sẽ làm việc ngày đêm để lo cơm ăn áo mặc cho ông. Con sẽ che chở cho ông như cha mẹ che chở đứa con thơ và chăm sóc ông những khi ông đau ốm cho tới tuổi già, con sẽ không ngại bao gian khó hy sinh nào, cho dù có phải hy sinh tính mạng để ông được no ấm và không thiếu thốn gì, và khi chết, con sẽ để lại cho ông tất cả gia tài mà con đã thu tích được với sức lao động và mồ hôi nước mắt của con. Ông thử nghĩ xem đó có phải là cách đẹp nhất để con trả món nợ khổng lồ kia cho ông sao?
Người giàu có lim dim đôi mắt trầm tư lắng nghe. Một lúc sau ông gật gù mỉm cười rồi đứng dậy đốt bỏ khế ước, tha món nợ khổng lồ của hắn như đã tha cho hai người trước.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào về tình yêu và trách nhiệm của người cha trong gia đình. Khi con còn thơ “cha là con ngựa con cỡi con chơi”, và khi con đã khôn lớn cha là chỗ dựa vững chắc cho con niềm tin, nghị lực dấn thân vào đời. Tình cha thật ấm áp, thật thân thương trìu mến. Tình cha là một tình yêu không thể thiếu cho con cái sự tự tin, tính ngay thẳng để bước đi trong cuộc đời như lời bài hát “Tình cha” đã diễn tả:
Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương
Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan,
Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu
Và con nhớ mãi những ngày tháng qua
Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng
Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo
Mong muốn con được lớn khôn
Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh
Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài
Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi…
Con hãy nhớ.. hãy nhớ… lời Cha sống cho nên người
và con hãy chớ bao giờ dối gian
Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm!
Những lời của Cha năm xưa
Con nguyện ghi sâu trong tim
Cha hỡi Cha già dấu yêu…
Vâng, chấp nhận trở nên người cha, người mẹ của ai là như tự gánh lấy cho mình một món nợ khổng lồ mà chỉ có thể hoàn trả đầy đủ bằng tình thương mà thôi. Thật vậy, tình thương của người cha là tình thương không tiền bạc nào có thể mua được. Nó là thứ tình thương chân thật và sâu xa, là phản ánh tình thương bao la của Thiên Chúa với nhân loại. Cho đi cách nhưng không và không mong được đền ơn báo đáp. Nó là thứ tình thương nhân hậu và kiên trung luôn yêu con và tha thứ cho con khi con quay đầu trở về.
Tình thương đó được Chúa Giêsu diễn tả qua dụ ngôn: “Người cha nhân từ”. Một người cha quá đau khổ vì có đứa con thứ phung phá, trụy lạc. Một người con phản loạn đã đòi Cha chia gia tài để ăn chơi trác táng. Nó rời khỏi ngôi nhà thân thương. Nó trẩy đi miền xa, mang theo nỗi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà.
Anh đã bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình. Anh ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh sa cơ thất thế. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và thèm ăn thức ăn của heo.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến anh trở về? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực anh trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn anh không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, anh mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của anh là làm sao để được ăn. Anh dự tính nói với Cha là trót phạm lỗi nghịch với trời, không còn đáng gọi là con, chỉ xin được đối xử như người làm công.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời: “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Nhưng, người cha dường như đã bỏ ngoài tai những lời người con. Ông chỉ thấy vui mừng vì con trở về. Ông quên hết lầm lỗi xưa. Ông thiết đãi tiệc vui vì con đã chết nay sống lại…
Thiên Chúa cũng luôn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô bờ bến như thế. Tình yêu Chúa không chấp tội chúng ta. Vì nếu Chúa chấp tội thì nào ai đứng vững. Thiên Chúa luôn bao dung và tạo điều kiện cho chúng ta làm lại cuộc đời. Điều này được thể hiện qua bí tích hòa giải. Nơi đây biết bao tội nhân tìm lại được bình an tâm hồn. Có những người đã bỏ Chúa 10 năm, 20 năm. Có những người đã hoang phí tuổi trẻ trong đam mê tứ đổ tường, nhưng dường như cuộc đời đã xô đẩy khiến họ luôn cảm thấy chán chường, bất an khi xa Chúa. Chỉ có khi nào mạnh dạn đứng lên quay đầu trở về lúc đó mới tìm thấy niềm vui và bình an tâm hồn.
Xin cho chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để quay đầu trở về. Cuộc trở về không bao giờ là muộn và tình thương Chúa vẫn mãi mãi dành cho chúng ta một chỗ trong lòng thương xót của Chúa. Amen.
33. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Trong trận chiến thế giới lần thứ hai 1939 – 1945 đã làm cho biết bao người rơi vào cảnh lầm than. Cũng vì con người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận người khác cùng ngang hàng với mình, cùng chung sống với mình, và cùng tồn tại với mình. Trải qua hơn nữa thế kỷ, bài học đau thương của lịch sử ngày nay vẫn còn đang tiếp diễn: cuộc chiến ở Nam Tư, Châu Phi, hiện tại cuộc chiến làm cho cả thế giới phải đau đầu, đó là cuộc chiến của những quốc gia vùng trung đông châu A, họ cũng không thể chấp nhận nhau, không thể sống chung với nhau và cũng có thể không muốn cùng tồn tại. Họ quá tự tôn, chủ nghĩa cá nhân quá mạnh, họ chỉ đặt cá nhân và dân tộc mình trên hết , còn những người khác, dân tộc khác họ không coi ra gì, nên họ khinh dể và không chấp nhận.
Người cha nhân từ, ông thương yêu từng người con. Nhưng những người con luôn gây phiền cho cha mình.
Người con thứ chỉ nghỉ đến mình, chỉ biết lo hưởng thụ, tìm thú vui cho mình, sống theo những gì mình muốn, để rồi phải rơi vào cảnh khốn cùng. Anh đã làm ô danh cha mình qua con người của anh.
Người con cả luôn sống kề cận bên cha, chịu cực chịu khổ, nghe lời cha, không dám trái lệnh cha. Mặc dù không dám nói, nhưng anh cũng đang muốn sống theo ý riêng mình, anh cũng đang mong cha trả công cho mình, anh cũng đang muốn có chút lợi lộc riêng tư, nhưng không dám nói. Anh cũng chỉ là một cái máy sống bên người cha, một cái máy để làm việc chứ không phải là một người con đối với cha. Anh đành thốt lên một câu dường như xác nhận anh không phải là người con:” Còn thằng con của cha kia…” Anh không muốn chấp nhận người em của mình, anh cũng không muốn vào nhà cha của mình. Anh bực tức, nỗi nóng vì ý muốn riêng tư không thực hiện được: nào là không có con dê để ăn mừng với những bạn bè riêng tư, nào là không nhìn thấy cha trả ơn vì những công lao anh đã làm cho cha. Giờ đây anh kể công với cha mình để không chấp nhận người em.
Người cha ôn tồn xác nhận: “Chúng ta phải vui mừng vì em con…”
Người cha cũng ôn tồn bảo những người con của ngày hôm nay như thế. ” Con luôn sống bên cha, mọi sự của cha đều là của con. Chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Mỗi người trong chúng ta, nhìn lại chính mình, cách ứng xử hằng ngày, những tâm tư nguyện vọng trong cuộc sống, chúng ta sẽ thấy mình là người con đã ngã vào lòng cha, để được cha tha thứ. Cũng có thể chúng ta là người con ngoan cố, tưởng rằng những việc làm của mình có giá trị to lớn, khiến cho cha phải trả công, để rồi chúng ta đòi hỏi và làm khó dể cha mình, nên không thể nhận ra được tình thương yêu của cha.
Chúng ta là những người luôn sống kề cận bên cha, luôn tuân phục và làm việc theo ý cha. Nhưng chúng ta là một cái máy làm việc hay là một người con. Chúng ta tuân giữ kỷ luật, đọc kinh, dự lễ, có thể còn có những việc đạo đức khác. Vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta lại khó chịu với những người bên cạnh mình, khi thấy họ được ưu đãi cách này hay cách khác. Chúng ta tìm cách loại trừ họ bằng những lời nói xa gần, bằng những cử chỉ, những hành động có thể được. Chúng ta chỉ nhìn thấy được những sai phạm của người khác, còn chính chúng ta, thì tự cho mình là tốt đẹp, là ngay chính. Nhưng nếu chúng ta chịu để tâm chút thì coi chừng, chúng ta chỉ là một cái máy làm việc, vì con tim chúng ta nó đã chết từ lâu. Người cha nhân hậu của chúng ta, đã nhiều lần đến cạnh bên, nài nỉ chúng ta vào nhà, nài nỉ chúng ta vui mừng với Ngài vì những người anh em bên cạnh. Nhưng chúng ta vẫn bực tức khó chịu, vẫn có những lời chua cay, vẫn có ý muốn loại trừ để chiếm phần lợi về mình.. Như vậy tâm trạng của người con cả không ở đâu xa, mà ở ngay trong con người yếu hèn của chúng ta. Như vậy chiến tranh không phải ở đâu trên thế giới, cũng không phải ở trung đông, ở Nam tư hay ở Châu Phi mà ở ngay trong chính bản thân của mình. Vì chúng ta chưa biết chấp nhận người anh em trong cuộc sống, người anh em ở ngay bên cạnh và trước mắt chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta có được con tim quảng đại, để biết yêu như Chúa yêu thương chúng ta.
34. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
35. Niềm vui, nước mắt của niềm vui
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo Hội sử dụng mùa như Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng (Gaudete) là màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui (Giáng Sinh và Phục Sinh), nghỉ để cảm tạ những gì ta đã làm, lấy thêm can đảm để bước tiếp những chặng cuối. Ca nhập lễ tuần này chỉ nói về niềm vui và niềm an ủi. Toàn thể Giáo hội chúc mừng con cái mình, vì đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh. “Niềm vui, niềm vui, niềm vui, nước mắt của niềm vui” (Lễ Vượt Qua) đứng trước đau khổ nghĩ tới sự toàn thắng trong vinh quang. Lời ca nhập lễ: (“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan. Tv. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…”). Làm sao chúng ta không thể không vui được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, Ngài rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
Thánh Luca đã làm nổi bật chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay, Chúa nhật của niềm vui (Laetare), khi cả đoạn Tin Mừng (Lc 15, 1-32), niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn, cụ thể như dụ ngôn “Con chiên lạc”: Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng… kêu bạn hữu… mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi…: “Trên trời sẽ vui mừng…”. Hay dụ ngôn “Đồng bạc đánh mất”: “Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em…đến mà rằng: “Chị em hãy vui mừng với tôi… “. Cũng vậy…: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng…”. Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn “Tình phụ tử “: Người cha bảo:… phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn “Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng”. Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Sao chúng ta không thể không vui, sao chúng ta không thể không mừng. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yên của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chứng nào, để rồi vui mừng mà đáp trả.
“Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha”… Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông đã khóc suốt, và ngày ngày ra ngóng bóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: ” Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm cồng của cha. Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu đã xóa sạch tất cả lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: ” phải ăn tiệc và vui mừng “(Lc 15, 32). Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy ” (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế, thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!… Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước.
Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất. Chúa Giêsu Kitô nói với người tội nhân qua miệng của các thừa tác viên của Ngài: “Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô “(x. Gal 3:27). Đó là điều Thiên Chúa đối xử với chúng ta, khi chúng ta bỏ đàng tội lỗi để đi theo Ngài, chúng ta sẽ hạnh phúc. Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, nên ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố của đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: “Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi “, những thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban, và không có gì thay đổi nơi lòng của người con. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha đầy lòng thương xót ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình cảm trìu mến. Vâng, Đức Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Ngài không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Ngài đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ rằng tình yêu của Thiên Chúa không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người, và mở ra một cuộc sống mới như thánh Phaolô nói với chúng ta: “Một thế giới mới đã đến”.
Cuộc hòa mà Giáo hội có sứ mạng là trung gian, là hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau, một vài tuần trước lễ Phục Sinh. Đây là cơ hội để hân hoan vui mừng, vì con người trở về với Thiên Chúa với lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng. Vâng, ai trở về thì được tham dự vào niềm vui muôn đời của Thiên Chúa, kẻ mất nay lại tìm thấy trở nên thành viên dự tiệc vui muôn đời của Thiên Chúa, chứng nhân của niềm vui là chính Chúa
Vì vậy, khi Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị lễ Phục Sinh, trở về với Chúa, thừa nhận những lỗi lầm và những khuyết điểm trong đời sống chúng ta, chúng ta đứng dậy, trở về với Chúa là Cha. Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con được sầu khổ, trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh. Amen.
36. Hồi tâm, đứng dậy, quyết trở về
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Mừng vui lên … – Lætare”: là chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.
Lời ca nhập lễ: (“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành!… Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”) (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn: “Con chiên lạc” (x. Lc 15, 4-7); “Đồng bạc đánh mất” (x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn “Tình phụ tử ” (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn “Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng”. Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thế cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người ta cũng có thể tìm lại được chiên lạc, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người con thứ sau thời gian bỏ đi nay trở về được cha mở cỗ mừng vui, là hình ảnh người tội lỗi trở về, Chúa Cha mở khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.
Cả thiên đang vui mừng khi ta tội lỗi trở về với Chúa. Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn: “Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi” (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.
Chúng ta nhớ lại Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót do Cha Marko I. Rupknik S.I họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.
Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.
Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Tình thương của Chúa thật cao cả, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa.
Chúa Giêsu đồng bàn với người tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tệ hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Người cha là hình ảnh của Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót, người con thứ là thân phận bi đát của con người tội lỗi, cần phải trở về với Chúa. Hình ảnh người con trở về cho chúng ta thấy bản chất xấu xa của tội lỗi, và thái độ cần phải có để ra khỏi tình trạng tội lỗi là sám hối, nhận mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm trở về với Chúa như đứa con thứ đã làm.
Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy mới nói: Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, sợ cha mắng, và cho dù cha có tha, thi không biết Chúa có tha cho tôi không?
Xin thưa: Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Con nếu sợ cha mắng, xin bật mí là các cha luôn giữ ấn tín tòa giải tội, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.
Có người còn hỏi: Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái?
Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như anh chàng con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.
Mùa chay còn mời gọi chúng ta trở về với chính mình, trở về với tha nhân. Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi “con đã làm tôi cha “, đánh mất em, em mình mà anh gọi là “thằng con của cha kia”. Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Nếu ai trong chúng ta đang ở trong tình trạng ấy thì sám hối trở về là cần thiết, để tìm lại mình là con với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh là em với ta, chứ không phải người xa lạ.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
37. Vui mừng vì được Chúa xót thương
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
(“Mừng vui lên … – Lætare) là chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.
Lời ca nhập lễ: (“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành!… Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. “) (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn: “Con chiên lạc”: Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng … kêu bạn hữu …mà nói rằng: “Anh em hãy chia vui với tôi …: “Trên trời sẽ vui mừng …” (x. Lc 15, 4-7). Hay dụ ngôn ” Đồng bạc đánh mất”: “Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em …đến mà rằng: “Chị em hãy vui mừng với tôi … “. Cũng vậy…: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng …”(x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn “Tình phụ tử “: Người cha bảo: … phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy” (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn “Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng”. Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chừng nào, vui mừng mà đáp trả.
“Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha”… Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: “Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha”(Lc 15,). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: “phải ăn tiệc và vui mừng “(Lc 15, 32). “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!… Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: “Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi” (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.
Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Chúa, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.
Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con đường sầu khổ. Trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh.
Giờ đây chúng ta hãy ngước nhìn về Chúa và ngẫm nghĩ về tấm lòng của Thiên Chúa và lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Cha làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
38. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Có một bà mẹ ngoại giáo đến gặp tôi và trình bày về hoàn cảnh của gia đình bà rằng: Vợ chồng tôi sinh được một thằng con trai. Lúc nhỏ, nó rất ngoan ngoãn, dễ thương. Chúng tôi nuôi dạy và cố gắng cho nó học hành tử tế.
Tốt nghiệp đại học xong, nó lấy vợ. Nhưng hai đứa ở với nhau chẳng được bao lâu thì chia tay. Từ đó, nó theo bạn bè xấu, sa vào các tệ nạn xã hội: Nghiện ma tuý, cờ bạc, rượu chè, trai gái. Dịp tết vừa qua, nó đi uống rượu về, đập nát các đồ dùng trong gia đình chúng tôi. Vợ chồng chúng tôi khuyên bảo, nhưng nó chẳng nghe. Thậm chí, nó còn chửi lại, đòi đánh cả vợ chồng chúng tôi. Chúng tôi rất thương nó, mong muốn nó hiểu được tình thương của cha mẹ để biết trở về làm người lương thiện. Nhiều người khuyên bàn chúng tôi nên báo với công an để đưa nó đi cai nghiện, nhưng chúng tôi không dám làm vậy, vì thương nó. Không còn cách nào khác, tôi đến đây xin Cha thương giúp cầu xin ơn trên phù hộ cho nó.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù Thánh Luca không kể lại khoảng thời gian từ lúc sinh ra cho tới khi đứa con hoang đàng xin chia gia tài, nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết: Đây là thời gian cực khổ nhất của cha mẹ. Cha mẹ nào cũng mong muốn cho thời gian này qua đi mong chóng để khi con cái trưởng thành mà nhờ vả. Đặc biệt khi cha mẹ về già, được nó phụng dưỡng. Nhưng không ai biết trước chữ ngờ. Thay vì phụng dưỡng cha, nó lại xin chia gia tài. Nó nhẫn tâm để mặc cha già lủi thủi một mình ở nhà. Theo thói quen của người Do thái, muốn được chia gia tài phải chờ đến lúc cha mẹ qua đời. Nếu xin chia gia tài khi cha mẹ còn sống thì chẳng khác gì muốn cha mẹ chết đi. Dầu vậy, người cha vẫn sẵn sàng chấp nhận chia gia tài cho nó. Nhận được gia tài từ người cha, nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng với bọn điếm. Hết tiền, hết bạc, nó phải chăn heo và mong muốn ăn cả những thứ heo ăn mà không được. Khi thiếu thốn đủ điều, nó mới nghĩ đến người cha. Nghĩ đến cha không phải vì thương cha nhưng vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15,17). Vì miếng ăn nên nó mới quyết tâm trở về.
Nếu chúng ta là người cha trong câu chuyện trên đây, chúng ta có dễ dàng đón nhận người con bất hiếu như thế hay không, hay chúng ta cũng cư xử giống như người anh cả: Không thể chấp nhận một đứa con sau khi phung phí hết tài sản với bọn điếm, nay trở về với hai bàn tay trắng. Nếu có chấp nhận thì cũng phải dạy cho nó một bài học để đời.
Nhưng suy nghĩ của chúng ta khác hẳn với những gì xảy ra trong câu chuyện. Từ khi đứa con ra đi, người cha luôn trông ngóng đợi chờ và mong muốn con trai của mình trở về. Vì vậy, khi trông thấy nó từ xa, Thánh Luca diễn tả nỗi vui mừng của người cha bằng các cụm từ: Động lòng thương, chạy, ôm choàng lấy cổ, hôn nó hồi lâu. Khi đã đưa nó vào nhà, ông sai các đầy tớ: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, xỏ dầy…Cuối cùng, ông sai người nhà mổ bê béo để ăn mừng. Như vậy, chúng ta thấy người cha đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và địa vị cho đứa con đã một thời đi hoang.
Thế nhưng, hành động của người cha nhân từ bao nhiêu thì người con cả lại tỏ thái độ khó chịu, ghen tỵ bấy nhiêu. Anh ta không chấp nhận thái độ của cha mình đối xử khoan dung đối với đứa con thứ như vậy. Vì thế, “anh nổi giận và quyết định không vào nhà”(x. Lc 15,28). Anh nói: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”(Lc 15,29-30).
Người cha trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu, Ngài luôn luôn yêu thương con cái, không quản ngại gì, không so đo tính toán, không cậu nệ, không sợ người ta trách móc.
Người con thứ là hình ảnh của những người thu thuế, tội lỗi đến nghe lời Chúa Giêsu rao giảng và quyết tâm ăn năn thống hối trở về làm người lương thiện.
Người con cả là hình ảnh của những người biệt phái, luật sĩ luôn tự cho mình là đạo đức, thánh thiện, không chịu hiểu về tình thương của Chúa Giêsu, thậm chí khi thấy Ngài quan tâm đến người tội lỗi và thấy họ ăn uống với Chúa thì ghen tức, lên án cả chính Chúa nữa.
Xét mình lại, có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Chúng ta được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua Cha mẹ, Giáo xứ, Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta bỏ cầu nguyện, đọc kinh, xem lễ…Đặc biệt, nhiều khi chúng ta cả lòng phạm tội trọng mất lòng Chúa. Cũng có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta nơi người con cả. Đó là khi chúng ta có thái độ kiêu ngạo, ích kỷ không muốn cho người anh em của chúng ta trở về để hưởng tình thương của Thiên Chúa.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Chúng ta hãy mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa. Một người cha phải quyết tâm từ bỏ một cuộc sống bê tha trong rượu chè, bài bạc, trác táng để trở về với mái ấm gia đình. Một người mẹ phải từ bỏ những thói hư tật xấu để chu toàn nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ. Những cặp vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt, đang sống bên bờ của đổ vỡ, biết suy nghĩ lại, để sống trọn vẹn ý nghĩa vợ chồng. Những người con hoang đàng biết thống hối trở về cùng cha. Những gia đình luôn lục đục vì những giận hờn nhỏ nhen biết dẹp bỏ tự ái, vượt qua những sóng gió để đưa gia đình đến hạnh phúc. Đó chính là những hình thức thống hối ăn năn, giao hòa để trở về với Thiên Chúa. Khi thực sự có lòng thống hối ăn năn quyết tâm trở về thì dầu “Tội có đỏ như son cũng sẽ nên trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng nên trắng như bông” (x. Is 1, 18).
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái Bình Dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của ngài với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài: Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp: Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp: Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu. Người đàn bà liền giải thích: Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội của con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi: Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây lên một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con đừng bỏ đi hoang như người con thứ, đừng kiêu ngạo, ích kỷ như người con cả. Xin cho chúng con luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để biết đứng dậy trở về mỗi khi sa ngã. Xin cho chúng con có lòng nhân hậu tha thứ như tấm lòng của Chúa. Amen.
39. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
(Suy niệm của Lm. An Phong, OP)
Tin mừng Luca chương 15 là 3 dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn về con chiên lạc trong số một trăm con chiên (1/100); dụ ngôn về đồng bạc bị đánh mất (1/10) và dụ ngôn “người con hoang đàng” (1/2). Tin mừng chúa nhật thứ tư mùa Chay năm C là dụ ngôn thứ ba này. Đây thực là “một tin mừng (nhỏ) trong một Tin mừng (lớn)”. Thực ra, gọi là dụ ngôn “người con hoang đàng” thì không đúng lắm, có lẽ gọi là “Người Cha Hoang Phí” thì đúng hơn, bởi lẽ người cha đã hoang phí tình yêu của mình cho các con của ông. Dung mạo người cha mới là điểm chính yếu. Người cha đã đồng ý chia gia tài cho người con thứ (đây là điều không hợp luật), vì theo quan niệm Trung Đông, người con không có quyền đòi chia gia tài khi người cha vẫn còn khỏe mạnh. Người cha chính là hình ảnh của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa “hoang phí” tình yêu cho nhân loại, dù Người biết nhân loại vẫn tội lỗi, ích kỷ, muốn sống độc lập với Người, thậm chí muốn loại trừ Người. Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của nhân loại.
Tình yêu của người cha đã đón nhận người con thứ trở về sau những ngày ăn chơi phung phí. Tình yêu của người cha đã mời người con trưởng chung vui vì người em trở về. Thiên Chúa cũng vậy: qua Đức Giêsu, Người vui mừng đón nhận những tội nhân thống hối và mời gọi tất cả mọi người cùng vui mừng và chia sẻ với Người.
Người con thứ xin Cha chia gia tài để trẩy đi phương xa. Người Cha sẵn sàng chia gia tài. Cha hắn để cho hắn tự do, không cấm cản gì. Hắn không vi phạm một điều luật nào hết. Thực ra, hắn tưởng mình có thể định đoạt tất cả. Hắn ra đi không phải vì ý muốn sa đọa thúc đẩy đâu, nhưng vì khao khát sống mạnh, sống ngoài vòng kiểm soát của Cha, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, nhưng lại không có bản lãnh, hung hăng quá trớn, thiếu ý chí. Khi ra đi là hắn xúc phạm đến cha. Mối giây ràng buộc với cha lớn gấp nhiều lần mối giây ràng buộc với lề luật.
Sau những ngày ăn chơi phung phá, hắn trắng tay. Hắn cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tất cả. Hắn quyết định trở vê nhà Cha. Khi quyết định như thế,hắn đã nhận ra chính mình, giới hạn của mình. Chân lý bắt đầu khi con người nhận ra chính mình. Hắn hạnh phúc vì đã dám thú nhận: thưa cha, con đã xúc phạm đến trời và đến Cha. Hắn hạnh phúc vì đã dám tin vào tấm lòng của cha, sự tha thứ của cha. Hắn hạnh phúc vì đã trở về. Không phải vô lý đâu, khi Đức Giêsu đã có lần nói: Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước trời trước hết. Thế nhưng, không thiếu những người tưởng rằng mình thánh thiện, ngoan đạo, tự cấp cho mình quyền đòi hỏi bất cứ gì. Và cũng không thiếu những người tự hài lòng với việc chu toàn đầy đủ lề luật. Đó là hình ảnh của người anh cả. Người anh cả tưởng mình là người công chính, vì chu toàn hết mọi lề luật. Điều cần có anh đã không có, đó là tấm lòng thông cảm, chia sẻ, nhất là chia sẻ những tội lỗi, những giới hạn của người khác. Anh là hình ảnh của những kẻ tự cho mình quyền xét đoán người khác”.
Đức Giêsu chính là người cha đó. Người không màng chi đến quá khứ của người tội lỗi. Tình cha còn lớn hơn quá khứ đó, còn lớn hơn sự hối hận, dày vò của người con. Thiên Chúa tha thứ tất cả.Chúng ta là người con cả hay người con thứ trong bài Tin Mừng hôm nay?
Lạy Chúa,
Con xin dâng Ngài, lời thú tội của đứa con hoang:
Trước mặt Chúa, con đã phạm tội,
con đã hoang phí kho tàng ân sủng Chúa trao cho con,
xin nhận lòng sám hối của con.
Lạy đấng Cứu thế, xin cứu chuộc con.
Như người con bỏ nhà đi hoang, lạy Chúa,
con nay trở về sau khi đã phí phạm đời con,
lòng xa cách Chúa.
Lạy Cha, con đã hoang phí của cải Chúa ban cho con. Xin nhận lòng sám hối của con và xót thương con. Con đã thẳng tay phung phí tài sản của Cha, con sống cô đơn, cùng cực trên mảnh đất của những người trụy lạc. Lòng con hối hận, con xin trở về với Cha, lạy Cha nhân ái, xin nghe lời con van nài: “Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng là gọi là con Cha nữa, xin coi con như một người làm công cho Cha vậy, và xin thương xót con”.
(Phụng vụ Byzantin)
40. Trở về với Cha
1. Tình cảm cha mẹ đối với con cái là một tình cảm vô cùng đặt biệt, vì thế dân gian ta có câu: “Không gì ngon bằng cơm với cá, không gì cho bằng má với con”. Nhạc sĩ Y Vân cũng đã cảm nghiệm được tình yêu nầy, nên đã từng thốt lên: “Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào “. Thế nhưng chúng ta còn có Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương hết mọi người, dù ta xấu tốt như thế nào, vì thế tiên tri Isaia từ xưa có ghi: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa dành cho con người đã được Đức Giêsu trình bày rõ nét trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mà chúng ta vừa nghe, dù cho con người có bội bạc như người con thứ, hay kiêu căng tự phụ như người con cả. Trong tâm tình của mùa chay, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sơ lược qua 3 nhân vật chính yếu trong dụ ngôn này để rút ra những bài học, suy nghĩ cho đời sống thiêng liêng.
2. Trước hết, hình ảnh người cha trong dụ ngôn là người quá thương con cái mình. Ông tôn trọng tự do của con, sẵn sàng trao phần gia tài cho con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài khi mình sắp qua đời bởi “ai cầm tiền người đó có quyền” (x. Huấn Ca 33,20-24). Hoặc chỉ chia khi biết chắc con mình đã đủ chính chắn để gìn giữ được gia tài. Còn người cha này vì quá thương con, nên khi người con thứ đề nghị chia gia tài, không cần suy tính, ông bằng lòng chia ngay cho nó. Sau khi nhận được phần gia tài, anh ta sống phóng đãng, phung phí hết tiền của, rồi trở về.
Có điều lạ là người cha nầy không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, qua bản văn cho thấy ông trông ngóng, mong chờ nó, vì vậy ngay từ đàng xa ông đã thấy nó rồi và ông chạy ra choàng lấy cổ ôm hôn lấy hôn để. Khi nó định xin lỗi thì ông chẳng thèm để ý tới mà bảo gia nhân đem áo quần đẹp nhất để mặc cho nó. Rồi ông sai đầy tớ mở tiệc liên hoan. Chúng ta lưu ý rằng ông bảo gia nhân đi bắt “con bê đã vỗ béo” làm thịt, nghĩa là không phải đi bắt bất cứ con bê béo nào, mà để sẵn riêng một con, chuẩn bị cho sự trở về của người con đi hoang.
Còn đối với người con cả thì người cha làm sao? Anh đi làm về, khi biết cha mở tiệc ăn mừng vì người em trở về, anh chẳng những đã không vui mà còn nổi giận, trách móc cha già. Khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà để chung vui với ông và gặp lại đứa em. Ông khẳng định với cậu rằng: “tất cả những gì của cha đều là của con ” (Lc 13,31).
Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, quảng đại và hay tha thứ, “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Cho dù lòng con người có đổi thay, nhưng Thiên Chúa một mực thương yêu con người: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ” (Tv 135).
3. Kế đến, hình ảnh người con thứ không phải xa lạ gì đối với chúng ta. Thật vậy, biết bao lần chúng ta đã lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa, chúng ta đã dùng cách sai lạc tự do của mình, giống như người con thứ này. Muốn thoát khỏi tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa là Cha, muốn tìm cho mình một nơi nương tựa khác, muốn chọn cho mình một ngẫu tượng khác. Đó có thể là danh vọng, tiền bạc, lợi lộc, thú vui trần tục… ngay cả trong sự thoả hiệp với sự xấu, sự dữ để đạt được điều đó, mà quên mất tình yêu thương của Thiên Chúa, mà quên mất tình nghĩa anh em.
Và phải chăng, ngay khi chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, không hẳn vì lòng yêu mến Ngài. Mà có lẽ giống như tâm trạng của người con thứ này, trở về vì lợi ích của mình chứ không vì lòng yêu mến cha, nghĩa là chúng ta trở về với Thiên Chúa vì sợ người ta chê cuời, sợ hình phạt luyện ngục, hỏa ngục. Nhưng, vì lòng nhân từ, Thiên Chúa chấp nhận mọi lý do để ta trở về, miễn làm sao Ngài muốn cho ta được sống trong vòng tay của Ngài, thế là đủ.
4. Cuối cùng, hình ảnh người con cả không xa lạ gì đối với nhiều người trong chúng ta. Anh ở trong nhà cha, nhưng lại rất xa cách cha. Bởi tính ích kỷ, kiêu căng và tự phụ đã làm mờ tâm trí của anh, nó đã bóp nghẹt con tim của anh. Anh ở bên cha, làm việc trong nhà cha, nhưng chẳng hiểu cha, chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho mình. Cũng chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho đứa em ruột mình. Cũng chẳng biết yêu thương em mình, nên không tỏ chút vui mừng khi người em của mình trở về! Không chừng, lại còn muốn nó đừng trở về vì có thể cha lại chia gia tài cho nó lần nữa! Quên hết tình ruột thịt, đến nổi người cha phải nhắc:”…phải vui vẻ, vì em con đây…”, vâng em con, chứ không phải người dưng, nước lã!
Đó là thái độ của không ít Kitô hữu chỉ giữ đạo cho mình, chỉ lo phần phúc cho mình, mà không biết quan tâm đến ý muốn cứu độ mà Thiên Chúa muốn dành cho mọi người. Không biết quan tâm đến những nỗi ưu tư của Giáo hội, của cộng đoàn Họ đạo, cũng chẳng thiết tha gì đến hạnh phúc của tha nhân “sống chết mặc bay”. Đôi khi còn có thái độ ghen ghét với những ai tích cực xây dựng cộng đoàn vì sợ họ nổi nang hơn mình, không thích những người thành đạt hơn mình, không muốn đón tiếp những người lỡ bước trở về vì mang tâm trạng mình là người công chính, còn họ là người tội lỗi…!
