CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY – NĂM C

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9
MỤC LỤC
1. Hại đất ……4
2. Học hỏi Phúc âm: CN 3 Mùa Chay ……..7
3. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 3 Mùa Chay …….10
4. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc ……..23
5. Tai họa và sám hối – ViKiNi ………27
6. Sám hối …….31
7. Sám hối. ……..33
8. Hãy trở về với tình thương của Thiên Chúa ………35
9. Mùa Chay – Mùa Đổi Mới ……..40
10. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng ………44
11. Hãy sám hối ………49
12. Tai họa và tội lỗi – Cố Lm. Hồng Phúc ………52
13. Trở về với Đấng Yêu Thương ……..54
14. Hãy sám hối – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái ……….58
15. Ai là tốt, ai là xấu? ………69
16. Sống mùa chay ……….72
17. Đổi mới cái nhìn – Thu Băng, CMR ……..74
18. Con đường sống ………76
19. Sám hối và canh tân – Lm. GB. Trần Văn Hào ……..79
20. Sám hối để cứu lấy mình ……..83
21. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng ……..86
22. Sám hối ………89
23. Lời kêu gọi hoán cải ……….93
24. Hãy sinh hoa trái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền ……..99
25. Lòng kiên nhẫn đầy xót thương – Dã Quỳ ……..102
26. Chúa Nhật 3 Mùa Chay ………105
27. Cởi dép ra – Dã Quỳ ……….108
28. Dấu chỉ thời đại. ……….110
29. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ……….112
30. Tôi thú nhận – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa ……….116
31. Cái nhìn nội tâm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt ……..120
32. Ăn năn sám hối – R. Veritas …….123
33. Chúa đợi ta ……..125
34. Mua thời gian – Lm. Vũ Đình Tường ………127
35. Cơ hội cuối cùng – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn ………130
36. Có sám hối, có sự sống ……..134
37. Ăn năn sám hối ……..150
38. Chúa Nhật 3 Mùa Chay ………152
39. Hai bài học từ hai bài đọc …….157
40. Dấu chỉ cảnh báo – AM Trần Bình An ………162
41. Sám hối ……….167
42. Phúc và họa – AM Trần Bình An ……….171
43. Hoán cải tâm hồn. ……….175
44. Hoán cải ……..179
45. Lời mời gọi sám hối. …….183
46. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio Veritas Asia …….186
47. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas Asia …….191
48. Sự sám hối, một điều kiện tất yếu ……..194
49. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc …….198
50. Suy niệm của Radio Veritas Asia ………201
51. Sám hối chân thành – Cao Huy Hoàng ………205
52. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio Trần Ngà ……..209
53. Người giết người – Lm. Anphong Trần Đức Phương ………211
54. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền. ………214
55. Tất cả mọi người cần phải hoán cải ……..217
56. Kiên nhẫn của tình yêu – Achille Degeest ………219
57. Mùa chay, mùa đổi mới. ……..221
58. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy …….225
59. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn ……..232
60. Thống hối – R. Gutzwiller ……..237
61. Lời mời gọi sám hối – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm ……240
62. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên ……..243
63. Đổi mới cách nhìn …….246
64. Sám hối ………248
65. Ăn năn sám hối ………251
66. Sám hối ……..254
67. Kiên nhẫn ……..258
68. Thay đổi cái nhìn ……..259
69. Dấu chỉ của thời đại ……..260
70. Tản mạn …….262
71. Kiên nhẫn – Trầm Thiên Thu ………264
72. Sám hối để được cứu chuộc ……..270
73. Suy niệm của JKN. ………274
74. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành ……..280
75. Sám hối vì chưa làm điều tốt ……..284
76. Hãy hoán cải vì Chúa giầu lòng xót thương …….289
77. Chúa mời gọi ăn năn hối cải. ……..293
78. Chúa yêu thương kẻ tội lỗi ……..296
79. Đâu là họa, đâu là tội? ……..299
80. Hoa trái thiêng liêng – Lm Trần Bình Trọng ……..302
81. Chú giải của Fiches Dominicales ……..304
82. Chú giải của Noel Quesson ………309
83. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt ………315
84. Chú giải của William Barclay ………321
85. Sám hối bằng các việc lành – Lm. Đan Vinh ………326
86. Hãy quay về người ơi! ………331
87. Sám hối thật lòng – Huệ Minh ……….335

1. Hại đất
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Điều làm chúng ta khó sám hối đó là cảm thấy mình ở trong tình trạng an toàn.
Đức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự, một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động. Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm khốc: những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Đền Thờ, mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp. Vào thời Đức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, bị Chúa phạt. Những người khác dễ nghĩ mình vô tội, vì còn được bình yên. Điều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
“Đừng tưởng…”: Đức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về mình. Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải. Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.
Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn. Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan. Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất, tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai, nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18), bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho người, ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội, mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao!
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa. Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: “Đã ba năm nay…” Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”.
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh: “Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”.
Nhưng đừng quên lời đe doạ cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”.
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi: đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Đức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa, là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban.
Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội, mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô trách nhiệm, tội không làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội này không? Bạn có thấy xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này không?
Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình trạng này hiện nay của nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành, những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để yêu mến mọi người. Amen.

2. Học hỏi Phúc âm: CN 3 Mùa Chay
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
CÂU HỎI
1. Đọc Lc 13, Chuyện gì đã xảy ra với một số người Galilê? xảy ra ở đâu?
2. Đọc Lc 13,2-3. Đức Giêsu nhắc nhở điều gì đối với những người kể lại chuyện đó?
