Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34
MỤC LỤC
1. Điều răn đứng đầu. 4
2. Luật tối thượng 7
3. Yêu mến đồng loại 10
4. Mến Chúa yêu người 17
5. Hãy mến Chúa yêu người thật lòng 23
6. Giới răn trọng nhất 27
7. Mến Chúa – Yêu người 31
8. Mến Chúa yêu người. 33
9. Chúa Nhật 31 Thường Niên 36
10. Hai mặt bàn tay 42
11. Mến Chúa yêu người. 46
12. Mến Chúa và yêu người 48
13. Yêu mến Chúa hết lòng 52
14. Yêu Chúa yêu người 56
15. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu 59
16. Đạo Yêu Thương 63
17. Một cuộc tranh cãi hữu nghị 67
18. Chúa Nhật 31 Thường Niên 70
19. Điều răn trọng nhất 73
20. Chúa Nhật 31 Thường Niên 86
21. Một tình yêu duy nhất. 88
22. Chúa Nhật 31 Thường Niên 92
23. Lề luật bóp chết con tim 95
24. Chúa Nhật 31 Thường Niên 98
25. Điều răn trọng nhất 100
26. Mến Chúa yêu người 104
27. Chúa Nhật 31 Thường Niên 108
28. Lòng kính mến Chúa 112
29. Mến Chúa Yêu Người 116
30. Anh chị em 119
31. Với cả tâm trí bạn 122
32. Mến Chúa yêu người 124
33. Giới răn trọng nhất 129
34. Giới luật yêu thương. 131
35. Chúa Nhật 31 Thường Niên 134
36. Yêu người 137
37. Chúa Nhật 31 Thường Niên 140
38. Sống như con người 144
39. Mến Chúa yêu người 146
40. Chúa Nhật 31 Thường Niên 149
41. Hai giới răn 152
42. Thiếu sót 155
43. Hoàn hảo hơn 157
44. Cầu thang 159
45. Chúa Nhật 31 Thường Niên 161
46. Độc đáo 165
47. Mến Chúa, yêu người 167
48. Suy niệm của JKN. 172
49. Chúa Nhật 31 Thường Niên 177
50. Giới răn trọng nhất 179
51. Yêu thương là chu toàn lề luật 181
52. Chúa Nhật 31 Thường Niên 185
53. Chú giải của Noel Quesson 187
54. Chúa Nhật 31 Thường Niên 193
55. Việc làm của Đức tin là Đức ái 197
56. Yêu thương bằng việc làm 203
57. Chúa Nhật 31 Thường Niên 209
58. Giới răn Mến Chúa Yêu Người 212
59. Chúa Nhật 31 Thường Niên 223
60. Chúa Nhật 31 Thường Niên 229
61. Điều răn trọng nhất 233
62. Điều răn đứng đầu 242
63. Chúa Nhật 31 Thường Niên 250
64. Thánh thiện là đức ái trọn hảo 266
65. Sống yêu thương từ gia đình 273
66. Chúa Nhật 31 Thường Niên 278
1. Điều răn đứng đầu.
Suy Niệm
Đối với một số bạn trẻ, yêu chẳng có gì khó. Yêu là gặp nhau, quen nhau, nhớ nhau. Yêu là hẹn hò, viết thư, tặng quà sinh nhật. Nhưng dần dần quan niệm về tình yêu trở nên sâu xa hơn. Các bạn nhận ra yêu là trao hiến bản thân, là hy sinh chính mình để sống cho người khác.
Tình yêu đích thực không dễ như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày tận thế, chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Một vị kinh sư tốt lành hỏi Đức Giêsu về điều răn đứng đầu trong số 613 khoản luật. Ngài trích Ngũ Thư để tóm lại trong hai điều răn chính: yêu Thiên Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình. Tất cả lề luật cô đọng trong một thái độ là yêu mến.
Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật. Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu.
“Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Thánh Âu-tinh phàn nàn là mình đã yêu Chúa quá muộn. Còn chúng ta lại thấy mình yêu Chúa quá ít và hời hợt.
Khi nghe Đức Giêsu nhắc lại lời kinh của người Do Thái: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với trọn cả trái tim ngươi, với trọn cả linh hồn ngươi, với trọn cả trí khôn ngươi, với trọn cả sức lực ngươi…”, ta mới thấy đòi hỏi quyết liệt của Thiên Chúa. Ngài muốn ta yêu Ngài bằng tất cả con người mình.
Cụm từ “với trọn cả” được lặp lại nhiều lần như nhắc ta chẳng nên giữ điều gì lại.
Sống điều răn thứ nhất là đặt Chúa lên trên hết, là dành ưu tiên một cho Chúa giữa những ưu tiên. Coi Chúa là tất cả, mãn nguyện vì có Chúa. Dành cho Chúa tất cả, để Chúa chiếm trọn mình.
Điều răn thứ hai bắt nguồn từ điều răn thứ nhất: yêu người thân cận như chính mình. Người thân cận là mọi người chẳng trừ ai. Chỉ trong Chúa tôi mới có thể yêu thương đến vô cùng. Trong Chúa, tôi nhận ra tha nhân là anh em, con một Cha, là hình ảnh của Đức Kitô đang cần tôi giúp đỡ. Trong Chúa, tôi cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay người mất trí.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Đức Giêsu đã sống đến cùng hai điều răn Ngài dạy. Ngài sống để yêu và chết vì yêu. Tình yêu của Ngài là lễ toàn thiêu và hy tế.
Mỗi tối tôi lại xét mình về tình yêu để thấy mình còn yêu quá ít.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đâu là chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời bạn? Nếu bạn xếp hạng, bạn thấy Ngài bị đặt dưới những thụ tạo nào?
Bạn thấy yêu tha nhân có dễ không? Bạn làm gì khi phải sống với một người không hợp tính với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con. Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con. Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con. Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con. Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con. Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con. Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con. Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con. Trước khi con đặt Chúa lên trên hết, Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, Chúa luôn đi trước con. Chúa làm trước khi Chúa dạy. Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi. Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
2. Luật tối thượng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay. Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Hôm nay, nhân một thắc mắc rất hợp lý, Chúa Giêsu đã giải thích cho họ những điểm then chốt trong lề luật. Đó là:
Thiên Chúa là độc nhất vô song. Đây là một chân lý nhưng nhiều khi bị lãng quên. Thiên Chúa là chủ tể muôn loài. Ngài là Đấng duy nhất cao cả. Không ai có thể sánh bằng. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống của muôn loài muôn vật. Ngài là mục đích của muôn loài muôn vật. Vũ trụ chỉ tồn tại trong Ngài. Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Yêu tha nhân như chính mình. Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng tình yêu là quan trọng nhất. Tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật. Như câu kết của kinh Mười điều răn: Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà nhớ: Trước kính mến một Thiên Chúa trên hết mọi sự. Sau lại yêu người như mình ta vậy.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn cho ta hiểu rằng lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật. Như lời Chúa mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”.
Qua lời dạy hôm nay Chúa muốn giúp ta xây dựng một thế giới mới chan chứa tình người. Thế giới còn chiến tranh, xã hội còn nhiều bất công vì con người chưa tuân giữ luật Chúa. Nếu mọi người biết yêu mến Chúa và yêu mến nhau, thế giới sẽ tươi đẹp, cuộc sống sẽ hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Bạn có thấy điều này là hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu mến tha nhân?
3) Bạn hãy tưởng tượng ra một thế giới trong đó mọi người giữ luật yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Bạn thấy thế giới đó thế nào?
3. Yêu mến đồng loại
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm
Đức Yêsu đã đến kếp nạp một dân tín hữu là dân mới của Thiên Chúa. Việc này đã được các bài Thánh Kinh trong Chúa nhật trước gợi lại. Hôm nay hình như Phụng vụ muốn tiếp nối tư tưởng lần trước và nói lên quy chế, hay luật pháp của dân mới. Đó là luật cũ được kiện toàn. Vì thế chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng bổ khuyết cho bài Thứ luật, luật yêu anh em được đính vào luật mến Chúa. Rồi cũng như trong dân cũ có hàng tư tế, thì vị Thượng tế của đạo mới sẽ vượt xa các Thượng tế xưa, để dân mới luôn luôn đẹp lòng Thiên Chúa.
Tất cả những tư tưởng này rất rõ ràng trong ba bài Kinh Thánh hôm nay mà chúng ta cầu xin ơn Chúa giúp để đọc lại.
1. Ngươi Sẽ Yêu Mến Yavê
Bài sách Thứ luật hôm nay ghi lại lời kinh hằng ngày của người Dothái. Họ đọc lên không phải để thưa với Thiên Chúa nhưng để nhắc nhở cho mình nhiệm vụ căn bản nhất của người dân trong Nước Người. Đó là lời của Môsê, vị lập quốc và lập luật. Lời vô cùng quan trọng vì sẽ đem phúc đến cho dân khi họ nắm giữ và sẽ làm cho dân nên lớn trong đất chảy sữa và mật. Tương lai và số mệnh của dân tùy ở việc thi hành những lời Môsê truyền hôm nay.
Ông dạy rằng: Hãy nghe, hỡi Israel, Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lập lại cho con cái ngươi.
Phân tách những lời này, người ta sẽ phải kính phục con người nào đã biết diễn tả như thế. Chắc chắn nội dung là của Môsê rồi, nhưng hình thức của các câu văn có thể phải là kết quả của nhiều thế hệ trung thành với truyền thống của Môsê. Quả vậy, chúng ta biết: sách Thứ luật đã không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó càng không phải là tác phẩm của thời Môsê. Nó lấy lại luật Môsê, suy đi nghĩ lại và cộng với kinh nghiệm lịch sử của Dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của cuốn sách này. Họ suy niệm Luật Chúa đêm ngày rồi viết ra để khuyên nhủ đồng đạo. Thế nên nó được gọi là Thứ luật, tức là Luật đến sau Luật trước; luật bổ khuyết và diễn giải Luật pháp Sinai. Nó được công bố vào những năm có nguy hiểm nhất cho dân. Nước nhà phân đôi, miền Bắc đã bị xâm lấn, miền Nam đang ngấp nghé vực sâu. Ông vua yêu nước đã chạy đến truyền thống của dân tộc, đưa sách Thứ luật ra, mưu lập một cuộc canh tân cứu nước… nhưng đã không kịp về mặt chính trị, mà chỉ phục hồi được truyền thống Môsê.
Đó là truyền thống độc thần, Israel chỉ được thờ một Chúa. Ngài là Yavê. Chính Ngài đã mạc khải danh xưng này cho Môsê trên núi Thánh. Có lẽ trong thời gian đầu Môsê tưởng Ngài chỉ là Chúa của Israel như những vị thần khác là Chúa của các lân bang và chỉ khác ở một điểm: trong khi các dân này thờ nhiều thần và vì thế gọi là đa thần; thì Israel chỉ thờ một mình Yavê và do đó được gọi là dân độc thần.
Sự khác biệt này nhiều khi thật khó giữ. Luôn luôn Israel bị cám dỗ thờ thêm thần khác, nhất là những thần của các sắc dân mạnh hơn, giàu hơn vì tưởng rằng chính các thần ban sự giàu sang sức mạnh cho dân của mình. Các tiên tri phải mạnh mẽ ngăn cản dân đi vào đường lối đó và nhắc đi nhắc lại dân phải trung thành với Yavê. Làm khác đi, thờ thêm thần khác, là “đánh đĩ” và ngoại tình.
Chúng ta không ngại nhắc đến những từ ngữ này. Chúng giúp chúng ta hiểu quan niệm tôn giáo của các tiên tri một cách sâu sắc. Người ta hay nói dân Israel chỉ có một lòng kính sợ Yavê, theo nghĩa họ khiếp sợ Ngài đến nỗi chẳng còn dám xưng danh của Ngài ra nữa. Họ dùng những kiểu nói vòng vo, gọi Ngài là Chúa, là Đấng Tối Cao… chứ không dám xưng Ngài là Yavê nữa. Thật ra đó chỉ là một diện. Còn nhiều diện khác trong vấn đề này, đặc biệt còn có quan niệm sâu sắc của các tiên tri. Các ngài luôn luôn đề cao lòng yêu mến. Hôsê chẳng hạn đã táo bạo coi tôn giáo là hôn nhân giữa Yavê và Israel; một bên như “chồng” với một bên như “vợ”, và tư cách căn bản của lòng đạo đức là nghĩa tín trung. Những tiên tri khác cũng đi vào chiều hướng đó; và trong ngữ vựng của các ngài mới có những từ ngữ như trên để nói đến thái độ thất tín đối với Yavê. Chúng ta phải hiểu quan niệm của các tiên tri như thế mới ý thức được hết sức mạnh của lời sách Thứ luật hôm nay, truyền cho Israel: hãy yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi; nghĩa là phải yêu Ngài với tất cả khả năng và như quên hết mọi sự khác, giống như khi đôi bạn khắng khít yêu thương nhau, mặc cho cuộc đời bể dâu và nước chảy đá mòn.
Cho được đi đến một lòng yêu mến như vậy, Israel đã được dần dần dạy cho biết: Yavê không phải chỉ là Chúa của dân, hoặc chỉ là Chúa trên các Chúa, nhưng Ngài còn là Chúa độc nhất và duy nhất trong tất cả hoàn vũ. Các thần của các lân quốc, chỉ là ngẫu tượng và Yavê phải thống trị địa cầu. Tôn giáo độc thần của Israel sẽ là tôn giáo độc thần của mọi dân nước. Thế nên câu sách Thứ luật hôm nay nói: Yavê Thiên Chúa của chúng ta là Yavê độc nhất, câu ấy có một ý nghĩa sâu sắc trong lòng các tiên tri, Yavê không phải chỉ là Chúa duy nhất của Israel, mà còn phải là Chúa độc nhất của mọi dân tộc. Và những điều này Israel phải ghi nơi lòng và lặp lại nơi con cái. Chính nhờ sự ghi nhớ và lập lại này mà có truyền thống Môsê, truyền thống độc thần, truyền thống sách Thứ luật chúng ta đọc hôm nay.
Chúng ta cảm mến Thiên Chúa đã mạc khải chân lý độc thần này sớm sủa như vậy và nơi một dân nhỏ bé như thế. Nhiều lý luận loài người còn vấp phải sự kiện lịch sử này. Và chúng ta còn phải kiểm điểm về lòng tin của mình, xem mình có thờ ngẫu tượng naò ở bên cạnh Thiên Chúa hay không (như tiền, tình, quyền…)? Và biết đâu đã không có lúc chúng ta nao núng về niềm tin nơi Thiên Chúa chúng ta thờ? Như vậy chúng ta chưa “gần Nước Thiên Chúa” như người ký lục trong bài Tin Mừng hôm nay đâu.
2. Người Phải Yêu Mến Đồng Loại
Thánh Marcô thuật câu chuyện này xảy ra trong khoảng thời gian giữa ngày Đức Yêsu khải hoàn vào Yêrusalem và hôm Người bị nộp. Đó là thời gian địch thủ tìm cơ hội bắt Người. Họ thay lượt nhau đến gài bẫy, hết các Thượng tế đến các Biệt phái, rồi phe cánh Hêrôđê và những người thuộc bè Sađóc. Hôm nay một ký lục đến hỏi Chúa Yêsu: “Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào?”. Ông không hỏi giới răn nào “trọng nhất”, để chúng ta nghĩ đó là điều ông thắc mắc thật sự. Là vì ở thời đó luật Dothái có tới 613 khoản, và phân làm những khoản nặng và nhẹ, trọng và tùy; và sự sắp xếp nhiều khi có thể rõ ràng và dứt khoát. Ở đây, dường như người ký lục không muốn đi vào vấn đề chi tiết tỉ mỉ, ông chỉ muốn đánh giá quan điểm của Đức Yêsu, xem Người có “chính thống”, tức là có ở trong và tôn trọng truyền thống của đạo Môsê hay không? Và đó là điều mà các địch thủ với Người muốn biết.
Nhưng họ chỉ phải bẽ bàng; vì Đức Yêsu đã có lần tuyên bố: Người không đến để hủy bỏ Luật pháp dù chỉ là một cái chấm hay một cái phẩy, nhưng là để kiện toàn và hoàn tất. Thế nên không có câu trả lời nào chính thống hơn câu của Người hôm nay: “Giới răn thứ nhất là: hãy nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Phải yêu mến Người hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Người đã đọc lại kinh Thứ luật. Người có thể dừng lại ở đó. Và người ký lục kia nhất định phải thỏa mãn với câu trả lời.
Nhưng Đức Yêsu đã không dừng lại. Người không phải như một người học trò thuộc bài và chưa phải là người bị hạch hỏi. Người muốn đóng vai Thầy dạy muôn dân. Thế nên, Người đã thêm: Thứ đến là ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Người cũng chỉ nhắc lại một câu trong sách Lêvi. Không ai có thể bảo Người không chính thống. Nhưng Người đã nhắc lại cho người ta một điều rất quan trọng mà thường khi họ sống đạo mà vẫn quên. Họ tưởng đạo chỉ là nhà thờ, kinh kệ và dâng lễ. Không, đạo còn là yêu mến đồng loại như chính mình tức là yêu người khác như bản thân. Điều này, trong thực tế, nhiều người giữ đạo “rất chính thống” mà vẫn quên và có ý quên vì nó khó giữ. Đức Yêsu không đến để nguyên dạy người ta yêu mến Thiên Chúa. Người còn luôn bảo họ phải thi hành ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ trần gian. Hơn nữa Người còn nói rõ không có giới răn nào khác lớn hơn hai việc mến Chúa yêu người này.
Người ký lục tỏ ra rất thông minh, chấp nhận ngay câu trả lời và bài học của Đức Yêsu. Ông còn phụ họa thêm và nói rằng mến Chúa yêu người như vậy “ắt vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy”. Đức Yêsu không thể không mừng khi gặp kẻ hiểu ý Người như vậy. Người tuyên bố: “Ông không xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Lời khen này có thể trở thành một câu chất vấn lương tâm chúng ta. Chúng ta có thường coi các hành vi yêu người như toàn thiêu và lễ tế không? Chúng ta vẫn phải thi hành các nhiệm vụ mến Chúa, vì đó là lẽ sống của chúng ta như lời sách Thứ luật hôm nay nói: Đó là giới răn thứ nhất, nhưng thứ đến còn phải yêu mến đồng loại như chính mình, điều mà Đức Yêsu đã đính vào điều răn mến Chúa để làm nên như giới răn của Người. Chúng ta có thi hành không để chứng tỏ mình đang ở trong đạo mới? Để thâm tín thêm, chúng ta hãy đọc tiếp bài thư Hipri.
3. Người Là Vị Thượng Tế Thích Hợp
Tác giả so sánh các Thượng tế đạo cũ với vị Thượng tế đạo mới. Họ thì bị sự chết ngăn cấm lưu tồn mãi mãi; còn Ngài thì tồn tại đời đời nên giữ một tế vụ bất hủ. Đó là sự khác biệt quan trọng. Càng quan trọng hơn nếu ta tìm hiểu sâu về ý nghĩa sự chết theo Thánh Kinh.
Đối với các tác giả thánh, chết không phải chỉ là một hiện tượng thể lý, giết sức sống trong cơ thể, nhưng còn là hậu quả và hình phạt do tội lỗi. Sự chết không những hủy diệt thân xác, nhưng nhất là còn nói lên sự mâu thuẫn cùng cực với Thiên Chúa là sự sống. Chết và sống khác nhau hơn lửa với nước, nên ai đụng vào tử thi tức khắc đã trở nên ô uế, không được đến gần bàn thờ khi chưa chịu thanh tẩy. Chính điểm nay ngăn cấm các Thượng tế đạo cũ còn lưu tồn mãi mãi. Họ không tiếp tục làm tư tế được không những vì sự chết thể lý, nhưng nhất là vì đã trở thành tử thi, họ xa hẳn Thiên Chúa. Còn Đức Kitô thì ngược lại. Chính sự chết đã đưa Người vượt qua về với Thiên Chúa và trở thành vị Thượng tế đời đời, sống luôn mãi để chuyển cầu cho nhân loại.
Tư tưởng trên đây dẫn sang một kết luận khác: tế vụ của các Thượng tế đạo cũ khi họ còn sống cũng không hoàn toàn. Vì muốn hoàn toàn, vị Thượng tế phải có khả năng ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng sinh, tức là phải vô tội. Thế mà có ai trong loài người được điều kiện này? Ngược lại Đức Yêsu là Đấng vô tội và vô tì, Người cao siêu vượt các tầng trời, nên Người ở gần Thiên Chúa và có khả năng chuyển cầu cho chúng ta…
Có lẽ đối với chúng ta không cần phải nói thêm về sự khác biệt giữa các Thượng tế đạo cũ và vị Thượng tế đạo mới. Nhưng điều quan trọng hơn cho chúng ta là hãy ghi nhớ bản chất của tế vụ mà Đức Kitô đang thi hành. Người đang ở nơi Thiên Chúa và đứng gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho chúng ta. Người đang nối trời với đất, Thiên Chúa với loài người. Lễ tế của Người vừa để tôn thờ Thiên Chúa vừa để cứu độ chúng ta. Chúng ta giữ đạo của Người, chúng ta vẫn đến nhà thờ dâng lễ và cầu nguyện trong chức tư tế của Người. Lẽ nào chúng ta không nhận ra rằng: một người đạo đức thật như có hai vai phải mang hai nhiệm vụ: mến Chúa và yêu người; phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân?
Vậy nếu chúng ta đã sốt sắng ở nhà thờ đối với Chúa, thì chúng ta hãy nhiệt tình với tha nhân ngoài xã hội. Khẩu hiệu kính Chúa và yêu nước, tốt đời và đẹp đạo có thể được sáng thêm trong phụng vụ hôm nay. Chúng ta hãy tận tâm thi hành trong niềm tin.
4. Mến Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Mến Chúa – Yêu Người là cốt lõi của đạo Công Giáo chúng ta. Từ thời Cựu Ước, sách Đệ Nhị Luật cho chúng ta thấy, ông Môsê đã dạy cho dân biết điều răn trọng nhất là yêu mến Chúa: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em)” (x. Đnl 6,5). Từ điều luật quan trọng đó, trải qua dòng thời gian, các luật sĩ, biệt phái đã chú giải thêm thắt thành 613 điều luật khác Vì thế, người Do Thái không biết điều nào là chính điều nào là phụ. Chính vì vậy, hôm nay một luật sĩ đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” (Mc 12,28)
Mặc dầu biết ông ta hỏi như vậy là để thử Ngài, nhưng Chúa Giêsu không chấp mà còn dạy cho ông và mọi người biết: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31). Chúa Giêsu xác nhận cách rõ rằng rằng điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Giống như cây thập giá có chiều ngang và chiều dọc: chiều dọc hướng về Thiên Chúa, chiều ngang vươn tới tha nhân. Cũng vậy, mến Chúa yêu người là hai chiều kích của tình yêu, phải luôn đi đôi với nhau. Không thể giữ điều này mà bỏ điều kia, như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.”(1Ga 2,9). “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Và Ngài khẳng định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21).
1. Yêu mến Thiên Chúa
Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu thương nên Ngài tạo dựng nên muôn loài muôn vật trong đó có con người là hình ảnh của Ngài. Tình yêu đó còn được thể hiện qua sự quan phòng kỳ diệu. Vì yêu thương nên Ngài đã ban chính Con Một để ai tin vào Người Con ấy thì được sống muôn đời (x. Ga 3,6). Tình yêu đó còn được thể hiện trong công trình cứu chuộc. Tột đỉnh của tình yêu là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người đời thường nói: Có đi có lại mới toại lòng nhau. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài đó là lẽ thường tình. Chúng ta có thể đáp lại tình yêu của Chúa bằng nhiếu cách thế khác nhau: Tuân giữ mười giới răn của Chúa; Đọc và suy gẫm Lời Chúa; Cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích…Thực hành những việc đó với cả tấm lòng: Yêu mến hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức chúng ta. Có nghĩa là chúng ta phải luôn đặt Chúa lên chỗ nhất: Trên cha mẹ, trên vợ chồng, trên anh chị em, trên của cải, chức quyền danh vọng và mọi thứ khác.
Rất có thể chúng ta đã yêu mến Chúa nhưng có nhiều lúc chúng ta vẫn chưa yêu mến hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Đó là khi chúng ta chỉ dành cho Chúa một chỗ trong tâm hồn như những thứ khác, thậm chí là kém hơn những thứ khác. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa lúc bình an hạnh phúc. Đó là khi chúng ta chỉ yêu mến Chúa, chạy đến kêu xin Ngài lúc chúng ta gặp thử thách, đau khổ. Rồi, chúng ta sẵn sàng bỏ Chúa vì chức quyền, danh vọng, vì thú vui trần thế, vì lợi lộc thấp hèn, vì của cải vật chất, giống như Giuđa đã bán Chúa 30 đồng bạc. Hãy can đảm xét mình để thấy được tình yêu của chúng ta dành cho Chúa lâu nay như thế nào? Hãy quyết tâm yêu Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, để có thể nói được như Thánh Phaolô tông đồ “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”(Rm 8,35). Đừng để như thánh Augustinô, hối tiếc vì đã yêu Chúa quá muộn màng.
2. Yêu thương anh em
Về mặt tiêu cực, chúng ta yêu thương tha nhân là không làm cho tha nhân những gì chúng ta không muốn họ làm cho mình. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Về mặt tích cực, chúng ta làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình. Đây cũng là lời dạy của Chúa Giêsu: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Để thực hiện giới răn Yêu Người, trước hết, cần phải yêu thương những thành viên trong gia đình: Ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt, chú bác, cô dì. Sau đó, phải yêu thương những người thân cận: Bạn bè, làng xóm láng giềng, những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Từ đó, chúng ta mới có thể yêu thương những người khác, những người xa lạ, những kẻ làm hại chúng ta. Bởi vì, nếu không yêu thương những người có liên hệ với chúng ta thì làm sao chúng ta có thể yêu thương những người xa lạ, làm sao chúng ta có thể yêu thương kẻ thù của chúng ta? Vì Chúa Giêsu đã dạy: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em mình (x. Lc 6,27). Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta khi Ngài tha thứ cho kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). Noi gương Chúa, nhiều vị thánh đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Chẳng hạn, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tù thăm kẻ ám sát mình; thánh Maria Goretti đã sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình.
Yêu thương là phải hy sinh, trao hiến: Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã hy sinh vì nhân loại. Cao điểm của sự hy sinh đó là trao hiến chính mạng sống mình trên thập giá vì nhân loại. Noi gương Chúa Giêsu, biết bao vị thánh đã hy sinh, trao hiến đời mình để phục vụ tha nhân như Mẹ Têrêxa Cacutta, thậm chí đã chết thay cho người mình yêu như Thánh Maximilianô Kolbe.
Yêu thương phải bằng những việc làm cụ thể qua cử chỉ thăm viếng, giúp đỡ về tinh thần và vật chất cho những kẻ bé mọn. Đến ngày chung thẩm, Chúa Giêsu dựa vào tiêu chuẩn này để phán xét chúng ta. Ai thương yêu giúp đỡ những kẻ bé mọn là giúp đỡ chính Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25, 35-36). Ngược lại, ai không giúp đỡ những kẻ bé mọn là không giúp Chúa: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” (x. Mt 25, 42-43).
Xét mình lại, có lẽ không ai trong chúng ta đã chu toàn trọn vẹn luật yêu thương. Cách này cách khác, chúng ta lỗi đức yêu thương đối với tha nhân trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Ước mong rằng, mỗi chúng ta luôn cố gắng thể hiện bổn phận yêu thương trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nhờ đó người khác sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa. Câu chuyện sau đây dạy chung ta bài học yêu thương hết sức thiết thực:
Một hôm trên đường trở về nhà xứ, vị linh mục già của thị trấn Picardie, vừa đi vừa đọc thầm kinh nhật tụng. Có hai viên sĩ quan trẻ cũng về chung đường. Khi rảo bước ngang qua, cả hai đều tỏ ý mỉa mai chế nhạo ông cha đạo vì từ lâu họ đã mất niềm tin nơi Giáo Hội Công giáo. Sẵn đang vui chuyện, họ tiếp tục chủ đề chỉ trích các tu sĩ, mặc kệ ông cha xứ già bị bỏ rơi lại phía sau một đoạn khá xa.
Chợt có một người hành khất ngồi bên vệ đường lên tiếng: “Các anh ơi, xin giúp kẻ nghèo này với.” Nghe vậy, một trong hai sĩ quan trẻ lục túi tìm cho người ăn mày mấy đồng bạc, trong khi anh kia cũng chợt nẩy ra một ý. Anh nói với bạn: “Ông cha già hồi nãy thế nào cũng sẽ đi ngang qua đây. Tôi dám cá độ với anh là ông ta sẽ chẳng thí cho lão ăn mày này đến một xu! Cái bọn tu sĩ đạo đức giả ấy chỉ thích làm phúc trước đám đông mà thôi. Không tin thì ta cứ rình ở đây mà xem!” Cả hai nhất trí trốn vào một bụi cây gần đó.
Ít phút sau, quả nhiên vị linh mục già chậm rãi đi tới. Ngài đứng lại nhìn người hành khất, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi hết sức ái ngại nói với ông ta: “Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc là ta chẳng có lấy một xu dính túi để chia sẻ cho ông bạn.”
Anh lính trong bụi nghe thế thì rúc rích cười: “Đấy, anh thấy chưa? Tôi nói có sai đâu!” Trong khi ấy, người ăn mày lại tiếp tục nài van, xin vị linh mục rộng lượng bố thí, còn ngài thì tỏ ra áy náy bứt rứt vì bó tay. Chợt, ngài nhìn kỹ bộ quần áo rách tả tơi của người ăn mày, động lòng trắc ẩn, suy nghĩ một thoáng rồi ngài bảo ông ta, giọng vui hẳn lên: “Ông bạn đợi ta một chút nhé, ta sẽ trở lại ngay!”
Dứt lời, ngài nhìn trước trông sau rồi chui tọt vào bụi cây ngay cạnh chỗ hai anh sĩ quan đang núp. Loay hoay một hồi rồi ngài lại bước ra, ngài ân cần đưa cho người ăn xin chiếc quần dài đã cuốn gọn lại: “Đây, ông bạn hãy cầm đỡ chiếc quần của ta nhé, tuy nó hơi cũ, lại đang mặc dở, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng có kể cho ai nghe. Nếu có định cám ơn ta thì ông bạn cứ cầu nguyện với Chúa cho ta một điều tốt lành gì đó cũng được. Thôi ta đi nhé.” Vị linh mục quản xứ già xốc lại chiếc áo chùng thâm cho ngay ngắn, tay lại mở trang sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ đang đọc dở dang rồi tiếp tục đoạn đường.
Hôm sau, có hai người khách lạ tìm đến bấm chuông nhà xứ rất sớm. Vị linh mục già nhận lời ra ngồi tòa giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được lần lượt thuật lại từ miệng hai anh sĩ quan trẻ tuổi ngày hôm qua, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Cha xứ ngẩn ngơ thốt lên: “Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ của con mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn sao?” (Theo lời kể của Đức Ông DE SÉGUR).
5. Hãy mến Chúa yêu người thật lòng
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúng ta luôn nói và khẳng định rằng Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta. Đó là một chân lý, sự thât. Nhưng còn chúng ta có yêu Chúa hay không? Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa có thực sự là trên hết mọi sự, hết linh hồn hết trí khôn không hay vẫn còn đó sự “bắt cá hai tay”? Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta vô bờ bến còn tình yêu của chúng ta dành cho Chúa và tha nhân vẫn còn đó những toan tính thiệt hơn?
Chúng ta thử quan sát thái độ sống Đạo của chính mình và các tín hữu chung quanh chúng ta sẽ thấy: nhiều khi chúng ta theo Đạo nhưng chỉ dừng lại ở việc tham dự lễ ngày Chúa nhật đầy đủ là yên tâm vì đã chu toàn bổn phận với Chúa. Nhưng đa phần là chúng ta chỉ đi xem chứ không dự vì xác ở nhà thờ còn tâm hồn của ta ở bên ngoài đủ mọi lo toan sự đời nhân tình thế thái. Có những người đi lễ còn cố tình đi muộn để đứng ở ngoài, để tìm chỗ khuất để vừa dự lễ vừa điều khiển công việc qua điện thoại. Có những người đi nhà thờ, tham gia các đoàn thể xem ra rất tốt nhưng ở đời họ vẫn còn đó những đam mê tội lỗi, những mê tín dị đoan. Họ sống thiếu công bình bác ái. Họ vẫn chồng nọ vợ kia, vẫn ngoại tình, vẫn cờ bạc, vẫn rượu chè bê tha, tham sân si. Có những người cho rằng theo Đạo là Đạo tại tâm nên chẳng chịu lãnh nhận các bí tích. Thực ra Đạo Công Giáo vừa bên trong vừa bên ngoài, tức là tin Chúa, yêu Chúa thì phải sống Lời Chúa dạy cho nên kính mến thờ phượng Thiên Chúa hết lòng hết sức thì phải yêu người như Chúa yêu ta thể hiện qua đời sống đức tin: sống thánh thiện, công bình và bác ái.
Cho nên Chúa Giêsu dạy: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó”. Yêu mến Chúa trên hết mọi có nghĩa rằng siêng năng tìm hiểu lời Chúa và thực hành Lời ấy trong cuộc sống. Vì chưng, Chúa Giê-su đã từng nói không phải những ai kêu “Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Thiên đàng đâu! Mà là những ai thực hành lời Chúa mới được vào Thiên đàng”. Tựa như hai người yêu nhau thì luôn lắng nghe nhau, lắng nghe những nhu cầu của nhau và luôn làm điều gì đó cho người mình yêu hài lòng. Vì thế, nếu chúng ta yêu mến Chúa thực sự thì chúng ta cũng phải lắng nghe Lời Chúa và sống điều Chúa truyền để làm vui lòng Chúa. Điều mà chúng ta có thể làm vui lòng Chúa là sự trung thành với Chúa và sống thương mến nhau. Sự trung thành với Chúa đòi hỏi chúng ta phải để cho Chúa vị trí số 1 trong tâm trí, trong cuộc sống của chúng ta. Sự trung thành đó được thể hiện qua việc chúng ta luôn chọn Chúa hơn là những danh lợi thú trần gian vì chưng Thánh vịnh chúng ta vừa đáp ca rằng: “Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con; lạy CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ”.
Tại sao yêu mến Chúa cũng đòi phải yêu mến tha nhân? Bởi tha nhân là hình ảnh của Chúa, con cái Thiên Chúa và anh em với nhau. Thánh Gioan nói rằng ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến anh em là kẻ dối gian. Sở dĩ chúng ta phải yêu mến tha nhân vì chúng ta đều là con một Cha trên trời, là anh em với nhau, và chính Chúa Giê-su đã từng đồng hóa mình với những mảnh đời bất hạnh để những ai giúp đỡ họ là giúp đỡ chính Chúa. Vì thế giới răn yêu người cũng là giới răn quan trọng mà Chúa đã để lại cho các môn đệ như một chúc thư phải thi hành: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.
Để được như thế, mỗi người tín hữu phải là một Kitô khác để có thể hiểu và cảm thông với tha nhân. Một Kitô khác có nghĩa rằng chúng ta đừng khác với Đức Kitô khi chúng ta sống thiếu vắng tình yêu trong lời nói và việc làm của chúng ta. Chúng ta đừng khác với Đức Kitô khi chúng ta sống thiếu sự quan tâm với những anh em nghèo đói, với những mảnh đời bất hạnh bên đường. Chúng ta đừng khác với Đức Kitô khi chúng ta sống trong bùn nhơ của tội lỗi, của sự thiếu trong sạch, thiếu công bình và bác ái với tha nhân. Chúng ta đừng khác với Đức Kitô khi chúng ta hà khắc, kết án anh em một cách đoạn tuyệt và thiếu lòng bao dung. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô khi chúng ta hiện diện với ai, là chúng ta đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Chúng ta hãy nên giống Chúa Kitô để chúng ta có thể gieo vãi yêu thương, hạnh phúc vào cho nhân thế qua việc phục vụ và dấn thân quảng đại của chúng ta. Chúng ta hãy nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô để có thể tha cho kẻ làm hại chúng ta, để có thể quên đi lỗi lầm của anh em và dám hy sinh quên mình mà vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Chẳng hạn, Thánh nữ Têrêxa Calcutta là Nhà Truyền Giáo của Tình Thương Bác Ái, đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời, để phục vụ những anh chị em nghèo cùng nhất, với sức mạnh múc lấy từ tình thương đối với Chúa Kitô. Sứ mạng của Mẹ Têrêsa bắt đầu mỗi ngày, trước lúc rạng đông, trước Bí Tích Thánh Thể. Trong thinh lặng của sự chiêm ngắm, Mẹ đã lắng nghe vang dội lời nói của Chúa Giêsu trên thập giá: Ta khát. Lời Kêu Vang nầy, được đón nhận trong cõi thâm sâu của tâm hồn, đã thôi thúc Mẹ tiến đi trên các đường phố Calcutta và khắp nơi trên thế giới, để đi tìm Chúa Giêsu trong người nghèo, người khuyệt bệnh bệnh hoạn, người bị bỏ rơi, người hấp hối sắp chết.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay trong tháng Các đẳng linh hồn này, xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu người một cách chân tình và thật lòng. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa một cách trân quý nhật và khi chúng ta trao ban bình an cho nhau một cách chân tình nhất. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống việc sống thánh thiện và thương yêu hết mọi người khi còn sống hay đã qua đời bằng hành động cụ thể hằng ngày của chúng ta. Amen.
6. Giới răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 12:28-34: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm Biệt Phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề Luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu Ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật vì trong Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật phải làm.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Người, vì nếu Người trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ Nhị Luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Chỉ có một điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: «Nếu ai nói: “tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21)
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “mến Chúa” và nhất là “yêu người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một hòn đá vào cánh cửa chiếc xe.
Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó – chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
“Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?”.
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe…
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: “Em xin lỗi! Nhưng em… em… không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại…Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng”.
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
“Có một người… anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá”. Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ: “Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà.
Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc nhở anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé. Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có một ai đó ném một hòn đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
7. Mến Chúa – Yêu người
Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi.
Đối với giới luật thứ nhất là kính mến Thiên Chúa, chúng ta có thể chấp nhận một cách dễ dàng, như một bổn phận đường nhiên. Còn đối với giới luật thứ hai là yêu thương anh em, những con người cụ thể với những giới hạn và khuyết điểm, thì quả thực có nhiều vấn đề cần phải đặt ra. Giới luật này chẳng những là một điều rất khó thực hiện, mà nhiều lúc còn là một thử thách rất lớn cho chính đức tin của chúng ta. Thế mà Chúa Giêsu lại nâng giới luật này lên hàng đầu, ngang bằng với lòng kính mến Thiên Chúa, và còn gọi tình yêu tha nhân là giới luật mới, là dấu chỉ của người môn đệ Ngài.
Sở dĩ được gọi là mới là do ý nghĩa thâm sâu mà Chúa Giêsu đã mang lại cho nó, khi Ngài liên kết con người với Thiên Chúa trong một tình yêu chung. Hai tình yêu ấy hòa nhập làm một hay trở nên hai mặt không thể tách rời của một tình yêu duy nhất. Con người, bất kể là ai, sang hay hèn, tốt hay xấu, đều có phẩm giá và phẩm giá này cần phải được tôn trọng. Phẩm giá ấy không phải do của cải hay địa vị xã hội tạo nên, nhưng nó đã được chôn sâu trong chính con người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là con cái của Ngài.
Bởi thế, yêu thương con người là yêu thương chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi họ, là yêu thương chính người cha đang ở với mỗi người con. Trong Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với con người. Ngài ẩn hình nơi mỗi con người. Vì thế, Ngài buộc các môn đễ của Ngài phải trọng kính và yêu thương mỗi con người: Ai cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ mình trần được mặc, kẻ đau yếu và bị cầm tù được thăm viếng, thì đó là người ấy đã làm cho chính Chúa được ăn, được uống, được mặc và được thăm viếng vậy. Như thế, tình yêu thương con người đòi hỏi một thái độ đức tin, đó là phải nhìn thấy Chúa trong những người anh em.
Và cũng chỉ có thái độ đức tin mới giúp chúng ta vượt lên trên những ác cảm, những khác biệt, những thù hằn để thương người như chính mình ta vậy. Và hơn thế nữa, với thánh Gioan, thì lòng thương người trở nên như một trắc nghiệm cho tình mến Thiên Chúa, nó chính là thước đo cho tình mến Chúa, bởi vì ai nhận mình kính mến Thiên Chúa, mà lại ghét bỏ anh em, thì kẻ đó chỉ là kẻ nói dối mà thôi.
8. Mến Chúa yêu người.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hai khía cạnh của một giới răn, đó là lòng mến Chúa và tình thương người.
Trước hết là lòng mến Chúa.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Thánh Gioan vị tông đồ, thấu triệt được đường lối của Chúa Giêsu, đã viết: Thiên Chúa là Tình Yêu, ai ở trong tình yêu thì người ấy ở trong Thiên Chúa. Và thánh Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy mặc lấy đức ái, là giềng mối mọi sự trọn lành.
Như thế, chúng ta thấy lòng mến Chúa là mục đích chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống trần gian hay nói cách khác, đó chính là sự thánh thiện vậy. Qua giòng thời gian, các thánh, là những người đã xác tín được cái chân lý ấy và đã ra sức thực hiện trong lòng cuộc đời của mình.
Thánh nữ Têrêsa đã viết: Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một trái tim, trái tim ấy bùng cháy ngọn lửa tình yêu… Tôi hiểu rằng chỉ tình yêu mới làm cho các chi thể hoạt động. Nếu tình yêu mà lịm tắt, thì các vị tông đồ không còn đi loan báo Tin mừng, các vị tử đạo không còn đổ máu ra để làm chứng cho Phúc âm. Lòng mến này được biểu lộ qua việc chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa bằng những tâm tình cầu nguyện. Nhất là được biểu lộ qua việc chúng ta thực thi thánh ý Chúa, mỗi khi chúng ta làm một việc dù là nhỏ mọn nhất. Chúng ta hãy biết thân thưa với Chúa như thánh nữ Bernadetta: Lạy Chúa, xin cho con biết chu toàn mọi việc vì lòng yêu mến Chúa.
Người ta kể lại thánh Arcadio, khi bị dẫn tới pháp trường, ngài đã bình tĩnh chấp nhận bị khổ đau, rồi ngài nói với những người đứng chung quanh: Chết vì Chúa là được sống, khổ vì Chúa là được hạnh phúc.
Tiếp đến là tình thương người.
Trong Phúc âm Chúa phán: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi. Các ngươi hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Thánh Augustinô đã giải thích tư tưởng của Chúa như sau: Tình thương là dấu chỉ duy nhất để phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỉ. Mặc cho những ai cứ làm dấu thánh giá trên trán, cứ chịu phép rửa tội, cứ vào nhà thờ, nhưng chỉ có tình thương mới phân biệt được ai là con cái Thiên Chúa.
Đức Giám mục Bossuet cũng nhấn mạnh: Ai chối bỏ tình thương là chối bỏ đức tin. Ai chối bỏ đức tin là sống ngoài Giáo Hội. Bởi vì như lời thánh Gioan đã diễn tả: Anh em là những người họ trông thấy mà họ chẳng yêu thương, thì làm sao họ có thể kính mến Thiên Chúa Đấng mà họ chẳng hề trông thấy bao giờ.
Bên Âu Mỹ, người ta thử nuôi những trẻ sơ sinh bằng máy dưỡng nhi thay cho người. Với những máy móc ấy, con trẻ được nuôi một cách rất khoa học. Ăn uống đầy đủ, vệ sinh chu đáo. Thế mà đứa trẻ cứ mỗi ngày một ốm o gầy mòn, biếng ăn kém ngủ. Thế nhưng, khi người ta thêm vào trong phòng một cái máy phát ra những tiếng động như nhịp đập của trái tim người mẹ, thì các em trở lại bình thường, ăn ngon ngủ kỹ, da dẻ hồng hào. Như vậy cái yếu tố thiết yếu trong cuộc sống là yêu và được yêu.
Kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Thực hiện được hai điều ấy là chúng ta đã chu toàn được mọi lề luật, và mọi lời Chúa truyền dạy.
9. Chúa Nhật 31 Thường Niên
TÌNH YÊU LÀ SỰ HOÀN THIỆN CỦA CON NGƯỜI
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người (Th. Augustinô).
Một nữ văn sĩ đã viết: “Cuộc đời con người vốn trống trải như một quán trọ. Không ai trên cõi đời này có thể sống mà không yêu một người nào hay yêu một cái gì. Bao giờ trái tim còn rung lên những nhịp đập, bao giờ đôi mắt còn nhìn thấy mặt trời mọc, mặt trời lặn bên kia đồi, bao giờ còn khoảng cách mênh mông của những vì tinh tú trên bầu trời cao, con người còn phải yêu để sống”. Tư tưởng của nhà văn ngụ ý nói rằng tình yêu là một nhu cầu thiêng liêng và cao quý của kiếp sống hiện sinh nơi mỗi người chúng ta. Chỉ có gỗ đá và thú vật mới không biết rung cảm và yêu thương, còn đã là người, chúng ta cần phải yêu để có thể tồn tại. Đó là quy luật thiết yếu mà Thiên Chúa đã đặt để nơi cuộc sống mọi người.
Nhưng thật trớ trêu, người ta đã và đang lợi dụng cũng như bóp méo ý niệm thân quen này. Có những tình yêu đáng lẽ rất trong sáng, lại bị đánh đổi bằng chút ít tiền bạc. Có những tình yêu thoi thóp nơi những trái tim chỉ biết đợi, biết chờ mà không bao giờ được đáp trả. Có những bạn trẻ lao đầu vào những cuộc tình quái gở, vội trao ban những gì quý giá nhất của đời con gái để suốt đời phải ôm một nỗi sầu mênh mang. Có những con người điên điên khùng khùng rao bán tình yêu chỉ với vài ba chỉ vàng, hoặc dùng vốn tự có để đổi lấy một mảnh tình rách. Biết bao phũ phàng và xót xa vẫn đang xảy ra đặc biệt nơi các bạn trẻ, khi họ muốn vươn tới một tình yêu trong sáng nhưng không thể nào có được. Ai cũng biết và cảm thấu sự cao quý của tình yêu, nhưng tình yêu thực sự là gì?
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay vạch dẫn cho ta câu giải đáp. Những môn đệ của Đức Giêsu phải thâm tín rằng không thể có một tình yêu chân chính nếu không quy tập về chính Thiên Chúa, bởi lý do giản đơn như thánh Gioan tông đồ đã xác quyết: “Thiên Chúa là tình yêu”. Nói cách khác, Thiên Chúa vốn tự bản chất là Tình yêu, đã thiết định một lề luật căn bản nơi nội tâm mỗi người, đó là luật yêu thương. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, con người càng trở nên hoàn hảo, và trở nên giống Thiên Chúa.
Giới răn quan trọng nhất
Mẩu đối thoại giữa Đức Giêsu và vị kinh sư mà Tin mừng hôm nay thuật lại xoay quanh chủ đề ‘Đâu là giới răn quan trọng nhất’. Chủ đề này đã được Đức Giêsu lập đi lập lại khá nhiều lần, ví dụ qua bài giảng trên núi, hoặc khi Ngài nói chuyện với chàng thanh niên muốn nên trọn lành, và đặc biệt trong diễn từ Chúa nói với các học trò trước khi đi thụ nạn. Quả thật, Đức Giêsu đến trần gian không phải để sáng lập một tôn giáo, nhưng để công bố cho chúng ta một Tin mừng, đó là tin mừng về tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Ngài chính là bí tích biểu thị tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một Ngài” (Ga 3, 16). Đức Giêsu chính là nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, đồng thời cái chết của Ngài trên Thập giá chính là câu định nghĩa hoàn hảo nhất về tình yêu Thiên Chúa dành trao cho ta. Tình yêu mà Ngài nói tới không phải là những biểu hiện tình cảm ngốc nghếch mà rất nhiều bạn trẻ thường hay nghĩ tưởng. Chúa nói với các môn sinh “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta phải học, phải hiểu và phải sao chép lại chính tình yêu mà Đức Giêsu đã diễn bày.
Tình yêu mà Chúa Giêsu khai mở và giải thích cho vị kinh sư khi ông ta đến hỏi Ngài gồm hai chiều kích: đối nhân và đối thần, tức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương đồng loại. Thực sự đây là hai cách diễn bày, nhưng tình yêu chỉ là một thực tại duy nhất. Thánh Giacôbê đã viết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà giận ghét anh em, đó là người nói dối” Cụ thể, chúng ta không thể nào mở miệng thưa với Chúa: “Lạy Chúa con yêu mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự”, mà lại không thể nở một nụ cười thân thiện với người hàng xóm bên cạnh. Chúng ta vẫn mở miệng đọc kinh Lạy Cha: “Xin Cha tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con”, nhưng lắm khi chúng ta vẫn ôm nơi mình biết bao dao găm và lựu đạn khi đến nhà thờ cầu nguyện với Chúa. Những lời cầu nguyện như thế rất giả dối, nhằm đánh lừa Thiên Chúa và rốt cục chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch.
Tình yêu là sự hoàn thiện của con người.
Thánh Phanxicô Salê, tiến sĩ về đức ái, đã viết: “ Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ. Tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái là sự hoàn thiện của tình yêu”. Vì thế, càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng vươn đạt đến sự hoàn thiện theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “ Anh em hãy nên trọn lành như Cha anh em trên trời là Đấng trọn lành.” Hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu đã đến trần gian để khải thị cho ta Tin mừng về lòng yêu thương của Thiên Chúa. Khi nói chuyện với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã vén mở cho ông điều này. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Nhiều nhà chú giải cho rằng đây là câu tóm kết toàn bộ sách Tin mừng, diễn tả sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu. Ngài đi vào trần gian để loan báo cho ta về tình yêu của Thiên Chúa. Cái chết của Đức Giêsu là tột đỉnh diễn bày tình yêu tuyệt vời này. Trong 3 năm rao giảng, Đức Giêsu đã thiết lập một ngôi trường, ngôi trường đó mang tên Trường học Tình yêu. Ngài quy tập những người học trò để truyền thụ cho họ một môn học duy nhất, đó cũng chính là môn học về tình yêu. Trong bữa tiệc vượt qua cuối cùng trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu để lại cho các môn sinh bản di chúc tối hậu: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”; “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau.”
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, cho dù người đó hiện như thế nào. Một đứa con đi hoang vẫn được vòng tay cha nó ôm đón khi nó trở về. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi tâm sự sát kề bên Chúa và hôn lên đôi chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí một tên cướp khét tiếng, với một quá khứ đan kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh, được chính Đức Giêsu mở cửa Thiên Đàng đón đưa vào. Tình yêu Thiên Chúa luôn là một mầu nhiệm khó hiểu, là một nghịch lý vĩ đại và tình yêu ấy trở thành khuôn mẫu nội tâm để tất cả chúng ta noi theo.
Yêu như Chúa yêu
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn căn bản về tình yêu. Tình yêu mà Đức Giêsu mời gọi không mang dáng vẻ lãng mạn và ủy mị như nhiều bạn trẻ thường hay mơ nghĩ. Chúa Giêsu đã sống tận căn mầu nhiệm tình yêu và Ngài mời gọi các học trò hãy sao chép lại tình yêu ấy. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái chết trên Thập giá là câu định nghĩa tuyệt vời nhất về tình yêu mà Đức Giêsu diễn bày, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta dần dần tiến sâu vào quỹ đạo yêu thương độc đáo này.
Thánh Gioan Tông đồ là chuyên gia về tình yêu. Khi tự giới thiệu về mình, vị tông đồ đã không theo kiểu cách thế gian. Ngài không khoe khoang chức vụ hay học vị của mình như người đời vẫn hay làm, ví dụ: ông Nguyễn Văn A, Tổng giám đốc, Tiến sĩ này, thạc sỹ nọ v..v. Thánh Gioan chỉ nói đơn giản về bản thân mình là ‘Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến’. Trong bữa tiệc ly, Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa, lắng nghe những nhịp đập từ con tim thổn thức của người Thầy quý mến. Đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria, Gioan cũng chứng kiến trái tim Chúa mở toang, vọt trào cho đến giọt nước và giọt máu cuối cùng, biểu tượng tình yêu dạt dào như một dòng chảy bất tận. Cảm nghiệm được tình yêu sâu xa này, nên trong Tin Mừng thứ tư và đặc biệt trong cả 3 lá thư Ngài viết, Thánh Gioan hầu như chỉ nói đi nói lại một chủ đề duy nhất, đó là tình yêu “ Hãy yêu như Thầy đã yêu.” Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái cũng nhắc đến hiến tế Thập giá của Đức Giêsu, như là nguyên mẫu cho tình yêu mà chúng ta được mời gọi sao chép lại.
Kết luận
Để kết luận, tôi xin trích dẫn một câu chuyện ngắn của tác giả Trường Long. “Sau khi ly hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ nó: Sao mẹ lại đuổi bố? Mẹ trả lời “Tại bố hư.” Để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, Người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chộp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên bắt đền. Mẹ nó dỗ: “Anh này hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần”. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố? Bà mẹ trẻ nhìn xa xăm rồi thở dài: “Ừ, thì ra mẹ cũng hư.”
Chúng ta cũng dễ thường hay ‘hư’ như thế vì đã không sống triệt để mầu nhiệm tình yêu, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tình yêu đó đòi hỏi chúng ta phải biết sẵn sàng cho đi và biết quảng đại tha thứ cho nhau. Chúng ta hãy lập lại tâm tình trong kinh Lạy Cha mà chính Chúa Giêsu đã dạy: “Xin Cha tha cho chúng con, như chúng con cũng tha….”. Chúng ta cũng nhớ lại lời dạy của Thánh Augustinô: “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm (Ama et fac quod vis).
10. Hai mặt bàn tay
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Công ty địa ốc MKB Fastighets AB – trực thuộc Hội đồng Malmo, thành phố lớn thứ ba của Vương quốc Thụy Điển, đã bỏ ra 1,3 triệu kronor (197.000 USD) cho một chiến dịch khuyến khích những người thuê nhà của họ, chào hỏi hàng xóm láng giềng, như trong câu hát “khi mỗi hàng xóm là một người bạn” trong nhạc phẩm bất hủ Happy New Year của ban ABBA.
Chiến dịch “Lời chào đến hang xóm bạn” (Sag hej till din granne) được MKB thực hiện từ ngày 7-7-2012, dựa trên kết quả khảo sát vào đầu năm nay: 70% muốn nhờ vả hàng xóm khi cần thiết, 70% tin mối giao hảo với hàng xóm tốt cho mọi người và 80% muốn nói chuyện với hàng xóm.
Từ 15 năm nay số người nhập cư tăng cao, chủ yếu đến từ các nước Hồi giáo. Nhiều người chọn Malmo vì nằm ở cực nam, khí hậu ấm áp hơn thủ đô Stockholm. Tuy Malmo rộng chỉ hơn 280.000km2, chỉ có 293.900 người, nhưng có tới 170 quốc tịch và 150 tiếng nói khác nhau!
Điều đáng chú ý là cùng với sự lớn mạnh của các cộng đồng nhập cư thì tình trạng bạo lực, tội phạm có vũ trang, buôn lậu ma túy cũng gia tăng. Đó là chưa kể tình trạng bạo lực gia đình, phổ biến nhất là trong những gia đình gốc nhập cư Hồi giáo, đến từ Trung Đông và Pakistan.
Chiến dịch chào hỏi của MKB như vậy có thể được xem như một sáng kiến mới của thành phố “nhiều màu sắc” này, làm mọi người xích lại gần nhau hơn, nhất là trong bối cảnh Malmo sẽ là thành phố chủ nhà cho Eurovision 2013, cuộc thi hát uy tín nhất tại châu Âu. (Tuổi Trẻ 12/10/2012)
Theo tạp chí The Economist, Thụy Điển đứng đầu về chỉ số dân chủ trên thế giới và đứng thứ bảy trong Liên Hiệp Quốc, về chỉ số phát triển con người. Tuy nhiên theo thống kê, Thụy Điển là một trong những nước vô thần nhất thế giới, vì 85% người dân không tin vào tôn giáo. (Wikipedia)
Bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến thái độ đối với tha nhân. Thánh Marcô tường thuật một kinh sư cảm phục Chúa Giêsu đối đáp hay, bèn đến hỏi Người: “Thưa Thầy trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12, 28). Nhưng trong Tin Mừng Thánh Matthêu và Luca, lại nói rõ là vị kinh sư đó, đại diện cho nhóm Pharisiêu đển thử thách Người, ngay sau khi Người “đã làm cho nhóm Xa Đốc phải câm miệng.” (Mt 22, 34).