5. Trước tấm lòng của Thiên Chúa hay thương xót, được thể hiện qua người cha trong dụ ngôn nầy, cả người em lẫn người anh đều phải quay trở về với cha. Cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, cách nghĩ xưa để trở về mái ấm của cha. Vậy, như người em, tức những ai đang sống trong lầm lạc, tội lỗi hãy bỏ con đường cũ mà trở về sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa; như người anh, tức những ai sống thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu sự liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, thiếu yêu thương, quan tâm giúp đỡ tha nhân cũng hãy bỏ nếp sống cũ mà trở về sống trong tình nghĩa của Thiên Chúa là Cha và anh chị em với nhau.
41. Cha Già đầy tình tha thứ – Cố Lm Hồng Phúc
Đề tài Chúa nhật hôm nay: Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và hay tha thứ. Lòng Quảng đại và tha thứ, ngày xưa, đã được tỏ hiện cho dân ngài tuyển chọn. Chúa đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đi qua biển đỏ, vượt sa mạc, đi về đất hứa “miền đất chảy tràn trề sữa và mật ong”. Lễ Vượt Qua đầu tiên, do bài đọc I gợi ý, chính là sự hoàn tất của lời hứa do lòng thương xót của Chúa ban. Nhưng lòng thương xót và tha thứ của Chúa đạt đến tột tỉnh nhờ Chúa Giêsu. Đấng đến trong thế gian để giao hoà ta lại với Thiên Chúa. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nói: “Ngài là Đấng không biết đến tội lỗi, nhưng vì ta, Thiên Chúa đã làm cho Người nên phận tôi đòi, để chúng ta được trở nên Công Chính”.
Để diễn tả lòng từ bi và hay tha thứ trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một người con đi hoang, trở về với người Cha già. Người con trai bần cùng rách rưới là hình bóng một tâm hồn tội lỗi. Bằng 4 câu cụ thể, Chúa phác họa con đường xuống dốc sa đọa của nó: nó bỏ nhà ra đi, lánh xa ông bố già hay cho bài luân lý; nó ăn chơi đàng điếm, phung phí sức lực và tiền của, mất cả áo quần giày dép; chỉ còn một thân tàn ma dại, phải đi làm mướn chăn heo; nó nghĩ lại và quyết định trở về.
Nếu chúng ta quen gọi dụ ngôn này là dụ ngôn người con trai hoang đàng thì chúng ta cũng có thể gọi là dụ ngôn người Cha già đầy tình tha thứ. Ông mong con trở về, tiếp đón con nồng hậu. Người con xin được đối xử như tôi tớ thì ông lại biệt đãi như quí tử.
Dụ ngôn nói lên một cách sống động Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là kẻ tội lỗi. Những người làm cha mẹ có thể hiểu được hơn ai cả, khi trong gia đình rủi có một người con bỏ nhà ra đi, làm cho cha mẹ đau khổ. Tuy vậy, cha mẹ vẫn chờ đợi, vẫn tha thứ, vẫn mở rộng vòng tay đón nó trở về.
Tình yêu của cha mẹ là một tia sáng phản ảnh Tình Yêu Thiên Chúa.
Cha ơi, nay con đã về,
Tội đầy cùng Trời với Cha.
Bao nhiêu tháng năm hoang đàng,
Một lần xin dấu ăn năn.
Con xin làm người tôi hầu,
Trọn đời bên Cha dấu yêu.
Rồi mai, những khi âu sầu,
Con được tình Cha xót thương nhiều.
(Nguyễn Quang Hiển)
42. Sống trong tình trạng ơn thánh – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức tranh vì không tìm ra những người mẫu thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công viên Castellô một thanh niên tên là Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với phần trán an hòa và quý phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau bức họa vẫn chưa xong. Ông ngày đêm gãi đầu bứt tai vì không sao tìm ra được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xa dữ dằn đang nhìn các người khác đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với hắn nhận làm người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và cùng họa sĩ vào tu viện Đức Bà Ban Ơn. Trong lúc họa sĩ đang chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tai dựng đứng và dường như đang nhớ đến một kỷ niệm nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn ngào. Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài nói: Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này.
Mẩu chuyện liên quan tới cuộc đời Francisco kể trên, giúp chúng ta cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng của Chúa nhật hôm nay. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca là một trong các dụ ngôn hay và cảm động nhất, chứng minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu. Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
Thứ nhất là động từ “lẩm bẩm”. Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, nó là động từ diễn tả thái độ của dân Do Thái phản đối ơn Chúa và khước từ kiểu cách cứu độ của Ngài. Nó là động từ mà chúng ta thường gặp trong các sách Xuất Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề cập đến 40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc, và thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản đối các ơn của Ngài. “Lẩm bẩm” cũng là động từ diễn tả thái độ người tội lỗi bé nhỏ, tối tăm ngu muội, nhưng lại yêu sách muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết phải hành xử như thế nào để cứu rỗi nhân loại. Đây cũng là thái độ mà người Biệt phái và luật sĩ có đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ ngày xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du nói chuyện và ăn uống với người tội lỗi, bọn thu thuế, đĩ điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người con hoang đàng, Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết rằng Thiên Chúa không suy tư và hành động như vậy. Trước lời phản kháng của người con cả, muốn cho cha mình đập thằng em hư đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà, nhưng người cha hiền từ trả lời: “Em con hư mất và nay lại tìm thấy”.
Động từ “hư mất” là nhân tố thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn trong Phúc Âm. Từ “hư mất” không có nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ ngày nay. “Hư mất” ở đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn nghĩa làm người và làm con cái Chúa của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa tạo hóa, trở về trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên con người như Thiên Chúa. Đấng đã sáng tạo nên con người, cho con người được sống tràn đầy hạnh phúc, đã có thể ngồi yên để nhìn sự thất bại hoàn toàn đó của con người, và đây là một lý do khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người là một sự kiện, là một thực tại cụ thể, con người tiếp nhận ơn cứu độ khi trở về trong vòng tay yêu thương ấp ủ, nhân từ của Thiên Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu xa, đó là sự hiện diện của người anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và hành xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả mọi người không hiểu và không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên Chúa đối với con người. Người anh cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công và phạt kẻ có tội thế thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người do chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến, nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình. Và chính để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem con người trở về với vòng tay yêu thương của Ngài. Khi rộng mở vòng tay ôm đứa con hoang đàng vào lòng, là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo dựng, khi nâng niu con người trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền năng của Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về với Chúa. Chính vì thế nên phải mở tiệc mừng.
Chúng ta không biết câu chuyện kết thúc ra sao. Không hiểu sau khi tha thứ và phục hồi phẩm giá cho người con đã hư mất ấy, người cha già có thành công trong việc thuyết phục người con cả để vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết một điều chắc chắn, đó là đa số trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất, cũng giống như người con cả trong dụ ngôn. Cho đến nay, chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vào nhà sống với Chúa thật sự. “Con ơi, mọi sự của Cha là của con”. Chính lời nói đó của người cha già khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì có một con tim, như con tim dịu hiền quảng đại vô bờ của cha. Anh sợ hãi phải có cái nhìn yêu thương đại đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống mà không hề nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng như anh con cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở nên giống Chúa, hoàn toàn phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như Chúa. Do đó chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta thường xuyên đi xem lễ mỗi ngày Chúa nhật hay cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh nhận các bí tích nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn nói chua ngoa và hành xử gian dối như những người không hề biết Tin Mừng của Chúa. Và đạo đó, quả thật là đạo nhà thờ, như người ta thường gọi. Nếu sống như thế là chúng ta khước từ chấp nhận mầu nhiệm nhập thể của Chúa và như thế cũng là đi hoang rồi.
Trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô 5,17-21, thánh Phaolô kêu gọi mọi người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã trao ban cho mọi người qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nghĩa là sống như một thụ tạo mới, với một con tim mới và một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia đã khẳng định trong chương 31 và tiên tri Êdêkiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả lại cho con người các liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách Giosuê nhắc cho dân Do Thái biết lời hứa cứu độ hiện thực qua biến cố Thiên Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, đã dẫn đưa họ trở về Đất Hứa. Cuộc sống khổ nhục buồn thương không tự do, không phẩm giá xưa kia không còn nữa, giờ đây dân Do Thái bước vào đất Hứa và bắt đầu cuộc sống mới với các buổi lễ vui, với công việc phụng tự, và các cơ cấu đánh dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử của họ. Lịch sử của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương che chở và mời gọi bước theo Ngài.
43. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Có một người đàn ông nọ khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa. Ngày nọ, ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông nhìn thấy một con vịt mẹ và một đàn con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch muốn rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng. Để tìm con này đến con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay thất vọng. Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám phá ra một chân lý và ông thốt lên: Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đang đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con của mình, đó là hình ảnh nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm con người. Qua bài dụ ngôn “người con hoang đàng” quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này, Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một con người trưởng thành. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói lên qua hình ảnh một người cha không muốn khăng khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó, để nó được tự do sử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi tạo lập một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng ngóng trông, theo dõi và chờ đợi đứa con. Ông khắc khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước ngõ để ngóng trông. Và khi người con vừa xuất hiện từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn mừng. Có lẽ trong văn chương nhân loại từ cổ chí kim chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh trên đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng trông con người từng giây từng phút, Thiên Chúa yêu thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân phận cao quý của một con người.
Đó là tất cả Tin Mừng của Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả chân lý ấy bằng câu nói: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái. Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: “Đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”. Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Mùa Chay qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta. Và tình yêu vô bờ của Người Cha ấy chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân, người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và tha thứ không ngừng.
Nguyện xin Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta bộ mặt tình yêu của Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta.
44. Trở thành thụ tạo mới – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Ngày nay báo chí và các hãng du lịch ở Tây phương thường đăng quảng cáo, không những các danh lam thắng cảnh nhưng cả những chương trình hồi phục sức khỏe, giảm trọng lượng cơ thể, thể dục, tắm hơi nóng, tập Yoga, hoặc theo các phương pháp đông phương. Các bài quảng cáo đó nói rằng: Sau một vài tuần, các tham dự viên sẽ trở thành con người mới ăn ngon, ngủ kỹ hơn, hạnh phúc và trẻ đẹp hơn, họ tìm lại được an bình nội tâm. Những địa điểm hoặc chương trình phục hồi sức khỏe có lẽ là một điều tốt đối với một số người, cũng có thể là đắt đỏ. Nhưng cũng có thể là làm cho người tham dự được trở thành một con người mới, ít nhất là trong một thời gian.
Điều mà những địa điểm và chương trình phục hồi sức khỏe đó có thể làm cho tâm lý và thể lý của con người như vừa nói, cũng có thể tương ứng phần nào với điều mà Chúa có thể làm cho chúng ta, để trong việc thiêng liêng, như thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô trong đoạn sau đây: “Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó sẽ là một thụ tạo mới. Những gì là cũ đã qua đi, nay đây tất cả mọi sự đã trở thành mới”. Câu nói này của thánh Phaolô có hai ý nghĩa.
Một đàng thánh Phaolô nói về trật tự cũ của nhân loại bắt đầu từ tổ phụ Adong, đó là tội lỗi và xa lìa Thiên Chúa. Trật tự này đã qua đi và được thay thế bằng trật tự mới, bắt đầu với Adong thứ hai là Chúa Giêsu Kitô. Đây là trật tự của ơn thánh và hòa giải với Thiên Chúa, nhưng nay nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa và sống trong ơn nghĩa của Chúa.
Ý nghĩa thứ hai trong câu nói của thánh Phaolô là ngài nói về trật tự cũ và Do Thái giáo theo Cựu Ước, trật tự này cũng qua đi và được thay thế bằng trật tự của niềm tin đối với Chúa Giêsu Kitô. Trong lịch sử Giáo Hội không thiếu những cuộc trở lại ngoạn mục của nhiều người, từ tình trạng tội lỗi ngập tràn trở thành thánh nhân như Augustinô. Tuy nhiên tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi trở thành thụ tạo mới hằng ngày trong Chúa Kitô dưới nhiều hình thức. Trở thành thụ tạo mới có thể là biết tự chủ mình, không để cho sự đam mê hướng dẫn hành động. Thụ tạo mới cũng có nghĩa là có một cái nhìn mới về cuộc sống lạc quan hơn, ít than thân trách phận và bớt phê bình chỉ trích hơn, can đảm sống liêm chính mặc dù những người xung quanh rơi vào cám dỗ muốn làm giàu một cách dễ dàng bằng mọi phương thế, kể cả những phương thế không hợp với luật Chúa, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh giác các giáo hữu thuộc tổng giáo phận Turinô (Nước Ý), trong cuộc viếng thăm mục vụ ngày lễ thánh Giuse 19/03/1992. Trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô có thể là kiến tạo những mối quan hệ mới mẻ với tha nhân, thay thế xu hướng ích kỷ bằng sự quan tâm đến những người khác và những nhu cầu của họ. Mùa Chay là mùa đổi mới con người, là mùa xuân, trong đó Giáo Hội mời gọi các tín hữu ra khỏi mùa đông của tâm hồn, để can đảm bắt đầu cuộc sống mới với chương trình sống cầu nguyện, tiết độ và chia sẻ với tha nhân. Chương trình này sẽ đưa tới lễ Phục sinh để họ có thể hát lên Alleluia.
45. Về với tình yêu Chúa – Lm. PM. Cao Huy Hoàng
Tôi vẫn thường thấy tội lỗi của người khác một cách dễ dàng hơn là nhìn thấy tội lỗi của tôi. Tôi vẫn thường đóng vai quan tòa để kết án người khác theo như tội trạng của họ. Tôi vẫn nghĩ rằng người khác tội lỗi hơn tôi- hoặc nghĩ là tôi thánh thiện-và tôi loại trừ họ, không giao du, không tiếp xúc với họ. Tôi vẫn đấm ngực người khác, trước khi đấm ngực tôi: “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại người ta một phần”. Như có một lần, tôi đến thăm một Linh Mục, bạn cùng lớp tôi, hỏi thăm về Giáo xứ, Ngài nói: “Ở đây mình ngán nhất là việc giải tội, vì họ xưng tội của người khác nhiều hơn xưng tội của chính mình”…Não trạng của những Biệt phái, những người Phariseu, thời Chúa Giêsu, vẫn còn hiện thực trong tim óc và cách sống của tôi, tín hữu thời nay. Và còn hơn thế nữa, những cảm thức về tội của thời nay còn biến thay muôn hình vạn trạng:
– Không thấy mình có tội hoặc tự tha tội cho mình tự chước giảm mức nặng của tội.
– Tội phong trào: người ta phạm được mình phạm được
– Sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải để trở về với Thiên Chúa cũng giảm nhẹ, nếu không nói là không còn, đối với một số người.
Thì ra, ở đâu và thời nào, sức bành trướng của thế lực thù nghịch Thiên Chúa luôn lôi kéo con người ra chỗ càng xa Thiên Chúa càng tốt- như các người biệt phái xưa, thấy những người thu thuế, tội lỗi tìm đến Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu tiếp đón họ ân cần, thì lòng họ khinh bỉ luôn cả Chúa Giêsu là không có tư cách cứu thế.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đưa ra một loạt ba ví dụ về lòng nhân từ của Thiên Chúa(Lc 15): Con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là ví dụ về tình phụ tử trong Tin Mừng hôm nay-nhằm nói với họ rằng: Chúa Giêsu đến với người tội lỗi, cứu người biết mình tội lỗi có ý hướng quay về.
Suy gẩm ví dụ “Tình Phụ Tử” cho tôi thấy trong ấy hàm chứa nhiều thông điệp quan trọng với đời sống tín hữu của tôi:
– Thiên Chúa để cho con người tự do dùng các ơn của Chúa: người con thứ đòi chia gia tài, người Cha tôn trọng và đáp ứng yêu cầu của con
– Lòng Cha yêu con, buồn phiền, không yên lòng, khi con rời xa Cha, luôn mong con trở về với mái ấm tình thương gia đình
– Sự sám hối chân thành của người con thứ: nhận ra mình đã lỗi phạm đến tình thương của Cha, quyết tâm đứng lên, mạnh dạn trở về thú tội và xây dựng một tương quan mới: tương quan của một lòng yêu thật.
– Cử chỉ, thái độ và kế hoạch đón tiếp của Cha, đầy tình thương yêu, cảm thông và tha thứ.
– Không nên có thái độ của người con cả với những ý niệm sai lầm về tương quan Cha Con, như tương quan của chủ tớ, sống trong tình thương của Cha, mà không nhận ra tình thương ấy.
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
Một phần suy niệm các thông điệp, tôi muốn dùng Lời Chúa hôm nay, “Tình Phụ tử”, liên hệ đến đời sống Bí Tích Hòa Giải
Điều đáng vui mừng là ở khắp các Giáo xứ tại Việt Nam, việc ban và lãnh nhận Bí tích Hòa giải vẫn còn đang sinh động lắm. Nhưng điều đáng nói là: cần bổ sung vào việc đạo đức ấy một tâm tình thánh thiện chân thành của người con hoang đàng như trong ví dụ “Tình Phụ Tử”.
– Cảm thấy xấu hổ vì tội: làm cho mất nhân phẩm tự nhiên và nhất là mất nhân phẩm Ki tô hữu, “con cái Thiên Chúa”. Cảm nghiệm được sự bất hạnh khi sống trong tình trạng xa cách Thiên Chúa và nhất là “giác ngộ” được chân lý “sẽ phải chết đời đời”
– Cảm thấy đói: không chỉ giữ luật xưng tội một năm ít là một lần, nhưng phải có tâm tình “cảm thấy đói”. Ấy là “Đói” Chúa Giêsu Thánh Thể, khao khát được kết hợp lại với Chúa Giêsu và Thiên Chúa qua việc rước lễ, để được “sống lại và sống đời đời” trong tình thương yêu của Chúa.
– Quyết tâm trở về: “Tôi sẽ đứng lên sẽ trở về cùng Cha…” đồng nghĩa với việc quyết tâm chừa tội và mạnh dạn tìm đến Bí tích Hòa giải cách sớm nhất.
-Thú tội: “Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha..”: xưng thú tất cả các tội đã phạm với lòng tin tưởng vào lòng Chúa nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ; chân thành nhận hoàn toàn sự sai trái thuộc về mình, do sự lạm dụng tự do của mình, không đổ thừa đổ lỗi cho ai, cho hoàn cảnh…
– Dự tiệc: dự tiệc Thánh Thể với tâm tình Tạ Ơn lòng Chúa nhân hậu.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây, một vài vấn nạn thường gặp của tôi, của các tín hữu khi đề cập đến Bí tích Hòa Giải.
– Không xét mình hằng ngày, dần dần mất cảm thức về tội, mất lòng thống hối
– Không thường xuyên tham dự Thánh Lễ, mất lòng khao khát kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, do đó, việc xưng tội trở nên không cần thiết.
– Không tin tưởng đủ vào lòng Chúa thương xót, mất niềm trông cậy
– Các Linh Mục, thừa tác viên Bí tích giải tội, trung gian của ơn thứ tha hòa giải, đóng một vai trò quan trọng vô cùng trong việc trở về của các hối nhân. Các tín hữu vẫn mong thấy được lòng nhân từ của “Chúa thương xót” thể hiện nơi cách tiếp đón và thi hành mục vụ Bí tích cách nhân bản, tế nhị và đạo đức nhất.
Vì những vấn nạn trên, nên đã hình thành những tâm trạng như: có tội xét mình dễ, có tội khó; có tội dễ xưng, có tội khó nói; có tội xưng dễ, chừa khó; có Cha ngồi tòa đông hối nhân tìm đến, có Cha chẳng có ai; có việc đền tội làm được, có việc không…
TÌNH YÊU
Không phải mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh dạy cho tôi có cảm thức về tội, nhưng chính “lòng yêu” của tôi, lòng biết ơn của tôi dành cho Thiên Chúa, như dành cho “người Cha nhân hậu” mới cho tôi nhận ra tôi đã xúc phạm tới Thiên Chúa và tha nhân đến mức nào. Chính vì ‘hiểu được Cha tôi ở nhà thương tôi, lo cho tôi từng bữa cơm, từng tấm áo, từng giấc ngủ’; nên tôi mới nhận ra sự bất hạnh của tôi khi phải sống xa Cha, sống bụi bờ, đói khát và mất nhân phẩm; và tôi quyết tâm trở về vì tôi yêu Cha tôi.
Phàm ai trên đời cũng có tội, tôi cũng không ngoại lệ. Tội, không chỉ dựa theo mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh-mà còn là Tội: mỗi khi tôi đặt “lòng yêu” của tôi trọn vẹn vào một thực tại hư hèn, hoặc một thực tại không phải là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn, để con kịp nhận ra những gì là không phù hợp với Thánh Ý và Tình Yêu Chúa; để con kịp nói với Chúa lời xin lỗi vì những xúc phạm, để con kịp tìm đến Bí tích Hòa Giải mà trở về với Chúa, trong vòng tay ôm yêu thương của Chúa, Người Cha nhân hậu. Amen.
46. Hai người con, hai cuộc trở về – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.
Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.
Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: “Anh chị em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi”. Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.
Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở về ông bảo: “Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: “Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con”. Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia đình.
Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: “Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi” tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài cuộc.
Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã qua.
47. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản. Có bao giờ chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa? Đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi khám bác sĩ bảo không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Đó là kinh nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Đó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng, trong những trường hợp đó, chúng ta sẽ thấy thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: “Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát”.
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giosuê kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Dân Chúa đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống. Họ đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn”.
Nơi bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Đó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: “Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa”.
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Đất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.
Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Để an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: “Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi”, Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về. Người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con. Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời “Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan”.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi noi gương người em trong gia đình nơi bài dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tôi phải làm một hành động chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha tôi, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người. Hành động đó có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ. Và kế đó học lấy bài học của người anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Tôi hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.
48. Người Cha nhân từ – Lm. Damien OFM
Người cha nhân từ.
Trong bài tin Mừng của Chúa nhật III Mùa chay vừa qua, Chúa Giêsu thúc dục chúng ta lo ăn năn thống hối. Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa chay hôm nay nói đến lý do của lời thúc dục trên là vì Chúa là người cha nhân từ.
Lòng nhân từ của Chúa.
Khi đọc xong bài Tin Mừng nầy, có một người cha phản ứng ngay: “Sao kỳ vậy! Biết nó lấy của ra đi ăn chơi phung phí đến hư thân mà lại để cho nó ra đi, không ngăn cản, la rầy một lời nào cả?”
Lòng nhân từ của người cha được biểu lộ không những trong thái độ tha thứ, chờ đợi để tha thứ mà cả trong thái độ tôn trọng sự tự do của con cái.
Thật vậy, khi đứa con xin chia gia tài và ra đi, người cha dư biết nó sẽ hư; nhưng lạ lùng thay, người cha nầy lại không một lời la rầy trách mắng như các người cha khác thường làm, cũng không một lời can ngăn hay khuyên bảo. Lòng khoan dung của người cha được biểu lộ trước tiên qua sự tôn trọng tự do của con cái, không áp đặt, dù biết can ngăn hay la rầy lúc nầy là điều tốt cho con cái. Thiên Chúa đối với con người, như với những đứa con trưởng thành, và chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi. Thái độ của Thiên Chúa có thể làm cho các bậc cha mẹ ngạc nhiên và khó chịu, và họ có thể cho đó là nuông chiều con cái. Con cưng là con hư mà!
Trong lúc đó, những người tội lỗi và thu thuế đang nghe Chuá nói chắc cảm động lắm. Họ dư biết Chúa Giêsu đang nói đến lòng khoan dung của Thiên Chúa đối với họ. Còn những người khác không nhận ra mình là người tội lỗi như Biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay, thì dụ ngôn kia chỉ là một câu chuyện nằm trong loạt các câu chuyện người tốt việc tốt, một người cha đáng khen, chỉ thế thôi. Có chăng thì nó có thể là đầu đề của một bài thơ hay một bài nhạc, nhưng ít khi là đầu đề của cuộc sống.
“Anh em hãy sống nhân từ như Cha anh em ở trên trời là Đấng nhân từ”. Thường lòng nhân từ mới có sức hấp dẫn, và đổi mới được con người, chứ không phải là những lời chỉ trích phê bình hay lên án.
Có đạo mà không có đức.
Thái độ của người anh cả là thái độ tiêu biểu của biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay.
“Con không hề trái lệnh cha một điều nào”: Anh tự cho mình giữ đúng luật lệ của đạo hiếu và cũng vì thế mà tự cho mình có quyền giận dữ trước thái độ nhân từ của người cha và quyền lên án người em: “Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đĩ điếm…” Ngày nay cũng thế, có nhiều người đọc kính xem lễ đều đặn, giữ một số việc đạo đức hết chỗ chê, nhưng lại sống thiếu lòng khoan dung. Họ tự hào về đời sống của mình và tự cho mình quyền phê bình, lên án, hay khinh khi những ai không giữ luật bề ngoài được như họ. Một thái độ chẳng Phúc Âm chút nào. Người ta thường nói về họ cũng như về những biệt phái và luật sĩ xưa: đó là những người có đạo mà không có đức, vì thiếu lòng khoan dung. Và chính sự thiếu lòng khoan dung nầy nhiều khi là nguyên nhân chính của những cảnh cơm không lành canh không mặn trong các gia đình, các cộng đoàn, với hàng xóm cũng như trong Giáo Hội và xã hội.
Dụ ngôn người cha nhân từ vừa làm cho ta cảm động trước lòng khoan dung của Thiên Chúa, vừa thúc dục chúng sống khoan dung với kẻ khác, vừa là một bài học về cách huấn luyện cho các bậc làm cha làm mẹ và những người có trách nhiệm đào tạo giới trẻ hôm nay. Nhiều khi sự thinh lặng khoan dung có sức thuyết phục hơn muôn vàn lời nói. Lòng khoan dung đi đôi với lòng kính trọng con người, là đường lối huấn luyện của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ cũng như đối với những người yếu đuối và tội lỗi hôm qua và hôm nay, như bạn với tôi hôm nay vậy.
Bổn phận tôi là cho mượn.
Chuyện xảy ra ở một thôn bản người dân tộc thiểu số.
Có gia đình kia nghèo nhưng đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nên trong nhà không thiếu ăn. Mấy người hàng xóm thiếu, cứ đến vay mượn hoài, và hứa sang mùa tới sẽ trả. Nhưng sự thật thì có một vài người hết mùa nầy sang mùa nọ, chẳng bao giờ trả được. Bà mẹ già trong gia đình không bằng lòng và trách con gái:
– Sao mầy ngu vậy? Bạ ai hỏi cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mầy thì mầy lấy gì mà ăn?
Chị mỉm cười và ôn tồn đáp lại:
– Mẹ nầy, không sao đâu! Mình nghe lời Chúa dạy: cho mượn là việc của mình phải làm, còn trả hay không là việc của người ta mà!…
49. Cha nhân lành vòng tay rộng mở – Achille Degeest
Trả lời những câu nói xa nói gần ác ý của những người Biệt phái, Đức Giêsu nêu ra những dụ ngôn đẹp lạ lùng về lòng từ ái, nhất là dụ ngôn đứa con phá gia. Biệt phái và Ký lục là những kẻ có “môn bài” giải thích Lề Luật, tự cho quyền xét đoán kẻ khác về phạm vi Lề Luật. Họ rất bất bình thấy Chúa nói chuyện, hơn nữa, tỏ ra thân mật với những kẻ tội lỗi. Chúa công khai ghét sự tội vô cùng, lên án sự tội dù nó mai phục trong những chốn hiểm hóc nhất là tâm và trí con người. Vậy mà Chúa lại dễ tính để người ta gọi Người là bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi. Thật ra Chúa có làm bạn với hạng người ấy, vì bản thân Chúa hoàn toàn trong sạch cho nên Chúa có thể thương yêu trong sự thật hạng người tội lỗi. Bài dụ ngôn được thánh chép sử thuật lại theo một mạch lạc trong sáng, chẳng cần giải thích thêm. Chúng ta nhặt ra mấy đoạn có giá trị gợi cảm.
1) Hồi tâm lại, nó tự nhủ…
Anh thanh niên khinh bạc và ích kỷ nhận ra hơi muộn, nhưng không quá muộn, là những hành vi của anh đưa đến những hệ luỵ. Trước đây anh không muốn nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ những hệ luỵ tai hại xiết chặt lấy anh. Anh nhận thấy, hưởng thụ bằng cách chỉ vung tiền mà không lao động tiết kiệm tất đưa đến khốn khổ. Tuy nhiên còn có điểm đáng khen là anh không tuyệt vọng về cha anh. Nguyên tắc hồi tâm trở lại là không được tuyệt vọng về Thiên Chúa. Hơn nữa trong thâm tâm phải nhìn nhận mình bất xứng và chỉ trông cậy vào tình yêu của Cha.
2) Người con cả liền nổi giận và không thèm vào nhà…
Trên bình diện con người, phản ứng như người anh cả rất dễ hiểu. Nhưng Đức Giêsu dạy rằng trong Nước Trời, phản ứng như vậy không được. Những kẻ lành ăn ở ngay thẳng là đúng bổn phận, phải quyết chí trung kiên trong kinh nguyện và cố gắng đạo đức. Tuy nhiên họ không có quyền đặt một giới hạn cho lòng từ bi của Thiên Chúa. Hơn nữa, phải độ lượng theo lượng cả khoan dung của Người. Giả sử Thiên Chúa vui mừng thấy một đứa con hư trở về nhà Cha, thì những kẻ xưa nay vẫn hiếu thảo được mời gọi chung vui đón mừng kẻ sám hối.
3) Truyền thống Kitô giáo từ xưa đã cảm thấy điểm trung tâm của dụ ngôn này là lòng độ lượng của Cha.
Tất nhiên, điều cần thiết tuyệt đối phải có, là kẻ tội lỗi phải ăn năn hối hận. Dẫu sao, thực tại trước hết là Thiên Chúa dành cho kẻ có tội một sự quan tâm âu yếm thương xót. Đứa con hư khỏi mất công gõ cửa vì cửa mở sẵn chờ ý. Người cha chạy vội ra xa đón chờ con. Tới đây chúng ta thấy Thiên Chúa nhân lành không biết đến những hạn chế con người đặt cho sự tử tế của mình, những hạn chế có tên là tự ái, tự trọng, công bằng, v.v… Điều chắc là Thiên Chúa cầm cân nảy mực, duy trì trật tự trong mọi sự mọi việc, và chẳng thấy chỗ nào trong Phúc Âm nói rằng đứa con lãng tử khỏi phải tạ tội, khỏi phải làm điều gì để hàn gắn thiệt hại y đã gây ra cho gia đình –nhưng một vòng tay rộng mở chờ y.
50. Trở về trong tình thương.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chế, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kia…”
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
51. Cha ơi, con đã về – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu nói mùa Vọng là mùa con người trông chờ Chúa đến thì mùa Chay hẳn là thời gian Chúa đợi mong người ta trở về. Trông đợi nào cũng là tác động của nhớ thương. Bởi lẽ có thương mới nhớ. Có nhớ mới tha thiết trông mong, đợi chờ. Nhưng dường như trong sự trông đợi của con người vẫn phảng phất một nỗi nhớ nhung chưa trọn vẹn. Có thể vì con người còn thương mình hơn thương Chúa. Trong khi đó, nỗi đợi chờ của Chúa lại chất chứa cả một bầu trời yêu thương bao la, vời vợi.
Đọc câu chuyện “Tình Cha” tôi nhận ra điều đó. Người con thứ khát vọng một chuyến ngao du cho thoả chí tang bồng. Anh bỏ rơi cha già, ra đi theo tiếng gọi xa xăm. Người cha âm thầm chấp nhận. Ông không nuối tiếc vì phải chia bớt một số gia sản, nhưng đau khổ vì mất đi người con dấu yêu bồng bột. Nỗi khổ còn nhân thêm khi đời mình đang bị kết liễu ngay trong tâm trí của đứa con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài lúc biết mình sắp chết. Và con cái sẽ nhận phần khi bố mẹ đã qua đời. Nhưng đứa con đó lại đòi chia tài sản và thu gom tất cả, ra đi khi người cha còn khoẻ mạnh. Bản án tử hình được công bố. Người cha xót xa nhìn bóng con xa mờ.
Không phải chỉ có tội bất hiếu khi đày đoạ lòng cha, người con còn làm bại hoại gia phong khi giao du với quân đàng điếm. Có cha mẹ nào lại không muốn con khôn lớn, nên người đức hạnh, ăn học thành tài, mang lại thanh danh cho gia đình dòng họ. Thế nhưng, thay vì danh thơm tiếng tốt, đây chỉ là nỗi tủi nhục cay đắng vì đứa con mất nết hư thân.