3. Đọc Lc 13,4-5. Chuyện gì đã xảy ra cho mười tám người? Ở đâu? Lời nhắc nhở của Đức Giêsu có gì mới không?
4. Trồng cây vả trong vườn nho có phải là chuyện lạ không? Xem sách ngôn sứ Mi-kha 4,4; 1 Vua 5,5; Dacaria 3,10. Ở vườn địa đàng có trồng cây vả không?
5. “Ông ra tìm trái trên cây mà không thấy” (Lc 13,6): có mấy động từ trong câu này? Câu này được nhắc lại mấy lần trong bài Tin Mừng này? Đọc Lc 13,6-7 bạn thấy ông chủ mong đợi gì nơi ‎cây vả?
6. Ông chủ vườn nho có phải là người nóng tính và tàn ác không khi ông đòi chặt cây vả? Đọc Lc 3,8-9.
7. Anh làm vườn xin gì với ông chủ? Anh ta có niềm hy vọng không? Anh ta có quá bao dung không?
8. Theo bạn, cuối cùng ông chủ có chấp nhận lời yêu cầu của anh làm vườn không? Cuối cùng cây vả có ra trái không?
9. Sau khi đọc dụ ngôn cây vả, bạn hãy cho một định nghĩa về hối cải?
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn có thấy mình cũng là một cây vả được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc không? Hãy nhớ lại những hy vọng Chúa đặt nơi bạn và những thất vọng bạn đã có lần gây ra. Bạn nghĩ gì về trái của cây vả đời bạn, có nhiều không, có ngon không?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Có những người đến gặp Đức Giêsu để kể cho Ngài chuyện quan Philatô trộn máu của một số người Galilê với máu của các lễ vật họ dâng. Hành vi độc ác này rất có thể là hình phạt của Philatô đối với những người Galilê muốn nổi loạn chống lại đế quốc Rôma đang đô hộ Ítraen. Họ có thể bị giết ngay trong Đền thờ lúc họ đang dâng lễ vật, hay bị giết lúc họ đang đến Đền thờ để dâng lễ vật (Lc 13,1).
2. Đức Giêsu đã không kết án Philatô tàn ác, cũng không hô hào mọi người đứng lên khởi nghĩa chống lại đế quốc Rôma. Ngài cũng không bảo những người Galilê bị giết là những kẻ có tội nặng nhất nên mới phải chịu hình phạt kinh khủng như vậy (Lc 13,2). Đức Giêsu coi biến cố đau thương này như một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi dân Ítraen mau hối cải để khỏi chịu chung số phận (Lc 13,3).
3. Trong Lc 13,4-5, chính Đức Giêsu lại kể cho những người đến gặp mình một câu chuyện khác về tai nạn đã xảy ra cho 18 người, khi tháp ở Siloam gần Giêrusalem bất ngờ đổ xuống trên họ. Một lần nữa, Ngài lại khẳng định những người này không phải là những người tội lỗi nhất ở Giêrusalem. Rồi Ngài lại đưa ra lời cảnh báo tương tự, kêu gọi mọi người mau hối cải để khỏi chịu chung số phận như những nạn nhân đó.
Nói chung, qua hai biến cố đau lòng xảy ra, Đức Giêsu chỉ muốn nhắc nhở những người đang nghe Ngài đừng tự mãn là mình thánh thiện nên không bị Chúa phạt, nhưng hãy nhớ: tất cả đều là tội nhân, tất cả đều cần hối cải.
4. Cây nho và cây vả là hai loại cây ăn trái quen thuộc đối với dân Ítraen. Hai loại cây này trở nên biểu tượng cho cảnh thanh bình, thịnh vượng, an cư lạc nghiệp. Được ở hay được ngồi “dưới bóng cây nho, cây vả của mình” là điều ai cũng mơ ước (1 Vua 5,5; Mi-kha 4,4). Bởi đó chuyện trồng cây vả trong vườn nho là chuyện có thể xảy ra. Trong vườn địa đàng cũng có cây vả (Sáng thế 3,7).
5. Có ba động từ trong câu Lc 13,6: ra ( = đến), tìm, và thấy. Câu này được nhắc lại ở Lc 13,7. Đọc Lc 13,6-7 ta thấy ông chủ có một cây vả trồng trong vườn nho của ông. Ông trồng nó để lấy trái. Trái là điều ông mong muốn khi trồng cây vả này. Ta không rõ ông đã trồng nó từ khi nào, chỉ biết lẽ ra nó phải có trái từ ba năm qua, nhưng lại không có. Ba năm liền, ông đều đến cây vả và tìm trái của nó, nhưng không thấy trái nào.
6. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng. Ông chia sẻ nỗi thất vọng ấy với anh làm vườn và ra lệnh cho anh chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất (Lc 13, 7). Như thế ông chủ không hề nóng tính hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông muốn dành đất để làm việc khác.
7. Anh làm vườn còn chút hy vọng nơi cây vả và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cho nó cẩn thận, và chờ thêm một năm nữa, chỉ một năm thôi. Nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ (Lc 13, 8-9).
8. Bài Tin Mừng không cho ta biết ông chủ có chấp nhận lời anh làm vườn không. Ta cũng không biết rốt cục cây vả có ra trái như ông chủ mong đợi không. Nếu cây vả là tôi, thì chỉ tôi mới biết cây vả có ra trái hay không.