Yêu Chúa yêu người
Đức Giêsu trả lời: Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 29-31)
Ngoài Lề Luật trong Sách Thánh, các thầy rabbi còn thêm 248 điều răn và 365 điều cấm. Người ta còn phân biệt khoản lớn với khoản nhỏ, điều nặng với điều nhẹ. Như thế, đâu dễ dàng tìm ngay ra một câu giải đáp vắn gọn và đầy đủ như yêu cầu của vị kinh sư. Nhưng Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức, đã khiến vị kinh sư phải tức khắc khẩu phục, tâm phục.
Hai Mặt Bàn Tay
“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, Ngoài Người ra không có đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12, 32-33)
Nghĩ Chúa Giêsu sẽ sa vào cái bẫy với hàng trăm luật lệ rườm rà, như mớ bong bong, nhưng nghe thấy Người tóm gọn chính xác và vắn tắt điều răn quan trọng, vị kinh sư ngạo mạn phải kính cẩn, chân thành ca ngợi Người và đồng thanh khẳng định lại chân lý đó.
Từ thái độ thách đố, khinh khi, chuyển ngay sang thái độ phục thiện và tôn kính, vị kinh sư đương nhiên hiểu rằng: Yêu Chúa và yêu tha nhân liên kết chặt chẽ như hai mặt của bàn tay, hai mặt của đồng tiền, không thể phủ nhận mặt nào hết, nếu muốn giữ nguyên giá trị.
Cụ thể hóa giới răn hàng đầu
Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: “Ông không còn xa nướcThiên Chúa đâu!” (Mc 12, 34) Người khen vị kinh sư và muốn ông cụ thể hóa điều vô cùng trọng đại đó, áp dụng ngay vào cuộc sống. Còn khoảng không còn xa kia tùy theo cái tâm mỗi người chân thành hay không.
Trở lại câu chuyện bên trên, sở dĩ Cty địa ốc MKB Fastighets AB, phát động “Lời chào đến hàng xóm bạn”, vì dân cư thiếu quan tâm đến tha nhân, chẳng yêu người, vì đã khước từ Thiên Chúa hiện diện trong đời sống.
Đối với Kitô hữu, không tài nào kính mến Thiên Chúa mà không thương mến nhân loại, thương mến nhân loại mà không yêu thương mọi người, yêu thương mọi người mà không quý mến những người mình biết, với một tình yêu cụ thể và tích cực. (M. Delbrel)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho con yêu mến Chúa, bằng chính cuộc sống thương yêu chia sẻ đến với mọi người con quen biết. Cho con biết yêu người như chính bản thân con.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết chấp nhận và yêu mến mọi người, như xưa kia Mẹ hằng thương yêu, chăm lo, săn sóc các Tông đồ cùng toàn thể cộng đồng, từ tiệc cưới Cana đến đồi Golgotha, vì tình yêu Thiên Chúa muôn đời. Amen.
11. Mến Chúa yêu người.
Vào một buổi sáng mùa đông, nhóm tù công giáo quây quần bên nhau, chia sẻ Lời Chúa với dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành. Họ trao đổi với nhau và tìm cách áp dụng tinh thần yêu thương vào cuộc sống hằng ngày. Căn phòng không đủ ấm vì từng cơn gió lạnh thổi tới. Một tù nhân nghèo túng, trên người chỉ có một bộ quần áo mỏng manh, đang ngồi mà cứ run lập cập. Bên cạnh đó, một bạn tù khoác những hai chiếc mềm. Và thế là, trong lúc mọi người bàn luận về cách thức tương trợ lẫn nhau, người bạn tù đột nhiên đúng dậy, tiến đến và choàng một chiếc mềm lên người tù nghèo túng. Cử chỉ của người bạn tù đã gây được một ấn tượng mạnh mẽ cho cả nhóm hơn bất cứ lời nào họ nói ra để chia sẻ.
Và cũng từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Thực vậy, chúng ta thường nói: Con người đầu đội trời, chân đạp đất, vì thế sống trên đời chúng ta có hai bổn phận phải chu toàn, đó là mến Chúa và yêu người. Hai bổn phận này phải luôn luôn đi đôi với nhau, như hai mặt của một đồng tiền. Nói cách khác, đó chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, giới luật yêu thương. Chúng ta không thể cầu nguyện và gắn bó mật thiết với Chúa, nếu như chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động bác ái. Thánh Gioan Tông đồ đã xác quyết: Nếu ai nói rằng mình kính mến Chúa là lại ghét bỏ anh em, thì quả thật kẻ ấy chỉ là một tên nói dối, bởi vì hắn ta không thể kính mến Chúa là Đấng hắn chẳng hề trông thấy bao giờ, nếu hắn không yêu thương anh em, là những người hắn luôn thấy được. Chính Đức Kitô cũng đã dạy: Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em. Hai lệnh truyền này tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không yêu thương anh em thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn kính mến Thiên Chúa nữa. Có một câu danh ngôn đã bảo: Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng làm sao thấy được bởi vì Ngài là Đấng thiêng liêng. Thế nhưng khi tôi tìm kiếm người anh em, thì tôi sẽ gặp được chính Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, rất nhiều lần Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với những người anh em nghèo khổ: mỗi khi chúng ta cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, người đau yếu và bị cầm tù được viếng thăm là chúng ta đã làm cho chính Chúa vậy.
Thế nhưng, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Trái lại, nếu chúng ta yêu quý những người thân cận trong gia đình, thì chúng ta mới có thể yêu quý những người bà con lối xóm. Và một khi đã yêu quý những người bà con lối xóm, thì chắc chắn, chúng ta cũng sẽ dễ dàng kính mến Thiên Chúa. Dấu chỉ và bộ đồng phục của người môn đệ Chúa phải là lòng bác ái, và ngôn ngữ của người Kitô hữu, thứ ngôn ngữ mà nhờ đó bất cứ ai cũng có thể hiểu được về Thiên Chúa và về bản thân chúng ta, đó phải là ngôn ngữ của tình yêu thương.
12. Mến Chúa và yêu người
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Tình yêu là đề tài được bàn đến nhiều nhất trên đời này. Những tác phẩm hay nhất thế giới là nhờ mô tả những chuyện về tình yêu. Thi phẩm Ôdyssê của Hy lạp nổi tiếng là nhờ ca tụng tình yêu của Ulyssê và Pênêlốp. Anh hùng ca Râmâyana của Ấn độ đã truyền tụng tình yêu tuyệt vời của hoàng tử Rama và công chúa Sita. Đại văn hào Shakespeare trở nên bất hủ là nhờ diễn tả tình yêu của Roméo và Juliette. Nguyễn Du được thời danh tới tam bách chu niên cũng nhờ diễn tả tình yêu trong truyện Kiều. Những lâu đài kỳ quan nhất thế giới cũng được xây dựng vì tình yêu. Như Kim tự tháp Ai Cập và Taj-Mahal Ấn Độ.
Tại sao tình yêu được nổi bật nhất trong văn hóa nhân loại như vậy? Thưa, vì không sinh hoạt nào, khuynh hướng nào trong con người mạnh mẽ, phong phú và bao la vô hạn bằng tình yêu, và con người được tạo dựng, được sinh ra cũng là do tình yêu.
Cảm xúc vui buồn thì chóng tan, trí khôn con người chỉ khám phá ra được những phát minh vật chất, ý chí của các thế hệ hiện đại mới chỉ tới được một vài hành tinh. Nhưng tình yêu con người có thể bao quát hết mọi người trong trời đất, yêu hết muôn vật trong vũ trụ, và vượt ra ngoài vũ trụ lên tới trời cao vô tận là Thiên Chúa, vì tình yêu con người đã được cưu mang, sinh ra do tình yêu Thiên Chúa. “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa” (Ga. 4, 7). Vì thế, con người có thể vừa mến Chúa vừa yêu người. Nhưng làm thế nào đạt được tới tình yêu kỳ diệu đó?
Chính Đức Giêsu đã hướng dẫn ta:
1. Mến Thiên Chúa thì ta phải:
Thứ nhất: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy … Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy … Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga. 14, 15-21. 23).
Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là người thực thi lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Lời Chúa được biểu lộ rõ ràng nhất trong bốn cuốn sách Tin mừng. Giới răn của Chúa được tóm gọn trong Mười Điều Răn và Tám Mối Phúc thật.
Thứ hai: Mến Chúa là sống kết hợp với Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga. 15, 5). Người ta nói: “Xa mặt cách lòng” – Không thấy nhau thì chẳng có thể yêu nhau. Không nhớ nhau thì đâu có luyến tiếc gì. Cho nên muốn yêu nhau thì ở gần nhau hay luôn tưởng nhớ nhau: “Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Đó là lời cầu nguyện của đứa con hiếu thảo tha thiết yêu cha mẹ, muốn sống với cha mẹ mãi mãi. Lòng yêu mến đó dù khi phải sống xa cha mẹ, vẫn không cách lòng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Không lạ gì Đức Giêsu dạy ta mến Chúa theo cách thứ hai này: “Mến Chúa kết hợp với Chúa như cành với cây. Kết hợp với Chúa, không phải bằng thể xác, nhưng bằng tinh thần, đó là hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Kết hợp với Chúa đến tột độ hết sức lực ngươi. (Mc. 12, 30).
Thứ ba: Lòng mến Chúa hết sức lực phải được chứng tỏ bằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy” (Mt. 16, 24).
Tình yêu thí mạng sống mình vì mến Chúa mới thật là mến Chúa hết sức lực. Đức Giêsu đã đòi Phêrô thực hiện tình mến Chúa đó, khi Người hỏi Phêrô ba lần: “Phêrô, con có mến Thầy hơn các người này không?”. Phêrô đã hết sức đáp lại ba lần: “Thưa Thầy có, Thầy biết con mến Thầy”. Nhưng mến Chúa không phải bằng môi bằng miệng mà bằng việc làm, bằng sống chăm sóc và thí mạng sống cho đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Cho đến khi về già, Phêrô sẽ phải giang tay ra trên thập giá như Thầy (Ga. 21, 15-18).
2. Yêu người thì ta phải:
Thứ nhất: sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt. 7, 12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc. 12, 30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và ích lợi. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa vậy yêu người cũng phải làm những điều đó cho người.
Thứ hai, yêu người còn phải sống theo gương mẫu của Đức Giêsu mới đúng là yêu người một cách tuyệt hảo: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga. 15, 12-13).
Đấy mới là thước đo yêu người cách khách quan chính xác. Yêu người như chính mình, chỉ là thước đo chủ quan và còn nhiều thiếu sót, vì mình còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều đam mê xấu tai hại. Nếu lôi cuốn người ta theo những tật xấu của mình, theo những gương mù của mình, thì đáng bị buộc cối đá vào cổ mà liệng xuống biển. Yêu người như chính Thầy, như chính Đức Giêsu đã yêu người, thì Đức Giêsu đã nên giống chúng ta, nên một xương một thịt với chúng ta, nhập thể vào loài người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi (Ga. 1, 14 Dt. 2, 5-12; 4, 1-10). Để thông cảm với kẻ ngu muội, lầm lạc, để đồng bàn với kẻ tội lỗi là chúng ta “Ta đến để cứu chữa kẻ tội lỗi”, để phục vụ làm tôi tớ mọi người. “Các anh cứ về tường thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng” (Mt. 11, 4-5).
Chẳng những người phục vụ, cứu chữa mà còn chịu chết đền tội cho chúng ta: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc. 10, 45). Người đã chết thay cho kẻ có tội, chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và được sống dồi dào (Rm. 5, 1-11; 2Cr. 5, 14).
Đức Giêsu yêu người bằng phục vụ hy sinh đền tội bằng cứu chữa và ban sự sống dồi dào. Lạ lùng hơn nữa, Người còn cho chúng ta được nên giống Người, là bạn hữu của Người, là nên một với Người, như chi thể của Người, được đồng thừa tự với Người, được làm con Chúa Cha. Đức Giêsu yêu mến và tôn vinh con người đến chừng nào. Đó là tình yêu vô cùng, không thể diễn tả được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tình yêu người của con tuôn chảy từ tình mến Chúa. Xin ngọn lửa tình yêu của Thánh Tâm Chúa bừng cháy lên khắp cả đầu đến chân con, khắp cả tâm hồn đến thân xác con, suốt từ sáng tới chiều, suốt cuộc đời từ trẻ tới già, thấu suốt tận nội cung riêng tư đến mọi phận sự và cộng đồng của con. Amen.
13. Yêu mến Chúa hết lòng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng?
Đề tài được đem ra đây thảo luận vẫn hoàn toàn nằm trong phạm trù Cựu Ước. Thầy kinh sư am tường Sách Thánh và luật Mô-sê đặt cho Đức Giêsu một câu hỏi mang tính lý thuyết liên quan tới hiểu biết suy luận nhiều hơn: “Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” Câu trả lời không khó, chỉ cần trích dẫn hầu như nguyên văn sách Đệ Nhị Luật chương 6 câu 4-5 là đã có được câu trả lời hoàn hảo: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh, hết lòng, hết dạ, hết sức anh” (Đnl 6:4-5). Ngay cả điều răn thứ hai mà Đức Giêsu muốn nối kết với điều răn đứng đầu cũng không xa lạ gì. Nó được tìm thấy trong sách Lê-vi chương 19 câu 18b: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Xét về mặt hiểu biết, ông kinh sư không thua kém gì Đức Giêsu, thậm chí ông còn xử dụng một đoạn Sách Thánh khác để bổ túc cho câu trả lời thêm rõ: “Ta là Đức Chúa, không còn Chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ ta” (I-sai-a 45:5; Đnl 4:35). Cuộc thảo luận lý thuyết đó rốt cuộc chẳng dẫn tới kết quả nào khả quan, ngoài lời khích lệ bâng quơ: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”
Vấn đề mà nhiều người chúng ta đặt ra trong tư cách là Kitô hữu, không nằm trong phạm trù suy tư lý thuyết, nhưng cụ thể và hiện sinh hơn: làm cách nào mà tôi có thể ‘yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi’,ngay trong đời sống thường ngày? Thiết tưởng, khi Đức Giêsu đến trần gian và thành lập Hội Thánh, Người không nhằm mục đích dạy một điều, cho dầu rất căn bản đi chăng nữa, nhưng đã được ghi chép quá rõ ràng trong Sách Thánh Cựu Ước. Cuộc sống dương thế của Người, và nhất là cái chết Thập Giá, chính là để trả lời cho nghi vấn cụ thể mang tính hành động trên trên, điều mà Cựu Ước chỉ mới làm cách hết sức sơ sài.
Yêu mến, tự nó, không thể bị ép buộc bởi một mệnh lệnh từ bên ngoài: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa”; tình yêu không thể được điều khiển bằng lý trí! Hơn nữa, ngay cả Đệ Nhị Luật cũng chỉ dám khuyên ‘hãy yêu mến Đức Chúa’. Khi ban hành Thập Giới, Đức Chúa Gia-vê đã trưng viện lý do: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa cứu ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Chính Thập Giới cũng không đòi ‘phải yêu mến Thiên Chúa’, mà chỉ qui định việc ‘phụng thờ Người’; vậy thì, khi xác định ‘điều răn’ này hẳn Đức Giêsu phải dựa trên một lý lẽ lớn hơn việc ‘đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ’ rất nhiều. Đúng thế! tình yêu chỉ có thể bị cưỡng ép bởi tình yêu; vì chỉ có tình yêu mãnh liệt cháy bỏng, một khi được biểu lộ và minh chứng cách cụ thể, mới có sức trói buộc mà thôi. Đức Giêsu hiểu rất rõ điều này nên Người hằng mơ ước giờ phút Thập Giá, giờ phút mà Người gọi là ‘kairos’, tức là ‘giờ của Người’; vì chỉ trên thập giá, Người mới cống hiến được bằng chứng về một tình yêu tự hiến trọn vẹn: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Bằng cái chết tự hiến đó, Người mới có thể cuốn hút mọi người vào giao ước tình yêu song phương; “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Chỉ như thế, điều răn “phải yêu mến Đức Chúa” mới có được cái sức ràng buộc thật sự!
Nói như vậy cũng đồng thời là lời giải đáp cho một trong các vấn nạn mà từ lâu nay nhiều tín hữu, thậm chí cả tu sĩ linh mục vẫn hằng ấp ủ: ‘làm thế nào mà tôi có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng’. Nếu tình yêu không thể bị ép buộc, thì dầu nỗ lực hay cố gắng tới mấy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể yêu mến Thiên Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ mình! Điều duy nhất cho phép tôi ‘yêu hết lòng’ là nghiệm ra tình yêu Chúa hiến mình cho tôi càng sâu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, để qua đó tôi sẽ cảm thấy mình bị thúc ép, bị lôi cuốn đáp trả tình yêu này. Phải chăng đó là nội dung của Giao Ước Mới: một ký kết tình yêu giữa Thập Giá và mỗi chúng ta? Tông đồ Gio-an đã dành nhiều nỗ lực để cảm nghiệm thứ tình yêu đó trước khi viết về giới luật yêu thương. Trong lá thư 1 ngài viết. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biệu lộ như thế này… Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:9-10). Phao-lô cũng nói tới một thứ tình yêu thúc bách: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi… Vì Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5:14-15).
Vậy thì, ‘Yêu Chúa hết lòng’ phải xuất phát từ chiêm ngắm và cảm nghiệm Thập Giá! Mỗi khi cử hành Thánh Lễ, tôi có thật sự thâm tín rằng: đây là giờ phút tối ưu để tôi xây dựng ‘yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ không?
Lạy Chúa, Chúa không đòi hỏi con làm điều không thể. Khi ban điều răn ‘phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn’ thì, chính Chúa đã hết lòng hết sức yêu thương con trước; xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, là bằng chứng tình yêu thương xót và nhân ái, tình yêu ‘hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực’ Chúa đã dành cho con trước. Qua con đường chiêm ngắm này, con hy vọng sẽ ngày càng có thể tiến xa hơn trên con đường yêu mến Chúa. Amen.
14. Yêu Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
Mười điều răn của Chúa được tóm lại trong hai điều: mến Chúa và yêu người. Cũng còn có thể nói mười điều răn của Chúa được tóm lại trong một chữ yêu mà thôi.
Yêu Chúa
Môsê đã truyền cho dân chúng giới luật của Chúa, và nếu dân chúng vâng theo thì sẽ được sống lâu trong đất nước Thiên Chúa đã hứa với cha ông họ. Giới luật của Chúa rất đơn sơ: “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực ngươi” (Dnl.6, 5).
Yêu nhau là muốn gần nhau, dành thời gian cho nhau, chọn nhau là nhất trên những người khác, tin tưởng và sẵn sàng cho người kia tất cả. Cũng tương tự vậy nếu con người yêu Chúa,
tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, tin rằng Ngài muốn điều tốt cho mình;
sẵn sàng dành thời gian cho Chúa, cụ thể dành thời gian cầu nguyện;
chọn Thiên Chúa trên những thực tại khác, trên những tà thần như tiền bạc danh vọng chức quyền. Chẳng hạn trọng lịch sử, người Do Thái từ bỏ tà thần để chỉ được thờ một Thiên Chúa mà thôi.
Tình yêu không chỉ bằng lời nói nhưng chính yếu bằng hành động. Yêu thương, là phải chọn. Chọn ai, là yêu thương người đó. Tình yêu được diễn tả qua những gì rất là cụ thể. Yêu Thiên Chúa, là chọn Thiên Chúa trên tất cả.
Yêu người
Cựu ước trong sách Đệ Nhị Luật đòi người ta phải yêu Chúa trên hết mọi sự: hết linh hồn hết trí khôn và hết sức lực. Tin Mừng theo thánh Marcô cho thấy Đức Yêsu đã đặt giới răn “yêu người” ngay sau giới răn “mến Chúa”.
“Phải yêu thương người chung quanh như chính mình”, đó là giới răn thời Cựu Ước. Trước khi dâng hiến đời mình cho con người, Đức Yêsu đã truyền cho các môn đồ: “hãy yêu thương nhau như chính thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34). Tiêu chuẩn yêu thương, không còn là “như chính mình” nữa, nhưng là “như Đức Yêsu yêu”. Yêu thương, là hy sinh cho người mình yêu, sẵn sàng chịu thiệt thòi vì lợi ích của người mình yêu. Đức Yêsu đã làm tất cả, để con người được sống và được sống hạnh phúc; cũng tương tự vậy những ai yêu thương theo gương Đức Yêsu.
Thư của thánh Gioan còn liên kết hai giới răn “mến Chúa” và “yêu người” với nhau đến độ không thể tách rời hai giới răn này: “ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là người nói dối” (1Ga.4, 20). “Ai sống yêu thương, thì biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8). Chính thái độ sống yêu thương con người, là dấu chỉ và thước đo cho thấy người đó có yêu mến Thiên Chúa thật hay không.
Yêu thương anh em, là phải giúp đỡ anh em mình một cách cụ thể: “nếu có người anh em thiếu thốn không có áo che thân và không đủ ăn hằng ngày, mà có người trong anh em nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì?” (Gc.2, 15-16).
Yêu người, là muốn điều tốt cho người mình yêu, giúp đỡ cụ thể từ vật chất đến tinh thần, và sẵn sàng chia sẻ cho họ những gì mình có, ngay cả hy sinh chính thân mình.
Yêu thương làm con người sống hạnh phúc
Thù ghét oán hờn, hủy diệt con người. Ai sống trong thù hận, nét cau có hằn trên nét mặt, trở nên già và xấu. Nét “không đẹp” trong tâm hồn sẽ biểu lộ ra trên thân xác, trên gương mặt. Sống yêu thương, nụ cười luôn nở trên môi, làm cho đời đẹp hơn tươi hơn và đáng sống hơn.
Người ta luôn thích người đẹp, luôn muốn ngắm nhìn và sống với người đẹp. Nếu ai mà người khác không muốn sống với, sợ hãi, e rằng người đó không đẹp dù nhan sắc có “nghiêng nước nghiêng thành” hay “chim sa cá lặn”. “Cái nết đánh chết cái đẹp”, nét đẹp tinh thần vượt xa nét đẹp thể lý. Nét đẹp thể lý có thể lôi kéo con người tức thời nhưng không giữ con người lại với mình lâu được; nét đẹp tinh thần sẽ làm những ai sống với mình được bình an và hạnh phúc.
Xin cho mỗi người chúng ta yêu Chúa yêu người, để chúng ta mang bình an và hạnh phúc cho mọi người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Sống trong thù ghét, người ta được gì và mất gì?
2. Yêu thương, người ta được gì và mất gì?
3. Thế nào là yêu thương? (Khía cạnh tiêu cực, khía cạnh tích cực)
4. Người ta có muốn sống gần bạn không? Đâu là ngăn cản lớn nhất làm bạn khó sống yêu thương?
15. Hôm nay Thiên Chúa cần người mẫu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
Tin mừng theo thánh Mác-cô cho thấy Đức Giêsu trích lời Kinh Thánh trong sách Đệ Nhị Luật: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn hết sức lực, và yêu anh em như chính mình”. Đây thực sự là giới răn đem lại hạnh phúc cho con người.
1. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng
Từ thời Môsê, khoảng thế kỷ 13 trước Công Nguyên, dân Do Thái đã nhận lãnh giới luật yêu mến Thiên Chúa: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Anh em hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực anh em”. Đến thời Đức Giêsu, khi một ký lục hỏi Đức Giêsu: “Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?” Đức Giêsu đã trả lời bằng cách lập lại giới răn Môsê đã truyền cho dân Do Thái ngày xưa: “Đây là giới răn thứ nhất: hãy yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi. Giới răn thứ hai: hãy yêu tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn những điều này”.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực- nghĩa là- đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, chọn Thiên Chúa trên tất cả, lấy Thiên Chúa là đủ cho mình và không ao ước gì ngoài Thiên Chúa. Làm sao để điều này thành hiện thực khi con người chạy theo tiền tài danh vọng? Làm sao để những người cho rằng Thiên Chúa là một từ ngữ có một tương quan tình yêu thiết thân với Ngài? Con người được mời gọi nhận biết và cảm nghiệm Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người. Điều này, không phải con người làm nhưng chính Thiên Chúa làm cho con người; Thiên Chúa đang dùng con người để giúp Ngài làm cho con người nhận ra tình yêu của Ngài đối với họ.
Đức Giêsu được sai đến để thực hiện điều này: làm sao để con người yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực. Đức Giêsu đã làm mọi cách: đã nói cho con người biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương con người đến độ nào, và Ngài chờ mong con người trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng luôn săn sóc con người; Ngài sẵn sàng ban tất cả cho con người, ngay cả chính Con Ngài. Lời của Thiên Chúa mang trọn vẹn ý nghĩa khi con người, cụ thể nơi các tông đồ, nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể làm người. Chỉ với biến cố phục sinh, con người mới nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, và rồi, con người mới biết Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào.
2. Con người tự do chọn lựa
Con người là hữu thể tự do. Con người được tạo dựng để thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt để nơi con người một ước vọng hướng về Ngài như nguồn chân thiện mỹ. Con người luôn được mời gọi để hướng về Ngài, chọn Ngài qua những thực tại trần gian. Chọn điều tốt, chọn điều thiện hảo, chọn yêu thương tha nhân, là chọn chính Thiên Chúa. Chọn điều tốt lành thiện hảo, chọn Thiên Chúa, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc.
Làm sao con người có thể chọn điều thiện hảo tốt lành, khi mà thân xác con người cảm thấy cần tiện nghi vật chất, cần tiền bạc để thỏa mãn những nhu cầu vật chất? Thánh I-nhã Loyola cho rằng khi người ta có cái nhìn đúng đắn về Thiên Chúa và tạo vật, khi người ta bình tâm trước tạo vật và chỉ đi tìm Thiên Chúa và ý định của Ngài, thì con người được hạnh phúc đích thực. Đức Yêsu nói với các tông đồ: “giầu có khó vào được Nước Trời; lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. Nhưng làm sao để người ta nhận ra rằng điều đó là đúng, và làm sao để người ta chọn điều người ta thấy là đúng?
Tình yêu giúp người ta nhận ra sự thật. Tình yêu sẽ đưa người ta vào chính đạo. Tình yêu sẽ giúp người ta trở về với Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa tác động trên con người, trên những trung gian con người mà Ngài dùng, đồng thời trên mỗi người để khao khát tiềm ẩn nơi họ được bừng sáng, để họ nhận ra con đường đích thực giúp họ bình an hạnh phúc. Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến con người, sẽ làm con người được bình an hạnh phúc. Những người sống trong tình yêu sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ anh em mình.
3. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn
Con người được gì khi yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực mình? Thiên Chúa là chân thiện mỹ; nếu một người chọn Thiên Chúa, chọn chân thiện mỹ, là chọn anh em mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa, thì sẽ tôn trọng quyền lợi của tha nhân. Người chọn Thiên Chúa và tha nhân sẽ sống an bình và hạnh phúc với tha nhân. Một người chọn tiền bạc danh vọng, sẽ dùng tha nhân và ngay chính anh em như phương tiện để đạt được mục đích của mình; như vậy họ gây khổ não cho tha nhân và ngay cả anh em họ. Nếu một người chỉ chọn họ và không để ý tới quyền lợi của tha nhân, người đó không thể sống hạnh phúc với người khác.
Yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực, là đặt thực tại trần gian vào đúng chỗ của nó. Với những người này, Thiên Chúa và ý định yêu thương của Ngài đối với con người phải là trên hết, tha nhân phải được tôn trọng; và khi sống như vậy, chính người “yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn và yêu anh em như chính mình” sẽ là người sống hạnh phúc, sống an bình và thuận hòa với chính mình và với người khác xung quanh họ.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu mến tha nhân như chính mình, không chỉ là lề luật phải giữ mà còn là khuôn vàng thước ngọc, giúp người ta sống an bình hạnh phúc. Với những người chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, thì phải diễn đạt điều lề luật Do Thái nói trên bằng “mỗi người phải chọn chân thiện mỹ trên tất cả, tôn trọng và yêu mến tha nhân như chính mình”. Để đạt được điều trên, mỗi người cần ơn trên soi sáng và giúp đỡ; và trong mức độ con người, Thiên Chúa vẫn cần những con người cộng tác với Ngài để giúp con người hôm nay ý thức và sống lề luật này. Thiên Chúa cần những người mẫu cho con người hôm nay.
16. Đạo Yêu Thương
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Nhớ lại, chiều ngày 23-11-2009, Tại Sở Kiện, trong dịp khai mạc Năm Thánh kỷ niệm 350 năm Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tôi đặc biệt tâm đắc lời phát biểu bằng cung giọng miền Nam rất đơn sơ chân chất của Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn, chủ tịch Ủy Ban Năm Thánh Toàn Quốc: “Người Công giáo Việt Nam hãy viết lại định nghĩa Đạo Công Giáo vào trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình và cộng đoàn nơi chúng ta sống. Ước mong sử sách sẽ ghi nhận lại định nghĩa này vào trong văn hóa và tiềm thức của mỗi người: Đạo Công giáo – Đạo Yêu Thương, người Công giáo là người luôn ý thức rằng Chúa yêu thương mình và do đó ý thức được bổn phận phải yêu thương tất cả mọi người”.
Có thể có nhiều triết gia, nhà thần học, nhà ngôn ngữ học, hoặc những người thông thái cho rằng câu nói tầm thường ấy có gì mà đáng tâm đắc. Nhưng với tôi, tâm đắc chính chỗ tầm thường ấy, giản dị ấy mà chất chứa cả một mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Có người cho rằng việc yêu thương nhau là chuyện hẳn nhiên như “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng” hoặc “thương người như thể thương thân”, “máu chảy ruột mềm” … theo cách văn hóa của người Việt vốn có từ ngàn xưa trong cái xã hội đình làng, lũy tre, bờ xe, bến nước…
Nét đẹp văn hóa ấy ở đâu ra? Tự nhiên mà có hay là có cùng thời với Tiếng Việt, cùng thời với việc loan báoTin Mừng cho người Việt bằng Tiếng Việt? Thiết nghĩ, câu trả lời dành cho các nhà sử học.
Phần chúng ta, có thể hiểu rằng, Tin Mừng đến quê hương này là đã có ngay luật điều căn bản cho người công giáo:
“Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Những người công giáo đầu tiên trên đất nước nầy đã sống và giữ luật điều quan trọng ấy đến nỗi người lương có thể nhận thấy và chúc tụng: Đạo Công Giáo chính là Đạo Yêu Thương.
Bởi cách thể hiện tình yêu thương của người công giáo không giống như của người chưa thấm nhập Tin Mừng. Người công giáo yêu thương người vì kính mến Chúa. Người chưa phải công giáo thì yêu thương người để được người khác yêu thương lại, để tạo một tương quan thuận lợi trong cuộc sống. Vì kính mến Chúa, vì lề luật tích cực của Chúa trở thành một bổn phận của lẽ công bằng: yêu người vì Chúa đã yêu ta, yêu người như Chúa đã yêu ta, cho nên, người công giáo yêu thương cả người thân, kẻ sơ, cả người giàu có lẫn kẻ nghèo khó, cả người thương lẫn kẻ ghét, cả người tôn trọng tự do tín ngưỡng lẫn người bức bách cấm cách, bắt bỏ tù, tra tấn, ngục hình chém giết dã man…Nếu không phải yêu người như Chúa dạy, hẳn là người Công Giáo đã nổi loạn lên rồi, thay vì âm thầm chấp nhận làm chứng cho Đức Tin vào sự sống lại và cầu nguyện cho người dám đưa chân đạp mũi nhọn biết đàng ăn ăn trở lại.
Nhìn lại Đạo Yêu Thương của những người Công Giáo Việt Nam đi trước chúng ta, là cha ông chúng ta, hẳn mỗi chúng ta phải đặt lại cách sống đúng với Tin Mừng như Chúa muốn, như cha ông ta đã nêu.
Đạo Yêu Thương bắt đầu nơi các gia đình: vì yêu Chúa, kính sợ lề luật của Thiên Chúa, cha mẹ sốt sắng thờ phượng Chúa qua các giờ kinh chung tối sáng, giờ cầu nguyện chung trong gia đình, nhắc nhớ nhau đời sống bí tích, đời sống giáo hội. Nhờ đó, kín múc ân sủng của Thiên Chúa mà trung thành với nhau trong tình yêu hôn nhân để làm gương sáng cho con bằng một tình yêu tận hiến. Gương sáng Đạo Yêu Thương của gia đình này sẽ là ngọn đèn soi cho gia đình kia, tạo nên một xóm làng sống Đạo Yêu Thương, không kể là lương hay giáo.
Đạo Yêu Thương từ gia đình đến Giáo Xứ. Uy tín của Chúa Giê-su mỗi ngày mỗi lớn lao, được mọi người tôn kính khi họ nhìn thấy cộng đoàn giáo xứ sống chan hòa yêu thương từ mục tử đến đoàn chiên, từ những người giúp việc giáo xứ đến những người nghèo khổ nhất. Không có gì đau khổ cho Chúa Giê-su bằng việc chính những người có Đạo Yêu Thương lại không yêu thương nhau, không đoàn kết với nhau, lại còn hơn thua nhau, ganh tị với nhau, tố cáo lẫn nhau, và tồi tệ hơn nữa là tranh giành nhau có chức có quyền hơn là tranh giành nhau mà phục vụ mọi người.
Đạo Yêu Thương của Cộng Đoàn Giáo Hội Địa Phương, cấp Giáo Phận, hẳn là bằng chứng hùng hồn nhất của Giáo Hội Chúa Ki-tô Toàn Cầu. Nếu các Giáo Xứ chân thành nêu gương đời sống yêu thương, hẳn là Giáo Hội Địa Phương của Chúa Giê-su đang có một sức mạnh thẩm thấu thế giới này, cho dẫu là thế giới của những kẻ không muốn tin vào Thiên Chúa. Sự Hiệp Nhất, Nên Một trong Chúa Ki-tô nguồn mạch Tình Yêu, nguồn mạch Sự Sống, không cho phép các Ki-tô Hữu, các cộng đoàn Giáo Xứ tách lìa nhau cách tự trị, nhưng ngược lại, luôn tương trợ nhau trong đời sống Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Dường như Ông Môi-sê cũng đang nói với các gia đình, các giáo xứ, các giáo phận, với tất cả chúng ta “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài”. (x.Đnl 6, 2-6)
Và Chúa Giê-su đang nhắc lại:
“Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”. (Mc 12, 29-31)
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết sống Đạo Yêu Thương để dạy cho con cháu, hậu duệ bằng gương sống “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen”.
17. Một cuộc tranh cãi hữu nghị
(Suy niệm của Maurice Brouard)
Bối cảnh.
Sau cuộc rước vào thành Giêrusalem, thánh Maccô kể lại một loạt những cuộc tranh luận về uy quyền của Chúa Giêsu. Giữa những tranh luận này có một cuộc đối thoại xây dựng về giới răn thứ nhất.
Mở đầu.
Vài năm trước đây, trên truyền hình người ta đã nghe một cuộc đối thoại hữu ích giữa một nhà tư tưởng Mácxít xuất sắc và một đại thần học gia Công giáo. Các khán giả rất thích thú về cuộc thảo luận có tính soi sáng và trấn an này. Cuộc tranh luận của ký lục với Thầy Giêsu đối với chúng ta cũng như thế: Hai bậc Thầy tôn trọng nhau, ngợi khen nhau. Hôm nay chúng ta dừng lại trước hết ở câu trả lời của Chúa Giêsu.
1. Một cuộc tranh luận luôn luôn có tính thời sự.
Các nhà thần học thời đó thích bàn cãi để tìm ra trong số 613 điều răn trích từ Thánh Kinh, lối 248 giới luật tích cực và 365 giới luật tiêu cực, đâu là những giới luật quan trọng nhất hồi đó. Ngày nay chúng ta cũng cảm thấy cần những quy chiếu giúp hướng chúng ta về điều chính yếu. Vậy điều gì quan trọng nhất?
2. Mến Chúa vì Ngài là Chúa “duy nhất”.
Trả lời câu hỏi của người ký lục: Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Đây là ý chính trong kinh Tin Kính của người Do Thái. Thiên Chúa đã chọn họ. Thiên Chúa đã ban cho họ một mảnh đất, đã mạc khải cho họ thánh danh của Ngài, đã ban cho họ lời hứa của Ngài. Nếu Thiên Chúa đã chiều chuộng họ đến thế, thì đáp lại Ngài rất xứng đáng được họ kính yêu. Như một người chồng là “duy nhất”, bởi vì không có người nào đẹp hơn, duyên dáng hơn, thông minh hơn… Thiên Chúa vẫn là “duy nhất” đối với dân Ngài.
Đối với chúng ta, những Kitô hữu, lý do khiến chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Chúa duy nhất, không những vì chỉ có mình Ngài mà thôi, nhưng bởi vì Ngài là Đấng duy nhất thương yêu chúng ta bằng một lòng trìu mến vô biên.
3. Thương yêu đồng loại như chính mình.
Phần thứ nhì trong câu trả lời của Chúa Giêsu đã khá quen thuộc với chúng ta: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”. Ta biết rằng Chúa Giêsu còn đi xa hơn giới luật của Cựu Ước nữa: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Câu hỏi.
Đối với tôi Thiên Chúa có phải là Đấng duy nhất, có thể huy động tất cả những khả năng yêu thương, thông cảm, sống và hành động của tôi không? Trung tâm đời tôi là gì: Tôi, hay Thiên Chúa và tha nhân?
Lời Chúa và Thánh Thể.
Nếu tình yêu là động lực của đời chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi tham dự hy lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu mà hiến dâng cuộc sống cho Thiên Chúa và loài người. Lúc đó Thánh lễ sẽ trở thành đỉnh cao của cuộc đời chúng ta.
18. Chúa Nhật 31 Thường Niên
“TÔI KHÔNG BIẾT ĐIỀU TÔI KHÔNG THỂ”
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Khi tổng thống Harding chết vào mùa hè 1923, phó tổng thống Calvin Coolidge, đang giúp cho cha ông ở nông trại tại Verment, cha của ông là một công chứng ở tòa án. Lúc vẫn còn ở nông trại ông đã chứng nhận lời tuyên thệ nhậm chức tổng thống cho con ông. Một người nào đó sau đó đã hỏi ông: “Ông có biết là ông đã chứng nhận lời thề tổng thống cho con ông không?”. Ông trả lời: “Tôi không biết điều tôi không thể”.
Một câu trả lời ngắn gọn đầy ấn tượng của Coolidges, đã diễn tả cảm tính của nhiều người mà chúng ta chia sẻ. Chúng ta muốn sự tự do. Chúng ta muốn tin rằng bất cứ những gì không bị cấm thì được phép. Có lẽ với sự ngạc nhiên của chúng ta là Chúa Giêsu cũng cảm thấy như thế, Người yêu thích sự tự do.
Câu hỏi và luật sĩ đã đặt cho Chúa Giêsu thì không phải là vô bổ: “Điều gì là quan trọng nhất trong các Lề Luật”. Dĩ nhiên ông ta đã suy nghĩ về những điều luật được tìm thấy trong Cựu Ước. Theo những thầy Rabbi giải thích luật đã quyết định rằng nó có 613 khoản luật, 248 khoản tích cực và 165 khoản tiêu cực. Vị luật sĩ đã chân thành khi ông hỏi: “Điều nào là điều quan trọng nhất”. Bởi điều mà ông ta muốn nói, điều luật nào là điều luật lớn nhất? Chúa Giêsu đã trả lời không do dự, Ngài lập tức trích dẫn sách Đệ nhị luật, bài đọc I mà chúng ta đọc trong ngày chúa nhật hôm nay: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Chúng ta có thể cũng hỏi Chúa Giêsu: “Có một điều luật lớn nhất hay là hai?” Chúa Giêsu trả lời: “Chỉ có một điều luật duy nhất, bởi vì các con không thể yêu Thiên Chúa thật nếu các con không yêu mến anh em và các con không thể yêu mến anh em nếu các con không yêu mến Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã vươn ra khỏi sách Đệ nhị luật để đến với sách Lêvi và nối kết hai điều luật riêng biệt thành một.
Một số người Công giáo đã phàn nàn về những cáo thị của Công Đồng Vatican II nói về tình yêu tương quan. Họ muốn chúng ta đi trở lại với cung cách cũ, nhấn mạnh đến những điều luật và những quy tắc. Họ có một quan điểm. Chúng ta không hề coi nhẹ những Lề Luật trong Thánh Kinh và những quy tắc khác của Giáo Hội. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu không hề giảm nhẹ hay coi thường những Lề Luật của Cựu Ước. Ngài không hề nói chúng vô ích. Nhưng Người đã tiếp tục duy trì và tóm kết tất cả trong một Lề Luật của tình yêu. Thông thường dễ dàng hơn khi theo một Lề Luật, đó là yêu mến Thiên Chúa cách hoàn toàn và yêu mến tha nhân như chính mình. Tình yêu giải thoát chúng ta khỏi tính tự mãn, điều đó là nền tảng của mọi tội lỗi. Sự tự do thất không cho chúng ta làm những gì chúng ta muốn. Đó là sự tự do làm những gì mà chúng ta phải làm để yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân.
Theo truyền thuyết khi thánh Gioan đã già, ngài luôn luôn nhắc đi nhắc lại trong bài giảng của mình: “Hãy yêu mến Thiên Chúa, hãy yêu mến anh em của mình”. Khi một số môn đồ của ngài cảm thấy bực bội bởi ngài cứ nhắc đi nhắc lại điều duy nhất, đã hỏi ngài tại sao nhấn mạnh cùng một sứ điệp tình yêu như thế. Ngài trả lời: “Bởi vì nếu chúng ta tuân giữ nó thì điều đó đã đủ rồi”.
19. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Từ hồi học giáo lý Rước Lễ Vỡ Lòng, chúng ta đã thuộc lòng câu “10 điều răn ấy tóm về hai điều này mà thôi, trước kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy, Amen”. Tuy nhiên chúng ta đã không thực hiện đúng như điều ta đã thuộc: một mặt, chúng ta không ý thức rằng yêu thương là điều quan trọng nhất trong cuộc sống; mặt khác, chúng ta cố gắng mến Chúa nhưng chưa cố gắng yêu người cho đủ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta thực hành hai điều răn quan trọng ấy một cách trọn vẹn hơn.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con chưa thực sự kính mến Chúa trên hết mọi sự.
– Chúng con lỗi phạm rất nhiều về điều răn yêu thương anh em.
– Rất nhiều lần chúng con hành động vì bị thúc đẩy bởi lòng giận ghét.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Đnl 6,2-6)
Ông Môsê nhấn mạnh cho dân do thái thấy tầm quan trọng của điều răn kính mến Chúa bằng những chữ “hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần: “Hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em”.
Trải qua bao thế hệ, người do thái đã cố gắng tuân giữ điều răn ấy. Tuy nhiên giáo huấn của Cựu Ước còn thiếu sót vì chỉ nhấn mạnh đến việc kính mến Chúa mà không quan tâm đủ đến việc yêu thương tha nhân.
Điều thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc.
2. Đáp ca (Tv 130)
Thánh vịnh này là bài ca bày tỏ một tấm lòng yêu mến Chúa thiết tha.
3. Tin Mừng (Mc 12,28b-34)
a. Các luật sĩ tấn công Đức Giêsu: “Trong các giới răn, giới răn nào trọng nhất?”. Đối với họ, đây là một câu hỏi hóc búa, vì Cựu Ước ghi lại rất nhiều giới luật nhưng không cho biết giới luật nào trọng hơn giới luật nào. Nguyên việc thuộc hết các giới luật đã là một chuyện rất khó, huống chi đánh giá và so sánh các luật đó.
b. Nhưng Đức Giêsu trả lời rất gọn gàng và rõ ràng: 2 giới luật trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình.
4. Bài đọc II (Dt 7,23-28) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư do thái so sánh chức Thượng tế trong đạo do thái với chức Thượng tế của Đức Giêsu: (1) Chức thượng tế do thái chỉ có một đời người, khi chết rồi thì mất; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu là chức Thượng tế đời đời, tồn tại mãi mãi; (2) Các thượng tế do thái cũng là người phàm với những tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội; (3) Các thượng tế do thái phải dâng lễ đền tội nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Giới luật yêu thương, điểm độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của Đạo Công Giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “là Yêu Thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên. Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra 2 kết luận hết sức bất ngờ: 1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn không có đạo; 2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao? Chúng ta phải tìm hiểu kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay mới được.
1. Đoạn Tin Mừng mà chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay là do thánh Marcô chép. Marcô thì quen chép ngắn gọn, nên đôi khi không đủ ý. Muốn đầy đủ hơn, chúng ta phải đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Mathêu, cũng chép về câu chuyện này, nhưng đầy đủ hơn. Theo bản chép của thánh Matthêu, để trả lời cho câu hỏi của một người luật sĩ xem điều luật nào trọng nhất, thì CG sau khi đưa ra luật mến Chúa, đã nói “Còn điều thứ hai cũng giống như điều trước” và CG đưa ra luật yêu người. Nghĩa là Đức Giêsu đã xếp luật Yêu thương người nặng với luật mến Chúa. Nói cách khác, CG đã nâng luật yêu người lên cao bằng luật mến Chúa.
Phía trên đã nói rằng mọi người, không phân biệt là có đạo hay không có đạo, đều trân trọng tình cảm yêu thương. Tuy nhiên tình thương của người ta có nhiều cấp bực khác nhau: thương một người bạn thì không bằng thương anh em ruột, thương anh em cũng không bằng thương cha mẹ, và thương ai cũng không thể nào bằng thương người tình của mình. Đối với một người có đạo, thì họ nghĩ phải thương yêu Chúa trên hết, kế đó mới là tình thương đối với những người khác. Còn CG thì dạy phải đặt tình thương người và tình thương Chúa ngang nhau. Nghĩa là ta thương Chúa bao nhiêu thì cũng phải thương người bấy nhiêu. Nói cách khác, ta phải coi người ta như Chúa vậy, và phải thương người ta như thương Chúa vậy. Đó chính là điểm độc đáo thứ nhất của Tình Thương Công Giáo.
2/ Nhưng thương người là thương ai? Về điểm này, chúng ta lại đọc thêm đoạn Tin Mừng của Thánh Luca để bổ túc cho đoạn của thánh Marcô quá ngắn gọn. Thánh Luca chép thêm rằng người luật sĩ ấy sau khi nghe CG nói về luật thương người, thì hỏi một câu tương tự như câu hỏi tôi vừa đặt ra: Nhưng thương người là thương ai? CG đưa ra dụ ngôn về người xứ Samaria tốt bụng đã tốn công tốn tiến cứu giúp một người Do thái, tức là một kẻ thù của dân Samaria. Ý nghĩa dụ ngôn ấy là: ta phải coi mọi người là người thân, do đó phải biết thương tất cả mọi người, cho dù đó là một người chưa hề quen biết, cho dù đó là một kẻ thù của chúng ta.
Thiết tưởng cũng cần giải thích về bối cảnh của đoạn Tin Mừng này. Người Do thái cũng có luật thương người, luật ghi rõ phải thương người thân cận. Theo lối hiểu của người Do thái, thì người thân cận tức là người cũng dân tộc, cùng tín ngưỡng với mình. Còn những kẻ thuộc dân khác, thuộc đạo khác thì không phải là người thân cận nên không buộc phải thương. Bấy giờ CG qua dụ ngôn về người Samaria đã thương yêu giúp đỡ một người Do thái khác dân tộc và khác tín ngưỡng, đã phá bỏ hàng rào ấy. Theo CG, tình yêu thương không có biên giới. Ta phải thương yêu mọi người, phải coi mọi người đều là kẻ thân cận. Nói cách khác đi, ta không chỉ thương người đồng bào, đồng đạo, đồng chí mà phải thương bất cứ ai ta gặp trên đường đời, bất cứ ai đứng bên cạnh ta trong cuộc đời, ta đều phải thương hết. Người ta thường vẽ ranh giới cho tình thương, người ta thường đặt hàng rào cho tình thương: ai ở trong ranh giới và trong hàng rào đó thì thương hết là thương, còn ai ở ngoài thì là người dưng, người lạ khỏi thèm thương. Đức Giêsu khi phá bỏ mọi hàng rào, mọi biên giới, tức là thêm một điểm độc đáo nữa cho Tình Yêu thương Công giáo.
3/ Và điểm độc đáo thứ ba, chúng ta thấy ngay trong đoạn văn của Thánh Marcô. “Yêu thương người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”. Chúng ta hãy chú ý đến hai chữ Hơn Là. Cho người nghèo một lon gạo, và dâng cho Chúa một bó bông huệ. Việc nào quý hơn. Nếu chưa đọc câu Tin Mừng này, chắc hẳn ai cũng bảo dâng bông huệ cho Chúa là quý hơn. Nhưng câu Tin Mừng này đánh giá ngược lại: cho người nghèo một lon gạo quý hơn. Đó là điểm độc đáo thứ 3 của Tình thương Công giáo.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người Giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng Tình yêu Thương của Đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả của người không có đạo. Lý do có lẽ là vì Giáo lý viên ấy không thấy 3 điểm độc đáo của Tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện 3 điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện 3 điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo. Xin nói rõ hơn để tóm lại và cũng là để kết thúc:
. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quý hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến Nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
* 2. Hai giới răn đi đôi
Các tín đồ Hồi giáo rất coi trọng luật buộc hành hương thánh địa Mecca vì đây là nơi sinh của đức giáo chủ Mahomet.
Ngày xưa Vua các loài mèo cũng đi hành hương thánh địa Mecca. Khi ngài trở về, vị vua các loài chuột nghĩ rằng mình có bổn phận phải đến chúc mừng. Tuy nhiên các bề tôi chuột ái ngại cho tính mạng của vua mình. Họ tâu: “Mèo là kẻ thù của chúng ta. Không thể tin cậy được”. Nhưng vua chuột đáp: “Ông ta đã đi hành hương thánh địa, cho nên chắc là tâm tính của ông đã thay đổi”.
Thế là vua chuột tìm đến hoàng cung của vua mèo. Mới tới cửa thì vua chuột đã thấy vua mèo đang nằm mọp cầu kinh rất là sốt sắng. Vua mèo thấy an tâm, tiến vào gần hơn chút nữa. Đột nhiên vua mèo chồm lên định vồ lấy vua chuột. Rất may là nhờ nhanh hơn nên vua chuột kịp phóng ra ngoài thoát thân.
Khi vua chuột trở về nhà, các bề tôi hỏi: “Phải chăng là sau khi hành hương thánh địa trở về, vua mèo đã thay tâm đổi tính?” Nhưng vua chuột đáp: “Các ngươi đã đoán đúng, còn ta thì sai”.
Câu chuyện tưởng tượng trên muốn giúp ta thấy rằng thật là nguy hiểm nếu tách riêng hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn của mọi tình yêu. Vì thế nếu yêu Chúa thật thì cũng phải yêu người. Một tôn giáo chỉ lo yêu Chúa mà không biết yêu người là một tôn giáo không hợp ý Chúa và không phải là tôn giáo thật.
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba. (Viết theo Flor McCarthy)
* 3. Mến Chúa yêu người (Mc 12,28B-34)
Trong báo Los Angeles ngày 13-13-1997 có đăng lá thư của một độc giả ở Sun City, California gởi cho nữ ký giả Ann Landers – người phụ trách mục “Giải đáp thắc mắc” như sau:
Bà Ann thân mến
…Ba tôi đi làm sáu ngày một tuần, còn mẹ tôi lúc nào cũng bận rộn với việc lau chùi nhà cửa, giặt giũ, nấu ăn. Cả hai người đều lớn lên trong những gia đình không bộc lộ tình cảm. Ông bà tôi không bao giờ bộc lộ tình cảm dành cho cha mẹ tôi và chẳng bao giờ nói với họ rằng họ được yêu thương. Vì vậy, cũng dễ hiểu là tại sao ba mẹ tôi đã không bộc lộ tình cảm hay nói những lời thương mến với chúng tôi.
Cuộc đời tôi đã thay đổi khi tôi lên chín tuổi. Hôm ấy có dịp ở lại qua đêm ở nhà một cô bạn. Mẹ cô hôn cả hai chúng tôi khi cho chúng tôi lên giường ngủ. Cử chỉ ấy đã biến đổi đời tôi. Tôi quá cảm động vì hành vi yêu thương ấy, đến nỗi tôi không thể ngủ được. Tôi nghĩ: “Đây mới thực là cách lẽ ra ba mẹ phải làm cho mình”. Khi về nhà, tôi đã giận ba mẹ một thời gian. Nhưng vì không thể giận ba mẹ hoài vì tính tình sẵn có của họ.
Đây là điều tôi đã làm để thay đổi tình hình: Tôi bắt đầu hôn mẹ tôi thường xuyên đến nỗi mẹ tôi phải bật cười. Tôi đã kết hôn khi lên 17 tuổi và đã có hai con khi chưa đầy 20. Tôi thường hôn chúng đến khi má chúng ửng hồng. Khi nói chuyện với mẹ tôi trên điện thoại, tôi nói: “Mẹ ơi! Con thương Mẹ!” Sau một thời gian, cuối cùng mẹ tôi cũng đã nói được với tôi: “Mẹ cũng rất thương con”. Tôi chưa được nghe như thế bao giờ. Sau lần ấy vài tuần khi tôi đến thăm mẹ, bà hỏi tôi: “Những cái hôn của mẹ đâu?” Khi tôi sắp về mẹ tôi bảo: “Mẹ thương con. Con biết mà phải không?”
****
Đạo Do thái dựa trên 10 điều răn. Nhưng qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên hôm nay một luật sĩ đã đến hỏi Đức Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?” Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc.12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật đoạn 6, câu 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật đoạn 19, câu 18. Vậy Đức Giêsu đã nâng luật mến Chúa ngang với luật yêu người. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Nó như hai mặt của một đồng tiền, không thể tách rời nhau được. Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga.4,20).
Vậy bắt đầu yêu thương từ đâu? – Trước tiên, hãy yêu thương những người trong gia đình mình, những người gần gũi thân thiết nhất trong trái tim ta. Không yêu được các thành viên trong gia đình, chúng ta không thể yêu thương người khác. Không yêu thương người khác, chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa.
Người đàn bà ở Sun City bằng những lời nói yêu thương, những cử chỉ âu yếm, những đón tiếp chân thành đã mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người thân yêu trong gia đình. Từ đó, như vết dấu loang tình yêu lan tỏa ra bên ngoài. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Hãy tử tế khi còn gần nhau để sau này khỏi hối hận khi đã xa nhau”.
Cũng thế với những lời nói yêu thương, những nghĩa cử chân thành, chúng ta sẽ làm tươi mát biết bao cuộc đời. Lúc đó, chúng ta sẽ ra khỏi sự hạn hẹp của tình yêu con người, để vươn cao tới tình yêu Thiên Chúa. Bởi vì, thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa là tình yêu của chúng ta đối với nhau. Thánh Augustinô mô tả: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy nỗi bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở và nỗi buồn phiền của tha nhân”. Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Rosalie còn khẳng định: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
****
Lạy Chúa, để gặp gỡ tha nhân chúng con phải mở to đôi mắt, để đón tiếp tha nhân chúng con phải dọn dẹp cho trống trải lòng mình, để yêu thương anh em chúng con phải biết quên mình.
Xin cho chúng con luôn xác tín: Chúng con chỉ kính mến Chúa khi thực sự yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 4. Thứ tội phạm nhiều nhất
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm?” Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”
Một nguy hiểm lớn cho những tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần.
Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người cùng sống chung với mình v.v. Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau.
Đức Giêsu nói với người kinh sư “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Ông đã biết liên kết hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một, đó là một bước. Ông chỉ cần bước thêm bước thứ hai nữa là vào được Nước Thiên Chúa, bước đó là thực hành điều ông biết. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Các bậc thang yêu thương
Maimonides là một thầy giáo người do thái rất nổi tiếng ở Tây ban nha trong thế kỷ 20. Ông đã liệt kê 8 bậc thang yêu thương như sau:
. Bậc thứ nhất và cũng thấp nhất là cho, nhưng cho một cách miễn cưỡng.
. Bậc thứ hai là cho cách vui vẻ, nhưng không tương xứng với nhu cầu của người nhận.
. Bậc thứ ba là cho vui vẻ và tương xứng với nhu cầu người nhận, nhưng đợi người ta xin mới cho.
. Bậc thứ tư cho vui vẻ, tương xứng và không chờ người ta xin.