Đã vậy, nó còn làm nhơ uế cả thuần phong mỹ tục. Với một truyền thống thanh sạch khởi đi từ bao đời, với những mẫu gương anh hùng của tiền nhân: thà chết còn hơn ăn thịt heo, như cụ già Êlêasar hay “Người Mẹ với Bảy Đứa Con” trong sách Macabê. Ấy thế mà giờ đây, phẩm giá của hắn còn thua cả giống heo. Muốn ăn đồ ăn của loài súc sinh bẩn thỉu mà cũng không ai cho. Thê thảm thay!
Thế rồi khi cơn đói giày xéo đến cực độ, người con bắt đầu sực tỉnh. Nó băn khoăn tự nhủ: những người làm công cho cha mình đâu có bị đối xử tàn tệ như thế này. Họ được ăn uống dư dật, còn mình lại bị chết đói nơi đây. Nó ước mong trở về. Nhưng động lực của mong ước đó không phải vì thương nhà, nhớ cha, song vì đói quá. Sự bồn chồn khát khao thúc đẩy bước chân người con trở về không phải vì lương tâm cắn rứt, nhưng vì bao tử cào cấu quá mạnh. Dẫu sao thì cũng đã có một động cơ thúc đẩy người con trở về, dù rằng không đẹp lắm.
Nhưng động cơ thúc đẩy nơi đứa con càng tiêu cực thì lại càng làm nổi bật tình thương vô cùng nơi người cha. Đọc lại đoạn văn tả cảnh “cha con đoàn tụ” thì mới thấm thía được tình Chúa bao la làm sao!
Luca, người chép chuyện, không nói rõ đứa con bỏ nhà đi từ bao lâu. Chỉ biết khi đi nó mang theo nhiều tiền. Chắc phải tiêu sài một thời gian mới hết. Sau đó còn phải đi chăn heo, túng thiếu, đói khát, tiều tụy lắm. Tức là vừa có thời gian dài của xa nhà vừa có sự thay đổi của hình hài thân xác. Ấy thế mà khi “nó còn ở đằng xa, thì cha nó đã thấy nó” (Lc 15:20). Nhận ra dáng con từ đằng xa bằng đôi mắt già lão của mình hẳn phải nhờ tác động của tình thương. Có biết bao cha mẹ có con trong tầm tay với mà không nhận ra hay cũng chẳng muốn nhìn nhận. Phải chăng vì họ thật tình không thấy, hay con mắt yêu thương đã bị nhạt nhoà mù tối: mù tối bởi những hưởng thụ bất chính và ích kỷ đam mê?
Khi thấy con, người cha đã “chạnh lòng thương.” Không hiểu tại sao ông ta lại chạnh lòng thương? Nguyên do nào lại quặn lòng đau xót trước thân hình tiều tụy của một kẻ hư thân bất hiếu, làm tán gia bại sản, gây ố nhơ cả thuần phong mỹ tục? Tại sao không đợi nó dẫn xác vô nhà mà giáng cho một trận nên thân, hay dạy cho một bài học nhớ đời, trái lại, ông đã chạy ra với nó? Phải chăng vì tình thương của ông quá lớn, ấp ủ bao tháng ngày đợi trông, nay bị vỡ tung qua hành động chạy đến với con.
Thế ra, tình yêu chân chính và tuyệt hảo không chờ đối tượng được yêu tìm đến với mình, nhưng luôn đẩy mình đến với người được yêu. Chính tình yêu chân chính và tuyệt hảo đã đẩy Thiên Chúa đến với con người.
Thế rồi, khi gặp con, “ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để”. Đây không phải là nụ hôn phản trắc, lạnh lùng, bán đứng người được hôn như của Giuđa. Song là cái hôn cuống cuồng nhớ thương, sau bao khao khát mong chờ.
Trước thái độ và hành động chan chứa ân tình của cha, người con chỉ biết thốt lên: “Con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:21). Người con muốn nói thêm. Nó tính nói lên cái ước vọng được trở thành người làm công cho cha, hầu có được miếng ăn. Như một người đi xin việc, nó muốn trình bày một chút quá khứ và khẩn cầu một chút ân huệ. Quá khứ đó khiến nó “không đáng được gọi là con cha nữa”. Cuộc đời từ nay chỉ cầu sao được “làm công cho cha thôi” cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Nhưng người cha đã nói át điều hắn sắp sẵn. Quá khứ của hắn, ông không màng. Ước nguyện đơn sơ của hắn, ông đáp ứng còn nhiều hơn điều hắn có thể tưởng tượng ra. Ông gọi đầy tớ cấp tớ cấp tốc đem áo choàng thượng hạng thay cho bộ áo tả tơi rách nát của hắn, lấy nhẫn vàng đeo vào ngón tay khẳng khiu vì đói, lại còn mang giày vào đôi chân vương lắm bụi đời của hắn nữa. Ôi, toàn là những thứ biểu trưng cho hạnh phúc giàu sang: áo choàng cho danh dự, nhẫn vàng cho quyền lực, và đôi giày cho hạng người tự do! Phải chăng chỉ có tình thương mới phục hồi nhân phẩm con người cách trọn vẹn nhất? Phải chăng tình thương của Thiên Chúa mới xoá hẳn quá khứ tội lỗi xấu xa, và hoàn lại cho đời ta phẩm giá cao đẹp nhất của người con Nước Trời?
Cảm nhận được tình Chúa, cuộc trở về của tôi mới thật chân thành. Nếu đi xưng tội trong mùa Chay vì sợ sa hoả ngục, hay hãm mình trong mùa Chay vì sợ sa hoa ngục, hay hãm mình trong tuần thánh chỉ muốn lên thiên đàng, không chút cảm nhận tình yêu của Cha trên trời, thì tôi vẫn còn thiếu sót lắm.
Thế nhưng, lạy Chúa, dù sợ hoả ngục hay ước mơ thiên đàng thì con vẫn muốn đứng lên trở về. Dù động cơ thúc đẩy con về là miếng ăn hay cơn đói, con vẫn biết tình thương của Chúa sẽ làm đẹp tương lai đời con. Con tin rằng cứ lên đường trở về là thoát cảnh “chăn heo”. Sà vào lòng Cha là tìm được nguồn ơn tha thứ. Ở bên Cha sẽ không phải đói khát bao giờ. Cha ơi, nay con đã về!
52. Làm hòa – Lm. Anmai, CSsR
Đại Lễ Vượt Qua đã đến gần và niềm vui của ngày Đại Lễ ấy sắp đến. Tâm trạng của chúng ta như thế nào trong trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Trang Tin mừng này hết sức quen thuộc, hết sức gần gụi với mỗi người chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện hết sức đời thường trong gia đình. Gia đình ấy được kể ra với hình ảnh của người cha và hai người con, không hề nhắc đến người mẹ và mỗi người chúng ta được mời gọi vào vai của cả ba người. Ta có thể là người cha giàu lòng thương xót bao dung, ta có thể là người con út ngỗ nghịch và ta cũng có thể là người anh cả trong gia đình ấy.
Như dân Do Thái ngày xưa trong cái hành trình vượt qua sa mạc để về Đất Hứa, cũng đã đôi lần ta ngỗ nghịch như người con út, ta ganh tỵ như người con cả và ta cũng bao dung như một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Qua hồi tâm, qua hối hận, qua ăn năn, qua thanh luyện, qua tái tạo, qua tha thứ, qua cử chỉ làm hoà với Chúa, với anh chị em đồng loại ta sẽ được trở thành con người mới tốt hơn như lòng Chúa mong muốn.
Làm hoà với anh em chính là bước đầu tiên để có thể đến hòa giải với Thiên Chúa. Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta cử hành, trước khi để tiến dân Thánh Lễ cho xứng đáng, chúng ta xin ơn tha thứ của Chúa, của anh chị em đồng loại.
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì ngôn từ tha thứ, làm hoà đóng một vị trí hết sức quan trọng. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha nhưng nó có ý giúp con người chạy đến với Thiên Chúa là Cha nhân lành tha thứ cho mình những yếu đuối của phận người. Điều quan trọng để đón nhận ơn tha thứ, ơn làm hoà với Thiên Chúa là con người phải biết tha thứ, làm hoà với anh chị em đồng loại đã xúc phạm đến mình.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình, Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà… Chúa Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Chúa Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Chúa Giêsu không bảo: “Làm cái này rồi tôi tha thứ cho”. Không? Người tha thứ rồi mới nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa “.
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá hủy ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị “tha hóa ”
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nữ, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước dẫn vào đời sống mới.
Thật tối đẹp nếu như chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi. Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
Trang tin mừng hôm nay hết sức hấp dẫn, dụ ngôn hôm nay chúng ta nghe không phải là lần đầu mà nghe đi nghe lại quá nhiều lần. Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta bắt đầu vào vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo dõi tâm tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng cũng có thể chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là “những người khác” mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Khuôn mặt của người con thứ khá cường điệu được vẽ nên trong cảnh một của dụ ngôn này. Anh ta đòi cha chia gia tài ngay khi cha anh còn sống để anh ta được sống tự do hoàn toàn. Với cuộc sống buông thả và phóng đãng thì chẳng chóng thì chầy, tiền núi cũng phải hết. Tiền hết thì anh ta rơi vào tình cảnh hết sức bi đát. Chẳng đặng đừng nên anh ta phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải “chăn heo ” cho chủ – đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ – vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được “tống đầy bụng những thứ heo ăn” mà không được.
Anh đã ân hận, sau khi suy nghĩ hết sức cẩn thận anh quyết định trở về nhà sau khi cảm thấu được sự đói khát, thiếu thốn. Để chuẩn bị cho cuộc trở về, anh ta đã vẽ lên trong đầu anh ta những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi”. Khác với những gì anh nghĩ trong đầu, khi trở về, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọi thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
Chúng ta chuyển sang vai diển của người anh. Đại tiệc đang diễn tiếng thì người anh “từ ngoài đồng” về đến nhà. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang “giận dữ”. Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: “Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè”. Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: “Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà”. Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng”.
Nếu chỉ để tâm coi hình ảnh của hai đứa con mà không nhìn đến hình ảnh người bố trong nhà này quả là điều thiếu sót thật lớn. Chúng ta bước sang một bên để nhìn đến chân dung người cha. Người Cha trong dụ ngôn này chính là nhân vật trung tâm, nhân vật chính. Ông là một người cha sống nặng tình cảm hơn lý trí, ông là một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải “chạy ra” coi, và ông phải chạy ra đến hai lần. Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lởi nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. “Mau lên!” ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. “Mau lên!” vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: “Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”. Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Dụ ngôn người con hoang đàng mà chúng ta vừa nghe mang đậm chất thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn này diễn tả tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, tình yêu nhưng không không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài? Ngài là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Chúa Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên “dơ” không? Hay anh vẫn giận dữ… Tường thuật của Tin Mừng không trả lời… Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác họa cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được.”
Thánh Phaolô vừa nhắc nhở chúng ta: “Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.”
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và đầy tình thương, chúng ta hãy chạy đến với Ngài như đứa con thứ ngày hôm nay trong Tin mừng để xin Cha tha thứ, xin Cha bỏ qua những lầm lỗi của ta trót phạm đến Cha và chúng ta cũng xin cũng hãy bớt đi một chút sự xét đoán, hơn thua của người anh để tha thứ cho những đứa em ngỗ nghịch trong đời ta. Chúng ta hãy chạy đến Chúa, chạy đến và xin Chúa tha thứ tất cả để ta được làm hoà cùng Chúa và anh chị em đồng loại.
Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí: Ơn An Bình. Xin Chúa thương tha thứ những lầm lỗi ta đã xúc phạm đến Chúa cũng như anh chị em để chúng ta có được sự bình an thật trong tâm hồn để chờ đón ngày Chúa lại đến trong Vinh Quang của Ngài.
53. Bài học về lòng xót thương – Lm. Anmai
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe trong Chúa nhật tuần 4 Mùa Chay.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời. Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
54. Người con hoang đàng – McCarthy
Suy Niệm 1. THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
55. Người con trai đi hoang
Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.
Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.
“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).
Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
56. “Tôi muốn trở về với cha tôi”
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ, nhiều người không đồng ý như thế. Họ thích gọi dụ ngôn là dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Có lẽ cách gọi sau hay hơn cách gọi trước vì, rõ ràng, dụng ý của thánh Luca khi viết dụ ngôn này, đã cho thấy vai trò của Người Cha chủ động trong tình yêu của ông, một tình yêu lớn không thể tưởng, không thể hiểu nổi bởi nó vượt quá sức những gì ta có thể tưởng nghĩ, có thể hiểu được: một tình yêu vĩ đại không gì sánh bằng.
Người cha đó không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa của tình yêu. Hơn thế, Người là chính tình yêu. Bởi vậy, dù loài người có thể đánh mất, hoặc đã tự mình đánh mất tư cách làm con Thiên Chúa, tự mình vong thân và vuột khỏi tình yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn một mực đón nhận loài người. Thiên Chúa vẫn trung thành trong tình yêu của mình. Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Ngược lại, vẫn mãi mãi là một người Cha cần mẫn, bao dung, tha thứ, từ bi hãi hà…
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, thì tình thương của Chúa vẫn cứ sâu nặng, vẫn cứ cao ngất, vẫn cứ mạnh mẽ, không có bất cứ một chướng ngại nào có thể cản trở.
Dù chúng ta có tự tách mình đi xa tình yêu Thiên Chúa tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn không ngừng kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ và thông chia cho ta chính sự sống của Người, miễn là ta biết nhìn nhận tội lỗi và thành tâm sám hối quay trở về với Người.
Trở về với Chúa là nhìn nhận mình tội lỗi và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thay đổi đời sống. Đứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đủ mọi mùi vị đắng cay, đói khổ, cả đến nhục nhã: thấp hơn loài heo, bởi chỉ “muốn ăn đồ heo ăn mà cũng chẳng ai cho”, đã tự nhủ: “Tôi muốn trở về với cha tôi”. Sau cùng, anh ta đã đứng lên, trở về thật, dù sự trở về của anh không hề vì tình yêu của cha, mà chỉ vì mình, chỉ vì bụng đói. Vậy mà người cha bất kể anh trở về với ông vì lý do gì, miễn là anh trở về, và đứng trước mặt ông là đủ để ông tha thứ tất cả, quên tất cả lỗi lầm của con ông. Lòng nhân từ của ông không thể có bất cứ điều gì sánh ví được.
Chúng ta cũng vậy. Hãy trở về với Chúa để đón nhận lòng nhân từ vô biên của Người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta, đón tiếp chúng ta, quên tất cả, và quên một cách hết sức nhanh chóng tất cả những gì trong quá khứ chúng ta lỗi phạm. Người tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Tình yêu thương, lòng tha thứ đại lượng của Thiên Chúa, đó là những điểm then chốt của bí tích hòa giải, bí tích mà Hội Thánh tha thiết kêu nài chúng ta hãy lãnh nhận trong Mùa Chay này.
Trong mùa Chay, Hội Thánh mời gọi ta trở về với Chúa và trở nên giống Thiên Chúa. Hội Thánh dạy ta hãy để cho tình yêu của Chúa ngự trị trên cuộc đời mình, và hãy tin tưởng ngã vào tình yêu của Người. Bởi đó, dụ ngôn trên được gọi là dụ ngôn Người Cha nhân hậu lại càng ý nghĩa hơn, có sức mời gọi ta mạnh hơn, tích cực hơn, giúp ta hiểu rằng, khi ta trở về với Chúa, trước hết, là do tình yêu của Chúa, nại vào tình Chúa yêu ta, chứ không phải tự bản thân ta. Bởi nếu ta có cố gắng vươn lên, thì đó cũng chỉ là nỗ lực cộng tác của ta vào tình yêu của Chúa mà thôi. Chính Chúa là Đấng đoái nhìn đến ta, chủ động yêu thương và tha thứ cho ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết hồi tâm sám hối, biết lãnh nhận niềm vui được tha thứ, được Chúa ôm ấp trong cánh tay nhân từ của Người, bởi Người là tình yêu, là suối nguồn bình an muôn đời của loài người chúng ta. Tất cả chúng ta hãy sống và luôn luôn tâm niệm lời của người con hoang đàng: “Tôi muốn trở về với cha tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa. Chúng con biết, nhiều lần, chúng con cũng giống như người con hoang đàng bỏ Chúa mà ra đi theo thế gian, theo tiếng gọi của cám dỗ. Xin tha thứ cho chúng con. Xin uốn nắn lòng chúng con, để từ đây, nhất là trong mùa Chay thánh này, chúng con làm lại những gì đã đánh mất và xứng đáng hơn với tình yêu vô bờ của Chúa. Chúa là Cha nhân từ. Chúng con muốn trở về với Cha chúng con. Amen.
57. Người con hoang đàng – R. Gutzwiller
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!… Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
58. Người con phung phí – Lm. Phêrô Thiên
Ba câu mở đầu bài Tin Mừng là lời dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”: con chiên lạc tìm được, đồng tiền đánh mất tìm được, đứa con đi hoang tìm được. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể để tự biện hộ về những quan hệ chướng tai gai mắt (đối với phái Pharisêu) mà Người có với những “kẻ tội lỗi”.
“Một người kia có hai con trai…” Ta thường có thói quen xấu là chỉ nghe nửa đầu của dụ ngôn, phần nói về đứa con thứ. Thế nhưng, ông cha mới là người hùng của câu chuyện. Chúng ta sắp nghe không phải dụ ngôn “Người con phung phá” song là “Người cha phung phí”, một vở kịch hai màn: cuộc “tranh chấp” giữa một người cha với 2 đứa con, cả hai đều được yêu mến như nhau, yêu mến điên cuồng, mặc dầu chẳng có đứa nào xứng đáng với tình yêu đó cả! Một câu chuyện tình cảm động nhất (Charles Dickens), một hình ảnh đẹp nhất của Cha trên trời!
1- Thái độ của người cha đối với đứa con thứ
Đứa con này chỉ là một tên trục lợi: nó đòi tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Nó chỉ nghĩ tới mình. Nó nhận tất cả từ cha, nhưng chẳng hề biết ơn cha, mà chỉ nghĩ một chuyện: đòi hỏi, yêu sách… Phần người cha thì hoàn toàn trái ngược. Ông chỉ là cho không, chia sẻ vô vị lợi, tôn trọng tự do người khác, tóm lại chỉ là tình yêu! Hình ảnh Thiên Chúa!
Đứa con thứ chính là hình ảnh Biệt phái vẫn thường vẽ lên về tội nhân: a/ Là đứa con nổi loạn, đòi độc lập tự chủ, y quả tượng trưng chủ nghĩa vô thần của mọi thời: hưởng dùng các “ân huệ” của Thiên Chúa nhưng chẳng thừa nhận Thiên Chúa, còn sống xa Người, muốn làm mọi chuyện mà chẳng bị ai kiểm soát cả: “không Chúa không chủ”. Điều đó đặc biệt đúng với hôm nay! b/ Hơn nữa, đối với Biệt phái, đứa con Israel này đã xuống tới đáy ti tiện đê hèn. Nó đã bán thân làm nô lệ cho một người ngoại, thành thử chẳng còn giữ ngày sabát cũng như các tập tục về thanh sạch: nó chăn heo, con vật nhơ bẩn, ghê tởm, bị cấm đoán. c/ Hơn nữa, dẫu chỉ xét về mặt con người, sống như thế cũng không hợp luân lý: đây là một tên phóng đãng, một loại người hạ đẳng, biến chất, trở lùi lại thú tính. Nó sống như một loài heo: kiếm tiền, ăn nhậu, làm tình… chỉ biết đến cái tôi, thuần mơ chuyện hưởng thụ…
Ta quả là tô vẽ nó khi ca ngợi sự hoán cải của nó. Không, đứa con thứ vẫn chẳng có thần nào khác ngoài tư lợi ích kỷ: đổ cho đầy bụng! Việc nó trở lại nhà chỉ là một tính toán đê tiện nhằm tìm lại chỗ trú và bàn ăn. Câu nói hoa mỹ, nghe rất lâm ly bi đát, chỉ là một màn kịch soạn sẵn nhằm làm mủi lòng người cha mà nó nghĩ là sẽ la rầy, trừng phạt nó đích đáng và… chính đáng. Có đứa con nào đi xa nay trở về thăm cha mẹ mà lại chuẩn bị trước những câu nói vốn sẽ tự nhiên trào ra tận đáy lòng một khi trông thấy quê nhà dấu yêu? Đứa con thứ xót bụng hơn đau lòng! Nó đúng là một tên khốn khiếp, nạn nhân của các bản năng, của lũ bạn bè quý hóa: nó đã đánh mất tập quán yêu thương, chỉ còn biết nghĩ tới chính mình. Lạy Chúa, đó là hình ảnh của con. Con thường sống như vậy!
Thằng con trở về với ý đồ đê tiện. Nhưng khi “nó còn ở đằng xa”, còn chưa mở miệng thì người cha đã làm tất cả. Bốn cử chỉ: “ông đã trông thấy nó”, “ông chạnh lòng thương…”, “ông bổ nhào ra…”, “ông ôm cổ nó và hôn lấy hôn để”. Cử chỉ chạy bổ nhào ra có lẽ là cử chỉ mạnh nhất của toàn thể dụ ngôn. Trong tập quán của mọi thời, không có chuyện một người trên chạy tới với một người dưới, nhất là khi kẻ dưới này có một thái độ đáng trách. Đây lại là một ông già đông phương đường bệ, lúc nào cũng ăn nói và đi đứng khoan thai từ tốn.
Vâng, ta bóp méo hoàn toàn dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của đứa con này như mẫu gương “hoán cải”. Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả sự “thống hối” của một tội nhân, giáo huấn này đã chẳng gây khó chịu cho người Biệt phái. Tại Israel, người ta đã biết từ lâu, toàn thể Kinh Thánh làm chứng, là Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân hoán cải. Nhưng thái độ của người cha ở đây còn đi xa hơn nhiều: ông không mảy may lưu ý xem thằng con biểu lộ một lòng thống hối đích thực hay giả tạo. Ngay khi nó còn ở đằng xa, ông đã chạy ra gặp nó. Đức Giêsu không nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, trên những cử chỉ thống hối đền tội của nó, nhưng trên tình yêu vô vị lợi của người cha… một người cha đã tha thứ vô điều kiện, trước khi đứa con thú lỗi! Đức Giêsu nói cho ta biết “làm con” là gì: trước hết đó không phải là có thái độ thế này thế kia với cha hay mẹ… nhưng là được cha và mẹ thương yêu, cho dù mình xứng hay bất xứng! Đó đã là mạc khải của ngôn sứ Hôsê: Thiên Chúa tiếp tục yêu thương cô vợ bất trung bất tín của Người (Hs 3,1; 11,1-9; 14,5-9). Hỡi những ai tự nhận là vô thần, những ai sống như kẻ vô thần, những ai đã xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, Đức Giêsu nói với quý vị: “Cho dẫu bạn không tin Thiên Chúa lẫn yêu mến Người, Người cũng chẳng bao giờ ngừng tin và yêu bạn!”. Ta hiểu vì sao những kẻ tội lỗi đã chạy đến cùng Đức Giêsu.
Trong vòng tay cha, thằng con bắt đầu tụng lên câu nói đã dọn sẵn, nhưng ông không để nó kết thúc. Ông chẳng cần biết nó dối trá hay chân thành. Ông chỉ biết nó là con ông và ông là cha nó. Trái tim tràn tình yêu của ông khiến ông đổ đầy nó bằng tặng phẩm! Đây quả thực là một lễ cưới: áo, nhẫn, giày, tiệc, ca nhạc, quả thực là nghi lễ phục hồi chức vị làm con. Ông lăng xăng chạy từ nhà trên xuống nhà dưới, từ đầu sân đến cuối sân, hối thúc gia nhân dọn tiệc. Niềm vui ông thật vỡ bờ. Nếu có hình dung sự hoán cải của thằng con đểu giả thì chính là lúc này đây, khi nó đứng giữa sân như trời trồng rồi khóc lên sung sướng vì nhận thấy tất cả tình thương bao la vĩ đại của cha. Nhưng đó không phải là điều tác giả dụ ngôn muốn đề cập.
Tình thương của người cha được cô đọng trong câu: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy”. Đây là điệp khúc chấm dứt màn nhất của vở kịch. Lát nữa ta sẽ gặp lại nó cuối màn hai với vài từ thay đổi. Chết-sống… Thất lạc-tìm lại… Cái chết nào đối với Đức Giêsu đây? Mạc khải nào Người muốn đưa ra cho nhân loại đây? Thưa rằng: xa Thiên Chúa, đó là chết, đó là đánh mất chính mình! Con người chỉ hiện hữu thật sự trong mối tương quan với Thiên Chúa thôi. Người ta có thể tưởng mình sống, thế mà đã chết trong thực tế.
Nhưng khi phàm nhân trở về, thì “cuộc liên hoan” của Thiên Chúa bắt đầu, “niềm vui” của Thiên Chúa nở rộ! Hoán cải, đó đơn giản là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Đấy chính là chuyện mà anh con cả sắp khước từ.
2- Thái độ của người cha đối với đứa con cả.
Đối với đứa con cả, người cha cũng biểu lộ một lòng tốt như thế: “ông ra gặp chàng trước…”, “ông năn nỉ chàng…”. Kinh Thánh thường trở đi trở lại trên chủ đề này, chủ đề về tính nhưng không tuyệt đối của các hồng ân Thiên Chúa, qua hình ảnh con thứ thay thế con cả (St 27,36; 2Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4), hình ảnh “những người thợ giờ cuối cùng” cũng được trả công bằng “những người thợ giờ thứ nhất” (Mt 20,8), hình ảnh “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (Lc 13,30), hình ảnh “lương dân” sẽ thay thế “tuyển dân” (Rm 9,30). Tất cả đều nói lên tự do cao vời và tính cách nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với đứa con thứ, người cha đã không muốn nghe gì hết. Nay đối với anh con cả, ông để cho chàng mặc sức trút lên đầu ông bầu tâm sự đầy cay đắng, phẫn nộ. Có lẽ anh cũng có lý của mình. Anh ta chính là chân dung của người Biệt phái mà Đức Giêsu muốn khắc vẽ. Câu quả quyết của anh: “Ông coi, đã bao năm trời tôi làm tôi ông, cũng chưa hề lướt lịnh ông” quả là đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh phái Pharisêu tự hào vì đã giữ trọn luật (x. Lc 18,9). Thái độ của anh không kể gì đến tương quan anh em nữa (“thằng con của ông”) và nói về em một cách khinh bỉ đúng là thái độ của phái Pharisêu đối với hạng mà họ gọi là tội nhân. Bản dịch Anh ngữ câu nói của người con cả này còn cho ta một chi tiết lý thú: “thì ông lại giết con bê chúng ta đã cùng vỗ béo” (you kill the calf we had been fattening). Đúng là chua chát và ghen tức đến cực điểm! Riêng đối với cha, anh đã biến mình thành tôi tớ, biến tình thương thành nô dịch.
Như thế, người con cả cho ta thấy chính trọng tâm của dụ ngôn: anh ta đã không nhận rõ tất cả tình yêu đang bao phủ anh: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, mọi sự của cha đều là của con hết thảy. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây…” Người cha sửa lại lối nói của người anh một cách tế nhị (“em con đây” đối lại “con ông đó”). Qua dụ ngôn hai màn này, thành thử chúng ta được mời đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa, trong niềm vui của Người được gặp lại các tội nhân. Đây là lời loan báo sự hoán cải của lương dân sẽ đi vào trong “dân mới của Thiên Chúa” hàng loạt. Một ngày kia, Luca sẽ đặt trên miệng Phêrô câu nói này khi nhận ra ân sủng ban cho viên bách quản ngoại đạo: “Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11,17). Không, không có ưu đãi: hết thảy đều được Cha trên trời mến yêu.
Và dụ ngôn “đứa con thất lạc tìm thấy” (hay đúng hơn “người cha phung phí”, phung phí tình yêu) kết thúc với cùng một điệp khúc vui tươi như hai dụ ngôn trước (xin xem Chúa nhật 24 thường niên năm C). Màn hai của dụ ngôn lấy lại câu kết luận của màn đầu, với việc đổi từ “con ông” bằng “em con” như đã ghi nhận. Thiên Chúa là Cha, điều đó chắc chắn: Người yêu hết thảy con cái của mình. Nhưng nhân loại có là anh em với nhau không? Phải chăng anh con cả sẽ để mình bị thuyết phục và “đi vào chung hưởng niềm vui với cha”? Chúng ta không biết. Dụ ngôn vẫn bỏ ngỏ. Vì chính người Biệt phái, chính chúng ta phải cho nó một kết luận: đi vào cuộc liên hoan với Thiên Chúa, cuộc liên hoan mừng kẻ tội lỗi trở về.
(Viết theo Nil Guillemette SJ, Parables for today)
59. Đứa con hoang đàng
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng hay nói đúng hơn câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là một hình ảnh thật cảm động cho chúng ta thấy được tình thương bao la của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
Đúng thế, chàng thanh niên, không chịu được sự trói buộc và gò bó của gia đình, đã đòi người cha chia gia tài cho mình, rồi lên đường đi bụi đời. Ở một thành phố nào đó, chàng đã phung phí hết số tiền, được dành dụm chắt chiu từ biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt.
Lâm vào cảnh túng đói, chàng mới hối hận vì đã hành động sai quấy. Thế là chàng dứt khoát, chỗi dậy, lên đường trở về nhà cha để van xin sự tha thứ.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở hình ảnh người cha. Đúng thế, ngày ngày ông đều ngồi ở cửa, đưa cặp mắt nhìn về chốn xa xôi. Ông mòn mỏi trông chờ, ông hy vọng rằng một ngày kia cậu sẽ trở về. Bởi vì ông biết rất rõ, tự bản chất, cậu không phải là một con người xấu, nhưng vì tuổi trẻ bồng bột, lại nghe theo những lời xúi bẩy của bè bạn, cho nên mới ra nông nỗi ấy.
Ông tin rằng: trường đời sẽ mở mắt cho cậu, để cậu nhận ra rằng: không ai yêu thương cậu một cách chân thành cho bằng người cha. Cậu sẽ không tìm thấy ở đâu một sự nâng đỡ cảm thông cho bằng chính gia đình của mình. Rồi từ đó, sẽ có được một động lực thúc đẩy cậu quay gót trở về.
Phải, cậu đã trở về, kéo lê những bước chân nặng nhọc, áo quần thì rách rưới, thân xác thì mệt mỏi, tâm hồn thì khao khát được tha thứ.
Từ đằng xa, cha cậu đã nhận ra cậu. Ông bồi hồi xúc động, vội chạy đến với cậu và hôn cậu hồi lâu. Còn cậu thì cúi mặt xuống, xấu hổ và ăn năn vì lỗi phạm. Cặp mắt long lanh những giọt lệ sám hối và cậu đã thú nhận:
– Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa.
Cha cậu ôm chặt cậu vào lòng. Sự thú nhận lúc này cũng bằng thừa, nhưng điều quan trọng đó là cậu đã chết mà nay được sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống riêng tư của mỗi người chúng ta. Đúng thế, mỗi khi phạm tội chúng ta cũng trở nên là những đứa con hoang đàng. Tội lỗi đem lại cho chúng ta sự nghèo nàn và bất hạnh. Tâm hồn mất đi vẻ đẹp của ơn thánh, nhất là sẽ bị đoạ đày và chết chóc. Thế nhưng chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Thiên Chúa là người Cha nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta trở về để được tha thứ như lời Ngài đã phán:
– Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.
Có một chàng trai cũng bỏ nhà ra đi và lâm vào cảnh túng thiếu. Chàng hối hận và muốn tìm về mái ấm gia đình. Chàng phân vân không biết bố mẹ có sẵn sàng tha thứ cho chàng hay không? Chàng viết thư cho bố mẹ và nói:
– Nếu như bố mẹ sẵn sàng tha thứ cho con, thì đến ngày ấy tháng ấy cứ treo một chiếc áo trên cửa sổ, làm dấu để con trở về, bằng không thì con chẳng dám làm phiền bố mẹ nữa.
Đến ngày ấy tháng ấy, bà mẹ không chỉ treo có một chiếc áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, bà đều đem treo khắp các khung cửa, để chàng được yên tâm trở về.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta đó là, hãy ăn năn sám hối, hãy can đảm chỗi dậy và lên đường, rồi tình thương của Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ, bởi vì Chúa sẽ không thể cứu chữa chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
60. Mọi sự
Câu chuyện được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay theo thánh Luca có thể coi là tấm thảm kịch vẫn xảy ra trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Có một lúc nào đó trong tiến trình trưởng thành và tự lập, đứa con chợt thấy mình cần đòi lấy quyền tự do để quyết tách ra khỏi sự giám hộ của cha mẹ. Con người cũng đã từng muốn được bộc lộ tư thế độc lập tự chủ như vậy trong tương quan với Thiên Chúa. Con người đã xây dựng tháp Babel, biểu tượng của tiến bộ khoa học kỹ thuật để khẳng định với Đấng tạo dựng của mình. Con người gần như nắm trọn quyền kiểm soát sử dụng mọi tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu đời sống của mình: “Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài con được hưởng”.