9. Hối cải là sinh trái (Lc 3,8-9). Sinh trái nhiều (Ga 15,2.5.8) và bền vững Ga 15,16).

3. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 3 Mùa Chay
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai đề tài định hướng cho sự chọn lựa của Bài Đọc I và Bài Đọc II. Đề tài thứ nhất về việc “Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài” (bản văn của sách Xuất Hành và dụ ngôn của Tin Mừng Lu-ca); đề tài thứ hai về “những ai tự phụ là mình công chính” (lời khuyên của thánh Phao-lô và lời cảnh giác của Chúa Giê-su).
Xh 3: 1-8a, 13-15
Thiên Chúa siêu việt mặc khải Danh Ngài, Ngài là Hữu Thể tuyệt đối, đồng thời cũng là Đấng động lòng trắc ẩn trước cảnh cùng khốn của dân Ngài và sai ông Mô-sê ra đi giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ.
1Cr 10: 1-6, 10-12
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô về đức khiêm tốn. Thâm chí những ai được ban cho những ơn trợ lực dồi dào hơn những người khác, như dân Do thái trong hoang địa và những Ki-tô hữu nhờ các bí tích, hãy coi chừng đừng để mình sa vào tội lỗi.
Lc 13: 1-9
Tin Mừng Lu-ca thuật lại hai sự cố nghiêm trọng: cuộc thảm sát của những người Ga-li-lê và một tai nạn thảm khóc gây nên cái chết của mười tám người Giu-đê. Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một bài học: Ngài tách biệt tai họa và tội lỗi, nhưng đối với những ai tin mình công chính, Ngài nhắc nhở cho họ biết rằng họ là những tội nhân, vì thế cái chết cũng đe dọa họ; tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ra công vun xới trước khi quyết định chặt cây nào không đơm bông kết trái.
BÀI ĐỌC I (Xh 3: 1-8a, 13-15)
Sách Xuất Hành được gọi là “Tin Mừng Cựu Ước”. “Tin Mừng” mà sách thuật là Tin Mừng về việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân Ngài để giải phóng dân khỏi miền đất nô lệ và dẫn đưa dân vào một xứ sở tốt đẹp hơn, tiên trưng một cuộc giải phóng khác và cuộc xuất hành khác về Nước Trời. Như vậy, sách Xuất Hành không chỉ là câu chuyện về “cuộc xuất hành” ra khỏi đất Ai-cập, nhưng còn câu chuyện về lộ trình tâm linh. Những móc điểm đầu tiên của lộ trình này là kêu gọi ông Mô-sê và mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa.
1. Hoàn cảnh của ông Mô-sê:
Khi ông Mô-sê nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa, thì ông đã rời bỏ đất Ai-cập từ nhiều năm rồi. Sau khi đã lớn lên trong cung đình Pha-ra-on và đã nhận được một nền giáo dục ưu việt, ông đã ý thức về những điều kiện sống cơ cực mà đồng bào ông phải chịu. Một ngày kia thấy một người Ai-cập đánh đập một người Do thái, ông Mô-sê đã xông vào người Ai-cập, giết chết và vùi thây người ấy trong cát. Sự việc đã bị bại lộ, ông Mô-sê sợ bị trả thù nên chạy trốn và lánh nạn tại dân Ma-đi-an, dân du mục và sống nghề chăn nuôi. Ở đó ông đã cưới một trong bảy cô con gái của thầy tư tế Ma-đi-an, tên là Git-rô.
Như vậy, ông Mô-sê đã sống lại cuộc sống du mục của các tổ phụ. Đối với ông Mô-sê, thời gian tha phương này là thời chuẩn bị tâm lý cho cuộc gặp gỡ của ông với vị Thiên Chúa của cha ông mình. Bấy giờ, ông đang chăn đàn gia súc cho bố vợ mình. Khi mùa hè tới, ông đi tìm những đồng cỏ miền núi xanh tươi hơn. Vì thế, ông dẫn đàn vật qua bên kia sa mạc, đến “núi của Thiên Chúa”. Chính ở nơi đó mà Thiên Chúa sẽ yêu cầu ông trở thành vị mục tử của dân Ngài.
2. Ơn gọi của ông Mô-sê:
Thiên Chúa tỏ mình ra trong cảnh trí “cây cao bóng cả” là một nét đặc trưng rất kinh điển ở miền Cận Đông, ở Ấn Độ, cũng như ở Hy-lạp cổ xưa. Vì cây cối đâm chồi nẩy lộc, thay cành đổi lá theo mùa là biểu tượng sự sống, nhưng nhất là, cây cao bóng cả tạo nên bầu khí uy nghiêm, linh thánh. Thánh ký đã loại bỏ hình tượng này nhờ đến ngọn lửa. Thiên Chúa Ít-ra-en là Đấng siêu việt không nhận bất kỳ hình tượng vật chất nào, nhưng chỉ chấp nhận tỏ mình ra qua ánh sáng (đám mây chiếu sáng) hay ngọn lửa, như trong câu chuyện này ngọn lửa cháy bừng nhưng không thiêu hủy bụi cây diễn tả tính siêu việt của Thiên Chúa.
Hoạt cảnh tiếp theo nêu bật hai nét đặc trưng bất khả phân của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng rất gần gũi với con người: Ngài chuyện trò rất thân tình với ông Mô-sê, nhưng đồng thời cũng là Đấng siêu việt: có một khoảng cách bất khả vượt qua giữa Thiên Chúa và con người: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Thiên Chúa lại còn thổ lộ tấm lòng từ bi nhân ái của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta… Ta đã nghe tiếng rên siết của chúng… Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu…”. Vì thế, Thiên Chúa trao gởi cho ông Mô-sê sứ mạng giải phóng dân Ngài.