. Bậc thứ năm là cho một cách nào đó khiến người-nhận nhận được của cho đồng thời biết được người-cho, nhưng người-cho không biết người-nhận.
. Bậc thứ sáu là người-cho biết người-nhận nhưng người-nhận không biết người-cho.
. Bậc thứ bảy là cho, nhưng cả người-cho và người-nhận đều không biết nhau.
. Bậc thứ tám cao nhất, là thấy trước nhu cầu người-nhận nên cho để người-nhận khỏi rơi vào cảnh nghèo khổ.
* 6. Chuyện minh họa
Một người nghèo kia đi từ nhà này sang nhà khác để ăn xin. Nhưng chẳng ai cho ông một đồng hay một mụn bánh, trái lại ông còn nhận được rất nhiều lời xua đuổi, thậm chí chửi rửa.
Một ngày mùa đông, ông bị trượt té gãy chân. Có người đi ngang thấy thế đưa ông vào bệnh viện. Khi dân chúng hay tin có người nghèo bị té gãy chân và đang phải nằm bệnh viện, họ kéo đến rất đông, họ an ủi ông, họ đem thức ăn đến cho ông. Khi ông rời bệnh viện, họ còn cho ông những quấn áo ấm và cả một số tiền nữa.
Trở về nhà, người ấy nói với vợ: “Ngợi khen Chúa vì đã làm một phép lạ là cho tôi được gãy chân!”
Sớm giúp cho người ta khỏi té còn tốt hơn là khi người ta té rồi mới giúp.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã dạy rằng: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình; không có giới răn nào khác quan trọng hơn hai giới răn này. Chúa cùng cầu xin Chúa giúp chúng ta hiểu và sống đúng lời dạy của Chúa:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn thực thi đúng lời Chúa dạy / để chứng minh cho mọi người hiểu rằng: người công giáo mến Chúa là để yêu người / và yêu người là để chứng tỏ lòng mến Chúa.
2. Xin cho mọi nhà cầm quyền trong xã hội hiểu biết rằng / lòng mến Chúa của người Công giáo không gây thiệt hại gì cho tình yêu đồng loại / trái lại còn giúp họ yêu thương đồng bào trọn hảo hơn.
3. Xin cho mọi người đang thiếu tình thương, thiếu sức khỏe, không có công ăn việc làm / gặp được những người thật tình giúp đỡ vì lòng mến Chúa và vì lòng yêu thương họ.
4. Xin cho mọi người trong cộng đồng họ đạo chúng ta / biết bày tỏ lòng mến Chúa yêu người một cách thành thật và cụ thể / để loại trừ thói giữ đạo bề ngoài và giả hình.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con sau khi được bồi dưỡng lòng mến Chúa yêu người nhờ Thánh lễ, biết thực thi lòng mến Chúa yêu người đó với mọi người chung quanh trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô.
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha đến câu “Và tha nợ chúng con”, chúng ta hãy chú ý đến phần kế tiếp “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
VII. GIẢI TÁN
Hai điều răn quan trọng nhất và đi đôi với nhau là mến Chúa và yêu người. Trong Thánh lễ, chúng ta đã bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Trở về với môi trường sống hằng ngày, chúng ta hãy thể hiện đức yêu người.
20. Chúa Nhật 31 Thường Niên
CHÚNG TA CÓ HƯỚNG VỀ TÂM ĐIỂM KHÔNG?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Vẻ độc đáo của Kinh Thánh là do ở điều này: Kinh thánh mạc khải thánh ý Thiên Chúa muốn làm cho con người trở nên như thể một người bạn ‘đôi lứa’ trong một liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, một liên hệ yêu thương mà nhân loại thụ tạo chúng ta sự sống, Người khai triển trong con người 1 khả năng nhận biết, nghênh tiếp và đáp ứng Thiên Chúa, khả năng này thần hóa con người. Cựu Ước từng công bố nhu cầu cấp thiết phải kính mến Thiên Chúa, một nhu cầu đưa đến hệ quả: phải yêu mến tha nhân. Do đó Cựu Ước chuẩn bị cho một mạc khải viên mãn mà Tân Ước đem đến cho nhân loại. Một luật sĩ chất vấn Chúa Giêsu. Hai bên đối đáp, đi tới chỗ ông phải đọc lên giới luật thứ nhất, và Chúa nói: Ông không xa nước Thiên Chúa đâu. Câu nói ngắn đó là chìa khóa để hiểu đoạn Phúc Âm hôm nay.
Thật vậy, Chúa loan báo rằng Nước Thiên Chúa được bao thế kỷ lịch sử Israel chuẩn bị cho người ta nghênh đón nay đã tới. Nước Thiên Chúa tới như thế nào? Tới trong con người Chúa Giêsu. Nói rằng luật sĩ không xa Nước Thiên Chúa, tức là nói rằng ông không xa bao nhiêu giây phút ông sẽ tân đồng, sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Đức Kitô làm cho sự mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa được đầy đủ, và Người đến với thế gian trong tư thế đó. Con người có một nhu cầu cấp thiết cho nhân loại và nhân loại được chuẩn bị nghênh đón Đức Kitô. Nếu ta thắc mắc: ‘Làm thế nào để đem giới luật kính mến Thiên Chúa vào cuộc đời chúng ta? Trường hợp đó ta phải chia câu hỏi trên thành hai câu hỏi khác: ‘Nghênh đón Đức Kitô thế nào, và trả lời Người thế nào?’
1) Nghênh đón Đức Kitô thế nào? Nghênh đón Người bằng niềm tin vào Người, tin vào sứ điệp của Người. Niềm tin ấy không dễ gì có được, mà phải nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Tại sao khó có được niềm tin ấy? Bởi vì nếu ta nhân định về chỗ đứng nhỏ mọn của mình trong vũ trụ; nếu ta ngó vào bản ngã mình mà chỉ thấy một thứ gì mong manh, chóng qua đi, nếu ta trông thấy đại dương mênh mông khổ ải và chết chóc, tất nhiên ta khó chấp nhận rằng Thiên Chúa quan phòng và yêu thương từng cá nhân trong một đám chúng sinh. Vậy mà Đức Giêsu là Thiên Chúa, Người thương yêu chúng ta bằng một tình yêu hiện diện trong mỗi người. Người thân mật âu yếm gọi tên từng người. Chỉ có hành vi tin mới giúp ta nghênh tiếp Chúa Giêsu thân thiết ngự đến trong chúng ta.
2) Trả lời Chúa thế nào? Bằng cách chấp nhận để Chúa chiếm lấy chỗ của Người trong ý thức tôn giáo của ta: một cuộc điều tra của tổ chức SOFRES năm 1972 phát hiện rằng trong số 84 người Pháp tự nhận là công giáo, chỉ có 41 người tin rằng ngày nay Chúa Giêsu đang sống động. Người ta tự hỏi có gì trong một ý thứ Kitô hữu vắng bóng Đức Kitô sống động. Tình yêu theo Phúc Âm và thiếu nguồn mạch sống động sẽ biến thành gì? Điều cần thiết phải có, nếu thiếu sẽ mắc họa chết về phần hồn, là trong linh hồn, trong trí tuệ, trong trái tim chúng ta, chúng ta phải để Chúa Giêsu Kitô ngự ở tâm điểm. Bằng cách nào? Chúng ta chớ nên lấy làm thỏa mãn vì ta ấp ủ lý tưởng Phúc Âm, vì ta thuộc về Giáo Hội. Hễ là Kitô hữu, thì phải ý thức rằng một Đấng mời mọc chúng ta hãy liên hệ mật thiết với Người. Liên hệ đó là Thiên Chúa, Đấng vô biên, tự hiến cho con người qua Đức Kitô – và qua Đức Kitô, con người tự hiến cho Thiên Chúa.
21. Một tình yêu duy nhất.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Không dễ gì tìm được trong Tin Mừng một luật sĩ đã tìm đến Chúa Giêsu với thành tâm thiện chí như trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Luật sĩ đã tỏ ra đồng ý với Chúa Giêsu. Chính ông cũng đã lập lại: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ”.
Thưa anh chị em,
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v… Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Yêu Chúa không hệ tại tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực, nếu không phát xuất từ tâm tình thâm sâu bên trong.
Yêu người cũng không phải là “cho của dư thừa”, cũng không chỉ là “cho cái mình có”, mà là trao thân hiến mạng cho kẻ khác, là chấp nhận bị tước đoạt, là xác tín rằng nơi con người có cái gì đó của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, được Ngài cứu chuộc bằng giá máu của Chúa Giêsu, xứng đáng được phục vụ và yêu thương đến cùng.
Vì vậy, tình yêu Chúa phải là căn nguyên, là động lực, là điều kiện để yêu người, yêu tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như cội nguồn và phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích của nó. Hơn nữa, chỉ có tình yêu Chúa mới nuôi dưỡng tình yêu tha nhân bền chặt lâu dài. Ngay trong tình yêu vợ chồng, nếu không được nuôi dưỡng bằng tình yêu mến Chúa, một tình yêu quên mình, tha thứ, hy sinh, phục vụ người mình yêu, thì tình yêu vợ chồng cũng sớm phai nhạt và có nguy cơ tan rã… chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa bằng cách sống gắn bó với Ngài, chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân.
Thưa anh chị em,
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ. Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Cuối cùng, người Kitô hữu không yêu bằng lời nói, bằng môi mép, nhưng bằng hành động cụ thể. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu mà đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong người ấy được?” (Ga 3, 17// Gc 14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải mà phục vụ người khác. Như Chúa Giêsu đã thí mạng cho nhân loại, người Kitô hữu cũng phải là những người dấn thân xây dựng công lý và hoà bình, để hết thảy, dù xa hay gần, đều đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Đối với chúng ta, yêu thương anh em là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan còn nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 3,16; 4,11).
“Đây là lệnh truyền chúng ta đã lãnh nhận nơi Chúa Kitô là: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Nhìn ngắm Chúa Kitô trên thập giá và nhất là được hiệp thông với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta cầu xin được thêm lòng yêu mến Cha trên trời và yêu thương anh em đồng loại như Ngài đã yêu thương chúng ta.
22. Chúa Nhật 31 Thường Niên
SỐNG YÊU THƯƠNG GIỮA THẾ GIỚI HẬN THÙ
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hàng ngày đọc tin tức ta sẽ thấy chán ngán thế sự mà thốt lên như Nguyễn Du đã từng than rằng:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
“Vâng”, mạng xã hội chúng ta sẽ thấy gì?
Tôi đã thấy một bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi cũng thấy những nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt, những sinh viên ra trường phải trao thân mới có việc làm. Tôi còn thấy bộ trưởng gíao dục mặc nhiên cho phép sinh viên bán dân 3 lần, nếu lần thứ tư mới bị đuổi học!
Tôi còn thấy những bảo mẫu đánh trẻ không chút nương tay. Những nghịch tử bất hiếu ra tay độc ác với đấng sinh thành.
Tôi không chỉ thấy một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc, mà cả người vợ ân ái lại chặt chồng thành nhiều khúc vất vương vãi trên đường.
Tôithấyngười đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp… Còn rất nhiều tin.
Đây là những hình ảnh đáng buồn của con người Việt Nam hôm nay. Sự hoà khí, hoà hợp giữa con người với nhau đang mất dần mà thay vào đó là bạo động, là tranh chấp, thù hận… Ngày nay, người ta có thể đánh nhau, thậm chí giết người vì những nguyên nhân nhỏ nhặt. Chuyện đi đường va chạm giao thông, va chạm không xin lỗi, nhìn đểu, nói lớn tiếng, nặng lời,… đều dẫn đến ẩu đảgây thương tích cho nhau.
Không chỉ bạo lực trong sinh hoạt thường ngày mà ngay cả những nơi thánh thiêng của lễ hội Chùa chiền vẫn có những thảm án đẫm máu bởi chen lấn, giành giựt… như ở Đền Trần hay Đền Gióng ,…
Các chuyên gia tội phạm cho rằng đây là hệ lụy của sự vô cảm, thái độ sống ích kỷ, chỉ biết mình, tâm lý chụp giật, tôn thờ vật chất, sống thực dụng… dẫn đến thái độ sống thơ ơ trước nỗi đau đồng loại, vô cảm trước việc làm sai trái xảy ra hàng ngày.
Xã hội là vậy nhưng còn người Công giáo thì sao? Liệu chúng ta có thể sống làm chứng cho tình yêu như Thiên Chúa mời gọi hay không?
Trong những dịp bác ái cứu trợ tôi thấy người Công giáo ít ra không vô cảm với khổ đau của tha nhân. Ai cũng rộng lòng của ít lòng nhiều cùng chia sẻ với những người bị thiên tai. Tôi cũng thấy rất nhiều những cá nhân tự nguyện dấn thân để đem tình thương đến cho người nghèo, người tâm thần, người bất hạnh qua những chén cơm, chén cháo đầy tình nghĩa. Tôi cũng thấy nhiều giáo xứ, nhiều đoàn hội bao bọc cho một cô nhi viện hay một nhà dưỡng lão dành cho người vô gia cư.
Đây là nét đẹp của người Công giáo. Đây là điểm son mà chúng ta cần phát huy hơn nữa. Vi chưng “người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta là người ky-tô hữu phải biết sống yêu thương. Yêu thương là lẽ sống của người tín hữu. Yêu thương cũng là nét đẹp của người tín hữu. Yêu thương là trở nên giống Thầy Giê-su. Vì Thầy đã từng làm gương về một đời sống yêu thương.
Cuộc đời Chúa Giê-su luôn yêu thương. Ngài yêu thương nhân loại nên luôn xả thân cứu người. Từng hơi thở. Từng bước chân của Ngài luôn là những nhịp cầu yêu thương. Ngài đã trở nên khuôn mẫu cho mọi tình yêu, vì “không có tình yêu nào cao quý hơn, tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”.
Hôm nay Chúa bảo người biệt phái: “ông không còn xa Nước Trời bao nhiêu”. Từ ngữ không còn xa như muốn nói tình trạng của ông hiểu biết luật nhưng chưa thực sự sống yêu thương. Ông hiểu luật. Ông biết luật mến Chúa yêu người. Nhưng cái biết còn phải đi đến thực hành mới vào được Nước Trời.
Là người ky-tô hữu Chúa cũng bảo “không phải ai nói lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu”. Điều quan yếu là thực hành những điều Chúa dạy mới được ở bên Chúa trong Nước Trời.
Ước gì chúng ta hãy noi gương Thầy Giê-su để trở thành con người đẹp, con người có nhân cách, có nghĩa khí trước mặt mọi người. Xin cho chúng ta được vào Nước Trời khi sống những điều mình tin bằng việc mang ra thực hành lời Chúa dạy. Amen.
23. Lề luật bóp chết con tim
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Các biệt phái ngày xưa họ thường nhân danh lề luật để làm theo ý mình. Lề luật trở thành dụng cụ để người ta thống trị người khác. Lề luật bị lạm dụng đến nỗi không còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của con người mà nhằm bảo vệ quyền lợi cho một nhóm nhỏ lãnh đạo. Lề luật không đưa đến sự an bình, hạnh phúc cho con người nhưng trở thành một gánh nặng, một nỗi sợ hãi cho số đông thấp cổ bé miệng.
Nhân danh lề luật họ răn đe người này, khủng bố người kia. Họ nhân danh Chúa để bôi nhọ người này, rêu rao lỗi lầm người kia. Điều tệ hại nhất là họ có thể nhân danh Chúa, nhân danh lề luật để loại trừ người khác. Cụ thể là những người bị coi là ô uế đều bị loại trừ thẳng tay như: người bệnh phong cùi, người phụ nữ ngoại tình, người vi phạm luật của Chúa mà theo luật đã trở nên ô uế thì đều bị loại ra khỏi sinh hoạt cộng động.
Họ cũng có thể nhân danh Chúa để ném đá, để đóng đinh kẻ đi ngược lại với quan điểm của mình. Lề luật trở thành phương tiện để họ lợi dụng, để họ vu khống, để họ hãm hại người khác. Đã có rất nhiều cái chết oan uổng chỉ vì ý đồ cá nhân. Đã có quá nhiều cái chết cay nghiệt của những người công chính bị hàm oan.
Điều đáng buồn là những người nhân danh lề luật để hãm hại người khác nhưng họ không hề tỏ lòng hối tiếc về hành vi gian ác của mình. Lương tâm họ đã bị lề luật trói buột. Trái tim họ đã bị lề luật làm tê cứng. Lề luật đáng lý giúp cho lương tâm trong sáng và trái tim nhân bản hơn, thế nhưng, vì quá chú trọng lề luật nên họ đã đánh mất đi trái tim yêu thương của con người chỉ còn lại những mưu mô xảo trá.
Cách đây ít năm Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: “Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel”. Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Lương tâm của Gilgal Zamir đã bị lề luật làm cho trai cứng. Trái tim của anh đã bị băng giá bởi lề luật mà anh đã được giáo dục. Anh mến Chúa. Anh trung thành với lề luật nhưng anh không được giáo dục để có một trái tim yêu thương. Những người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng hành xử như vậy. Họ nhân danh lề luật. Họ nhân danh Giavê Thiên Chúa để áp đặt và thống trị người khác. Chính họ đã làm cho lề luật trở thành gánh nặng cho dân.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Con người sống với Chúa và sống với tha nhân là nhờ tình yêu và cho tình yêu. Con người được sống nhờ tình yêu của Chúa nên con người cũng phải biết sống cho tình yêu một cách trọn vẹn: yêu Chúa hết mình và yêu tha nhân như chính mình.
Người Việt Nam thường có câu “sống có lý có tình”. Nếu cuộc sống chung chỉ có lý mà không có tình thì cuộc sống chung đó là một hoả ngục. Người ta chỉ rình mò kết án lẫn nhau. Người ta chỉ dựa theo lý để hành xử sẽ dẫn đến cảnh cá lớn, nuốt cá bé. Cuộc đời sẽ trở thành bãi chiến trường mà kẻ mạnh làm chúa, kẻ yếu làm tôi. Nếu cuộc sống chung chỉ dựa theo lý sẽ dẫn đến sa mạc hoá tình người. Người ta sẽ nại vào lý do này, nại vào lý do kia để từ chối giúp đỡ anh em của mình. Sống phải có tình mới có thể “chín bỏ làm mười”. Sống phải có tình có lý người ta mới quan tâm giúp đỡ nhau, người ta mới sống chân thành và cởi mở, chia sẻ với nhau đến độ “một con người đau cả tàu bỏ cỏ”.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi của cuộc sống đó là: con người có hồn có xác. Con người cần phải có tương quan và bổn phận với Chúa và tha nhân. Mến Chúa phải yêu tha nhân. Mến Chúa mà không yêu tha nhân điều đó hợp lý nhưng không hợp tình. Hợp lý vì con người là thụ tạo của Chúa thì phải thờ phượng và kính mến Chúa. Nhưng con người là hình ảnh Thiên Chúa nên phải yêu mến tha nhân. Ngược lại yêu mến tha nhân mà không kính mến Chúa là vô ơn bất hiếu. Vì sự sống là của Chúa, những gì chúng ta làm được cho tha nhân đều xuất phát từ ân huệ của Chúa nên con người phải thờ phương kính mến Chúa. Yêu mến Chúa phải yêu hình ảnh của Chúa. Vì thế mà thánh Gioan bảo rằng: “ai nói mình yêu mến Chúa mà không yêu mến tha nhân đó là kẻ nói dối:.
Ước gì mỗi người chúng ta không chỉ yêu Chúa trên môi miệng mà yêu Chúa thật lòng, biết dành thời giờ phụng thờ Chúa và biết dùng khả năng để phục vụ hình ảnh Chúa nơi tha nhân. Amen.
24. Chúa Nhật 31 Thường Niên
SỐNG MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI ĐI ĐÔI
Thiên Chúa là tình thương. Ngài đã yêu thương đến cùng. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin theo Chúa. Vì thế, mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu ở trần gian mà chúng ta lãnh nhận và thực thi.
Chúa Giêsu đã sát nhập cả hai giới răn mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất, mến Chúa thì yêu người và yêu người thì mến Chúa. Tình yêu thương tha nhân phải được thể hiện qua sự quan tâm, yêu thương, qua những hành động cụ thể như cho kẻ đói ăn, khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó những vết thương cho những người không quen biết. Tình thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù nhỏ mọn.
Theo Chúa Giêsu thì còn lớn hơn những nghi lễ, những lễ vật mà người ta muốn dâng lên Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Những cử chỉ của tình yêu thương có thể thay thế mọi nghi lễ. Như thế,
Yêu mến Chúa không hệ tại việc tuân giữ một cách hình thức một số lề luật, tham dự một số nghi lễ. Việc tuân giữ này không làm nên tình yêu đích thực nếu không phát xuất từ tâm tình sâu thẳm bên trong.
Yêu thương con người cũng không phải là cho của dư thừa, cho cái mình có mà là trao ban tình thương mà Thiên Chúa muốn. Vì thế, tình yêu phải là động lực, là điều kiện để chúng ta yêu người. Tình yêu bao giờ cũng phát xuất từ Thiên Chúa và đi đến tha nhân… Tuy nhiên chỉ khi nào chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, gắn bó với Ngài thì chúng ta mới có thể tôn thờ Thiên Chúa đích thực và thực sự yêu thương tha nhân đúng nghĩa nhất.
Giới luật yêu thương mà Chúa muốn các môn đệ và tất cả chúng ta thi hành giúp cải thiện mối tương quan nhân loại và là nền tảng xây dựng mối hoà bình hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa. Yêu thương người đồng loại không chỉ yêu thương kẻ sống chung quanh với mình, thích hợp với mình nhưng là một bước tiến tới với những người khác, những người có thể ở xa, có thể không phải là thân bằng quyến thuộc của mình. Bác ái vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có sự yêu thương triệt để và tích cực. Một tình yêu chân thật dẫn chúng ta dành hết khả năng của mình để phục vụ tha nhân như Chúa Giêsu.
Vì thế, trong năm sống đức tin, đây là cơ hội để mỗi người Kitô hữu chúng ta rà soát lại lối sống đức tin của mình, can đảm tuyên xưng đức tin bằng đời sống mến Chúa và yêu người chưa?. Chúng ta cần xác tín rằng: yêu thương tha nhân là một món nợ phải trả cho Chúa Kitô, như Thánh Gioan đã nói: “Nếu Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì chúng ta, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải hiến mạng sống vì anh em. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy yêu thương nhau” (1Ga 3, 16; 4, 11). Tóm lại, chúng ta hãy sống đức tin bằng tâm tình của Giáo Hội theo ý muốn của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu thương như chính Lời Chúa mời gọi. Chúng con phải yêu thương hết mọi người. Lòng yêu thương này bắt nguồn từ lòng yêu mến Thiên Chúa. Amen.
25. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thánh Maccô tường thuật liên tiếp một số những tranh luận giữa giới Pharisêu, Sađốc và Chúa Giêsu về nhiều vấn đề. Thường những tranh luận này có tính cách gay gắt và có lúc họ dùng dịp này để gài bẫy Chúa Giêsu để hại Ngài như vấn đề nộp thuế cho Xêda.
Lần này không là một tranh luận mà là một câu hỏi của một kinh sư về một vấn đề Luật Chúa, có tính cách ôn hòa.
Chúng ta không có thói quen so đo về lề luật. Chúng ta chỉ có mười điều răn Chúa và năm điều răn Hội thánh. Nhưng trong thời Chúa Giêsu, nhóm Pharisêu là những chuyên gia về luật đã rút ra từ Kinh Thánh và kê khai rất nhiều luật lệ và buộc người ta phải giữ, và cũng thêm vào đó nhiều chi tiết rườm rà như rửa tay, rửa bình, rửa chén bát… làm cho việc giữ Luật trở nên phức tạp, và nặng nề.
Chúa Giêsu đã nhiều lần lên tiếng phản đối khuynh hướng duy luật đó: “Các ông chất những gánh nặng lên vai người khác mà chính các ông cũng không động ngón tay vào.” (Mt 23,4)
Có lúc Chúa Giêsu nặng lời quở trách các ông Pharisêu vì họ nại vào Luật, bóp méo bóp tròn Lề Luật để trục lợi. Đọc Tin Mừng, chúng ta có cảm tưởng là nhóm Pharisêu này là phe đối lập triền miên của Chúa Giêsu. Nhưng trong đoạn này, thánh Maccô cho thấy một kinh sư rất thiện chí, ôn hòa và đạo đức. Kinh sư này giống như một kinh sư mà chúng ta đã quen biết là ông Nicôđêmô, ban đêm đến đàm đạo với Chúa để tìm hiểu, là một người đạo đức đích thực.
Ông đặt câu hỏi với Chúa Giêsu vì nhiều lần ông thấy Ngài giải quyết những thắc mắc do các kinh sư nêu lên. Vấn đề ông thắc mắc là một vấn đề chưa có câu trả lời dứt khoát, mặc dù trong nhóm Pharisêu, người ta đã nhiều lần tranh cải với nhau, nhưng không có ai có thẩm quyền giải đáp rõ rệt. Ông mong rằng, Chúa Giêsu, “Đấng rao giảng có uy quyền” sẽ cho ông một câu trả lời chính xác hơn.
“Trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?”
Chúa Giêsu lấy một câu Kinh Thánh mà mọi người đều biết vì đó là lời kinh mà mọi người Do Thái vẫn đọc hằng ngày: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. (Mc 12,33)
Câu trả lời đến đây cũng đầy đủ rồi, nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Ngài đi xa hơn: “Điều răn thứ hai là ngươi hãy yêu mến người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó”.
Vị kinh sư đồng ý và tỏ ra hết sức vui mừng: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng” và ông lặp lại những gì Chúa nói như một sự xác tín mới.
Ai trong chúng ta cũng biết hai điều răn này, nhưng cần phải xác định lại cho rõ, chúng ta có thực hành chưa? Đến mức độ nào?
Nhiều người, khi hỏi rằng, mến Chúa hết lòng nghĩa là thế nào chắc cũng không thể giải thích rõ được. Nếu con cái chúng ta hỏi chúng ta như thế, chúng ta sẽ giải thích thế nào?
Yêu mến Chúa hết lòng là thế nào?
Có lẽ những người đã biết yêu có thể hiểu rõ hơn, vì họ kinh nghiệm điều đó trong chính cuộc sống, trong chính bản thân họ. Yêu hết lòng phải chăng là lòng trí chúng ta chỉ còn có một hình ảnh và đi đâu, làm gì cũng nhớ đến người mình yêu. Yêu Chúa hết lòng là lòng trí chúng ta chỉ chứa một mình Chúa, làm gì, lúc nào cũng chỉ làm vì yêu Chúa thôi. Những người yêu nhau, khi xa nhau càng cảm thấy điều này rõ hơn. Họ nhớ nhau đến héo lòng…Làm gì cũng nhớ. Đó là định luật của tình yêu. Yêu mới nhớ và nhớ mới yêu. Yêu Chúa cũng thế thôi. Chúng ta có yêu Chúa đến như thế không? Các thánh đã sống như thế đấy.
Yêu Chúa hết sức là thế nào?
Chúng ta có ai yêu mến Chúa đến nỗi không còn sức lực nữa không? Giải thích chắc cũng khó nhưng trong thực tế, chúng ta thấy các bà mẹ đã yêu con mình đến kiệt sức. Săn sóc một đứa con bệnh nặng, bà mẹ thức đêm thức hôm, đem đi nơi này nơi kia để chữa trị. Sau cùng bà mẹ không còn gì cho mình nữa. Yêu mến Chúa cũng thế thôi. Làm việc Chúa đến kiệt lực, điều này không lạ gì. Nhiều đấng thánh đã sống như thế. Ngay hôm nay cũng có rất nhiều người vì Chúa mà tiêu hao mọi sự kể cả tài sản, sức khỏe, tài năng. Chỉ cho Chúa và cho Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã buông bỏ mọi sự và hiến cả mạng sống cho Chúa… Đó là những gương mẫu sống động cho chúng ta.
Chúa Giêsu không chỉ nói đến việc yêu mến Thiên Chúa mà nói đến một điều răn thứ hai: yêu mến người thân cận. Cũng là Luật Chúa, nhưng Ngài liên kết hai điều răn gần như một: yêu mến Chúa thì cũng yêu mến người thân cận như chính mình.
Như chính mình. Đây là một điều không dễ. Yêu tha nhân như chính mình là thế nào? Chúng ta dễ phớt lờ xem như chuyện đã biết rồi, không cần phải nhắc lại. Thực ra trong chúng ta, không mấy người đã thực hiện giới răn này một cách nghiêm chỉnh mà chỉ qua loa, chiếu lệ. Nhìn vào các Kitô hữu thời ban đầu, chúng ta thấy rằng, các tín hữu đã thực sự thi hành việc này một cách hết sức đúng đắn. Đọc lại đoạn đầu của sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy họ đã làm đúng như Chúa dạy: “yêu người thân cận như chính mình”. Chúng ta không mấy người đã đạt đến mức độ trọn hảo đó. Nếu như thế thì giữa giáo xứ chúng ta, không còn có người phải túng bấn.
Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa trong việc yêu thương này. Ngài đi đến mức cuối cùng: “Yêu người như Thầy đã yêu”.
Chúng ta còn quá xa Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống mà là yêu thương đến tận cùng, chết cho bạn hữu mình”. Chúa Giêsu nói và Ngài đã làm. Chúng ta nghe nhưng không làm. Có sự khác biệt lạ lùng đó trong cuộc sống chúng ta. Làm sao Nước Thiên Chúa đến được trong trần gian ích kỷ hèn nhát này? Làm sao Danh Cha cả sáng được? Chúng ta chỉ nói mà không làm. Có làm thì chỉ là sơ sài, ngoài da. Đạo Công giáo chúng ta đang còn ở trong tình trạng một giấc mơ đẹp. Mến Chúa yêu người chỉ là những khẩu hiệu thật kêu, thật đẹp mà rỗng tuếch. Yêu bằng miệng thì ai làm cũng được. Những người không tin Chúa vẫn có thể làm điều đó giỏi hơn chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn yêu thương chúng ta. Mặc dù thấy chúng ta chưa đi đến đâu trong tình yêu, nhưng Ngài không bao giờ nản chí. Ngài đến với chúng ta hằng ngày để khuyến khích chúng ta yêu thương hơn, bằng cách chính Ngài yêu thương chúng ta trước. Ngài đã trở nên một của ăn để chứng tỏ tình yêu của Ngài. Ngài đợi chờ chúng ta quảng đại hơn, xác tín hơn.
26. Mến Chúa yêu người
(Suy niệm của Lm Phaolo M. Nguyễn Kim Thanh, CRM)
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh Máccô trình thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Luật sĩ về giới răn quan trọng nhất. Chúa Giêsu đã minh nhiên xác nhận tình yêu là căn bản trong cuộc sống tôn giáo. Là người Kitô hữu, từ lời nói đến hành động, cả đến việc phụng sự cũng thảy đều toát ra từ lòng yêu mến. Tuy nhiên vẫn còn có những người luôn toát ra và thể hiện vẻ lạnh nhạt với tha nhân. Cuộc sống của họ luôn tôn thờ cái tôi và cứ để ai chết mặc ai. Lòng dạ họ luôn cuốc, cào vào cho mình, không hề cảm thông đến người khác. Chúng ta gọi đó là phường giả hiệu.
Qua cuộc đối thoại giữa Chúa và người Luật sĩ cho chúng ta thấy được những gì?
1.- Nhìn vào Chúa Giê su:
a/ Xem việc Người làm:
Nét rõ nhất ở Chúa là cho chúng ta thấy được việc Chúa cảm hóa được người Luật sĩ, với thái độ khôn ngoan và dịu hiền của một vị hướng dẫn đường lành. Ngài tiếp cận với đủ loại, đủ hạng người, từ tội lỗi đến khô khan. Cả những kẻ được mệnh danh là “mất lửa mến”, gần như đã lìa bỏ cả Chúa. Ngài cũng đã đưa họ đổi hướng, quay về đường ngay nẻo chính. Họ thật sự thăng tiến.
Xem việc Ngưới làm, chúng ta cùng mau mắn chạy đến với Chúa trong những giờ cầu nguyện và lắng nghe giáo huấn của Giáo hội. Để hầu sau khi kín múc và đón nhận, chúng ta tiếp tục phát sáng để cảm hóa tha nhân, dù họ là ai, thân hay thù địch, ưa hoặc chẳng thích.
b/ Xem Lời Chúa nói:
– Chúa Giê su khích lệ vị Luật sĩ khi nhận thấy ông có những ý kiến khôn ngoan. Qua sự việc này, chúng ta thấy được Chúa tăng ơn, giúp sức khi ta biết sử dụng ơn Chúa.
– Chúa nói; “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí và hết sức ngươi”. Chúa muốn tình yêu chúng ta dành cho Chúa với toàn diện con người, nghĩa là dùng toàn cuộc sống mình để qui hướng về Chúa, phụng sự Người
2.- Nhìn vào người Luật Sĩ:
a/ Ông đã cảm phục giáo huấn của Chúa, ông đã học hỏi ở Chúa qua những điều mình thắc mắc. Chúng ta cũng còn có nhiều thắc mắc và uẩn khúc trong cuộc sống đời thường và cả tâm linh. Hãy chạy đến với Chúa để gặp gỡ Ngài và bầy tỏ nỗi lòng cho thỏa lòng mong ước qua những giờ phút cầu nguyện, suy niệm, nghe sự hướng dẫn của giáo hội là những đại diện hữu hình của Chúa để được hướng dẫn và giải đáp cho chúng ta.
b/ Với thiện chí đón nhận giáo huấn nơi Chúa của người Luật sĩ. Chúa đã khen ông rằng không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúng ta đang được diễm phúc đón nhận Chúa trong đức tin của Phép rửa. Hãy sống và thực hành theo điều mình tin là đón nhận được Nước Trời.
c/ Đặt mình vào vai trò người Luật sĩ, chúng ta sẽ được ơn soi sáng để nhận biết tình yêu là sức mạnh của tâm hồn. Nếu thực hành tình yêu Chúa qua việc yêu mến tha nhân, những hiện thân của Chúa cách thật tình với tinh thần nhân hậu, không ghen tương, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy và hết lòng kiên nhẫn.
Vì thế, Tin mừng hôm nay là cơ hội tốt để cho mỗi người xét mình xem đã sống giới răn yêu thương đang ở mức độ nào? Những ai đang thờ ơ, tăng tốc để hoàn thiện lại. Những ai đang yêu mến, càng nồng thắm mến yêu hơn nữa để chiếm trọn vẹn được Chúa. Những ai cảm thấy hầu như mất thật sự, đang để tình cảm, của cải, uy quyền chiếm hữu khiến lòng không còn chút gì cảm nghĩ đến tha nhân, cũng vẫn còn kịp, bắt đầu từ bây giờ quay trở lại để hầu lái cuộc sống và linh hồn vào đoạn kết của Thập Giới: “ Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như vậy. Amen.
Câu chuyện minh họa:
Một vị vua không có con để nối dõi ngai vàng, ông đã cho truyền rao khắp nước để mời người đàn ông nào ưu tú đến để tuyển trạch xứng đáng cho lên ngôi thay nhà vua. Nhưng tiêu chuẩn của nhà vua đưa ra là người ấy thật sự phải có lòng “ mến Chúa và yêu người”.
Một thanh niên thấy mình có đều kiện nhưng lại quá nghèo khổ, đến độ ngay cả quần áo mặc đi đường còn rách rưới va con kiếm ra riền mua lương thực trong hành trình để đi lên hoàng cung hầu được tham dự cuộc thi. Anh trước hết ngửa mặt lên trời cầu nguyện cùng Chúa. Kế đến anh đi ăn xin quần áo và tiền bạc để chuẩn bị cho cuộc hành trình.
Trong hành trình tiến đến cung điện, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh:
– Tôi đói lạnh quá! Xin cậu thương tơi.
Anh nhìn ông lão lòng vô cuvng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, và trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Thế rồi anh lững thững đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua. Anh cúi đầu su cho ngi. Khi ngước mặt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên:
– Thế ra bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?
– Đúng vậy. Nhà vua đáp.
Anh ta ngạc nhin hỏi:
– Sao bệ hạ làm thế?
– Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng “mến Chúa và yêu người” không.
Câu chuyện trên minh họa Lời Cha trong Tin mừng hôm nay, khi một kinh sư đến hỏi Người điều răn nào đứng đầu. Ngưới đáp: “ Điều răn đứng đầu là ngươi phải yêu mến Đức Cha hết lòng và hết trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai: ngươi phải yêu người như chính mình, chẳng có giới răn nào khác hơn 1 các giới răn đó. (Mc 12,29-31).
Xin Cha ban cho mỗi người chúng con chứng minh tỏ tường và răn nhất vế thứ hai để chứng minh tình yêu thể hiện trong vế thứ nhất là yêu mến Cha.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dồn đổ tình yêu v việc lm của Mẹ trong việc Mẹ thăm viếng, tận tình gip đỡ người chị họ của Mẹ l bà Elisabeth trong lúc cần sự trợ giúp nhất. Ước chi mỗi người chng con sẽ nhận Mẹ l bản sao sống động đức i trong hành trình trần thế của chúng con.
27. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Jn. M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)
GIỚI RĂN MỚI SIÊU THĂNG
VÀ HOÀN HẢO HÓA GIỚI RĂN CŨ
Từ trước tới nay tôi nghe và đọc nhiều bài giảng nói khá hay về giới răn cũ, nhưng lại thấy rất ít ai đề cập và đào sâu hơn một chút về giới răn mới, giới răn yêu thương của Chúa Giêsu, và điều đó làm tôi ngạc nhiên không ít.
Thưa các bạn,
Phải thú thực là yêu thương người khác được như chính mình như giới răn Chúa đòi dân Do Thái thời Cựu ước, thì cũng là khá trình độ và tuyệt vời rồi. Chúng ta thử tưởng tượng là, nếu các nước ngày hôm nay họ sống yêu thương, đối xử với nhau, lo cho nhau như lo cho chính mình họ, như lo cho chính gia đình họ, thì chắc hẳn là bầu không khí của giữa những con người với nhau, giữa các cá nhân, giữa các gia đình, giữa các quốc gia với nhau sẽ đẹp, thanh bình và hạnh phúc biết bao nhiêu!
Tất cả chúng ta đang được vinh hạnh sống trong thời Tân ước, thời mà Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa Cha, nhập thể và nhập thế để trở nên Đấng Emmanuel ở cùng chúng ta, Đấng đã từng phán: Hạnh phúc của Ta là được ở với con cái loài người. Chính Đấng ấy đã mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, và kêu gọi chúng ta hãy nên hoàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt.5,48). Như Cha là Đấng cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt,và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương. (Mt.5,45).
Chúa Giêsu với tất cả tình yêu thương âu yếm,Ngài đến để bảo đảm hạnh phúc cho ta. Ngài bật mí cách thoải mái Tình Yêu Hiền Phụ của Thiên Chúa Cha đối với từng người chúng ta. Ngài dẫn chúng ta đi sâu vào tình thân mật đối với Cha Ngài; Ngài lại còn tỏ cho chúng ta biết phẩm giá vô cùng hạnh phúc lớn lao là chúng ta được nâng lên làm con Thiên Chúa, con đúng nghĩa hơn tất cả những người con với bố nó hợp lại;Ngài mặc khải cho ta về chỉ có Cha là Đấng Nhân Lành đúng nghĩa hơn hết, là Đấng yêu chúng ta chỉ vì Ngài muốn yêu,chứ không phải tại ta có gì tốt mà Ngài mới yêu, rồi khi ta không tốt nữa thì Ngài lại không yêu chúng ta nữa. Không, ngàn lần không, Tình Yêu của Ngài luôn bất biến, dù tình con người có thay đổi đổi thay, nhưng Tình Ngài muôn đời vẫn thế! Ngài say yêu ta, đối xử với ta rất tình Cha với ta,lại còn cho phép và rất muốn chúng ta đối xử thân tình dễ thương với Ngài như những đứa con bé nhỏ thảo mến ruột thịt. Đồng thời, Ngài phá bỏ mọi ranh giới giữa chúng ta với nhau,để nhận ra nhau đều là những anh chị em con cùng một Cha một Mẹ trên trời.
Các bạn kính ái!
Chúa Giêsu đã đến không phải là để hủy luật cũ mà là kiện toàn, siêu thăng, hoàn hảo hóa lên, trình độ hơn, cao cơ hơn…
Thế thì, có phải không? Chúa Giêsu đã từng nói: Anh em đã nghe luật xưa dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em; nơi khác Chúa nói rõ hơn: Hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho người ghét các con, chúc phúc cho người nguyền rủa các con, để các con nên giống Cha các con trên trời…Vâng, giới răn cũ và mới khác rồi đấy, các bạn ạ!
Trước đó Chúa còn nói: Luật xưa dạy rằng: Mắt thế mắt, răng thế răng; còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đừng chống cự người ác; trái lại, nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy cho nó cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt.5,38-41). Giới răn cũ và mới đã rất khác rồi đấy!
Chính vì thế mà Chúa đã tuyên bố nhiều lần, nhất là trước khi chịu chết là: “Thầy truyền cho các con một giới răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc lại giới răn cũ khi người thanh niên đầy thiện chí hỏi Chúa. Sở dĩ Chúa nhắc lại giới răn cũ là bởi vì lúc đó Chúa chưa thiết lập giới răn mới là giới răn mà Chúa chỉ tuyên bố thiết lập khi Chúa đã dạy dỗ đủ điều và đã làm gương. Và Ngài đã chính thức thiết lập Giới Răn Mới trong bữa Tiệc ly, trước khi Chúa đi chịu chết để cứu chuộc nhân thế.
Như vậy bạn và tôi có lẽ chúng ta đã hiểu được tinh ý của Thầy Chí Thánh rồi. Ngài muốn chúng ta yêu nhau, yêu mọi người với mức độ như CHÍNH NGÀI đã yêu, chứ không phải là yêu như CHÍNH MÌNH nữa. Có phải khác biệt nhau một trời một vực phải không, thưa các bạn?
Các bạn ạ!
Cách đây gần mười năm, lúc đấy tôi còn là một ông thầy muôn năm. Hôm đó đi chia sẻ cho một nhóm quý anh chị đã tận hiến cho Đức Mẹ, chủ đề về đức Bác ái, một chị trưởng nhóm có hỏi tôi rằng: Thưa Thầy, ở vùng chúng con có một người đàn ông còn mạnh khỏe mà lại đi hành khất, ban tối lại thấy ông ấy vào nhà hàng để nhậu…,vậy lần sau ông đó đến nhà chúng con xin, chúng con có nên cho nữ hay không? Vì nếu cứ cho thì ra như cho để ông đi nhậu, lại còn vào nhà hàng mà có khi chúng con cũng không dám vào. Ông này cứ đúng như họ kể, thì có lần ban ngày, tôi đã trông thấy mang nạng, chân khèo khèo đi xin; lần khác, lại trông thấy ông vào ban tối, thấy ông vai vác hai cái nạng, ung dung đi đứng rất đàng hoàng như không có bị què gì cả…Vậy nếu người ta hỏi bạn, bạn sẽ giải quyết là nên cho hay không nên cho, hả bạn?
Hôm đó, tôi đã nại vào câu Chúa nói: Ai xin các ngươi cứ cho, ai vay mượn các ngươi đừng từ chối. (Mt.5,42), để trả lời là chúng ta cứ cho. Khi nghe tôi trả lời cứ cho, nhiều người tỏ vẻ ngạc nhiên lắm! Và tôi nói tiếp, nếu căn cứ theo giới răn cũ (yêu nhau như mình) thì không cho là đúng, nhưng theo giới răn mới (yêu nhau như Chúa yêu) không cho là không đúng; vã nữa, Chúa bảo chúng ta là: Ai xin các con cứ cho cơ mà! Ai mà Chúa nói đây là tất cả mọi người,cả người tốt lẫn người xấu,cả người ngay lẫn người gian.., nên nhiều ít tùy chúng ta,nhưng cứ cho thì sẽ là yêu thương như Chúa yêu thương hơn,sẽ nhân đức hơn… Sau đó, tôi còn nói khôi hài một câu để cho mọi người cười cho vui vẻ là: chúng ta cũng phải để cho họ nhậu, họ bồi dưỡng họ mới có sức khỏe hôm sau đi xin tiếp chứ! Thế là mọi người cười rất to và nhận ra rằng tiền của người ta vất vả nắng nôi, lại còn đóng kịch giả bộ là mình tật nguyền để người ta thương hại mà cho.., là sở hữu của họ, họ muốn nhậu, muốn làm gì tùy họ chứ!
Như vậy là giới răn mới và giới răn cũ rất khác nhau đấy bạn nhỉ? Bạn và tôi, chúng ta đang được hân hạnh sống trong thời đại mới của Tân ước, và dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta sống theo luật mới của Tân ước mà thôi. Rượu mới phải được đổ vào bầu da mới mà, phải không bạn? Cầu chúc bạn tìm được nhiều niềm vui trong việc yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương và làm gương cho chúng ta.
28. Lòng kính mến Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Giáo huấn Tin Mừng của Chúa truyền dạy chúng ta hôm nay rất cao cả và quan trọng, vì đó là một nghĩa vụ tuyệt đối khẩn thiết, một giới luật trọng đại nhất chúng ta phải chu toàn đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI TUYỆT ĐỐI
Maisen thừa lệnh Chúa truyền dạy: “Hỡi Israel hãy nghe đây: Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa anh chị em hết lòng, hết linh hồn và hết sức anh chị em.
Những điều tôi truyền cho anh chị em hôm nay, anh chị em:
* Hãy ghi tạc các luật đó vào tâm khảm anh chị em,
* Hãy thuật lại cho con cháu anh chị em đến muôn đời,
* Hãy suy niệm các luật đó lúc ở nhà, khi đi đường, hoặc khi nằm nghỉ cũng như lúc thức giấc,
* Hãy buộc chặt các luật đó vào tay mình, như dấu hiện hữu và máy động trước mắt anh chị em,
* Hãy viết bằng chữ lớn các luật đó trên cột và trên mi cửa nhà anh chị em” (Deut 6:4-9).
II. LÝ DO GIỚI LUẬT CHÚA TRUYỀN
Chúa là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng nên chúng ta, là Cha Nhân Từ, là vị Đại Ân Nhân của chúng ta; Chúa có quyền đòi buộc chúng ta phải kính mến Chúa; đó là giới luật công bằng hợp lý hợp tình. Nhưng chúng ta có kính mến Chúa, chúng ta cũng chẳng thêm gì cho Chúa, vì Chúa hoàn toàn sung mãn, không một thụ tạo nào có thể thêm bớt cho Người, Người hoàn toàn hạnh phúc. Chính vì muốn cho chúng ta được hạnh phúc mà Chúa đã truyền dạy chúng ta phải kính mến Chúa. Chúng ta hãy nghe tiếp huấn lệnh của Chúa, mà tổ phụ Maisen truyền lại cho chúng ta: “Anh chị em phải kính mến Chúa, tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của anh chị em, hết linh hồn, hết lòng mình và tuân cứ các lề luật, lễ nghi của Người như ta truyền cho anh chị em hôm nay, để anh chị em được hạnh phúc” (Deut 10:13).
Thánh tổ phụ còn nhấn mạnh: “Hôm nay ta bày tỏ trước mặt anh chị em lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
* Anh chị em sẽ được chúc phúc, nếu anh chị em tuân giữ các huấn lệnh Chúa truyền,
* Anh chị em sẽ bị nguyền rủa, nếu anh chị em bất tuân và đi trệch đường lối Chúa chỉ dạy” (Deut 11:26-28).
III. NHỮNG DẤU CHỈ LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG
Loài người chúng ta thường thán phục trước tấm lòng hào hiệp, thường cảm động tri ân trước tấm lòng quảng đại trao ban, thường tôn kính mến yêu những vị làm ơn lành cho mình. Vậy đâu là những dấu chỉ của lòng Chúa yêu thương chúng ta?
Đối với chúng ta, không những Chúa đã tạo dựng nên chúng ta, ban cho chúng ta mọi ơn lành hồn xác, lại quan phòng gìn giữ chúng ta, không những như một Đấng Tạo Hóa, hay như một Vị Đại Ân Nhân, nhưng còn hơn nữa như một Người Cha Nhân Từ hằng hết lòng yêu thương, săn sóc, che chở chúng ta như con cái rất yêu dấu của Người.
Như một người Cha, trước khi dựng nên chúng ta, Chúa đã sáng tạo nên vũ trụ bao la với muôn loài muôn vật, muôn cảnh sắc huy hoàng lộng lẫy kỳ diệu, để chúng ta được hưởng dùng, được nhận biết và chiêm ngắm, mà ca ngợi uy quyền và tình thương của Chúa. Chẳng khác gì một bà mẹ trước khi sinh con, bà sắm sẵn các đồ dùng cũng như những nhu cầu cần thiết cho con, để khi con bà vừa chào đời, đã có sẵn mọi vật dụng cần thiết cho cuộc sống của con.
Như một bà mẹ thương yêu cưng chiều con bà thế nào, Chúa cũng thương yêu chúng ta như vậy, chính Chúa mạc khải điều đó qua lời tiên tri Isaia: “Các con được nuôi bằng sữa mẹ, được bồng ẵm vào lòng, được nâng nui trên đầu gối; như mẹ hiền âu yếm con thơ, Cha cũng sẽ vỗ về âu yếm, yêu thương các con như vậy” (Is 66:12-13).
Chính Chúa Kitô còn nhắc lại tình âu yếm yêu đương đó trong Tin Mừng khi Ngài thương khóc thành thánh Jerusalem: “Đã bao lần Ta tụ họp con cái các ngươi như gà mẹ túc con dưới cánh, mà các ngươi không biết” (Mt 23:27). Tình Chúa yêu thương nhân loại đã được bày giãi trước mắt chúng ta, bằng muôn vàn cách thế tràn ngập trong vũ trụ, như những dấu chỉ minh chứng tấm lòng yêu thương của Người.
Thánh Têrêxa Hài Đồng một hôm đang đi dạo tại vườn hoa, Chị trông thấy một hình ảnh thơ mộng, một con gà mẹ âu yếm ấp ủ bày gà con dưới cánh, trước con diều hâu đang bay lượn tìm bắt… Chị đã nhớ đến lời Chúa phán trên đây và động lòng thổn thức tưởng nghĩ đến lòng Chúa yêu thương, đến nỗi Chị không thể tiếp tục đi dạo, trở về phòng ôm mặt khóc và hết lòng tri ân kính mến Người.
Nhiều vị Thánh khi đọc tới kinh “Lạy Cha”, các ngài cảm thấy lòng mình thổn thức rạo rực, rộn lên niềm hân hoan vui sướng, khiến đôi dòng châu lệ tuôn trào trước cái diễm phúc, vì mình có một người Cha Nhân Từ hằng yêu thương săn sóc, lo cho mình mọi sự, khiến các ngài được ngây ngất sảng khoái như cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng, đến nỗi không thể đọc hết lời kinh thơm xinh đó được nữa.
Đứng trước vũ trụ tràn đầy những kỳ công huyền diệu, những cảnh sắc tuyệt vời, ghi dấu tình Chúa yêu thương nhân loại, các Thánh được tràn đầy sung sướng, hết lòng ngâm ngợi ca khen tình Chúa yêu thương, khiến các ngài bùng cháy lên ngọn lửa mến yêu Chúa tha thiết, đến sẵn sàng hy hiến cả cuộc đời để phụng sự và yêu mến Chúa, nỗ lực làm tông đồ đến kiệt quệ thân xác để Chúa được tôn vinh, được phụng sự và yêu mến.
Kết luận
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn nhận ra lòng Chúa yêu thương chúng ta, để chúng ta được chu toàn giới luật Chúa truyền dạy: “Phải kính mến Chúa”, hầu chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc Thiên Đàng ngay cả lúc chúng ta gặp rủi ro bất trắc, như gương Thánh tổ phụ Job xưa. Chớ gì chúng ta luôn nhớ thực thi lời Chúa dạy Chị Dòng Bénigna trong cả cuộc sống: “Con hãy đọc lời: “CHA YÊU CON” trên bánh con ăn, trên giường con nằm, trên nhà con ở, trên các dụng cụ con dùng”. Và, quyết tâm gắng sức hoạt động mọi cách làm cho nhân loại được nhận biết, tôn thờ, phụng sự và yêu mến Chúa cách xứng đáng như Chúa đáng mến.
29. Mến Chúa Yêu Người
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm lại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Ki-tô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và vì yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: Tạ ơn Đức Ki-tô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Ki-tô và mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Ki-tô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Ki-tô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xoá mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy lụân của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận Lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
30. Anh chị em
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Trước khi đọc lời nguyện trên lễ vật linh mục thường mời gọi:
Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha toàn năng chấp nhận.
Anh chị em trong nghĩa này bao gồm tất cả mọi người hiện diện trong thánh đường lúc đó. Trong KinhThánh Đức Kitô dùng chữ anh chị em với nghĩa rộng hơn bội phần. Anh chị em hiểu là tất cả mọi người, bao gồm người chúng ta biết, người ta không biết và ngay cả người không bao giờ có cơ hội gặp. Tất cả đều là anh chị em, không trừ một ai. Nghe thì có vể hơi khác thường làm sao người không quen, không biết có thể là anh chị em của nhau. Thực tế là tất cả mọi người đều là anh chị em của nhau vì cùng là con cái Thiên Chúa, được Ngài tạo dựng nên và do chính Ngài cứu chuộc.
Vì là anh chị em nên Đức Kitô dậy chúng ta phải yêu mến Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu thương người khác như chính mình. Những ai yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ yêu Chúa trên lí thuyết mà thiếu thực hành. Những ai yêu vật thụ tạo mà không yêu mến Thiên Chúa chính là thờ phượng ngẫu thần bởi người đó yêu loài thụ tạo do Chúa tạo thành mà lại không thờ phượng chính Đấng tạo thành loài thụ tạo. Vì thế thờ phượng loài thụ tạo là tự nguyện làm nô lệ cho loài thụ tạo, dù đó là sắc đẹp hay tài trí hay sự thông minh, tất cả đều là loài thụ tạo. Một khi thờ phượng nó chính là làm nô lệ cho nó. Bởi làm nô lệ cho nó nên không còn thời gian cho Đấng tạo thành nó và cho tha nhân. Đức Kitô dậy chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa vì Ngài là nguồn mọi sự yêu thương.
Tình yêu hoạt động hữu hiệu nhất khi tình yêu đó được cho đi đúng lúc, đúng hoàn cảnh, đúng nơi chốn. Còn gì hạnh phúc bằng khi bạn cần người lắng nghe người đó sẵn sàng giúp, bạn thấy hạnh phúc hơn. Bạn đang cô đơn nhận được cú điện thoại của người bạn tốt. Bạn đang buồn sầu, ảm đạm nhận được lời cổ võ chân thành. Bạn đang khát có người cho li nước. Bạn đang lạc đường có người chỉ lối, dẫn đường. Có lẽ bạn thắc mắc khi nào biết người đó cần để mà cho. Nghe có vẻ hợp lí nhưng đôi khi không thực tế vì hầu như khi bạn nghe người bạn cần giúp đỡ thì lúc đó sự việc đã qua mất rồi, hoặc có kẻ khác may mắn hơn. Vì thế không cần phải đợi đến khi biết tin mới cho. Tốt nhất cứ cho để tình bạn được nảy nở, phát triển. Không phải chỉ lúc u sầu mới cần tình bạn mà ngay cả khi vui cũng cần. Bạn có niềm vui cần người chia sẻ. Bạn có tiệc mừng cần người tham dự. Bạn có chuyên vui cần người lắng nghe. Bạn cầu kinh cần người xướng hoạ.
Mọi người đều là anh chị em trong Chúa và mọi người đều được mởi gọi cho đi những gì mình nhận từ Chúa. Kẻ thì cho tài năng, kẻ khác cho vật chất, kẻ khác cho thời gian. Tất cả những món quà đó đều quí, không có món nào cao trọng hơn món nào. Cho đi để thế giới hôm nay tốt đẹp hơn và ngày mai tươi sáng nhiều hy vọng hơn.
Thiên Chúa kêu gọi chúng ta sống với nhau như anh em, Ngài yêu mến chúng ta và sẵn sàng tha thứ lỗi lầm chúng ta. Chúng ta học từ Ngài, tha thứ cho nhau. Chúng ta được mời gọi sống thực hành đức tin, thể hiện bác ái qua tha nhân. Hãy tập cho đi, tập sống rộng lượng từ gia đình rồi từ đó lan ra sở làm và xã hội và cộng đoàn chúng ta đang sống.