Đối với người cha, lời cầu xin của con là chính đáng, vì những gì ông đã gầy dựng nên như nhà cửa, ruộng vườn và tất cả tài sản vật chất, tinh thần cốt là chỉ dành cho con. Không thể có cách đáp ứng nào khác hơn đối với người cha tốt lành yêu thương con cái đã vui lòng trao cho con tất cả gia sản của mình. Và đây cũng chính là cách hành xử của Thiên Chúa khi Người đáp ứng vô cùng rộng lượng hào phóng quá sức muôn đời của con người. Mọi diễn tiến có lẽ đã êm xuôi tốt đẹp, đã như không có một chi tiết tai hại xảy ra. Ít ngày sau khi con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống phóng đãng phung phí tài sản của mình.
Vậy, một khi đã rời khỏi nhà cha, rời khỏi tình thương của cha, khỏi sự che chở hướng dẫn của cha thì đứa con dẫu đã lớn khôn, song một mặt nào đó vẫn còn là con, vẫn có mối thương tình phụ tử ràng buộc “sinh tử bất khả phân ly” tất sẽ phải đương đầu với bao hậu quả không lường được. Tấm thảm kịch bắt đầu ở đây, ở chỗ con người tách ra khỏi quyền năng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, ở chỗ con người làm ngơ hoặc phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời như nguồn mạch và sự cảm hứng của con người, ở chỗ con người gạt bỏ mọi dấu ấn của luật pháp Thiên Chúa trong bản chất, trong lương tri con người. Chính lúc đó con người phung phí hết mọi gia sản, phung phí tài năng, sức lực, phung phí luôn cả phẩm giá của mình là con người được tác tạo giống dấu ấn của Thiên Chúa.
Tách rời Thiên Chúa, phủ nhận Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa rút cuộc sẽ đẩy con người xuống tận đáy của mọi thảm hoạ, xuống ngang tầm với cầm thú. Anh ta ao ước lấy được những đồ cho heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Sự giác ngộ sám hối của con người có vẻ muộn màng, nhưng lại là điều Thiên Chúa chờ đợi và luôn đưa ra sáng kiến để đón nhận tội nhân cải tà qui chánh. Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Có thể có hoán cải làm lại cuộc đời, nếu như không có chờ đợi những ngày mở đường sinh phúc, mở rộng vòng tay tha thứ đón nhận. Đây chính là cốt lõi của ơn trở về. Nền tảng cảm hứng và sức mạnh của ơn này chính là tình thương và quyền năng Thiên Chúa, Đấng muốn cứu vớt tất cả phàm nhân, một khi Người đã tặng ban cho nhân loại chính Thánh Tử Chí ái của Người.
Tuy nhiên, hệ luỵ của hành vi con người tách rời và phủ nhận quyền năng quan phòng của Thiên Chúa không phải là không gây tác hại nghiêm trọng trong mối tương quan giữa con người với nhau, nhưng đã có một sự rạn nứt đổ vỡ trong tình thương huynh đệ, trong nỗ lực chung sức phục vụ công trình của Thiên Chúa là Cha với tấm lòng hiếu kính vô vị lợi.
Trái lại, người con thứ sau khi đã nuốt hết của cải của người cha nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Thậm chí đáng buồn hơn nữa còn thương mại hoá mối tương quan giữa Thiên Chúa, lấy lợi vụ vật chất, lấy công trạng phục dịch dễ dàng trong nhà cha làm chuẩn mực cho tình nghĩa phụ tử: “Bao nhiêu năm trời con phục vụ cha thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con bê để con ăn mừng với bè bạn”. Ơn hoán cải thực sự và toàn diện không thể thực hiện, nếu chỉ có nỗ lực đơn phương của một nhân loại đã bị thương tật tội lỗi và không ngừng bị ảnh hưởng của ác thần khống chế. Nhưng ơn hối cải ấy chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa, từ cội nguồn trắc ẩn, từ lòng yêu thương nhân từ luôn rộng mở chờ đón sự trở về của con người tội lỗi.
61. Nhân lành
Những người Pharisêu và kinh sư vốn khinh miệt những người mà họ coi là “phường tội lỗi”, và coi sự tiếp xúc với lớp người ấy là một việc làm cho mình ra dơ bẩn. Họ phê bình, bắt bẻ, hạch sách Chúa Giêsu vì thấy Ngài tiếp nhận những người tội lỗi và ngồi ăn uống với lớp người này. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn trình bày thái độ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
Thánh Luca đã thâu góp trong chương 15 ba dụ ngôn con chiên lạc mất lại tìm thấy, đồng bạc rơi mất lại tìm thấy, và đứa con hoang đàng trở về. Thái độ của người tìm thấy con chiên lạc, thái độ của người tìm thấy đồng bạc mất và thái độ của người cha gặp lại đứa con đi hoang… đều nhằm diễn tả niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa Giêsu đến để mạc khải cho loài người lòng nhân từ của Thiên Chúa, không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng chính cách cư xử của Ngài đối với người tội lỗi. Thái độ của Ngài đối với người tội lỗi chính là thái độ của Chúa Cha.
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng”. Nhưng cái tựa đề đó không phản ánh đúng nội dung và chủ đích của Chúa Giêsu, vì nó thường làm chúng ta chú ý tới đứa con hoang đàng mà quên đi hay ít quan tâm tới vai trò của người cha và người con cả. Nói rõ hơn, cả ba nhân vật trong dụ ngôn đều đáng chú ý. Chính vì thế mà dụ ngôn trở thành phong phú cho chúng ta, vì nó cho chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận bi đát của con người tội lỗi, con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.
Chủ đích của Chúa Giêsu khi giảng dạy dụ ngôn này là mời gọi mọi người Do thái nói chung, nhất là giới lãnh đạo thay đổi quan niệm và thái độ của họ về Thiên Chúa, về người tội lỗi và về chính họ.
Trong khi mời gọi chúng ta thực hiện việc ăn năn sám hối, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng này để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn mình trong câu chuyện ấy. Mỗi người đều có thể đặt mình trước lòng nhân lành của Thiên Chúa để nhìn mình và nhìn anh em. Người ta chỉ dám nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi khi đứng trước mặt Thiên Chúa nhân lành sẵn sàng tha thứ. Bởi vì nhìn nhận mình tội lỗi tức là nhìn nhận mình thua kém, mình không xứng đáng là mình, nên nếu chỉ nhận ra mình là kẻ tội lỗi mà không có sự tha thứ nào để nâng mình chỗi dậy thì người ta sẽ tuyệt vọng. Bao nhiêu người hoá điên vì đã phạm tội ác rồi nhận ra mình là kẻ có tội mà không thấy ai có thể tha thứ cho mình.
Hình ảnh đứa con hoang đàng cho chúng ta thấy bản chất của tội lỗi, hậu quả bi đát của tội lỗi và thái độ phải có để có thể thoát ra khỏi tội lỗi. Lòng sám hối chính là nhận ra mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm ra khỏi tội lỗi để quay về với cha và sống làm con người mới. Mỗi người đều có thể nhận ra mình trong hình ảnh đứa con hoang đàng. Vậy thì Chúa cũng mời gọi chúng ta cùng với đứa con hoang đàng chỗi dậy đi về nhà cha, cha đang chờ, tức là đến với Chúa, Chúa đang chờ để tha thứ cho chúng ta.
Hình ảnh người con cả cũng giúp chúng ta kiểm điểm thái độ của mình đối với anh em. Ai trong chúng ta cũng có một chút máu Pharisêu trong mình: muốn tự coi là công chính, khinh chê người khác, muốn loại người khác ra khỏi gia đình của Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định rằng: muốn làm con của Cha trên trời thì phải nhìn nhận những người khác là anh em và quan tâm tới phần rỗi của anh em. Phải từ bỏ thái độ Pharisêu.
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận tội lỗi của mình, và con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là: muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.
62. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Chay, còn gọi là Chúa Nhật của niềm vui, vui vì có một người cha già đang gấp rút tổ chức một bữa tiệc bê béo để ăn mừng đứa con hư đốn của ông nay đã trở về.
Tại sao người con hư này lại trở về? Theo như thánh sử Luca tuần thuật, người con thứ sau khi đòi cha chia gia tài , anh gom góp tất cả đem đi ăn chơi phun phí nơi xa. Đến khi tiền bạc đã hết, anh lâm vào tình cảnh đói khổ, đi làm mướn để kiếm sống nhưng vẫn đói. Anh hối hận vô cùng và quyết tâm trở về với cha Kính thưa OBACE! Cùng với người con thứ, xin mỗi người trong OBACE dành chút thời giờ để kiểm tra lại tình trạng tâm hồn của mình, tình trạng sống đạo hiện giờ của con cái mình, của những người Kitô hữu xung quanh mình. Nếu ai đang trong tình trạng đi hoang, hãy mau chóng trở về. Nếu người thân mình đi hoang, anh em bên cạnh mình đi hoang, bằng mọi cách, hãy nhanh chóng giúp họ quay về. Có người cho rằng từ từ rồi trở về với Chúa chứ gấp gáp gì. Xin thưa với OBACE, cần phải gấp chứ vì con nghe cha con kể lại một thái độ từ từ và cuối cùng cả gia đình phải hối hận.
Anh út bỏ mùa Phục Sinh lâu lắm rồi. Nhiều lần hàng xóm khuyên, anh nói để từ từ, gấp gáp gì. Nhiều lần cha sở đến nhà thăm, anh trốn trong buồn không chịu gặp. Một hôm, cha sở mặc áo dòng đi thăm giáo dân, tình cờ gặp anh giữa đường. Thấy cha từ xa, anh nhảy qua mấy cái mương chạy mất tiêu. Cha sở chạy theo kêu, út ơi, cha gặp thăm con chút chứ có làm gì con đâu mà con chạy dữ vậy? Đùng một cái, anh ngã bệnh nặng, hấp hối, người nhà rước cha xức dầu. Cha đến, anh quay vào vách không chịu lãnh Bí tích xức dầu và tắt thở trong sự đau xót của gia đình. Cha sở ngồi trên giường anh khóc tại chỗ , vì không biết nên đưa tiễn một linh hồn đã vội vã ra đi hay níu kéo lại để tìm cách cứu vớt.
Kính thưa OBACE! Tình trạng sống đạo trễ nải, nguội lạnh của giáo dân là nỗi khổ tâm lớn nhất của cha sở, vì con cái mình đi hoang mà không báo trước ngày giờ trở lại. Người con thứ trong bài Phúc âm trở về làm cha nó mừng lắm. Con ước mong, vào những ngày cuối của mùa chay thánh này, OBACE đem niềm vui mừng đến cho cha sở mình, và trên hết là cho chính Thiên Chúa là cha. Để trở thành đứa con hiếu thảo đem niềm vui cho cha mình, xin được mời gọi OBACE làm những việc thực hành sau: Thứ nhất, những OBACE nào thấy tâm hồn mình đang trong tình trạng tội lỗi, hãy mau mắn đi xưng tội mùa chay để trở về với Chúa. Thứ hai, kiểm tra tình hình sống đạo của con cháu mình, đứa nào đang sống đạo trễ nãi, nguội lạnh, hãy hối thúc nó sớm đi xưng tội để trở về với Chúa, nó không chịu đi, cầu nguyện nhiều cho nó, tìm mọi cách giúp nó vì đó là trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Thứ ba: OBACE để ý xem trong họ đạo mình, những người chúng quanh mình, ai nguội lạnh, hãy cầu nguyện nhiều cho họ. Đây là việc làm bác ái mùa chay đẹp lòng Thiên Chúa nhất đó thưa OBACE.
Thay cho lời kết, nguyện xin Chúa ban ơn sám hối cho mỗi người trong họ đạo, để mùa chay năm nay, có nhiều người nguội lãnh, trễ nảy quay về với Chúa qua Bí tích hoà giải. Và rồi ngày đại lễ mừng Chúa Phục sinh năm nay là ngày chính Thiên Chúa dọn tiệc bê béo và mở rộng vòng tay yêu thương đón lấy từng người con trong giáo xứ, trong họ đạo chúng ta. Amen.
63. Trở về được đón nhận
Chúng ta đã cùng với Giáo hội đi được hơn nửa chặng đường của Mùa chay năm nay. Mùa chay còn được gọi là mùa trở về. Thiên Chúa qua Giáo hội kêu gọi mọi người tín hữu nếu lỡ đi lạc đường hãy quay trở về với tình thương của Người. Vấn đề là họ có thật lòng muốn trở về hay không? Và khi đã được đón nhận họ có biết noi gương Chúa mà đón nhận nhau không?
Đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta đọc trong Chúa nhật hôm nay, phải nói được là kiệt tác trong Tin mừng Luca. Có lẽ là kitô hữu, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng dụ ngôn này. Dụ ngôn mà chúng ta quen gọi là “Dụ ngôn người con trai hoang đàng “. Nhưng đúng ra chúng ta phải gọi là “Dụ ngôn Người Cha nhân hậu”.
Khi người con thứ ý thức được tội lỗi tày trời của mình, anh đã quyết định quay trở về. Anh chỉ mong được cha đón nhận như người làm công thôi. Bởi lẽ anh tự biết, mình đã đánh mất tư cách làm con của mình. Mặc dù người cha còn sống sờ sờ đó, nhưng anh đã dám cả gan xem ông như người đã chết. Đó là anh đã yêu cầu cha chia gia tài cho mình. Thật là một tội bất hiếu không thể tha thứ được. Phải chi với gia tài ấy, anh ra đi làm ăn sinh lợi thì cũng còn có thể chấp nhận được. Ở đây, anh đã đem tất cả gia tài ấy đi phung phí một cách không thương tiếc đến nỗi không còn một đồng xu dính túi. Như vậy, theo cái nhìn của con người, người con này coi như “hết thuốc chữa “. Chắc chắn anh cũng đã nhận ra điều đó.
“Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy “. Một câu nói phát xuất tự đáy lòng cùng với sự trở về của anh đã làm cho cuộc đời anh mở sang trang mới.
Điều đáng nói ở đây, sở dĩ cuộc đời anh được sang trang mới là do chính sự đón nhận quá sức tưởng tượng của người cha. Sự đón nhận đến nỗi làm cho người anh phải ghen tức. Trông thấy anh từ đàng xa, người cha đã chạy ra “ôm anh và hôn lấy hôn để “. Ông đã vội vàng khôi phục lại địa vị làm con cho anh. Bằng chứng là ông đã kêu gia nhân ” mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu và mau bắt một con bê đã vỗ béo chờ sẵn để làm thịt ăn mừng… “. Quả thật, đây là một người cha có tấm lòng nhân hậu và bao dung. Tội lỗi của người con quá lớn nhưng tình thương của ông lại còn lớn hơn nữa.
Thái độ của người cha ấy chính là thái độ của chính Thiên Chúa khi ta biết thực sự trở về sau mỗi lần lầm lỡ. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhất tội ta. Như lời thánh vịnh “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129, 3). Khi ta biết trở về, Thiên Chúa sẽ đón nhận ta như một báu vật. Đồng thời, Người sẽ sẵn sàng cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời. Chúng ta hãy tin và luôn xin Người cho ta xác tín điều ấy mãi trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, Thiên Chúa còn muốn chúng ta cũng hãy biết noi gương Người mà đón nhận nhau mỗi khi có sự hiểu lầm hay xúc phạm nhau. Thật ra, trước mặt Chúa tất cả chúng ta đều là những tội nhân đáng thương. Hãy luôn ghi khắc điều đó để ta dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Một ai đó đã nói: “Các cánh cửa nhà tù sẽ mãi mãi đóng lại, khi có thật nhiều người có tấm lòng bao dung, nhân hậu đón nhận những tội nhân trở về sau những lần lầm lỡ”
Do đó: Người chồng và người vợ hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ. Cha mẹ hãy biết đón nhận và tha thứ cho con cái khi chúng lầm lỡ. Và bạn bè cũng hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ.
64. Đường thành công – Lm. Vũ Đình Tường
Nhiều người chọn con đường dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại luôn nghĩ là mình khôn ngoan chọn con đường dẫn đến thành công rực rỡ. Thực ra lằn ranh giữa thành công và thất bại khó phán đoán chính xác nên rất khó tranh biện ai đúng ai sai. Thực tế cho thấy có người chọn con đường tưởng dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại thành công rực rỡ. Đây là một cám dỗ lớn cho các bạn trẻ muốn li khai, thoát khỏi gia đình. Nhất là những bạn mà sống trong gia đình nhưng luôn cảm thấy ra đi thì tốt hơn. Gia đình không còn là tổ ấm mà là chỗ đầy ải với bao bất mãn, khó chịu vì luật lệ gia đình chồng chéo nhau. Trong hoàn cảnh đó họ chỉ mong có cơ hội thuận tiện là sẽ thoát li, tìm một cuộc sống thảnh thơi hơn, tự do hơn.
Họ tin tưởng là cuộc sống mới đầy hứa hẹn sẽ cho họ những ngày tươi sáng. Họ tin tưởng làm được điều đó vì họ ít nhiều cũng có một số kiến thức, kinh nghiệm sống cộng với tài lanh lẹ, linh hoạt đủ để họ vào đời. Họ đâu biết cuộc đời muôn mặt, với kiến thức học vấn và kinh nghiệm gia đình là cần thiết nhưng chưa đủ để tiến thân, dấn thân trên đường đời. Những ngày đầu mới li khai gia đình họ thực sự hưởng cảm giác thoải mái, thảnh thơi. Cảm giác thoải mái thảnh thơi này chỉ tồn tại một thời gian ngắn vì thực tế cuộc sống sẽ ập đến khiến họ quay cuồng đến tối mặt mày. Đây chính là kinh nghiệm trong dụ ngôn Người Con Hoang Đàng vấp phải. Anh ta không cảm thấy vui trong khi sống trong gia đình với cha anh. Anh muốn li khai gia đình, tự chọn cuộc sống riêng cho mình. Người cha dù đau lòng cũng cắn răng, bóp bụng chia gia tài cho anh. Cha đau lòng không phải tiếc của, nhưng vì biết con sẽ gặp điều không may, gặp hoạn nạn nhưng không sao cản được.
Có tiền trong tay, tương lai mở rộng, anh ra đi bước những bước dài thênh thang, theo đuổi đìều mong ước. Những ngày đầu anh được mãn nguyện, thoả lòng ước mong. Chẳng bao lâu sau, hầu bao của anh cạn sạch lúc đó anh mới nghĩ tới vấn đề kiếm tiền để sống. Đây chính là lúc anh chạm phải thực tế cuộc sống. Bấy lâu nay sống trong nhà cha anh luôn sống trong thế giới của mơ mộng, Anh tin là ngoài kia có biết bao nhiêu điều vui thú đang đón chờ, khi được tự do, thoải mái tự lập anh sẽ hưởng tất cả những thú ăn chơi đang chờ đợi, mời gọi.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi li khai gia đình thế giới mộng mơ của anh sập tan tanh. Một thế giới mới đang đón chờ anh. Mới đây là mới với anh vì từ trước tới nay sống trong gia đình mọi sự đều được chu cấp thoả đáng, trách nhiệm cha anh gánh thay, bổn phận đã có người làm giúp. Cuộc sống li khai, tự lập giờ chính anh phải tự gánh vác. Anh nghĩ mình đã chuẩn bị đủ cho tương lai đầy hứa hẹn nhưng bây giờ anh mới biết còn nhiều vấn đề thực tế anh chưa bao giờ nghĩ tới nói chi đến chuẩn bị cho thoả đáng.
Thế giới thực làm anh thức tỉnh. Xin làm công bị từ chối. Xin ăn bị xua đuổi. May mắn có người nhận nuôi heo. Lương không đủ sống anh vẫn đói nên tự hạ ăn chung với heo. Đang từ người thành tệ hơn vượn, đời cầm thú. Vì sao? Vì anh từ chối tình thương của cha. Vì anh muốn tự lập, theo í riêng. Vì anh muốn tự mình làm chủ đời mình.
Chọn li khai, ra đi anh mất tất cả, mất sự bảo bọc của cha, từ chối thương của cha, từ chối cả quyền thừa kế gia tài và quan trọng hơn cả là cắt đứt tình cha con.
Đại hạn, mất mùa, đói khổ và xua đuổi mở mắt anh nhìn thấy tình thương của cha. Tin tưởng vào tình thương và lòng bác ái cha anh dành cho người làm công, anh mạnh dạn tiến về nhà cha. Anh không dám xin ơn làm con như xưa nhưng xin làm người làm công để được hưởng tình người, để được sống cho ra con người. Một lần nữa anh phạm sai lầm. Nhận xét và phán đoán sai về lòng nhân từ của cha anh. Nhìn thấy con, người cha chạy ra ôm con vào lòng, tha lỗi lầm và trao lại cho anh tình cha con, tình nghĩa tử rồi sau đó mở tiệc mừng. Mừng vì mối giây tình nghĩa cha con đã bị cắt nay được nối lại. Mối tình cha con đã chết nay phục sinh.
Thế giới mộng mơ của người Kitô hữu chính là thế giới chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Là thế giới chối bỏ tình Chúa dành cho ta. Là chọn sống theo í riêng, tin vào khả năng, kiến thức của con người. Là thự nhận mình là chúa. Dụ ngôn Người Con Hoang, từ bỏ cha mình vì đói khổ tự nguyện sống chung với heo. Từ chối sự hiện hữu và tình thương của Chúa để tự nguyện nhận mình có nguồn gốc từ muông thú.
Người cha nhân hậu kiên nhẫn chờ, đón con trở về ban làm con, làm người thừa kế nước trời.
65. Lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cầm được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương Chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lội và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa.
66. Người Cha nhân hậu
Thiên Chúa luôn đối xử nhân hậu với loài người. Từ thuở ban đầu, Ngài đã tạo dựng và thông ban cho con người sự sống thần linh. Sau khi con người sa ngã, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để phục hồi tình trạng nguyên thủy. Trong chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã lập dân riêng là Israel, ban truyền lề luật yêu thương và cứu dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập mà đưa về Đất Hứa… Nhất là Ngài đã cho Con Một mình xuống thế chuộc lại lỗi lầm cho loài người. Mặc dù loài người hay ương ngạnh nhưng Chúa lại sẵn sàng nhận làm con và đối xử hết sức quãng đại với chúng ta. Dụ ngôn người cha nhân hậu là một minh họa cho tình thương vô bờ đó.
Người cha có hai đứa con. Đứa con thứ thì bỏ nhà, bỏ cha đi xa, ăn chơi phung phí hết tiền của, trở thành kẻ làm mướn, kẻ nô lệ, thiếu ăn thiếu mặc, hèn mạc đến độ muốn được ăn đồ của heo cho đầy bụng mà người ta cũng không cho. Lúc đó, anh mới nhận ra là mình sai lầm và tự nhủ: những người làm công nhà cha mình còn được đối xử rất tử tế, còn bản thân anh bị người ta coi như đồ bỏ đi, không quý bằng heo cúi của họ. Và anh đã trở về với 1 câu nói chuẩn bị sẵn: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Xem ra anh trở về vì lý do cái ăn cái mặc, hơn là vì nhận ra tình thương của cha. Và anh sợ rằng cha sẽ không chấp nhận việc anh trở lại làm con, nên anh chỉ mong làm đầy tớ. Thế nhưng, khi anh trở về thì thật quá sức tưởng tượng của anh. Người cha lúc nào cũng nhớ thương anh, mong chờ anh, sẵn sàng đón nhận anh. Có lẽ người cha hằng nhắc anh trước mặt mọi người và chuẩn bị quần áo, giày, nhẫn, bê béo… để khi anh về thì có sẵn những thứ đó.
Với tình thương vô điều kiện của người cha, đứa con đi hoang đã thật sự cảm động và cảm thấy thương mến cha mình thật sự. Nhờ tình thương vô biên của cha, anh đã được cảm hoá và nhận biết tình cha đối với mình. Mặc dù anh là người tội lỗi nhưng từ lúc đó anh đã hoàn toàn biến đổi, anh cảm thấy hạnh phúc vô vàn trước tấm lòng của người cha và tình yêu xoá tan mọi lỗi lầm.
Tuy nhiên, hậu quả của việc bỏ nhà đi hoang phung phí tiền của đã là nguyên cớ gây sứt mẻ tình anh em. Khi anh trở về thì người anh cả không chấp nhận được, nhất là khi thấy cha hậu đãi em mình. Anh cảm thấy ganh tỵ và có phần bực tức: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. Điều này cho thấy, hoá ra, bao năm qua anh ở nhà, gần gũi cha, nhưng lại không cảm nghiệm được tình cha yêu thương mình. Vì vậy, anh không thấy hạnh phúc.
Người con cả đại diện cho luật sĩ và biệt phái, kẻ xưng mình là đạo đức. Đối với anh thì điều anh cậy dựa vào là việc giữ luật nghiêm ngặt, và công cán chứ không phải cậy vào tình thương của cha, nên lúc nào anh cũng cảm thấy bực tức với em, bất bình với lòng quãng đại nhân từ của cha. Chính lúc đó, anh lấy mình làm chuẩn mực phán xét, kết án kẻ khác và xét đoán cả Thiên Chúa là cha. Anh cũng lỗi phạm đến tình thương của cha. Nhưng cha luôn kêu mời và như năn nỉ anh hãy nghĩ lại và nhận ra tình thương của cha.
67. Đôi mắt cha
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở”.
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “Sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn còn tình thương”.
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tràn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
68. Được yêu
Chắc hẳn dụ ngôn đứa con hoang đàng là nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Tuy nhiên, một số người vẫn cứ cho rằng đó là một câu chuyện bất công. Họ cảm thấy tiếc cho người con cả, họ nhận thấy là anh ta đã bị cư xử bất công, họ tin rằng người con thứ ra đi vì đã phạm tội giết người, vì thế, anh ta cần phải bị trừng phạt, nên dạy cho anh ta một bài học. Chúng ta hãy nhận xét xem thái độ đó có đúng đắn hay không.
Người con thứ đã được xác định là một tay ăn chơi trác táng. Anh ta đã đi đến một thành phố, mà anh ta có thể thoả mãn tất cả mọi lạc thú tại đó. Nhưng khi đã hết nhẵn tiền, những ánh đèn sáng trưng đều lu mờ, và tất cả những cánh cửa đều đóng lại không cho anh vào, thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm, và cần phải có nhiều can đảm để thực hiện quyết định này. Thật không dễ dàng nói lời “xin lỗi”, ngay cả đối với một vấn đề tầm thường.
Cuộc hành trình trở về thật buồn bã, cô độc và đáng sợ. Thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một anh hùng, với đầy chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không hề có một chiến công nào để đem về cho cha anh, không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng trĩu nặng xấu hổ và nhục nhã.
Tất cả mọi sự đều ở ngoài tầm tay của anh. Giả thử cha anh không chấp nhận cho anh trở về. Vậy thì anh sẽ làm gì đây? Anh xứng đáng bị trừng phạt:
– Anh vẫn biết điều đó, và thậm chí anh còn yêu cầu điều đó nữa. Tuy nhiên, sự trừng phạt là điều cuối cùng mà anh cần đến. Trong bất cứ trường hợp nào, anh đã từng bị trừng phạt rồi. Anh không hề có lúc nào vui vẻ. Có lẽ anh đã có lạc thú, nhưng chắc chắn anh không hề có niềm vui. Anh đã đau khổ rất nhiều.
– Đói khát, cô độc, xuống tinh thần, nỗi đau đớn vì hối hận, cảm giác bị phản bội. Mỗi tội lỗi của anh đều mang theo nó thứ hình phạt mau lẹ, chắc chắn. Phạm tội là đau khổ. Anh không cần phải chịu đựng thêm hình phạt nào nữa.
Anh cũng không cần phải được dạy cho một bài học. Anh đã được học hỏi một bài học:
– Một điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Anh đã học hỏi một số sự thật đau lòng về bản thân mình, về những người khác, và về cuộc đời. Anh đã ăn một thứ trái cấm, và thay vì được thoả mãn, trái cấm đó đã để lại cho anh một hương vị cay đắng trong miệng. Nếu anh bị khước từ, thì thái độ này sẽ huỷ hoại anh.
Điều gì đã xảy ra? Khi người cha nhìn thấy người con đã bị mất đi của ông đang đang tiến về phía ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà ông còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con thứ đã nhận ra, đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được yêu thương, đó không những là một điều tốt đẹp, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lội, thì quả thật đó là một cảm nghiệm tuyệt vời. Loại tình yêu như vậy giống như một làn gió mát thổi vào ngọn lửa gây chết chóc, hoặc cơn mưa đổ xuống vùng đất nứt nẻ. Đây chính là ân sủng. những ai đã từng cảm nghiệm được loại tình yêu này, sẽ nhận biết được nét gì đó về tấm lòng của Thiên Chúa.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta; mà Người còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu đó. Câu chuyện này không phải là cho phép chúng ta cứ phạm tội, nhưng chứng tỏ rằng do bản tính yếu đuối và gian ác của con người, chúng ta đã phạm tội, nhưng sau đó, chúng ta có thể vượt qua quá khứ của mình, vẫn có thể làm lại từ đầu. Đây là bài học vĩ đại của dụ ngôn này.
“Giấy phút người còn hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi đáng nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy,thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”.
69. Trở về
Lời Chúa mà thánh Luca trình bày cho chúng ta đó là câu chuyện người con trai hoang đàng trở về, được người cha nhân hậu tha thứ và đón nhận cách ân cần trong tình yêu thương.Tình yêu thương của người cha được diễn tả qua việc chấp nhận đề nghị của người con về việc chia gia tài. Và khi anh ta trở thành trắng tay, đánh mất danh dự và nhân phẩm của con người, đánh mất địa vị của một người con… Khi anh ta quay về với “thân tàn ma dại”, chính người cha đã ân cần đón tiếp anh.”Ông chạy ra”, hành động này cho thấy người cha luôn chờ đợi, mong ngóng ngày con trở về. Nhất là khi người cha biết rằng con mình sống trong cảnh đói kém, không có nơi cư ngụ, người cha nghẹn ngào xót xa. Ông không muốn chờ đợi giây phút người con vào tới nhà gặp cha để nói lời xin lỗi. Ông vừa thấy con từ đàng xa, ông chạy tới mà ôm hôn con mình.
Người cha ôm lấy con mình như muốn ôm hết tất cả vết thương nỗi niềm đau xót và cả sự hối hận của người con vào lòng mình, điều hay là ông không hề nói một lời trách móc nào, nhưng trong cánh tay ôm choàng này, chắc chắn người con sẽ cảm nhận tất cả niềm hạnh phúc và tình yêu thương của cha đã dành cho anh. Chính lúc này đây tình yêu thương to lớn của người cha thoả lấp bao lỗi lầm của người con. Tôi tin chắc rằng cử chỉ của người cha này đánh động vào tâm hồn mỗi người chúng ta.
Tình thương đó được cụ thể hơn nữa qua hành động trao ban. Người cha đó đã cởi bỏ chiếc áo cũ của kiếp chăn heo, để mặc cho anh ta chiếc áo mới, chiếc áo con của ông chủ. Người cha đã phục hồi tư cách làm con khi trao cho anh ta chiếc nhẫn, dấu chỉ của người quý phái. Khi ông ta xỏ giày vào chân người con, như muốn khẳng định rằng, đây đích thực là con ông chủ và cũng là người trên, vì chỉ có chủ mới được mang giày mà thôi. Và sau cùng ông cho giết bê béo ăn mừng…
Hình ảnh người cha trên đây chính là phát hoạ hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái, tình thương đó luôn diễn tả qua hành động tha thứ cho chúng ta. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đi hoang bằng cách chúng ta phạm tội chống lại Thiên Chúa, xúc phạm đến tha nhân, và nhất là chúng ta tự làm những điều xấu huỷ hoại chính nhân phẩm của mình… Nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta từng giây phút trở về với Ngài. Chúa không hề yêu thích tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi. Để như người cha trong Tin Mừng, Chúa muốn ôm choàng lấy chúng ta, và muốn chúng ta cảm nếm được tình yêu và lòng thương xót của Chúa trao ban.Tình thương đó ngày nay Thiên Chúa thể hiện cách đặc biệt qua Bí Tích Hoà Giải. Bí Tích Thiên Chúa dùng để thể hiện tình yêu và sự tha thứ cho con người. Nơi Bí Tích Hoà Giải, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.