3. Mặc khải Danh Thiên Chúa:
Thiên Chúa nói trực tiếp với ông Mô-sê: Ngài tự giới thiệu mình. Ngài không là một vị thần xa lạ: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập”.
Ông Mô-sê chấp nhận sứ mạng được giao phó cho ông, nhưng nài xin Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông để ông có thể tiện bề ăn nói với dân chúng. Lúc đó, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê. Theo văn hóa Do thái, tên chính là người ấy. Danh Thiên Chúa này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo cấu trúc của ngôn ngữ Híp-ri, Danh Thiên Chúa được dịch theo sát từ, hoặc ở thì hiện tại: “Ta là Đấng Ta là”, hay ở thì tương lai: “Ta là Đấng Ta sẽ là”. Dù được hiểu ở hiện tại hay tương lai, điều cốt yếu ở nơi Danh Thiên Chúa chính là động từ “là”, như câu tiếp theo chứng thực điều đó: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng là sai tôi đến với anh em”: “Đấng là” đóng chức năng chủ từ của câu.
Chính vì thế, thánh Tô-ma A-qui-nô đã giải thích Danh Thiên Chúa này theo nghĩa Hữu Thể của triết gia Hy lạp, Aristos, “Ta là Hữu Thể”, nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng thường hằng, bất biến. Trong các bản dịch Kinh Thánh Việt Nam, mỗi dịch giả đề nghị hiểu và dịch theo cách riêng của mình, như cha Nguyễn Thế Thuấn: “Ta có sao Ta có vậy!”, hay bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Ta là Đấng Hiện Hữu”, hay Bản Dịch dùng trong Phụng Vụ: “Ta là Đấng Hằng Hữu”. Dù những cách dịch khác nhau này, chúng ta vẫn gặp thấy âm hưởng của cách hiểu tên Thiên Chúa theo Hữu Thể của thánh Tô-ma A-qui-nô. Việc hiểu Danh Thiên Chúa theo triết học Hy lạp này đem đến một sự hiểu biết phong phú về Danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải hiện đại bác bỏ cách giải thích này vì hai lý do: Trước hết, động từ “là” ở thể “chưa hoàn thành” nên không diễn tả một hành động hoàn thành, nhưng một hành động đang tiếp diễn, chưa chấm dứt. Thứ nữa, tính chất niềm tin của dân Ít-ra-en thì thực tiển, tích cực và năng động. Vì thế, quan niệm siêu hình về một Hữu Thể tuyệt đối, bất biến, tự hữu thì hoàn toàn xa lạ với niềm tin của dân Ít-ra-en. Từ những nhận xét trên, các nhà chú giải hiện đại đề nghị hiểu Danh Thiên Chúa theo hai cách như sau:
A- Danh Thiên Chúa bất khả tiết lộ:
Lời mặc khải “Ta là Đấng Ta là” hay “Ta là Đấng Ta sẽ là” thì bí ẩn đủ để người ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thật sự muốn trao ban Danh của Ngài, vì theo tư tưởng sê-mít, biết tên của một vị thần linh nào đó, chính là có quyền làm chủ vị thần ấy, có quyền điều khiển sai khiến vị thần ấy, như việc gọi tên của vị thần linh trong các câu thần chú, như vậy, câu thần chú mới hiệu nghiệm.
Vì thế, trong câu chuyện của chúng ta, Thiên Chúa không thể trao ban Danh Ngài vào tay của con người để con người có quyền điều khiển sai khiến Ngài; hơn nữa, Ngài là một Mầu Nhiệm vô phương dò thấu, không ai có thể hiểu được bản chất của Thiên Chúa. Cách giải thích này được ủng hộ bởi các chuyện tích Kinh Thánh, như chuyện tổ phụ Gia-cóp nài xin Thiên Chúa: “Xin cho tôi biết tên Ngài” (St 32: 30), nhưng bị từ chối; hay như chuyện ông Ma-nô-ác nài xin cho biết tên vị sứ giả của Thiên Chúa, thì được trả lời: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm” (Tl 13: 17-18). Vì thế, theo văn mạch của câu chuyện chúng ta, khi Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Ta là”, có nghĩa, “Thiên Chúa là Thiên Chúa”, qua đó Thiên Chúa muốn nói rằng: “chuyện ấy có liên quan gì đến ngươi” hay “đó không phải nỗi bận lòng của ngươi”.
B- Danh Thiên Chúa là một Mặc Khải tiệm tiến:
Tuy nhiên, cách giải thích trên gặp phải một sự khó khăn. Theo văn mạch, rõ ràng Thiên Chúa chấp nhận mặc khải Danh Ngài. Việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong một nền văn hóa theo đó tên đồng nghĩa với người mang tên ấy, thì không thể cho rằng Thiên Chúa chủ ý thoái thác không cho biết tên mình, như nhận định của A. B. Davidson: “Mặc khải mà Thiên Chúa ban cho về chính mình là mặc khải về chính Ngài như Ngài thật sự là như vậy, dù Ngài không thể mặc khải chính mình cho con người một cách tròn đầy được” (God in the OT; in: Dictionary of the Bible, vol. 2, 197). Hơn nữa, ở cuối câu chuyện, Thiên Chúa còn căn dặn: “Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”.