Đừng nghĩ rằng cứ cho đi thì lấy gì mà cho, sẽ nghèo đi mất. Thực tế không phải vậy, càng cho càng giầu nhân ái. Càng tồn trữ, cất giữ càng nghèo tình lân ái. Nghèo tình lân ái sẽ sống cô đơn và thiếu hạnh phúc. Cho đi để hưởng hạnh phúc mà vật chất, tiền của, danh vọng không khi nào mua được hạnh phúc ấy.
31. Với cả tâm trí bạn
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)
Một người mẹ nói với cô con gái nhỏ của bà về tình yêu Thiên Chúa. Cô bé bối rối: “Mẹ ơi, làm sao con có thể yêu Chúa? Con chưa bao giờ thấy Người”. Ít ngày sau, cô bé nhận được một bưu kiện, trong đó có một cuốn sách hình rất đẹp, trên trang bìa cuốn sách đề hàng chữ: “Tặng Maria thân yêu, Dì Rosa”. Bé Maria chưa bao giờ gặp dì Rosa và họ sống xa nhau hàng ngàn cây số. Khi Maria nhìn những bức hình đẹp trong cuốn sách, em nói với mẹ: “Mẹ ơi, con yêu dì Rosa quá! Dì cho con cuốn sách đẹp này”. Người mẹ phản đối: “Nhưng con chưa bao giờ thấy dì Rosa mà”. Maria trả lời: “Con biết, nhưng con yêu dì, vì dì gởi cho con cuốn sách đẹp này”.
Nhiều người trong chúng ta có thể thắc mắc: “Làm sao chúng ta có thể yêu Chúa nếu chưa bao giờ chúng ta thấy Người?”. Tất cả chúng ta đã nhận quà của Chúa, những món quà này dẫn chúng ta yêu Đấng đã gởi tới.
Dĩ nhiên một cách nào đó, chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa trong hình dung của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa làm người. Hôm nay nói lại cho chúng ta rằng: Chúng ta phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa chúng ta hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn và hết sức lực. Sẽ giúp chúng ta hiểu và giữ luật này nếu hôm nay chúng ta chỉ nhìn một góc cạnh của giới răn: “Yêu Chúa… với tất cả tâm trí.
Để yêu ai, trước tiên chúng ta phải biết người ấy. Để biết ai, chúng ta phải dùng tâm trí. Làm sao chúng ta có thể biết Chúa?
Làm sao tôi biết một người trong các bạn? Tôi phải nói với bạn và lắng nghe khi bạn nói. Đối với Chúa, chúng ta gọi là cầu nguyện. Bạn hãy gọi như thế nếu bạn muốn. Chúng ta không thể biết Chúa, trừ khi chúng ta nói với Người. Đó là lý do tại sao Giáo Hội kêu gọi chúng ta cầu nguyện với Chúa, ít nhất là sớm mai và chiều tối. Đó là lý do bạn và tôi cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào trong kinh nhật tụng, và nhất là trong Thánh Lễ.
Chúng ta biết một người do công việc họ làm hoặc họ là thợ mộc, là họa sĩ biếm họa hay một đầu bếp.
Chúng ta biết Chúa qua những việc Chúa đã làm. Cỏ cây, chim chóc, gió mây, sao trời… nói với chúng ta về Chúa. Tất cả những cái đó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng lý trí.
Muốn hiểu một người, chúng ta cố gắng gặp người đó càng nhiều càng hay. Chúng ta gặp Chúa trong mỗi ngày, trong mỗi cuộc sống chung quanh, nhất là chúng ta gặp Chúa trong Giáo Hội, trong Thánh Lễ, rước lễ và các bí tích.
Chúng ta cũng biết một người do những điều một người khác biệt về người đó nói lại cho chúng ta. Linh mục của bạn, ngài đã dùng nhiều thì giờ học hỏi về Chúa, nói về Chúa. Các ngài có thể nói nhiều về Cha trên trời, về Thiên Chúa Làm người, về Chúa Thánh Thần cho bạn. Cha mẹ nói cho chúng ta về Chúa. Thực sự các ngài là thầy tốt nhất nói về Chúa. Giáo lý viên, báo chí, tạp chí và sách vở Công giáo nói với chúng ta nhiều sự thật về Chúa.
Sử dụng lý trí để tìm hiểu mọi cái về Chúa. Như thế bạn yêu Chúa với tất cả lý trí của bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
32. Mến Chúa yêu người
(Suy niệm của Hiếu Nguyễn)
CHUYỆN MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Chọn người kế vị
Một vị vua không có con nối dõi ngai vàng, nên cho truyền rao khắp nước, để mời gọi người đàn ông nào ưu tú đến ngài chọn. Ngài đưa ra tiêu chuẩn là kẻ ấy phải có lòng “mến Chúa yêu người.”
Một thanh niên thấy mình có điều kiện đó, nên định đến cho vua chọn. Nhưng khổ nỗi anh nghèo quá, đến mức không có áo quần tươm tất cũng chẳng có tiền mua sắm thức ăn để đi dự cuộc thi. Anh cầu xin Chúa giúp anh. Và sau đó anh đi ăn mày quần áo và lương thực cần thiết.
Lúc đi đến gần cung điện đức vua, anh mệt mỏi quá ngồi nghỉ. Ngay lúc đó anh trông thấy một ông lão ăn xin nghèo. Ông chìa tay xin anh, “Tôi đói và lạnh quá! Xin cậu thương…” Anh nhìn ông lão, lòng vô cùng xúc động. Anh liền cởi chiếc áo lành lặn của anh đổi lấy tấm áo rách tả tơi của cụ, trao cho cụ phần lương thực dự trữ cho chuyến trở về của mình.
Và anh đi vào đền vua. Vừa đến trước mặt vua, anh cúi đầu sâu chào ngài. Khi ngước mắt lên, anh không thể tin nổi mắt anh. Anh thốt lên, “Thế là bệ hạ là lão ăn mày lúc nãy?” “Đúng vậy.” Anh ta ngạc nhiên hỏi, “Sao bệ hạ làm thế?” “Vì trẫm muốn thử xem ngươi có thật lòng ‘mến Chúa yêu người’ không.”
2. Tôi đi tìm Chúa
Các tu sĩ Ái nhĩ lan có kể giai thoại sau đây. Đêm nọ, vị tu sĩ lão thành thấy một thiên thần đang ngồi viết trong cuốn sổ vàng. Vị tu sĩ rón rén đến hỏi, “Ngài đang viết gì trong sổ đó?” “Tôi đang ghi tên những kẻ ‘Kính mến Chúa và yêu thương người’.”
Lo lắng hồi hộp, ông không biết mình có tên trong sổ đó không, nên hỏi, “Thưa ngài, ngài có ghi tên tôi trong sổ đó không?” Thiên thần lật từng trang mà không thấy tên ông. Ông nài nỉ, “Xin ngài ghi tên tôi như là một tu sĩ thương mến tha nhân.” Sứ thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Hôm sau sứ thần lại hiện ra, mở sổ vàng cho ông xem. Ông lại thấy tên mình dẫn đầu trong sổ những người yêu mến Chúa… Sau khi qua đời, các thầy xem nhật ký của ông, dòng chữ đầu trong nhật ký đó là, “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối. Không yêu mến anh em là kẻ mình thấy thì không thể kính mến Chúa là đấng mình không thấy.”
Và tiếp theo là lời ghi chú của ông, “Tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt khỏi tầm tay tôi. Tôi đi tìm người anh em tôi, tôi lại gặp Thiên Chúa và linh hồn tôi.”
3. Tình yêu bắt nguồn từ gia đình
Một người ở Sun City, Hoa Kỳ, trình bày với người đảm trách “tâm lý trị liệu” như sau. Ba tôi đi làm suốt tuần, mẹ tôi bận việc nhà cả ngày. Ba mẹ tôi không khi nào bộc lộ tình cảm hay nói lời yêu thương với tôi. Vì thế tôi cảm thấy cô đơn buồn tủi mãi. Một hôm tôi có dịp đến ngủ ở nhà chị bạn tôi. Khi chúng tôi lên giường ngủ, mẹ bạn tôi đến hôn hai chị em chúng tôi. Cử chỉ đó làm tôi cảm động, đến độ tôi không ngủ được. Tôi nghĩ mãi chớ gì ba mẹ tôi đối xử với tôi như thế. Và tôi quyết định sẽ làm như thế đối với ba mẹ tôi.
Từ đó tôi bắt đầu hôn ba mẹ tôi thường xuyên. Khi có dịp, tôi nói với ba mẹ, “Ba ơi, con thương ba! Mẹ ơi, con thương mẹ!” Và mọi sự trong gia đình đều hoàn toàn thay đổi. Chúng tôi thương yêu nhau, sống vui tươi hạnh phúc. Tôi lập gia đình khi lên 17 tuổi và có hai con lúc chưa đầy 20 tuổi. Tôi thường hôn con tôi đến khi má chúng ửng hồng lên.
4. Hạt giống tình yêu
Trong giấc mơ, người nữ kia thấy mình đang đứng trước một cửa hàng mới khai trương. Điều làm cho bà ngạc nhiên nhất là thấy Chúa Giêsu ngồi ngay ở quầy tính tiền. Bà liền hỏi, “Chúa bán những món hàng nào?” “Tất cả mọi món hàng mà con người ham thích.”
Vui mừng quá! Bà ta quyết định mua tất cả những món hàng mà người đời thường ham thích. Bà thưa với Chúa, “Con muốn mua, bình an, hạnh phúc, tình thương..” Chúa Giêsu mỉm cười, chậm rãi nói, “Con lầm rồi. Ở đây không bán hoa trái, mà chỉ có bán hạt giống thôi.”
5. Lòng mến Chúa bị suy sụp
Một bà đạo đức cảm thấy lòng kính mến Chúa của mình ngày càng suy giảm mau chóng như sức khỏe thể xác của bà. Bà buồn quá, không biết làm sao nung đốt lại lửa mến Chúa trong lòng mình. Vì nay bà đã gần đất xa trời rồi, sợ với tình trạng tâm hồn nguội lạnh thế này thì khó vào được thiên đàng sau khi nhắm mắt lìa đời. Bà đến gặp linh mục lão thành Zossima, kể cho ngài nghe nỗi yếu kém sa sút của lòng mến Chúa của bà, và xin ngài cho phương cách chữa trị.
Cha Zossima chăm chỉ lắng nghe rồi nói, “Có một phương thế rất hiệu nghiệm.” Bà vui mừng hỏi ngay, “Phương thế nào, thưa cha?” “Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu thương những người láng giềng của bà. Càng thương yêu họ, bà càng kính mến Chúa hơn. Bà chắc chắn được Chúa thưởng thiên đàng hơn.”
6. Tiếng chiên con
Một buổi chiều đông giá rét, có người đốn cây trên đồi trở về vui với gia đình trong đêm Giáng sinh, sau bao ngày lao động xa cách gia đình…
Bỗng một cơn bão nổi lên, sấm chớp nổ vang trời, mưa đổ xuống như thác lũ… Anh đang chạy tìm chỗ trú ẩn thì một tiếng sét long trời nổ bên tai, cành cây đổ xuống trên mình anh, máu từ đầu chảy xuống, và anh ngã gục, nằm chờ tử thần!..
Có tiếng bê-bê từ đâu vọng lại. Đó là tiếng một con bê con đang gặp nạn như anh. Thọat đầu anh làm ngơ vì kiệt sức. Nhưng tiếng kêu mỗi lúc một tha thiết khiến anh tự nhủ: “Mình chỉ muốn chết, nhưng con bê kia muốn sống và chắc chắn nó đang cần mình”. Thế thì anh cố chỗi dậy, đi theo tiếng chiên kêu.
Anh tìm được nó trong một cái hang. Nó cũng bị thương và lạnh buốt. Anh ẵm nó vào lòng ngực để sưởi ấm cho nó”. Một sức sống mới đang vươn lên trong thân xác yếu ớt của anh. Anh cảm thấy muốn sống và muốn sống hơn bao giờ hết”.
*****
Chúa đến viếng thăm chúng ta, nên ánh sánh hy vọng của sự sống là bảo chứng của ơn cứu rỗi và là chiến thắng tiêu diệt sự chết..
“Chính lúc chúng ta có can đảm cởi mở tâm hồn đi đến với người khác đang cần được yêu thương giúp đỡ là lúc chúng ta sẽ được nhận lãnh sinh lực mới, sức sống mới, để sưởi ấm sự lạnh lẽo và giải thoát chúng ta khỏi cơ cực lầm than. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I)
7. Chết vì yêu
Tạp chí bách Khoa Văn học số 6 năm 1991, có đăng câu chuyện “Mùi cọp”.
Có đôi vợ chồng trẻ: chồng là giảng sư đại học, vợ là diễn viên và là người tập luyện thú của đoàn xiếc. Hai con người, hai nghề nghiệp và hai tính khí hoàn toàn khác nhau, chồng thấy nghề dạy thú của vợ có cái gì không bình thường, nhứt là mùi cọp lúc nào cũng hăng hắc từ thân thể của vợ. Cái mùi cọp thật là khó chịu đối với người khác, nhưng đối với nguời dạy thú thì không thể thiếu mùi đó. Chính nhờ cái mùi đó mà bầy cọp mới nhận ra cô và ngoan ngoãn vâng lời.
Rồi hai người giận nhau, và tình trạng kéo dài. Cuối cùng người vợ chủ động làm lành. Cô tẩy sạch mùi cọp và thay vào đó mùi nước hoa thơm phức. Thế là họ làm hòa với nhau.
Nhưng đêm sau người vợ đó chết. Cô chết vì con cọp dữ không nhận ra cô nữa, vì mùi cọp quen thuộc của cô đã biến thành mùi nước hoa xa lạ. Con cọp hoảng hốt trước mùi nước hoa lạ lẫm đó nên phải tự vệ bằng cách tấn công cô.
*****
Người vợ vì yêu chồng đã gội rửa chính mình và đã phải hy sinh mạng sống. Yêu đích thực không phải là chết đi một ít mà chết đi trọn vẹn. Đó là ý nghĩa của cái chết và sống lại của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã yêu và yêu loài người đến cùng, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, và sống lại vinh hiển để đem lại nguồn sống bất diệt cho mọi người.
Tình yêu mời gọi tình yêu. Chúa Kitô yêu thương chúng ta, hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta. Người mời gọi chúng ta đáp lại tình yêu của Người, hy sinh vì Người và vì anh chị em chúng ta.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập IV).
33. Giới răn trọng nhất
(Suy niệm của Noel Quesson)
Ngày đầu tiên Betty vào trường nội trú. Cô bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Cô tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ loại này. Nhưng đến chiều, Betty gặp bà hiệu trưởng, cô thấy bà thật hiền hậu, dễ mến, bà có nụ cười đầy thiện cảm. Cô thấy mến bà, và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chả có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín đồ Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu. Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ: Yêu.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do Thái thì vẫn cần giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một Giao Ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng do liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta coi Thiên Chúa là cha, và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
34. Giới luật yêu thương.
Nếu chúng ta xem truyền hình hay nghe truyền thanh, chúng ta thấy chương trình nhiều lúc bị gián đoạn, xen vào đó là những khẩu hiệu của nhà nước, chẳng hạn:
– Thanh niên hăng hái làm nghĩa vụ quân sự.
– Đồng bào hãy tích cực đóng thuế.
Hồi trước năm 1975, người ta tổ chức những chương trình phát thanh thương mại, để quảng cáo các sản phẩm bày ban trên thị trường. Những lời quảng cáo ấy ăn sâu vào đầu óc thính giả đến nỗi ra chợ muốn mua một hộp kem đánh răng là người ta bèn nhớ ngay đến “anh bảy Chà Hynos”, muốn mua mấy viên thuốc bổ cho con, người ta bèn nhớ ngay đến Activit, “thuốc bổ gan bò tươi Hà Lan”. Sự lặp đi lặp lại đã tác động mạnh trên tâm trí và dẫn đến những hành động thích hợp.
Giáo hội là một người mẹ luôn để tâm giáo dục chúng ta, không phải là không biết đến cái định luật tâm lý ấy. Giáo hội đã áp dụng định luật ấy để mưu cầu phần rỗi cho chúng ta. Giáo hội không ngừng lặp đi lặp lại cho chúng ta biết cái bí quyết tạo hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua lời giảng dạy của Chúa Giêsu, Giáo hội muốn nhắc cho chúng ta hai giới luật quan trọng, đó là mến Chúa và yêu người.
Hãy thử xét mình xem chúng ta đã thực hiện như thế nào? Hay chúng ta chỉ là những kẻ giả dối vì việc chúng ta làm không phù hợp với lời kinh chúng ta đọc. Ngày nào chúng ta cũng đọc kinh kính mến, chúng ta thưa lên cùng Chúa: “Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng… lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Chúng ta không cảm thấy ngượng ngùng khi đọc như thế hay sao?
Khi kính mến ai hết lòng, chúng ta tránh làm cho họ buồn lòng và cố gắng đem lại hạnh phúc cho họ. Đằng này, chúng ta không vâng lời Chúa, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta kính mến Chúa hết lòng. Chúng ta mong ước cho kẻ khác gặp phải tai ương. Chúng ta giận hờn họ, nói hành nói xấu họ, chúng ta không thèm chào hỏi họ, thì làm sao chúng ta có thể nói được rằng chúng ta yêu thương họ như chính mình chúng ta.
Chúng ta tưởng rằng mình là kẻ ngoan đạo chỉ vì chúng ta chăm chỉ đi lễ, siêng năng đọc kinh và cảm thấy yên lương tâm. Nhưng nếu tạm gác những hình thức bề ngoài ấy để căn cứ vào tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau, thì liệu người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Giêsu hay không? Nếu chịu khó đọc lại những bức thư của thánh Gioan, chúng ta thấy ngài luôn luôn lặp đi lặp lại cái chủ đề yêu thương. Chính ngài đã xác quyết:
– Nếu ai bảo rằng mình mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em, thì họ chỉ là phường nói dối, vì ai không yêu thương kẻ khác là người mình trông thấy, thì làm sao có thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà mình chẳng nom thấy bao giờ. Phải chăng đó là một lời kết án gay gắt nhất cho những kẻ không yêu thương.
Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì lại khó, vì trong đời sống chúng ta có quá nhiều va chạm. Nào là cạnh tranh nghề nghiệp, củng cố địa vị, giành giật quyền lợi. Nào là những khác biệt về tính tình, tuổi tác và văn hóa… Vì thế, để yêu thương người khác, chúng ta phải cố gắng rất nhiều, nhất là phải cần đến ơn Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng: Muốn chiếm đoạt nước trời, thì phải kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em. Tình Chúa và tình người là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta vào nước trời.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện như sau: Shirieda là một thanh niên Nhật Bản, trong phi đội Thần Phong, sống sót sau một lần ném bom khi phi cơ bị trúng đạn. Tuyệt vọng vì nước Nhật đầu hàng, khi quả bom nguyên tử rớt xuống Nagasaky. Để trả thù cho dân tộc, anh quyết định đi ăn trộm bất cứ cái gì của những người Âu Châu. Trưa hôm ấy, anh lẻn vào kho của nhà dòng Salésien, nhưng chẳng may bị phát giác. Anh định bỏ chạy, nhưng liền bị bắt. Anh thú nhận vì cần đanh mà anh đã ăn trộm. Cha bề trên dân anh trở lại nhà kho,lấy cho anh một túi đanh và bảo:
– Lần sau, nếu cần gì, anh cứ đến với với tôi.
Anh ngạc nhiên trở về nhà và suốt đêm hôm ấy anh đã suy nghĩ về hành động bác ái trên. Sáng hôm sau, anh trở lại nhà dòng và nói với cha bề trên:
– Xin cha dạy con cũng biết sống yêu thương như cha.
Và cuối cùng, anh đã trở thành một linh mục Công giáo.
Hãy tuân giữ giới luật yêu thương, để chúng ta xứng đáng là những người môn đệ của Chúa. Và hơn thế nữa, chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn người khác đến cùng Chúa.
35. Chúa Nhật 31 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Khi đứng ngắm nhìn một ngôi nhà cao tầng, chắc mọi người không khỏi thán phục vẽ huy hoàng tráng lệ của nó. Ngôi nhà mà chúng ta đang xử dụng đây cũng thế. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những mảng tường, những gạch vụn không cùng liên kết với tổng thể, mà lại tách rời ra. Tôi chợt suy nghĩ: Ngôi nhà kia có được vẽ đẹp như thế, là nhờ những thứ dường như chẵng ra gì, nếu nó chỉ ở một mình. Chúng ta thử nghĩ, những viên đá nhỏ kia có thể làm được việc gì, chỉ là những thứ phải bỏ đi. Những hạt cát dơ bẩn kia cũng thế, nhiều khi chỉ làm cho chúng ta khó chịu vì sự hiện diện của nó bên cạnh chúng ta. Vậy mà khi chúng liên kết lại với nhau, nằm cạnh bên nhau, biết yêu thương giúp đỡ nhau, thì điều kỳ lạ đã xảy ra. Nếu có những hạt cát, hay những mãn gạch vụn tự tách lìa khỏi tổng thể đó, thì chính nó đã tự chọn con đường diệt vong, nó không thể tồn tại được. Nếu nó biết yêu thương giúp đở những bạn bên cạnh nó, thì nó cũng nhận sự giúp đở, để có thể vươn cao cùng các bạn. Nếu nó tự tách lìa, chỉ biết yêu thương có chính bản thân mình, không muốn yêu thương giúp đở các bạn ở bên cạnh, thì chẵng những nó không được yêu thương mà còn bị loại trừ ra khỏi cuộc sống.
“Điều răn trọng nhất là: Hỡi Israel, hãy nghe đây. Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Điều răn thứ hai là: ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi”.
Chúa Giêsu đã long trọng tuyên bố như thế để xác định lại qui luật sống cho những kẻ theo Ngài. Giới luật sống chỉ tóm gọn lại trong hai chữ Yêu Thương. Ngài đã yêu thương bằng hành động cụ thể, yêu thương bằng sự hòa nhập với người mà Ngài yêu thương, yêu thương để liên kết họ lại, để xây nên lâu đài của Tình Yêu. Nếu người nào muốn tách rời khỏi lâu đài tình yêu, chẵng những họ không được Yêu thương mà họ còn tự đi tìm con đường hủy hoại chính mình.
Chúng ta những con người đang sống, đang nắm vận mạng của vũ trụ, đang tận hưởng những tinh hoa của các bậc tiền bối, đang xây dựng lâu đài để truyền lại cho thế hệ tương lai. Chúa Giêsu nhìn chúng ta, mỉm cười nói rằng: “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Nếu trong đời sống chúng ta có thể sống hòa nhập với mọi người, nhìn thấy được nhu cầu của người khác để sẳn sàng phục vụ với tất cả tấm chân tình. Nếu chúng ta biết lắng nghe những tiếng kêu than, những lời nói chân thực nhưng đôi khi khó nghe, để biết sửa đối chính mình cho tốt hơn. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn thấy những cảnh thương tâm, để biết mở rộng đôi bàn tay mà giúp đở, hành động những gì cần thiết. Nếu chúng ta biết nhìn lại chính mình từng ngày, từng giờ, từng phút của cuộc sống, để nhìn thấy những gì cần phải sửa đỗi cho tốt hơn và can đảm sửa đỗi. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta rất xứng đáng nhận câu nói thấm đượm tình yêu thương của Chúa Giêsu. “Ngươi không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Trái lại nếu trong đời sống, chúng ta không thể hòa nhập, hay vì sợ tổn hại bản thân, mà tìm những lợi ích riêng tư, khi đó chúng ta không khác gì hạt cát, cũng như những viên đá chỉ nằm riêng lẻ, cô đơn, không ích lợi gì, nó không thể cùng các bạn vươn cao trong ngôi nhà, hay lâu đài của Tình Yêu.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho những gì chúng ta đọc bằng môi miệng qua mười điều răn, cũng khắc sâu vào tâm hồn, để biến thành hành động Yêu Thương thiết thực trong cuộc sống.
Mười điều ấy, tóm lại hai điều nấy mà chớ,
trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự,
sau lại yêu người như mình ta vậy.
36. Yêu người
Những ngày cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu ở Giêrusalem, Ngài luôn bị giới lãnh đạo Do Thái thay phiên nhau chất vấn để gài bẫy Ngài. Họ đã hạch hỏi Chúa lấy quyền gì mà xua đuổi những người buôn bán ở đền thờ? Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêda không? Bài Tin Mừng hôm nay lại cho biết: một ông kinh sư hỏi Chúa điều răn nào đứng đầu? Sở dĩ ông ta hỏi Chúa câu này, là vì luật của Do Thái lúc ấy gồm 613 điều, chia ra 248 điều tích cực buộc phải làm, và 365 điều tiêu cực cấm không được làm. Nhưng giới lãnh đạo không đồng ý với nhau điều nào đứng đầu, tức là điều nào quan trọng nhất, mỗi nhóm đặt nặng một điều. Vì thế, ông kinh sư này muốn hỏi Chúa để biết quan điểm của Chúa ra sao. Chúa đã trả lời ngay bằng cách trưng ra một điều trong sách Đệ Nhị Luật: “Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức”, và một điều nữa trong sách Lêvi: “Phải yêu người thân cận như chính mình”. Câu trả lời của Chúa hay quá, đúng quá, khiến mọi người hết sức kinh ngạc, và Tin Mừng cho biết: “Từ lúc ấy không ai dám chất vấn Chúa thêm điều gì nữa”.
Như vậy, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: điều quan trọng nhất của đạo Chúa là mến Chúa và yêu người. Đây là hai mặt của một tình yêu, cả hai chỉ là một, bỏ một tức là bỏ cả hai. Nói khác đi, nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”: yêu Chúa và yêu người.
Yêu Chúa thì chắc chắn tất cả chúng ta đều có thể quả quyết dễ dàng chúng ta yêu Chúa. Nhưng lấy gì làm bằng chứng? đó là lòng yêu người, nghĩa là căn cứ vào tình yêu của chúng ta đối với tha nhân mà người ta biết chúng ta có lòng yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu đã có lần nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau”. Vậy chỉ còn một vấn đề chúng ta cần tìm hiểu là chúng ta phải thực hiện lòng yêu người như thế nào.
Trước hết, chúng ta phải yêu thương bằng lời nói: yêu ai, người ta ca tụng họ, yêu mọi sự của họ, yêu cả nết xấu của họ nữa: “Yêu nhau yêu cả đường đi”. Nhưng ghét ai, người ta dùng ba tấc lưỡi để hành tỏi, nói xấu họ hết lời: “ghét ai ghét cả đường đi lối về”, “ghét cả tông chi họ hàng”. Cho nên, một thứ thước đo chính xác để biết mình có yêu thương người khác hay không là mình có nói tốt hay nói hành nói xấu họ. Người ta nói xấu nhau vì ghét nhau, vì không ưa nhau, vì thù oán nhau. Càng có nhiều liên hệ với nhau, người ta càng dễ nói hành nhau, mà cũng vậy, không gì đau khổ hơn và gương mù hơn khi những người thân thuộc nói xấu nhau.
Thể hiện tình yêu thương bằng lời nói, dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là yêu thương bằng việc làm. Việc làm đây là sự giúp đỡ bằng tay chân hành động, bằng sức khỏe, bằng thời giờ, bằng đời sống phục vụ… Đây là một cách thể hiện tình yêu thương rõ ràng và cụ thể nhất. Bởi vì yêu thương trong lòng, bằng ước muốn tốt, bằng thông cảm… thì vô hình không kiểm chứng được; yêu thương bằng lời nói có thể bị coi là lý thuyết suông, đầu môi chót lưỡi. Nhưng yêu thương bằng sự tận tâm giúp đỡ, bằng sự chấp nhận những hy sinh phiền toái của phục vụ… thì mới là yêu thương thực sự và dễ gây được kết quả tốt. Chẳng hạn: khi làm việc, biết nhận lấy phần trách nhiệm nặng hơn, không dừa cho người khác, sẵn sàng cho vay mượn khi cần thiết, khi có khả năng, khi có dịp; coi công việc của người khác cũng là của mình. Có những người chỉ cần chúng ta giúp một quyết định, một an ủi, một khích lệ, một lời cầu xin, một sự thông cảm, một lòng tôn trọng, một sự tha thứ… Có biết bao nhiêu dịp và biết bao nhiêu cách chúng ta có thể làm để giúp ích người khác.
Sau hết, yêu người, yêu thương nhau là chứng tích cho người ta nhìn nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ đến nhà thờ để nghe nói đến tình yêu của Thiên Chúa, có nhiều người không bao giờ được thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, nhưng người ta xem thấy cách chúng ta yêu thương nhau thật mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương nhau thì không ai đánh giá sai lầm về đạo của chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
37. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Đức Ông Nguyễn Quang Sách)
“NGƯƠI PHẢI YÊU MẾN ĐỨC CHÚA, THIÊN CHÚA CỦA NGƯƠI”
ROME – Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích về các bài đọc từ phụng vụ ngày Chúa Nhật 31 thường niên B như sau:
Một ngày kia có một người trong các kinh sự đến hỏi Chúa Giêsu trong mọi điều răn điều nào đứng đầu và Chúa Giêsu trả lới, trưng những lời trong luật: “Nghe đây hỡi Israel, Đức Chúa Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Nhưng Chúa Giêsu liền nói thêm có điều răn thứ hai giống như điều răn đó, là phải “yêu người thân cận như chính mình.”
Nếu chúng ta muốn hiểu ý nghĩa câu hỏi của vị kinh sư và câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cần ghi nhớ điều sau đây. Trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu có hai khuynh hướng đối nghịch.
Một đàng có một khuynh hướng nhân số mãi những điều răn và những lời giáo huấn của luật, tạo ra những qui tắc và những bắt buộc cho mọi chi tiết nhó nhất của sự sống. Đàng khác có sự ước muốn tím gặp dưới đống lộn xộn ngạt thở những qui tắc, những điều thật sự có giá trị cho Thiên Chúa, tinh thần của tất cả các điều răn.
Câu hỏi của kinh sự và câu trả lời của Chúa Giêsu được đặt gần những điều thiết yếu của luật, trong sư ước muốn không để mất trong hàng ngàn những giáo huấn tùy thuộc khác. Chính bài học này về phương pháp mà hơn hết chúng ta phải học từ bài tin mừng này. Có những sự trong đời sống là quan trọng nhưng không khẩn cấp (có nghĩa là không gì sẽ xảy ra nếu chúng ta để chúng qua một bên); và ngược lại, có những sự khẩn cấp mà không quan trọng. Nguy hiểm là chúng ta muốn hy sinh cách có hệ thống những điều quan trọng để theo đuổi những điều khẩn cấp nhưng thường là thứ yếu.
Làm sao chúng ta tránh được nguy hiểm này? Một câu truyện sẽ giúp chúng ta hiểu cách nào. Một ngày kia người ta xin một giáo sư già nói chuyện như một nhà chuyên môn với một số hiệp hội lớn Bắc Mỹ về sự quản lý thời giờ cá nhân.
Ong quyết định thử một thí nghiệm. Đứng trước một nhóm sẵn sàng ghi chú, ông kéo ra từ dưới bàn một bình thủy tinh to lớn, trống trơn. Ông bỏ một tá viên đá cỡ banh tennis trong bình đó cho đến khi đầy. Khi ông không còn khả năng thêm những viên đá nữa, ông hỏi những kẻ hiện diện: “ cái bình xem ra đầy đối với các anh phải không?” và họ trả lời “Phải!” Ong chờ một lúc và sau đó hỏi: “Các anh chắc không?”
Ong lại khum mình xuống và kéo một bình đầy sạn từ dưới bàn và cẩn thận trút những viên sạn vào trong bình, lắc cái bình một chút cho những viên sỏi có thể chạm những viên đá ở dưới đáy. Ông hỏi: “ Lần này cái bình có đầy không?”
Thính giả của ông, trở nên khôn hơn, bắt đầu hiểu và nói: “Có lẽ chưa.” Rất tốt!” vị giáo sư già phúc đáp. Ông lại khum mình xuống và lần này rút ra một bao cát và đổ vào trong bình cẩn thận. Càt nhét đầy những không gian giữa những viên đá và những viên sạn.
Rồi ông hỏi lại: “Bây giờ cái bình đầy không?” Và tất cả mọi người trả lời không do dự: “Không!” “Chắc chắn là thế,” vị giáo sư già nói và, như họ trông đợi, lấy bình nước từ trên bàn và đổ nước vào trong bình cho tới miệng.
Lúc này ông nhìn thính giả của mình và hỏi: “ “Thí nghiệm này dạy chúng ta chân lý lớn nào?” Người gan dạ nhất của nhóm, suy nghĩ về chủ đề đường lối hành động–sự quản lý thời gian– trả lời: “ Điều này chứng tỏ cho chúng ta rằng cả khi chương trình làm việc đã đầy, với một chút cố gắng chúng ta luôn có thể thêm một công việc khác, một sự gì khác để làm.”
“Không,” giáo sư trả lời, “Không phải vậy. Thí nghiệm chỉ cho chúng ta một cái gì khác. Nếu các anh không để những viên đá lớn trong bình trước hết, thì các anh không bao giờ có thể để chúng vào sau.”
Có một lúc yên lặng và mọi người hiểu rõ sự khẳng định này.
Giáo sự nói tiếp: “Cái gì là những viên đá lớn, những ưu tiên, trong đới sống các anh? Sức khoẻ? Gia đình? Bạn hữu? Bảo vệ một vấn đề? Hoàn thành điều gì gần tâm hồn các anh?
“Điều quan trọng là để những viên đá lớn này trong chương trình nghị sự các anh trước hết. Nếu các anh dành ưu tiên cho hàng ngàn việc nhỏ khác-những viên sạn, cát-đời sống các anh sẽ tràn đầy sự vô nghĩa và các anh sẽ không bao giờ có giờ hiến mình cho những việc thực sự quan trọng hơn.
“Như vậy, đừng bao giờ quên đặt câu hỏi này cho chính các anh: ‘Những điều quan trọng trong đời sống của tôi là gì?’ hãy đặt những sự này trên đầu chương trình nghị sự của các anh.”
Lúc đó, với một cử chỉ thân hữu giáo sư già chào tạm biệt thính giả của mình và rời phòng.
Với ‘những viên đá lớn” do giáo sư nhắc tới-sức khoẻ, gia đình, các bạn hữu-chúng ta cần thêm hai cái khác, to nhất trong tất cả, hai điều răn lớn nhất: hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận.
Thật vậy, yêu mến Thiên Chúa, còn hơn một giới răn, là một ưu tiên, một sự nhượng bộ. Nếu một ngày chúng ta gặp Người, chúng ta sẽ không thôi tạ ơn Chúa đã truyền chúng ta phải yêu mến Người và chúng ta sẽ không muốn làm gì khác hơn là bối đấp tình yêu này.
38. Sống như con người
Hãy yêu thương nhau.
Có một ngôi làng kỳ lạ, trông từ xa thì quả là trật tự và đẹp đẽ. Chín mươi chín ngôi nhà trong làng đều được thiết kế giống nhau: một thửa vườn xanh um được một tường bức kiên cố bao bọc.
Nhưng điều đáng nói hơn cả là ở trước cổng, nhà nào cũng có một cái chuồng chó. Chín mươi chín con chó có nhiệm vụ bảo vệ nhà cửa và dân làng. Một bóng người thoáng qua trước cửa cũng đủ làm cho con chó sủa vang. Có khi cả chín mươi chín con cùng sủa một lúc.
Vì sống quá cách biệt, dân làng cũng chẳng có gì để nói với nhau. Âm thanh duy nhất mà họ được nghe suốt ngày là tiếng chó sủa. Dần dần âm thanh ấy trở thành quen thuộc đến nỗi người dân trong làng tưởng rằng đó chính là ngôn ngữ của họ. Mở miệng ra để nói với nhau thì ai cũng gào, cũng sủa.
Tình cờ có một người khách đi qua. Tếng chó sủa hàng loạt làm cho anh ta muốn tìm hiểu về ngôi làng. Anh ta đến gần một người đàn bà để hỏi chuyện, thế nhưng anh ta vô cùng ngạc nhiên bởi vì chính người đàn bà đã nói với anh ta bằng cách sủa.
Anh ta lại tiếp tục điều tra và càng ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy tiếng nói của bất kỳ ai trong làng cũng chỉ là tiếng sủa mà thôi. Và rồi anh ta đã kết luận:
– Chắc hẳn đây là một thứ bệnh dịch cần phải báo cho hội đồng làng để tìm cách chữa trị.
Gặp ông chủ tịch, anh đã đề nghị trước hết phải phá đổ những bức tường và cổng nhà. Tiếp đến là đưa chó vào rừng để săn bắn nhờ đó chúng sẽ trở nên hiền hòa hơn. Và sau cùng, tổ chức một ngày đại hội để mọi người làm quen với nhau và tập nói lại ngôn ngữ của loài người.
Vừa nghe xong, ông chủ tịch cũng chỉ thốt lên những tiếng gâu gâu như tiếng chó sủa. Anh ta buồn bã bỏ làng ra đi. Sau lưng còn vang vọng những tiếng sủa không phải của chín mươi chín con chó, mà còn có sự phụ họa của cả dân làng.
Trong cuộc sống chúng ta thấy quyền tư hữu là điều căn bản, nó gắn liền với sự sinh tồn. Xây một ngôi nhà, dựng một bức tường là để thể hiện quyền lợi ấy. Ai cũng muốn của cải của mình được an toàn.
Thế nhưng, sự phòng vệ nào cũng có thể đưa tới cực đoan. Thay vì phòng vệ để sống thì người ta chỉ còn sống để mà phòng vệ. Thay vì sống với người khác, thì họ chỉ sống để chống lại người khác. Cuộc đời dần dần mất đi ý nghĩa của nó, người ta không còn sống như con người mà chỉ còn sống với nhau như những con vật, đúng như một câu danh ngôn đã diễn tả:
– Người với người là chó sói của nhau.
Sống như con người hay sống như con vật đó là một thách thức ngàn đời của nhân loại. Muốn sống như con vật chúng ta chỉ cần trang bị cho mình ngôn ngữ và nanh vuốt dễ gầm gừ và cắn xé lẫn nhau. Còn nếu muốn sống như con người, chúng ta cần phải đánh đổ mọi bức tường ngăn cách, cần phải bẻ gẫy mọi nanh vuốt và nói với nhau bằng ngôn ngữ của tình yêu, của cảm thông, của tha thứ… Có nghĩa là chúng ta cần phải thực thi lời Chúa truyền dạy:
– Hãy yêu thương anh em như chính bản thân mình.
39. Mến Chúa yêu người
Đạo của Chúa là đạo tình yêu, vì chính Ngài là tình yêu. Ngài muốn cho tất cả và mời gọi tất cả nhân loại vào sống trong tình yêu với Ngài. Ngài đã làm tất cả cho dù phải hy sinh con yêu dấu của Ngài để tỏ lòng yêu thương chúng ta. Ngài chỉ muốn có một điều là chúng ta kính mến Ngài và bắt chước Ngài yêu thương anh em.
Mến Chúa và yêu người tuy không đồng hạng nhưng phải đồng hành với nhau một cách khắng khít. Nói mến Chúa mà không yêu người hay yêu người mà không mến Chúa đều là những kiểu nói không thực. Hai điều răn này “giống nhau” ở tầm quan trọng chứ không phải ở bản chất và đối tượng. Không thể đồng hóa mến Chúa và yêu anh em là một. Nhưng cũng không thể mến Chúa mà lại ghét anh em hay ngược lại. Chính ra phải nói rằng: nếu tôi mến Chúa thì nhất thiết tôi phải yêu anh em, nếu không tình yêu của tôi đối với Chúa đáng ngờ lắm. Mọi tình yêu phải phát xuất từ Chúa. Chúa Giêsu không làm hại luật, nhưng chỉ làm sáng tỏ luật yêu thương được chứa đựng trong các sách lề luật và các ngôn sứ. Chúng ta có một tấm gương tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người, đó là cái chết thập giá của Đức Kitô. Ngài chết vì mến Chúa Cha và yêu thương chúng ta.
Kính nhớ Chúa Giêsu chịu chết và sống lại trong hiến tế Thánh Thể chính là kính nhớ đến tình yêu của Ngài và qua đó nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, cử hành Thánh Thể chính là cử hành tạ ơn: tạ ơn Đức Kitô và nhờ Ngài tạ ơn Chúa Cha. Nhìn ngắm Đức Kitô và nhất là được hiệp thông với Ngài, chúng ta xin được thêm mến Cha trên trời và yêu thương tha nhân như Ngài đã làm gương cho chúng ta.
Như vậy, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, hãy sống như Chúa Giêsu: mến Cha trọn vẹn và yêu nhau tròn đầy. Chắc có người muốn hỏi: làm sao có thể yêu thương một người làm thiệt hại đến của cải của mình, xúc phạm đến danh dự của mình? Lời Chúa không cho phép chúng ta thắc mắc như thế. Không được phân biệt đối tượng yêu thương. Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống yêu mến một cách trọn vẹn. Với người tốt, tình yêu được diễn tả như những người cùng ở trong nhà Cha, sống trong tình yêu của Thiên Chúa Cha. Với người xấu, tình yêu được diễn tả qua việc giúp người ấy trở về nhà Cha. Như thế, cho dù người khác có bất cứ thái độ nào, người Kitô hữu chúng ta không có chọn lựa nào khác hơn là yêu mến. Vấn đề là ở chỗ diễn tả tình yêu ấy ra ngoài bằng thái độ nào cho xứng hợp. Đây phải là ưu tư hàng đầu của người Kitô hữu khi phải đụng chạm với thực tế cuộc sống.
Có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì là không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa nên không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục thì hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai.
Cái hợp lý theo suy luận của loài người là: Ngài yêu tôi thì tôi phải yêu Ngài. Nhưng Thiên Chúa đâu cần ai yêu Ngài. Muốn trả ơn Ngài thì tôi phải yêu anh em. Đó là cái hợp lý đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không đến chinh phục tôi cho Ngài, nhưng chinh phục tôi cho anh em tôi. Ngài yêu thương tôi là để mời tôi nhập vào tình yêu của Ngài: cùng với Ngài yêu anh em mình: “Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau”.
Tóm lại, đừng nhân danh Thiên Chúa để hủy diệt con người, cũng đừng nhân danh con người để hủy diệt Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa không tiêu diệt tình yêu đối với con người, nhưng làm cho tình yêu nơi mỗi người phát triển tới mức cao nhất, trọn hảo nhất. Tình yêu ấy được diễn tả trong mỗi thánh lễ khi lãnh nhận lời Chúa, Mình Thánh Chúa và khi trao ban bình an cho nhau. Xin cho mỗi thánh lễ chúng ta dâng, không kết thúc tại nhà thờ nhưng kéo dài trong cuộc sống. Tình yêu Chúa được nung đốt ở nhà thờ phải được tỏa lan đến từng gia đình, từng cá nhân tin vào Ngài.
40. Chúa Nhật 31 Thường Niên
THƯA THẦY ĐÂU LÀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT?
(Suy niệm của Lm. Việt Toàn)
Vào thời Chúa Giêsu, các Luật sĩ Do Thái truyền dạy không phải chỉ giữ 10 giới răn mà là 613 khoản luật. Trong số này có 365 luật truyền, luật tích cực, tương ứng với số ngày trong năm, và 248 luật cấm, luật tiêu cực, tương ứng với con số bộ phận trong cơ thể theo suy luận của người Do Thái. Đối với các luật sĩ thời Chúa Giêsu thì giới răn nào cũng quan trọng, bỏ 1 điều là bỏ cả lề luật.Thế nhưng trong thực tế,chẳng người Do Thái nào có thể giữ được tất cả 614 khoản luật. Vậy, làm sao có thể trở nên trọn lành? Người ta đã phải tìm xem khoản luật nào quan trọng hơn để cố gắng tuân giữ triệt để, còn khoản luật nào kém quan trọng thì giữ được chừng nào hay chừng ấy.
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Marcô ghi nhận lại cho chúng ta một sự việc trớ trêu. Một luật sĩ, giới người này thường tự hào về sự hiểu biết về luật, và có quyền giải thích luật lại đi hỏi Chúa Giêsu mà đối với người Do Thái không thuộc nhóm luật sĩ. Vì thế câu hỏi: “thưa thầy đâu là giới răn trọng nhất “ của luật sĩ này mang tính tra vấn xem Chúa Giêsu theo phe nhóm nào hơn là tìm kiếm chân lý.Phần Chúa Giêsu, bất chấp ý đồ của người hỏi, Ngài hướng mọi người nghe lời Ngài đến một điểm then chốt của lề luật, là Thánh ý Thiên Chúa: “Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như chính mình” và Chúa Giêsu nhấn mạnh thêm: “không có giới răn nào lớn hơn các giới răn ấy”.
Xét một cách tổng quát, câu hỏi của luật sĩ trong Tin Mừng hôm nay cũng là câu hỏi quen thuộc của rất nhiều người vụ hình thức và ưa số lượng.
Đối với những việc phải làm, những điều phải tuân giữ, họ thường xét xem có quan trọng hay không. Nếu không quan trọng thì không làm, không giữ, hay chỉ làm và tuân giữ khi nào thuận tiện. Những công việc mà họ biết là quan trọng, thì họ còn cẩn thận xem xét tuân giữ và làm bao nhiêu là đủ, bỏ qua bao nhiêu lần thì không mắc tội trọng. Cách sống đạo như thế có khác gì luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu. Biết bao nhiêu người đi dự lễ Chúa nhật thản nhiên đến nhà thờ sau bài đáp ca hay vội vã ra về khi cộng đoàn còn đang rước lễ vì lý luận rằng: chưa mất một phần quan trọng của Thánh lễ.
Đối với những điều luật cấm cũng vậy. Cố gắng lắm họ mới không phạm đến những điều họ biết là tội trọng. Còn nếu biết là chỉ mắc tội nhẹ thì họ yên trí. Chỉ nguyên đặt vấn đề: “ làm việc này, việc kia có tội hay không “ đã là một bất xứng đối với một Kitô hữu chân chính rồi.
Thưa anh chị em, Lời Chúa dạy chúng ta sống mến Chúa yêu người và mọi người chúng ta đều thuộc lòng giới răn đó. Nhưng trong chúng ta vẫn có những người sống đạo như biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu. Lý do là vì họ thiếu tình yêu, hay đúng hơn họ chỉ yêu mình chứ không yêu Chúa và yêu thương người khác.
Vì không yêu Chúa nên người ta chỉ thi hành những điều Chúa dạy một cách miễn cưỡng, tắc trách, qua lần chiếu lệ.
Vì không yêu mến Chúa nên người ta không sợ làm phiền lòng Chúa trong những điều ít quan trọng. Có tránh phạm tội trọng chẳng phải là để kính sợ Chúa mà là vì sợ chết sa hoả ngục.
Vì lòng không yêu người cho nên trong cuộc sống không cần tôn trọng quyền lợi, danh dự, phẩm giá của bất cứ ai. Điều ngăn cản để người ta không xúc phạm đến anh em, không sa phạm vào tội ác, cũng chỉ là vì sợ phải sa hoả ngục. Còn nếu không tin có hoả ngục, thì dầu còn tin vào Thiên Chúa, người ta vẫn dám phạm đủ mọi loại tội trái nghịch với đức bác ái và yêu thương.Đó là một hậu qủa của một lòng đạo thiếu trái tim, thiếu tình yêu, không muốn tuân giữ giới răn mến Chúa và yêu người.
Tóm lại: chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới có thể yêu thương đến vô cùng. Chỉ trong Thiên Chúa, mỗi chúng ta mới cảm nhận phẩm giá đích thực của một người, dù đó là một thai nhi, một phạm nhân hay một người mất trí. Tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa sẽ đưa mỗi chúng ta về với anh em. Tình yêu anh em đòi mỗi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục yêu tha nhân trong Chúa và yêu Chúa nơi tha nhân.
41. Hai giới răn
Một trong các công việc thiêng liêng nhất mà một người Hồi giáo có thể làm là thực hiện việc đi đến Méc-ca, nơi sinh của Môhamét. Đó là một trong năm điều căn bản nhất của đạo Hồi.
Ngày xưa có ông vua mèo thực hiện một cuộc hành hương đến Méc-ca. Khi ông vua mèo trở về, ông vua chuột thấy mình có bổn phận phải đến chúc mừng vua mèo. Nhưng khi những con chuột khác nghe được điều ấy, chúng lo sợ cho sự an toàn của nhà vua. “Mèo là kẻ thù của chúng ta, nhà vua không thể tin hắn được”. Chúng nói.
“Ồ, giờ đây ông ấy đã đi hành hương Méc-ca, ta hy vọng nhìn thấy một sự thay đổi lớn lao nơi ông ta. Ta nghe nói ông ta đã cầu nguyện năm lần mỗi ngày”, vua chuột đáp lại.
Thế là vua chuột ra đi. Khi đến vương quốc của mèo, vua chuột nhìn thấy đối thủ của mình từ xa và những gì vua chuột nhìn thấy thật ấn tượng. Vẫn còn mặc bộ y phục hành hương, vua mèo đang đắm chìm trong kinh nguyện. Tuy nhiên khi vua chuột vừa mới đến gần hơn, vua mèo đã nhảy đến để vồ chụp con mồi. May mắn là vua chuột đã nhanh chân trốn thoát xuống một cái lỗ. Sau đó nó gặp lại những con chuột khác.
“Nhà vua du hành thế nào”? Đám bề tôi chuột nóng lòng hỏi. “Có thật là kể từ lúc ông ta đi hành hương Méc-ca về, ông ta là một con mèo đã thay đổi?”
“Tôi e rằng anh em đã nói đúng”, vua chuột đáp. “Mặc dầu hắn cầu nguyện như một người đi hành hương, hắn vẫn cứ vồ chúng ta như bất cứ con mèo nào”.
Tách rời hai giới răn cao trọng thì dễ dàng biết bao và nghĩ rằng chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận.
Hai giới răn ấy có quan hệ qua lại với nhau một cách thiết yếu. Lòng yêu thương chân thành người lân cận trào ra từ lòng yêu mến Thiên Chúa; mặt khác, không thể có lòng yêu mến Thiên Chúa chân thành nếu lòng yêu mến này không được thể hiện bằng lòng yêu thương người lân cận. Điều này còn tốt hơn việc dâng của tế lễ. Người ta dễ dàng lấy nghi thức thế chỗ cho tình yêu thương. Và rồi người ta đi đến một thứ tôn giáo không có tình yêu thương.
Tội lớn nhất của chúng ta không phải là chúng ta không yêu thương người lân cận mà là chúng ta không thèm biết đến họ. Như thế, làm sao có thể là người lân cận của họ theo ý nghĩa của Tin Mừng? Điều tệ nhất là sự lãnh đạm, thờ ơ.
Kinh Thánh nói chúng ta phải yêu thương người lân cận và cũng phải yêu cả kẻ thù của mình. Theo G.K. Chesterton, lý do của điều này có lẽ là một cách tổng quát, họ cùng là một dân tộc. Và có một lý do nhân bản của điều đó. Chúng ta nghĩ về một người xa lạ trên con đường thẳng: thế thì chúng ta nghĩ về người ấy như một con người. Nhưng chúng ta không nghĩ về người ấy giống như người lân cận ở kế bên nhà chúng ta. Người ấy không là một con người mà chỉ là một môi trường: một tiếng chó sủa, hoặc tiếng mũi khoan hay tiếng dương cầm.
Nhiều người gặp các vấn đề khó khăn do một người đặc biệt gây ra. Người này có thể là một người láng giềng hoặc là một thành viên trong gia đình. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta nên tránh hành động kiểu ăn miếng trả miếng. Làm như thế chỉ làm cho tình tình xấu thêm. Chúng ta phải cố gắng duy trì sự liên lạc với người ấy, dù rằng chỉ là vấn đề nói một tiếng chào buổi sáng hoặc buổi tối. Và rồi chúng ta phải cầu nguyện cho người ấy. Nếu chúng ta có thể cầu nguyện cho một người một cách chân thành thì điều này giữ cho tâm hồn chúng ta khỏi chất chứa những điều đắng cay và thù hận.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy gieo trồng yêu thương và sẽ gặt được yêu thương.
Nơi nào không có yêu thương, chúng ta hãy đem đến yêu thương và sẽ tìm thấy yêu thương.
Tôi tìm Thiên Chúa và đã không thấy Người.
Tôi tìm linh hồn tôi và nó tránh né tôi.
Tôi tìm người lân cận và đã tìm thấy cả ba.
42. Thiếu sót
Thiếu sót tình yêu thương là thiếu sót lớn của Kitô hữu. Khổ nỗi, ít khi nó được xem như một tội. Người ta thừa nhận là có tội khi nó gây thiệt hại cho người lân cận nhưng không coi là tội khi thiếu sót hoặc từ khước yêu thương.
Người ta kể lại một câu chuyện về người bán chiếc xe “dỏm” cho một người nước ngoài, rồi đi xưng tội. Sau đó, người ấy gặp một người bạn cũ trong quán rượu. Khi người bạn này nghe nói ông ta đã đi xưng tội, liền nói “Tôi hy vọng anh đã kể lại cho linh mục nghe anh lừa gạt người mua xe như thế nào”.
“Đời nào tôi làm thế”, ông ta trả lời. “Tôi xưng ra các tội của tôi cho linh mục. Nhưng linh mục không có quyền biết công việc kinh doanh của tôi”.
Nguy hiểm lớn đe dọa người-đi-nhà-thờ là họ không biết mối liên quan giữa việc họ làm trong nhà thờ ngày Chúa nhật với việc làm trong quan hệ với người lân cận vào những ngày khác trong tuần.
Người ta có thể xem xét lương tâm mình nhưng không đụng gì đến toàn cảnh: Người có lương tâm làm tròn bổn phận của mình, lương thiện trong công việc làm ăn, công bằng, tôn trọng và hợp tác với những người sống cùng một mái nhà v.v… Với những người như thế, tôn giáo tách rời khỏi đời sống và trở thành một vấn đề riêng tư giữa họ và Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, một tôn giáo như thế giống là sự bóp méo, xuyên tạc. Tệ hơn nữa là một điều đáng ghét.
Phân ly hai giới răn lớn ấy là việc rất dễ dàng. Trong một ý nghĩa nào đó, chỉ có một giới răn duy nhất – giới răn của tình yêu. Nó giống như một đồng tiền, một thực thể có hai mặt. Không thể có mặt này mà không có mặt kia, không phải chúng ta ghét những người lân cận của chúng ta. Không, chúng ta không ghét những người lân cận. Nhưng chỉ vì chúng ta khước từ đưa họ vào trái tim chúng ta. Nếu sự thật được nói ra, chúng ta lãnh đạm và thờ ơ với họ.
Mọi người trong chúng ta có khả năng yêu thương to lớn, nhưng khổ nỗi, hiếm khi chúng ta sử dụng hết. Diễn viên Christopher Reeve, nổi tiếng về hình tượng siêu nhân mà ông thể hiện trong phim ảnh. Tuy nhiên, trong một tai nạn té ngựa, ông bị liệt từ cổ trở xuống và phải ngồi xe lăn. Ông nói ông đã nhận được 100.000 lá thư bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của quần chúng. Điều này dẫn ông đến chỗ hỏi rằng: “Tại sao cần phải có một bi kịch trước khi chúng ta bày tỏ sự cảm kích của chúng ta đối với một người khác?”
Chúng ta bày tỏ điều đó quá chậm và đầy sự hối tiếc. Chúng ta chờ cho đến khi quá muộn để nói và tỏ cho người khác thấy rằng chúng ta yêu họ. Chúng ta bày tỏ quá muộn ý muốn sửa chữa một mối bất hòa, quá chậm nỗi vui mừng về sức khỏe và quà tặng của con cái hoặc cha mẹ chúng ta.
Đức Giêsu nói với người Kinh sư: “Ông không còn xa nước Thiên Chúa đâu!” Biết rõ về hai giới răn quan trọng nhất là bước đầu tiên. Đem chúng ta thực hành là bước thứ hai. Chúng ta không còn xa nước Thiên Chúa là bao – Chỉ cần thêm một bước nữa. Để thực hiện được bước này, chúng ta cần Thiên Chúa chạm tay Người vào tâm hồn chúng ta.
43. Hoàn hảo hơn
(Suy niệm của Lm. P. Huỳnh Ngọc Tiên)
Chúa Giêsu đã từng phán: “Ta đến không phải để phá luật lệ mà để làm trọn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay minh chứng điều đó: “Luật mới hoàn hảo hơn luật cũ.”