Chính lúc chúng ta đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta được mời gọi sống tốt hơn. Mùa chay là dịp thuận tiện để mỗi người chúng ta nhìn lại chính đời sống của mình để trở về với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nếu chúng ta ý thức và mau mắn trở về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hoà Giải thì mùa chay năm nay sẽ không qua đi một cách vô vị, nhưng sẽ mang lại cho chúng ta rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Amen.
70. Bộc lộ
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái ngược, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người của anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên. Nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất mà anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn của người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nàn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng, tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
71. Trở về
“Chúng ta phải ăn mừng em con, vì nó đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy…” (Lc 15, 32)
Người ta gọi Phúc âm thánh Luca, là Phúc âm của Lòng Thương xót; điều này đúng lắm vì chủ đề của quyển sách chính là trình bày Tình thương và Lòng Thương xót vô biên của Thiên Chúa. Dụ ngôn người con trai hoang đàng được đọc trong chúa nhật hôm nay, chỉ một mình thánh Luca ghi lại, là một dụ ngôn ghi lại hình ảnh đẹp nhất về lòng Thương xót này…
* Xin mời anh chị em cùng suy niệm.
a. người con hoang đàng: anh này là đứa con bất hiếu, bất kính, tội lỗi, ích kỷ; bất hiếu vì cha còn sống mà dám đòi chia gia tài; bất kính vì dám lìa bỏ gia đình, quê cha đất tổ linh thiêng, dám chà đạp lên giá trị đạo đức của gia tộc; tội lỗi vì lúc đói quá, dám ăn cả thịt heo, con vật ô uế, người Do thái không dám nói tới, chỉ có dân ngoại ăn mà thôi; ích kỷ vì chỉ nghĩ đến tiền của, khoái lạc, bản thân mình; chỉ khi đói mới nghĩ đến chuyện trở về…
Người con cả: được coi là mẫu mực, đạo đức, thực chất chỉ là con người giả hình. Anh tự cho là mình ngay chính, không nhận ra lòng yêu thương nhân từ của cha đối với người em. Em của anh ta là hình ảnh người tội lỗi, nhưng anh lại là hình ảnh người ngay chính cứng lòng, tự mãn. Nếu đã nói anh là người cứng lòng, thì việc trở về của anh xem ra rất khó khăn….
Người cha nhân hậu: hình ảnh hai người con tội lỗi, xấu xa bao nhiêu, hình ảnh của người cha ở đây lại đầy bao dung, yêu thương bấy nhiêu. Tình yêu của người cha bao dung nhân hậu, dành cho hai con hư hỏng trong hai cách thức khác nhau. Tình yêu này đã không làm họ cảm thấy nhục nhã khi phạm tội; trái lại còn giúp họ hoán cải và tìm lại được giá trị nhân phẩm của mình. Đây là một mạc khải rất đặc biệt của Chúa Giêsu về Chúa Cha…
b. Hai điểm suy niệm về “Tự do”:
1. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng nó lại là con dao hai lưỡi, có thể đem lại hạnh phúc cho, đồng thời nó cũng đủ khả năng giết chết con người, nếu dùng nó sai mục đích. Nguyên tổ loài người trong vườn địa đàng đã dùng sai tự do, nên họ và con cháu phải chết và bị phạt đời đời. Thánh Phêrô, thánh Phaolô, Maria Magdala, Augustinô, Charles de Foucault, dù họ có tội, nhưng họ đã biết ăn năn, nên họ đã thoát khỏi tối tăm, trở về vùng tự do, ánh sáng: chính họ cuối cùng đã sử dụng đúng tự do của mình. Người con trai hoang đàng trong dụ ngôn hôm nay, dù anh có tội, cuối cùng anh cũng biết dùng đúng tự do của anh, để trở về trong vòng tay nhân ái của người cha…
2. lòng nhân hậu vô bờ của người cha: dụ ngôn này còm được gọi dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Chúng ta thử nghĩ: nếu người con hoang khi trở về, gặp người cha có tính hẹp hòi như con cả, chắc kể như anh ta “đi đứt”, vì thế dụ ngôn này vừa nói lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa trước sai lầm và tội lỗi của con người, đồng thời cũng nói lên sự hẹp hòi, ích kỷ của một số người Kitô hữu tự cho mình là đạo đức và đầy đủ bổn phận; trong khi thực chất họ chẳng hiểu và cũng chẳng sống cho Thiên Chúa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* nhận ra tội lỗi mình, người con thứ thấy chỉ còn con đường quay trở về nhà, về với cha, cầu mong ơn tha thứ. Anh đã đúng sự tự do của mình. Là kitô hữu, có khi nào ta thấy mình cần quay trở về với Chúa như người con thứ này?
* Lòng tự mãn của người con cả làm cho anh ta ra hẹp hòi, ích kỹ, quá khác xa với lòng quảng đại vô bờ của người cha. Tội của anh không phải là nhẹ: đó là tội của người công chính tự mãn, cứng lòng. Còn ta, ta là hạng nào đây?
72. Trở về trong tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không có ngôn từ nào có thể diễn tả. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương từng con người như thể trên đời chỉ có duy nhất một người vậy. Tình yêu ấy thể hiện cách rõ nhất khi người lỗi phạm thì Ngài luôn sẵn sàng thứ tha. Đứa con lánh xa thì Ngài luôn trông ngóng nó quay về. Dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay đã khắc hoạ hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Nhìn vào sự hư hỏng, phóng đãng của những đứa con thứ trong dụ ngôn, hình ảnh người cha nhân hậu càng đáng làm ta nể phục. Với tuổi trẻ ham chơi, người con thứ sớm muốn được sở hữu một tài sản cho riêng mình. Nó đã tự ý đề nghị người cha chia gia tài cho nó. Theo tập tục dân Israel , người cha không được chia gia tài theo ý thích của mình nhưng luật có những quy định rõ ràng. Người trưởng nam được hưởng 2 phần sản nghiệp, nghĩa là gấp đôi phần được chia cho những người con khác. Ơ đây chỉ có 2 người con nên người anh cả được hưởng 2/3 còn người con thứ là 1/3.
Việc người cha chia gia tài khi ông còn sống không có gì lạ, bởi người cha có thể chia gia tài cho các con khi ông không muốn hoạt động kinh doanh nữa. Tuy nhiên taì sản các con chỉ được hưởng khi người cha qua đời. Điều đáng nói ở đây là chính đứa con thứ đã lên tiếng đề nghị trước. Lời anh đề nghị với cha có ý nói rằng: Cha hãy cho tôi gia tài ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được hưởng. Tin Mừng không nói người cha trả lời ra sao thì đứa con thứ đã tự lấy phần của mình rồi ra đi. Người cha không nói tiếng nào, chỉ biết bằng lòng trong đau khổ vì biết răng con mình rồi sẽ hư thân.
Thế nhưng trong dụ ngôn, Thiên Chúa vẫn luôn đặt hy vọng nơi con người tội lỗi. Một lời khen tặng duy nhất và lớn nhất của Chúa Giêsu dành cho đứa con thứ khi Ngài nói: ” Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhũ: Thôi ta đứng lên đi về cùng cha tôi “. Đây là sự tỉnh ngộ của một người khi biết trở về với chính mình. Điều này rất quan trọng, vì chính sự trở về này mà số phận người tội lỗi được thay đổi. Con người còn chống nghịch Thiên Chúa thì con người không thực sự là chính mình. Con người thật sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà Cha.
Một điều hết sức lạ kỳ nơi Chúa Giêsu và cũng là sự an ủi cho chúng ta là Thiên Chúa không bao giờ nghĩ rằng con người là hư hỏng hoàn toàn. Ngài luôn đặt tin tưởng nơi con người một sự trở về. Đó cũng là tâm trạng của người Cha trong dụ ngôn. Ngày ngày người cha cứ đứng chờ đứa con nơi đầu ngõ. Chờ để đón nhận, chờ để tha thứ cho con. Sự tha thứ của người cha này không một điều kiện, không một lời trách móc, ngăm đe.
Người con thứ trở về là niềm vui lớn cho người cha. Dù Kinh thánh không đề cập đến nỗi đau của người cha, song chúng ta hiểu ông ây rất đau khổ lắm. Kinh thánh cũng không nói thời gian đứa con xa nhà là bao lâu, nhưng ta hiểu người cha phải nhiều phút giây trăn trở lo lắng cho người con. Khi con trở về niềm vui đã khoả lấp mọi đau buồn, chỉ biết chạy ra ôm chầm lấy con.
Người con cả, bao năm sống trong nhà cha mà anh sống như người ở ngoài vậy. Anh là đứa con cứng nhắc và hẹp hòi. Anh đã nổi giận với cha, không chịu ăn mừng khi người em trở về sau những ngày phóng đảng. Thế mới hiểu ra, trước giờ anh hầu hạ cha không mang tâm tình của người con nhưng mang tâm tình của người giúp việc mong được trả lương. Cách ” hầu hạ ” cha như thế anh đã đánh mất diễm phúc đích thực là hằng ngày được sống bên cạnh cha và được thừa hưởng tất cả những gì là của cha. Anh chỉ biết vâng nghe người cha làm việc trong bổn phận mà quên đi điều mình phải làm tất cả trong yêu thương. Anh đã sống gần cha mà không nhận ra tình thương của cha. Thiết nghĩ anh là đứa con tuy không đi xa nhưng cần phải trở về.
Đời sống của mỗi người có lẽ nhiều lần đã bỏ Chuá quá xa đến nỗi không còn biết đâu là lối để quay về. Những lún chìm quá nặng nề trong tội lỗi, những nghi ngờ trước tình Chúa yêu thương khiến ta không dám quay bước trở về. Ta nên vững tin rằng, Thiên Chúa ngày ngày luôn đợi chờ ta và sẵn sàng đón nhận, ăn mừng khi ta biết quay trở về.
73. Người anh cả
Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay?
Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.
Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã biến mất.
Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo, ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che đậy.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật lệ Do thái.
Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.
Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.
Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?
Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma tuý, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước… Vì thế để hoá giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.
Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô hữu chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.
Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những người anh em một cha trên trời.
74. Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân từ
Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Giêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.
Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa
Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.
Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.
Con người mới trong Đức Kitô
Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Giêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hoá cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.
Ơn thánh hoá, làm con người giao hoà với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.
Thiên Chúa như người cha nhân từ
Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.
Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.
Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?
75. Sám hối là trở về – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu thường quan tâm, chăm sóc, gần gũi những người tội lỗi. Nhóm Pharisiêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi lẽ những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa, người tội lỗi là người cần được yêu thương nâng đỡ hơn. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời những thắc mắc của họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người cha nhân hậu, trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người phụ nữ. Một người con quá quý giá đối với người cha nhân từ. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng.
Tin Mừng hôm nay kể về dụ ngôn thứ ba: “Người cha nhân hậu”. Nội dung câu chuyện đều hướng đến tình cha “ấm áp như vầng thái dương”, cao vời vợi và thật xúc động ân tình của cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ, biểu tượng người tội lỗi
Người con thứ đòi cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình. Rời quê nhà, nơi sinh trưởng, nơi nó được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo. Nó ra đi không phải để học hành, tìm kiếm việc làm. Nó đi ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản và sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Nó trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về nó chẳng còn gì cả, tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến cha, không bao giờ sám hối vì bỏ cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha là nó “trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công”.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin. Nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp. Nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy, chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ban Bí tích Hòa giải, tôi đã gặp nhiều hối nhân, sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa để tìm lại bình an nội tâm, đón nhận niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều hối nhân như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả, biểu tượng người biệt phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha.
Hoá ra, cả hai người con vừa khác, lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, người anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với anh em.
3. Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
76. Hoan nghênh!
Bài Phúc Âm hôm nay nói về dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu đã hoan nghênh sự trở về của cậu. Một người cha có hai người con. Người con trẻ hơn, đã không thể kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi cha mình qua đi để chia gia tài. Anh nói, “Bố ơi, con muốn nhận phần gia tài của con, và đi khỏi cái vùng quê này.” Người cha đã chia phần sản nghiệp cho con theo lời cậu yêu cầu. Theo lời Phúc Âm kể lại thì người con trẻ đã thu hết tất cả những gì thuộc về mình và trẩy đi nơi xa và ở đó ăn chơi.
Sau cùng, cái ngày tàn khốc đã đến với anh. Anh đã xài hết tiền và trở nên tồi tàn. Anh đã cố gắng để tìm một công việc là chăn heo, và bởi vì đói quá nên đã có lúc anh muốn ăn những đồ của heo. Không một ai giúp đỡ cho anh một cái gì hết. Sau đó, Phúc Âm kể lại cho chúng ta rằng anh đã được đánh động từ trong nội tâm việc anh phải làm. Anh suy nghĩ: “Tôi phải rời bỏ chỗ này, và trở về với cha tôi, và thưa với người rằng con đã phạm tội với trời và với cha. Con không đáng được gọi là con cha nữa.” Và sau đó, anh đã bỏ chốn tồi tàn đó và trở về với cha mình.
Khi anh về gần đến nhà, người cha đã chạy ra và hoan nghênh đón tiếp anh, “Ông chạy đến, ôm chầm lấy và hôn anh” (Lc 15:20).
Chú ý là không có chỗ nào ghi lại là người cha đắn đo, và không một sự hối hận nào ở trong trái tim của người cha, cho dù là người con đã phá tài sản của mình. Người cha đã quyết định không để cho một chút sự nghi ngờ gì về người con ở trong tâm trí của mình, tất cả đều được tha thứ.
Chúa Giêsu đã cô đơn trong bốn mươi ngày chay tịnh ở trong sa mạc trước khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của Ngài. Chúa Giêsu đã cô đơn trong vườn Giếtsimani buổi tối trước khi đi chịu chết. Ngài đã không ngừng van xin, “Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã cô đơn khi Ngài đang bị treo trên cây thánh giá, “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:34). Cho dù là đi vào trong một cái chết cô đơn, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ước muốn mạnh mẽ sự hiện diện của Chúa Cha cùng sánh vai cứu chuộc nhân loại.
Ước muốn sánh bước với Chúa có lẽ là điều mà chúng ta ít khi để ở trong thời khoá biểu ngày sống của mình. Ước muốn có sự hiện diện của Thiên Chúa là con đường dẫn đến sự sống, bởi vì sự khao khát đó sẽ giải hoà ta với con người và rồi dẫn chúng ta đến gần Thiên Chúa!
Một vị linh mục có tài năng về âm nhạc chia sẻ về một lần ngài đi viếng viện dưỡng lão như sau. Sau khi chơi đàn guitar và hát cho những người già nghe, ngài đã đến và bắt tay từng người. Một người đàn bà già đã bắt tay ngài và nói với ngài hãy trở lại trong vòng hai tuần lễ vào cũng giờ này. “Tại sao vậy?” vị linh mục hỏi. “Đó là bởi vì hôm đó là birthday thứ 100 của tôi,” bà trả lời. Vị linh mục đó bị cảm kích hỏi lại, “Điều gì đã được ban tặng trong suốt cuộc đời lâu dài của bà?” “À, thì tôi đã cưới được một người chồng tốt, ông ấy đã ra đi, và tôi còn có những người con ngoan thảo, họ cũng đã ra đi. Đó là cuộc sống hạnh phúc mà tôi đã có. Bây giờ tôi có một cuộc sống như thế này.” Sau đó, bà ấy đã mở rộng cánh tay ra như muốn ôm lấy tất cả mọi người. Bây giờ, mỗi khi tôi gặp trắc trở khó khăn, hoặc cô đơn lặng lẽ, tôi đều mở rộng cánh tay và đón nhận những điều mình đang có.”
Cho dù chúng ta có ở trong một chỗ tạm trú cho những người vô gia cư hoặc ở trong viện dưỡng lão, hoặc ở một nơi thờ phượng, hoặc là một dịp gia đình tụ họp, bất kỳ ở chỗ nào, chúng ta cũng hãy mở rộng cánh tay hân hoan nghênh đón những gì mình có và ôm lấy nó. Điều chúng ta phải làm hôm nay không phải là tách xa, nhưng là giải hoà.
Bạn hãy luôn luôn là người tha thứ trước. Đừng chờ đợi để người khác đến xin lỗi bạn. Bởi vì, do sự tha thứ, bạn sẽ trở thành sư phụ của định mệnh, một người trang điểm cho cuộc sống, một người làm phép lạ.
77. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Tài
Em con đã chết nay sống lại
Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận. Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân lưu danh tiếng như: “Giáo hội tiến hay lùi” (Mùa Chay năm 1948); hoặc “Linh Mục giữa xã hội” (Mùa Chay năm 1948).
Đức Thánh Cha Piô XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: “Năm nay Đức Hồng Y có ra thông điệp nào mới không?”
Giữa những bận rộn của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: “Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi tôi sẽ xem”.
Một tháng trôi qua, cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Toà Giám Mục hoàn toàn vắng khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: “Thưa Đức Hồng Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng như đọc sách báo giải trí vậy”. Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.
Sáng hôm sau, vừa dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: “Nước Pháp, một xứ truyền giáo”. Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại: Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.
Cám ơn cha Henry Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là Ngài đã lập ra “Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris” vào năm 1944, đồng thời Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.
Anh chị em thân mến!
Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh dấu bằng những giây phút “Tự Kiểm Điểm” hay “Cảnh Tỉnh”.
Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cũng gợi cho chúng ta sự đổi mới trở về của người con đi hoang sau những giây phút chạnh lòng và tự kiểm điểm. Thật thế, có lẽ trong chúng ta chẳng ai xa lạ gì với hai chữ “Kiểm Điểm”, không những không xa lạ mà lắm khi còn kinh hãi khi nhắc đến hai chữ này. Nhưng dù sao đi nữa “Kiểm Điểm” vẫn luôn là yếu tố căn bản để đổi mới con người. Tu đức học Kitô giáo đã dùng nó như là phương pháp hoàn thiện con người.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách “Đường Hy Vọng” cũng đã khuyên: “Trên đường hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân nơi bóng mát để kiểm điểm lại những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm để bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang. Hãy kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm.
Xe tốt cũng làm máy lại. Sức khoẻ tốt cũng khám tổng quát, nếu muốn tránh sự sụp đổ bất ngờ không thể cứu vớt được. Bay lồng lộng giữa không gian thế nào, sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất, vì lệch lạc là không đến đích.
Con người đã sợ hãi, xa lánh từ “Kiểm Điểm”. Vì mỗi lần tự kiểm điểm là mỗi lần nhận chịu hình phạt. Một dịp tự kiểm điểm là thêm một cơ hội chịu hạ nhục, bêu xấu đánh mất đi phẩm giá con người của mình.
Trong Đức Giêsu Kitô, kiểm điểm không còn mang dáng dấp đe doạ ấy. Người con đi hoang đã thưa cùng cha: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin cha đối xử với con như một người làm công của cha mà thôi”. Đáp lại lời tự hối này không phải là lời trách phạt đoạ đầy, nhưng là một việc xác nhận địa vị làm con và một bữa tiệc linh đình với những gì ngon béo nhất để mừng con trở về.
Chúng con cũng có thể gọi “lịch sử cứu độ” là một chuỗi những bản tự kiểm điểm, những lời tự hối được nhận lời và được ban thêm giá trị: Ngôi báu của Đavít tồn tại đến muôn đời; người phụ nữ tội lỗi trở thành rường cột Giáo hội. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh, lòng sám hối chỉ có giá trị khi xuất phát từ cặp môi miệng chân thành với tin yêu hy vọng kèm theo một sự chỗi dậy, quyết tâm trở về với hết lòng thành của tâm hồn.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn lại mình, để quyết tâm đứng dậy trở về cùng Cha. Mỗi một thất bại, mỗi một đau khổ vẫn luôn là một tiếng chuông gọi mời, cảnh tỉnh, nếu con biết tự kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm. Chúng sẽ là cơ hội quí báu cho con cảm nghiệm được tình yêu bao la của người Cha trên trời. Amen.
78. “Không sinh quả, thì…” – Nguyễn Văn Nội
Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp chung gửi đến hết mọi người?
Dụ ngôn người cha nhân hậu mang một thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến hết mọi người. Thông điệp đó là: Thiên Chúa vì yêu thương con người, sẵn sàng thứ tha mọi tội lỗi, xúc phạm của những người con bội bạc, bất hiếu, nhưng sám hối ăn năn quay về với Chúa. Mỗi lần một tội nhân quay trở về, thì Triều đình Thiên quốc hoan hỉ vui mừng không sao kể xiết. Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người cũng chỉ nhằm cứu vớt những người hư hỏng, tội lỗi mà Thiên Chúa Cha hết mực yêu thương, quí trọng, giống như người mục tử bỏ 99 con chiên mà đi tìm con chiên lạc. Vậy thì, dù tội lỗi, yếu đuối đến đâu, con người cũng không có lý do gì phải thất vọng, vì Lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao và hữu hiện hơn tội lỗi của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết quay về và cậy trông vào lòng thương xót ấy, chứ không được ỷ vào tình thương của Người mà tiếp tục sống trong tội lỗi và phản bội.
Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp riêng gửi đến những người Pharisêu thời xưa và thời nay?
(a) Với những người Pharisêu trong Phúc âm tức những người sống cùng thời với Đức Giêsu thì ngoài thông điệp chung vừa được trình bày ở trên, dụ ngôn người cha nhân hậu còn muốn nói với họ điều này: Họ không có quyền giới hạn cách cư xử và yêu thương của Thiên Chúa. Họ cũng không có quyền coi mình là những người đạo đức thánh thiện hơn những người thu thuế và tội lỗi. Họ lại càng không có quyền coi khinh coi thường những người kia. Trái lại họ phải biết khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa đối với những người yếu đuối, tội lỗi mà bắt chước Người trong cách sống của mình. Họ được vinh dự là người con cả, vì họ là thành phần của dân riêng, dân được tuyển chọn, và được diễm phúc lớn lao là luôn được sống trong nhà của cha, nhưng họ hãy coi chừng: vì rất có thể họ làm việc và cư xử với cha như những người làm công, tính toán thiệt hơn và thiếu tình thiếu nghĩa hoặc hẹp hòi, so bì với hạng em út.
(b) Còn những người Pharisêu thời nay, họ là ai? Phải chăng đó là những người đạo gốc mà chỉ giữ đạo hình thức, nặng luật lệ? Phải chăng đó là những người tham gia ba bốn hội đoàn trong giáo xứ, giữ những chức vụ quan trọng trong hội đoàn? Phải chăng đó là những người có nhiều quen biết với các giám mục, linh mục và tu sĩ? hay trong gia đình có người đi tu làm giám mục, linh mục hay tu sĩ? Phải chăng đó là những người giầu có, trí thức, có địa vị xã hội? Với những người Pharisêu thời nay dụ ngôn người cha nhân hậu nhắn nhủ họ rằng: các anh các chị hãy coi chừng: đừng vì giầu sang, địa vị hay đạo gốc của mình mà kiêu ngạo và coi thường coi khinh người khác. Biết đâu những người không công giáo, biết đâu những người nghèo khổ, ít học lại gần gũi Thiên Chúa hơn chúng ta vì họ yêu mến và thực hành Lời Chúa hơn chúng ta!
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất, chúng con cảm tạ Chúa đã bộc lộ cho chúng con biết tấm lòng yêu thương cao cả của Chúa là một Người Cha. Thiếu sót và tội lỗi của chúng con chẳng có thể làm gì được Cha mà chỉ làm giảm và mất giá trị của chính chúng con mà thôi. Và để phục hồi giá trị nguyên thuỷ mà Cha muốn ban cho chúng con, Cha đã không ngại hy sinh Con Một Cha để chúng con được ơn làm hoà cùng Cha. Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Cha về hồng ân thứ tha mà Cha đã ban cho chúng con và tiếp tục ban cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh thập giá để đem ơn thứ tha cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con quyết tâm sống phó thác vào Tình Thương của Chúa và học với Chúa để biết yêu thương, cứu vớt anh em là những người cũng cần được thứ tha tội lỗi như chúng con.
79. Dứt khoát – Trầm Thiên Thu
Muốn bỏ một điều gì xấu thì người ta phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng mới có thể dứt khoát “đứng dậy” và “trở về”. Người con hoang đàng phải can đảm và dứt khoát để trở về với người cha, chính người cha cũng phải can đảm và dứt khoát mới có thể nhận đứa con hư là người con yêu như trước.
Đức Chúa phán với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập” (Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai.
Cuộc sống của dân Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng ngày: “Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an” (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại và kiêu ngạo.
Hồng Ân Chúa luôn tuôn tràn. Cảm nhận được vậy nên tác giả Thánh vịnh xác định: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi” (Tv 34:2). Tại sao? Tác giả Thánh vịnh nói rõ lý do: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa”, thế nên “xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:3).
Không chỉ vậy, người nào cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa không thể thụ động, thế nên tích cực kêu gọi: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:4-6). Tác giả Thánh vịnh khiêm nhường và chân thành tâm sự: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:7).
Thánh Phaolô xác định: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:17). Đó là canh tân, là càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà “mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2 Cr 5:19-20).
Thánh Phaolô là một học giả, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa quá kỳ lạ, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể cúi đầu kính tin và cảm tạ!
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thấy thế, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Tình trạng này rất thường thấy trong chúng ta: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người Pharisêu chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Thế nhưng người ta sai mười mươi mà vẫn cho mình là đúng, là “ngon”.
Biết họ đang nghĩ gì, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” – cũng gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (Lc 15:12). Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, không may trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15:18-19). Sau khi giằng co trong tư tưởng, anh ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, rồi can đảm đứng lên đi về nhà cha.
Thái độ dứt khoát rất quan trọng. Đó là “chết” cho tội lỗi, “chết” cho chính mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng,… là những lúc tiếng Chúa đang nói thẳng với chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc,… mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa,… Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng “trắng tay” và không dám “đứng thẳng” mà ngước nhìn đời. Bị “triệt buộc”, tiến thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, vì Thiên Chúa nhân từ vẫn chan hòa Lòng Thương Xót.
Về đến nhà, biết thân biết phận mình khốn nạn, người con nói: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:21). Người cha chỉ chờ giây phút đứa con hối cải. Và người cha liền bảo các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:22-24). Và họ bắt đầu ăn mừng. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la!
Khi tiệc mừng rôm rả, người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ” (Lc 15:27). Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ, nhưng anh ta so đo: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15:29-30). Chúng ta chỉ là những đứa con bất hiếu, thế nhưng chúng ta vẫn thường so đo và tính toán nhưng người con cả trong dụ ngôn này. Tính kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc!
Nhưng người cha vẫn ôn tồn và điềm đạm nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15:31-32). Người cha lý luận tuyệt vời quá!
Quả thật, Thiên Chúa đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ một người lầm đường lạc lối, vì Ngài “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18:14). Thiên Chúa “ngược đời” quá mà cũng kỳ diệu quá! Nếu Ngài không “khác người” như vậy thì chúng ta hết đường “về nhà”. Và vì thế, chúng ta phải dứt khoát bỏ ngay thói kiêu căng của người con cả!
Lạy Thiên Chúa, chúng con khốn nạn quá, thế mà chúng con vẫn tự cho mình là “chiên ngoan”. Xin Chúa đổi mới chúng con theo đúng Tôn Ý Ngài, xin dập tắt tính kiêu căng nơi chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình lầm lạc để có thể đoạn tuyệt với quá khứ đen tối mà mau quay gót trở về nương náu nơi Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
80. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng
Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa
Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại hiện hữu có ghi lại trong Thánh kinh. Trải qua suốt dòng lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Chúa đã lỗi lời giao ước. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Và mỗi khi họ đi lạc đường lỡ bước thì Chúa lại sai các tiên tri đến để cảnh giác họ. Và mỗi lần họ ăn năn thống hối, thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng tha thứ. Cuối cùng Chúa sai chính Con một Người đến để thi hành luật bác ái. Luật công bình đòi răng đền răng, mắt đền mắt. Còn Chúa Giêsu đến dạy: Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (Mt 5:39).
Trong Phúc âm hôm nay Chúa kể một dụ ngôn về người con hoang đường và phung phá. Chúa kể dụ ngôn này để chỉ cho ta thấy Thiên Chúa muốn người tội lỗi được cứu rỗi. Sự thực thì dụ ngôn này nhắm vào người cha hơn là người con và có lẽ đúng hơn thì nên gọi là dụ ngôn người cha nhân từ hay tha thứ, thay vì người con phung phá. Theo dụ ngôn này thì cả hai người con đều có lỗi. Người con thứ đã phạm tội ích kỉ, tham lam và đàng điếm. Còn người con trưởng lỗi phạm tội ghen tuông và không tha thứ. Đến đây ta tự hỏi ta thuộc loại người con nào? Ta hành động như người con thứ khi ta lạm dụng những ân huệ, phung phá những của cải và tài năng Chúa ban, khi ta ích kỷ và lười biếng. Ta hành động như người con trưởng khi ta ghen tuông với người khác, với người được may mắn và được nhiều ân huệ, với người giàu có và tài năng hơn ta. Ta còn hận Chúa vì gặp phải số phận không may. Người con trưởng được sống giữa tài sản và của cải của cha mình. Đáng lẽ anh ta phải cảm thấy tất cả những của cải mà người cha có cũng là của anh ta vì anh ta sẽ được thừa tự. Tuy nhiên anh ta không nhận định được cái ân huệ người cha đã dành cho mình. Anh ta đóng cửa lòng lại, nhất định không chịu tha thứ cho người em biết sám hối trở về. Ta có thể có kinh nghiệm khi ta đóng cửa lòng lại, không chịu tha thứ, ta cảm thấy tâm can héo hắt. Cái tâm trạng đó có thể hiện trên nét mặt làm ta khó chịu. Chắc là cái nét mặt của người anh trưởng khi thấy người em thứ trở về và được cha đón tiếp cũng rất là khó chịu mà dùng tiếng bình dân gọi là nét mặt hãm tài.
Cái bối cảnh của dụ ngôn hôm nay là các người luật sĩ và biệt phái bất bình với Chúa Giêsu vì Người đón tiếp những người tội lỗi. Họ cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ tội và họ muốn đặt cái giới hạn cho lòng nhân từ của Chúa. Câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay không gợi cho ta một kinh nghiệm nào trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vì theo kinh nghiệm loài người, ta không thấy cái thực tại của một người cha nào tốt lành đến nỗi, hối hả chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về trước khi đứa con có dịp xin lỗi và kể lể. Và đó là cái điểm khác biệt giữa việc tha thứ của loài người và việc Chúa thứ tha. Việc tha thứ của loài người chỉ có giới hạn. Còn việc Chúa thứ tha không có giới hạn. Chúa bảo ta phải tha thứ bảy mươi lần bảy.
Nhận thức được cái tình trạng khốn khổ của mình, người con thứ đã quyết định trở về. Đó là cái bước đầu của ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cái khó khăn là khi ta quên lãng lòng nhân từ của Chúa. Vậy điều ta cần là lòng tin tưởng cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa. Chúa vẫn chờ đợi ta tỏ dấu ta muốn trở về làm hoà với Chúa và thay đổi cách sống để được sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa.
81. Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Chú giải và suy niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)
THIÊN CHÚA THƯƠNG TẤT CẢ MỌI NGƯỜI VÀ MUỐN CHO MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC CỨU ĐỘ.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Người (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Người khi Người tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (15,11-32):
a) Người con thứ (cc. 11-24; truyện kết thúc với điệp khúc c. 24),
b) Người con cả (cc. 25-32; truyện kết thúc với điệp khúc c. 32).
3.- Vài điểm chú giải
– Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do-thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
– lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì imperfect cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
– ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
– Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
– phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
– sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
– chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do-thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
– nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
– chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
– và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
– Thưa cha… con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
– áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
– xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
– đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
– con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
– chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tât xấu!
– một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
– thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
– lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
– tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
– em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Các câu mở đầu (cc. 1-3) đưa chúng ta trở lại với lời các kinh sư nhắc nhở: “Đừng có một ai đi với những kẻ gian ác, cho dù để tìm cách thuyết phục họ đi theo lề luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Như thế, cấm không được nhận lời mời đến ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư rất khó chịu. Họ không chống Đức Giêsu bởi vì Người thương xót kẻ tội lỗi, nhưng bởi vì Người ăn uống với kẻ tội lỗi.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Người giải thích không phải là cho những kẻ tội lỗi, nhưng cho những người “công chính” đã vấp phạm vì Người. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (11-32)
Cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha tôn trọng tự do của các con, ông đã chia gia tài cho các con và để chúng tự do định liệu. Ông không ép người con thứ ở lại nhà. Ông cũng không tìm cách kéo nó trở về. Ông chỉ trông mong người con từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Bản văn giới thiệu người cha như một biểu tượng về chính Thiên Chúa. Tình thương vô điều kiện và lòng thương xót của Ngài được tỏ ra không những đối với người tội lỗi hoán cải mà cả đối với kẻ chỉ trích vì không hiểu biết và thiếu thông cảm. Thiên Chúa mời gọi mọi người hoan hỷ khi người tội lỗi trở lại. Bởi vì lời mời gọi này được Đức Giêsu truyền đạt, và chính Người đã đón tiếp những người tội lỗi, ta hiểu là Người mời gọi mọi người hoan hỷ với Người. Nếu dụ ngôn nói với chúng ta về niềm vui của Thiên Chúa, thì lại chính là Đức Giêsu phác ra trong dụ ngôn đó cách thức hành động của chính Người. Có một sự đồng hóa ngầm giữa hành vi của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu chính là Đấng đã diễn tả niềm vui và lòng thương xót của Thiên Chúa ra cho loài người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
2. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
3. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
82. Chú giải của Noel Quesson
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này
Những câu này dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”. Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ – ôi! Chiếc “bàn” kỳ diệu biết bao.