Vì thế, Davidson mời gọi chúng ta chú ý đến hai đặc tính của động từ “là” liên quan đến tên Thiên Chúa được ban cho trong câu chuyện bụi gai cháy đỏ này. Trước hết, động từ này không có nghĩa “là” về phương diện hữu thể, nhưng về phương diện “hiện diện”. Thứ nữa, hình thức chưa hoàn thành của động từ này không có nghĩa ở thì hiện tại nhưng ở thì tương lai. Từ nhận xét này, ông giải thích ý nghĩa của tên Thiên Chúa như sau: “Xem ra rõ ràng trong quan điểm của người viết, ‘Ta sẽ là’ và ‘Đấng sẽ là’ thì như nhau: ‘Ta sẽ là’ khi Thiên Chúa nói về chính mình, và ‘Đấng sẽ là’ khi Thiên Chúa được những người khác nói về Ngài. Điều Ngài sẽ là để lại không được diễn tả – Ngài sẽ ở (“là”) với dân Ngài như Đấng Trợ Giúp, Đấng Quyền Năng và Đấng Giải Thoát” (God in the OT, 199).
Như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê, Ngài nói về chính mình: “Ta là Đấng Ta sẽ là”; nhưng khi Ngài bảo ông Mô-sê nói cho dân Ít-ra-en về Ngài, Ngài nói ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là”. Đối với ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa trực tiếp mặc khải Danh Ngài, tên này có nghĩa: “Ta sẽ ở với ngươi” (3: 12). Còn đối với dân Ít-ra-en, mà ông Mô-sê có sứ mạng truyền đạt mặc khải này, tên Ngài có nghĩa “Đấng sẽ ở với họ”. Trong cả hai trường hợp, động từ “là” hay “ở” nhấn mạnh không trên “sự hiện hữu” nhưng trên “sự hiện diện” của Thiên Chúa với ông Mô-sê và với dân Ít-ra-en. Lúc đó, “Ta là Đấng Ta sẽ là” là một lời khẳng định về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ta thật sự là Đấng hiện diện”, nghĩa là “Ta thật sự là Đấng ở cùng”.
Đồng thời, Danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Ta sẽ là” được hiểu như “điều chưa xác định”. Điều chưa xác định này chứa đựng những khả thể vô hạn tùy theo hoàn cảnh. Danh Thiên Chúa được mặc khải trong câu chuyện này đã không thể được bất kỳ thế hệ nào của Ít-ra-en hiểu trọn vẹn, vì thế Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục bày tỏ tất cả những gì Ngài sẽ là đối với dân Ngài: “Thiên Chúa sẽ là điều mà Ngài sẽ chứng tỏ Ngài là cho thế hệ này đến thế hệ khác; mỗi một thời đại sẽ khám phá những phẩm tính mới về Sự Hiện Diện của Ngài” (C. Westminster, The book of Exodus, London: 1908, 22). Chúng ta gặp thấy Danh Thiên Chúa như một sự hiện diện ở nơi lời giải thích mang tính hiện sinh của Is 52: 6: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ nhận biết danh Ta, nhận biết rằng: chính Ta là Đấng đã phán: ‘Này Ta đây!’”.
Nói tóm lại, Danh Thiên Chúa thật sự được mặc khải nhưng đồng thời được phủ che. Hai chiều kích của việc mặc khải Danh Thiên Chúa chỉ cho thấy một chuyển động tích cực và năng động không chỉ về phía Thiên Chúa, nhưng cả về phía dân của Ngài. Về phần mình, Thiên Chúa sẽ vẫn tiếp tục chứng tỏ cho thấy Ngài hiện diện cùng với dân Ngài bằng những hành động: Đấng Giải Thoát ở bên Ai-cập, Đấng Bảo Vệ trong hoang địa… Còn về phía dân Ngài, “kinh nghiệm từng trải của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa trong lịch sử của mình sẽ khẳng định ý nghĩa của Danh Thiên Chúa này. Dân Ít-ra-en hiểu lịch sử của mình từ Danh Thiên Chúa này, cũng như hiểu Danh Thiên Chúa từ lịch sử của mình” (W. Johnstone, Exodus, Old Testament Guide, 104).
Trong Tin Mừng Gioan, khi công bố: “Tôi là”, Đức Giê-su ngầm quy chiếu đến câu chuyện mặc khải Danh Thiên Chúa và áp dụng Danh Thiên Chúa vào chính mình: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Là” (Ga 8: 58), hay “Nếu các ông không tin là Tôi Là, các ông sẽ mang tội mình mà chết” (Ga 8: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, ngay từ đầu Tin Mừng, Hài Nhi Giê-su sẽ được gọi là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và cuối Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 1-6, 10-12)
Thánh Phao-lô viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô có lẽ vào mùa xuân năm 55, vào dịp những xáo trộn và chia rẽ làm rối loạn Giáo Đoàn non trẻ này (được thiết lập vào năm 50-52). Mặt khác, các tín hữu Cô-rin-tô đã nêu lên cho thánh nhân một loạt câu hỏi tinh tế, thuộc lãnh vực luân lý hay có liên quan đến cuộc sống thường ngày giữa môi trường ngoại giáo.
1. Bối cảnh:
Thánh nhân vừa mới trả lời một trong những câu hỏi mà họ nêu lên cho ngài. Những tín hữu này đã ăn thịt cúng tại nhà bà con thân thuộc ngoại giáo hay tại nhà mình khi mua thịt cúng bán ngoài chợ về. Thánh Phao-lô đã gợi lên sự tự do của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu có quyền ăn bất kỳ đồ cúng nào, vì mọi vật đều được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho con người hưởng dùng; hơn nữa, các thần linh chỉ là ngẫu tượng. Tuy nhiên, sự tự do này bị hạn chế do bởi việc tôn trọng tha nhân và đức ái huynh đệ. Như vậy, “những người mạnh” phải tránh cách hành xử có thể làm thương tổn hay gây gương xấu cho “những kẻ yếu”.