Phúc Âm, (bài đọc 3) kể lại người luật sĩ kia, có vẻ lúng túng vì luật lệ đạo cũ quá nhiều và phức tạp, đến hỏi Chúa Giêsu rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Và Chúa Giêsu, sau khi kê hai giới răn, mến Chúa, yêu người, đã thêm rằng: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.” Chúa không đưa ra điều răn nào mới lạ cả. Điều răn thứ nhất rút ra trong sách Đệ nhị luật (bài đọc 1) ông Môisen bảo dân Do Thái: “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi…” Điều răn thứ hai rút trong sách Lêvi (19,18): “Ngươi sẽ không báo oán cừu hờn với các dân ngươi, nhưng ngươi sẽ yêu mến đồng loại ngươi như chính mình…” Có điều mới lạ chăng? Là Chúa ráp hai giới răn đó lại làm một: vì quan trọng như nhau và không tách rời nhau. Hễ mến Chúa là phải yêu người. Càng mến Chúa thì càng yêu người. Yêu người, không những bà con bạn hữu mà lại cả kẻ thù nghịch nữa. Chính ông luật sĩ cũng đã tán đồng ý tưởng Chúa: “Đúng lắm! Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình và yêu người như chính mình, thì hơn mọi lễ hy sinh”.
Trong thơ gởi tín hữu Do Thái (bài đọc 2), Phaolô cũng minh chứng Giao Ước mới hoàn hảo hơn Giao Ước cũ. Thánh nhân lấy ví dụ người tư tế. Theo Cựu Ước, người tư tế và lễ vật hiến tế khác nhau. Theo Tân Ước, Tư tế và lễ vật cũng là một. Chúa Giêsu vừa là Thầy Tư tế vừa là Lễ vật. Chúa tự dâng mình làm lễ tế thượng tiến Chúa Cha. Xưa phải có nhiều tư tế: vì các tư tế hay chết, nên phải có nhiều để tuần tự nối tiếp nhau mà tế lễ. Nay một mình Chúa Giêsu, vì Người không chết nữa, là thượng tế đời đời. Lễ Misa hằng ngày cũng là lễ tế xưa Chúa truyền lại để nhắc đến Người: “Các con hãy làm việc này để nhớ đến Ta”. Vậy Phaolô quả quyết rằng: “Người làm việc ấy chỉ có một lần, khi hiến dâng chính mình. Vì lề luật thì đặt nhiều người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau lề luật, thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng Tế đến muôn đời”. Cho nên Lễ tế mới hoàn hảo hơn Lễ tế cũ.
Có xưa mới có nay, có cũ mới có mới, luật cũ, luật mới cũng đều do Chúa ban ra cả. Chúa dùng Môisen truyền rao luật cũ, Chúa sai Con Một mình là Đức Kitô rao truyền luật mới. Chúa dùng vật chất cụ thể đưa lần người ta đến trừu tượng thiêng liêng. Tân Ước chính là viên mãn Cựu Ước mà Chúa là tác giả chính: Vì chỉ có mình Chúa mới có quyền ra lề luật cho nhân loại.
Tân Ước hay Cựu Ước đều là Lời Chúa hay ban sự sống. Chúng ta có bổn phận phải lĩnh hội để được sống. Như Chúa Giêsu đã phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Ý thức như thế, âu là được Chúa cũng sẽ bảo như đã bảo ông luật sĩ: “Ông không xa nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
44. Cầu thang
Chúng ta sống trong một thời đại nó khuyến khích lòng ích kỷ. Trong các cuộc bầu cử các ứng viên vào cơ quan công quyền thường gợi ý cho những người có quyền bỏ phiếu: “Ngày hôm nay, tôi có khá hơn bốn năm trước đây không?” Điều đánh vào ích kỷ cá nhân này thành công nhiều hơn khi hỏi các người có quyền bỏ phiếu: “Có phải xã hội hôm nay tốt hơn trước kia không?”
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa quan tâm sâu sắc về cách đối xử của chúng ta với nhau. Ơn gọi của chúng ta là yêu thương. Và, bất chấp mọi việc, chúng ta được tác động bởi lòng vị tha. Chúng ta đau nỗi đau của người khác. Chúng ta cảm thấy mình được triển nở khi làm điều tốt lành, hơn cả khi tạo ra nhiều vật chất và tiền bạc. Tính quảng đại đem lại phần thưởng của chính nó. Niềm vui tuôn trào từ bên trong chúng ta khi chúng ta làm một việc tốt lành vì người khác. Nhưng khi chúng ta từ chối làm một việc tốt lành cho người khác, thì một nỗi buồn xa lạ chụp xuống chúng ta.
Maimonides là một vị thầy Do thái nổi tiếng sống ở Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ mười hai. Ông nhấn mạnh tám cấp độ, hay tám bước trong cái gọi là cầu thang của bác ái.
1. Cấp độ thứ nhất và thấp nhất là bố thí, nhưng với sự miễn cưỡng và hối tiếc. Đó là sự bố thí của bàn tay mà không phải là sự bố thí của tấm lòng.
2. Cấp độ thứ hai là sẵn lòng bố thí, nhưng không tương xứng với cảnh khốn cùng của nạn nhân.
3. Cấp độ thứ ba là sẵn lòng bố thí và tương xứng với nhu cầu, nhưng không đến mức mà chúng ta được yêu cầu.
4. Cấp độ thứ tư là sẵn lòng bố thí, cả khi không được yêu cầu, nhưng đặt nó vào tay của người nghèo, bằng cách ấy gợi ra trong lòng người ấy một cảm xúc đau đớn và hổ thẹn.
5. Cấp độ thứ năm là bố thí cách nào cho người nghèo khổ nhận của bố thí mà không biết đến người cho và người cho cũng không biết họ.
6. Cấp độ thứ sáu là biết người nhận của bố thí của chúng ta trong lúc không để cho họ biết chúng ta.
7. Cấp độ thứ bảy là cho của bố thí cách nào để người cho không biết người nhận, hoặc người nhận không biết người cho.
8. Cấp độ thứ tám và là cách đáng khen nhất. Đó là thực hiện trước việc bác ái bằng cách ngăn ngừa sự nghèo khổ. Điều này được thực hiện bằng cách cho một món quà hoặc cho vay một món tiền để người nghèo có khả năng tự lập, hoặc bằng cách dạy cho họ buôn bán hoặc dẫn dắt họ vào con đường kinh doanh, để họ có thể kiếm sống một cách lương thiện, và không bị bắt buộc phải dùng giải pháp đáng buồn là ngửa tay xin bố thí.
“Một trong những điều tốt nhất có thể xảy ra cho một người là làm điều tốt mà không ai biết và chỉ bị phát hiện bởi sự tình cờ”. (Mark Twain)
45. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Nếu anh em của ngươi là những người ngươi thấy được mà ngươi lại không yêu thương, thì làm sao ngươi có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng ngươi không thể thấy được?”
Cha George Anderson là tuyên uý cho một nhà tù hết sức nghiêm khắc tại Riker’s Island thuộc tiểu bang New York. Cha thành lập một nhóm bàn việc cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa cho một số tù nhân. Nhóm này thường đọc đoạn Kinh Thánh nói về người Samaritanô nhân hậu trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Sau đó họ thường yên lặng suy gẫm đoạn Thánh Kinh đó rồi chia sẻ với nhau về cách thức áp dụng tinh thần của đoạn Kinh Thánh đó vào cuộc sống hằng ngày của họ.
Một buổi tối nọ, có một tù nhân tên Richard, thuộc khu những người rối loạn tâm thần, lần đầu tiên đến chia sẻ với nhóm. Cha Anderson mô tả câu chuyện xảy ra như sau:
“Đó là một buổi tối loäng gió vào tháng Ba. Trong phòng không đủ ấm. Người bạn ngồi đối diện với Richard chỉ mặc một chiếc áo mỏng và chiếc quần dài nên đang lạnh run. Trên vai Richard thì khoác những hai chiếc mền. Thế là trong lúc chúng tôi đang bàn luận về ý tưởng tương trợ lẫn nhau, đột nhiên Richard đứng lên, tiến đến người bạn tù kia, và choàng một chiếc mền lên người bạn ấy.”
Cử chỉ không lời của Richard gây ấn tượng mãnh liệt cho cả nhóm hơn bất cứ mọi lời đang thốt ra. Nó cũng nêu ra được điểm quan trọng mà chính Chúa Giêsu đã đề cập trong bài Phúc Âm hôm nay.
Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân là hai tình yêu đi đôi với nhau như hai mặt của một đồng tiền không thể tách rời nhau được. Nói cách khác, chúng ta không thể cầu nguyện với Chúa bằng những lời thật dễ thương giống như những tù nhân đã cầu nguyện trong nhóm chia sẻ của họ, nếu chúng ta không đối xử với những người bên cạnh chúng ta bằng những hành động và cử chỉ đầy yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã nhấn mạnh điểm này trong lá thư thứ nhất của ngài. Người nói thẳng thừng: “Nếu ai nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, kẻ ấy là một tên nói dối. Bởi vì hắn ta không thể yêu mến Chúa là Đấng hắn không thấy, nếu hắn không yêu người anh em hắn là kẻ hắn thấy được. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho chúng ta huấn lệnh này: ‘Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu mến anh em mình’“ (1 Gn 4: 20)
Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Người đòi buộc chúng ta yêu mến Thiên Chúa, hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi chúng ta không yêu thương anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Thực thế, chẳng bao lâu chúng ta sẽ không còn tiếp xúc được với Thiên Chúa và với linh hồn bất tử của mình nữa. Một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
“Tôi tìm linh hồn tôi, nhưng hồn tôi nào thấy được. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa lại lẩn tránh tôi. Tôi tìm kiếm anh em tôi, thì tôi lại gặp được cả ba người tôi muốn tìm ấy”.
Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
Bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy ví như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng sẽ chẳng gặp được người kia.
Bài Phúc Âm hôm nay bao hàm một trong những giáo huấn quan trọng nhất trong toàn bộ Phúc Âm. Nó mời gọi chúng ta tự đặt cho mình một trong những câu hỏi quan trọng nhất.
“Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào?” Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Thiên Chúa nồng nàn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Cách đây ít lâu, tờ Dallas Morning News (Dallas Tin Sáng) có đăng lá thư của một thiếu phụ nọ viết nhân cái chết của mẹ mình, trong đó có đoạn này:
“Mẹ tôi sống gần chỗ tôi, việc dành chút ít giờ pha cho mẹ một tách trà nóng, hay tỏ ra một cử chỉ yêu thương đối với mẹ lẽ ra đối với tôi phải là một việc rất dễ dàng… khi tôi gọi địên thoại cho mẹ, tôi lại nói quá vắn tắt và vội vàng. Tôi cảm thấy thật xấu hổ khi nghĩ lại những lần tôi cúp điện thoại cho lẹ khi nói chuyện với mẹ. Lúc đó tôi nói với mẹ: ‘Tiếc quá, con phải đi ngay, mẹ ạ!’. Thế giới đầy dẫy những người giống như tôi. Tôi hy vọng trong số những người con ấy, nhiều người sẽ nhận ra điều này… và biết rút ra bài học cho mình”.
Tôi chắc chắn nhiều người trong chúng ta cảm thấy những lời nhận xét của thiếu phụ này cũng đúng đối với mình. Chúng ta cũng đã từng cư xử với cha mẹ con cái chúng ta hoặc những ai cần đến tình thương và sự âu yếm của chúng ta, một cách tương tự, như người thiếu phụ trên.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xem xét lại cuộc sống và tự vấn xem chúng ta có giống người thiếu phụ viết lá thư đăng trong tờ “Dallas Tin Sáng” kia không? nếu có thì bài Phúc Âm hôm nay là lời kêu gọi của chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta làm một điều gì đó để sửa đổi lại thái độ của chúng ta.
Để kết thúc, tôi xin lặp lại những lời trích từ Phúc Âm ngày hôm nay; “Một vị tiến sĩ luật tiến đến hỏi Chúa Giêsu: giới luật nào là quan trọng nhất? Chúa Giêsu trả lời; Giới luật quan trọng nhất là; Ngươi hãy yêu Chúa ngươi hết lòng, và giới luật thứ hai cũng quan trọng như thế: Ngươi hãy yêu láng giềng ngươi như chính ngươi. Không giới luật nào quan trọng hơn hai giới luật này”.
46. Độc đáo
Có một giáo lý viên kia đang dạy đạo cho một người dự tòng. Một hôm, người dự tòng hỏi “Điểm đặc biệt nhất của đạo Công giáo là gì?”. Giáo lý viên đáp: “Là yêu thương”. Người dự tòng là một thanh niên, nghĩa là đang ở tuổi yêu đương, nên gật gù tỏ ra rất thấm thía với câu trả lời của giáo lý viên.
Nhưng sau một lúc suy nghĩ, anh lại đặt vấn đề: “Yêu thương thì tôi đã nghe nói rất nhiều, và rất nhiều người nói: Những cặp tình nhân luôn miệng nói yêu nhau; những đạo khác, đạo nào cũng dạy người ta sống yêu thương; và ngay cả những tổ chức không có đạo cũng dạy người ta yêu thương nhau”. Rồi anh này đưa ra hai kết luận hết sức bất ngờ:
1/ Đạo Công giáo chẳng có gì hơn những đạo khác, mà cũng không hơn người không có đạo;
2/ Chẳng cần vào đạo Công giáo mới biết yêu thương”. Và giáo lý viên bí!
Chúng ta phải công nhận rằng người dự tòng trên đã nhận xét rất đúng. Yêu thương là tình cảm cao đẹp nhất trong con tim mọi người. Yêu thương là nhân đức cao trọng nhất trong mọi nhân đức. Vì thế không cần đạo công giáo dạy, không cần Đức Giêsu dạy, mọi người cũng đều biết trân trọng tình cảm và nhân đức yêu thương. Nhưng chẳng lẽ đạo Công giáo của chúng ta không có gì hơn các đạo khác, cũng không có gì hơn các nền luân lý không có đạo sao? Chẳng lẽ Đức Giêsu từ trời xuống thế làm người mà chẳng dạy gì hay hơn điều mà mọi người đã biết hết rồi sao?
Nếu đọc lại Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy ba điểm mới lạ của tình yêu thương trong Kitô giáo như sau:
1. Chúng ta yêu mến Chúa nhiều lắm. Nhưng nếu chúng ta không yêu thương người bằng Chúa thì chúng ta không hơn gì người ngoại đạo.
2. Chúng ta cũng rất yêu thương những người thân của chúng ta, như vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái… Nhưng nếu chúng ta không coi tất cả mọi người cũng là người thân và không yêu thương họ như yêu thương người thân, thì chúng ta cũng không hơn gì những người ngoại đạo.
3. Chúng ta thường dâng lễ vật cho Chúa như dâng hoa, xin lễ, dâng việc hy sinh hãm mình, những việc lành phúc đức v.v… Nhưng có một thứ lễ vật mà Tin Mừng nói còn quí hơn những lễ vật kể trên, mà Chúa rất thích chúng ta dâng, đó là lễ vật tình thương mà ta đối xử với mọi người. Mỗi lần đến nhà thờ dự lễ, chúng ta đừng quên mang theo những lễ vật tình thương ấy.
Xin trở lại với câu chuyện ban đầu. Người giáo lý viên đã bí không trả lời được khi người dự tòng cho rằng tình yêu thương của đạo Công giáo chẳng có gì khác hơn tình yêu thương của các đạo khác, kể cả những người không có đạo. Lý do có lẽ là vì giáo lý viên ấy không thấy ba điểm độc đáo của tình yêu Tin Mừng, mà nhất là đã không thực hiện ba điểm ấy. Chắc chúng ta cũng vậy thôi. Nếu chúng ta không thực hiện ba điểm ấy thì danh nghĩa công giáo của chúng ta cũng là vô ích, dù là công giáo nhưng chúng ta chẳng hơn gì một người ngoại đạo.
47. Mến Chúa, yêu người
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Luật Chúa tóm gọn trong 2 điều: “Mến Chúa, yêu người”. Tuy hai điều, bốn chữ (tiếng Việt), nhưng cũng chỉ là một: “Yêu”. Nghe chừng rất đơn giản, và nghe quá quen tai, thế mà sao khó thể hiện quá!
Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”.
Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Thật ra Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa, yêu người”, nói đúng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng về ý “mến Chúa, yêu người”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21).
Những lời nói nghe chừng “nhẹ” mà “nặng” lắm, giản dị mà phức tạp, “xoa” mà “đau” quá! Khi nói đến “luật” thì luôn liên quan “quyền”, nói đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”.
Thời Cựu ước, Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua năm 62 tuổi) quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị toàn vương quốc dưới quyền 3 tể tướng (tương đương “thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông Đanien. Họ phải phúc trình mọi việc cho 3 vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Ông Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đanien về việc triều chính.
Người Việt có câu: “Con gà tức nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy” hay thì người khác thường cảm thấy “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng chỉ vì Ngài là “cái gai” trong mắt người khác. Người ghét không ai xa lạ là chính những người thât thiết nhất của mình: “Ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình” (Mt 13:57; Mc 6:4; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, chỉ có người giỏi mới khả dĩ công nhận tài năng của người giỏi.
Ông Đanien “trổi vượt” hơn người khác nên bị ghét, âu cũng là lẽ thường. Trung thần Chu Văn An đã “điểm mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng. Xưa đã vậy, nay cũng thế. Người đời “kèn cựa” nhau đã đành, người theo đạo Chúa cũng chẳng hơn gì! Thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn nhiều!
Ghét thì rất ghét, nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Đnl 6:6). Quá thâm độc!
Con người ngày nay vẫn đang lăn vào “vết xe cũ”, nhưng theo “phong cách” tân kỳ hơn, thế mà vẫn “hãnh diện”. Có lẽ vì thế mà Thiên Chúa soi sáng cho Giáo hội biết phải Tân Phúc Âm hóa, xét lại đức tin của chính bản tân mình trước rồi mới nói tới người khác!
Ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở lành”. Những con người ấy vẫn kiên cường tín thác vào Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:4).
Trước mặt người đời, họ là kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt, bị ghen ghét, bị xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm cầu nguyện và nương tựa vào Chúa. Họ hiên ngang nói: “Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai, Ngài đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi” (Tv 18:46). Ngay trong gian truân, họ vẫn tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (Tv 18:47). Đúng như tác giả Thánh vịnh chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa ban nhiều chiến thắng lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là Đa-vít cùng dòng dõi đến muôn đời” (Tv 18:51).
Thánh Phaolô nói: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. Còn Đức Giêsu, chính vì Ngài hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: “Một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Thư gởi giáo đoàn Do Thái xem chừng không ăn nhập gì, vì nói tới chức tư tế, nói tới thừa tác vụ. Nhưng không, rất “ăn nhập” đấy. Tại sao? Tư tế là những người có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên. Vì thế, Chúa hỏi Phêrô không chỉ 1 lần mà hỏi tới 3 lần: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” (Ga 21:15). Đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hỏi mỗi người trong chúng ta. Mỗi người có cách trả lời khác nhau, nhưng đó là điều kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thực hiện nghiêm túc, nhất là trong Năm Đức Tin này, để chứng tỏ lòng tin của mình.
Rất dễ đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”, nhưng vấn đề không chỉ là thuộc lòng và đọc như vẹt, mà là thể hiện lời tuyên tín đó một cách sống động bằng hành động cụ thể. Không dễ đâu, tôi ơi!
Thánh Phaolô giải thích: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Ngài, Ngài đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:27-28).
Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta cũng phải hiến tế. Chúa Giêsu đã hóa thành tấm bánh nuôi sống chúng ta, thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho người khác, nhất là trao cho những con người bé mọn.
Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm Xađốc tranh luận với nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:29-31).
Nghe có vẻ “đã tai” nên ông kinh sư nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng ta cũng mang tâm trang như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp lý, nhưng NGHE và CHẤP NHẬN là một chuyện, còn THỰC HIỆN lại là chuyện khác. “Khoảng cách” đó vừa gần vừa xa.
Thấy ông kinh sư trả lời khôn ngoan như vậy, Đức Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Nói “mến Chúa” quá dễ, nói “yêu người” cũng quá dễ”. Tất cả chỉ là “chuyện nhỏ”. Vấn đề quyết định cuối cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN, vì “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:26). Đó mới là… “chuyện lớn”.
Lạy Thiên Chúa, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con đức tin vào Ngài qua Đức Kitô, xin giúp chúng con giữ vững và thể hiện đức tin qua từng động thái hằng ngày, bằng cách thật lòng chia sẻ mọi nỗi đau của tha nhân, nhất là những con người nhỏ bé nhất đang ở bên cạnh chúng con mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
48. Suy niệm của JKN.
Mến Chúa yêu người là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lại ghép hai điều răn khác nhau – mến Chúa, và yêu người – thành một điều răn duy nhất?
2. Có thể mến Chúa mà không yêu người, hay yêu người mà không mến Chúa được chăng?
3. Theo tinh thần Tin Mừng, thì giữa việc tham dự các nghi thức phụng vụ và việc thi hành giới răn «mến Chúa yêu người», việc nào cao quí và quan trọng hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Điều răn quan trọng nhất của Kitô giáo
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy Đức Giêsu đã ghép hai điều răn được ghi ở hai nơi khác nhau trong Cựu Ước – điều răn đầu trong sách Đệ nhị luật 6,4-5, điều răn sau trong sách Lêvi 19,8 – làm thành một điều răn duy nhất, một điều răn «kép», nghĩa là một điều răn nhưng hai đối tượng, hay hai mặt khác nhau. Và điều răn «kép» này là điều răn quan trọng nhất trong Do Thái giáo, nhất là trong Kitô giáo. Tại sao lại ghép hai điều răn ấy thành một điều răn duy nhất? Đó là điều đáng chúng ta suy nghĩ.
Thông thường, chúng ta hay phân biệt yêu Chúa và yêu người. Có người cho rằng yêu Chúa quan trọng hơn yêu người rất nhiều, có người lại cho rằng: Chúa thì trừu tượng quá, yêu không nổi, nên yêu người mới là quan trọng. Cũng có người cho rằng có thể yêu Chúa mà không yêu người, và ngược lại. Thực ra, giới răn này chỉ có một nội dung duy nhất là «phải yêu thương», nghĩa là phải có tình yêu, tình thương. Và tình yêu này phải hướng cùng một lúc về hai đối tượng: Thiên Chúa và tha nhân. Và hai đối tượng này không thể tách rời nhau, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: không thể có mặt này mà không có mặt kia. Nghĩa là không thể yêu Chúa cách đích thực mà không yêu tha nhân, và ngược lại. Nói khác đi, hễ thật sự yêu Thiên Chúa thì tất nhiên sẽ phải yêu người, như thánh Gioan đã từng nói: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1 Ga 4,20). Và hễ yêu người thật sự thì cũng chính là đã yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, tình yêu đối với tha nhân đã ngầm bao hàm tình yêu đối với Thiên Chúa, và ngược lại. Thật vậy, khi nói về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu đã xác định rằng: yêu tha nhân là yêu chính Thiên Chúa (xem Mt 25,40.45). Và thánh Phaolô cũng đã viết: «Tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”» (Gl 5,14); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô» (Gl 6,2).
2. Yêu mến và thờ phượng Thiên Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến tầm quan trọng tối thượng của giới răn yêu mến Thiên Chúa. Nếu xét một cách tách biệt hai mặt trong giới răn cao trọng nhất này, thì việc yêu mến Thiên Chúa quan trọng hơn việc yêu mến tha nhân. Và con người phải yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Nhưng trong thực tế, không thể có sự tách rời giữa hai mặt ấy được, vì hễ đã thật sự yêu mến Thiên Chúa thì tất nhiên phải đồng thời yêu thương tha nhân. Vì thế, nếu thật sự yêu mến Thiên Chúa «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực», thì cũng phải yêu tha nhân «hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực». Đó là điều tất yếu, không thể khác được.
Để tỏ lòng yêu mến, thuận phục và thờ phượng Thiên Chúa, người Do Thái xưa đã sát tế những con chiên, con bò làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thay vì sát tế chính mình, để nói lên quyền tối thượng của Ngài trên mọi sự, trên cả mạng sống mình. Nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự cho Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho ta tất cả và có quyền lấy lại tất cả bất kỳ lúc nào. Ngày nay, chúng ta không còn sát tế chiên bò, cũng không phải sát tế chính mình để nói lên quyền tối thượng của Ngài nữa. Điều chúng ta nên làm, là sẵn sàng hy sinh tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Ngài, để tỏ ra ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự, nhất là hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… đó chính là một hình thức sát tế và thờ phượng Thiên Chúa cao cả nhất.
Nhưng theo tư tưởng của Đức Giêsu và thánh Phaolô, thì chắc chắn Thiên Chúa muốn ta thể hiện tình yêu của ta đối với Ngài bằng tình yêu dành cho tha nhân, một cách cụ thể là sẵn sàng hy sinh ý riêng, thì giờ, tiền bạc, công sức… cho hạnh phúc và sự tốt đẹp của tha nhân.
3. «Hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực»
Yêu «hết lòng, hết trí khôn» thì quả là một điều khá trừu tượng và xem ra có vẻ dễ thực hiện, vì lòng và trí khôn là thứ không thể đếm được, khó kiểm chứng, và dường như có thể dùng hoài, cho hoài không hết. Nhưng còn việc yêu «hết sức lực» thì quả thật là khó, vì lực là một cái gì mang tính vật chất, rất cụ thể, và rất hạn chế. Sức lực ở đây nói một cách cụ thể là thì giờ, tiền bạc, của cải, sức khỏe, công lao. Vì nó giới hạn, nên ta không thể cho một cách thoải mái được. Cho thì hao tổn, thì sẽ hết. Nhưng có yêu «hết sức lực» thì mới chứng tỏ được là đã «yêu hết lòng, hết trí khôn». Ai nói rằng mình yêu Chúa, yêu người «hết lòng, hết trí khôn» mà lại không yêu «hết sức lực» – cụ thể là sẵn sàng hy sinh thì giờ, tiền bạc, sức khỏe, công lao cho Chúa, cho tha nhân – thì người ấy nếu không nói dối thì cũng là kẻ ảo tưởng về chính mình. Chắc chắn Chúa muốn chúng ta thay vì hy sinh những thứ ấy cho Chúa, thì hãy hy sinh cho tha nhân, vì hy sinh cho tha nhân chính là hy sinh cho Chúa.
4. «Điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ»
Rất nhiều Kitô hữu không hiểu được cốt yếu của việc giữ đạo là gì, họ cho rằng việc đọc kinh, đi lễ, chịu các bí tích là những điều quan trọng nhất. Và họ cố gắng thực hiện những điều ấy một cách toàn hảo. Nhưng thật ra, tất cả những thứ ấy chỉ là phương tiện để giúp người Kitô hữu thực hiện được giới răn quan trọng nhất là «mến Chúa, yêu người». «Mến Chúa, yêu người» chính là mục đích của những việc đạo đức trên. Nếu thực hiện những phương tiện ấy mà không đạt được mục đích của chúng thì thử hỏi việc thực hiện ấy ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng, ông kinh sư nói: «Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ». Lời đó đã được Đức Giêsu xác nhận là khôn ngoan, đúng đắn. Cứ theo tinh thần câu nói ấy thì yêu Chúa và thương người hết sức mình quan trọng và quí giá hơn việc tham dự các nghi thức phụng vụ, các bí tích, các kinh nguyện. Chính Đức Giêsu mạc khải cho ta biết điều ấy khi nói về ngày phán xét cuối cùng: Thiên Chúa không hề phán xét về việc ta có tham dự các nghi thức phụng vụ hay không, hay tham dự thế nào, mà chỉ xét về việc ta đã làm gì để tỏ ra mình yêu thương tha nhân mà thôi. Đức Giêsu đã tỏ ra trọng phong cách đối xử với tha nhân, sự hòa thuận với những người chung quanh còn hơn việc dâng lễ vật toàn thiêu cho Thiên Chúa nữa (xem Mt 5,23-25).
Biết bao người chu toàn hết sức tốt đẹp những nghi thức phụng vụ mà lại đối xử với tha nhân chẳng ra làm sao, chẳng có tình có nghĩa gì cả, thì thử hỏi đạo đức kiểu ấy có ích lợi gì cho họ trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu có nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa, Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy mới được vào mà thôi. Vì thế, trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỉ, mà làm nhiều phép lạ sao?” và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: “Ta không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác”» (Mt 7,21-23). Xin cho con hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời nói đó. Xin cho con nhận ra điều quan trọng nhất trong đạo của Cha mà con phải tuân giữ là thực hiện thánh ý Cha, mà điều cốt yếu nhất của thánh ý Cha chính là mến Chúa – cũng là yêu người – hết lòng hết sức. Amen.
49. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Stephen Rocker – JB. Đào Ngọc Điệp, chuyển ngữ)
Thế giới chúng ta bị bao phủ dầy đặc những luật lệ, nhưng quả thật không phải tất cả mọi giới luật đều có tầm quan trọng như nhau. Đó là trường hợp của dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu liên quan đến 613 điều luật trong Lề Luật Môi-sê. Cho nên đương nhiên nó trở thành một đề tài tranh luận giữa các giáo sĩ Do Thái về luật nào trong số những điều luật này là quan trọng nhất. Có điều lạ là khi được hỏi điều nào trong các giới răn là trọng đại nhất, thì Chúa Giêsu lại trả lời rằng có hai giới răn. Như thế xem ra Chúa Giêsu muốn dạy rằng hai giới răn này liên hệ mật thiết với nhau và không thể tách rời, vì vậy được coi như là một.
Cựu Ước nói về một Thiên Chúa ghen tương, giống như sự ghen tuông của người chồng hoặc người vợ đòi hỏi người phối ngẫu phải hết lòng chung thủy – tức là đòi người phối ngẫu phải yêu thương mình bằng tất cả trái tim, linh hồn, trí khôn và sức lực. Dùng cách diễn đạt ngắn gọn của tiếng Latinh, thánh Augustinô đã có câu nói nổi tiếng về tình yêu: amor meus, pondus meus “tình yêu của tôi là gánh nặng cho tôi.” Hãy nghĩ về những người mà bạn thân thiết. Bạn không cần phải ở bên cạnh người ấy lâu mới biết được điều gì quan trọng đối với họ – Điều quan trọng chính là điều thu hút họ. Đó là những điều họ thường nghĩ và nói tới, dành thời gian, năng lực và tiền bạc cho chúng.
Chính Thánh Augustinô là người đã nhận diện chính xác những đam mê vô trật tự của chúng ta và chỉ cho chúng ta biết sắp đặt tình yêu của mình một cách đúng đắn. Người ta phải tìm kiếm những cái tốt không trọn vẹn hoặc chóng qua khi chúng có thể dẫn đến cái tốt hoàn hảo và vững bền. Ở đây chúng ta thấy tình yêu thương tha nhân có ý nghĩa như thế nào. Tình yêu có nghĩa là tìm kiếm điều tốt đẹp của người mình yêu. Do đó, Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải loại bỏ lòng ác độc, gian dối, tham lam, đố kỵ và ham muốn, vì tất cả các điều ấy trái với phẩm giá của tha nhân và của chính tôi.
Hơn nữa, ngay cả những điều tốt đẹp về mặt luân lý cũng có thể bị đặt sai chỗ. Chúng ta đang sống trong thời đại Thiên Chúa và những điều thuộc về Người không còn được quan tâm đến nữa. Chúng ta bận rộn với gia đình và bạn bè, nghệ thuật, thể thao, sở thích và thăng tiến công ăn việc làm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả những điều tốt đẹp đó không được tìm kiếm và tận hưởng trong mối tương quan với điều là cùng đích? Vậy, nếu mến Chúa và yêu tha nhân chỉ là một điều răn, thì chúng ta có thể chỉ yêu tha nhân mà không yêu Thiên Chúa không? Liệu chúng ta có thể có đời sống văn minh mà không nhận ra sự chân thật và thiện hảo còn cao quý hơn chính bản thân mình là điều chúng ta hướng tới không? Liệu chúng ta có văn hóa mà không cần việc thờ phượng không?
Đức Kitô đã đến làm ánh sáng cho thế giới. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân là chúng ta tuân giữ mười điều răn và giáo huấn luân lý của Hội Thánh. Làm như vậy, chúng ta chiếu tỏa ánh sáng Đức Kitô trong một thế giới luôn cần ánh sáng đó, ngay cả khi thế giới coi thường hoặc cản trở nó. Mến Chúa và yêu tha nhân là hai điều răn, nhưng về cơ bản chúng được kết hợp với nhau, vì chúng ta không thể thực hiện đầy đủ điều răn này mà không thực hiện điều răn kia.
Nguồn: https://www.hprweb.com/
50. Giới răn trọng nhất
Ngày đầu tiên bé vào trường nội trú. Bé đọc bản nội quy của trường và chán ngán. Bé tự hỏi không biết làm sao mình giữ nổi cả cuốn luật lệ đủ thứ, đủ loại này. Nhưng đến chiều, bé gặp bà hiệu trưởng. Bé thấy bà thật hiền hậu, dễ mến. Bà có nụ cười đầy thiện cảm. Bé thấy mến bà và thấy việc giữ những luật lệ của trường cũng chẳng có gì khó khăn lắm. Tình yêu đã làm cho những khó khăn mệt mỏi biến tan.
Trong Do thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Nhưng khi câu hỏi đạo đạt lên Chúa Giêsu, Chúa chỉ trả lời một câu thật chính xác và đầy đủ: Giới răn trọng nhất là hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi. Và giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu người khác như chính mình ngươi. Như vậy Chúa Giêsu đã tóm gọn hơn sáu trăm khoản luật vào một câu vắn tắt: Mến Chúa và yêu người. Hay đúng hơn, Chúa đã tóm vào một chữ YÊU.
Đối với Thượng Đế, các triết gia, các tôn giáo thường diễn tả như một nhân vật đòi buộc người ta tôn thờ, kính sợ và tuân phục. Đối với người Do thái thì vẫn giữ những tâm tình ấy đối với Thiên Chúa, nhưng trước hết phải yêu mến Thiên Chúa. Độc đáo của Cựu Ước là hướng dẫn con người trung thành trong một giao ước tình yêu. Đặc biệt Chúa Giêsu đã đặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa trong tình cha con. Chúng ta sống với Thiên Chúa trong bầu khí gia đình thân thương. Tình phụ tử đó Thiên Chúa đã biểu lộ ở mức độ cao nhất và hoàn hảo nhất: Chúa đã yêu ta đến nỗi đã ban Con của Người đến làm lễ vật đền tội chúng ta. Phần chúng ta, cũng phải biểu lộ tình yêu đối với Thiên Chúa bằng hết khả năng của mình, tinh thần cũng như thể xác và cả linh hồn nữa.
Còn đối với anh chị em đồng loại, chúng ta phải yêu thương mọi người. Điều quan trọng là tình yêu đó không xây dựng trên liên hệ máu thịt, không do cảm tính, nhưng dựa trên liên hệ tình yêu với Thiên Chúa. Chúng ta nhận Thiên Chúa là cha và mọi người là anh chị em ruột thịt.
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên mức độ tuyệt đỉnh: phải yêu anh em như yêu Chúa. Ai giúp đỡ một người bé mọn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Ngài như một người cha, nhưng tình yêu này phải được biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu mến anh em mới chứng tỏ mình yêu mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhận ra tình thương bao la của Chúa đối với chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và sống tình huynh đệ với mọi người. Xin giúp chúng con chu toàn mọi giới răn Chúa vì yêu mến Người.
51. Yêu thương là chu toàn lề luật
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Năm 1987 một trận động đất lớn xẩy ra ở Ar-mê-ni, nhiều căn nhà bị đổ sập, nhiều người bị chôn vùi trong đống đổ nát. Mẹ con chị Su-san-na bị mắc kẹt giữa các bức tường. Bé gào khóc đòi uống nước! Chị biết nếu không có nước con chị sẽ chết! Tình mẫu tử mách bảo, chị sờ soạng trong bóng tối tìm được một mảnh kính vở, cắt vào ngón tay, bảo con mút, chị bị hôn mê! Mọi người đều coi việc cắt ngón tay lấy máu cho con uống là anh hùng, nhưng chị trả lời đơn giản: “Tôi chỉ muốn con tôi sống, nên tôi hành động như vậy!”.
Tôi chỉ muốn con tôi sống là mệnh lệnh đối với rất nhiều các bà mẹ trong lịch sử, là luật bất thành văn, mạnh mẽ phi thường giữa đời thường bình dị.
Tình yêu là cốt lõi của cuộc sống, cho phép con người chu toàn nghĩa vụ đối với Chúa và tha nhân.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cái cốt lõi, nền tảng chi phối mọi sinh hoạt theo luật trong đời sống cộng đoàn.
Bài đọc I, trích sách Đệ Nhị Luật, đề cao việc thực hành điều luật dạy, để được Chúa chúc lành và cho sống hạnh phúc lâu dài.
Vấn nạn đặt ra: phần thưởng cho một người hệ tại việc tuân giữ luật hay do Thiên Chúa yêu thương ban tặng?
Nếu nói, do sống đạo đức, công chính, thánh thiện tự nhiên, thì ơn Chúa ban sẽ giữ vai trò nào, còn nếu nói, do ơn Chúa ban nhưng không, thì việc tuân giữ luật Chúa là thừa thãi, vô ích!
Giữa nhiều học thuyết cực đoan, bất cập, mạc khải chọn giải pháp quân bình theo mô hình Ngôi Lời nhập thể, nghĩa là: sự công chính hóa do Thiên Chúa yêu thương ban tặng cách nhưng không, tuy nhiên, rất cần sự mở lòng của con người, được xem như điều kiện cần và đủ, để ơn Chúa hoạt động hữu hiệu: “Ta đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe tiếng Ta, mở cửa ra, Ta sẽ vào nhà người ấy, dùng bữa tối với nó, và nó sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3, 20).
Mô-sê, trong bài đọc I, dạy dân tìm kiếm hạnh phúc và sự sống trong Đức Chúa qua việc tuân giữ những mệnh lệnh và huấn dụ của Người. Ông không phải là hạng người vụ luật, nhưng nhấn mạnh tâm tình yêu mến đối với Đấng ban phát mọi ơn lành. Đoạn kết của bài sách thánh như bản tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa tình yêu và sự sống: “Nghe đây, hỡi Israel! Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức anh em…” (Dnl 6, 4 – 5).
Đối với Mô-sê tuân giữ luật Chúa phát xuất từ trái tim, từ lòng yêu mến, chứ không phải là hình thức giữ những lề luật bề ngoài.
Tâm tình yêu mến làm kẻ tin nên công chính, vì đó là sự đáp trả bằng tình yêu đối với Đấng tạo hóa. Sự tuân giữ giới răn Chúa là đức hiếu thảo phát xuất từ lòng biết ơn nên đáng được Chúa chúc phúc và ban thưởng hạnh phúc lâu bền.
Lời sách Đệ Nhị Luật trích đọc hôm nay cho phép chúng ta hòa vào dòng chảy của tình yêu Thiên Chúa để “ngộ” ra ý nghĩa của việc tuân giữ lệnh truyền. Tất cả là tình yêu và mọi hành vi đều phải do tình yêu chi phối mới đẹp lòng Chúa và sinh ích lợi cho kẻ có lòng yêu mến.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, trao cho vị kinh sư bản tóm kết tất cả lề luật và các ngôn sứ, hai giới răn: “Mến Chúa – yêu người” và Chúa kết luận: “Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12, 31).
Ông luật sỹ tỏ ra thông minh tiếp nhận lời dạy của Chúa. Ông tâm đắc lời Chúa Giê-su: Thầy dạy rất hay, rất đúng! Ông cũng rút ra bài học cho chính mình: mến Chúa hết lòng, hết sức lực, hết trí khôn và yêu tha nhân như chính mình, thì hơn mọi lễ vật hy sinh và mọi lễ vật toàn thiêu.
Như vậy, việc sống đạo đức, thánh thiện luôn tùy thuộc vào ơn Chúa và việc thực thi ý Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành đưa người môn đệ vào chiều sâu nội tâm, chứ không hời hợt hình thức bề ngoài, môi miệng, giả hình.
Vị kinh sư là học trò tốt, bởi đã trả lời đúng và nhất là, quyết tâm đem ra thực hành, nên Chúa khen ông khôn ngoan, cho phép ông gia nhập Nước Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc cho ông và cho tất cả những ai nhiệt tâm sống giới luật yêu thương như Giê-su đã dạy, để luôn nắm giữ chìa khóa sự khôn ngoan, là điều kiện cần và đủ trở thành công dân Nước Trời.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, ca tụng Đức Kitô, vị tư tế độc nhất được Thiên Chúa tuyển chọn, phẩm hàm tư tế của Ngài viên mãn và tồn tại muôn đời, bởi vì Ngài thi hành chức vụ trong tình yêu lớn lao tuyệt đối dành cho Cha và cho thế gian.
Giê-su thông truyền ơn cứu rỗi và sự sống đời đời cho những ai nhờ Người mà đến cùng Thiên Chúa, nghĩa là sống tình yêu cách vô vị lợi như Người đã sống.
Đức Giê-su, nhờ vâng phục trong yêu thương, trở nên “Con yêu dấu của Cha” và Chúa Cha chứng tỏ tình yêu đối với “Con” qua việc đón nhận lễ hy sinh trên bàn thờ thập giá, rồi phục sinh Người từ trong cõi chết, nên hy tế của Ngài tồn tại đến muôn đời, nhờ đó Người chuyển cầu, thông ban ân huệ thần thiêng cho thế gian đến muôn đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta cũng hãy vui mừng, phấn khởi đón nhận giáo huấn “yêu thương” của Chúa Giê-su và nhất là đem ra thực hành bằng một cuộc sống đượm tình mến thương.
Hãy xin Chúa dạy chúng ta biết sống yêu thương như Giê-su, vốn hằng yêu thế gian đến cùng. Ngài sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì yêu mến Cha và vì hạnh phúc trần gian.
Thực hành sống yêu thương để chu toàn trọn vẹn lề luật Chúa ban, bắt đầu bằng sự dịu dàng, nhân ái, hiền lành, khiêm tốn trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta phải thâm tín mạnh mẽ rằng: khi chu toàn việc bổn phận trong yêu thương, sẽ được Thiên Chúa ban thưởng hơn những gì mà lòng người dám ước mơ: trở nên con yêu dấu của Cha trên trời, xứng đáng hưởng niềm vui và hạnh phúc Nước Trời.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta. Amen!
52. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
GIỚI RĂN CAO TRỌNG NHẤT
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét khác với những đoạn trước. Có một thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh luận xem giới luật này hay giới luật nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được tới 630 giới luật của Cựu Ước: Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10 điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng không phải vậy, Ngài lại đọc những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo (tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel (Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái hồi ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).
Câu trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu 32, người này thực ra chỉ biết lặp lại hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng: Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh (từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa) rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa “ (c.34a). người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca (10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào theo kiểu vừa nói nữa.
Ẩn sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một người Biệt phái cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt. Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.
53. Chú giải của Noel Quesson
Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi.
Đức Giêsu bị chất vấn. Người được người ta hỏi han ngoài đường. Tôi có biết hỏi Đức Giêsu để xin Người cho ý kiến về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống của tôi không?
Đoạn Tin Mừng Chúa nhật vừa qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã ở lại thành Giêrikhô với người mù dễ thương, tên Bác-ti-mê. Sau đó, Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem một cách vẻ vang (Mc 11,1-11). Hôm sau, theo Máccô kể lại Đức Giêsu vào Đền Thánh để đuổi những kẻ đã làm mất vai trò của Đền thánh là cầu nguyện “cho các quốc gia” (Mc 11,12-19). Hôm sau nữa,” Đức Giêsu trở lại Giêrusalem và trong dụ ngôn “cây vả bị khô héo”, Người đã nói “Con Người” đến tìm quả nhưng không thấy; Đền Thánh cũng như cây vả, sẽ bị tàn phá (Mc 11,20-25). Chúng ta đang chứng kiến những tuần cuối cùng của Đức Giêsu. Sự đối đầu giữa Người và chính quyền đã lên đến tột đỉnh. Theo Máccô, thì chính trong Đền thánh Giêrusalem giữa quảng đại quần chúng, trên chiếc sân rộng rãi linh thiêng làm thành một quảng trường có những hàng cột vây quanh, nơi những đám đông thường tụ họp, Đức Giêsu đã tranh luận, “bị tấn công”, “phản công”. Những cuộc tranh cãi dữ dội xảy ra. Giọng nói giữa Đức Giêsu và những nhà lãnh đạo bị khích động mỗi lúc càng lên cao.
Những đề tài nóng bỏng nhất được đề cập:
“Do quyền lực nào mà ông thi hành những việc ông đang làm” (Mc 11,27-33).
“Chủ vườn nho sẽ làm gì khi người làm vườn nho không xứng đáng với vai trò của mình” (Mc 12,1-12).
– Có phải đóng thuế cho quân đội đang chiếm đóng hay không? (Mc 12,13-17).
– “Số phận của những người chết bên kia thế giới như thế nào?” (Mc 12,18-27).
Chính trong bối cảnh này mà một kinh sư thuộc nhóm Pharisêu, vì đã thấy giá trị câu trả lời của Đức Giêsu về sự sống lại của những người chết (nhóm Xa-đốc, những kẻ đối nghịch với Đức Giêsu, vừa nhận được một bài học đích đáng!) tiến lại gần Đức Giêsu và tiếp tục hỏi Người.
Chúng ta có khuynh hướng “đóng khung” đời sống tôn giáo của mình trong vòng “riêng tư” trong việc “thờ phụng” không? Hay như Đức Giêsu, chúng ta có chấp nhận để đời sống tôn giáo của mình soi sáng mọi vấn đề của cuộc sống, phố xá, nghề nghiệp chính trị?
Điều răn nào đứng hàng đầu?
Ham mê tha thiết của Israel là luật, bộ Thorab. Trong những “trường dạy Đức tin” gọi là Yéshivot người ta thấy trẻ con, thanh niên, người lớn và cả người già đã dành nhiều giờ để “nghiên cứu học hỏi”. Kinh thánh, và những lời chú giải trong sách Talmud. Những kinh sư thời Đức Giêsu, ngày nay tự gọi là các giáo trưởng Do Thái, là những chuyên gia về môn này và người ta thường đến hỏi họ về cách giải nghĩa một điều luật, xin một lời khuyên tinh thần, một luật sống rút ra từ lời Chúa, gọi là Thorah. Vì trong những trường Yềshivot, người ta thảo luận, người ta “chia sẻ” như ngày nay chúng ta thường nói vậy: Mỗi ngày Sa-bát là một ngày dài cầu nguyện, học hỏi theo nhóm, trong đó người ta cùng nhau say mê tìm hiểu một cách hiểu sâu sắc nhất những “giới răn” của Thiên Chúa, để có thể trung thành tuân giữ các giới răn đó một cách tỉ mỉ hơn. Sống trong môi trường văn hóa của dân tộc mình, Đức Giêsu cũng có niềm ham mê đó đối với Luật. Người đã thuộc lòng Luật. Người đã đọc đi đọc lại Luật cùng với những người khác, từ thuở còn nhỏ. Người đã thảo luận nhiều về Luật. Chúng ta có khao khát đọc Kinh thánh không? Trong một tuần, chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ để “nghiên cứu” một cách nghiêm chỉnh, và cầu nguyện với Lời Chúa? Chúng ta có thảo luận về Lời Chúa Với những người khác, đẽ soi sáng lẫn nhau không?
Câu hỏi mà vị kinh sư đặt ra, là một câu hỏi cổ điển trong trường Yéshivot. Người ta đã trích ra được 613 điều răn của Chúa từ trong Kinh thánh: 365 điều cấm đoán và 248 điều răn tích cực. Chúng ta đừng cười? Sự trung thành tuân giữ và những chi tiết nhỏ nhất, đó là một bằng chứng của tình yêu. Ai yêu mến sẽ hiểu biết. Những người Do Thái cũng đủ thông minh để nhận thức về tầm quan trọng tương đối của những lời răn khác nhau này. Họ đã tìm thấy trong Kinh thánh những yếu tố để đáp ứng. Đối với vua Đa-vít sách luật Thorah tóm lại 11 qui định chính yếu (Tv 15). Đối với ngôn sứ Isaia là 6 (Is 33,15). Và đối với Kha-ba-cúc là một (Kb 2,4) Rabbi Hillel thì tóm lại tất cả bộ luật trong một câu châm ngôn duy nhất: “Những gì ngươi không thích, chớ làm cho đồng loại của ngươi” Rabbi Akiba hầu như cùng thời với Đức Giêsu, cũng tập trung điều cốt yếu của Luật vào tình yêu thương đồng loại.
Còn Ngài, hỡi Rabbi Giêsu, Ngài nghĩ sao Điều răn trọng nhất là điều răn nào?
Đức Giêsu trả lời: “Điều răn đứng hàng đầu là: nghe đây, hỡi Israel. Đức Chúa, Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất”.
“Phải phụng sự Chúa trước hết”. Đối với Đức Giêsu, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa, còn tôi? Tôi dành ưu tiên cho ai? Tôi có đặt Thiên Chúa trên hết trong đời tôi không?
Phúc thay những kẻ biết lắng nghe Lời Hằng Sống!
“Hỡi Ít-ra-en hãy lắng nghe” Đó là một nguồn sống thiêng liêng của Đức Giêsu. Người sống đúng như dân tộc mình, một dân khát khao Lời Chúa, biết “lắng nghe”, và để cho Thiên Chúa giáo huấn.
Điều Chúa trích dẫn trên đây là kinh “Shema” Israel (Đnl 6,4-5).
Đó là kinh cầu nguyện hàng ngày của mọi người Do Thái sùng đạo.
Khẳng định chính yếu của đức tin Do Thái là độc thân từ lâu đã trở nên di sản chung của Ít-ra-en, của các Kitô hữu, của người Hồi giáo.
Rất tiếc là những dịch giả Pháp đã không trung thành với bản văn Hy Lạp của Maccô, và với bản văn Do Thái. Maccô đã không nói: “Thiên Chúa là Chúa duy nhất”. Ong nói thật đơn giản nhưng rất mạnh: “Thiên Chúa là một”. Những sách kinh thánh Do Thái thì dịch: “Đấng hằng hữu là một” Sắc thái khác biệt nhau. Chữ “một” có một nghĩa đầy đủ hơn là chữ “duy nhất”. Các bạn có cảm thấy sự khác biệt không? Không có gì khác hơn là Thiên Chúa! Tất cả những gì khác chỉ hiện hữu nhờ Người. Người hoàn toàn “hợp nhất”. Người sở hữu chính bản thể của Người, trong khi bản thể chúng ta luôn “lưu chảy”, làm tan biến chúng ta. Đấng vĩnh hằng là một? Đó là câu trả lời đầu tiên của Đức Giêsu, khi người ta hỏi Người xem điều gì là quan trọng nhất đối với Người. Qua lời nói trên miệng Người, ta thấy Luật cũ đang có một sức sống mới.
Người phải yêu mến Đức Chúa. Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết tâm trí, hết sức lực Người?
Thiên Chúa thật vĩ đại! Không phải bỗng nhiên mà chúng ta lại nghĩ đến việc kính yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa trong triết học và trong các tôn giáo khác, đòi hỏi thái độ tôn thờ, kính sợ Thánh Thiêng, vâng phục nhiều hơn. Còn đối với Israel cũng như đối với Chúa Giêsu, điều mà Thiên Chúa chờ đợi ở chúng ta, đó là tình yêu. Đặc điểm của Thánh kinh, đó là làm cho con người trở nên kẻ chung phần yêu thương trong giao ước tình yêu. Chính Thiên Chúa đã cho con người khả năng đó bằng cách tạo con người. “Giống như Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8).
Tôi có yêu Thiên Chúa không? Không nên vội trả lời là có Chúng ta hãy khiêm tốn khi xét đoán kẻ khác. Bạn làm gì cho “Đấng mà bạn yêu mến”, nếu không phải là yêu mến Người? Có thật là bạn thương yêu Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức” không? Sự lặp đi lặp lại trên đây rõ ràng là muốn diễn tả trọn vền cường độ tình yêu đòi phải huy động và đầu tư tất cả khả năng và sinh lợi của chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho tình yêu Chúa thiêu đốt con toàn diện từ đầu đến chân, từ tinh thần đến thân xác, từ sáng đến tối, từ lúc trẻ đến lúc già, từ đời sống thầm kín nhất của con đến những trách vụ tập thể bên ngoài.
Điều răn thứ hai là…
Vâng, ở đây chúng ta biết rõ Đức Giêsu hơn, kinh sư chỉ hỏi có một điều răn. Không còn đợi người này hỏi thêm. Đức Giêsu, theo thói quen của Người, đã đi xa hơn. Chúng ta chớ quên nhtlng gì vừa nghe Người nói. Điều người sắp nói đây cũng rất quan trọng, những đứng ở vị trí thứ nhì: Thiên Chúa phải là trước hết.
Ngươi phải thương yêu người thân cận như chính mình.
Cần phải phân biệt rõ hai điều răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai điều răn này làm một, như thế “yêu Thiên Chúa” là đủ, hay “thương yêu anh em” cũng đủ. Điều răn thứ hai không thể thay cho điều răn thứ nhất được. Nếu, ta tục hóa điều răn thứ nhất, thì chúng ta nhạo báng Đức Giêsu, biến Chúa thành một nhà giảng thuyết xã hội, một luân lý gia về tình huynh đệ. Đã có rất nhiều vĩ nhân nói về vấn đề này rồi!
Chẳng có điều răn nào khác quan trọng hơn các điều răn đó.
Đây là một tư tưởng rất tinh tế. Chúng ta hãy để ý chữ “điều răn” trước dùng ở số ít, như là chỉ có một? Nhưng chữ sau ở số nhiều, vì có hai điều và quan trọng như nhau.
Ông kinh sư nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, phải lắm, Thầy nói rất đúng, Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ta không có Đấng nào khác. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình, thì hơn là dâng mọi lễ vật toàn thiêu và hy lễ. Đức Giêsu thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu.
“Nước Thiên Chúa” đã được chuẩn bị từ lâu qua nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong nền văn hóa và trong sinh hoạt đạo đức của dân Israel, giờ đây đã đến, đó là chính Đức Giêsu.
Người kinh sư Do Thái này sẽ thực hiện một bước cuối cùng chăng. “Trong vài ngày nữa, Đức Giêsu chỉ cần thêm hai chữ “như Ta” để cho các điều răn yêu thương có tầm cỡ vương quốc cũ và mới: “Hãy thương yêu như Ta đã yêu thương (Ga. 15,12). Trong lòng Đức Giêsu, luôn chứa chan tình yêu: tình yêu thứ hai là do tình yêu thứ nhất mà ra!
54. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Hôm nay Chúa Nhật ngày 31/10, chúng ta sẽ chuẩn bị bước vào tháng 11 với hai Thánh Lễ rất quan trọng đó là: Lễ Các Thánh Nam Nữ và Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Tại sao Giáo hội lại muốn chúng ta cử hành và mừng lễ như vậy? Thưa vì, đây chính là lẽ sống, là mục đích và là hiện trạng sống của con người chúng ta trong trần thế này. Ai trong chúng ta cũng muốn sống tốt, muốn trở nên những con người thánh đức, con người sống đẹp lòng Chúa và đem lại ơn ích cho tha nhân. Thế nhưng, con người với tự bản chất mỏng giòn, yếu đuối, bất toàn, nhiều giới hạn và tội lỗi…những thứ chướng ngại này đã ít nhiều gây cản trở, lôi kéo, xúi giục và làm cho chúng ta không tiến đến được mục đích, lẽ sống và ơn gọi mà Chúa ban cho chúng ta. Thế nên, ba bài đọc Lời Chúa hôm nay như soi sáng và giúp cho chúng ta định hướng lại, đâu là những thái độ, cung cách cũng như hành động của chúng ta với Chúa và với ACE của mình để giúp chúng ta tiến tới sự sống trọn hảo.
Làm sao để có thể trở nên người tốt, người hoàn thiện và thánh đức như thánh ý Chúa; đây là điều mà vị tiến sĩ luật đang mong mỏi tìm kiếm và tin chắc rằng ai trong chúng ta cũng đang mong muốn có những lời khuyên, hướng dẫn, hay cách nào để giúp chúng ta có thể thực thi và đạt được. Chúng ta cứ thử hình dung, một người thành thạo, thông tường mọi lề luật, thế nhưng, đâu là căn tính của lề luật, đâu là phương thế để giúp cho mình trở nên con người hoàn thiện, thì ông ta lại không ý thức và không biết thực hành. Thế nên, hiểu biết lề luật với trí khôn và sự suy luận, cũng chẳng giúp ích được gì cho ông ta. Do đó, Tin mừng (Mc 12, 28b-34) chính Chúa Giêsu đã chỉ dạy cho tiến sĩ luật và cho tất cả chúng ta một phương cách hay bí quyết rất súc tích, đơn giản, mà kết quả thì tuyệt vời đó là: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi và hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”.