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: “Một người kia có hai đứa con trai”. Đó là dụ ngôn “người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
1. Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người “con út”.
Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.’ Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực – khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.’ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.
a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải” của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “’Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào”. Thái độ này không phải ngày nay mới có.
b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: “Nhét cho đầy bụng”. Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa”, “ông chạnh lòng thương”, “ông chay đến, ông ôm hôn”. Có lẽ việc “chạy đến” là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương “hoán cải”. Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ “ăn năn” của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: “Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung”. Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: “Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!” Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta” thành “em con”. Chết – sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng” của Thiên Chúa! “Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con cả”.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’ Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: “Ông bước ra năn nỉ”. Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, “những người thợ giờ chót” sẽ thay chỗ những người đầu tiên “làm vườn nho” (Mt 20,18). Cũng như thế, “người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy “dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. “Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?” (Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.
Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: “Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu – Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11,17). “Không dành đặc ân, cho ai cả”. Mọi người đều được thương yêu.
83. Ba dụ ngôn về lòng thương xót
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Pio X)
1. Nhập đề của ba dụ ngôn đã phóng đại rằng: tất cả những kẻ thu thuế và những người tội lỗi thường lui tới bên Chúa Giêsu để nghe Ngài. Việc thêm thắt chữ “tất cả” vào trong nhập đề này có ý chỉ phương thức căn bản của sứ mệnh và thái độ của Chúa Giêsu: Ngài đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư đi (x.L 19,10), nghĩa là tất cả. Điều này, do đó, cũng có giá trị cho hai hạng người thu thuế và tội lỗi nữa. Họ cần phải đến với Ngài và nghe lời Ngài, bởi vì họ không thể tìm được nơi nào khác lời hy vọng và sự tiếp đón nhưng không đó. Điều đó đã làm cho các biệt phái và ký lục phàn nàn kêu trách: “Ông này tiếp đón những người tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ” (c.2). Lời kêu trách này cũng giống như giai thoại ông Lêvi và đối đáp với các ký lục Biệt phái nơi phúc âm Mc (2,12-17). Nơi Lc, lời kêu trách nhắm hai điểm: Ngài tiếp đón những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ. Điểm trách cứ thứ nhất cho thấy rằng những người thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn tôn giáo và xã hội Israel; ít ra theo giáo thuyết các giáo sĩ Do thái; giáo thuyết này đã có câu châm ngôn như sau: TC yêu thương những người công chính và gớm ghét người tội lỗi. Bởi vì TC gớm ghét người tội lỗi nên Israel cũng phải làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu làm ngược lại. Ngài tiếp đón các tội nhân.
Điểm kêu trách thứ hai còn nặng nề hơn: “Ông ta cùng ngồi ăn với chúng”. Tiếp đón những người tội lỗi chưa đủ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: cùng ngồi ăn với họ. Trong cổ thời, bữa ăn có nghĩa là liên minh, thân hữu, liên đới giữa con người với nhau và giữa con người với TC. không cần nói, mà chỉ bằng thái độ, Chúa Giêsu cho thấy rằng TC rõ ràng muốn hiệp thông với kính những người tội lỗi.
Nhập đề này gán cho những dụ ngôn tiếp theo một tính cách biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi. Nhưng trong câu cho thấy, thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi chắc chắn không có nghĩa là họ được công chính hóa vì là tội nhân. Tội nhân cũng cần tự mình hoán cải. Nhưng điểm mới mẻ là ở chỗ: sự cải hóa của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được TC ân cần tiếp đó (như thần học các giáo sĩ Do thái chủ trương): ngược lại, sự hoán cải này trước tiên được TC thực hiện. Chính người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên lạc, ông không ngồi đợi con chiên trở về. Điều phải làm trước tiên là chứng tỏ tình yêu đối với người khác; chính nơi TC mà ta tìm thấy khởi điểm của việc con người trở về.
2. Đâu là điểm chính yếu của chương này. Ta hãy thử tóm tắt: ở đây, không có sự từ chối hoàn toàn giáo thuyết biệt phái, nhưng là một thái độ rất hòa hoãn trước lời tố cáo của địch thủ Chúa Giêsu, một lời mời gọi thực sự nói qua dụ ngôn, mời gọi bắt chước cách thế hành động của chính TC. TC đã kinh nghiệm được một niềm vui khôn tả khi một tội nhân đi vào nước trời; hơn nữa Ngài đã kêu mời mọi người chung vui với Ngài vì tội nhân trở lại; tội nhân ngày xưa đã lạc mất và hiện tìm thấy, trước đây đã chết và nay sống lại. Suốt cả chương mời gọi ấy cứ vang mãi cho đến lúc bừng lên ở đoạn cuối. Chính Người mục tử mời gọi bạn bè và láng giềng đến chia vui với ông; chính người đàn bà đã làm như vậy, và chính người cha cũng mời gọi tôi trai tớ gái của ông đến chung ly rượu vui mừng. Đặc biệt nhất là lời mời gọi khẩn thiết, van nài vối với người con cả. Niềm vui tột đỉnh của TC là không loại trừ một người nào. Ngài mong ước cho chúng ta được niềm hân hoan phát sinh từ sự thay đổi sâu xa tận đáy tâm hồn.
Ngay cả từ ngữ cũng hướng ta về ý nghĩa ấy: các diễn tả niềm vui dầy đặc cả trong văn bản. Trước hết có thể kể chữ “tiếp đón” (prosdechetai), như nhiều tác giả đã nghĩ; rồi chắc chắn là chữ “mừng rỡ” (c.5), “chia vui” (c.6), “vui mừng” (c.7), “chia vui” (c.9), “vui mừng” (c.10), “ta hãy ăn khao” (c.23), “đàn ca múa hát” (c.25), “phải ăn khao mà mừng chớ” (c.32). Đó là niềm vui phải cùng chung với những người khác: người mục tử và người đàn bà với bạn bè (xin xem các động từ kép sugkalsin, sugchairein), TC với các thiên thần, người cha với tôi tớ và nhất là với con cả. Ta còn có thể kể thêm ý tưởng “tìm lại được”, một tiếng diễn tả niềm vui vỡ bờ của kẻ đã từng kinh nghiệm điều đó.
Nhưng trong văn mạch, lời mời gọi chung vui này mang một khía cạnh Kitô học rất đặc biệt: đó là một lời mời gọi khó lòng đón nhận nếu không có một thay đổi não trạng tận gốc, chính Chúa Giêsu đã phát biểu như vậy; chính thái độ của Ngài đã phản ảnh tinh thần và niềm vui của TC khi Ngài tiếp đón tội nhân; chính Ngài đã muốn rằng mọi người phải chung vui với Ngài. Kẻ nhìn thấy Chúa Giêsu cũng nhìn thấy TC và không chê bai lối hành động của Ngài. Con người của Chúa Giêsu không phải là một cái gì được thêm vào cho sứ điệp tin mừng và cho lời rao giảng Nước Trời. Ngược lại Ngài chính là sự mới mẻ chủ yếu của sứ điệp đó. Các dụ ngôn đây hoàn toàn không phải là một sự lặp đi lặp lại cách vô ích ơn tha thứ mà TC dành cho người tội lỗi như trong lời rao giảng của các ngôn sứ đâu. Nếu các dụ ngôn nói cho chúng ta về niềm vui của TC, thì Chúa Giêsu đã miêu tả cho chúng ta thấy phương thế hành động riêng của Ngài. Điều đó có thể được vì giữa hành động của TC và hành động của Chúa Giêsu có một sự đồng hóa âm thầm nhưng thực sự. Trong phúc âm của thánh Lc, Chúa Giêsu mời gọi ta bắt chước TC: “Hãy biết xót thương như Cha các ngươi là Đấng thương xót” (6,36). Nhưng ở đây còn hơn nữa: trong sứ mạng của Người, Chúa Giêsu là Đấng qua đó TC bày tỏ cho chúng ta niềm vui và sự thương xót của Ngài. Bởi thế, phàn nàn chống đối Chúa Giêsu, cuối cùng là phàn nàn chống đối TC, vì Chúa Giêsu lôi kéo tội nhân về với TC. Hầu như có thể giải thích cách thần học câu: “họ lui tới bên Ngài” thế này: Chúa Giêsu là người đầu tiên mời gọi chúng ta đến với nguồn vui ấy, nguồn vui ơn cứu rỗi ta.
3. Có một điều khiến các nhà chú giải phải lưu tâm ngay là: trong cặp dụ ngôn người mục tử, là có phúc âm thánh Mt (18,12-24); hai bản văn thuật lại dụ ngôn này dầu song song, vẫn khác biệt nhau: nơi Mt, hoàn cảnh không phải là sự tiếp đón các tội nhân, nhưng là sự săn sóc mà cộng đoàn phải chu toàn đối với những “kẻ bé nhất”; vì thế, kết luận cũng hoàn toàn khác biệt trong hình thức (phủ định nơi Mt) cũng như trong nội dung. Có thể tóm lược những dị biệt này như sau: Mt nhấn mạnh việc tìm kiếm, Lc nhấn mạnh niềm vui tìm gặp; trong Mt, Chúa Giêsu mời gọi những kẻ mạnh hay các mục tử hãy dẫn dắt kẻ yếu đuối về, trong khi Lc làm nổi bật niềm vui tha thứ của TC; Mt nhấn mạnh đến bổn phận phải chu toàn, Lc lại đi sâu vào con tim TC; Mt cho các tông đồ một qui luật, Lc lại mô tả sự nhân lành của Đấng cứu thế đối với tội nhân.
4. Trong hai dụ ngôn đầu của chương 15 này, người ta thấy có sự đồng nhất cơ cấu đặc biệt đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn “sinh đôi”
(người đàn ông)
Ai trong các ông
giả sử có một trăm con chiên
và lạc mất một con
há người ấy lại không bỏ
cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó ư?
Tìm được rồi…
lại không gọi bạn bè hàng xóm
và phân phố với họ thế này sao:
“bà con hãy chia vui với tôi”
tôi đã may mắn tìm thấy con chiên lạc của tôi
Cũng vậy, tôi bảo các ông,
… sẽ vui mừng
vì một người tội lỗi hối cải
hơn là vì 99 người công chính… (người đàn bà)
Bà nào
có mười đồng bạc
nếu rủi mất một đồng
há bà ấy lại không chong đèn…
cho đến khi tìm được đồng bạc đó ư?
Tìm được rồi…
lại không gọi bạn bè hàng xóm
và phân phố thế này sao:
“bà con hãy chia vui với tôi”
tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi đánh mất
Cũng vậy, tôi bảo các ông,
… vui mừng
vì một người tội lỗi hối cải
hơn là những kẻ không cần ăn năn.
Sự song đối thật quá hiển nhiên: câu hỏi ban đầu, hình thức lời nói, từ ngữ, ý tưởng… Với phương cách đặc biệt, vịêc lặp đi lặp lại các ý niệm và các từ ngữ đều gợi lên niềm vui và mời gọi chúng ta đến chia sẻ.
Bố cục theo một lược đồ đồng nhất, hai dụ ngôn này vì thế đề ra cùng một giáo huấn. Rất là thanh nhã, Chúa Giêsu lần lượt đưa vào một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Các con số ở đây không quan trọng lắm. Có chặng là chính đơn vị bị mất mát, được tìm kiếm, và gây nên nỗi vui mừng cúc tìm thấy: một con chiên (trong cả đàn chiên), một đồng bạc (tiền công của một ngày làm việc) trong cả chút gia sản nhỏ bé, và (trong áp dụng) một tội nhân ăn năn, một linh hồn được cứu; điều đó đáng làm người ta chú ý.
a. Hình ảnh người mục tử tìm được con chiên mình (cc.3-6):
Nhận thấy thiếu mất một con chiên trong đàn, người mục tử để 99 con chiên ngoan ngoãn gặm cỏ nơi hoang vắng (phải hiểu là để lại trong an toàn, nơi đồng cỏ vùng cao), để đi tìm con chiên lạc. Kể từ đây, trình thuật tập trung vào việc làm sáng tỏ thái độ của mục tử đối với con chiên duy nhất này. Ông đi tìm, ông gặp được nó, ông vui mừng, nỗi vui mừng phát biểu qua hai cách: ông vác con chiên lên vai như một giải khăn quàng sống động để cảm thấy nó thật gần gũi với mình; ông kêu mời bạn bè hàng xóm đến chia sẻ hạnh phúc của ông: niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Hình ảnh này có lẽ hơi phóng đại (nhất là trong cách biểu lộ sự vui mừng) vì muốn ghi khắc bài học vào tâm trí. Nhưng nếu xét thực tế một chút, người ta thấy cử tọa dễ dàng và tự nhiên đồng ý với người thuật truyện và đi vào trong: “Ai trong các ông lại không làm như thế” (c.4). Được vuốt nhẹ một chút, thính giả chấp nhận ngay liền.
b. Hình ảnh bà nội trợ tìm lại được đồng bạc (cc.8-9)
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân Palestine: một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay một ít đồ đạc lỉnh kỉnh. Ánh sáng không có bao nhiêu và chỉ đi lọt qua cửa chính vì nếu mở cửa sổ, nóng sẽ hắt vào. Ngay giữa ban ngày, cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các xó góc. Câu chuyện được diễn tả chỉ trong vài tiếng: đồng tiền bị mất, người đàn bà gia công tìm kiếm (soi đèn và quét tước khắp nơi) tìm được rồi lòng ngập mừng vui. Đồng tiền thế nào cũng được cất lại một nơi chắc chắn, và niềm vui nói mãi không cùng với bạn bè hàng xóm, những người được réo gọi và chạy sang với một sự hiếu kỳ đầy thiện cảm.
c. Giáo huấn của hai dụ ngôn cc. 7 và 10)
Chúa Giêsu không bắt chúng ta khám phá giáo huấn đó. Ngài đã cắt nghĩa rõ ràng: đó là niềm vui của TC: “Trên trời sẽ vui mừng” (c.7), “vui mừng ắt vang lên giữa các thiên thần của TC” (c.10); hình thức chuyển từ kiểu Do thái này là để tránh đề cập trực tiếp đến TC. Nhưng toàn văn mạch chỉ rằng niềm vui đó là niềm vui của Ngài và của triều thần thiên quốc), niềm vui được mô tả một cách như nhân để những thực tại của TC dễ thấu đạt chúng ta.
Đối tượng của niềm vui vỡ bờ này là sự thu hồi tội nhân: một sự thu hồi do TC, một kết quả của lòng người lo lắng cho kẻ đã lạc mất (xem các chi tiết của hai dụ ngôn); sự thu hồi đó giả thiết tội nhân đã để TC bắt lấy (như con chiên và đồng bạc) cho nên sự hối lỗi, sự trở lại của anh ta không gì khác hơn là sự đáp ứng lại những bước đầu tìm kiếm của Ngài.
Nhưng cần nhắc lại rằng hai dụ ngôn không phải là lời mời gọi hoán cải. Chúng trực tiếp diễn tả niềm vui của TC. Đấng đã sung sướng trong sự chiến thắng của tình thương xót Ngài, sau khi đã động viên toàn lực để dẫn đưa kẻ lầm lạc trở về.
5. Dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng hẳn là một trong những trang phúc âm lôi cuốn nhất. Không cần mất thì giờ dừng lại trên những phân tích tâm lý tinh vi, trên nghệ thuật trình bày tài tình. Nhưng phải giới hạn lại, và ở đây tốt hơn, nên chú ý nhiều đến giáo huấn tôn giáo mà dụ ngôn muốn ghi khắc vào tâm trí.
Có một tương quan chặt chẽ nối kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước trong chương 15 của phúc âm Lc. Trước hết ai cũng nhận thấy các kết luận đều giống nhau trong suốt cả chương âm vang như một điệp khúc: “hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc” (c.6), “Hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được đồng tiền đánh rơi: (c.9), “Ta hãy ăn mừng vì con Ta đây đã chết mà nay được sống, đã lạc mất mà nay lại tìm thấy” (c.32). Toàn chương như một bài ca tán tụng hạnh phúc của người tìm lại được cái mình đã mất đi.
Tính cách duy nhất đó được biện minh cho cách thức Lc dẫn nhập vào dụ ngôn bằng hai câu ông đã đặt ở đầu chương. Kẻ tỉ mỉ sẽ nhận xét rằng nhập đề này chỉ liên hệ trực tiếp đến dụ ngôn đầu mà thôi. Thật ra nó liên hệ đến cả hai dụ ngôn kia nữa vì cả ba ăn khớp với nhau. Và lại ta sẽ thấy rằng, nhập đề ấy hoàn toàn phù hợp với nội dung của dụ ngôn sau cùng: Chúa Giêsu sở dĩ đưa ra dụ ngôn này là vì các người biệt phái và ký lục đã công phẫn trước thái độ ân cần chiếu cố của Ngài đối với những người tội lỗi.
Dụ ngôn rõ ràng chia làm hai phần, phân ra nhờ điệp khúc ngắn rõ ràng của câu 24. Phần đầu diễn tả thái độ của người cha đối với đứa con hoang đàng, phần sau nói lên khó khăn của ông đối với người con cả. Hai đứa con hiện diện ở đó là để ông cha có cơ hội biểu lộ tình cảm của mình (cho nên vị anh hùng đích thực của dụ ngôn không phải là thằng con hoang đàng, song là cha của y). Nhưng những chi tiết về hai người con cũng soi cho ta thấy đâu là hoàn cảnh của dụ ngôn, đâu là vấn đề chính yếu khiến Chúa Giêsu muốn ban ra một giáo huấn. Giáo huấn này chắc chắn nằm trong những lời nói của người cha. Do đó, thay vì lần lượt xem xét hai phần của trình thuật, có lẽ nên xác định đâu là hoàn ảnh của dụ ngôn bằng cách trước hết chú ý chân dung của hai người con. Chân dung của người con cả đơn giản hơn hết, nên ta sẽ bắt đầu nói về anh trước sau đó đến người con thứ, rồi người cha và cuối cùng đề cập đến giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đưa ra qua trung gian ông già này.
1. Người con cả
Khi đứa con thứ trở về, anh ta đang làm việc ngoài đồng. Chiều đến, sau một ngày lam lũ trở về nhà, không hay biết gì hết. Trong nhà cuộc vui đã tới hồi náo nhiệt với ca nhạc và nhảy múa. Anh con cả kêu người giúp việc, hỏi về chuyện đang xảy ra. Câu trả lời thật khó nghe: “Ấy, em cậu vừa về, nên cha cậu đã cho hạ bò tơ béo, bởi vì cụ đã được lại con an lành mạnh khỏe” c.27). Nghe vậy, anh ta giận dữ vô cùng. Cách thức nhận tin cho thấy phản ứng của anh. nhưng phải biết rằng: bản văn không muốn tô vẻ người con đầu lố bịch. Bản văn chỉ cho thấy anh ta đang giận dữ, Và giận dữ không phải không có lý do.
Vì anh từ chối vào nhà, nên ông cha phải đích thân ra van nài anh vào. Sẵn cơn tức giận, người con cả trút hết nỗi uất ức chất chứa trong lòng bấy lâu: “Này biết bao năm trời, tôi làm tôi ông cùng chưa hề cãi lệnh ông, thế mà có bao giờ ông cho tôi được một con dê để ăn mừng với chúng bạn. Còn khi thằng con của ông kia đã ngốn xong cả sản nghiệp của ông với đàn đĩ mà về, thì ông lại hạ bò tơ béo mừng nó” (cc.29-30)
Anh ta đã thốt lên một cách cứng cỏi, nếu không nói là thô lỗ; nhưng xét cho cùng, thực đúng như vậy. Anh ta nghĩ rằng cha mình đã xử sự không đúng, và phải công nhận anh có lý. Lời kêu trách của anh nhắc ta nhớ lại lời kêu trách của những người thợ giờ thứ nhất khi họ phản đối thái độ của ông chủ vườn nho: “hạng cuối hết này (những người thợ tới làm việc lúc 11 giờ) đã chỉ làm một giờ thôi, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi, là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy” (Mt 20,12). Qua những lời kêu trách của người con cả và những người thợ thứ nhất, có thể nhận ra được cảm nghĩ của những người mà Chúa Giêsu đã hướng dụ ngôn tới. Dẫu bằng cách khác, họ cũng nghĩ rằng, quyền lợi của họ đã bị thiệt thòi. Một cái gì đó đã xảy ra khiến họ phải bảo: “Như thế là không công bình”.
Trước khi trả lời họ, Chúa Giêsu cho thấy những thông cảm với những khó khăn của họ. Bản trình thuật đã khéo sắp xếp để cho đối tượng của dụ ngôn nhận ra mình trong người con cả và thấy anh ta là phát ngôn cho mình.
Người con cả trước hết nói về chính bản thân anh: “Này đã biết bao năm trời tôi làm tôi ông, cùng chưa hề trái lệnh ông. Các từ ngữ anh ta xử dụng để diễn tả lòng trung thành của mình đối với Cha chính là từ ngữ đã xác định lý tưởng tôn giáo của các ký lục và biệt phái: bền tâm làm tôi TC, ra sức lo lắng để đừng bao giờ “trái lệnh” của Ngài.
Sau đó, người con cả còn nói với người con thứ bằng một giọng vô cùng khinh bỉ. Anh ta tránh gọi là “em con” nhưng nói “thằng con của ông kia”. Thật đúng như người biệt phái của dụ ngôn Lc 18,10-14 đã gọi “tên thu thuế kia” vậy. Cũng thái độ khinh miệt ấy tỏ lộ qua những từ ngữ khiếm nhã lên án hạnh kiểm của đứa con hoang đàng.
Như thế đã đủ để cho ta thấy rõ hạng người mà dụ ngôn muốn nhắm đến. Chúa Giêsu ngỏ lời với những kẻ tự cho mình là tôi trung của TC, những kẻ đã cố giữ để đừng bao giờ vi phạm giới răn Ngài. Họ nghĩ rằng một lòng đạo đức như thế cho họ được quyền, và họ phẫn uất trước những gì xem ra bất công đối với họ. Không pgải là họ phẫn uất trước kẻ tội lỗi, những người này chỉ làm cho họ khinh bỉ. Sự phẫn uất, khó chịu của họ, chúng ta đã thấy rồi là do thái độ của TC đối với các tội nhân: nếu TC cũng nhân lành với kẻ tội lỗi như thế, thì người công chính nào có hơn gì không? Lòng thương xót của TC đối với người tôi lỗi há không làm lung lay nền tảng của một tôn giáo chủ trương trung thành vâng lời TC sao? Nếu các kẻ tội lỗi là những người được TC ưu đãi, thì cần gì phải mất công giữ giới răn của Ngài?
2. Người con thứ
Ta đã thấy dụ ngôn cố sức làm nổi bật sự bắt bẻ của người con cả, nhưng không nhận chìm nhân vật mà qua đó, các đối tượng phải nhận ra chính mình. Bây giờ là chân dung của người con thứ; anh ta không được tô điểm chút nào và phù hợp với hình ảnh mà người biệt phái có thể có về một người tội lỗi chính danh.
Sau khi đã thu được phần gia tài, đứa con thứ trẩy đi xa (dĩ nhiên là vùng lương dân) ở đó anh ta phung phí của cải bằng một đời sống phóng đãng (mà chỉ bọn ngoại giáo mới sống). Cuối chặng đường phiêu lưu đó, anh chàng làm nghề chăn heo. Đối với người Do thái, đấy là tồi tệ hết chỗ nói. Ta có thể đoán được khi nghe đến đây, người biệt phái ắt bỉu môi, kinh tởm.
Sau cùng, đã đến lúc suy nghĩ lại. Nhưng hãy xem anh chàng ăn chơi suy nghĩ gì nào? Hối tiếc thái độ của mình? Hối hận vì đã gây buồn khổ cho cha? Không có đâu, anh ta đã tự trách đã dại dột để mình chết đói đang khi gia nhân của cha có bánh ăn no đầy. Tại sao không lợi dụng điều đó và đi về xin làm gia nhân của cha? Để hoàn thành kế hoạch, anh ta dọn trước một câu thật hay: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời, và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa, xin xử với con như một người làm công của cha thôi” (cc-19). Câu này thật hay, nhưng anh quá biết đấy là một mánh khóe hết sức tầm thường. Cái làm cho thằng con lo lắng là không có gì mà “tống cho đầy bụng” (c.16). Hắn trở về nhà là để được ăn thả cửa. Những lời lẽ hối hận của hắn không phù hợp với cảm nghĩ đích thật của hắn. Những lời đó chỉ có mục đích làm động lòng người cha đang tức giận một cách chính đáng, hắn chỉ cần khêu gợi lòng thương cảm của cha với hy vọng ông sẽ không tìm cách soi thấu lòng dạ của của hắn mà thôi.
Không! Trình thuật này không có lý tưởng hóa tội nhân. Chân dung vẽ ra là đúng như lòng mong đợi của biệt phái mà Chúa Giêsu đang ngỏ lời. Khi muốn sửa chữa chân dung đó để biến đứa con hoang đàng thành mẫu gương thống hối, ta sẽ bỏ qua giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho thính giả Ngài. Từ lâu trong Israel, người ta biết rõ là TC thích tha thứ cho những kẻ tội lỗi ăn năn trở về. Nếu Chúa Giêsu chỉ muốn nói thế, thì người biệt phái không có lý do gì để phẫn nộ cả.
3. Người cha
a. Người cha và đứa con thứ: phải đọc lại đoạn mô tả xúc động về thái độ của người cha khi đứa con hoang trở về ở câu 20-24. Làm thế nào để chú giải một đoạn văn như vậy mà không làm mất đi tính cách sống động của nó? Ta thấy người cha xúc động khi nhận ra con mình từ đàng xa. Động từ có nghĩa là: người cha bồi hồi cảm xúc và chạnh lòng thương xót. Mối xúc động bên trong này tức khắc biểu lộ ra bằng những cử chỉ cuồng nhiệt: người ta ngạc nhiên thấy ông già đương phương đường bệ này chạy bổ vào đứa con, thằng con bắt đầu tụng lên câu dọn sẵn, nhưng nó không đọc hết được, vì cha nó đã hối hả kêu gia nhân: “Mau mau. Đem áo thượng hạng mà mặc cho nó, hãy xỏ nhẫn vào tay nó, và giày vào chân nó, rồi đem con bò tơ béo mà hạ đi, ta phải ăn khao mới được. Mau lên.
Tất cả sự náo nhiệt này được hiểu như là một sự bùng vỡ niềm vui. Nỗi sung sướng của người cha thật tràn trề đến nỗi ông chạy lăng xăng khắp nhà. Câu 24 kết thúc đoản văn bằng cách đưa ra lý do sâu xa của niềm vui này: “Vì con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất đi mà lại tìm thấy được”. Dù tội lỗi đến đâu, tên hoang đàng vẫn là đứa con của cha nó. Đối với ông cha, chỉ điều ấy là đáng kể. Ông đã không bao giờ ngừng yêu mến con ông. Đã một thời đi xa, đứa con như mất đi, bây giờ tìm lại được nó. Kể chi đến quá khứ, chỉ biết bây giờ nó đã trở về. Người cha dào dạt niềm vui, bởi vì ông đã yêu con như bất cứ người cha nào.
b. Người cha và đứa con cả: người cha đã không muốn nghe hết lời thú tội của thằng con thứ, nay tránh cắt ngang lời trách móc của đứa con cả. Ông lắng nghe hết câu than vãn đó. Và lúc ấy, ông mới trả lời, bằng một giọng âu yếm trái hẳn với giọng điệu hằn học của đứa con.
Trước hết, người con cả nói về mình, về hạnh kiểm gương mẫu của mình mà anh ta nghĩ rằng đã bị cha đối xử bất công. Người cha bắt đầu trả lời những trách cứ của anh: “này con, con hằng ở luôn với cha thì tất cả của cải của cha đều là của con” (c.31). Chúng ta không cần nghe nói đến con dê bị khước từ nữa: “Tất cả những gì là của cha đều là của con”. Thật thế, người con cả không thể phàn nàn rằng anh ta đã bị xử bất công.
Câu trả lời này nhắc ta nhớ lại rằng mình đang đứng trước một dụ ngôn. Cho nên không có vấn đề đi tìm một ý nghĩa mầu nhiệm nào đó trong các từ ngữ được xử dụng. Ta sẽ lạc đề hoàn toàn chẳng hạn như muốn áp dụng những từ ngữ của câu trả lời về liên hệ giữa người cha và người con này vào mối liên hệ giữa TC và những người biệt phái. Điều đúng trên phương diệm là TC không bất công đối với người biệt phái cũng như người cha đã không bất công với đứa con cả vậy.
Phần thứ nhất của câu trả lời bác lại một bắt bẻ, phần thứ hai đi xa hơn và đưa ra một giáo huấn tích cực. Dĩ nhiên nơi đó mới là điểm quan trọng. Câu trả lời lấy lại điệp khúc đã kết thúc phần thứ nhất của trình thuật (c.24), nhưng biến đổi rất có ý nghĩa. Thay vì nói “con ta đây, nó đã chết…” để đổi lại từ ngữ đứa con cả dùng: “thằng con của ông kia đã về sau khi đã ngốn xong sản nghiệp của ông” người cha đã sửa lại một cách tế nhị: “Em con đó”, “phải ăn khao mà mừng chớ, vì em con đó nó đã chết mà lại sống, đã mất mà lại tìm thấy được” (c.32). Nếu người cha đã vô cùng hạnh phúc khi tìm lại được đứa con, thì người anh sao lại không hoan hỉ lúc tái ngộ em mình?
Trình thuật chấm dứt với lời kêu gọi của người cha. Cuối phần nhất, điệp khúc được tiếp liền bằng một câu kết vắn tắt: “Và người ta mở tiệc ăn mừng” (c.24). Ta có thể tưởng tượng một câu kết luận như thế cho cả trình thuật để bảo rằng đứa con cả đã hoàn toàn được thuyết phục. Nhưng trình thuật vẫn cố ý bỏ ngõ, vì chính thính giả phải tự nói là họ có đáp trả lời kêu gọi này của dụ ngôn hay không. Kết luận của trình thuật tùy thuộc vào thái độ của họ. Họ chịu để thuyết phục không? Họ có chấp nhận chia sẻ không? Họ có chấp nhận chia sẻ niềm vui của TC khi một tội nhân trở về không? Họ có đủ sức thông hiệp vào tình yêu mà TC không ngừng mang lại cho những người anh em tội lỗi không? Chỉ có họ mới trả lời được.
c. Mạc khải về lòng thương xót của TC: trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu vạch trần cạm bẫy mà trong đó thường rơi vào những kẻ đạo đức xét theo lề luật và những kẻ thỏa mãn với sự công chính riêng của mình, họ đòi hỏi TC phải công nhận vì họ “công chính” sờ sờ ra đó. Nhưng sự công chính này, mà họ tưởng có thể dựa vào, lại lôi họ đến chỗ tiêu diệt. Họ bị hiểm nguy vì họ quên rằng họ là những người con và vẫn là con ngay cả trong sự trầm luân. Quả thực, TC Cha đã đến gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài.
Ngay trước khi đứa con hoang đàng xưng thú tội lỗi mình, người cha đã ôm nó vào lòng mà hôn. Cái hôn trên má dành thường dành cho người ngang hàng. Chúa Giêsu diễn tả sự phục hồi tư cách, địa vị làm con của đứa em bằng cách nói: người ta đem lại cho gã cái áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay và mang giày vào chân gã. Việc mặc áo ngày lễ chúng tỏ: người cha không những tha thứ hết mọi tội lỗi thằng con mà còn ngầm báo nó đừng sợ, cha không phạt đâu. Tuy nhiên việc chú giải dụ ngôn còn cho một kết luận khác nữa: việc TC tha thứ không phải chỉ là cất hình phạt, song còn là một hành động sáng tạo. Nếu tội lỗi của con người là dấu hiệu khuất phục sự chết, thì sự tha thứ nhân danh Chúa Giêsu và nhân danh TC không phải chỉ là chết đi tội lỗi, nhưng còn băn khoăn một thực thể mới, thay đổi con người toàn diện.