Đối với “những người mạnh”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng cuộc sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng; ngay cả những người mạnh nhất khó tránh khỏi những yếu nhược. Lịch sử cứu độ minh chứng điều này.
2. Ôn cố:
Xưa kia dân Do thái trong hoang địa đã được hưởng những trợ giúp linh thiêng tuyệt vời khôn sánh, tiên trưng các bí tích của Ki-tô giáo; ấy vậy họ đã không đương đầu nổi trước những thử thách thờ ngẫu tượng và ham muốn của cải trần thế. Họ đã phải vùi thây trong hoang địa mà không được vào Đất Hứa (x. Ds 14: 22). Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học răn dạy chúng ta.
Thánh Phao-lô sánh ví cuộc vượt qua Biển Đỏ, dưới cột mây che chở, với phép rửa Ki-tô giáo. Ông Mô-sê tiên trưng Đức Ki-tô. Toàn dân Do thái “cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê”, như dân Ki-tô giáo cùng được chịu phép rửa trong nước và Thánh Thần, để theo Đức Ki-tô.
Tiếp đó, thánh nhân đồng hóa bánh man-na, dù thánh nhân không nêu đích danh, với thần lương, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể, dù được gợi lên nhưng cũng không được nêu tên. Vả lại, bánh man-na đã được truyền thống Do thái lý tưởng hóa rồi. Sách Xuất Hành nói rằng Đức Chúa cho bánh từ trời mưa xuống (Xh 16: 4). Thánh Vịnh 78 gợi lên bánh man-na là “bánh kẻ mạnh” (Tv 78: 25) mà Bản Vulgata đã có chủ ý dịch “bánh thiên thần”, vân vân.
Một đặc quyền khác mà dân Do thái đã được hưởng: “Tất cả cùng uống một thức uống thần thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến một giai thoại nổi tiếng theo đó tảng đá, từ tảng đá đó ông Mô-sê đã làm cho nước hằng sống (“nước hằng sống” là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ nước mát trong chảy ra tận nguồn) phun trào, đã đồng hành với dân Do thái trong suốt cuộc hành trình băng qua hoang địa.
Nước hằng sống phun trào từ tảng đá này không gì khác hơn là dấu chỉ về Đức Ki-tô tiền hữu, hiện diện ở giữa dân Ngài. Việc đối chiếu bạo dạn này chắc chắn được gợi hứng từ hình tượng truyền thống, đặc biệt được các Thánh Vịnh chuyển tải, theo đó Đức Chúa thường được công bố là “tảng đá của Ít-ra-en”.
3. Tri tân:
Thánh Phao-lô rút ra từ những hình ảnh tiên trưng này một lời cảnh báo nghiêm khắc lên án tính tự hào tự phụ. Các Ki-tô hữu có những nguồn trợ lực còn cao cả hơn những nguồn trợ lực mà dân Do thái đã được hưởng. “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”, những người đang tiến gần đến Đất Hứa đích thật. Nếu muốn được vào trong Đất Hứa, thì hãy cảnh giác, những ai cứ tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
TIN MỪNG (Lc 13: 1-9)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ một phân đoạn dài được gọi là “cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su” (9: 51-18: 14). Phân đoạn này được đặt trong bối cảnh Chúa Giê-su đang trên đường tiến đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài; lời dạy của Ngài càng trở nên nghiêm trọng và khẩn thiết hơn. Giờ đã đến để biết đọc “các dấu chỉ thời đại” (12: 54-56), hãy mau ăn năn sám hối kẻo không còn kịp nữa (12: 57-58). Những sự kiện mang tính thời sự tự chúng có thể dâng hiến một cơ hội thuận lợi để mà trầm tư nghĩ ngợi.
1. Chúa Giê-su bác bỏ mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi:
Vài người đến thuật lại cho Chúa Giê-su một sự cố bi thảm: những người Ga-li-lê đến dâng hy lễ ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã bị thảm sát theo lệnh tổng trấn Phi-la-tô.
Sự kiện này không được thuật lại ở nơi khác, nhưng phù hợp với những gì mà sử gia Do thái, F. Josephus, nói về nhiều vụ trả thù đẩm máu theo lệnh quan tổng trấn Rô-ma này (Antiquités juives, 18, 3, 2 và 4: 1). Như chúng ta biết, người Ga-li-lê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến nhóm Nhiệt Thành, một đảng phái tôn giáo có xu hướng chính trị, họ giải thích trào lưu Mê-si-a theo ý nghĩa chính trị và sẵn sàng giành lại nền độc lập cho dân tộc mình, ngay cả bằng bạo động. Nhóm này tự ý chiêu mộ thành viên của mình ở Ga-li-lê nên thường được gọi là “những người Ga-li-lê”. Sự hiện diện của họ ở Giê-ru-sa-lem khích động thái độ bài chính quyền chiếm đóng. Những người thuật lại cho Chúa Giê-su sự cố này, chắc chắn muốn được nghe từ miệng Ngài sự công phẩn chống lại chính quyền chiếm đóng. Nhưng Chúa Giê-su tức khắc đặt mình trên lãnh vực khác.