Thưa ACE, với phương cách và bí quyết “Mến Chúa, yêu người” này của Chúa Giêsu, chúng ta thấy rất hay, rất hợp tình hợp lý, ai cũng muốn thực thi, thế nhưng, để phải sống và thực thi với “Hết cả lòng trí, linh hồn và sức lực” là điều rất khó, đúng ra không tưởng với con người chúng ta. Với những khó khăn của cuộc sống dịch bệnh như hiện nay, có người sẽ tự biện hộ và thưa: “Lạy Chúa, con đang phải lo toan mọi thứ, phải suy nghĩ nát đầu-nát óc để tìm kế sinh nhai cho bản thân, gia đình và những người thân, con phải chịu đựng không biết bao khó khăn, vất vả, cực nhọc, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới mong kiếm được vài đồng tiền-bát gạo…như vậy, điều con đang sống và làm chưa đạt được như cách mà Chúa muốn và chỉ dạy hay sao?
Thưa ACE, chỉ khi tâm hồn được lắng đọng trong cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng, nơi cung cách, thái độ và công việc chúng ta đang làm, Thiên Chúa và tha nhân, dường như chưa có một vị trí hay chỗ đứng ưu tiên nào cả. Chúng ta chỉ đang tự cho bản thân và cái tôi của mình là trung tâm và đang tìm kiếm tư lợi cho riêng mình. Thế nên, bài đọc một (Đnl 6, 2-6) như diễn giải và minh chứng cho chúng ta về kinh nghiệm và bí quyết mà Chúa Giêsu đã dạy: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người”. Vậy thì, “Sống kính sợ Thiên Chúa” thì cần phải sống như thế nào? Thưa đó là: mỗi khi chúng ta làm việc bổn phận, chúng ta cần ý thức rằng: Thiên Chúa đang ở bên tôi, Ngài đang yêu thương, chăm sóc tôi, Ngài đang nghe lời tôi nói và thấy việc tôi làm; tôi đang làm điều Chúa muốn, để tôn vinh danh Ngài và để đem lại ơn ích cho tha nhân. Chỉ khi nào chúng ta ý thức và xác tín vào ơn ban cũng như sự phù trợ của Chúa như vậy, chúng ta thật là người khôn ngoan và là người thực thi được bí quyết mà Chúa ban cho, vì Chúa sẽ là Đấng trung tâm điểm của đời sống chúng ta, chính Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên người được Chúa chúc phúc. Thật vậy, điều mà sách Đệ Nhị Luật dạy hôm nay, như là kim chỉ nam, là tinh hoa, là bí quyết khôn ngoan được lưu truyền và loan báo cho hết thế hệ này đến thế hệ khác.
Bài đọc hai trong thư gởi tín hữu Do Thái cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy tin nhận sự khôn ngoan qua những cung cách, thái độ tuân giữ và thực hành thánh ý của Thiên Chúa của những người được Chúa chúc phúc. Qua các Tổ phụ, đến các Tiên tri và thời sau hết, chính Đức Giêsu Kitô-là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho tất cả mọi lề luật được kiện toàn và được trở nên thiện hảo, tốt lành. Chúa Giêsu không những chỉ hướng dẫn hay dạy dỗ cho chúng ta, mà Ngài còn trở nên một gương mẫu vẹn toàn qua việc tự hạ, vâng phục thánh ý Chúa Cha để dấn thân hy sinh cho con người chúng ta là những kẻ yếu đuối, tội lỗi. Chính nhờ sự tự hiến qua cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh mà chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, chữa lành, sự bình an và ơn tái sinh, biến đổi.
Chính vì lẽ đó, nếu chúng ta muốn trở nên những con người thánh đức, hoàn thiện, tốt lành, thì không có con đường, cung cách hay phương thế nào khác ngoài con đường và sứ vụ mà Chúa Giêsu đã sống và nêu gương cho chúng ta. Thế nên, điều còn lại là tùy thuộc nơi chúng ta có muốn mở lòng để đến với Chúa, chúng ta có dám tín thác vào Chúa, có dám dấn thân để sống theo những gì mà Ngài đã dạy và đã nêu gương cho chúng ta. Thật là hạnh phúc và khôn ngoan cho những ai có lòng tin, lòng mến vào Chúa và ơn thánh .
Lạy Chúa, “Kính mến Chúa, yêu thương người” để có sự sống đời đời, để có niềm vui và hạnh phúc đích thực, không phải là những kiến thức hay sự suy luận, nhưng phải là cung cách, là thái độ và đời sống thực hành trong bác ái và yêu thương của mỗi người chúng con. Xin ban ơn giúp sức, để trong mọi nơi mọi lúc, chúng con luôn biết chọn Chúa để yêu mến và làm vinh danh Ngài, hầu sinh ơn ích cho tha nhân. Amen.
55. Việc làm của Đức tin là Đức ái
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong Do Thái giáo có tất cả 613 điều luật. Học thuộc những điều luật này đã là khó, nói chi đến việc cắt nghĩa cho chính xác và tuân thủ vẹn toàn. Vì thế trong đầu óc một tín hữu Do Thái giáo luôn thấp thoáng câu hỏi: Luật nào là quan trọng nhất? Không có dân tộc nào say mê luật như dân tộc Do Thái. Người Do Thái đặt ra đủ các thứ luật. Họ giữ luật cặn kẽ chi li. Họ học luật ngay từ khi còn nhỏ. Họ đeo cả lề luật trên trán, trên tay.Nhưng vì quá say mê luật nên họ bị luẩn quẩn trong một mớ bòng bong, không còn biết giữ luật thế nào cho đúng, không còn biết đâu là luật quan trọng đâu là luật bình thường. Đạo Do Thái dựa trên 10 điều răn. Trải qua các thế hệ, họ chú giải thêm thành 613 luật. Trong đó có 248 luật khuyên làm và 365 luật cấm làm. Họ không đồng ý với nhau về điều luật nào trọng nhất, nên trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, có một luật sĩ đã đến hỏi Chúa Giêsu: “Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?”. Người đáp: “Hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn giới răn thứ hai: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Mc 12,30-31). Giới răn thứ nhất trích trong sách Đệ Nhị luật 6, 5. Giới răn thứ hai rút trong sách Thứ luật 19,18. Như vậy Chúa Giêsu đã nâng luật yêu người ngang với luật mến Chúa. Người đã kết hợp thành một luật duy nhất: “Mến Chúa yêu người”.
1. Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Thiên Chúa là chủ tể trời đất. Ngài dựng nên muôn loài muôn vật. Ngài là nguồn mạch sự sống và là cùng đích của muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái.
Vì thế ta phải yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Thiên Chúa là quan trọng nhất của con người.
Còn chúng ta, điều gì quan trọng nhất?
Có người cho đó là tiền: có tiền mua tiên cũng được. Mọi người đều cần tiền. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi sinh hoạt, chi phối mọi sinh hoạt, thậm chí còn là mục đích của mọi sinh hoạt. Điều quan trọng hơn cả là làm sao kiếm được nhiều tiền, càng nhiều càng tốt. Tiền bạc là thước đo sự thành công ở đời.
Có người cho đó là địa vị: làm thế nào để có chỗ đứng trong xã hội, được người khác kính trọng, phục tùng.
Người khác cho đó là tình yêu: chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hạnh phúc. Đối với đôi nam nữ đang yêu thì tình yêu là quan trọng nhất.
Nhiều người cho đó là học vấn: đối với học sinh hay sinh viên, đỗ đạt là quan trọng nhất.
Đối với phần đông những người trưởng thành, thì điều quan trọng là vợ con, là gia đình, là nghề nghiệp, là nơi ăn chốn ở.
Thực tế ở đời có rất nhiều điều quan trọng, tuỳ ở hoàn cảnh và tuỳ ở từng người. Nhưng nếu điều gì cũng quan trọng nhất thì cuối cùng chẳng có gì là nhất cả, mọi sự đều tương đối. Mọi sự đều tương đối, nhưng mọi sự đều quan trọng, kể cả niềm tin tôn giáo, kể cả Chúa. Đó là não trạng của con người thời nay, là cám dỗ của thời đại.
Người tin Chúa và theo Chúa, cũng có người nghĩ như vậy: tiền quan trọng, mà Chúa cũng quan trọng. Có những người khá hơn, trên lý thuyết vẫn cho Chúa là quan trọng nhất, nhưng trong thực tế có những lúc tiền bạc, tình yêu và thành công ở đời cũng quan trọng như Chúa.
Nhiều người nghĩ rằng ở thế gian này không có gì là duy nhất, kể cả những điều loài người thường cho là cao quý như là chân thiện mỹ chẳng hạn. Có những điều đối với người này là chân lý, đối với người kia lại là sai lầm; đối với người này là tốt, đối người kia là không; đối với một số người là đẹp, đối với những người khác là xấu. Không có gì tuyệt đối ở trần gian. Cám dỗ tương đối hoá mọi sự là cám dỗ lớn nhất của thời đại chúng ta. Cám dỗ này rất nguy hiểm. Dễ sa ngã vì con người không muốn bị ràng buộc và hướng chiều về hưởng thụ.
Thế gian không có gì là duy nhất, không có gì là tuyệt đối.
Thiên Chúa là Siêu Việt, là Vĩnh Hằng. Mọi sự đều qua đi. Chỉ có Chúa mới là quan trọng nhất, chỉ có Chúa mới là Tuyệt Đối. Do đó chúng ta được mời gọi yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực của mình.
Chúa Giêsu đã lập lại lời kêu gọi đó, khi trả lời cho người thông luật muốn hỏi trong các giới răn điều nào quan trọng nhất. Yêu mến Thiên Chúa là điều quan trọng nhất.
2. Yêu tha nhân như chính mình.
Thiên Chúa là Đấng vô hình vô ảnh ta không thấy được. Ta nói yêu mến Thiên Chúa, điều đó khó mà kiểm chứng được. Nên Thiên Chúa đã ràng buộc điều răn mến Chúa vào điều răn yêu người. Yêu Chúa thì phải yêu tha nhân. Yêu tha nhân là bằng chứng yêu mến Chúa. Còn hơn thế nữa, yêu tha nhân chính là yêu Chúa. Vì Chúa đã tự đồng hóa với con người, với những người bé nhỏ nhất trong xã hội. Điều này chính Chúa Giêsu đã công khai minh định: “Ta bảo thật, mỗi lần các ngươi giúp đỡ một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Thành ra hai giới răn chỉ là một. Đó chỉ là hai khía cạnh của cùng một giới răn.Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là một kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy” (1Ga 4,20); “ Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn ở trong bóng tối”(1 Ga 2, 9 ).
Đối với Chúa Giêsu, tình yêu là giới răn đứng hàng đầu trong các giới răn. Mọi lề luật đều phải hướng đến tình yêu. Ai chu toàn tình yêu là chu toàn lề luật.
Lề luật của Chúa thật nhẹ nhàng vì lề luật chính là tình yêu. Nếu yêu mến Chúa và yêu mến anh em, ta sẽ thấy việc giữ luật không còn gì khó khăn nữa. Tình yêu sẽ làm cho ta cảm nếm sự ngọt ngào trong việc tuân giữ lề luật.
Lề luật của Chúa cô đọng trong một thái độ là yêu mến.Giữ luật mà quên yêu mến có thể dẫn đến óc nệ luật.Giữ luật phải trở nên phương thế để bày tỏ tình yêu. Vì “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
3. Việc làm của Đức tin là Đức ái.
Thánh Giacôbê nói một câu bất hủ: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). “Việc làm” mà Thánh Tông Đồ nói đến là thực hành bác ái. Thánh Phaolô ca ngợi đức mến: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng,chũm chọe xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Đức tin và Đức mến liên hệ mật thiết với nhau.
Trong Tông thư “Cánh Cửa Đức Tin”, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết: Năm Đức Tin cũng sẽ là cơ hội thuận tiện để tăng cường chứng tá bác ái. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Vì vậy giờ đây còn lại ba điều là đức tin, đức cậy và đức mến. Nhưng lớn hơn cả là đức mến” (1 Cr 13,13). Và Thánh Giacôbê Tông Đồ, với những lời càng mạnh hơn nữa, luôn thúc đẩy các tín hữu Kitô, quả quyết rằng: “Hỡi anh chị em, nếu một người nói mình có đức tin mà lại không có việc làm thì ích gì? Đức tin ấy có thể cứu họ được không? Nếu một người anh em, chị em, không có y phục và lương thực hằng ngày và một người trong anh chị em nói: “Hãy đi bình an, hãy sưởi ấm và ăn no” nhưng lại không cho họ những gì cần thiết cho thân thể họ, thì hỏi có ích gì? Đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm đi kèm, thì tự nó là đức tin chết. Trái lại một người có thể nói: “Anh có đức tin và tôi có việc làm; hãy tỏ cho tôi đức tin không có việc làm của anh, và tôi, qua việc làm tôi chứng tỏ cho anh đức tin của tôi” (Gc 2,14-18).
Đức tin không có đức mến thì không mang lại thành quả và đức mến không có đức tin thì sẽ là một tình cảm luôn tùy thuộc sự nghi ngờ. Đức tin và đức mến cần có nhau, đức này giúp đức kia thực hiện hành trình của mình. Có nhiều Kitô hữu yêu thương tận tụy dành cuộc đời phục vụ những người lẻ loi, bị gạt ra ngoài lề hoặc bị loại trừ, coi họ như những người đầu tiên cần đi tới và như người quan trọng nhất cần được nâng đỡ, vì chính nơi người ấy có phản ánh khuôn mặt của Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra tôn nhan Chúa phục sinh nơi những người đang xin tình thương của chúng ta. “Tất cả những gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, tức là các con đã làm cho Thầy” (Mt 25,40): những lời này là một lời cảnh giác không nên quên, và là một lời mời gọi trường kỳ hãy đáp trả tình yêu mà Chúa đã chăm sóc chúng ta. Đó là đức tin giúp nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thúc đẩy cứu giúp Chúa mỗi khi Ngài trở thành người thân cận của chúng ta trong cuộc sống. Được đức tin nâng đỡ, chúng ta hy vọng hướng nhìn sự dấn thân của chúng ta trong thế giới, trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, trong đó có công lý cư ngụ” (2 Pr 3,13; x. Kh 21,1). (Porta Fidei, Số 14).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN nói về mối liên hệ đức tin và đức mến: Cách riêng, trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, đức tin của người Công giáo cần được thể hiện qua việc thực thi bác ái. Đức Tin và Đức Mến cần đến nhau và hỗ trợ cho nhau: “Chính đức Tin giúp chúng ta nhận ra Chúa Kitô và chính tình yêu Chúa thôi thúc chúng ta chạy đến phục vụ Chúa mỗi khi Người trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống”. Được Lời Chúa soi sáng và tình yêu Chúa thấm nhập trong suy nghĩ cũng như hành động, chúng ta sẽ trở nên những chứng tá đáng tin trong xã hội ngày nay. (Số 7).
Năm Đức Tin sống Đức Ái, chúng ta cùng chung tay với Chúa Giêsu thực hiện Năm Hồng Ân của Thiên Chúa (Lc 4,19).
56. Yêu thương bằng việc làm
(Trích trong ‘Đối thoại với Thiên Chúa’ – Fernandez)
1. Giới răn trọng nhất.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay cho chúng ta thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân ước, cũng như sự hoàn hảo trong Mặc Khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc một, chúng ta được nghe giới răn thứ nhất được tuyên đọc bằng những lời rõ ràng: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi. Câu Thánh Kinh này rất quen thuộc với tất cả những người Do Thái. Họ lặp lại giới răn này hai lần mỗi ngày, trong giờ kinh Sáng và kinh Tối của họ.
Trong bài Phúc âm, chúng ta được nghe về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với một vị kinh sư. Ông này đã lắng nghe cuộc đối thoại giữa Chúa và những người Sa-đốc. Vị kinh sư có một ấn tượng về cách Chúa trả lời những vấn nạn. Và ông đã hỏi Chúa về giáo huấn của Người: Thưa Thầy, giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu dừng lại một chút trước câu hỏi thành tâm này, mặc dù Người thường nghiêm nghị với những kinh sư và những người Biệt Phái. Vào cuội cuộc trao đổi, Chúa đã nói những lời đầy khích lệ với vị kinh sư: Ông không còn xa nước Thiên Chúa bao nhiêu. Chúa Giêsu luôn sẵn lòng dành thời giờ cho những linh hồn quan tâm đến Người. Chúa đã nhắc lại những lời trong Thánh Kinh: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết trí khôn, và hết sức lực ngươi…
Đây chính là giới răn trọng nhất trong mọi giới răn, là giới luật tóm kết và cao điểm của mọi giới luật. Nhưng ý nghĩa của tình yêu này hệ tại ở điều gì? Trong một bức thư tưởng tượng viết cho thánh Phanxicô Salê, Đức Hồng Y Luciani – tức là Đức Gioan Phaolô I sau này – đã đưa ra câu định nghĩa như sau: Theo ngài, người yêu mến Chúa phải lên con tàu của Chúa, quyết tâm theo con đường các giới luật của Chúa, dưới sự hướng dẫn của các vị đại diện của Chúa, và trong những tình huống và hoàn cảnh cuộc sống Chúa đã cho xảy đến. Ngài đã tưởng tượng ra cuộc phỏng vấn hoàng hậu Marguerite, khi bà sắp sửa lên đường gia nhập đạo quân Thánh Giá cùng chồng là vua thánh Louis IX của nước Pháp: ‘Thưa quí bà, quí bà định đi đâu?’ Đức vua đi đâu, tôi đi đó’. ‘Nhưng quí bà đâu có biết đích xác đức vua đi đâu không?’ ‘Đức vua đã cho tôi biết tổng quát. Tôi không quan tâm đến việc biết đích xác nơi đức vua sẽ đến, tôi chỉ quan tâm đến việc được cùng đi với đức vua’… Đức vua là Thiên Chúa, và chúng ta tất cả là những hoàng hậu Marguerites nếu chúng ta thực tâm yêu mến Người…
Sống với Thiên Chúa, chúng ta cảm nghiệm như một con trẻ trên tay mẹ hiền; dù Người ẵm chúng ta bên tay phải hoặc bên tay trái: chúng ta hãy để tùy ý Người. Chỉ có một điều can hệ: đó là được sống bên Chúa Giêsu. Dù ở đâu, dù chúng ta chịu đau khổ nào, dù thành công hay thất bại – tất cả phải được chúng ta đón nhận. Hoàn cảnh dù thế nào cũng phải giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa hơn. Chúng ta hãy sống theo lời khuyên của thánh nữ Têrêsa: Đừng để sự gì làm bạn xao xuyến; Đừng để điều gì làm bạn kinh hãi; Mọi sự đều qua đi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Sự nhẫn nại đạt được: Tất cả những gì nó gắng đạt đến. Ai có Thiên Chúa sẽ thấy mình không thiếu thốn gì; Một mình Chúa là đủ cho ta.
2. Đáp lại tình yêu Chúa.
Hôm nay, chúng ta cầu nguyện trong phần đáp ca:
Con yêu mến Chúa, lạy Giavê, sức mạnh của con.
Chúa là đá tảng, là đồn lũy, là đấng giải thoát con. Lạy Chúa Trời con, Người là thuẫn đỡ, là uy tế độ, là đồn trú của con.
Thánh Vịnh 17 có thể được coi là kinh Te Deum vua Đavít đã thân thưa với Chúa. Vua muốn cám tạ Thiên Chúa về tất cả những sự trợ giúp đã nhận được trong cả cuộc đời Chúa đã giải thoát vua khỏi mọi địch thù. Người đã ban cho vua được chiến thắng các dân ngoại. Sau cuộc khởi loạn của Absalom, Chúa đã trả lại thành Jerusalem cho vua. Lúc nào, vua cũng nhận được sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, vua đã dâng lên Chúa lời cám tạ và tình mến: Lạy Chúa, sức mạnh của con, con yêu mến Chúa. Chúa luôn luôn là đồng minh của vua Đavít, là thành lũy, là nơi nương ẩn, và là khiên thuẫn chở che cho vua… Chúa luôn luôn bảo trợ cho vua: Người giải thoát tôi, bởi vì Người hài lòng với tôi. Mỗi người chúng ta cũng có thể lặp lại những lời như thế. Nhân tố quyết định cho cuộc đời chúng ta chính là việc Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thực tại này phải làm cho lòng chúng ta ngập tràn niềm an ủi và hy vọng: Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Mầu nhiệm Nhập Thể là biểu hiện tối cao của tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người. Tình yêu này còn có trước thời điểm Nhập Thể, vì phát sinh từ bản tính Thiên Chúa: Ta đã yêu thương các người bằng một tình yêu muôn thuở. Tình yêu này đã có trước khi tạo thành trời đất. Thánh Thomas dạy rằng tình yêu này là nguồn mạch mọi ân sủng của chúng ta.
Nhưng điều còn kinh ngạc hơn nữa là tình yêu Thiên Chúa đã được trào đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, đấng đã được ban tặng cho chúng ta. Thánh Augustine đã viết: Chúng ta đã được yêu thương ngay cả khi chúng ta vô tâm nhất. Thiên Chúa đã muốn ban cho chúng ta một điều gì đó để chúng ta ca ngợi Người. Thánh nhân còn nói: Hãy nghe đây! Hãy nghĩ về cách bạn đã được yêu thương khi bạn không đáng được thương yêu. Hãy lắng nghe, bạn đã được thương yêu như thế nào khi bạn vụng về và xấu xa, khi bạn chẳng có gì đáng được yêu thương. Bởi vì bạn đã được thương yêu trước, bạn đã được tạo dựng để được yêu thương.
Chúng ta lẽ nào lại không đáp trả một tình yêu như thế hay sao? Thiên Chúa mời gọi chúng ta yêu mến Người bằng việc làm và bằng những cảm tình của con tim. Mỗi ngày, chúng ta hãy tìm hiểu thêm về nhân tính thánh thiện của Chúa Giêsu, đó là con đường tốt nhất để đến cùng Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha hằng yêu thương Chúa Con. Người cũng yêu thương chúng la: Cha đã yêu chúng như Cha đã yêu Con. Người càng yêu thương chúng ta hơn nữa khi chúng ta yêu mến Con của Người: Ai yêu mến Ta, Cha Ta sẽ yêu mến kẻ ấy.
Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm. Tình yêu được thể hiện trong sự tín thác như con trẻ đến cùng người cha khi gặp sự khó. Đây là việc của mỗi ngày. Chúng ta hãy có một tinh thần tri ân vui tươi về bao phúc lành đã được lãnh nhận. Chúng ta hãy tín trung như những người con thảo hiếu đối với Thiên Chúa, trong những nơi Người đã đặt định cho chúng ta. Trong lâu đài của Thiên Chúa, chúng ta hãy chấp nhận bất kỳ vị trí nào: người nấu nướng hoặc người rửa bát, người phục vụ, người làm bánh, người giữ ngựa. Nếu đức vua muốn gọi chúng ta vào số quần thần ưu tú, chúng ta hãy sẵn sàng mà không xao xuyến, chúng ta biết sự ban thưởng không tùy thuộc vào địa vị, nhưng vào sự tín trung với nhiệm vụ được giao phó. Thiên Chúa muốn chúng ta được hạnh phúc với địa vị của chúng ta. Bao nhiêu lần lẽ ra chúng ta phải thưa với Người: Lạy Chúa, con yêu mến Chúa…, nhưng xin dạy con biết yêu hơn nữa, yêu thật nồng nàn!
3. Tình yêu thể hiện bằng việc làm.
Một nhà viết tiểu sử thánh nữ Têrêxa Avila đã mô tả tình mến tinh tế từ những ngày đầu của đan viện thánh Giuse: Khi thiếu thốn tiền bạc, các nữ tu sẵn lòng dùng bánh khô, nhưng họ chẳng bao giờ thiếu nến sáp để thắp sáng bàn thờ và những đồ phụng tự đều là thứ tuyệt hảo hết sức có thể. Một linh mục lấy làm khó chịu: ‘Cái gì! Một chiếc khăn để lau tay trước khi dâng lễ mà cũng phải tẩm thuốc thơm à?’ Với dung mạo tốt lành rạng ngời lửa mến, mẹ Têrêxa đã nhận phần trách nhiệm: ‘Chính vì tôi mà các chị em đã mắc sự bất toàn này. Nhưng khi tôi nhớ rằng Chúa đã quở trách bọn Biệt Phái vì không tiếp rước Người xứng đáng, thì tôi lại ước ao mọi sự trong thánh đường này, bắt đầu từ ngưỡng cửa, đều được tẩm dầu thơm…’ Chúa rất coi trọng những biểu hiện tình yêu chân thành như thế.
Chúng ta hãy tỏ lòng mến Chúa bằng cách trung thành giữ trọn những giới luật của Người và chu toàn những bổn phận của chúng ta giữa trần gian. Lòng mến của chúng ta sẽ được minh chứng qua việc gớm ghét tội lỗi và mọi dịp tội, qua việc thực thi tình yêu trong những chi tiết nhỏ mọn như bái quì nghiêm trang, giữ đúng giờ những việc đạo đức, cung kính chào ảnh Đức Mẹ… Chính nhờ những việc đạo đức nhỏ bé này mà chúng ta giữ được ngọn lửa tình yêu Chúa của chúng ta được bừng cháy.
Mọi việc chúng ta dâng lên Chúa chỉ có một giá trị tương đối nếu so với tình yêu đi trước của Chúa. Thiên Chúa yêu thương tôi. Thánh Gioan Tông đồ viết: ‘Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Người đã yêu thương chúng ta trước’. Và như thế dường như vẫn chưa đủ, nên Chúa Giêsu đã đến với từng người chúng ta, mặc dù chúng ta dơ nhớp, để hỏi chúng ta giống như Người đã hỏi Phêrô: ‘Simon, con Giona, con có mến Thầy hơn những người này không?’
Đây là lúc chúng ta phải trả lời: ‘Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa!’ Tuy nhiên, chúng ta hãy khiêm tốn xin thêm: ‘Nhưng xin giúp con yêu mến Chúa hơn nữa. Xin gia tăng lòng mến cho con!’.
57. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters)
KHI ĐAU BUỒN VỀ NGƯỜI ĐÃ KHUẤT, CHÚNG TA CÓ THỂ NHỚ ĐẾN CÁCH HỌ ĐÃ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA
Hạn từ “tam nhật” Vượt qua (triduum) thường được dùng vào cuối mùa Chay để chỉ khoảng thời gian ba ngày, bắt đầu vào chiều thứ Năm tuần Thánh đến cao điểm là Chúa nhật Phục Sinh. Ngoài ra, lịch Phụng vụ còn có một tam nhật khác (gọi là Tam nhật Các Thánh) bắt đầu từ ngày 31/10, mặc dù người ta ít khi gọi thời điểm này là tam nhật.
Lễ trọng Các Thánh Nam Nữ (All Saints) vào ngày 01/11 cùng với lễ vọng Các Thánh Nam Nữ (Halloween – All Hallows’ Eve: đêm 31/10) [1], và lễ Các Đẳng (02/11) tạo nên “tam nhật”. Vì nhiều lý do, lễ vọng Các Thánh (Halloween) gần như đã trở thành một lễ hội thế tục, nhưng mối liên hệ lịch sử của ngày này với lễ Các Thánh và lễ Các Đẳng vẫn có ý nghĩa. Tam nhật Các Thánh tưởng nhớ đến những người đã qua đời, bao gồm các vị thánh, các vị tử đạo và cuối cùng là tất cả những ai đã qua đời.
Bài Tin mừng hôm nay đặc biệt có nhiều bài học khi được đọc trong dịp cầu nguyện và tưởng nhớ những người đã khuất. Bài Tin mừng này diễn ra vào gần cuối sứ vụ của Đức Giêsu theo thánh Máccô, tức sau khi Ngài vào thành Giêrusalem và trước Bữa Tiệc Ly. Theo tường thuật của Tin mừng, cuộc tử nạn của Đức Giêsu gần đến và Ngài dành những ngày cuối cùng để giảng dạy những chủ đề như cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Trong một lần trò chuyện với các kinh sư, khi được hỏi điều răn nào trọng nhất, Đức Giêsu đã đưa ra câu trả lời gồm ba phần trích từ Đnl 6,4–5 và Lv 19,18. Từ sách Đệ Nhị Luật, Đức Giêsu đã trích dẫn kinh Shema Yisrael (Nghe đây, hỡi Israel). Đây là lời cầu nguyện của người Do Thái để bày tỏ đức tin của cộng đồng vào Thiên Chúa – một Thiên Chúa duy nhất. Sau đó, Đức Giêsu diễn tả sự cần thiết của việc yêu mến Thiên Chúa với trọn con người. Từ sách Lêvi, Đức Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc yêu thương người thân cận.
Ở những thời điểm khác nhau trong Tin mừng Mátthêu và Luca, Đức Giêsu cũng tuyên bố tầm quan trọng của những điều luật này. Trong Tin mừng Mátthêu, Đức Giêsu khẳng định: “Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,40). Trong Tin mừng Luca, Đức Giêsu kể dụ ngôn người Samari tốt lành và nhấn mạnh rằng: người thân cận là người thực thi lòng thương xót đối với người đang gặp khó khăn. Trong Tin mừng Máccô, cuộc đối thoại kết thúc với nhận định rằng: người tuân giữ những điều răn ấy sẽ không xa Nước Thiên Chúa, đây là một kết luận mang âm hưởng cánh chung.
Khi tưởng nhớ những người đã khuất, chúng ta có thể suy gẫm cách họ sống và hy sinh đã ảnh hưởng và truyền cảm hứng cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cũng có thể dùng thời gian này để lượng giá cách chúng ta đang sống. Bằng cách sống thờ phượng Thiên Chúa hết lòng và yêu mến tha nhân, cuối cùng chúng ta sẽ đến gần Nước Thiên Chúa hơn.
——–
Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ America Magazine (16/9/2021)
[1] Tại Anh quốc, các thánh (saints /holy people) còn được gọi bằng một hạn từ khác cũng có nghĩa là thánh “hallowed = holy”. Từ đó, có tên gọi Lễ Các Thánh (All Hallows’ Day). Thông thường, đêm trước ngày lễ cũng được gọi là Đêm vọng lễ Các Thánh (Hallows’s Eve [evening] hay ngắn gọn là Hallowe’en). Nhiều người cho rằng lễ hội Halloween bắt nguồn từ lễ hội mùa thu hoạch của người Ái Nhĩ Lan cổ và được Giáo hội biến đổi thành lễ nghi tôn giáo.
Năm 1484, Đức Thánh cha Sixtô IV thiết lập Lễ Các Thánh Nam Nữ (01/11) là ngày lễ nghỉ buộc, gồm có lễ vọng và tuần bát nhật để mừng lễ Các Thánh Nam Nữ. Lễ vọng này đã bị hủy bỏ vào năm 1955. Thay vì tổ chức lễ vọng tách rời với lễ Các Thánh Nam Nữ thì lễ trọng Các Thánh nam Nữ được phép cử hành từ chiều ngày 31/10.
58. Giới răn Mến Chúa Yêu Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Khi nói tới điều răn mến Chúa yêu người thì ai cũng cho là một đề tài quá quen và cũ kỹ rồi, nhưng nếu biết cầu nguyện, suy gẫm, tìm hiểu và nghiên cứu thì đây là một đề tài phong phú, nó sẽ gợi mở ra một chân trời rộng rãi và còn nhiều điều mới lạ. Hầu hết chúng ta mới học thuộc lòng điều răn ấy chứ chưa hiểu hết nội dung, nên chưa thực hành đầy đủ điều răn ấy.
Cốt yếu của đạo Công giáo của chúng ta là Đức ái “Mến Chúa yêu người” vì Đức Giêsu đã khẳng định: “Ngoài ra không còn điều răn nào khác quan trọng hơn hai điều răn đó” (Mc 12,31).
Thánh Phaolô nói: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,13). Thánh Tông Đồ còn khẳng định thêm: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người… được ơn nói tiên tri… đem hết gia tài ra bố thí mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13,1-3). Thế mới biết tầm quan trọng của Đức Ai.
Điểm đặc biệt trong đạo chúng ta là Đức Giêsu đã nâng giới răn yêu người lên ngang tầm với giới răn mến Chúa và gắn liền hai giới răn đó chặt chẽ với nhau đến nỗi mến Chúa mà không yêu người thì chưa giữ trọn luật Chúa, và ngược lại cũng vậy. Hôm nay chúng ta suy niệm về luật mến Chúa yêu người nhưng chúng ta chú trọng hơn đến luật yêu người để thúc giục chúng ta thi hành luật Chúa cho đầy đủ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Đnl 6,2-6
Ông Maisen nhắc nhở cho dân Do thái phải thi hành luật cao trọng nhất là: “Kính mến Thiên Chúa hết lòng hết sức”. Lòng yêu mến Chúa trong Đệ nhị luật truyền dạy bao hàm trong sự trung thành thờ phượng Thiên Chúa và tuân giữ các giáo huấn của Ngài.
Dân Do thái tuân giữ giới răn này qua bao thế hệ. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Cựu ước còn thiếu sót vì chỉ chú trọng tới việc yêu mến Giavê, Thiên Chúa duy nhất, mà chưa nói đến việc yêu thương tha nhân.
Sự thiếu sót này sẽ được Đức Giêsu bổ túc trong bài Tin mừng hôm nay.
+ Bài đọc 2: Dt 7,23-28
Thư gửi tín hữu Do thái ca ngợi chức Tư Tế của Đức Giêsu. Chức Tư tế của Đức Giêsu Kitô ưu việt trên chức tư tế của dòng họ Lêvi. Nếu so sánh hai chức tư tế ấy chúng ta sẽ thấy:
– Chức tư tế của Do thái chỉ có một đời người, khi chết thì hết; còn chức Thượng Tế của Đức Giêsu thì vĩnh viễn.
– Các tư tế Do thái là những người phàm, vướng mắc nhiều tội lỗi; còn Đức Giêsu là vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn.
– Các tư tế Do thái phải dâng lễ nhiều lần; còn Đức Giêsu chỉ dâng lễ đền tội một lần là đủ.
+ Bài Tin mừng: Mc 12,28b-34
Một luật sĩ đến hỏi thử Đức Giêsu xem giới răn nào trọng nhất. Câu hỏi xem ra bình thường nhưng là câu hỏi hóc búa. Lý do vì trong 613 khoản luật không nói đến điều răn nào trọng nhất, tùy theo ý chủ quan của mỗi luật sĩ, thích điều răn nào thì cho là điều răn ấy trọng nhất.
Nhưng Đức Giêsu đã nối kết hai khoản luật ở Đệ nhị luật và ở sách Lêvi trả lời rõ ràng cho luật sĩ đó là hãy yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hai giới răn trọng nhất
I. GIỚI RĂN MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI.
1. Giới răn trong Cựu ước.
Ông Maisen là nhà lập quốc và lập pháp đã truyền lại cho dân Do thái mười điều răn của Thiên Chúa. Qua bao thế hệ người ta vẫn trung thành giữ các điều răn ấy.
Hằng ngày người Do thái sốt sắng cầu nguyện với kinh Shema tựa như kinh Lạy Cha của chúng ta. Trong đó có câu: “Hãy nghe, hỡi Israel, Giavê Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa độc nhất. Ngươi sẽ yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi. Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi”.
Đó là một kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, hết thảy mọi người đều phải tận lực yêu mến Ngài. Tuy mọi người tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất nhưng chưa đồng ý với nhau trong một rừng luật như vậy, giới răn nào là quan trọng nhất. Đức Giêsu sẽ trả lời cho họ trong Tân ước.
Nhân dịp này chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thế nào là sách Đệ nhị luật hay Thứ luật. Ông Maisen đã ra luật cho dân nhưng còn tổng quát và ngắn gọn, sau này luật được diễn dịch rồi tổng hợp thành bộ luật Thorab. Sách Đệ nhị luật không thành hình trong một ngày và do một tác giả nào. Nó cũng không phải là tác phẩm trong thời Maisen. Nó lấy lại luật Maisen, suy đi nghĩ lại và cùng với lịch sử của dân Chúa. Có thể hàng tư tế đã là nguồn gốc của sách này. Thế nên nó được gọi là Đệ nhị luật hay Thứ luật, tức là luật đến sau luật trước, luật bổ khuyết và diễn giải luật pháp Sinai.
2. Giới răn trong Tân ước.
Trong thời Đức Giêsu, các luật sĩ là những chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh và luật pháp. Chắc chắn họ phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh vì đó là lãnh vực chuyên môn của họ. Thế mà có một luật sĩ nêu ra cho Đức Giêsu một câu hỏi kể cũng hơi lạ!
Nhưng thực ra, vào thời ấy, các luật sĩ đều sôi nổi tranh luận xem giới răn này hay giới răn nọ quan trọng hơn. Họ đã liệt kê ra một rừng giới răn, cả một cánh rừng mù mịt đối với người Do thái. Như vậy, luật Do thái có 613 khoản luật, chia ra 248 việc phải làm và 365 việc không được làm. Xét về sự quan trọng, người ta lại chia các điều luật đó ra nhiều hạng: khinh giới và trọng giới, đại giới và tiểu giới. Nhưng các người biệt phái lại không đồng ý với nhau về giới răn nào trọng nhất. Vì thế, người luật sĩ mới đến dò xem Chúa cho biết điều răn nào là trọng nhất.
Đức Giêsu đã trả lời cho ông bằng cách đọc lại những lời đầu tiên của kinh cầu nguyện Do thái. Đó là kinh Shema “Hỡi Isrel, hãy lắng nghe” trích trong Đệ nhị luật 6,4-5: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”.
Nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài liên kết giới răn thứ nhất với giới răn thứ hai là phải yêu mến anh em: “Còn đây là giới răn thứ hai: ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18-34).
Trong văn chương Do thái thời ấy, người ta thường thấy thủ pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu quả là bậc thầy tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản đó, Marcô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào quan trọng hơn những giới răn đó”(J. Hervieux)
* Hãy yêu tha nhân. Tha nhân là ai? Trong Cựu ước chỉ có nghĩa là người gần gũi với người Do thái về huyết thống và chủng tộc. Nhưng “tha nhân” mà Đức Giêsu dùng ở đây có ý hiểu về hết mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, người nghĩa thiết hay kẻ thù.
* Như chính mình ngươi. Không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì ngươi làm cho ngươi, nhưng đúng hơn là phải đối xử với kẻ khác cùng một “tình yêu” như ngươi đã xử với ngươi. Đó là một nét độc đáo của tình yêu Kitô giáo, thứ tình yêu đạp đổ mọi hàng rào ngăn cách chủng tộc, mầu da, vượt lên trên óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi hiềm khích hay những thành kiến cá nhân hoặc cổ truyền.
II. NÓI VỀ HAI GIỚI RĂN ĐÓ
1. Liên hệ giữa hai giới răn.
Điều mới lạ mà Đức Giêsu làm là ghép chung hai giới răn này lại với nhau. Từ trước cho đến thời Đức Giêsu chưa có ai nhập chung hai giới răn ấy thành một. Yêu Chúa và yêu tha nhân, hai tình yêu ấy như hai anh em sinh đôi dính liền nhau. Khi tìm được người này, chúng ta sẽ gặp được người kia. Và khi không tìm được người này chúng ta cũng chẳng gặp được người kia.
Nhưng cần phải phân biệt rõ hai giới răn này. Người ta thường có khuynh hướng hợp nhất hai giới răn này làm một, như thể “yêu Thiên Chúa là đủ” hay “yêu thương anh em” cũng đủ. Giới răn thứ hai không thể thay thế cho giới răn thứ nhất được. Hai giới răn này chỉ là hợp nhất và song hành thôi, chứ giới răn thứ hai không đồng nhất với giới răn thứ nhất được.
Nếu so sánh tình yêu đối với Chúa và anh em thì có nhiều người tưởng rằng yêu mến Thiên Chúa dễ hơn yêu thương anh em. Bởi vì theo họ, anh em là những con người đầy giới hạn, đầy khuyết điểm, trờ trờ trước mắt, nên dễ làm cho chúng ta khó chịu. Còn Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành, chẳng có gì không đáng yêu. Thiên Chúa ở xa không đụng chạm, còn anh em ở gần thì đụng chạm hoài. Thiên Chúa dễ để cho mình “hối lộ”, cứ dâng lễ, cầu kinh rồi Ngài xí xóa mọi chuyện.
Cũng không phải yêu anh em dễ hơn yêu Chúa, nhưng yêu thương anh em là việc cụ thể nhất mà Thiên Chúa chờ đợi ở nơi chúng ta. Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ lời Ngài. Không yêu thương anh em là không giữ lời Thiên Chúa, tức là không yêu mến Thiên Chúa. Rút cục, hai điều khó như nhau, vì không thể thiếu một trong hai, không thể tách rời để chỉ giữ một trong hai (Phạm văn Phượng).
2. Tình yêu và hành động.
Nếu thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”, thì chúng ta cũng có thể nói: “Tình yêu không được thể hiện bằng hành động là thứ tình yêu giả dối, chỉ có trên đầu môi chót lưỡi như người ta nói:
Thương thương nhớ nhớ thương thương,
Nước kia muốn chảy mà mương không đào
a) Mến yêu Chúa.
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Chúng ta hãy nghe những lời Chúa dạy:
“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy… Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23).
b) Yêu tha nhân.
Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy”(Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tai họa; vậy yêu người thì cũng phải làm như vậy cho người.
Có lần một người mới gia nhập Do thái giáo yêu cầu thầy Hillel dạy ông ta toàn thể thông điệp của luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng trên một chân. Câu trả lời của thầy Hillel là “Điều gì ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại là nhằm giải thích, hãy đi và học lấy”.
Ngay bên Đông phương, trước Đức Giêsu, Đức Khổng Tử đã để lại một câu nói để đời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác. Sau này ngài cũng nói một câu khác tương tự nhưng với khía cạnh tích cực: “Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Tư tưởng của ngài cũng giống như ở trên.
c) Tình yêu tha nhân bắt đầu từ đâu?
Tình yêu tha nhân phải bắt đầu từ gần đến xa. Nhưng bi đát thay, việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình chúng ta. Không yêu các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào yêu thương những người khác được. Và ngược lại cũng thế. Khi yêu thương các thành viên trong gia đình mình, chắc chắn chúng ta sẽ yêu thương được những người khác nữa.
Chúng ta hãy đặt một câu hỏi cho mình: Chúng ta đã dành tình thương cho những người trong gia đình mình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là “chưa mặn mà lắm” thì có lẽ tình yêu ta dành cho láng giềng cũng chẳng thể khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu tha nhân, chẳng yêu láng giềng mặn nồng thì chúng ta cũng không thể yêu mến Chúa nồng nạn được. Ngược lại, nếu chúng ta yêu quí mọi người trong gia đình mình, chúng ta mới có thể yêu quí người hàng xóm, và một khi yêu được người hàng xóm, thì chúng ta cũng dễ dàng yêu mến Thiên Chúa.
Trong ý nghĩa đó, Thomas Merton đã nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”.
3. Thành quả của hai giới răn đó.
Nhờ hai tình yêu đó mà con người có thể tìm lại được chính mình. Các tác giả tu đức nói rằng lệnh truyền của Đức Giêsu đòi buộc chúng ta yêu tha nhân và lệnh truyền của Ngài đòi buộc chúng ta yêu mến Chúa. Hai lệnh truyền đó tương quan mật thiết với nhau đến nỗi nếu chúng ta không thương yêu anh em mình thì chẳng bao lâu chúng ta cũng chẳng còn yêu mến Thiên Chúa nữa. Có một câu châm ngôn rất phổ biến diễn tả chân lý ấy thật sống động như sau:
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy gieo tình yêu và ta sẽ gặt được tình yêu,
Nơi nào không có tình yêu, ta hãy đặt tình yêu vào đấy và ta sẽ tìm thấy tình yêu.
Tôi đi tìm Chúa nhưng tôi không gặp được Ngài,
Tôi đi tìm linh hồn tôi nhưng linh hồn trốn né tôi,
Tôi đi tìm người láng giềng, và tôi gặp được cả ba.
Chúng ta có thể quả quyết: Bí quyết để gặp được Thiên Chúa và gặp được chính mình là tìm gặp và yêu thương người lân cận của mình.
III. THỰC HÀNH GIỚI RĂN CHÚA.
Chúng ta không còn thắc mắc gì nữa. Lệnh truyền của Chúa thật rõ ràng. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng đồng thời cũng phải thương yêu anh em như chính mình. Yêu anh em như mình là chuyện khó vì anh em là những con người cụ thể với biết bao những khuyết điểm, dễ va chạm, nhiều khi tha nhân bị coi như kẻ thù của ta.
Nhìn rõ thực tế đó nên thánh Gioan Tông đồ đã viết: “Nếu anh em cụ thể mà không yêu được thì làm sao có thể yêu mến Chúa được”(1Ga 4,20)..
Theo lời thánh Giêrônimô khi Thánh Tông Đồ về già, ngài nguyên giảng về bác ái: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”. Giáo hữu thưa với thánh nhân: “Sao cha giảng điều ấy hoài”? Thánh Tông Đồ đã trả lời: “Vì đó là điều luật Chúa dạy, và nếu thi hành được duy một điều đó là đủ rồi”.
Đức Giêsu đã phán: “Các con muốn được người ta làm cho các con thế nào thì các con hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31). Ngài còn phán thêm: “Hãy cho đi thì các con sẽ được người ta cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc đầy tràn tóe ra mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào thì cũng sẽ đong trả bằng đấu ấy”.
Napoléon tuyên bố không thèm thân với ai, thì ông đã chết đơn độc trong đảo Sainte Hélène Hitler, con hùm xám Đức quốc xã, chủ trương dùng bạo lực thì đã chết trong khói lửa đúng theo lời Thánh Kinh “cái ác giết ác nhân”(Tv 33,22).
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, nghe Đức Giêsu trả lời, vị luật sĩ rất tâm đắc với ý kiến rất khôn ngoan của Ngài và diễn tả tâm tình thiện cảm và xác tín của ông đối với tuyên phán của Đức Giêsu về giới răn trọng nhất: “Mến Chúa và yêu người thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và lễ vật hy sinh”. Việc mến Chúa yêu người có giá trị làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn những lễ hiến dâng có tính cách hy lễ và vật chất.
Lời phát biểu của vị luật sĩ phát xuất từ sách 1 Samuel 15,22 (bản văn này kêu gọi sự vâng lời). Lời ấy được lấy lại trong Ôsê 6,6 (Ta thích lòng nhân từ chứ không thích lễ tế). Người ta có thể nhận biết trong lời đó sự quở trách mà Thiên Chúa, qua các tiên tri, đã ngỏ với dân Ngài: dân chỉ thực hiện những nghi thức nhưng kèm theo bóc lột và những bất công.
Truyện: Bỏ tội thiếu tình thương
Thứ tội mà chúng ta phạm nhiều nhất là tội không yêu thương. Tuy nhiên chúng ta lại không coi đó là tội, vì chúng ta vẫn nghĩ cái gì làm hại đến người khác mới là tội.
Một người kia bán một chiếc xe “dỏm” cho một người khách lạ. Một hôm anh vừa đi nhà thờ xưng tội ra thì gặp một người bạn. Người bạn nói: “Chắc là anh có kể cho Cha giải tội nghe chuyện anh bán chiếc xe dỏm”? Anh đáp lại: “Tôi chỉ xưng các tội thôi. Còn chuyện buôn bán thì có ăn thua gì tới ông cha đó”?
Một nguy hiểm lớn cho tín hữu thường đi nhà thờ là không thấy sự liên hệ giữa điều họ làm ở nhà thờ ngày Chúa nhật với điều họ làm trong tương quan với người khác vào những ngày trong tuần. Nhiều người xét mình theo đủ mọi điều răn nhưng không hề xét tới những tội thiếu sót; thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu ngay thẳng trong việc làm ăn, thiếu tôn trọng những người sống chung với mình… Đối với những người đó, đạo và đời hoàn toàn tách biệt nhau (Theo Flor McCarthy).
Mở đầu sách giáo lý Tân Định có một câu hỏi rất hay: Hỏi: “Ta sống ở đời này để làm gì”? Thưa: “Ta sống ở đời này để nhận biết thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho ngày sau được hạnh phúc đời đời”.
Như vậy, cuộc đời con người là phải mến Chúa và yêu người thì mới mong được hưởng hạnh phúc đời đời. Chính vì thế nữ tu Rosalie mới nói: “Nước Thiên đàng không dành cho những người cằn cỗi yêu thương”.
59. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
ĐỪNG BAO GIỜ TÁCH RA LÀM ĐÔI
Trong thời gian mục vụ của tôi, biết bao lần anh chị giáo dân đến hỏi han cũng như tâm sự: Cha ơi! Cho con hỏi: con vẫn đi lễ hằng ngày, siêng năng lần chuỗi Mân Côi, đọc kinh Lòng Chúa thương xót…, nhưng sao con chẳng thể yêu mến người con không ưa hoặc người không ưa con!!!??? Tương tự, không ít giáo dân cũng than thở, đặt câu hỏi cho tôi: Cha ơi! con đi làm từ thiện nhiều, con đi giúp đỡ người này người kia, nhưng sao con vẫn không thể nào yêu mến giáo xứ con, chưa cảm thấy thích thú đến với Chúa qua Thánh lễ, cầu nguyện và những hoạt động chung của giáo xứ!!!???
Đối với vấn đề trên, có thể tôi không đưa ra lời giải đáp thoả đáng nhất được, nhưng thiết nghĩ, qua các bài đọc hôm nay, đặc biệt bài Tin Mừng, chúng ta sẽ tìm thấy điều gì thiếu thốn, chưa đủ đầy trong đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta!
Chắc chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng biết nội dung chính của các bài đọc hôm nay, đó là: giới răn yêu thương, cụ thể: Mến Chúa và yêu người. Từ nhỏ được học kinh bổn (giáo lý vỡ lòng), ai trong chúng ta đều thuộc nằm lòng câu tóm gọn sau khi đọc kinh Mười điều răn: ‘…Mười điều răn ấy tóm về hai điều này mà chớ, trước kính mến một Chúa trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen!’ Lời kinh thật vắn tắt, gãy gọn, dễ nhớ, giúp chúng ta thực hành mỗi ngày trong đời; thế nhưng, trên thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng tách biệt hai điều răn này ra. Cho nên, nhiều người Công Giáo vẫn nghĩ: ‘yêu mến Chúa hết lòng qua việc đi tham dự Thánh lễ hằng ngày, siêng năng đọc kinh cầu nguyện là đủ rồi, không cần yêu thương anh chị em nữa. Vả lại, việc thương yêu tha nhân, làm việc bác ái chỉ là một lựa chọn, làm cũng được, mà không làm cũng chẳng sao!’. Chúng ta thường nghĩ: ‘giới răn yêu mến Chúa thì phải giữ, phải sống; còn giới răn yêu thương tha nhân chỉ là phụ, là thứ hạng, chẳng phải là đòi hỏi của Tin Mừng!’ Tương tự, chúng ta nại vào lí do: đạo tại tâm, nên không cần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, không cần tham gia các sinh hoạt chung của giáo xứ, cộng đoàn, không cần đọc kinh cầu nguyện nhiều, mà chỉ tập trung vào giúp đỡ người khác, đi làm từ thiện là đủ đầy cho đời sống đạo của chúng ta!
Chính vì chúng ta tách rời giới răn yêu thương mà Chúa dạy, chỉ chú trọng hoặc đánh giá cao một giới răn, mà bỏ qua hoặc lãng quên giới răn kia, nên mới dẫn đến những vấn đề, cũng như hiện tình đời sống đức tin của chúng ta, được nêu ra ở đầu bài suy niệm này. Trong Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, Chúa Giê-su dạy rất rõ ràng bằng cách trích dẫn Cựu ước (sách Kinh Thánh mà hầu hết người Do Thái nào cũng biết rõ, nhất là các nhà thông luật, Biệt phái, kinh sư): “Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Is-ra-el, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi (x. Đnl 6, 5). Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi (x. Lv 19, 18). Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó” (Mc 12, 29-31). Đây tuy là hai giới răn, nhưng thực chất là một. Chúa Giê-su đã đồng hình đồng dạng giới răn yêu người (tha nhân) với giới răn mến Chúa. Ngài đặt tầm quan trọng của giới răn yêu thương tha nhân ngang bằng với giới răn yêu mến Thiên Chúa, như chính Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu thuật lại: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa ngươi…Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (x. Mt 22, 37-39). Lẽ dĩ nhiên, Thiên Chúa luôn luôn cao trọng, quyền năng, chúng ta phải tôn thờ, tôn kính hơn con người, hơn tha nhân; nhưng không bởi vậy mà việc sống bác ái đối với anh chị em bị cho là phụ phần, chẳng cần thực hành. Trái lại, giới răn ‘yêu mến tha nhân như chính mình’ có một vị thế quan trọng như việc chúng ta dành trọn con người mình để kính mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực vậy.