KẾT LUẬN
Hai dụ ngôn của chương này kết thúc một cách vui vẻ, nhưng dụ ngôn thứ ba thì được “bỏ ngỏ”: người con trưởng có chấp nhận lời mời không? Đó không phải là câu hỏi để kết thúc. Sau khi đã hiểu được niềm vui khôn tả của TC, câu hỏi đích thực liên hệ đến chúng ta: chúng ta có thực lòng chung vui với TC và Chúa Kitô, khi thấy người anh em tội lỗi vào nước trời? Nếu thực lòng chung vui, chúng ta đang đi vào tâm tình của Chúa Kitô, và nhờ người, được liên kết với Chúa Cha, là đấng yêu thương hết thảy mọi người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. TC muốn cứu độ mọi người (1Tim 2,4), không phải chỉ cách tổng quát và tập thể, nhưng còn là một cách cá biệt. Ngài không muốn một số kẻ được chọn nào đó, Ngài muốn cứu vớt tất cả. Cho dù chỉ có một linh hồn cần được đưa về với Ngài (một con chiên trong số 100 con) Ngài cũng lo liệu tìm mọi cách để đưa kẻ ấy trở về.
2. Chúa Kitô là mục tử tốt lành, biết tên từng con chiên một (Ga 10,3). Sứ mệnh của Ngài là đưa những con chiên lạc nhà Israel trở về đàn (Mt 15,24). Cũng như Chúa Kitô, Kitô hữu không được bỏ rơi kẻ nào trong những tương giao nhân loại hay tôn giáo của mình, nhưng phải sẵn sàng tiếp nhận mọi thiện chí, sẵn sàng tiếp xúc một cách chân thành hữu ích. Không phải môi trường rộng lớn mới là quan trọng. Thánh Francois de Sales có nói: “Một linh hồn đã là một địa phận khá lớn cho một giám mục rồi”
3. Cho dù tội lỗi đến đâu, chúng ta đừng bao giờ thất vọng. Tình yêu của TC và của Chúa Kitô luôn đeo đuổi chúng ta (Rm 8,37-39). TC rình chờ chúng ta, để vác chúng ta lên đôi vai khi cần (Is 40,11) và đưa chúng ta về lại ràng. Chúng ta hãy tin tưởng vào sự âu yếm của TC chúng ta. Hãy thưa với Ngài rằng chúng ta là con chiên lạc lối và hãy xin Ngài đến tìm kiếm ta cho mau (Tv 119,176) để từ đây săn sóc ta như con chiên thân thuộc (Tv 95,7) trong tình yêu thắm thiết của Ngài.
4. Hôm nay, ngày Chúa Nhật, TC vui mừng biết bao được tụ họp đoàn dân Ngài trong giáo hội để nhờ Chúa Kitô dâng lên hy lễ thờ phượng. Trong đoàn dân này, Ngài nhận ra những con chiên trung thành của Ngài và có lẽ cũng nhận ra một vài tâm hồn Ngài đã dùng ân sủng đánh động riêng, đã trở về cuộc sống thờ phượng: đó là những con chiên tìm thấy những đồng bạc thu hồi, những tâm hồn đã được đưa về để tôn thờ TC đích thật hầu được cứu rỗi.
5. Chúng ta tìm thấy được dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng một mạc khải về sự âu yếm khôn lường của TC đối với những người tội lỗi. Tình âu yếm đó đã được Chúa Giêsu tỏ ra cho loài người trong việc Ngài chăm lo cho các tội nhân suốt sứ vụ tại thế, và nhất là trong viêc hy sinh mạng sống Ngài để chuộc tội cho họ. Việc khám phá ra một tình yêu như vậy không thể làm cho ta tràn đầy tin tưởng vào Đấng đã yêu thương chúng ta. Chúng ta quá biết mình là những tội nhân; nhưng chúng ta từ nay không được quên rằng thân phận khốn nạn đó không làm TC ghét bỏ chúng ta, trái lại càng khiến Ngài yêu chúng ta hơn. Vì vậy chúng ta vững tin cho chính mình, và cũng vững tin cho những kẻ khác. Chúng ta cũng đang sống giữa những người tội lỗi. Khi thấy các anh em ấy gặp khốn khó hay lầm lạc, chúng ta hãy nhớ lại rằng họ vẫn được TC yêu, và tình yêu đó đủ mạnh để cứu rỗi họ.
6. Không thể thật sự khám phá ra tình yêu của TC mà không thấy sự đòi buộc của tình yêu đó đối với chúng ta. Người con cả của dụ ngôn, vì không hiểu tình yêu của Cha, cũng không hiểu được lời mời gọi phát xuất từ tình yêu đó: anh ta chỉ thực sự là người con hiếu thảo của cha khi biết chia sẻ tình yêu của cha, biết thương mến đứa em. Việc đề phòng mà dụ ngôn muốn nhắc nhở cho người người biệt phái không phải là không liên hệ đến Kitô hữu. Dụ ngôn nhắc cho họ nhớ rằng người ta không thể phục vụ TC đúng ý Ngài nếu không yêu Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh em, cho dù những người này là tội nhân. Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với con tim lạnh lùng kiêu căng của người biệt phái, kẻ tưởng mình đang sống an toàn vì đã thi hành tỉ mỉ những giới luật. Làm sao có thể xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu nếu ta khinh bỉ xa tránh những kẻ đang gặp hoạn nạn khó khăn do tội lỗi. Tình yêu TC kêu mời chúng ta yêu mến anh em. “Anh em thân mến, nếu TC đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11)
84. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.
Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem”. Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: “Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời “những người nghèo khó, què quặt, đui mù” gom nhặt “ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ” (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: “Tiếp đón những người tội lỗi”. Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người “ăn uống với họ!” Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư “kêu trách Người” như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.
Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc “mất rồi lại tìm thấy”, dụ ngôn đồng bạc “mất rồi lại tìm thấy”, dụ ngôn cậu con thứ “mất rồi lai tìm thấy”.
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.
Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải “chăn heo” cho chủ – đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ – vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được “tống đầy bụng những thứ heo ăn” mà không được.
Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi”.
Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ
Người anh “từ ngoài đồng” về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang “giận dữ”. Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: “Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè”. Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: “Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà”. Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng”.
4. Lòng quảng đại phi thường của người cha
Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải “chạy ra” coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.
Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. “Mau lên!” ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. “Mau lên!” vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: “Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.
Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên “dơ” không? Hay anh vẫn giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Huguses Cousin kết luận: “Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta
Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?
Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là “những người khác” mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.
(H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 17- 18).
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: “Làm cái này rồi tôi tha thứ cho”. Không? Người tha thứ rồi mới nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị “tha hoá”
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
85. Chú giải của William Barclay
CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH
Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.
1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy.
Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn.
Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
86. Thiên Chúa của chúng ta là thế đó!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót”. Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời.
Có một câu chuyện kể lại như sau: một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng: đêm qua Chúa mới hiện ra với bà.
Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Người ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’ Sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
– “Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con”.
– “Thế bà có hỏi Ngài không?”
– “Thưa có chứ”.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
– “Bà hỏi thế nào?”
– “Thì con hỏi y như Cha đã bảo: ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
– “Vậy Chúa có trả lời không?”
– “Có chứ”.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
– “Chúa nói sao?”
– “Chúa nói: ‘Ta đã quên hết rồi’”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm!!! (Kể theo ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận).
Vâng! Thiên Chúa của chúng ta là như vậy. Ngài yêu thương và sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Tình yêu của Người là một tình yêu luôn đi bước trước và hướng tha. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đức Giêsu kể các dụ ngôn hôm nay.
1. Thiên Chúa là Đấng Thương Xót
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu nhiều lần và nhiều cách Ngài mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa cho các Tông đồ và dân chúng. Rõ nét nhất chính là nơi ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng xu đánh mất và người cha nhân hậu (x. Lc 15,1-32).
“Nơi các dụ ngôn này, chúng ta thấy toát lên một điều rõ rệt, đó là Thiên Chúa luôn sung sướng, vui mừng hân hoan khi thực hiện được một hành vi tha thứ, đây là điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (x. Tông Sắc LTX., số 9).
Căn tính này thật rõ nét nơi hình ảnh người cha nhân hậu. Nơi người cha này, ông đã không màng chi đến tội lỗi của đứa con hư thân mất nết, ông cũng chẳng mong anh ta phải nói lên lời xin lỗi sau những tháng ngày sa đọa… Nhưng, với ông, ông chỉ canh cánh một điều là: mong sao nó trở về để tha thứ và yêu thương. Thế nên, khi thấy đứa con tội lỗi trở về trong thân hình tiều tụy thê lương, ngay lập tức, một loạt cử chỉ phi thường của tình yêu đã được ông hành động như: chạy ra, ôm hôn, truyền mang áo đẹp mặc cho cậu, xỏ vào tay, mang dép vào chân và mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 20-23). Niềm vui tha thứ này diễn tả niềm vui Nước Trời, bởi lẽ, Thiên Chúa “muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (x. Mt. 9, 12-13), nên: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 10). Đây cũng là biểu hiện của sự thành công và quyền năng của Thiên Chúa khi lòng thương xót của Người đến được với đối tượng cần ơn tha thứ, vì: “Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài” (Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4).
Chính vì lẽ đó, nên khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã sống và mạc khải cụ thể cách trung thành về lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại qua chính cuộc đời, hành động, lời rao giảng và nhất là nơi cái chết trên thập giá, để qua đó, nhân loại hiểu được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2. Sứ điệp cho Giáo Hội
Phụng vụ hôm nay, Đức Giêsu muốn mặc khải cho Giáo Hội là hiền thê của Ngài biết rằng: “Lòng thương xót là bản chất của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót này đã nuôi dưỡng, chống đỡ và trở thành mục đích của Người”.
Điều này đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc đến trong Tông Sắc về Lòng Thương Xót. Ngài viết: “Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tình yêu, thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội”. Và ngài cảnh tỉnh: “Có lẽ từ lâu chúng ta đã quên trình bày và sống theo lối đi của lòng thương xót. […] Thật đáng buồn khi nhận ra trải nghiệm về tha thứ ngày càng trở nên hiếm thấy trong nền văn hóa ngày nay. Kể cả đôi khi từ ngữ này dường như cũng đang dần biến mất! Tuy nhiên, không có chứng từ của sự tha thứ, thì đời sống sẽ cằn cỗi không sinh hoa trái, như bị cô lập trong vùng hoang mạc trống vắng!”. Và ngài mời gọi: “Đã đến lúc Giáo Hội phải thực thi phận vụ hân hoan loan báo sự tha thứ. Đã đến lúc trở về với điều căn bản là mang lấy những yếu hèn và khó khăn của anh chị em chúng ta. Sự tha thứ là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững niềm hy vọng cho tương lai” (x. Tông Sắc LTX., số 10).
Lời mời gọi thực thi lòng thương xót dành cho Giáo Hội là hiền thê của Đức Giêsu, thì cũng là lời kêu mời dành riêng cho mỗi chúng ta.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
“Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót” (Lc 6,36). Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời. Lòng thương xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng sẽ được yêu thương luôn mãi, bất chấp tội lỗi của chúng ta” (x. Tông Sắc LTX., số 2).
Qua các dụ ngôn hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa, đó là quảng đại, tha thứ, nhẫn nại và yêu thương.
Vì: “Nếu Chúa đã chà đạp và ném mọi tội lỗi chúng ta xuống lòng biển sâu” (x. Mk 7,18-19), thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải vứt bỏ tội lỗi của anh chị em mình sang một bên, để chỉ còn tình yêu và lòng tha thứ ngự trị nơi hành động, lời nói và tâm tưởng của ta.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải cảm nghiệm được sự vĩ đại của tình yêu mà Thiên Chúa đang dành cho mình, bởi lẽ: nhiều lúc, chúng ta cũng hoang đàng như người con thứ, cũng phung phí tiền bạc, thời giờ, sức khỏe và Ơn Thánh cách vô bổ; hay nhiều khi chúng ta cũng kiêu ngạo, tự phụ, để rồi khinh bỉ, rũ bỏ và loại trừ những người tội lỗi, không cho họ có cơ hội để trở về với lòng thương xót của Thiên Chúa như người con cả… ấy thế mà Chúa vẫn thương. Đây là mầu nhiệm vĩ đại, vì Thiên Chúa của chúng ta là như thế. Ngài luôn quên hết mọi lỗi lầm của ta và chỉ mong một điều, đó là ơn tha thứ được đến với ta mãi mãi.
Mong sao, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con thứ để thưa lên với Đấng Giàu Lòng Thương Xót rằng: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con vì con là kẻ có tội”; đồng thời tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vì Ngài đã phán: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1, 18), và hãy biết tha thứ như Thiên Chúa là Đấng hay Thương Xót để chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Amen.
87. Lòng Thương Xót cho tất cả chúng ta – Dã Quỳ
Giữa màu tím của Mùa Chay Thánh, hôm nay Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ IV gọi là Chúa Nhật hồng. Màu hồng ấy nói lên niềm vui mừng vì được yêu thương, được đón nhận và tha thứ. Cho dù con người có lỗi lầm và ở trong tình trạng nào đi nữa, nhưng…”Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hơn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.”(Tv 33,6) Bởi vì Chúa nhân hậu và tốt lành biết mấy. Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu không biên giới của người cha khi đón nhận vô điều kiện đứa con thứ tội lỗi trở về và nhẫn nại xót thương với người con cả – là một mạc khải cốt yếu về Thiên Chúa mà chính Chúa Giêsu muốn vén mở cho chúng ta. Thiên Chúa, như người cha không bao giờ thất vọng về những đứa con của mình.
Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người cha nhân hậu, một câu chuyện sống động, bởi vì những người lãnh đạo tôn giáo thời ấy đã tức giận về việc Người ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Thế nên, trong dụ ngôn này không phải là người con thứ mà người cha mới là trung tâm của dụ ngôn.
Người cha đã yêu thương, tôn trọng tự do và quyền tự trị của các con mình. Ông đau khổ chấp nhận để con ra đi. Nhưng ông hy vọng rằng sẽ có một ngày khi con trưởng thành, nó sẽ hiểu được tình yêu của cha nó.
Với ý nghĩ nổi loạn và không muốn phục tùng cha, người con thứ đã muốn được nắm quyền tài sản của anh “Xin cho con phần tài sản con được hưởng.”(Lc 15,12) Anh ta nghĩ sẽ được tự do khi rời khỏi cha và sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn mà không cần cha. Đây phải chăng cũng là tư tưởng của nhiều người trong thời đại chúng ta: Chống đối, bất tuân phục và từ chối Thiên Chúa!
Rời xa cha và mái nhà… anh ta tự do, tự lập và bắt đầu sống phung phí. Với một cuộc sống ăn chơi sa đọa, dẫn đến tiêu tán hết tài sản là lẽ dĩ nhiên. “Khát vọng tự do” nghe có vẻ nhẹ nhàng và dễ thương. Thế nhưng, ma quỉ luôn có trăm phương ngàn kế lôi kéo và hấp dẫn chúng ta đi theo và đi đến nguy cơ suy tàn, hư mất.
Phúc thay anh ta nhận ra sự khốn cùng của mình và quyết tâm trở về “Anh ta đứng lên và đi về cùng cha…Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha.” (Lc 15, 20a.21) Đây là một bước can đảm và quan trọng. Có trở về, anh mới được phục hồi địa vị là con, mặc dù anh chỉ ước ao được là đầy tớ. Chỉ trờ về, anh mới nhận ra lòng tha thứ và tình yêu vô bờ của cha.
Và đây là những gì cha của anh thực hiện để đón đứa con ngỗ nghịch trở về “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để.” (Lc 15,20) Người cha già nhiều năm tháng mòn mỏi chờ con thì sức cạn, mắt mờ…! Thế mà, từ đằng xa ông đã nhận ra bóng dáng con mình và ông chạy. Chạy để rút ngắn thời gian dù chỉ là vài phút để được sớm gặp con vì ông đã trông ngóng từng giây. Sức mạnh của tình yêu khiến chân ông khỏe và mắt ông sáng hơn. Ông hôn lấy hôn để con, đúng ra là chỗ dành cho hình phạt vì tội nó. Choàng tay ôm con để che phủ hết tội lỗi của con. Tình yêu bao dung đã giữ ông không tính tội con mà thay vào đó là chăm sóc những vết thương của con để nó không còn một vết sẹo hay sự xấu hổ, ngại ngùng nào. Ông đã sinh lại con một lần nữa.
Chẳng cần nghe con thú lỗi, ông chỉ còn yêu thương và vui mừng. Bây giờ tất cả việc phải làm là “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân và…mở tiệc ăn mừng.”(Lc 15,22-23) Ân phúc anh nhận được từ cha hơn cả những gì anh mơ ước. Tấm áo mới nói lên tình thương cha vẫn dành cho con và tất cả y phục ấy anh mang nói lên rằng “Con vẫn là con cha như thuở nào.” Vì tội lỗi và vì cuộc sống xa gia đình, nay con đã trở về, đón nhận tình tha thứ của Cha và hiểu sâu hơn tình yêu cha dành cho con và bây giờ con được yêu thương biết bao. Thế nhưng, còn anh cả của con, người vẫn ở trong gia đình thì sao?
Chúng ta thường nghĩ câu chuyện này là chuyện nói về người con thứ. Thế nhưng, như Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu và vấn đề là về người con cả hơn là người con thứ. Hãy chú ý đến sự tức giận vì ganh tị của anh cả, người không đón nhận niềm vui dạt dào của cha anh ta và tự tách khỏi những người trong nhà của mình. Thay vì phục vụ cha với tình con thảo, anh chỉ có tư tưởng là phải hầu hạ. Là con nhưng anh luôn sống với tinh thần là đầy tớ. Dù ở trong nhà, ngay bên cha nhưng lòng anh lại xa cha mình biết bao! Thiếu tình yêu với cha nên anh cũng chẳng thể yêu thương em mình. Anh ta đã không hiểu một điều lớn lao đó là tình yêu của cha dành cho anh!
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tự vấn để biết mình đang ở trong vai của nhân vật nào trong dụ ngôn: Chúng ta đã tha thứ cách quảng đại như người cha đã tha cho đứa con thứ của mình và nhẫn nại yêu thương con cả? Tất cả chúng ta đều có lỗi lầm, lúc này hay lúc khác. Hãy nhận ra sự thật về mình và can đảm đứng lên, trở về với anh em, cha mẹ và nhất là Cha trên Trời để cảm nhận, đón nhận tình yêu tha thứ mà Cha luôn dành cho ta. Chúng ta cũng đã cảm thấy ganh tị và từ chối những ai được ưu ái và thương yêu hơn chúng ta.
Là con thứ hay con cả, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đấng tha thứ không cùng và đón tiếp vô hạn những người con lầm lỗi, thương tích. Nhưng không chỉ tha thứ, mà Cha còn vui mở tiệc mừng con trở về như chính Chúa Giêsu đã nói “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối…”(Lc 15,7) và dành cho con tất cả gia sản của Cha “Con à, tất cả những gì của cha đều là của con.”(Lc 15,31) Vậy không thể chần chừ hay chậm trễ nữa. Hãy trở về với Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và sáng suốt để nhận biết những điều xấu, những lỗi tội của chúng con và quyết tâm trở về thực sự với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Amen.
88. Hỏng hết! Hỏng hết
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cứ mỗi lần chia sẻ hay giảng giải về đoạn tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay C (Lc 15,1-3;11-32) tôi thường bị cám dỗ phân tích tỉ mỉ từng chi tiết hình ảnh người con thứ, tạm gọi là đứa con hoang đàng. Phân tích tỉ mỉ theo kiểu chú giải Thánh Kinh cũng có, theo cái nhìn tu đức cũng có, rồi sau đó áp dụng cho hoàn cảnh hiện nay. Và không thể bỏ qua, nói đúng hơn là luôn nhấn mạnh đến hình ảnh người cha nhân hậu. Còn hình ảnh người con cả, tuy có phân tích, nhưng chỉ như vai phụ.
Khi người con thứ xin cha chia gia tài là lúc nó muốn cha nó chết quách cho rồi, vì theo luật bấy giờ người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã qua đời. Nhiều người, đặc biệt kể từ thế kỷ Ánh sáng đến nay đã bị cám dỗ muốn “Thiên Chúa biến đi” để mình được tự do và thực sự là mình, mà nói theo ngôn ngữ triết học là để mình khỏi bị vong thân. “Con không cha như nhà không nóc”. Một người con khi đã muốn giết cha thì bất cứ sự xấu xa nào cũng có thể làm. Ăn chơi đàn đúm là chuyện tất yếu kéo theo, nhiều khi chỉ là chuyện nhỏ. Hậu quả nhãn tiền của chuyện ác giả ác báo vẫn thường xảy ra đây đó. Sau thoáng lên mây thì xuống kiếp đọa đày là điều vẫn thường thấy. Mang kiếp đốn mạt, thua cả heo vốn là sự không thể tưởng theo quan niệm của người Do Thái lúc bấy giờ, thế mà đó là thực trạng của đứa con bất hiếu, hoang đàng. Quay đầu là bờ ư? Anh này chỉ biết nghỉ đến cái bụng mình thôi. Kẻ gian vốn thường làm ra vẻ ngoan. Môi dẻo, lưỡi cũng lắt léo với câu thú tội đã nhẩm đi nhẩm lại để khỏi vấp.
Bóng càng đen thì ảnh càng rực sáng. Không ngại ngần ẩn mình hay chết đi, không chỉ với đứa kêu xin, mà với cả đứa còn lại. Người cha đã chia gia tài cho cả hai. Có nhiều kiểu nói không thành lời nhưng luôn đầy ý. Người con cả tuy ở trong nhà, nhưng anh ta không thực sống phận con thì người cha vẫn không tồn tại trong tâm khảm của anh. Dù con không nhìn hay chẳng nhận thì cha vẫn mãi là cha: “mọi sự của cha cũng là của con.” Từng ngày, từng giờ, ông còn mỏi mòn ngóng trông đứa con xa nhà. Ô kìa nó đây! Ông vội chạy đến ôm con hôn lấy hôn để, bất kể mùi uế tạp lẫn bụi đường khắp cả mình con. Không cần nghe trọn lời xưng thú, cũng chẳng cần tra khảo thứ loại tội hay số lần nó đã phạm: Phạm tội gì? Phạm ra sao? Phạm mấy lần?…”Mau đem áo đẹp ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu, xỏ giày vào chân cậu!” Tình yêu cha đủ làm con sạch hơn mọi thứ nước của trần gian. ông lại còn sai bắt con bê đã vỗ béo để mở tiệc ăn mừng. Quả là một sự chuẩn bị trong niềm hy vọng sắt son. Tình yêu là thế: Không bao giờ chịu bó tay vì chẳng hề thất vọng bao giờ.
Không cần biết lý do, cũng chẳng cần xem xét quá khứ của nó, chỉ biết là nó đang ở đây, nghĩa là con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Từ câu chuyện kể đến cảnh hiện thực trên đồi sọ năm xưa: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 26-3,43).
Hỏng! Hỏng hết Chúa ơi! Thương yêu kiểu này thật là vô lý. Chỉ tổ vẽ đường cho hươu chạy hay bắc cầu cho chuột leo mà thôi. Xin đừng làm cớ cho người ta ỉ lại! Thế là hỏng, hỏng hết! Chúa yêu thương kiểu này thì người ta tha hồ ăn chơi sa đọa mà chỉ cần một chút sám hối là dư lời cả Nước Trời. Lại có người chẳng cần đến các bí tích, lễ lạc, chẳng cần vào tòa xưng thú tội lỗi, chắc họ sẽ theo anh em Tin lành mất thôi. Dứt khoát không thể được. Xin Chúa hãy mau sửa lại câu chuyện này, kẻo nhân loại hư hết, hỏng hết mà thôi.
Dù trời đất có qua đi, nhưng lời của Chúa sẽ không hề thay đổi (x.Mt 5,18). Có thể chúng ta đã lầm. Chuyện kể của Chúa Giêsu sở dĩ có ra là vì nhiều người biệt phái và luật sĩ năm xưa đã thấy khó chịu, khi nhiều người thu thuế và tội lỗi năng lui tới với Người. Họ đã lẩm bẩm, xầm xì trong ganh tị và cả tức tối. Vì họ không chấp nhận những người ấy là huynh đệ của mình. Chính Chúa Giêsu đã từng minh định rằng Người đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi. Thầy thuốc không cần cho người mạnh khỏe mà là tội nhân. Như thế chuyện Chúa Giêsu kể không cố ý nhấn mạnh đến người con thứ bỏ nhà ra đi, nhưng là người con cả đang ở trong nhà. Chính khi anh ta loại bỏ người em là lúc anh ta tự loại mình ra khỏi tình cha.
Tình Chúa mãi luôn bao la. Người muốn tất cả mọi người đều được hưởng ân tình của Người. Tình yêu thì không cần hội đủ điều kiện. Dù chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng đủ để cho tình yêu lên ngôi. Tình Chúa vượt quá mọi tình cha thế trần. Người chính là nguồn của mọi tình phụ tử. Là người cha thì lắm khi không cần con cái trực tiếp báo hiếu hay đáp đền công đức. Chỉ cần chúng nó yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Thế là đã đủ.
Đọc Tin mừng chúng ta sẽ càng xác tín chân lý này. Chúa sẽ xử với chúng ta không theo những gì chúng ta đã làm cho Người mà theo những gì chúng ta đã làm cho nhau. Không xét đoán tha nhân thì Chúa sẽ không xét đoán chúng ta. Nếu ta tha thứ cho tha nhân thì Chúa sẽ thứ tha cho chúng ta. Khi ta làm một điều thiện bé nhỏ cho một trong những người bé mọn thì Thiên Chúa không chỉ lấy đấu đã dằn, đã lắc mà đong đổ sự thiện hảo cho chúng ta mà Người còn tặng ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta (x.Lc 6,36-38; Mt 25,31-46)
Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha nợ cho chúng con… (Mt 6,9-13) Chưa xin thì Chúa cũng đã ban ơn tha thứ, vì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Chưa xin thì Chúa cũng đã nhận chúng ta làm con, vì Người đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một…(Ga 3,16)
Chúa yêu thương, ban ơn tha thứ cho loài người chúng ta thật quá dễ dàng và nhiều khi ta lầm tưởng như là quá hoang phí. Quả đúng vậy. Dường như là một quy luật: Đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì chẳng bao giờ tính toán, so đo. Tuy nhiên để nhận được tình yêu, thì cần phải có điều kiện nào đó. Và cái điều kiện không thể thiếu để có thể đón nhận tình yêu của Cha trên trời, đó là chúng ta phải đón nhận nhau là anh chị em. Điều kiện nay xem ra không dễ. Nếu một ai đó, một người bé mọn hay một kẻ gian ác không có tí chỗ nào trong trái tim chúng ta, thì khi ấy mới thực sự là hỏng hết, hỏng hết.
Để có thể đặt những người không dễ thương mà lại còn đáng ghét vào một chỗ nhỏ trong trái tim chúng ta thì Thánh Lễ, các bí tích, việc cầu nguyện… luôn cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm được sự gì (x. Ga 15,5).
89. Tình Cha hậu hỉ – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn tin mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về “người con hoang đàng” là đỉnh cao của chữ tình. Người ta còn nói rằng nếu chọn một chương tiêu biểu trong tin mừng thánh sử Luca thì chương 15 phải được ưu tiên. Và trong chương ấy nếu chọn một vài câu thì bài trích Tin Mừng trong Chúa Nhật IV mùa Chay C đáng phải được chọn làm tiêu biểu.
Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ “người con hoang đàng” hay “đứa con phung phá” không thể lột tả hết. Hẳn nhiên điều này được minh chứng qua động cơ trở về của anh ta là chỉ muốn được no cái bụng. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành “người cha nhân hậu”. Theo thiển ý cái tựa đề này diễn tả nội dung câu chuyện khá hoàn hảo. Tuy nhiên xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là “tình cha hậu hỉ”.
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao. Đã khuất trước một đứa con thì sẵn sàng khuất bóng trước cả đứa còn lại. Nước từ trên chảy xuống. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại. Đã có đó nhiều người cha, người mẹ thanh thản nhắm mắt lìa đời khi thấy con cái đã thành gia thất.
Dù khuất bóng nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Lá rụng về cội là điều thường có. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. “Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha…” Chẳng biết anh ta có chút tình nào với người cha già, nhưng sự vị kỷ là có đó: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm, những nụ hôn yêu thương đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết!
Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”. Tình người cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
“Con ta đây đã chết mà nay sống lại.” Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: “Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người”. Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16). Vậy ta có thể nói rằng Thiên Chúa không thể bỏ con người, không thể bỏ bất cứ một ai, nếu Người thực sự là Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho chúng ta hay chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. “Còn thằng con của cha kia…”. Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn bẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống.
Tình Chúa thật bao la hay tình cha luôn hậu hỉ. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: “Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi”, thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không ai hưởng hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.
90. Trong đôi mắt cha – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
– Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
– Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
– Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
***
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở” (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
***
Lạy Chúa, tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen.
91. Hãy nhanh khi nghe – chậm khi nói
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Người Việt Nam thường có câu: hãy “nhanh khi nghe – chậm khi nói”. Nghe để đấy, nghe để biết chuyện, suy nghĩ bàn hỏi mới là người khôn ngoan. Còn kẻ dại khờ thì dễ tin, dễ bị khích động và dễ kết án hùa theo đám đông.
Có rất nhiều trường hợp thương tâm đã xảy ra chỉ vì nhanh nghe, nhanh nói, dễ tin vào lời người khác để hành động điên cuồng gây nên những đau khổ do hiểu lầm, nhẹ dạ mang lại. Có rất nhiều lần chính chúng ta cũng vì quá tin người mà hành động thiếu suy nghĩ khi ném đá anh em. Cũng có rất nhiều lần chính chúng ta cũng khổ sở, chẳng biết phân bua thế nào vì bị người khác hiểu lầm, dựng chuyện làm hại chúng ta.
Có một câu chuyện thương tâm kể rằng:
Tạnh mưa, bọn trẻ bưng cơm đứng ăn trước cửa. Tý khoe:
– Nhà Tý ăn thịt gà.
Đêm đó, bà Tám chửi:
– Mả cha nó, nghèo mạt kiếp tiền đâu ăn gà, nó ăn gà bà, nó chết bất đắc cho mà xem.
Ông giáo buồn lắm, ngã bệnh, qua đời. Thương tình, hàng xóm lo ma chay.
Tý hớn hở vì nhà nó đông vui.
Trời đổ mưa.
Thằng Tý la lớn:
– Con gà vô nhà, dậy bắt làm thịt ba ơi.
Mọi người nhìn theo. Thì ra, một con cóc dưới kẹt tủ đang giương mắt nhìn lên quan tài ông giáo.
Hóa ra, nhà ông giáo ăn thịt cóc nhưng lại nói thịt gà để cho con trẻ khỏi thèm thịt gà! Thật là oan gia. Chỉ vì một lời kết án vu vơ đã làm mất đi một mạng người thật là đáng tiếc!
Thế nên, ở đời đừng vội kết tội cho người khác. Hãy bao dung độ lượng và tha thứ. Có những chuyện thấy vậy mà không phải vậy, nên cần cẩn trọng lời nói. Có những sự thật cũng cần được cảm thông hơn là kết án, vì có khi chính chúng ta cũng trải qua những lần lầm lỗi như thế.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ của Chúa Giêsu thật từ tâm. Ngài không hùa theo đám đông để kết án người đàn bà tội lỗi. Dù rằng tội người này theo lời của người Do Thái là “rõ mười mươi”. Dù rằng là tội quả tang nhưng cũng cần cảm thông và tha thứ. Ngài đã đi bước trước trong sự tha thứ khi Ngài nói: “Tôi không kết án chị đâu”. Ngài cũng nhắc nhở những người chung quanh đừng dễ dàng kết án người khác, đừng dễ dàng chửi bởi anh em, bởi vì: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”. Ngài còn tạo cơ hội cho người phụ nữ chuộc lại lỗi lầm: “Chị hãy về và từ này đừng phạm tội nữa”.
Đức Giêsu là Thiên Chúa rất thánh thiện vô cùng. Ngài không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi. Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta.
Ở đời: “Ai nên khôn mà không dại một lần”, thế nên, làm người cần có sự khiêm nhu để nhìn lại mình và để cảm thông với anh em. Có thể ta dễ dàng kết án người khác. Có thể chúng ta không muốn gương xấu trong môi trường chúng ta. Nhưng liệu chúng ta làm ầm ĩ lên, hoặc mạnh tay ném đá kẻ có tội chúng ta sẽ được gì khi mất anh em , mất bạn bè vì sự nóng giận của chúng ta?
Mùa chay là mùa giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình để sám hối và cũng để cảm thông với lỗi lầm của anh em. Đừng kết án anh em. Đừng đẩy anh em vào đường cùng. Đừng lên án xử anh em, nhưng hãy bao dung và tha thứ cho nhau. Hãy nhớ lời Chúa dạy: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”.