Theo quan niệm phổ biến vào thời đó, tai họa hay bệnh tật là những án phạt của tội lỗi (x. Ga 9: 2). Vì thế, những ai thoát khỏi cuộc thảm sát này xác tín rằng mình vô tội, là “công chính”. Chúa Giê-su cực lực tố cáo thái độ này. Chắc chắn những người bị thảm sát không phải là không có tội, nhưng đừng nghĩ rằng họ tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác. Đối với những người đối thoại này, Ngài tuyên bố rằng họ có tội như những người Ga-li-lê xấu số kia; đoạn trong một kết luận xem ra có vẻ mâu thuẫn, Ngài nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết hết như vậy”.
Để khuyến khích ăn năn sám hối, Chúa Giê-su đưa ra thêm một ví dụ khác nữa, lần này liên quan đến những người Giu-đê. Mười tám người Giu-đê bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Biến cố này chắc hẳn vừa mới xảy ra đây. Chúa Giê-su quả quyết không phải những người Giu-đê xấu số này tội lỗi hơn những người Giu-đê tội lỗi khác, vì thế Ngài lập lại lời kêu gọi: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết y hệt như vậy”.
2. Chúa Giê-su mời gọi ăn năn sám hối:
Làm thế nào giải thích rằng Chúa Giê-su vừa mới từ chối ý tưởng theo đó có những mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi, lại ngay tức khắc đe dọa thính giả của Ngài về tội lỗi? Viễn cảnh chung của các chương 12 và 13 này là viễn cảnh của ngày chung thẩm: phải sám hối nếu muốn thoát khỏi án phạt. Thế nên, người ta nghĩ rằng cái chết thảm hại mà Chúa Giê-su cảnh giác những người đối thoại của Ngài, thì thuộc trật tự tinh thần: mất sự sống trong Nước Trời.
Tuy nhiên, trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su nhiều lần nghĩ đến dân của Ngài, đa số trong họ đã không thể nhận ra Ngài; Ngài than trách thành thánh Giê-ru-sa-lem vì “đã giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến với họ” (Lc 13: 34). Trong lời kêu gọi khẩn thiết hãy sám hối trước khi đã quá muộn, không phải chúng ta cũng được mời gọi gẫm suy lời cảnh báo của Chúa Giê-su về sự sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sao? “Nếu các ngươi không chịu hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị chết y như vậy”.
3. Lòng nhẫn nại của Thiên Chúa:
Thánh Lu-ca là thánh ký về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngay sau những lời nghiêm khắc của Chúa Giê-su, thánh ký đặt dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này khác với dụ ngôn cây vả bị nguyền rủa khô héo mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu tường thuật, theo đó, dân Ít-ra-en đã không sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước; vì thế dân này chẳng còn gì hơn là cây vả chết khô (Mc 11: 12-14, 20-25; Mt 21: 18-22). Trái lại, dụ ngôn cây vả không sinh trái của thánh Lu-ca gợi lên lòng nhẫn nại của Thiên Chúa. Chắc chắn dân Ít-ra-en vẫn còn ẩn hiện ở nơi dụ ngôn này. Cựu Ước đã thường sánh ví dân Chúa với một cây ăn trái mà Chúa chọn và ân cần chăm sóc.
Nông dân miền Pa-lét-tin thường trồng dặm những cây ăn trái trong vườn nho của mình, nhất là những cây vả, vì đất trồng nho rất thích hợp với loại cây này. Trong dụ ngôn của thánh Lu-ca, ông chủ vườn nói với người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”. Người làm vườn xin một thời hạn cuối cùng để mình có thể ra công vun xới và bón phân cho nó. May ra sang năm nó sẽ sinh hoa kết trái, nếu không thì chặt nó đi cũng không muộn.
Ai cũng thấy ở nơi việc kể ra “ba năm không sinh trái” này một ám chỉ đến ba năm thi hành sứ vụ của Đức Giê-su mà lòng dân Ít-ra-en vẫn trơ như đá. Nhưng tất cả những người tội lỗi không liên quan đến dụ ngôn này sao? Bên kia dân Ít-ra-en cứng tin, chắc chắn thánh ký nghĩ đến dân mới của Chúa Ki-tô, dân mà Chúa Con là Đấng Trung Gian, Ngài không ngớt cầu bầu cho dân mình bên cạnh Chúa Cha, Ngài phân phát muôn vàn ân sủng, Ngài làm hết sức mình để dẫn đưa tội nhân đến ơn cứu độ.

4. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
NẾU KHÔNG CHỊU SÁM HỐI, CÁC ÔNG CŨNG SẼ CHẾT Y NHƯ VẬY
Kinh Thánh là một tiếng gọi liên lỉ, gọi con người trở về với Chúa vì đã lìa xa Ngài. Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót và không thể bỏ con người hư mất trong tội, vì Ngài đã tạo nên và yêu thương họ. Dù họ có phản bội, Ngài vẫn không bỏ rơi họ. Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người thất tín.
Mùa Chay Thánh là thời thuận tiện, mời gọi chúng ta trở về với Chúa là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.
Thiên Chúa phải sai Con Một của Người đến trần gian để cứu chúng ta, chứng tỏ tình yêu vô bờ của Người, Nhưng Người không thể cứu chúng ta mà không có chúng ta. Người đã dùng mọi phương tiện để kêu mời chúng ta trở về với Ngài, đến nỗi ban Người Con Một cho chúng ta. Như thế, chúng ta có thấy được lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta không?