Nếu biết thực thi song hành giới răn mến Chúa yêu người, chứ không tách biệt hoặc xem trọng một điều, lại bỏ mặc điều kia, thì có lẽ rất nhiều người Công Giáo sẽ sẵn sàng sống chia san, sống bác ái, yêu thương, tha thứ, trở nên chứng nhân (đây là những biểu hiện cụ thể của việc thực thi giới răn yêu người thân cận như chính mình), đồng thời năng đến với Chúa qua Thánh lễ, tham dự các sinh hoạt chung của giáo xứ, siêng năng cầu nguyện hằng ngày, hăng say tìm hiểu-sống Lời Chúa, yêu mến Giáo Hội và giáo xứ của mình (đây là những biểu hiện cụ thể của việc thực thi giới răn mến Chúa). Nếu thực hành giới răn mến Chúa yêu người song song thế này, thì chúng ta sẽ được cảm nghiệm sâu sắc tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, cho mỗi người; và nhờ tình yêu này mà chúng ta càng mến yêu Chúa hơn vì ‘chỉ có tình yêu đáp lại tình yêu mà thôi’. Hơn nữa, nhờ cảm nghiệm này mà chúng ta dám ra đi chia san, dám tha thứ, dám yêu thương tha nhân như thương yêu bản thân vậy. Cũng nhờ tình yêu này, chúng ta đủ nhạy cảm, tinh tế nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi anh chị em. Vì Chúa yêu thương tôi, tha thứ cho tôi, mời gọi-chờ đợi tôi những lúc tôi sa ngã, đón nhận tôi quay về với Ngài, nên cảm nghiệm sống động này thúc giục tôi cũng biết sống chan hoà yêu thương, tha thứ anh chị em, biết nhẫn nại, biết rộng lượng cho người khác cơ hội ‘trở nên tốt hơn’, biết chấp nhận con người yếu đuối của tha nhân, biết sống bác ái, làm việc bác ái đúng nghĩa, chứ không chỉ dừng lại ở công tác từ thiện. Theo lẽ thường tình, chúng ta nghĩ tưởng: làm việc từ thiện cũng chính là làm việc bác ái! Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy được sự khác biệt lớn lao; cũng nên nói ở đây: nhận ra sự khác biệt này chẳng phải để đánh giá thấp công tác từ thiện, hay bác bỏ việc làm từ thiện. Đúng hơn, nó giúp chúng ta hiểu đúng, sống đúng và làm những việc mà Chúa Giê-su mời gọi, cũng như đòi hỏi mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
Thoạt nhiên nhìn qua cách thức hoạt động, những tổ chức bác ái khắp thế giới trên phương diện Giáo Hội hoàn vũ như Caritas Internationalis (Tổ chức Bác ái Thế giới), ở cấp Giáo hội địa phương như Caritas Việt Nam, Caritas Nhật Bản…, tại mỗi Giáo phận như Caritas Hưng Hoá, Caritas Tô-ky-ô…, và xuống các giáo xứ như Caritas Gx. Tân Phước (thuộc Địa phận Sài Gòn), Caritas Gx. Ishigaki (thuộc Giáo phận Naha, Nhật Bản)…dường như giống với những tổ chức từ thiện quốc tế như NGO (tổ chức từ thiện phi chính phủ), NPO (tổ chức từ thiện phi lợi nhuận), v.v…Nhưng thật ra, công tác từ thiện xuất phát từ tình người, từ tình tương thân tương ái, tương trợ lẫn nhau căn bản chỉ dựa trên mối dây yêu thương giữa người với người. Còn công việc bác ái không đơn thuần chỉ xuất phát từ con tim, từ tình người, từ mối tương quan gắn kết con người với nhau, mà là một ơn gọi, một lời cam kết dấn thân phục vụ-chia san với tha nhân theo khả năng cụ thể của bản thân. Hơn nữa, tôi sống bác ái, thực thi công việc bác ái không chỉ vì tình người, mà vì Chúa yêu tôi, thương tôi đến nỗi tự hiến mạng sống của Ngài để cứu rỗi tôi, vì Ngài mời gọi tôi sống trọn vẹn như Ngài, nên tôi vui vẻ, sẵn sàng, can đảm đến với người khác, chia sẻ với tha nhân không chỉ vật chất, hiện vật, hiện kim (theo khả năng của mình), mà còn cho đi những gì quý giá nhất của bản thân mà không tính toán, đòi hỏi trả công như sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí lực, nguồn liệu, ân sủng được lãnh nhận từ Chúa (như ơn tha thứ, lòng vị tha, nhẫn nại, điều độ, khôn ngoan, đặc biệt ba nhân đức đối thần: tin – cậy – mến…). Không chỉ dừng lại ở việc từ thiện, từ tâm, làm việc phước đức…, mà chúng ta hăng hái, nhiệt thành làm việc và sống bác ái vì chính tình yêu Chúa thúc giục tôi như Thánh Tông đồ Phao-lô đã từng quả quyết: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (x. 2Cr 5, 14). Tuy nhiên nhìn vào thực tế, có lẽ vẫn còn không ít người Công Giáo chưa dám cho đi theo khả năng, chưa sẵn sàng chia san và sống bác ái như Chúa mong muốn. Chúng ta thường nại vào lí do: tôi chẳng có gì để cho cả, tôi vẫn còn túng thiếu, chưa dư giả gì để chia sẻ với người khác, tôi chỉ có thể cầu nguyện cho những ai cần giúp đỡ, mà nếu tôi không giúp, thì khối người ngoài kia sẽ giúp đỡ họ thôi…! (rất rất nhiều lí do khác nữa). Quả thật, Chúa nào nỡ bắt chúng ta phải cho hết như bà goá nghèo, Chúa nào khắc khe buộc chúng ta phải bán hết tài sản của mình mà cho người nghèo, giúp đỡ những ai túng thiếu, cần hỗ trợ đâu! Chúa chỉ vui thích, hài lòng khi nhìn thấy chúng ta đến với Chúa chân thành, trung tín sống lời cam kết khi được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hăng say làm chứng tá yêu thương, sống bác ái, biết tha thứ, chia san với anh chị em khác theo khả năng và lòng quảng đại của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con đã thuộc nằm lòng giới răn yêu thương ‘mến Chúa, yêu người’, nhưng lắm lúc chúng con chưa nỗ lực thực hành. Xin cho chúng con biết dùng thời gian, tài năng, nguồn lực, trí lực, những của cải chóng qua này, mà hân hoan sống giới răn ‘mến Chúa, yêu người’ như lòng Chúa mong muốn. Xin cho chúng con ý thức thực hiện giới răn yêu thương này, chẳng phải tách ra làm đôi, nhưng luôn thực thi song hành ‘mến Chúa, yêu người’ một cách cụ thể trong đời sống thường nhật, nơi công sở, giữa hàng xóm láng giềng với nhau, trong gia đình, giáo xứ, hội dòng, Giáo hội, và xã hội. Amen!
60. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Suy niệm của Lm GB Phạm Hồng Thái)
Chúng ta có thể đánh giá sự thông minh và tài giỏi của một người qua những câu trả lời của người ấy trong một cuộc phỏng vấn. Chúa Giêsu đã phải đối mặt với nhiều câu hỏi về những vấn đề khúc mắc thời đó trên nhiều lãnh vực: tôn giáo, lề luật, thuế má… và chúng ta thấy không những Chúa không bị động lúng túng mà Chúa còn trả lời rất chính xác và mở ra một viễn tượng mới mẻ cho những người chất vấn Chúa.
Có những câu hỏi chủ ý để gài bẫy, để bắt bẻ Chúa, nhưng hôm nay chúng ta thấy một kinh sư hỏi Chúa cách chân tình. Trước hết vì ông thấy Chúa vừa trả lời rất thỏa đáng và tài tình câu hỏi về vấn đề kẻ chết sống lại, đàng khác đây cũng là điều ông băn khoăn ôm ấp trong lòng từ lâu, nên ông hỏi Chúa như sau: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất”? Cựu Ước Do thái giáo có rất nhiều luật. Chắc chắn ông đã học biết có 613 điều luật chia ra 365 luật cấm và 248 luật phải làm, nhóm kinh sư các ông người thì tìm cách thu gọn lại, người thì lại triển khai rộng ra khiến người dân không biết đâu là chính đâu là phụ và nhất là khó nhớ được tất cả cái mối bòng bong luật lệ đó nên kinh sư này chân thành hỏi để xin ý kiến của Chúa Giêsu.
Để trả câu hỏi của kinh sư, trước hết Chúa đã trích kinh Shema được coi như là kinh Tin kính của Do thái giáo ghi trong sách Đệ nhị luật như sau: “Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi (Đnl 6, 4-5)” Rồi Chúa Giêsu thêm lời trong sách Lê vi mà Chúa cho biết đây là giới răn thứ hai: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi”(Lv 19,18). Chúa cho biết:”Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.
Điều mới mẻ trong câu trả lời của Chúa Giêsu là Chúa nối kết hai giới răn Mến Chúa Yêu Người với nhau và đặt tầm quan trọng ngang nhau. Như thế tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không chia lìa nhau, hơn nữa lại còn nâng đỡ nhau.
Nghe câu trả lời của Chúa Giêsu, kinh sư tỏ ra rất đồng tình và ông còn phụ họa thêm khi hướng về lễ tế đền thờ Giêrusalem: “Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.
Chúa Giêsu thấy ông tỏ ý kiến khôn ngoan nên bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu thường có những nhận xét khá tiêu cực về các kinh sư, biệt phái, thế mà ở đây Chúa có lời khen ông kinh sư này và Chúa cũng có lời nhắn bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”, tức là Chúa cho biết ông đã hiểu, đã nhận thức đúng về giới răn Mến Chúa Yêu người là trọng nhất nhưng để được vào Nước Thiên Chúa thì Chúa dạy ông và cũng là dạy chúng ta ngày nay là phải đem ra thực hành trong đời sống nữa. Nhận thức đúng mới là bước một và thực hành là bước hai.
Chúa Giêsu không dạy điều gì mà Chúa không sống trước và làm gương. Thực vậy Chúa Giêsu đã sống đến tận cùng lòng yêu mến Chúa Cha và yêu thương loài người: Chúa sống để yêu và chết vì yêu như lời Chúa nói: “Không có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hi sinh mạng sống vì bạn hữu”(Ga 15,13) Vậy chúng ta hãy noi gương Chúa để hết lòng yêu mến Chúa và trọn tình yêu đối với tha nhân. Tình yêu tha nhân Chúa Giêsu dạy đây là ta phải mở rộng hơn quan niệm của người Do thái không phải chỉ yêu bà con bạn bè anh em đồng đạo mà còn mở rộng đến cả những người ngoại đạo và cả kẻ thù nữa. Trong dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu Chúa cho biết người anh em là bất cứ người nào không phân biệt tôn giáo, trong nước hay nước ngoài cần được ta giúp đỡ khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống.
Thánh Phaolô nói: “Yêu mến là chu toàn lề luật (Rm 13,10). Còn thánh Gioan dạy: “Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu anh em mình (1 Ga 4,21)
Thánh Augustinô đã phàn nàn là mình yêu Chúa quá muộn. Vậy nếu ta chưa yêu mến Chúa hết lòng hay tình yêu ta đối với Chúa và với anh em còn ít ỏi, hời hợt hoặc muộn màng thì ta hãy sửa chữa lại và bắt đầu ngay đi như thánh Augustinô và hãy gia tăng lòng yêu mến! Chúa đòi ta phải có sự quyết liệt và cường độ cao trong lòng mến Chúa yêu người; Chúa đã nói cho Hội thánh Laodikia là phải nóng hẳn hoặc lạnh hẳn đừng có hâm hâm dở dở! (cf Kh 3, 14)
Chúng ta nhớ lời thánh Gioan Thiên Chúa: “Nơi nào không có yêu thương thì chúng ta hãy gieo tình yêu để sẽ gặt được tình yêu”.
Nhà văn Trường Long có kể một câu chuyện: Sau khi li hôn, người chồng phải dọn đồ ra khỏi nhà. Đứa con gái nhỏ hỏi mẹ; “Sao mẹ đuổi bố đi?” Mẹ đáp: Tại bố hư. Rồi để đứa bé khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó một cái bánh. Đứa anh từ đâu phóng tới chụp cái bánh bỏ vào miệng. Con bé khóc ré lên đòi bắt đền. Mẹ nó dỗ: Anh mày hư quá, nín đi con, bỏ qua cho anh một lần. Đứa bé phụng phịu: “Thế sao mẹ không bỏ qua cho bố?” Bà mẹ nhìn xa xôi rồi thở dài: Ừ thì mẹ cũng hư!
Câu chuyện cho thấy cả hai vợ chồng cùng hư cho nên dẫn tới li dị. Hư đây chắc chắn là hư về tình yêu vợ chồng và hư về lòng chung thủy.
Chúng ta nhớ lời thánh Augustinô “Ama et fac quod vis” Bạn hãy yêu rồi bạn hãy làm điều bạn muốn. Lòng mến Chúa yêu Người phải đi trước mọi hành động của chúng ta. Nguyện xin Chúa Thánh Thần gia tăng lòng mến cho chúng con. Amen.
61. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm, Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI năm B này thắp sáng luật yêu thương: Cựu Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa”, trong khi Tân Ước mặc khải cho chúng ta “Mến Chúa và yêu người”.
Đnl 6: 2-6
Bài Đọc I, trích từ sách Đệ Nhị Luật, chứa đựng lời tuyên tín nổi tiếng của Ít-ra-en: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”.
Dt 7: 23-28
Thư gởi tín hữu Do thái khẳng định chức tư tế của Đức Ki-tô cao vời khôn ví hơn chức tư tế của Cựu Ước.
Mc 12: 28-34
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su với một kinh sư trong đó Đức Giê-su hiệp nhất “Mến Chúa” với “yêu người”.
BÀI ĐỌC I (Đnl 6: 2-6)
Bản văn này, đỉnh cao sứ điệp của sách Đệ Nhị Luật, giải thích giới răn thứ nhất của Thập Giới, được đặt trên môi miệng của ông Mô-sê.
1. Mến Chúa đối với Ít-ra-en:
Đức Chúa của Ít-ra-en là Thiên Chúa duy nhất mà con người không chỉ kính sợ nhưng còn phải yêu mến hết lòng hết dạ và hết sức nữa. Đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa đã bảy tỏ cho dân Ngài, mỗi người phải trọn tình vẹn nghĩa với Thiên Chúa của mình.
Dân Chúa chọn đã hiểu sự mới mẽ tận mức của giới răn này đem lại cho tôn giáo của họ một tính chất đặc thù. Họ đã tuyên xưng giới răn này và đặt giới răn này vào trung tâm của kinh nguyện được gọi kinh Shê-ma (“Nghe đây”), mà suốt nhiều thế kỷ qua những tín hữu đạo hạnh của Ít-ra-en thường ngày đọc vào ban sáng và ban chiều. Vào thời đó, lời tuyên tín này được tôn kính đến mức người ta ghi trên những mảnh vải và cuộn vào hộp kinh để mang trên cánh tay hay trên trán. “Mến Chúa” phải được bày tỏ qua thái độ “kính sợ Chúa”, tuân giữ các giới răn của Ngài và bận lòng thông truyền đức tin.
2. Kính sợ Chúa và tuân giữ các giới răn của Ngài:
Kiểu nói Kinh Thánh: “Kinh sợ Chúa”, không có nghĩa sự sợ hãi; đây là thái độ tôn kính đầy niềm tin, khi ý thức về sự cao cả của Thiên Chúa. Tuân giữ các giới răn là bổn phận xuất phát từ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Sách Đệ Nhị Luật được trình bày như bài giáo lý về Giao Ước. Để đáp trả sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời hứa của Ngài, dân Ít-ra-en phải trung thành với Thập Giới, nền tảng của Giao Ước. Thiên Chúa đã hứa cho dân du mục này một miền đất trong đó họ sẽ được an cư lạc nghiệp và trở thành một quốc gia vĩ đại. Thay vì sa mạc khô cằn nắng cháy, Thiên Chúa đã hứa cho họ “một miền đất tràn đầy sữa và mật ong” với điều kiện là tuân giữ các giới răn của Ngài.
3. Thông truyền đức tin:
Tầm quan trọng của việc giáo dục tôn giáo trong gia đình là lời kêu gọi khẩn thiết của tác giả sách Đệ Nhị Luật. Lời kêu gọi này được lập đi lập lại nhiều lần (Đnl 4: 9; 6: 20; 32: 7). Tác phẩm của ông là lời cảnh giác thường hằng coi chừng những nguy hiểm của môi trường ngoại giáo chung quanh. Việc gìn giữ các truyền thống và bận lòng thông truyền đức tin thuộc vào những đòi hỏi căn bản tất yếu đối với sự tồn vong của dân Ít-ra-en.
Sách Đệ Nhị Luật thấm đẫm tính nhân bản cũng như tính siêu việt. Thiên Chúa mà sách trình bày là một Thiên Chúa gần gũi với dân Ngài, dân mà Ngài bày tỏ lòng trìu mến và xót thương. Sách Đên Nhị Luật mang dấu ấn giáo huấn của các ngôn sứ lớn như A-mốt, Hô-sê, I-sai-a, đồng thời sách chuẩn bị sứ điệp của Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Dt 7: 23-28)
Sau khi đã chứng minh Đức Ki-tô đã sở hữu những phẩm trật tư tế – liên đới với loài người và được Thiên Chúa đặt làm tư tế – tác giả sẽ cho thấy những nét khác biệt giữa chức tư tế của Đức Ki-tô và chức tư tế của Cựu Ước. Tác giả nhắm đến tác vụ trung gian của Đức Ki-tô phục sinh.
1. Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời:
Đức Ki-tô là Thượng Tế đời đời; Ngài là Đấng trung gian hoàn hảo vì “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến gần Thiên Chúa”. Vị thượng tế Do thái mỗi năm một lần bước vào nơi cực thánh để cầu bầu cho dân vào ngày lễ Xá Tội, còn Đức Giê-su, “thật ra, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ”.
2. Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn:
Đức Ki-tô là Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn. Nếu trong cuộc sống tại thế, Ngài đã tự mình liên đới với những người tội lỗi, từ nay Ngài “được nâng cao vượt các tầng trời”, nghĩa là dự phần vào tính siêu việt của chính Thiên Chúa. Trái lại, các tư tế theo luật Mô-sê, những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, phải dâng lễ tế hy sinh, “trước là để đền tội của mình, sau là để đền tội thay cho dân”.
3. Đức Giê-su được đặt làm tư tế với lời thề:
Cuối cùng, một lần nữa tác giả trích dẫn Tv 110 để nhấn mạnh phẩm trật tư tế đặc biệt của Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã đặt Ngài làm Thượng Tế với lời thề, còn các tư tế theo luật Mô-sê thì không có lời thề. Quả thật, Thánh Vịnh nói: “Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê”. Bản văn này đã đến sau này, nghĩa là sau ông Mô-sê, hàm chứa một giai đoạn cao cả trong Mặc Khai và loan báo một mức độ hoàn hảo, mà Đức Giê-su thực hiện với tư cách là Con Thiên Chúa. Tác giả ngỏ lời cách tinh tế với các Ki-tô hữu gốc Do thái trong số họ chắc chắn có những tư tế của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
TIN MỪNG (Mc 12: 28-34)
Thánh Mác-cô cũng như thánh Mát-thêu đặt cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một kinh sư này vào những ngày Đức Giê-su giảng dạy tại Giê-ru-sa-lem. Cuộc đối thoại này liên quan đến điều răn nào là quan trọng nhất trong số 613 giới luật Cựu Ước (365 điều cấm và 248 điều buộc), một đề tài thường được đặt ra cho các kinh sư Do thái. Câu trả lời của Đức Giê-su phối hợp hai câu trích dẫn Cựu Ước: Đnl 6: 4-5 và Lv 19: 18, quả thật nhấn mạnh tính chính thống lời dạy của Ngài như một kinh sư Do thái và minh chứng Ngài đi cho đến tận ngọn nguồn của sự việc. Cuộc đối thoại này quan trọng không chỉ vì sự độc đáo của nó mà còn vì điểm nhấn của nó trên những tư thế nội tâm.
Bản văn này có thể chia làm bốn phần được cấu trúc theo hình thức “đối xứng xen kẻ” như sau:
A – Vị kinh sư hỏi (12: 28).
B – Đức Giê-su trả lời (12: 29-31).
A’ – Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33).
B’-Đức Giê-su khen ngợi (12: 34).
A – Vị kinh sư hỏi (12: 28):
“Có một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc tranh luận với nhau”: Câu này được dùng để nối kết cuộc tranh luận trước đó với cuộc đối thoại theo sau. Ông kinh sư này là một trong những người chứng kiến cuộc tranh luận của Đức Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại.
– “Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi”: Khi thấy Đức Giê-su đối đáp với nhóm Xa-đốc về cuộc sống mai hậu cách khúc chiết, mạch lạc dựa trên nền tảng Kinh Thánh, vì thế ông chân thành muốn hỏi Đức Giê-su để mong gặp thấy một giải đáp. Thái độ thành tâm thiện chí muốn hiểu biết của ông khiến cuộc nói chuyện thành một cuộc học hỏi chân thành và cởi mở hơn là một cuộc tranh luận (khác với Mt 22: 35 và Lc 10: 25).
– “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?”: Vị kinh sư nêu câu hỏi nầy không có bất kỳ ác ý nào. Câu hỏi của ông thật sự phản ảnh nỗi bận lòng của trường phái kinh sư vào thuở đó.
Các kinh sư đều xem lề luật là ý muốn của Thiên Chúa, vì thế, thực thi lề luật chính là trung thành với Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tuy nhiên, có hai khuynh hướng. Một khuynh hướng tìm cách cách mở rộng lề luật cách vô hạn định ra thành muôn vàn điều luật và quy tắc để làm thế nào lề luật có thể được thực thi trong mọi cảnh huống cuộc sống của dân Chúa chọn. Còn khuynh hướng thứ hai thì cố tìm cách thu gọn lề luật vào trong một câu cô động cái tinh thần cốt yếu của lề luật.
Thật ra, cả hai khuynh hướng: mở rộng cũng như thu gọn lề luật, vẫn thường hằng hiện diện trong những cuộc tranh luận giữa các kinh sư với nhau. Có những người tin trong luật có những vấn đề nặng nhẹ khác nhau, có nhiều nguyên tắc đáng xem là quan trọng hơn mà người ta phải lãnh hội và thi hành trước nhất. Nhưng có nhiều người khác cực lực chống lại, họ chủ trương rằng một nguyên tắc nhỏ nhặt cũng có tính bắt buộc y như một nguyên tắc quan trọng nhất, vì thế cố phân biệt chỗ khác nhau tương đối giữa chúng, là điều vô cùng nguy hiểm.
Khi hỏi Đức Giê-su như thế, vị kinh sư chân thành muốn biết trong số 613 điều luật Cựu Ước (gồm 365 điều cấm và 248 điều buộc) điều răn nào Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước và làm cách triệt để.
B – Đức Giê-su trả lời (12: 29-31)
“Điều răn đứng hàng đầu là: ‘Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất…’”: Đức Giê-su trích dẫn Đnl 6: 4-5, đây là bản văn đầu tiên trong số ba bản văn (Đnl 6: 4-9; 11: 13-21; Ds 15: 37-41) đã trở thành kinh “Shê-ma” (“Nghe đây”) được xem như kinh “Tin Kính” của Do thái giáo và được những người Do thái mộ đạo đọc mỗi ngày hai lần. Giới răn mến Chúa phát xuất từ bản tính của Người là Thiên Chúa duy nhất. Bổn phận mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi” không nhằm quy chiếu đến những phần riêng biệt của con người, nhưng nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Chúa tận mức, một cách tuyệt đối. Kinh Shê-ma được chép lại trên một tấm vải nhỏ cuộn vào một hộp nhỏ bằng da mà người Do thái ngoan đạo đeo trên trán và trên cườm tay khi cầu nguyện như nhắc nhở tín điều của tôn giáo mình.
“Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”: Dù chỉ được hỏi một điều răn, Đức Giê-su nói thêm điều răn thứ hai khi trích dẫn Lv 19: 18b (x. Rm 13: 9; Gl 5: 14; Gc 2: 8). Khi trích dẫn câu này, Chúa Giê-su sửa đổi một điểm. Trong nguyên văn, “người thân cận” được giới hạn chỉ trong vòng người Do thái chứ không bao gồm dân ngoại như câu mở đầu của huấn lệnh này cho thấy: “Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi” (Lv 19: 18a). Nhưng trong câu trích dẫn của Chúa Giê-su, yêu “người thân cận” phải bao gồm với hết mọi người và đạt tới mức độ cao nhất như yêu chính mình: “thương người như thể thương thân”, vì theo lẽ tự nhiên, ai nấy đều quý trọng, yêu thương bản thân hơn người khác.
Giáo Huấn của Đức Giê-su mang tính mới mẽ khi Người ghép chung hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” vào với nhau. Trước đó, chưa có một kinh sư nào làm như vậy. Trong bản văn của thánh Mát-thêu, điều răn “Yêu người” đồng nhất với điều răn “Mến Chúa”: “Còn điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy” (Mt 22: 39); còn trong bản văn của thánh Mác-cô, hai điều răn “Mến Chúa” và “Yêu người” được đặt bên cạnh để chuẩn bị cho việc lượng giá chúng ngang bằng giá trị: “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12: 31). Trong Tân Ước, lời giải thích về “Mến Chúa” và “Yêu người” của thánh Gioan là hay nhất: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy’” (1Ga 4: 20).
A’ – Vị kinh sư bình phẩm (12: 32-33):
“Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng”: Vị kinh sư này tán đồng câu trả lời của Đức Giê-su và bình phẩm câu trả lời của Người mà không có bất kỳ hậu ý nào về sự thù ghét hay châm biếm. Thật ra, vị kinh sư chỉ lập lại hai câu Kinh Thánh Chúa Giê-su đã trích dẫn, với từ ngữ có vẻ sát với thực tế hơn.
– “Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác”: Trước hết, ông nhấn mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa.
“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu mến người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ”: Rồi, ông kết luận rằng “mến Chúa và yêu người” phải được coi trọng hơn mọi hy lễ. Lời này của vị kinh sư khiến chúng ta liên tưởng đến Hs 6: 6 và 1Sm 15: 22.
Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không cố ý khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị hủy bỏ, nhưng đã trở nên tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê phán nền phụng tự Đền Thờ như thế (1Sm 15: 22; Tv 51: 20t; 40: 7; Cn 21: 3), đặc biệt với các ngôn sứ như ngôn sứ Hô-sê: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được người nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6: 6; x. Is 1: 11-17).
Vì thế, không cần phải giải thích lời của ông như lên án nền phụng tự Đền Thờ. Trong trật tự của ông, mến Chúa và yêu người là những nguyên tắc hàng đầu của nền phụng tự Đền Thờ, là linh hồn của mọi hy lễ dâng tiến Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây, một nhà thần học Do thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
B’ – Đức Giê-su khen ngợi (12: 34):
“Đức Giê-su thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy”: Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su thường có cái nhìn về giai cấp lãnh đạo Do thái rất tiêu cực, nhưng ở đây Người nhận định câu trả lời của vị kinh sư này rất tích cực.
– “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!”: Còn hơn tương lai, ở đây Nước Thiên Chúa đang ở trong tầm tay và xem ra có một chiều kích không gian. Việc ông hiểu đúng điều gì là quan trọng trong lề luật Cựu Ước đặt ông gần với Nước Thiên Chúa đang đến và chuẩn bị ông đón nhận nước đó một cách thích đáng (x. 10: 13-16).Ẩn sau những hỏi đáp này, chính là cuộc đối thoại sâu xa giữa Chúa Giê-su với một người kinh sư chân thành cởi mở đặc biệt, mà không hề có một hậu ý nào.
– “Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa”: Câu này chuẩn bị cho câu chuyện tiếp theo sau, trong đó Đức Giê-su chất vấn các kinh sư về chân tính của Đấng Mê-si-a.
62. Điều răn đứng đầu
(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)
1.- Ngữ cảnh
Giống như trong Mc 2,1–3,6, phân đoạn 11,27–12,37 này có năm truyện kể lại những tranh luận giữa Đức Giêsu với các đối thủ tại Giêrusalem: quyền của Đức Giêsu (11,27-33); dụ ngôn về vườn nho (12,1-12); nộp thuế cho Xêda (12,13-17); kẻ chết sống lại (12,18-27) và điều răn đứng đầu (12,28-34). Còn câu hỏi của Đức Giêsu về con vua Đavít (12,35-37) không còn là một tranh luận nữa, mà là một vấn đề Người nêu ra để gián tiếp giới thiệu về bản thân Ngài.
Cuộc tranh luận thứ tư liên quan đến điều răn đứng đầu trong số 613 điều (trong đó có 365 điều cấm và 248 điều buộc làm) thuộc luật Cựu Ước. Đây là một đề tài thường được đề nghị cho những vị thầy Do Thái lỗi lạc.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể phân chia thành bốn đơn vị:
1) Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (12,28);
2) Đối thoại về điều răn đứng đầu (12,28c-31);
3) Lời bình về điều răn đứng đầu (12,32-33);
4) Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (12,34).
3.- Vài điểm chú giải
– điều răn nào đứng đầu (28): Trong Mt 22,35, câu hỏi là “điều răn nào lớn nhất?”. Vì viết cho người ngoại, Mc đã sửa lại câu hỏi theo nghĩa “ưu tiên”.
Dường như nền văn chương Do Thái coi tội thờ ngẫu tượng, tội loạn luân và tội sát nhân là ba tội nặng nhất. Do Thái giáo chưa nhận ra được tính ưu tiên của điều răn yêu thương, bởi vì toàn thể đời sống thiêng liêng của người Do Thái bị ám ảnh bởi một khoa giải nghi vị luật và hết sức chi li. Thật ra, vào khoảng 20 năm trước Đức Giêsu, kinh sư Hillel đã dạy về tình yêu đối với tha nhân như sau: “Điều gì con không thích, thì đừng làm cho tha nhân; đó là tất cả Lề Luật. Phần còn lại là phần giải thích”. Phải nói là Đức Giêsu đã lấy lại y nguyên công thức này (Mt 7,12). Nhưng linh đạo Do Thái giáo vẫn mang nặng dấu ấn của khuynh hướng khử ngoại (exclusivism): “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Mt 5,43). Khi hỏi về điều răn đứng đầu, vị kinh sư muốn biết về điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta phải làm trước mọi sự và làm tận căn.
– Nguơi phải yêu mến Đức Chúa … (29): Đức Giêsu đã trích Đnl 6,4-5, là một trong ba bản văn được những người Do Thái mộ đạo đọc mỗi ngày 2 lần (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41).
– lòng, linh hồn, trí khôn, sức lực (30): Đnl 6,5 nói đến lòng/tim, linh hồn sức lực (LXX: kardia, psychê, dynamis). Mc lại nêu ra bốn từ lòng/tim (kardia), linh hồn (psychê), trí khôn (dianoia = sức mạnh của trí tuệ; thay vì dynamis) và sức lực (ischys = tất cả sức mạnh của tâm hồn). “Tim” là khả năng ý chí; “linh hồn” là khả năng trí thức; ngoài ra “sức lực” được nhắc đến tổng quát. Thật ra, đây không phải là một danh mục kể ra các năng khiếu khác nhau rõ rệt, hoặc kể rốt ráo; danh mục này chỉ muốn nhấn mạnh rằng toàn thể con người phải yêu mến Thiên Chúa với mọi tài nguyên có thể có được: chúng ta lưu ý là đi với mỗi năng khiếu là tính từ “tất cả” (holês; “hết; trọn”). Yêu mến vị Thiên Chúa duy nhất với tất cả sức mạnh và khả năng ban cho con người là tổng hợp tối hậu về ý muốn của Thiên Chúa.
– Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu mến người thân cận … (31): Được hỏi về điều răn đứng đầu, Đức Giêsu thêm “điều răn thứ hai”. Hai điều răn được liên kết với nhau bởi động từ “yêu” (agapêsais). Trong TM Mc, điều răn thứ hai này không được đồng hóa với điều răn thứ nhất như trong Mt 22,39 (homoia autê), nhưng việc đăt hai điều răn này ở bên nhau chuẩn bị cho việc lượng giá giống nhau. Đây là câu trích Lv 19,18. Tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với người thân cận là như một giải thích cô đọng hai bia đá Mười Điều Răn.
– Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng… Yêu mến Thiên Chúa … yêu người thân cận… (32-33): Vị kinh sư diễn tả sự đồng ý với Đức Giêsu bằng hai công thức hoàn toàn mang màu sắc Hy Lạp (“hay lắm”, kalôs; “rất đúng” [= thể theo sự thật], ep’ alêtheias). Rồi ông diễn tả cách khác và tóm tắt câu trả lời của Đức Giêsu. Khi làm như thế, ông cũng nhấn mạnh trên hết tính duy nhất của Thiên Chúa (LXX Đnl 4,35; Xh 8,6; Is 45,21). Ông cũng tổng hợp tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân và diễn tả liên hệ đặc biệt giữa hai điều răn này còn mạnh mẽ hơn nữa.
– hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực (33): Ở trên, câu trích Đnl 6,5 đã xa bản văn Hy Lạp với nhóm bốn từ; nay vị kinh sư lại trở lại với nhóm ba từ, nhưng cũng khác bản Hy Lạp (“lòng”: kardia; “trí khôn”: synesis [thay thế psychê và dianoia ở c. 30), “sức lực”: ischys), qua đó khía cạnh trí tuệ vẫn được nêu bật.
– quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ (33): Lời của vị kinh sư khiến ta nghĩ đến Hs 6,6 và 1 Sm 15,22. Khi nhận định như vậy, vị kinh sư không khẳng định rằng nền phụng tự Đền Thờ đã bị triệt tiêu, nhưng đã bị tương đối hóa đi rất nhiều. Thật ra, trong Cựu Ước đã có những tư tưởng chuẩn bị cho việc phê bình nền phụng tự như thế: 1 Sm 15,22; Tv 51,20t; 40,7; Cn 21,3; đặc biệt với các ngôn sứ: Hs 6,6; x. Is 1,11. Nhưng ở đây, điều đáng nói là một nhà thần học Do Thái đã nhận định như thế tại Đền Thờ Giêrusalem (x. 11,27), nghĩa là ngay tại nơi dâng hy lễ.
– Ông không còn xa Nước Thiên Chúa (34): Vị kinh sư đã tỏ ra hiểu biết đúng đắn (nounechôs, “theo trí thông minh”, “biết theo lẽ phải”) điều gì là quan trọng trong luật Cựu Ước. Nhờ đó, ông đã ở gần Nước Thiên Chúa đang đến và ông đã sẵn sàng để đón tiếp Nước Thiên Chúa cách đúng đắn (x. 10,13-16).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu: vị kinh sư đến gặp Đức Giêsu (28)
Câu 28ab nối với phần trước khi nói rằng một kinh sư đã nghe “họ” (Đức Giêsu và nhóm Xađốc) tranh luận với nhau và ông này thấy Đức Giêsu đối đáp hay. Những gì ông đã nghe gây ấn tượng mạnh cho ông, bây giờ thúc đẩy ông đăt cho Đức Giêsu một câu hỏi, nhưng không phải để thử Người (như trong Mt 22,35). Câu hỏi liên hệ đến điều răn quan trọng nhất, nhưng được đặt theo kiểu một người ngoại muốn tòng giáo đăt ra cho hai vị trưởng trường kinh sư là Shammai và Hillel: Shammai từ chối trả lời, còn Hillel, đến từ Hải ngoại, sẵn sàng trả lời. Trong số 613 điều làm nên tôrah, các kinh sư phân biệt ra các điều dễ và điều khó, nhưng yêu cầu tuân giữ tất cả. Shammai từ chối tổng hợp Lề Luật vào một điều răn tối hậu. Một câu hỏi phát xuất từ huấn giáo của Do Thái giáo Hải ngoại đã được chuyển đến cho vị kinh sư Do Thái. Ông không hỏi điều răn nào đứng đầu trong Lề Luật (= lớn nhất, như Mt 22,36), nhưng điều răn nào đứng đầu trong mọi điều răn (Trong Lc 10,25, câu hỏi hoàn toàn khác). Ông muốn biết là người ta có thể chăng nhận ra được yếu tính của những gì làm nên thánh ý Thiên Chúa.
* Đối thoại về điều răn đứng đầu (29-31)
Đức Giêsu đã trả lời bằng cách nối kết Đnl 6,5 với Lv 19,18. Khi nhắc lại trọn vẹn câu trả lời của Đức Giêsu với giọng chuẩn nhận và bình giải bằng cách quy chiếu về các hy lễ, vị kinh sư chứng tỏ tất cả tầm quan trọng của câu trả lời của Đức Giêsu. Ở 12,30 (= Đnl 6,4t), Người khẳng định bốn phận đầu tiên và quan trọng nhất, đó là yêu mến Thiên Chúa hết sức lực có được. Chúng ta, với trọn vẹn bản thân, phải quay hướng về Người với lòng yêu thương cách cương quyết và trọn vẹn. Chúng ta không hướng về bất cứ quan niệm nào về Thiên Chúa, nhưng là về Thiên Chúa trong thực tại của Ngài. Vậy, Thiên Chúa là Đức Chúa duy nhất, nhưng Ngài đã tỏ mình ra trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu chỉ được hỏi về điều răn đứng đầu, nhưng sau điều răn thứ nhất, Người nói đến một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Tình yêu chúng ta có cho chính mình được đề ra như tiêu chuẩn để đánh giá tình yêu phải có đối với người thân cận. Yêu thương chính mình là chấp nhận bản thân, theo ý muốn của Thiên Chúa Tạo hóa. Tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta.
* Lời bình về điều răn đứng đầu (32-33)
Khi bày tỏ quan điểm, vị kinh sư đã biểu đồng tình với Đức Giêsu. Nhưng ông đã diễn tả ý kiến như là một lời bình nhằm triển khai vấn đề bằng cách thêm vào một ý tương gán cho tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận một giá trị cao hơn mọi lễ toàn thiêu và các hy lễ đẫm máu. Bằng câu trả lời của mình, ông đã gián tiếp nhìn nhận lỗi của các đồng nghiệp, của nhóm Pharisêu và Hêrôđê.
* Kết: Đức Giêsu khen vị kinh sư (34)
Khi khen ngợi vị kinh sư, Đức Giêsu đã tỏ ra là vị Thầy có uy quyền và được quyền nhận định như thế. “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu”: Phải chăng Đức Giêsu muốn nói rằng vị kinh sư đã sống trong chiều hướng giáo huấn của Người, bởi vì trong TM Mc, Nước Thiên Chúa là một thực thể hiện tại, gắn liền với bản thân Đức Giêsu (x. 4,11)? Chúng ta hẳn là chờ đợi Đức Giêsu gọi ông đi theo Người. Nhưng ở đây, mối bận tâm là cho thấy quan niệm của Đức Giêsu và các mệnh đề căn bản của đức tin Do Thái hài hòa với nhau. Không hề có một trở ngại quan trọng nào ngăn cản người Do Thái gắn bó với Đức Giêsu.
+ Kết luận
Điều răn đứng đầu chính là điều quan trọng trong mọi trường hợp, điều mà chúng ta phải dấn thân theo với tất cả sức lực. Bởi vì chúng ta phải trả lẽ với Thiên Chúa và bởi vì Ngài sẽ quyết định về giá trị của đời sống chúng ta, cách thức đời sống chúng ta có thể nhận được một ý nghĩa thức sự, trường tồn, tùy thuộc câu trả lời cho câu hỏi về điều răn đứng đầu. Bởi vì điều răn này cho biết Thiên Chúa thực sự muốn chúng ta sống thế nào, chúng ta phải đi theo con đường nào để cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa, có chiều hướng cách tuyệt đối chắc chắn.
Đức Giêsu đã cho thấy điều quan trọng nhất là yêu thương. Vị kinh sư đã hiểu, và đã diễn tả sự hiểu biết đó chính xác bằng một lời bình luận.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ai có thể yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực? Chúng ta có hy vọng chu toàn được nhiệm vụ này chăng? Ai có thể nói rằng mình đã yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn như thế? Cách thức chúng ta cư xử với Thiên Chúa như thế nào? Lại không phải là chẳng mấy khi chúng ta nghĩ đến Ngài, chúng ta không có giờ cho Ngài, chúng ta cứ ở trong tình trạng bất ổn và ngờ vực sao? Với lại, yêu thương mà lại theo lệnh được và muốn yêu là yêu sao? Thật ra, với điều răn này, Đức Giêsu không nêu ra một công việc có thể làm ngay bằng một hành vi nào đó, nhưng nêu ra một bổn phận kéo dài suốt đời. Yêu mến Thiên Chúa trọn vẹn là mục tiêu của cuộc đời chúng ta.
2. Nếu chúng ta chỉ dâng các hy lễ, nếu chúng ta chỉ nói lên những công thức cầu nguyện, nếu chúng ta chỉ dâng những điều khác với bản thân chúng ta, và không hề có bản thân chúng ta dấn thân vào đó thực sự, chúng ta không yêu mến, và chúng ta đánh mất ý nghĩa/chiều hướng của đời sống chúng ta.
3. Tình yêu trước tiên không phải là một tình cảm, một cảm xúc của con người, nhưng là tất cả bản thân chúng ta hiến dâng lên Thiên Chúa cùng với các sức lực và khả năng. Yêu mến là ra khỏi tình trạng thụ động, trơ ì, lãnh đạm, tìm thoải mái riêng tư, hời hợt, ngờ vực, để hướng về Thiên Chúa cách năng động mạnh mẽ và cương quyết, với một sự quan tâm sâu xa, tha thiết, sống động. Yêu mến Thiên Chúa là vận dụng tất cả năng lực trí tuệ và ý chí để hiếu biết Ngài, gặp gỡ Ngài, đón tiếp Ngài trọn vẹn, để được Ngài nắm lấy và lấp đầy. Nói cho cùng, yêu mến Thiên Chúa là luôn cố gắng mở ra với Ngài mãi.
4. “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en”. Đức Giêsu nhắc lại một lời kêu gọi của Cựu Ước, nhưng ở bên trong sứ điệp của Người, đây cũng là một lời mời gọi lắng nghe chính Người và hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, là Đấng đến tỏ mình ra cho ta nơi Đức Giêsu (x. 9,7). Đối với chúng ta, vì muốn yêu mến Thiên Chúa, trong khi đì tìm Thiên Chúa, để có thể yêu mến vị Thiên Chúa chân thật, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu.
5. Nói rằng tình yêu đối với người thân cận cũng phải có cùng một bản chất với tình yêu đối với chính bản thân ta, có nghĩa là chúng ta chấp nhận người thân cận trong tính riêng tư độc đáo của họ, chúng ta nhìn nhận họ cũng được Thiên Chúa muốn có và tạo thành như chúng ta. Điều răn yêu thưong người thân cận có nền tảng và diễn tả ra là chúng ta – tôi và người thân cận – chúng ta đều mắc nợ tình yêu Thiên Chúa như nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa cũng là một tiếng “xin vâng” thưa với sự bố trí của Thiên Chúa.
6. Thật ra, điều răn này không có ý san bằng mọi người. Điều răn này phát xuất từ giả thiết là mọi khác biệt đều phụ thuộc; rằng mọi người về căn bản đều ở trên một bình diện như nhau, đều có tầm quan trọng, có giá trị, phẩm giá như nhau.
63. Chúa Nhật 31 Thường Niên
(Chú giải, Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt)
TÌNH YÊU LÀ ALPHA VÀ OMÉGA CỦA CUỘC SỐNG
CÂU HỎI GỢI Ý
So sánh thái độ và câu hỏi của viên ký lục trong bản văn này với bản văn song song của Mt (22,34-40). Có gì khác biệt?
1. Tại sao Do thái giáo không khám phá ra được “tình yêu” là giới răn trên hết?
2. Câu trích dẫn Đnl 6,4tt có điểm gì đặc biệt so với các xác quyết tương tự của Cựu ước?
3. Theo bản văn này, đâu là lý do khiến ta phải yêu mến Thiên Chúa không giới hạn?
4. Yêu đồng loại “như chính mình phải chăng là làm cho kẻ khác những gì ta làm cho ta?
5. Theo quan niệm Do thái và quan niệm Chúa Giêsu. Đồng loại (cận nhân) là gì (x. Lc 10,25-37) ?
Trong bối cảnh một cuộc tranh luận biện chứng (Mc 12,28-38 và song song), Chúa Giêsu được một ký lục Biệt phái hỏi ý kiến như sau (Mt 22,35): ”Giới răn thứ nhất trên hết là giới răn nào”? (28). Người đáp lại: tình yêu là quy tắc thứ nhất của mọi cuộc sống tôn giáo (các. 29-31)
I. CÂU HỎI CỦA VIÊN KÝ LỤC
Nơi người Do thái, bè Sađucêô và biệt phái tiêu biểu cho hai luồng tư tưởng và cách thế sống đối nghịch nhau (x. Cv 23,8). Một ký lục Biệt phái chuyên viên tỉ mỉ về lề luật – đã theo dõi một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với bè Sađucêô (Mc 12,18-27ss) và nhận thấy “Người đã đáp lại họ cách chí lý (c. 28). Theo Mt, sau khi nghe biết “Chúa Giêsu đã khóa miệng bè Sađucêô”, Biệt phái liền tụ họp và cử ra một kẻ trong nhóm để dùng một câu hỏi bắt bí Người (Mt 22,34-35). Theo Máccô thì trái ngược: viên Biệt phái giàu có này đến chất vấn Chúa Giêsu không phải vì óc cuồng tín của phe nhóm cho bằng vì lưu tâm đến giáo thuyết người rao giảng (x. B. van Iersel, Dos lignes fondamentalos de no tre vie chrétiennc trong Assemblées du Seigneur loạt 1,71, tr. 29-31). Vả lại, chính với thiện cảm và xác tín mà ông ta sẽ đón nhận câu tuyên phán của Người: “Phải lắm, thưa Thầy, Thầy đã nói rất thật…” (c.32). Vì thế, Chúa Giêsu, nhận thấy ông tiếp đón giáo huấn Người với lương tri và tế nhị, sẽ bảo với ông rằng: “ông không xa Vương Quốc Thiên Chúa đâu” (c.34).
Trong hai thế kỷ đầu, các giáo sĩ, lấy lại cách phân loại của tiền nhân, đã tính ra có tới 613 giới răn trong Lề luật Do thái: 365 giới răn tiêu cực và 248 giới răn tích cực (H.L.Strack P.Billerbeck, Komtnentar zum N.T. sus Talmud und Midrash, t.I tr.900tt). Trong các giới răn này, một số được gọi là “trọng” hay “lớn”, số khác thì “nhẹ” hay “nhỏ”.
Theo Mt 22,35, viên Biệt phái chất vấn: “Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật”. Nơi Mt 5,19, Chúa Giêsu nói đến sự vi phạm và thực thi những điều luật “nhỏ hèn nhất”. Mt thích những cách nói Sêmita: “lớn – nhỏ”, “Lề luật” như thế là chuyện thường tình. Không phải ông ngỏ lời với các độc giả được đào tạo theo lối Do thái sao? Nhưng Máccô, vì viết Tin Mừng cho lương dân trở lại, nên không nói đến Lề luật mà chỉ mặc cho câu hỏi của viên ký lục một tính cách phổ quát hơn : Ông chiếu theo các giới răn thuộc mọi loài và mọi phạm trù. Khi ưu tư xác định đâu là giới răn “thứ nhất” trong mọi giới răn, ông thay thế tiêu chuẩn “lớn lao” bằng tiêu chuẩn “ưu đẳng”. Vì thế giới luật tình yêu ở đây sẽ xuất hiện như một cái gì “trên hết”.
Dĩ nhiên, pháp học Do thái đã quy định tầm quan trọng lớn nhỏ nhiều ít của các giới lệnh khác nhau trong Lề luật một đoạn sách Talmud (Horayot, ga. Xem Strack-bill sdd, 904) có đặt một câu hỏi tương tự như câu trỏi trong Tin Mừng: “Đâu là giới răn nặng ký hơn mọi giới răn khác ?” Và nó đáp: “lệnh cấm thờ ngẫu tượng”. Văn chương Do thái sẽ còn kể nhiều giới răn khác: cấm đổ máu, cấm xúc phạm danh Thiên Chúa, cấm lỗi ngày hưu lễ v.v…; những hình như việc thờ ngẫu tượng, loạn luân, giết người vẫn được coi là những lỗi nặng nề nhất (Ibid., tr.221tt). Do thái giáo đã không thể thấy sự ưu đẳng của giới luật tình yêu, vì tất cả nền tu đức của nó cũng như cuộc sống của nó bị một quan niệm duy luật tỉ mỉ thái quá ám ảnh. Viên ký lục đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu cũng là một nhà luật học.
Tuy nhiên không được quên rằng Do thái giáo cũng đã thành công trong việc phát biểu một cách hay ho giới luật tình yêu, nhất là đối với Thiên Chúa (x. E.Stauflẽr, trong Kittol, T.W.N.T, I, tr.41t). Hai mươi năm trước Chúa Ki-tô, giáo sĩ Hillel đã dạy phải yêu tha nhân bằng những lời này: “Điều gì không làm hài lòng anh, thì đừng làm cho đồng loại anh điều ấy; có là tất cả Lề luật. Mọi cái khác chỉ là giải nghĩa” (x. Stlack-billerbeck, sđd, 460). Hầu như có thể bảo rằng Chúa Giêsu đã sao lại công thức ấy (Mt 7,12). Nhưng nền tu đức Do thái vẫn bị in dấu tì vết bài ngoại chủ nghĩa: “Hãy yêu mến thân nhân và hãy ghét địch thù” (Mt 5,43). “Chúa Giêsu là người đầu tiên đã cho nổ tung những nền móng cũ, để lao mình vào một công trình xây dựng hoàn toàn mới” (E.Stauffer. mục đã dẫn, 43-44).
II. CÂU TRẢ LỜI CỦA ĐỨC GIÊSU
Chính trong bối cảnh giáo thuyết trên mà Chúa Giêsu, khi được một luật sĩ Do thái hỏi ý kiến, đã thốt lên câu tuyên phán của Người (cc. 29-31). Câu đáp của Người đầy quả quyết và mạnh dạn. Nó phát biểu nguyên tắc cơ bản của giáo thuyết Người, công bố “giới răn mới” (Ga 13,34; 1Ga 2,7t …). Nhưng Chúa Giê-su biết những lời nói của Người sẽ có uy lực hơn trước mắt một ký lục Biệt phái nếu chúng dựa vào Kinh Thánh là cái quen thuộc với ông. Vì thế Người chỉ trích dẫn Đnl 6,4t và Lv 19,18 là những câu có kiểu nói hoàn toàn thích hợp với ý Người.
1. Hãy yêu mến Thiên Chúa, vì ngài là “Chúa độc nhất”
Nhờ câu tuyên tín “độc thần”, bản văn của Đnl 6,4 nổi bật hơn nhiều công thức tương tự mà Cựu ước dùng để khắc ghi vào trí não lòng yêu mến Thiên Chúa. Câu dẫn nhập độc thần này (c.29) được Mc cố ý lấy lại: bằng chứng là viên ký lục sau đấy nêu rõ, bằng cách tán thành, đó là một quả quyết về “độc nhất tính” của Thiên Chúa (c.32).
Trong Cựu ước, thường thấy đề cập đến vấn đề sợ hãi hơn là mến yêu Thiên Chúa (Xh 1,21; Lv 19,14-32; Gs 4,24; Lv 18,12…); ngay cả sách Đnl cũng nhiều lần nói như vậy (4,10 ; 6,24; 14,23…). Trong các thánh vịnh, thành ngữ “sợ Thiên Chúa” chỉ kẻ trung thành với Chúa (22.24; 115, 11 .. .).
Nơi khác lại bảo rằng con người phải làm tôi Thiên Chúa, Thiên Chúa xuất hiện như một ông Chủ tuyệt đối, và các tín hữu như những tên nô lệ của Ngài. Do đó con người phải hoàn toàn thủ phận làm tôi” Thiên Chúa. Thái độ này đưa đến việc biểu lộ ra bằng nhiều cử chỉ bắt chước nghi thức của các tên nô lệ trong triều đình của các bạo chúa cổ xưa (x. H. Rongstorf, trong TWNT II, 269).
Trái lại, Đnl 6,5 nói đến lòng yêu mến Thiên Chúa. Trong toàn bộ Ngũ thư, ý niệm này không thấy ở đâu khác, chỉ có Đệ nhị luật là năng dùng {Đnl 5,10; 6,5.7.9. 10. 12 ; 11,1. 13.22; 13,3; 19,9; 30,6.16.20. Tuy nhiên có một ngoại lệ là Xh 20,6; kiểu nói ở đoạn Xuất hành này giống Đnl 5,10. Nhiều nhà phê bình thấy khó gán nó cho một nguồn cổ điển. Xeln O. Eissfeldt, Einleitung in des A.T: Tubingen 1965, tr 225,229,255tt}; chung chung ý niệm đó đặc trưng các sách gần hơn của Kinh Thánh. Việc phát biểu cái giới răn “trên hết” như thế đánh dấu một tiến bộ và một sự tinh luyện tâm tình tôn giáo, so với các giới luật liên hệ tới Thiên Chúa của thập điều. Theo Xh 20,1tt và Đnl 5,7tt, các giới luật này có ba: một Thiên Chúa duy nhất, kính trọng danh Ngài, tuân giữ ngày hưu lễ. Ở đây, một công thức duy nhất tóm lược tất cả mọi bổn phận của con người: yêu mến Thiên Chúa không hạn chế.
Tác giả sách Đnl hình như đã lợi dụng công trình tinh luyện thần học của các ngôn sứ; các ông này đã so sánh mối quan hệ của một người phụ nữ với chồng bà: mối quan hệ tình yêu chứ không phải là một nghĩa vụ có tính pháp lý hay tế tự. Thiên Chúa “yêu” dân Ngài, đó là một điều chắc chắn đối với Cựu ước (1V 10 9; 2Sk 2,10; 9,8; Ml. 1,2). “Sở dĩ Giavê đã đem lòng quyến luyến các ngươi và đã chọn các ngươi, không phải vì các ngươi đông hơn các dân khác hết thảy… nhưng vì Ngài yêu các ngươi…” (Đnl 7,7-8). Tình yêu bộc phát này của Thiên Chúa, tình yêu đã kén chọn Israel, là nền tảng tất cả sứ điệp của ngôn sứ Hôsê, kẻ hình như đã là người đầu tiên hiểu theo ngôn ngữ “tình yêu” và “hôn nhân” các mối quan hệ giữa Giavê với dân Ngài. Chủ đề sau đó đã được Giêrêmia, Edêkien, Isaia đệ nhị và Diễm ca khai triển (x. P, Claudel, Dieu époux de son pouple, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,16 : Hs, tr.56-59; Gr, tr. 59-60; Ed, tr. 60-62; Đnl, tr. 62-64; Dc tr. 64-65).
Chúng ta khám phá ra như thế căn nguyên của giới luật mến yêu Thiên Chúa và quán triệt hơn nội dung của “tình yêu” này. Thực vậy, Hôsê đã cảm thức sâu xa rằng không một tình cảm nào lôi cuốn con tim loài người cho bằng tình chồng vợ. Tình yêu này không đòi hỏi sự hỗ tương sao? Vì thế tại sao qua tiếng nói của các ngôn sứ, Thiên Chúa đòi hỏi dân bất trung của Ngài phải đáp trả tình yêu phụ quân của Ngài. Đấy là một luận cứ còn mạnh hơn cả ý niệm phụ tính phổ quát của Ngài nữa.
Vả lại, đó cũng là lý do mà thánh Gioan đã ám chỉ để thúc đẩy chúng ta mến yêu Thiên Chúa: “Tình yêu Thiên Chúa hệ tại ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Ngài đã yêu mến chúng ta… chúng ta hãy mến yêu, vì Ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,10. 19). Chính tình yêu này, mà Thiên Chúa biểu lộ “trong chúng ta” (4,7.12.1-7), phải làm cho chúng ta yêu mến Thiên Chúa lại. Chính tình yêu này, mà Thiên Chúa đã thi thố đối với thế gian (Ga 3,16) đối với chúng ta “khi chúng ta còn là những tội nhân” (Rm 5,8), đã được Ngài “đổ xuống lòng ta nhờ Thánh Thần Ngài đã ban cho ta” (Rm 5,5). Đây là vật cầm thế quý nhất của tình yêu Thiên Chúa đối với những kẻ thuộc về Ngài và là của hồi môn vô giá mà “Hôn phu” thần linh ban tặng cho hôn thê: còn hơn là lý do sau cùng, đây chính là năng lực sinh động con người chúng ta để yêu mến Thiên Chúa và làm cho chúng ta nhận ra Ngài là “Cha” chúng ta (Rm 8, 15). Hôsê cũng như Giêrêmia đã nói cách thích thú hơn: “Hôn phu” chúng ta. Ngoài ra, quan niệm này còn được thánh Gioan theo khi nói về sự cư ngụ của thần tính trong tâm hồn yêu mến Thiên Chúa(Ga 14,23) và về bữa ăn tối mà Chúa Ki-tô chia sẻ với kẻ mở cửa cho Người (Kh 3,20) Thực ra, chính Thánh Thần hoàn tất lời hứa của ngôn sứ: “Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn ngươi trong công chính và lẽ phải trong âu yếm và tình yêu” (Hs 2,21).
Nội dung của “lòng mến yếu” Thiên Chúa và tha nhân phải được hiểu theo các quan điểm ấy, những quan niệm tự chúng đã là rất hùng hồn rồi. Tình yêu không ăn nhập gì với sợ hãi, kính trọng, phụng sự, luật pháp cũng như với một sự bó buộc hay một sự trịnh thượng nào. “Qua hạn từ tình yêu, Cựu Ước thật ra muốn chỉ một tâm tình bộc phát, thúc đẩy hiến thân…Tình yêu là một sức mạnh không thể cắt nghĩa của tâm hồn và ở bên trong con người” (G. Quell, trong TWNT I,21). Đnl và nhiều sách khác của Thánh Kinh đã minh giải điều đó khi bảo rằng mến yêu Thiên Chúa rốt cục là “khăng khít” với Thiên Chúa (Đnl 10,20; 11,22; 13,5; Gs 22,5; 23,8; 2V 5,18). Tác giả thánh vịnh thường diễn tả lòng ao ước nồng nàn của ông là được kết hợp với Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể thỏa mãn ông (Tv 63,2-9; 73,25…). “Sự khăng khít” của con người với Thiên Chúa được biểu thị bởi cùng một danh từ và cùng một ý niệm như sự khăng khít con tim của hôn phu đối với hôn thê (St 2,24; 34,4; Lv 11,2…). Yêu mến Thiên Chúa, chính là kết hợp với Ngài, thắt chặt mối dây tình cảm đến nỗi chỉ còn làm “một” với Ngài mà thôi (x. Ga 17,21tt).
Bản văn Đnl 6,4 dùng đích danh “Giavê” thay vì tước hiệu loại danh “Chúa” (Mc 12,29 trích chữ “Chúa” theo bản 70): “Giavê là Thiên Chúa chúng ta, Giavê là độc nhất. Ngươi phải yêu mến Giavê Thiên Chúa ngươi hết lòng ngươi”. Đọc câu đây, người ta có cảm tưởng “độc nhất tính” của Giavê là lý do đòi buộc mến yêu Ngài.
Người ta không tìm đâu được trong Kinh Thánh một lời tuyên xưng độc thần như ở đây. Công thức duy nhất tương tự trong Dcr 14,9 chỉ nói về tương lai xa và không phải là một xác ngôn luật pháp. Trên phương diện ngữ vượng, có hai trường hợp cấu tạo giông giống: nơi Ed 33,24, “một mình trơ trọi” đối nghịch với nhiều; trái lại nơi Dc 6,9, tiếng độc nhất” không loại trừ các hữu thể khác cùng một bản tính, nhưng biểu thị sát tuyệt hảo so với các hữu thể này (x. 2Sm 7.23).