Xin cho chúng ta học nơi Chúa bài học của bao dung và tha thứ để chúng ta luôn lấy lòng từ bi, nhân hậu mà đối xử với nhau. Xin cho chúng ta cũng nhận ra mình là con nợ đã từng được Chúa tha thứ để đừng bao giờ hà khắc, kết án anh em. Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa luôn “chậm bất bình và rất mực khoan nhân” để đối xử với nhau trong bác ái yêu thương. Amen.
92. Thành tâm xét mình – Lm Nguyễn Nguyên
Suốt đời vô tội, cứ lẽ thường, thì không thể. Kinh nghiệm bản thân mỗi người đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy.
Đã là người thì ai cũng có những xu hướng xấu, chỉ có điều khác lọai, và khác mức độ mà thôi, chẳng hạn có người ham thú xác thịt, người khác tham lam của cải, hoặc ích kỷ nhỏ nhen, ghen tương đố kỵ, nói hành nói xấu… Với ý thức đó, lẽ ra nó phải dẫn con người tới sự khiêm nhường và thông cảm với những tật xấu nơi người khác, thế nhưng rất nhiều khi con người lại muốn mình trở nên quan tòa để luận tội, kết án anh em mình. Những kinh sư và người Phariseu trong tin mừng chúng ta vừa nghe là một bằng chứng điển hình cho ta thấy rõ điều đó.
Những kinh sư và biệt phái họ luôn tự cho mình là những tín đồ mộ đạo, họ tự đặt mình trên tòa cao, tự ban cho mình quyền kết án và loại trừ những người mà họ cho là tội lỗi. Hôm nay, họ xúm nhau kết án chị phụ nữ ngoại tình. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Thế nhưng, số phận của chị ta thật may mắn bởi vì: Chị đã được chính Chúa Giêsu, vị quan án kiêm luật sư, một vị cực kỳ khôn ngoan và nhân ái bào chữa và cứu chị thoát khỏi cái án tử đang treo lơ lửng trên đầu: “Tôi không kết án chị đâu – Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Một câu nói mở ra con đường sống cho kẻ bị kết án. Các biệt phái và kinh sư muốn Chúa làm quan toà giết chết, nhưng Ngài lại là vị quan toà cứu sống. Chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo, mời Chúa xét xử người phụ nữ, không ngờ Ngài lại xét xử họ. Người ta đợi chờ Chúa kết án người phụ nữ, không ngờ Ngài lại kết án họ. Người ta mang đá ném vào người phụ nữ đáng thương, không ngờ Chúa lại ném đá vào chính lương tâm của họ.
Nhìn lại và đối chiếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, mỗi người chúng ta thấy gì? Chúng ta có nhận ra một mâu thuẫn lớn, lớn lắm, lớn vô cùng hay không, đó là: Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội, và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại tha thứ một cách quá dễ dàng. Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện. Còn con người với nhau, đầy khiếm khuyết, vô vàn lỗi lầm, cũng chẳng bao giờ được quyền xét đoán ai, chẳng bao giờ được quyền kết án ai, lại cứ tìm cái xấu của người khác để mà kết án, trị tội nhau. Cuộc sống hôm nay vẫn có đó những viên đá ác nghiệt, những viên đá của vô tâm, hững hờ, của nghi ngờ ganh ghét, những viên đá ném vào người anh em từ những tâm hồn hẹp hòi, u ám, những con tim chai lì của ác độc tự kiêu. Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội.
Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Đang ngoại tình mà cứ tưởng mình trong sạch cứ kết án người khác.
Thật vậy, tội ngoại tình đa dạng và nhiều kiểu lắm chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện ăn nằm với người khác mà thôi đâu. Khi người ta bỏ Chúa đi thờ ngẫu tượng và các thần xa lạ khác thì lúc đó người ta đang phạm tội ngoại tình đấy. Khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …
Khi cúi gập mình xuống để tôn thờ thần sex, làm nô lệ cho thần khoái lạc, suốt ngày chỉ tôn thờ những thú vui trụy lạc, lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Rồi tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái theo kiểu “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em cũng chẳng hề hối tiếc”.
Khi quỳ xuống bái lạy Thần Tài, và cắm đầu cắm cổ làm nô lệ cho nó, bỏ cả nhà thờ nhà thánh, bỏ lễ, bỏ đọc kinh và bỏ luôn không lãnh nhận các phép bí tích …
Khi đã chịu phép Rửa Tội đàng hoàng nhưng lại đi chùa, đi thắp hương, đi cúng vái ông này bà nọ…… Là khi ấy, con người đang phạm tội ngoại tình, đang ngấp nghé bỏ nhà để đi… kiếm bò lạc đấy.
Ước gì, qua lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra rằng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân, nên hãy đứng trước tấm gương của lương tâm mình để nhìn thấy cái lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi xấu xa của mình. Hãy cầm lấy viên đá không phải để ném người khác, mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu và ăn năn sám hối rồi hãy bỏ nó xuống đất. Và theo gương Chúa mà đối xử với nhau: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong tuần cuối cùng của Mùa Chay này. Amen.
93. Ai là người vô tội? – Lm Trịnh Ngọc Danh
Hôm ấy, vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Ngài. Ngài ngồi giảng dạy họ.
Từ đàng xa, một đám đông đang hớn hở như bắt được một tin vui. Đám đông xô đẩy, lôi kéo một phụ nữ quần áo xốc xếch, tóc rối bù, mặt mày tái mét. Có tiếng quát tháo: “ Đi, đi tới đây! Đồ nhơ nhớp!”
Lại cũng những người kinh sư và Pharisiêu! Chuyện gì nữa đây?
Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “ Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật ông Môi sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy , Thầy nghĩ sao?”.
Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.
Một câu chuyện xưa kể rằng: Một người bị bắt vì tội ăn trộm. Anh bị giải đến trước mặt vua. Nhà vua ra lệnh treo cổ phạm nhân. Trên đường đi đến giá treo cổ, phạm nhân tiết lộ cho viên cai ngục:
– Tôi có một điều bí mật do cha tôi truyền lại, nhưng rất tiếc tôi phải chết, nên đành phải chôn vuì bí mật ấy theo cái chết của tôi.
Viên cai ngục tò mò:
– Bí mật gì, nói mau!
Tên trộm lưỡng lự một lúc rồi nói:
– Tôi có bí quyết có thể gieo một hạt lựu, và làm cho nó mọc lên và trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Nghe lạ, viên cai ngục áp giải phạm nhân trở lại với vua. Vua ra lệnh cho anh làm thử. Anh đào một lỗ nhỏ dưới đất, cầm hạt lựu lên và nói:
– Thưa bệ hạ, để thực hiện được bí quyết này, hạt giống này phải do tay một người chưa bao giờ lấy cắp của ai bất cứ thứ gì không phải của mình. Tôi đây là một tên trộm nên không thể trồng nó được.
Vua quay sang một viên quan rồi bảo:
– Ngài có thể gieo hạt giống này chứ?
Viên quan nọ từ chối:
– Khi còn trẻ, tôi có giữ một vài thứ không phải của tôi.
Anh ăn rộm quay sang người giữ kho của triều đình và bảo:
– Vậy ngài có thể trồng được không?
Người giữ kho cũng từ chối:
– Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Hiện giờ tôi cũng đã giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Cuối cùng chỉ còn lại nhà vua, tên trộm quay sang vua và tâu:
– Có lẽ bệ hạ trồng được hạt giống này!
Nhưng nhà vua vội nói:
– Ta xấu hổ mà phải nói rằng có một lần ta đã lấy chiếc đồng hồ của cha ta.
Tên trộm kết luận:
– Tất cả các ngài đều là những người sang giàu, có uyền lực, và không còn thiếu gì nữa. Thế mà chẳng ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này; trong khi đó, tôi chỉ vì đói mà ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, một túi gạo mà lại bị kết án treo cổ.
Và nhà vua đã tha chết cho anh.
Đó là câu chuyện của thế gian. Trở lại câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình:
Người phụ nữ ấy đang đứng trước mặt Chúa Giêsu. Những kinh sư và người Pharisiêu phấn kích như tìm được một chiến lợi phẩm, vừa tỏ ra mình có công trạng vừa thầm gài bẩy Ngài xem Ngài đối xử thế nào để có bằng cứ tố cáo Ngài. Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Họ thầm nghĩ: Phen này thì ông ta bí rồi, và họ cứ thế hỏi mãi, nên Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ nhìn nhau, rồi bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi.
Mục đích của các kinh sư và người Pharisiêu là gài bẩy Chúa Giêsu: Ném đá hay không ném đá? Nếu Ngài bảo đừng ném đá, thì họ sẽ kết án Ngài là người khuyến khích người ta chống lại luật Môisê; nếu Ngài bảo hãy ném đá, thì họ sẽ quy kết cho Ngài là người không nhân hậu. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời liền cho họ, nhưng để cho họ có thời gian tự vấn lương tâm để nhìn vào chính bản thân mình đã đáng lên án, kết tội người khác chưa.
Sự thinh lặng thức tỉnh lòng người: Chúa Giêsu thinh lặng, phớt lờ những lời tố giác của họ có lẽ cũng vì Ngài muốn cho họ biết rằng: Không ai là người không có sai phạm. Ai cũng là những người có tội, có ai trong sạch hơn ai đâu, bêu xấu, kết án người khác để làm gì, có ích lợi gì đâu? Và qua đó, Ngài cũng tỏ thái độ chán ghét bọn giả hình cho mình là người đạo đức thánh thiện. Thái độ phớt lờ chuyện người phụ nữ phạm tội là cách thức Ngài đánh động lương tri của con người. Ngài chẳng buồn trả lời; nhưng hỏi mãi, Ngài đành phải lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Đó là một câu nói thức tỉnh lương tri những người giả dối, đạo đức giả.
Nghe nói thế, họ chột dạ và lẳng lặng rút lui, trước tiên là những người lớn tuổi. Và có lẽ, trên đường rút lui, có những người đã xầm xì với nhau: Ngoại tình! sao không bắt cả hai mà chỉ buộc tội có một mình người phụ nữ kia nhỉ?
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Ngài ngẩng nhìn lên và hỏi: “ Này chị, họ đâu cả rồi? Họ không lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “ Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói với chị ta: “ Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Ít ra trong đám người Pharisiêu, luật sĩ hôm ấy và ngay cả chúng ta hôm nay còn có chút lương tri đã không giả hình vô tội để ném đá người phụ nữ kia, và đã có cơ hội để nhìn lại chính bản thân mình: Không ai là người vô tội. Người lên án cũng chẳng phải là người tốt. Nếu phải ném đá, thì mọi người đều phải chung số phận!
Lên án người khác, nhìn thấy lỗi lầm của người khác thì dễ hơn là lên án và nhìn ra lỗi lầm của chính mình. Người đáng phê phán và kết án lại là người tự cho mình là công chính. Không ai là công chính và cũng không ai là vô tội. Sám hối và tin vào Tin Mừng là con đường dẫn chúng ta đến lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là con đường chúng ta phải nổ lực vươn tới như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philliphê đã xác nhận: “ Không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề Luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô…Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang theo đuổi để chiếm lấy…” (Phil. 3: 13-14)
Thiên Tình yêu của Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Tình yêu của Thiên Chúa muốn cứu vớt hết mọi người.
Thiên Chúa lên án tội lỗi, nhưng Ngài không kết án tội nhân. Bản thân tội lỗi không cần lòng thương xót, nhưng bản thân tội nhân thì cần. Điều Thiên Chúa cần là lòng sám hối, ăn năn và hoà giải với Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu xuống trần gian để giao hoà những người chưa giao hoà với Thiên Chúa; thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô đã viết:“ Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hòa với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2 Cor. 5: 19).
Lòng thương xót của Thiên Chúa không chấp tội chúng ta, không lên án quá khứ lỗi lầm của chúng ta. Qua Đức Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ mở đường trong hoang địa, sẽ khơi dòng sông nơi vùng đất khô cằn như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “ Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa và khơi sông nơi đất khô…(Is. 43: 18-19)
Lời nói âu yếm dịu dàng của Chúa Giêsu với người phụ nữ cũng là lời nói âu yếm ngọt ngào đối với tất cả chúng ta là những tội nhân: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
94. Đáp lại Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32) có thể chia ra hai phần chính như sau:
– Thái độ bao dung của người cha đối với đứa con thứ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
– Thái độ hẹp hòi của con trưởng: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì anh con trưởng đã tỏ ra có thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, và đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã phải ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để tỏ ra bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng Nhất lãm (Mátthêu, Máccô, Luca) mới đề cập đến hạng người thu thuế này (x. Mt 9,9 ; Mc 2,14 ; Lc 5,27). Họ bị coi là tay sai của chính quyền Rôma và bị tố cáo đã lạm thu thuế để hưởng lời bất chính (x. Lc 19,8b). Dân Do thái liệt họ vào hạng người tội lỗi xấu xa, ngang hàng với bọn trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). + Những người tội lỗi đến nghe Đức Giêsu giảng: Đây là các tội nhân đã phạm tội công khai như: Gái điếm (x. Lc 7,37), người phụ nữ Samaria có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4,18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), kẻ bị quỷ ám (x. Lc 8,2) kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15,13.30), hay tên gian phi (x. Lc 23,39). + Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư: Pharisêu (hay Biệt phái) là những người Do thái đạo đức, sống tách biệt khỏi quần chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ) là những nhà trí thức, xuất thân từ trường Kinh thánh. Họ có quyền giải thích Kinh thánh trong các hội đường Do thái vào các ngày Sabát. Họ được dân chúng kính trọng gọi là “Rápbi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,7). + Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng: Người Pharisêu và Kinh sư trách Đức Giêsu vì đã thu nhận Lêvi là người thu thuế làm môn đệ, rồi lại còn đến nhà đồng bàn ăn uống với bọn người thu thuế bạn bè của Lêvi (x. Lc 5,27-32).
– C 11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Luca, nói lên lòng bao dung của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
– C 14-16: + Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Môsê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8). + Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
– C 17-20a: + Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ…: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình. + Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
– C 20b-24: + Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7,3) và câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói lời thú tội. + Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây…: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã trả lại địa vị làm con dù anh chỉ xin là người làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18:7; 1 Sam 28:24) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn chia sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ là một người tự do, khác với các nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
– C 25-28: + Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái. + nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để ăn mừng nó trở về.
– C 29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pharisêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
– C 31-32: + Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng. + Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về. + “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”: Câu này gián tiếp trả lời những tiếng xầm xì của người Pharisêu và mời họ chia sẻ tâm tình của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
CÂU HỎI:
Hỏi: 1) Ưu và khuyết điểm của các người pharisêu và kinh sư là gì?
Đáp:
* Về ưu điểm: Các người Pharisêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Môsê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa…). Về giáo lý họ cũng tin như Đức Giêsu: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn bất tử và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại.
* Về khuyết điểm: Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả (x. Mt 23). Chẳng hạn: Chỉ tuân giữ Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu của Luật (x. Mt 23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan Lề Luật từng chi tiết đang khi chính mình lại không hề tuân giữ (x. Mc 12,38-40).
Hỏi: 2) Thái độ của các Pharisêu và kinh sư đối với Đức Giêsu thế nào?
Đáp: Vì không nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (x. Mc 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. Mc 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập (x. Mc 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng Do thái ở Giêrusalem để bắt bớ Đức Giêsu và đã kết án tử hình cho Người một cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pharisêu cũng có một số người tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và sau này trở thành môn đệ của Người như: Ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1), Gamalien (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phaolô (x. Cv 22,3 ; 26,5).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Lòng cha bao dung:
RISỚT PINĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐEVÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”.
Vài ngày sau, Đevít lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé Đevít: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đevít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đevít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) Lòng mẹ thương con thể hiện ra sao?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được lòng mẹ không?”. Bà mẹ đáp: “Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em sung sướng kêu lên: “Mẹ ơi! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi. Trong đó chỉ có duy nhất một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ”!
3) Cảm nghiệm được tình thương của cha giúp con dễ dàng hoán cải:
Gandhi kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư cậu cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường. Gandhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc ông đang đọc thì Gandhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha đã không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và thấy sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gandhi viết: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về thứ tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi”.
4) Tha thứ là quên mọi tội kẻ khác đã xúc phạm đến mình:
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
– Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
– Thế bà có hỏi Ngài không?
– Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
– Bà hỏi thế nào?
– Thì con hỏi y như Cha đã bảo:”Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
– Vậy Chúa có trả lời không?
– Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ đã lo lắng thật sự:
– Chúa nói sao?
– Chúa nói:”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để nhận được ơn giao hòa với Chúa? Tại sao? 2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó nhận biết mình phải làm gì:
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19): Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho anh ngay khi ông còn đang sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ thuộc dân ngoại khinh dể đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh phải hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng dậy quay về nhà xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: Ông không nỡ trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy ngay tới ôm chầm lấy cổ con và hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó khi thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và còn soạn bữa tiệc đãi các bạn bè hàng xóm và mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất nó mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận dỗi người cha bằng cách không thèm vào nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho con hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến ông quên đi mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt ông là đứa con yêu mà ông hằng mong đợi nó mau trở về, đứa con mà ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng đứa con trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới về, chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ hỗn láo trách móc cha, khiến ông phải chịu ra phân trần, năn nỉ và mời anh ta vào nhà với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu con cả rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được Thánh thi diễn tả: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng Chúa Thương Xót?:
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của Người: Người tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi!
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót người đau khổ và quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa để họ cũng nhận được ơn sám hối và mau hồi tâm trở về với Người.
5. NGUYỆN CẦU
– Lạy Thiên Chúa Là Cha Của Con. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giêsu đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về giao hòa với Cha.
– Lạy Cha, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn… chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà phải hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa dạy đe nẹt con cái khi chúng phạm tội… Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được tình thương của cha và sớm sám hối quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay thánh này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
95. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
(Suy niệm của Công Tạo)
Cùng Đọc Với Dân Ítraen
Tv theo mẫu tự, mỗi câu mở đầu bằng một mẫu tự Do Thái. Tv nói về ai? Ai là người được mời chúc tụng Chúa? Những người nghèo, “xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên”.Vâng, kẻ bần cùng, người khiêm cung, những tấm lòng tan vỡ được gọi là những người hạnh phúc, trong khi kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ.
Cùng Đọc với Đức Giêsu
Phúc cho kẻ nghèo vì Nước Trời là của họ. Qua những lời Tv như Tv này, chúng ta mới thấy rõ Đức Giêsu đã thấm nhuần lời kinh nguyện của dân tộc Ngài như thế nào… cũng như Mẹ Maria với lời kinh Magnificat. Chúc tụng là tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi một lời kinh nguyện của Ngài đều mang sắc thái của Tv này: Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Lc 10,21).
Thánh sử Gioan đã trích dẫn Tv này khi muốn giải thích sự kiện Đức Giêsu bị đâm thủng cạnh sườn thay vì bị đánh bể ống chân: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh dập (Ga 29,36) để lời kinh thánh được ứng nghiệm. Đức Giêsu người nghèo nhất, mời ta lắng nghe lời tạ ơn của Ngài vì Chúa Cha gìn giữ xương cốt Ngài dầu một khúc cũng không dập gãy. Một lần nữa ta thấy Thánh Kinh mời ta đọc một cách sâu xa. Lời hứa hạnh phúc tràn đầy trong Tv không thể được hiểu như thực hiện ngay tức khắc, mang tính vật chất. Nên nghĩ đến Đức Giêsu khi ta nghe tác giả Tv nói: Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn dầu một khúc cũng không dập gãy. Chỉ sự phục sinh mới hoàn thành lời hứa này.
Cùng Đọc với người thời nay.
Người khốn khổ kêu cầu: Chúa đã nghe. Xã hội hiện nay quan tâm đến người nghèo. Con người muốn có sự bình đẳng trong các tầng lớp xã hội, người ta đề ra nhiều phương án để giúp đỡ những lớp người cùng khổ, các trẻ em không được đến lớp…Cho dù chưa có hiệu quả cao, nhưng cũng là một dấu chỉ của thời đại. Những ai không muốn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, tự đặt mình bên ngoài chương trình của Thiên Chúa. Kẻ nghèo kêu lên và Chúa đã nhận lời. Nói lên câu này, lắm lúc ta lại bị tố cáo là “làm chính trị”. Nghĩ thế là hoàn toàn không biết gì về mạc khải trong Thánh kinh. Kẻ không đứng về phía những người nghèo, chống lại những bất công, bất bình đẳng, không thể được gọi là người đạo đức. Một thế đứng trên thế giới làm cho người ta buộc theo một lựa chọn nhất định nào đó và tìm mọi phương cách thực hiện cho bằng được mục đích ấy. Đừng quên rằng những vấn đề xã hội nóng bỏng thuộc thế kỷ 20 không nằm bên trong những những hệ thống của các nước phương Tây, nhưng là nơi mọi xã hội kỹ nghệ hoá (đã chiến thắng nạn đói) và nơi những nước thuộc thế giới thứ ba (đang kêu cứu vì đói). Hãy đọc lai Tv 33 trong viễn cảnh ấy. Và bạn sẽ có được một sức mạnh lạ lùng để cầu nguyện giữa lòng thế giới.
Lời mời gọi hành động để giải phóng, để cứu thoát, để hủy diệt cái khổ. Làm thế nào khỏi phải giả hình khi ta đọc câu “xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” nếu không phải là dấn thân với tất cả khả năng của mình để cho người nghèo được bớt nghèo hơn?
Lời hứa hạnh phúc. Ai muốn hạnh phúc phải lánh xa sự dữ, làm lành, kính sợ Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài. Quá ngây thơ, một số người nghĩ thế! Nhưng sự thật lại đúng như thế! Những người hạnh phúc thật chính là những người mà Tv nhắc đến. Ban hãy thử sống để cảm nghiệm.
96. Suy niệm của Lm. Augustine SJ
GẶP ĐƯỢC LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Cướp Ngân Hàng
Ngày 25 tháng 2 năm 1954 xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris của nước Pháp. Một chàng trai tên Phan Đăng Lê (Jacques Flesh) dùng súng trước hết bắn trọng thương một nhân viên ngân hàng, sau đó bắn chết một nhân viên cảnh sát, đồng thời làm một số người qua đường bị thương. May mà nhân viên công lực đã sớm tóm cổ được hắn.
Tại phiên toà, phạm nhân không hề hối hận về tội đã phạm mà còn ngạo nghễ muốn khiêu khích mọi người có mặt. Ban đầu đã có người nghi hắn mắc bệnh tâm thần. Nhưng trắc nghiệm tâm lý cho thấy tên Phan Đăng Lê này chỉ là một đứa con được cưng chiều quá hoá ra mất dạy, chỉ biết ăn chơi đàng điếm. Hắn trơ trẽn và bình thản chấp nhận án tử một cách vô liêm sỉ. Khi bị lên án tử hình, han lớn tiếng nói với mình rằng: “Cho mày đáng đời! Mày phải bước lên máy chém thì hãy tỏ ra là một con người can đảm!”
Quả thật Phan Đăng Lê là con một ông chủ ngân hàng giầu sụ nước Bỉ. Cho tới tuổi 24, cậu muốn gì được nấy, không hề thiếu thốn sự gì. Cậu đã phung phí tuổi xuân xanh trong ăn chơi, lười biếng và ương ngạnh. Học trường nào cũng chỉ được vài ngày hoặc một tuần là bị đuổi. Cậu con nhà giàu này quả thật đã trở nên kẻ vô dụng và cuối cùng trở nên kẻ sát nhân.
Đầu năm 1954 chàng nổi hứng đòi bố mẹ cho tiền để mua một chiếc thuyền buồm hiệu Phi-li-mốt-ka dài 10m, trị giá tới 2 triệu quan Pháp. Chính vì bị bố mẹ từ chối mà chàng đã vác súng đi cướp ngân hàng và bị sa lưới pháp luật.
Gặp Được Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
Nhưng chuyện chàng thanh niên con nhà giàu Phan Đăng Lê được đề cập trong tờ chia sẻ tuần này không phải vì trở nên kẻ sát nhân cho bằng nhờ ơn Chúa đã trở nên hối nhân. Số là trong ba năm ngồi tù đợi ngày lên máy chém, anh đã say mê đọc Kinh Thánh và đã gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong mỗi lá thư Phan Đăng Lê viết về cho người vợ trẻ, người ta đều đọc được bề sâu của một tâm hồn đã được đổi mới nhờ gặp gỡ Thiên Chúa. Chàng ý thức rất rõ về tình trạng tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa và xã hội nên rất sung sướng đón nhận cuộc đổi mới đang diễn ra nơi con người chàng. Do đó ba năm chờ chết nơi nhà tù chính là ba năm tràn đầy niềm vui và ơn bình an đối với chàng.
Trong một lá thư viết cho người vợ trẻ, chàng tâm sự: “Em à, trước kia anh chỉ là một cái xác động đậy mà thôi, nay anh thâm tín rằng đây là lần đầu tiên trong đời, anh thực sự sống.”
Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài
Các thư mà Phan Đăng Lê viết cho vợ được in thành sách dưới nhan đề: “Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài”. Một ngày trước khi bước lên máy chém, Phan Đăng Lê viết trong thư vĩnh biệt vợ như sau: “Cuộc hành quyết sẽ xảy ra vào ngày mai, lúc 4 giờ sáng. Xin cho ý Chúa được trọn vẹn! Em yêu, trong 5 tiếng đồng hồ nữa anh sẽ được gặp gỡ Chúa Giêsu.”
Ngày 2 tháng 10 năm 1957, sau khi chịu Mình Thánh Chúa từ tay linh mục tuyên úy nhà tù, Phan Đăng Lê đã hiên ngang bước đi trong hành lang đưa anh tới máy chém. Năm đó anh vừa tròn 27 tuổi. Bước đường nào đã đưa anh từ con người sát nhân ngang tàng nên hối nhân thánh thiện? Cuộc đời của anh nơi nhà tù đã làm chấn động giới luật sư, trí thức và tôn giáo. Theo nhật báo Rạng Đông của Paris, ngay đội lính canh trước đoạn đầu đài sáng thứ năm hôm đó cũng cho biết: họ chưa từng thấy một tội nhân nào bước lên máy chém với lòng dũng cảm can trường như Phan Đăng Lê.
Điều hết sức đặc biệt là chính Đức Hồng Y Lustiger, tổng giám mục Paris đã cho lập hồ sơ và ký đơn xin phong chân phước cho anh Phan Đăng Lê. Quả thật, nếu mọi sự xuôi chảy anh có thể trở nên “người trộm lành hiện đại” làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động đối với người thời nay.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay vẫn còn đó như là một thách đố lớn cho mọi người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ ai là người cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, không riêng gì những con người ngang tàng như anh Phan Đăng Lê.
Tình Thương Của Người Cha Đối Với Cả Hai Con
Các nhà bình giải Kinh Thánh đều cho thấy ý chính mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới là tình thương của người cha đối với cả hai người con, tuy tình thương ấy nổi bật đối với người con thứ. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), gia tài của người bố chia làm ba thì con cả được hưởng hai phần, con thứ được hưởng một phần.
Bình thường gia tài chỉ được phân phát cho con cái sau khi người bố đã qua đời. Luật pháp còn dự trù hình phạt dành cho kẻ rút phần gia tài của mình ra trước thời gian qui định. Dù sao đứa con thứ trong dụ ngôn đã rút hết phần gia tài thuộc về nó. Điều đó cho thấy nó thực sự đã cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình. Việc nó rút đi một phần ba gia sản tất nhiên ảnh hưởng tới toàn bộ lợi tức của gia đình và trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của người anh cả; ta có thể hiểu phần nào về lý do tại sao người anh cả không chịu làm hòa với em: đứa em này trở về nhà rồi, nhưng việc phá hoại của nó cứ còn tiếp tục khiến người anh cả bị thiệt thòi!
Dụ ngôn người cha nhân hậu đã trở nên câu chuyện quá quen thuộc với các Kitô hữu chúng ta nên ai cũng có thể sử dụng trí tưởng tượng để khai thác những điều mình lấy làm tâm đắc, nhất là về bước đường suy sụp của người con thứ. Cái cảnh phung phá tiền của, bất kể tới mồ hôi nước mắt của người bố và tiếng tốt của gia đình, điều đó chẳng ai mà chấp nhận. Nhưng với người Do Thái điều ghê tởm hơn cả là cái cảnh đứa con thứ phải đi chăn heo. Chỉ có “quân ngoại đạo” mới làm công việc đáng khinh bỉ đó. Hơn nữa, nó ước ao được ăn thứ đồ heo ăn mà cũng chẳng có mà ăn. Như vậy người con thứ không những bị suy sụp mà còn xuống cấp vì trở nên hèn hạ hơn loài heo là con vật mà ai là người Do Thái cũng ghê tởm!
Chính trong cảnh túng quẫn đó, người con thứ nhớ lại bầu khí êm ấm của gia đình mình. Nó ước ao trở về nhà như người làm công mà thôi. Nhưng cha nó đã đối xử một cách vượt ngoài điều nó có thể tưởng tượng. Chính cha nó đã chạy tới ôm hôn nó khi nó trở về. Người cha nào có để ý gì đến lời xưng thú của nó. Ông chỉ quan tâm tới việc hồi phục lại toàn bộ những đồ ông dành cho người con kể như đã mất mà nay tìm được, đã chết mà nay sống lại!
Muốn Cả Hai Con Được Hạnh Phúc
Câu chuyện như đã tới hồi kết thúc thì lại xảy ra vấn đề mới là người con cả giận dỗi không chịu tham gia bữa tiệc mừng em hoang đàng trở về. Người cha lại phải chạy ra năn nỉ để có sự hoà giải vì ông muốn cho cả hai người con đều được hạnh phúc. Điều làm người con cả bị vướng mắc là thái độ tự mãn mà anh khăng khăng duy trì. Người cha không tranh luận về mọi điều tốt mà người con cả lấy làm tự hào nhưng chỉ năn nỉ xin anh vào để “ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy” (c.32)
97. Người Cha nhân hậu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự”
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.
Và ta cũng thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Ta thấy trong câu chuyện thì người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó.
Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
“Thiên Chúa là tình yêu” để rồi ta thấy Thiên Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái. Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: “Đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.
Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.
Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Những người Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5, 20).
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
Mùa Chay lại về, qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta. Và tình yêu vô bờ của Người Cha ấy chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân, người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và tha thứ không ngừng.
98. Trở về cùng Cha – Huệ Minh
Ta đang bước vào những ngày cuối của Mùa Chay. Trang Tin Mừng Chúa nhật IV mùa Chay hôm nay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản.
Có bao giờ chúng ta trải qua khốn khó để rồi ta cảm được kinh nghiệm đó chưa?
Phải chăng đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi kiểm tra sức khỏe, làm các xét nghiệm, gặp bác sĩ khám và nhận được kết quả tốt đẹp là không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Ðó là trải nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Ðó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng.
Đứng trước những cảnh bi thương đau đớn đó, trong hoàn cảnh đó ta sẽ cảm thấy thấm thía ý nhị của Thánh vịnh 124: “Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát”.
Đoạn sách Giosuê mà ta vừa nghe đã kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Ðất Hứa. Từ nay, họ không còn phải đối diện với những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Qua đau khổ, dân Chúa chọn đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống.
Đến đất mới, dân Chúa đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn”.
Sang tâm tình của thánh Phaolô đã nhắc cho giáo đoàn Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Ðó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Công cuộc tái tạo hay nói khác đi là trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa.
Cũng vì tội lỗi và chính tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: “Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Ðấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa”.
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Ðất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.
Với Trang Tin Mừng quá quen thuộc, thuộc đến độ ta có thể nhớ nằm lòng từng chi tiết, từng câu nói của các nhân vật trong dụ ngôn mà ta quen gọi là “dụ ngôn người con hoang đàng”.
Ta thấy Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Ðể an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: “Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi”, Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về.
Và rồi ta thấy hình ảnh của người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con.
Trái ngược lại với người em, người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Ðó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời “Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan”.
Với trang Tin Mừng này, ta sẽ noi gương ai? ta sẽ làm gì?
Không thể ngồi đó để nói suông như bao người đã nói, ta phải làm một hành động chứng tỏ ta nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha ta, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người.
Đơn giản, chỉ cần một sự cố gắng, một hành động thực tế có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ.
Bước đi một bước nữa, ta học bài học từ người anh: Ta không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Ta hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha ta khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.
Ta vẫn xin Chúa cho ta vượt qua con người yếu đuối của ta để ta có lòng chạnh thương như người Cha để tha thứ, để đón nhận tất cả những yếu đuối của anh chị em đồng loại. Và phần ta, trong tư cách là người con, ta biết trở về với Cha để ta nhận được lòng thương xót của Cha.