Từ những nhận xét trên, ta thấy công thức của Đnl 6.4, được Mc 12, 19 lấy lại, quả thực là một lại tuyên tín độc thần. Nhưng còn hơn một định thức triết học khô khan, nó tỏ ra là một khẳng định sinh tử, nhắm truyền cho các kẻ tin một động lực thiêng liêng chi phối cuộc đời của họ (x. C.Spicq, ‘Agapè dans le N.T, I, Paris, 1958, tr.86t).
Do đó ở đây “độc nhất tính” của Giavê mang một sắc thái hết sức đặc biệt. Dĩ nhiên “Giavê là Thiên Chúa chúng ta”, nhưng Ngài không phải chỉ là vị Thiên Chúa của Israel, vị Thiên Chúa độc nhất loại trừ mọi thần khác. Càng không phải là vấn đề xác quyết chỉ có một Giavê, vì điều đó quá tự nhiên, nhưng đúng hơn là xác quyết rằng Giavê là “độc nhất”, “đơn độc” trong thần tính giữa hết mọi thần mà người ta có thể tưởng tượng (x. 1Cr 8,5; Tv 82,1). Ngài là vị thần lớn nhất hoàn hảo nhất mà người ta có thể quan niệm: đâu có Thiên Chúa nào khác như Ngài, lạy Chúa, và không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ngài” (2Sm 7,22)
Điều này phải làm phát sinh trong con người cái tình yêu bộc phát thúc đẩy con người đi về Thiên Chúa, với lý do duy nhất là Ngài “độc nhất”, hay nói cách khác, “Ngài là Đấng hằng hữu” (x. Xh 3,14).
2. Hãy yêu mến đồng loại “như chính mình ngươi”
Về việc yêu mến đồng loại, Chúa Giêsu cũng đã lấy lại một công thức hoàn hảo của Cựu ước: Tv 19,18.34 (x. M.pelfrène, “Tu aimoras ton prochain com me toi-même”, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,66, tr. 50-57). Tuy nhiên, từ đây không ai bị loại khỏi tình yêu phải thực thi như thế đối với đồng loại chúng ta (x. Mt 5,43).
Giới luật này bao gồm hết mọi giới răn mà Chúa Kitô đã liệt kê trong Mc 10,19. Nhưng công thức của 12,32 đã giản lược các lề luật đa phức ấy thành một luật duy nhất, nhờ tình yêu là cái đơn giản hóa tất cả. Ngoài ra, công thức cũng nhắm truyền tinh thần và sự sống vào cho một bộ xương luật pháp chỉ chú ý đến chất thể tính của giới luật được hoàn thành.
Phải nhấn mạnh đến ý tưởng “mến yêu” tha nhân, cái sức mạnh khiến chúng ta tậm tâm làm điều thiện cho tha nhân là cho tha nhân được thỏa mãn. Chính đó là tinh hoa của các yêu sách Chúa. Tình yêu là sức mạnh của tâm hồn, sức mạnh “khoan dung, nhân hậu, không ghen tương, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không nóng giận, nhưng hết lòng tha thứ, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy và hết lòng kiên nhẫn” (1Cr 13,4-7).
Vẫn biết Tân ước cũng đòi hỏi tình yêu phải được minh chứng qua những thực hiện cụ thể (Gc 2,15 ; 1Ga 3, 11). Nhưng Tân ước không chấp nhận rằng những thực hiện này là kết quả của một chủ nghĩa xã hội kinh tế thuần túy, hay là phương tiện thỏa mãn lòng kiêu ngạo riêng tư Ki-tô giáo mong muốn mọi hoạt động xã hội hay bác ái phải được thúc đẩy bởi sự hiện thân, hy sinh, từ bỏ và phải kèm theo những chú tâm tế nhị đối với những người túng thiếu. Như thế lòng tốt tự nhiên và kinh tế được đảm nhận trên bình diện cao hơn của đức ái đối thần.
Yêu đồng loại “như chính mình ngươi” không có nghĩa là ngươi phải làm cho kẻ khác những gì người làm cho người, nhưng đúng hơn là phải đối xử kẻ khác với cùng một “tình yêu như ngươi đối xử với ngươi”. Điều đó còn có ý nghĩa cao xa hơn nữa, như Thánh Kinh cho chúng ta thấy khi nói về hai người bạn: “Hồn của Gionathan khắn khít với hồn của Đa-vít và Gionathan đã bắt đầu yêu Đa-vít như chính mình ông (theo nguyên tự: như chính hồn ông: 1Sm 18,1). Tình yêu đích thực, vốn không khác chi tình yêu vợ chồng (x. St 2,23-24, 2Sm 1,26) biến đồng loại của tôi thành “một nửa của hồn tôi” (dimidium animao meo, Horace), hội nhập con người của kẻ ấy vào con người của tôi đến độ cả hai hữu thể chúng tôi chỉ còn là một đối tượng tình yêu duy nhất và một tâm hồn duy nhất (x. Cv 4,32).
Cũng thế, người Samari nhân lành đã không bị một mối ưu tư xã hội hay pháp lý thúc đẩy khi thấy kẻ xấu số, nhưng là “động lòng thương” (Lc 10,33) [Cũng động từ caplaknisthè đây (nguyên tự: bồi hồi ruột gan) chỉ thái độ của người cha đứa con hoang đàng; x. J. Dupont, L’enfant prodigue, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,29, tr. 63, chú thích 2]. Trái lại, từ chối thực thi bác ái có nghĩa là “đóng lòng mình, (1Ga 3,17) với người anh em mà ta thấy đang cơn quẫn bách, thay vì động lòng trắc ẩn như lẽ tự nhiên nếu ta không bị tính ích kỷ chi phối [“Đóng lòng mình” là hình ảnh đối nghịch lại hình ảnh trước, và diễn tả qua tiếng splakna; x. J. Dupont, Comment aimel mes frères, trong Assemblées du Seigneur loạt 1,55, tr. 28-30]. “Bác ái” không đáng gọi là “bác ái” nếu không phát sinh từ cái tâm tình thâm sâu, nội tạng mà người ta gọi là tình yêu.
Cũng có mối nguy là tự mãn với nhũng công thức tao nhã, bặt thiệp: “Chúng ta đừng yêu bằng lời, bằng miệng lưỡi, nhưng bằng hành động thực sự” (1Ga 3,18). Đây là kết luận của một lối lý luận rất đơn sơ nhưng rất sắc bén của thánh Gio-an: “Nếu kẻ nào, có của đời này, thấy anh em nó lâm phải túng thiếu và đóng lòng dạ lại với anh em, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa lưu lại trong nó được?” (1Ga 3,17; Gc 2,14-17). Một tình yêu chân thật bắt ta đem hết tài năng và của cải ra mà phụng sự kẻ khác.
Tuy nhiên, tình yêu mà Chúa Kitô đòi hỏi chúng ta phải có đối với đồng loại, còn đi xa hơn nữa: “Nơi điều này chúng ta biết được tình yêu: là Đấng ấy (Chúa Kitô) đã thí mạng vì ta. Và ta, ta cũng phải thí mạng sống mình vì anh em” (1Ga 3,16). Đối với chúng ta, đó là một bổn phận, một bắt buộc, một món nợ mắc với Chúa Kitô vì người anh em. Chính trong khung cảnh này mà giới răn mới của Chúa Giêsu nằm vào và được nổi bật: “Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính nơi điều này mà mỗi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đồ Ta: ấy là các ngươi yêu mến lẫn nhau. (Ga 13,34tt). Chỗ khác, Chúa Giêsu còn thêm: “Không có tình yêu nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,12tt). Tựu trung, tình yêu ấy làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô là Đấng “yêu mến các kẻ thuộc về Người cho đến cùng” (Ga 13, 1).
Bây giờ phải giải quyết vấn đề viên ký lục Biệt phái khơi lên, vấn đề mà Luca có ghi lại sau câu Chúa Giêsu tuyên phán về tình yêu Thiên Chúa và đồng loại (bản văn song song với Mc): “Ai là đồng loại (cận nhân) của tôi? (Lc 10,29). Dụ ngôn người Samari nhân hậu giải đáp câu hỏi đó (10,30-37) (x. F.Dreyfus,”Qui est mon prochain?” trong Assemblées du Seigneur loạt 1,66, tr. 32-49). Sau câu chuyện, Chúa Giêsu hỏi viên ký lục: “Theo ý ông, ai trong ba người ấy: Tư tế, Lêvít, Samari, đã tỏ ra là đồng loại (cận nhân) của kẻ bị rơi vào tay bọn cướp kia?”. Ông thư : “Người đã xử nhân nghĩa với kẻ ấy”. Chỉ qua sự kiện đấy chẳng phải là người đồng hương Do thái, nhưng là người ngoại quốc, chúng ta đã rút ra được một bài học đầu tiên: tình yêu Kitô giáo đạp đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt lên trên mọi óc phân biệt quốc gia hay tôn giáo, quên đi mọi thành kiến hay những hiềm khích tổ truyền.
Nhưng điều quan trọng nhất chính là Chúa Giêsu đã xê dịch trung tâm mà từ đó phải lượng giá “sự kề cận” của kẻ khác. Đối với người Do thái, trung tâm là “cái tôi”, và những kẻ khác kề cận ít nhiều hay xa cách cái tôi đó, ở bên trong phạm vi Do thái thôi. Chúa Kitô đặt trung tâm trong “người khác” mà chúng ta phải “đến gần”, làm cho mình trở nên “kề cận”, dù họ ở cách xa trung tâm chúng ta hay ở ngoài vòng chúng ta. Chẳng hạn như người Samari, mà theo não trạng Do thái không thể coi kẻ bất hạnh như đồng loại (cận nhân) với mình, đã trở nên đồng loại (cận nhân) (gegonénai : c.36) vì đã biết đến gần kẻ bất hạnh đó. Thật vậy, sự cận kề của kẻ khác mà Chúa Ki-tô đã tiên liệu để đòi hỏi tình yêu của tôi, không xuất phát từ lợi ích “của tôi” hay từ sự thích hợp với tôi, nhưng từ nhu cầu của kẻ ấy: cái đáng kể là kẻ ấy cần sự trợ giúp, dù tương quan giữa kẻ ấy với tôi thế nào đi nữa. Xét theo phương diện nhân loại, hai người Do thái kia “kề cận” với kẻ bị thương hơn người Samari. Nhưng nếu tôi yêu anh em tôi, tôi không cần bận tâm tìm hiểu xem những kẻ khác có bổn phận giúp đỡ người ấy hơn tôi không; tôi chỉ nhìn đến chính nhu cầu hiện tại của người ấy và điều tôi có thể làm để cứu giúp.
Hãy nêu lên một điểm chót trong bài học bác ái mà người Samari cho chúng ta. Ông thinh lặng làm mọi việc, không phô trương, cũng chẳng chỉ trích lòng ích kỷ của kẻ khác. Tự nhiên, với lương tri, ông chu toàn những sự săn sóc mà hoàn cảnh hiện tại đòi hỏi và dự liệu tương lai cấp thời (cc.34-3.5). Tình yêu đích thực tránh mọi khoe khoang và luôn bình dị, kín đáo.
Tóm lại, khi tôi hỏi “ai là đồng loại của tôi”, Chúa Giê-su trả lời: “Cả anh nữa, hãy đi và làm như vậy!” (c.37) để sửa sai chút ít các phạm trù của tôi, vì câu trả lời đó có nghĩa rằng: “Anh hãy trở nên đồng loại (cận nhân) với hết mọi ai mà anh thấy đang có nhu cầu, cần giúp đỡ”.
Giáo lý về tình huynh đệ dựa trên nhiều căn bản rất rộng rãi trong Mặc khải Thánh Kinh. Ngôn sứ Malakia đã biện minh tình yêu “đồng loại” trong cộng đoàn Israel bằng luận cứ đẹp đẽ này: “Tất cả chúng ta há chẳng phải có một Cha duy nhất sao?”Không phải một Thiên Chúa duy nhất đã tạo thành chúng ta sao?” (2, 10). Thánh Phao-lô, khi khích lệ các Ki-tô hữu hãy sống trong bình an và “yêu mến” lẫn nhau, đã cho họ thấy tình yêu này dựa trên sự kiện là “chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và là Cha mọi người” (Ep 4,3-6). Đây là cái mặc một chiều kích mới mẻ cho độc nhất tính của Thiên Chúa, tính cách đã được đặt nổi nơi cc.29 và 32 của đoạn văn chúng ta. Ngay từ nguyên thuỷ, Thiên Chúa đã làm cha hết mọi dân tộc, và một tình huynh đệ phổ quát đã quy tụ họ chung quanh vị Cha chung đó. Thánh Gioan đề ra cho chúng ta một giáo thuyết sâu sắc hơn. Tại sao chúng ta yêu? “Bởi vì tình yêu là Thiên Chúa và ai yêu thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7). Khi yêu, chúng ta chứng minh rằng sự tái sinh làm con cái Thiên Chúa của chúng ta là thật và chúng ta cảm nghiệm được ai là Cha chúng ta. Trái lại, “ai không yêu thì đã không nhận biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu (4,8). Chúng ta phải yêu “bởi vì Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước” (4,10.19). Thánh Gioan thích minh chứng làm sao tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân liên kết chặt chẽ với nhau: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em, đó là một kẻ nói dối: vì kẻ không yêu anh em nó thấy đó, thì không thể yêu Thiên Chúa, Đấng nó không trông thấy. Vâng, đó là giới răn mà chúng ta đã lãnh nhận nơi Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng hãy yêu mến anh em” (4,20tt). Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa như từ nguồn của nó: Chính nhờ tình yêu phong phú này mà Thiên Chúa sinh chúng ta trong tư cách làm “con”. Tình yêu được thông ban cho Chúa Kitô và nhờ Người mà đến với nhân loại. Nhân loại phải thông truyền tình yêu đó cho nhau, làm sao cho gia đình Thiên Chúa rộng lớn mãi. Cuối cùng, tình yêu ấy phải quay trở về Thiên Chúa như là cùng đích tối hậu của nó, và như vậy phải phát sinh sự “hợp nhất” toàn hảo mà Chúa Ki-tô đã ao ước thực hiện giữa Thiên Chúa, chính ngài và các kẻ tin (Ga 17,21tt).
KẾT LUẬN
Có hai giới luật tình yêu và hai đối tượng khác nhau của tình yêu ấy: Thiên Chúa và đồng loại. Nhưng thực tế, đó luôn luôn là vấn đề yêu. Yêu là sinh hoạt duy nhất đòi buộc con người: ở nơi con người chỉ có một tình yêu duy nhất, phát sinh từ cùng một khả năng. Sự tóm gọn này xuất hiện rõ rệt nơi thánh Gioan, người chuyên môn nói về “yêu” mà không luôn luôn phân biệt đâu là yêu Thiên Chúa và đâu là yêu đồng loại.
Viên ký lục đi tìm kiếm giới răn thứ nhất, và “Thầy tốt lành” (Mc 10,17) đã chỉ cho ông một giới răn duy nhất: “yêu”. Ông đã hiểu được rằng thế là Thầy đã đặt nền tảng cho một tôn giáo mới “vượt quá các toàn thiêu và lễ tế thay thảy” (c 33; x. Ga 4,20-23). Về phía Chúa Giêsu, người nhận thấy kẻ đối thoại “không xa Vương Quốc Thiên Chúa” (c.34). Tuy nhiên ông ta vẫn chưa vào, vì hiểu giáo thuyết là một chuyện. Đem ra thực hành giáo thuyết lại là một chuyện khác.
Manuel Miguéns, Assemblées du Seigneul: 62, tr 53-62
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng” đó là khiêm tốn mở lòng mình ra với Thiên Chúa, với ánh sáng, lời nói, lòng nhân của Ngài. Ánh sáng, tình yêu chính Ngài ban cho, vì Ngài là Đấng bất khả đạt. Chúng ta đạt tới đó vì Ngài yêu ta trước tiên, vì Chúa Giêsu Kitô đã cho ta đạt tới đó với Người. Lúc đầu, tình ta yêu Thiên Chúa là một sự thán phục đầy biết ơn, một tâm tình tin tưởng, phó thác, một sự gắn bó sâu xa. Yêu mến Thiên Chúa, không phải là cố gắng nói với Ngài rằng ta yêu Ngài, cũng chẳng phải là “làm được nhiều chuyện”, nhưng trước hết là khiêm tốn đón nhận sự hiện diện của Ngài, liên kết với mầu nhiệm sự thánh thiện và tình yêu là chính Ngài. Một sự liên kết đầy tin tưởng, chăm chú, lắng nghe. Chúng ta phải học cách nhận ra Ngài và hết mực tôn kính sự hiện diện mầu nhiệm của Ngài trong cuộc đời ta, trong lịch sử. Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa không thể có nếu trong ta không có một ý thức đích thực về Ngài. Nếu không có một ý thức đích thực về Thiên Chúa, thì không phải Thiên Chúa mà chúng ta gắn bó, không phải Ngài mà chúng ta yêu. Nếu không phải Ngài mà chúng ta yêu, thì chúng ta đã yêu những thần giả, những ngẫu tượng. “Chúa là Chúa độc nhất”.
2. “Yêu mến đồng loại Thiên Chúa là Đấng độc nhất. Nhưng để Ngài ở trong mình, chính là để cho Ngài biến đổi ta. Bởi vì vinh quang Thiên Chúa chính là con người sống, nên người tín hữu biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa và cho Ngài cư ngụ, cũng sẽ dần dần chọn lấy các thái độ mà Ngài muốn ta theo; tôn trọng, niềm nở, ngay thẳng, tốt lành… đối với tất cả những người được Thiên Chúa yêu thương, được làm con Thiên Chúa. Chúng ta cần nhiều “gương mẫu”, nhiều chứng nhân đi trước chúng ta và đã sống kinh nghiệm thiêng liêng này. Chúng ta có thể sung sướng quay về Chúa Giê-su Ki-tô và muôn vàn vị thánh nam nữ đã để mình bị sinh động bởi tình yêu Thiên Chúa đối với họ và đã để mình bị hướng dẫn bởi tình yêu của họ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
3. Thánh sử Mátcô nhấn mạnh tới hai thái độ xung khắc nhau: một thái độ bám víu, tựa nương vào môi trường, môi trường của những người trí thức Do thái và thái độ cởi mở cõi lòng của một người có bản lĩnh vững, một người trí thức có can đảm hành động không giống những người khác. Nhân đọc đoạn Tin Mừng này, chúng ta hãy nghĩ tới những người Kitô hữu trí thức đang phải chiến đấu cam go để làm chứng tá đức tin. Những Kitô hữu này sống trong một môi trường đang bị một số người phá thối nhân danh ít điều luật khoa học của họ. Điều luật của họ hẹp hòi, tạm bợ bao nhiêu thì đầu óc họ lại càng cố chấp bấy nhiêu. Trong một môi trường như thế mà phải tiếp tục yêu mến hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực là một chuyện thực sự có giá trị hơn mọi lễ vật hy sinh.
4. Chúa Giêsu đã rõ ràng tách biệt giới luật mến yêu Thiên Chúa và đồng loại ra khỏi toàn thể các quy định khác có tính cách vật chất hay lễ nghi. Làm thế, Người đã xác nhận rằng tôn giáo không hệ tại việc hợp lệ, sòng phẳng với Thiên Chúa bằng việc tuân giữ cách hình thức một số quy tắc. Nếu thực thi các điều luật quy tắc là một bằng chứng tất yếu của một tình yêu thực sự, thì nó vẫn không làm nên tình yêu đó nhưng giả thiết đã có tình yêu đó.
64. Thánh thiện là đức ái trọn hảo
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Qua bài Phúc Âm Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm B, chúng ta thấy được 4 điều sau đây:
Thứ nhất, chúng ta thấy Chúa Giêsu dạy chúng ta chẳng những phải kính mến Chúa hết mình mà còn phải yêu thương nhau như mình nữa mới trọn, chứ không phải chỉ kính mến Chúa hết mình, nói cách khác, kính mến Chúa hết mình còn ở tại việc yêu nhau như mình nữa, hay yêu nhau như mình là dấu chứng tỏ kính mến Chúa hết mình.
Thứ hai, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm, chúng ta còn thấy, con người chỉ có thể kính mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình khi họ tin nhận “Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Chúa duy nhất” mà thôi. Hay nói cách khác, chính vì con người tin nhận chỉ có một Thiên Chúa chân thật duy nhất, ngoài ra không còn Vị Chúa Tể hay thần tượng hoặc ngẫu tượng nào khác, mà họ phải kính mến Ngài hết mình và yêu nhau như mình.
Thứ ba, cái quí giá nhất trên đời này, trước mặt Chúa cũng như trước mắt thế gian, đó là yêu thương: yêu thương trọng hơn tất cả mọi lễ vật hiến dâng lên cho Chúa là thế, đúng như người luật sĩ thưa với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, và cũng hợp với những gì Chúa Giêsu dạy ở bài giảng trên núi về việc về làm hòa với người xúc phạm tới mình trước khi dâng của lễ trên bàn thờ (x Mt 5:23-24).
Thứ bốn, thế nhưng, nhận biết giá trị tuyệt hạng của giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình như người luật sĩ trong bài Phúc Âm mà thôi chưa đủ, còn phải mang ra thực hành nữa mới được, mới được rỗi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã nói với nhà luật sĩ này sau khi ông trình bày cảm nhận của mình về giới răn trọng nhất, như sau: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”.
Chúa Nhật XXXI Thường Niên Quanh Năm, dù thuộc chu kỳ nào đi nữa, A, B hay C, cũng thường ở trong thời điểm cuối tháng 10 hay đầu tháng 11, hoặc vào chính ngày Lễ Trọng Kính Chư Thánh Nam Nữ hay vào Lễ Các Đẳng (năm A: 31/10/1999, 1/11/1987 và 3/11/2002; năm B: 30/10/1994 và 2/11/1997 hay 2/11/2003; năm C: 1/11/1992 hay 1/11/1998, 2/11/1986). Riêng chu kỳ Năm B 2003, Lễ Các Thánh rơi vào ngày Thứ Bảy 1/11 và Lễ Các Đẳng vào Chúa Nhật 2/11. Tuy nhiên, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thường Niên XXXI Năm B tuần này cũng rất hợp với ý nghĩa của cả hai lễ này. Ở chỗ, bài Phúc Âm cho chúng ta thấy một yếu tố then chốt để nên thánh, đó là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình. Đức Ái chẳng những là yếu tố then chốt để nên thánh mà còn là yếu tố cần thiết để đền tội nữa, đền tội cho chính bản thân mình và đền thay cho nhau nữa, nhất là cho những linh hồn trong luyện ngục. Thánh Phêrô tông đồ đã khẳng định “tình yêu bù đắp muôn vàn tội lỗi” (1Pt 4:8), và chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định về người phụ nữ tội lỗi trong thành đã tỏ lòng ăn năn thống hối là “chị ta được tha nhiều vì đã yêu nhiều” (Lc 7:47).
Thật vậy, điều quan trọng nhất trên trần gian này không phải là được làm lớn, làm tổng thống về phương diện chính trị, làm thần tượng về phương diện nghệ sĩ, hay làm giám mục, giáo hoàng về phương diện tôn giáo, mà là làm thánh. Không làm thánh thì làm gì thì làm con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cũng có thể làm mất lòng Chúa, vì họ chỉ sống theo tự nhiên, sống theo xác thịt là những gì vốn phản lại với Thần Linh, đúng như Chúa Giêsu đã khẳng định với Nicôđêmô: “cái gì sinh bởi xác thịt là xác thịt; cái gì sinh bởi Thần Linh là Thần Linh” (Jn 3:6), hay với các tông đồ: “Thần Linh mới làm cho sống, xác thịt chẳng có ích gì” (Jn 6:63). Điển hình nhất là trường hợp đã xẩy ra cho tông đồ Phêrô, dù có ý hết sức ngay lành trong việc can thiệp vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô, vị tông đồ này cũng đã bị Người nặng lời khiển trách là đồ Satan (x Mt 16:22-23). Thật ra, Kitô hữu chúng ta đã được thánh hóa, đã là Thánh ngay từ khi được lãnh nhận Phép Rửa. Bởi vậy, là những ngọn đèn đã được Chúa Kitô thắp lên để trên cao hầu soi sáng cho cả nhà thế gian, chúng ta phải sống đúng với ơn gọi “là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) của mình. Mà ánh sáng chúng ta chiếu giải để soi sáng thế gian tăm tối sặc mùi tử khí văn hóa sự chết đây là gì nếu không phải là một đức ái trọn hảo.
Nếu theo Mạc Khải Thần Linh qua phần Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, Phúc Âm nói riêng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói đến giới răn cao trọng nhất là giới răn yêu thương, yêu Chúa hết mình và thương người như mình, thì trong phần áp dụng thực hành những gì Chúa tỏ dạy cho chúng ta biết ấy, chúng ta cảm nhận và đáp ứng thế nào trước Lời Chúa? Chắc mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy khó nên thánh quá! Lời Chúa khó áp dụng quá! Nhưng cũng chính vì Lời Chúa siêu việt trên cả trí khôn hiểu biết của loài người lẫn khả năng thực hiện của họ mới thực sự chứng tỏ cho thấy “Đó là Lời Chúa”, chứ không phải là lời thường, lời của con người, dù là của các bậc hiền triết thánh nhân, những lời Chúa siêu việt này đều “là thần linh và là sự sống” (Jn 6:63), như Chúa Giêsu đã khẳng định với các tông đồ. Đó là lý do, để phấn khích tinh thần Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta, Chúa đã ban cho chúng ta có các tấm gương của những vị thánh, những con người cũng hèn yếu như chúng ta. Chẳng hạn như vị tân chân phước Têrêsa Calcutta được Giáo Hội tuyên phong vào chính Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, “một trong những vị đại thừa sai của thế kỷ 20”, như ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố ngày 20/10/2003 với phái đoàn hành hương đến dư ï lễ tuyên phong của Mẹ, vị mà trong hồ sơ phong chân phước đã được gọi là “biểu hiệu của Đức Ái Kitô giáo”, căn cứ vào các việc bác ái anh hùng được tỏa sáng từ người nữ tu thánh sống này.
Mẹ Têrêsa Calcutta, sau khi đã nghe thấy tiếng Chúa nói trong tâm hồn của Mẹ, kêu gọi Mẹ là: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, Mẹ đã bắt đầu đi vào đêm tối tăm nội tâm, một đêm tối tăm bắt đầu xuất hiện khi Mẹ mới bắt tay vào việc phục vụ người nghèo cho tới khi Mẹ qua đời, một đêm tối tăm, như Mẹ chia sẻ với cha linh hướng và Đức Tổng Giám Mục địa phương, có những lúc Mẹ thấy thiên đàng chẳng còn ý nghĩa gì nữa, Thiên Chúa không còn hiện hữu nữa v.v., nhưng đồng thời đời sống Mẹ lại thực sự chiếu tỏa “rạng ngời chân lý” Chúa Kitô, mang “Phúc Âm sự sống” chẳng những đến cho thế giới Ấn Giáo mà còn cho cả thế giới văn minh duy nhân bản, duy thực dụng, duy vật vô thần của thế kỷ 20 nữa. Sau đây hai trường hợp điển hình do Mẹ kể lại cho chúng ta.
“Vào một buổi tối kia, chúng tôi ra đường và thấy được 4 người. Một người trong họ hết sức thê thảm. Tôi nói với các chị em rằng: ‘Các con hãy chăm sóc 3 người kia; còn mẹ lo cho người tệ nhất ấy’. Thế là tôi đã làm tất cả những gì tình yêu của tôi có thể làm cho người phụ nữ này. Tôi đặt người phụ nữ ấy lên giường và chị đã nở ra một nụ cười tuyệt vời. Chị đã nắm lấy tay tôi nói lời duy nhất ‘cám ơn Mẹ’, rồi chị qua đời. Tôi không thể nào không xét mình trước chị phụ nữ ấy. Tôi ngẫm nghĩ: ‘Tôi sẽ nói gì nếu ở vào trường hợp của chị?’ Câu trả lời của tôi rất dễ thôi. Tôi sẽ nói rằng: ‘Tôi đói khát, tôi chết mất, tôi lạnh lẽo, tôi đau đớn’ hay một câu nào đó. Thế nhưng, chị đã cho tôi còn hơn thế nữa. Chị đã cho tôi tấm lòng ưu ái tri ân của chị. Và chị đã chết với một nụ cười trên khuôn mặt.
“Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cái cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rúc rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: ‘tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc’. Đoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là ‘Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa’, rồi ông tắt thở. Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ bất cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì. Như một thiên thần, đó là sự cao cả của con người phong phú về tinh thần ngay cả trong lúc nghèo khổ về vật chất”.
Đó là lý do, trong bài giảng Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTC Gioan Phaolô II chẳng những đã đề cập đến cuộc khủng hoảng nội tâm của Mẹ Maria liên quan đến lòng mến Chúa hết mình của Mẹ, mà còn hết lời ca ngợi đức ái xả thân quên mình của Mẹ trước thế giới nơi thành phần cùng khốn nhất loài người như sau:
“Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu” (Đoạn 4).
Phần Kitô hữu Công giáo chúng ta, đôi khi chúng ta khiêm nhượng quá đến trốn tránh trách nhiệm, đến sống phản lại sự thật. Điển hình nhất là việc thực hành ơn gọi Sống Thánh Chứng Nhân của chúng ta đây. Không phải hay sao, trong khi Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng “Các con là ánh sáng thế gian”, thế mà có ai trong Kitô hữu chúng ta dám tự nhận mình “là ánh sáng thế gian” không? Chính vì chúng ta không dám nhận mình “là ánh sáng thế gian”, hay thậm chí phủ nhận căn tính Kitô giáo “là ánh sáng thế gian”, là truyền giáo, là làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa Kitô như thế, mà chúng ta đã tiếp tục sống tầm thường, sống phản lại với tinh thần của Chúa Kitô, sống trong tăm tối, theo khuynh hướng dễ dãi tự nhiên, theo xác thịt phản lại Thần Linh ban sự sống.
Phải, chỉ khi nào chúng ta dám chân nhận mình tôi “là ánh sáng thế gian”, chúng ta mới nỗ lực làm gương sáng, mới có thể tỏa Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” ra, mới trở thành chứng nhân trung thực phản ảnh Chúa Kitô, mới phát tỏa Tin Mừng Sự Sống cho thế gian vốn yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng này. Nếu đức ái trọn hảo của Kitô giáo “là ánh sáng thế gian” thì ánh sáng đức ái này được chiếu tỏa từ ngọn đèn đức tin. Đức ái càng sáng chứng tỏ đức tin càng mạnh và sự sống nội tâm càng dồi dào nơi thành phần Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô. Nếu đức tin thuộc về hay liên quan đến đời sống nội tâm cầu nguyện thì đức ái thuộc về hay liên quan tới đời sống hoạt động tông đồ. Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái.
Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại miền đất bần cùng nhất trên thế giới. Chính việc bác ái Kitô hữu thực hiện chứng tỏ họ thực sự yêu mến Thiên Chúa, hay thực sự họ nhận biết Thiên Chúa, một Thiên Chúa chân thật duy nhất là Đấng họ phải kính mến hết mình, “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực”, như Chúa Giêsu tái xác nhận với người luật sĩ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này. Và chính kiến thức thần linh, được sáng tỏ qua đức bác ái, đã cho thấy người Kitô hữu này đã thực sự sống dồi dào “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô” (Jn 17:3).
65. Sống yêu thương từ gia đình
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 12:28-34: Với và qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất…
Với và qua trang Tin Mừng hôm nay, ta bắt gặp một luật sĩ được Chúa Giêsu ca ngợi rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” Luật sĩ này đã tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài giới răn nào là giới răn trọng nhất. Chúa Giêsu đã cho ông thấy hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Mến Chúa và yêu người thực ra cũng là điều đã được dạy trong Cựu Ước. Nhưng điều độc đáo ở đây là Chúa Giêsu liên kết hai giới răn này lại với nhau và cho đây là giới răn trọng nhất.
Trong Cựu ước Chúa phán bảo người Do Thái: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng và hết sức ngươi. Trong Tân ước Chúa Giêsu cũng bảo: Giới răn trọng nhất đó là ngươi hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn và trí khôn ngươi.
Giới răn nào là giới răn trọng nhất? Chúa Giêsu nêu lên việc tuyên xưng đức tin mà người Do Thái vẫn đọc ngày ba lần: “Hỡi Israel hãy lắng nghe: Thiên Chúa, Chúa của ngươi là Chúa duy nhất. Ngươi hãy yêu mến Chúa ngươi hết lòng, hết tâm hồn ngươi…” Bản văn này của Thánh Kinh mở cho chúng ta thấy vẻ đẹp đức tin của dân Do Thái. Các Kitô hữu hiểu sai về Thiên Chúa của Cựu Ước mà họ không biết rõ. Dĩ nhiên, đây là một vị Thiên Chúa đầy uy nghi nhưng nhất là một vị Thiên Chúa yêu dân Ngài như một người chồng yêu vợ mình vậy… “Nếu Giavê đã gắn bó với các ngươi và đã chọn các ngươi thì không phải vì các ngươi là dân tộc đông nhất… Nhưng vì tình yêu đối với các ngươi”.
Chúa Giêsu đã không hề bối rối trước 613 khoản luật của các thầy Rabbi. Chỉ trong một khoảnh khắc, Ngài đã dạy rằng tất cả Lề Luật tóm tắt trong một điều luật lớn nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu đã không dừng lại ở đây, mặc dù câu hỏi là: “Điều luật nào trọng nhất?”. Thay vì chỉ có một câu trả lời, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm câu thứ hai: “Ngươi sẽ yêu mến tha nhân như chính mình”, luật này không phải Người trích từ sách Đệ nhị luật nhưng là từ sách Lêvi.
Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Tuy nhiên Chúa là chúa tể mọi loài. Quyền uy vô song tuyệt đối. Nhưng Ngài là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Ngài ban cho ta sự sống. Ngài nhận ta làm con của Ngài. Ngài cai quản vũ trụ không bằng quyền uy nhưng bằng tình thương. Ngài là người cha luôn yêu thương con cái. Ngài mong muốn ta đáp lại bằng tình yêu mến Ngài. Yêu mến Thiên Chúa không những là điều công bằng và hợp tình hợp lý, mà còn đem lại cho ta sự sống và hạnh phúc. Xa lìa Thiên Chúa đưa ta đến diệt vong vì mất sự sống và mất hạnh phúc. Nhưng con người yếu hèn, lại bị ma quỉ cám dỗ, nên thường lãng quên Thiên Chúa, coi thường Thiên Chúa và phản bội tình yêu của Ngài.
Tình yêu thực sự với Thiên Chúa đưa tôi về với anh em. Tình yêu anh em đòi tôi gặp gỡ Thiên Chúa để múc lấy nơi Ngài sức mạnh hầu tiếp tục hiến trao. Đó là nhịp đập bình thường của trái tim người Kitô hữu, cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Hay đúng hơn chỉ có một tình yêu: tôi yêu tha nhân trong Chúa và tôi yêu Chúa nơi tha nhân.
Việc yêu thương tha nhân của chúng ta thường lại gặp thất bại từ đầu ngay trong chính gia đình của chúng ta. Không yêu thương những người thân cận ruột thịt, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ khó mà yêu thương những kẻ xa lạ cho được. Vậy chúng ta đã dành tình yêu thương cho những người thân cận trong gia đình thế nào? Nếu chúng ta trả lời là chưa đậm đà cho lắm, thì có lẽ tình yêu thương chúng ta dành cho bà con lối xóm cũng sẽ chẳng khá hơn. Và nếu chúng ta chẳng yêu thương bà con lối xóm cho mặn nồng thì chắc chắn chúng ta cũng không thể kính mến Thiên Chúa một cách nồng nàn được.
Kitô hữu chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa cũng giống như đối với người Do Thái. Thánh Gioan viết: “Tình yêu của ngài hệ tại điều này: không phải chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta; chúng ta phải yêu mến vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước”. Lòng kính mến của chúng ta đối với Thiên Chúa là một lòng kính mến tri ân và lòng mến này là một năng lực thiêng liêng được Chúa Thánh Thần đặt nơi chúng ta.
Mến Chúa và yêu người là nội dung căn bản của toàn bộ lời giảng dạy và việc làm, toàn bộ cuộc sống và cái chết của Chúa Giêsu. Ngài đã mạc khải tình thương của Thiên Chúa được thể hiện qua việc sai Con Một của Ngài nhập thể làm người, sống giữa mọi người để làm nền tảng cho lòng mến Chúa và yêu người của những người tin Chúa. Qua những dụ ngôn, như dụ ngôn “người Samari nhân hậu”, dụ ngôn “cảnh phán xét cuối cùng” v.v…
Chúa Giêsu đã đi tới chỗ nhập cả hai giới mến Chúa và yêu người thành một giới răn duy nhất: mến Chúa thì yêu người, yêu người thì mến Chúa. Một tình yêu người được diễn tả một cách cụ thể, qua việc cho kẻ đói ăn, cho người khát uống, cho người không có áo mặc, băng bó vết thương tích cho người không quen biết… Tình yêu thương người đồng loại được diễn tả qua những cử chỉ, việc làm dù là nhỏn mọn, theo giáo huấn của Chúa Giêsu đều hơn cả những nghi lễ, những lễ vật người ta muốn dâng cho Thiên Chúa để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài. Bởi vì Thiên Chuá đã chọn, đã muốn được tôn vinh, được yêu mến nơi con người, và những con người bé mọn, nghèo hèn, hẩm hiu… được tôn vinh và được yêu mến. Những cử chỉ của lòng thương người, vẫn theo giáo huấn của Chúa Giêsu, đã thay thế mọi nghi lễ, lễ vật người ta cử hành và dâng cúng để tỏ lòng yêu mến Chúa.
Giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giúp chúng ta đi vào trong ý định của Thiên Chúa và góp phần đổi mới cộng đồng nhân loại. Giới răn mới cải thiện mối tương quan giữa người với người, từ các mối tương quan hạn hẹp giữa hai cá nhân cho đến các mối tương quan rộng lớn giữa nước này với nước khác, giữa dân này với dân kia. Bác ái phá đổ mọi hàng rào chủng tộc hay màu da, vượt trên mọi phân biệt quốc gia hay tôn giáo, xoá bỏ mọi thành kiến hay những hiềm khích quá khứ.
Yêu người đồng loại đâu chỉ là yêu kẻ gần gũi hay thích hợp với ta, nhưng còn là “bước tới”, là làm cho mình trở nên gần gũi với tha nhân, dù người ấy có ở xa hay ở ngoài vòng thân bằng quyến thuộc của mình. Vì thế, người Kitô hữu có thể yêu thương người mình không chọn. Bác ái thực sự vượt trên cảm tình. Nó đòi hỏi phải có một sự trao ban không hoàn lại, ngay cả khi làm ơn mà phải mắc oán, làm phúc và phải mang hoạ vào thân…
Chúa Giêsu đã đẩy tình yêu anh em lên một trình độ tuyệt đỉnh. Phải yêu anh em như yêu Chúa: Ai giúp đỡ một người thấp hèn nhất là giúp đỡ chính Chúa. Và yêu với mức độ như Chúa đã yêu: Các con hãy yêu nhau như Thầy đã yêu các con, và không có tình yêu nào lớn bằng hiến mạng sống vì bạn hữu.
Chúa bảo mến Chúa và yêu người phải đi đôi với nhau. Thiên Chúa đòi ta yêu mến Thiên Chúa như một người cha, nhưng tình yêu đó phải biểu lộ trong tình yêu đối với anh em. Phải yêu anh em mới chứng tỏ mình mến Chúa. Vì yêu anh em là chứng thực mình là con Thiên Chúa, và chứng tỏ mình tuân giữ lời Chúa dạy.
Ta hãy sống điều răn yêu thương Chúa dạy từ trong gia đình và với những người chung quanh. Có những người sống yêu thương trong gia đình rất tốt nhưng lại thiếu sót đối với những người ngoài. Ngược lại, có những người sống lịch sự, vui vẻ, yêu thương rất tốt đối với những người khác nhưng trong gia đình lại rất thiếu sót. Hơn nữa, tình yêu thương của chúng ta có phải chỉ là những tình cảm hời hợt. Ích kỷ, bề ngoài hoặc vụ lợi không? Tình yêu thương thật là biết dùng những lời nói tốt để an ủi nhau, giúp ý kiến xây dựng cho nhau, nhất là sẵn sàng giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau, và yêu người là trắc nghiệm chắc chắn nhất về lòng yêu Chúa của chúng ta.
66. Chúa Nhật 31 Thường Niên
TIÊU CHUẨN ĐỂ ĐẠT HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Tám Mối Phúc Thật.
Mát-thêu gom nhiều điều Chúa Giê-su nói trong nhiều hoàn cảnh khác nhau làm thành “Bài Giảng Trên Núi” hay là “Hiến Chương Nước Trời”. Tin Mừng hôm nay là phần đầu của Bài Giảng Trên Núi, trong đó nêu ra 8 điều kiện mà ai muốn gia nhập vào Nước Trời của Chúa Giê-su đều phải có, được gọi là Tám Mối Phúc Thật. Chẳng hạn: Tinh thần nghèo khó, nhân đức hiền lành, tâm hồn sám hối, luôn khao khát sống công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, biết ăn ở hòa thuận, bị bách hại vì đức Tin. Ai sống theo 8 tinh thần này thì thật diễm phúc, vì sẽ được làm thành viên của Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau.
CHÚ THÍCH:
– C 1-3: +Đoàn lũ đông đảo: Gồm các Tông Đồ, các môn đệ và dân chúng đến từ Ga-li-lê-a, miền Thập Tỉnh, miền Giu-đê và thủ đô Giê-ru-sa-lem. Lại có cả dân ngoại từ các thành Ty-rô và Si-đon (x. Lc 6,17; Mt 4,25). Như vậy đoàn lũ đông đảo nói lên tính cách phổ quát của sứ điệp của Chúa Giê-su. + Người đi lên núi: Núi ở đây thực ra chỉ là một ngọn đồi ở gần Ca-phác-na-um. Nhưng Tin Mừng Mát-thêu dùng tiếng núi để gợi lại việc Thiên Chúa ký kết Giao Ước cũ và ban Lề Luật cho Ít-ra-en. + Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên: Ngồi là tư thế của vị Thầy khi giáo huấn các môn đồ (x. Mt 13,1). + Phúc thay: Đây là kiểu nói hay được dùng trong Cựu Ước (x. Tv 1,1-2; Cn 3,3). Ở đây Đức Giê-su sử dụng lối nói này để khai mạc Nước Trời, trong đó những người nghèo đói, hèn mọn, sầu khổ… sẽ được hạnh phúc thật, miễn là họ tiếp nhận sứ điệp của Người. Mát-thêu dùng kiểu nói: Phúc thay ai…, còn Lu-ca (6,20-26) thì viết: Phúc cho anh em… + Tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ: Nghèo khó là thái độ của người khiêm tốn, hóa nên như trẻ em (x. Mt 18,1-11). Tinh thần nghèo khó cũng đồng nghĩa với sự siêu thoát, sẵn sàng từ bỏ của cải vật chất để trở thành môn đệ Chúa và được vào Nước Trời do Chúa thiết lập (x. Mt 6,19-21). Đức Giê-su không coi nghèo khó là điều tốt, vì nghèo thường đi đôi với dốt nát, thất bại và bất hạnh. Người dạy môn đệ không được tham lam tiền của bất chính và không cậy dựa vào thế lực của tiền tài, phải coi đồng tiền là đầy tớ thay vì là ông ông chủ của mình. Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su nói: “phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vìu Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Đức Giê-su không mị dân chúc lành cho sự nghèo khó. Người muốn tái lập một trật tự mới công bình: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-53).
– C 4-5: + Hiền lành: Trong Kinh Thánh, sự hiền lành luôn đi đôi với sự nghèo khó, khiêm nhường, nhỏ bé, yếu đuối, bị oan ức và bị thiếu thốn. + Đất Hứa làm gia nghiệp: Đất Hứa là một kiểu nói ám chỉ Nước Trời (x. Tv 37,11). + sầu khổ: là than khóc, buồn sầu vì đã phạm tội mất lòng Chúa và phải xa lìa Thiên Chúa. Buồn sầu thường do tội lỗi gây ra (x. 1 Cr 5,2). Đây cũng là tâm tình của người đang mong đợi ơn cứu rỗi như lời ông Si-mê-on (x. Lc 2,25). + Được Thiên Chúa ủi an: Họ sẽ đượcThiên Chúa an ủi và ban ơn tha thứ trong giờ phán xét sau này.
– C 6-8: + Khát khao nên người công chính: Công chính là cách ăn ở hợp với thánh ý Thiên Chúa (x. Mt 3,15). Khát khao nên người công chính là ước mong sống công bình ngay chính, tuân giữ Luật Chúa truyền dạy (1,19; 5,20). + Nước Trời là của họ: Hạnh phúc Nước Trời sẽ là phần thưởng dành cho những ai muốn sống cuộc đời hoàn thiện. + Xót thương người: nghĩa là tỏ lòng nhân hậu đối với các tội nhân noi gương Thiên Chúa như lời tuyên sấm của ngôn sứ Hô-sê: “Ta muốn lòng nhân từ chứ đâu cần lễ tế” (Hs 6,6) và như người Sa-ma-ri nhân hậu đã giúp đỡ kẻ gặp nạn (x. Lc 10,33-37). + Sẽ được Thiên Chúa xót thương: Thương xót và tha thứ cho kẻ khác thì sẽ được Thiên Chúa xót thương tha tội nợ cho mình (x. Mt 6,14-15). Ông chủ trong dụ ngôn “Hai con nợ” đã mắng kẻ không biết thương xót: “Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi vì ngươi đã van xin Ta. Thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính Ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,32-33). + Lòng trong sạch: Trong sạch là ngay thẳng trong lương tâm. Người có lòng trong sạch hết mình phục vụ Chúa và tha nhân, không màng tư lợi, không đạo đức giả. Sự trong sạch không những nói về đức khiết tịnh, mà còn về nhiều phương diện khác nữa. + Được nhìn thấy Thiên Chúa: Là được về trời gặp mặt Người ở đời sau (x. Dt 12,14).
– C 9-10: + Xây dựng hòa bình: Sứ mệnh của các môn đệ là phải làm cho mọi dân nước trên thế giới trở thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Cần hòa giải những tranh chấp, để của lễ dâng lên Chúa xứng đáng được chấp nhận (x. Mt 5,23-24). + Được gọi là con Thiên Chúa: Vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ai yêu thương thì mới được ở trong Thiên Chúa và nên con cái Thiên Chúa. Họ sẽ được Chúa yêu thương và tâm hồn họ sẽ được bình an (x 2 Cr 13,11). + Bị bách hại: Bị bách hại là một đặc điểm của Chúa Giê-su, Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn để vào vinh quang phục sinh. Đây là một điều khó hiểu, điên rồ đối với người Do thái và khó chấp nhận ngay cả với các môn đệ (x. Mt 16,22). + Vì sống công chính: Nghĩa là sống phù hợp với giáo huấn của Chúa Giê-su (x. Mt 10,24-25). Thánh Phê-rô cũng nói: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc!” (1 Pr 3,14).
– C 11-12a: + Vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa: Lời Chúa giải thích mối phúc thứ tám để động viên các tín hữu thời sơ khai đang bị bách hại. + Anh em hãy vui mừng hớn hở: Thánh Phê-rô cũng dạy: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ. Nếu bị xỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1 Pr 4,13-14). + Vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao: Khi chịu đau khổ bách hại và liên kết với cuộc tử nạn của Chúa, sẽ được nên giống Chúa và sau này được vào Thiên Đàng hưởng hạnh phúc với Người
HỎI: 1-Tám Mối Phúc Thật là bản tóm lược những điều kiện phải có để được vào Nước Trơi do Chúa Giê-su thiết lập. Trong đó, mối phúc nào là quan trọng nhất và là nền tảng của các mối phúc khác? 2-So sánh ý nghĩa câu: “Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó” trong Tin Mừng Mát-thêu với câu “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” trong Tin Mừng Lu-ca khác nhau thế nào? Phải chăng Đức Giê-su đề cao sự nghèo khó, thường là nguyên nhân gây ra tội lỗi như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”? 3-Tại sao Chúa Giê-su lại chúc phúc và đề cao người nghèo, đang khi lẽ ra Người phải giúp đỡ người nghèo vượt qua sự nghèo đói bất hạnh ấy để cuộc sống của họ được ấm no hạnh phúc hơn? 4-Ý nghĩa của các mối phúc khác như thế nào: hiền lành, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người, có tâm hồn trong sạch, xây dựng hòa bình, bị bách hại vì Thầy?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,2).
2. CÂU CHUYỆN: Gương sống nghèo khó:
PHAN-XI-CÔ THÀNH AT-SI (Phanxico Assise) là con một người giàu có danh giá ở thành Át-si. Một hôm đi nhà thờ dự lễ, tình cờ nghe một vị linh mục gảng một bài về Tám Mối Phúc Thật, Phan-xi-cô rất tâm đắc với câu nói của Chúa: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Từ hôm ấy, Phan-xi-cô thường suy nghĩ phải sống thế nào để thực thi ý Chúa, và trở thành một người nghèo thực sự? Rồi một ngày nọ, anh quyết định sống siêu thoát và từ bỏ để hoàn toàn tin cậy vào Chúa quan phòng. Anh bán tất cả gia sản của cha, rồi đem phân phát cho người nghèo khổ bệnh tật. Hành động của Phan-xi-cô đến tai người cha làm ông nổi giận. Ông đã đến thu hồi tất cả những gì còn lại và không nhận Phan-xi-cô làm con nữa. Hôm ấy anh đã cởi bỏ các thứ quần áo giầy dép quí giá đang mang trên người và ra đi với hai bàn tay trắng. Anh viết trong nhật ký: “Bây giờ tuy không còn có cha ở trần gian, nhưng tôi vẫn luôn có Cha Trên Trời hằng thương yêu tôi”. Từ hôm đó anh được hoàn toàn tự do đi theo lý tưởng đã lựa chọn, là từ bỏ mọi sự, trở nên nghèo khó vì Nước Trời”. Ban ngày anh mặc quần áo vải thô, chân không giày dép đi qua các đường phố và làng mạc để khất thực. Tối đến, anh lại thức khuya để đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và dùng dây da tự đánh vào người hãm mình phạt xác. Anh đã được Chúa Giê-su cho in năm dấu thánh trên hai bàn tay bàn chân và cạnh sườn để nên giống Người. Anh đã thực hành theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Lối tu luyện khổ hạnh của anh đã được Giáo Hội công nhận và dòng “Anh em hèn mọn” do anh sáng lập đã được nhiều người đến xin gia nhập và trở thành một dòng tu lớn trong Giáo Hội. Sau khi qua đời, anh được Hội Thánh phong hiển thánh tức là thánh Phan-xi-cô Át-si, hoặc Phan-xi-cô khó khăn hay Phan-xi-cô Năm Dấu.
3. SUY NIỆM:
1) Hạnh phúc là gì?
Hầu như không ai trong chúng ta đạt được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc xem ra hạnh phúc nhất như vừa thi đậu, vừa được thăng chức, gặp được người thân, được xuất ngọai, được trúng số… nhưng vẫn có những điều làm chúng ta không thỏa mãn. Trong Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su đã chỉ cho chúng ta bí quyết để có hạnh phúc đích thực trọn vẹn. Thiên Chúa ban hạnh phúc, nhưng chúng ta chỉ nhận được khi có khả năng và mở lòng đón nhận. Hạnh phúc thật chỉ có khi chúng ta có Chúa là lẽ sống, được gia nhập vào Nước Trời, được sống trong ơn nghĩa Chúa và được vui hưởng hạnh phúc viên mãn. Tóm lại, người được chúc phúc là người biết mở cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và tha nhân: mở trí khôn để hiểu rõ thánh ý Thiên Chúa và thi hành, mở mắt mở tai để nhìn xem và nghe biết những nhu cầu của tha nhân và mau mắn đáp ứng; mở trái tim để yêu thương mọi người; mở miệng để nói lời động viên an ủi và mở đôi tay để chia sẻ cơm áo vẫt chất và phục vụ tha nhân…
2) Phúc thay!: Đây là tám điều kiện phải có để đạt được hạnh phúc Nước Trời:
+ Phúc thay người có tâm hồn nghèo khó: Đó là những người nghèo của cải vật chất, nghèo địa vị chức quyền, những người ý thức thân phận tội lỗi bất lực của mình để khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Người, biết khiêm hạ phục vụ cho người dưới noi gương Đức Giê-su.
+ Phúc thay ai hiền lành: Là người có lòng nhân từ, không lấy oán báo oán, nhẫn nhịn chịu đựng và tha thứ những xúc phạm của kẻ khác đối với mình.
+ Phúc thay ai sầu khổ: Là người gặp sự đau khổ mà không óan than, nhưng biết nhìn lên Chúa Giê-su trên thập giá để nhận biết giá trị thanh luyện và cứu độ của đau khổ, sẵn sàng chịu đựng những sự trái ý cực lòng để đền tội mình và tha nhân.
+ Phúc thay ai khao khát nên người công chính: Là người luôn hướng thượng, muốn nên hoàn thiện giống Chúa Cha trên trời như Đức Giê-su đã dạy: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
+ Phúc thay ai xót thương người: Là người biết mở rộng lòng để cảm thông với nỗi đau của người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc”. Có lòng quảng đại để chia sẻ tình thương và cơm áo cho những người đau khổ bất hạnh. Họ sẽ được Chúa đền đáp cân xứng sau này. “Vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được Thiên Chúa đong trả lại bằng chính cái đấu ấy”.
+ Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: Là người không tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, biết ăn ở ngay thẳng, thật thà, không giả dối, luôn hành động trong sáng. Chính nhờ sự trong sạch nơi thân xác và tâm hồn mà họ sẽ được chiêm ngưỡng thánh nhan Thiên Chúa trong Nước Trời mai sau.
+ Phúc thay ai xây dựng hòa bình: Là người luôn gieo rắc sự an vui hòa thuận mọi lúc và mọi nơi. Nhờ họ mà gia đình, xã hội và thế giới sẽ có hòa bình. Họ giải tỏa những hiểu lầm, giải gỡ những bất hòa tranh chấp, luôn nhìn mọi người bằng cặp mắt yêu thương và chan chứa tình người. Nhờ đó, họ xứng đáng mang danh hiệu là con của Thiên Chúa.
+ Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính: Là người chấp nhận bị sỉ nhục và chịu bách hại vì đức tin. Khi ấy họ sẽ được nên giống Chúa Giê-su. Những ai chấp nhận bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa Giê-su, cùng chịu đau khổ với Người, thì sẽ được tham phần vào sự phục sinh vinh quang của Người sau này.
4. THẢO LUẬN: 1-Hiện nay điều gì đang làm bạn vui vẻ hạnh phúc hay bị đau khổ bất hạnh? 2-Khi gặp một điều rủi ro trái ý, một thất bại ê chề, một điều không vui do kẻ khác gây ra, bạn thường phản ứng thế nào? 3-Để có được hạnh phúc thật của Chúa, bạn nên làm gì để biến rủi ro thành may mắn có Chúa, biến đau khổ thành niềm vui trong Chúa?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Trong tám mối phúc Chúa dạy hôm nay, con thấy mối phúc quan trọng nhất và bao gồm mọi mối phúc khác là “Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó”. Người có tâm hồn nghèo khó là người luôn tin cậy phó thác cuộc đời cho Chúa và cầu nguyện không ngừng; Là người ý thức sự nghèo khó bất lực của mình, nên không xem thường tha nhân và luôn phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Chúa; Là người luôn ăn ở hiền lành và khiêm nhường trong lòng noi gương Chúa khi xưa.
– Lạy Chúa. Người Mã Lai đã có câu châm ngôn so sánh các bậc vĩ nhân với những kẻ tiểu nhân như sau: “Cây lúa nào càng nặng trĩu hạt thì càng rạp sâu xuống sát mặt đất. Ngược lại: cây lúa nào càng nghểnh lên cao thì lại càng ít hạt”. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và nghèo khó. Cho chúng con biết “Nói ít làm nhiều”, luôn từ tốn, khiêm nhu và hòa nhã với mọi người. Nhờ đó, chúng con sẽ nên giống Chúa hơn, sẽ có Nước Trời làm phần gia nghiệp đời này và đời sau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.