Dân Do Thái được xem như một dân cứng đầu cứng cổ nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi, kêu mời chúng trở về. Qua bao nhiêu thế kỷ, dân Do Thái vẫn luôn sa đi ngã lại trong tội ác, Người sai các tiên tri đến. Trước hết là Môsê. Chính Chúa bảo ông nói với dân: “Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacób sai tôi đến với anh em…” Chính Thiên Chúa chứ không ai khác đã sai Môsê đến cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa. Các tiên tri khác như Amốt, Hôsê, Isaia hay Giêrêmia đều kêu gọi mọi người trở về.
Cũng trong Kinh Thánh, chúng ta thấy được bao nhiêu gương lành của những người tội lỗi ăn năn sám hối và thật tình trở về với Chúa. Dân thành Ninivê nghe lời tiên tri Giôna đã ăn chay và trở về với Chúa. Vua Đavít, sau khi đã nặng nề lỗi phạm, đã nghe theo lời tiên tri Nathan đã thật lòng sám hối và được thứ tha.
Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai đã kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Sứ mệnh của Ngài là cứu vớt những kẻ tội lỗi. Suốt mấy năm rao giảng Tin Mừng, Ngài không mỏi mệt kêu gọi họ.
Hôm nay, Giáo hội nhắc lại lời mời gọi ấy khẩn thiết hơn: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết”. Ngài cho thấy: những người bị giết chết hay những người chết vì tai nạn, không phải vì họ tội lỗi, nhưng những người cứng lòng không ăn năn sám hối mới đáng chết. Đây không chỉ là một lời kêu gọi mà một khẳng định cứng rắn cho chúng ta.
Chúa Giêsu không những kêu gọi mà chính Ngài đã đến kết thân với những kẻ tội lỗi để giúp họ trở về, Ngài đã bị đám Pharisêu khinh miệt vì đã lân la với hạng tội lỗi, ăn nhậu với chúng. Chúng ta có thể thấy kết quả của những cố gắng đó. Chúng ta quá quen với những khuôn mặt: Mađalêna, Giakêu, Matthêu, Phêrô, Phaolô.
Những người đó là ai? Là những người đầu tiên đã lỡ lầm, yếu đuối, nhưng họ đã trở về. Họ đã có can đảm dứt khoát với đời sống tội lỗi và đã nên thánh.
Trong lịch sử Giáo hội đã có một danh sách dài những đấng thánh từ xa trở về mà chúng ta cũng có quen biết một số: thánh Âu-Tinh, chân phước Charles de Foucauld, người sáng lập dòng tiểu đệ và biết bao nhiêu người khác… những người danh tiếng thế giới đã buông bỏ thế gian để trở về trong chuồng chiên của Chúa.
Còn chúng ta? Chúng ta có cần phải ăn năn sám hối không? Câu hỏi này xem ra thừa thãi nhưng rất quan trọng, vì trong chúng ta, nhiều người tưởng rằng mình không cần ăn năn sám hối vì không có tội gì quan trọng. Quan niệm như thế chứng tỏ họ không hiểu biết gì về cuộc sống tâm hồn, họ thuộc về hạng người không tốt cũng không xấu, không nóng cũng không lạnh, ươn ươn hâm hẩm… Và Chúa nói trong Sách Khải Huyền “Hạng người đó Ta sẽ mửa họ ra…”
Không ai trong chúng ta trọn lành cả, và những người tưởng mình không có tội gì lại là những người chất chứa nhiều tội mà không hay. Chúng tôi xin đan cử một ví dụ dễ hiểu: Có lẽ chúng ta đã sống kề cận những người xem ra đạo đức, nhưng chỉ có một điều không thích hợp đó là tính kiêu căng. Những người đó không bao giờ biết mình kiêu căng. Và chính những người này không bao giờ cảm thấy cần phải ăn năn sám hối. Và như thế họ càng lún sâu vào tính xấu của mình mà không hay biết.
Ai trong chúng ta không cần trở về với Chúa? Vì không nhiều thì ít, chúng ta vẫn còn những tật xấu, lắm khi là những tật xấu làm hại cả những người chung quanh mà không hay biết.
Ai là những người cảm thấy mình tội lỗi nhiều nhất? Chính là các thánh. Khi chúng ta mặc một chiếc áo trắng tinh, thì chỉ cần một vết mực nhỏ chúng ta cũng thấy. Một người mặc một chiếc áo bẩn thì dù có bôi thêm những vết bùn to cũng không thấy bẩn thêm. Nhưng thánh Phaolô cảnh báo chúng ta: “Ai thấy mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã”.
Tại sao Giuđa sống với Chúa một thời gian khá dài, ít nữa là ba năm, nghe Ngài giảng dạy hằng ngày, nhìn thấy nếp sống thánh thiện của Ngài mà lại ham tiền đến nỗi bán Thầy? Vì ông không bao giờ cảm thấy cần ăn năn sám hối. Lời cảnh báo thật mạnh mẽ ngày hôm nay chúng ta đã nghe: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết” có làm cho chúng ta suy nghĩ không?
Ăn năn sám hối để làm gì?
Để khỏi chết thôi sao? Hay để được thứ tha mà thôi? Ăn năn sám hối để trở nên con người mới, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta phải nên thánh, nên người hoàn thiện để khi Chúa đến, Chúa thấy chúng ta không gì đáng trách, tinh tuyền và thánh thiện.
Mùa chay chính là lúc chúng ta bắt đầu lại một giai đoạn mới trong cuộc sống. Chúng ta phải tự giải thoát khỏi mọi xiềng xích tội lỗi để sống như con cái Thiên Chúa. Điều Chúa đang mong chờ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu không để chúng ta đi một mình trên con đường về Nước Trời. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài biết chúng ta được dựng nên bằng gì và thân phận tro bụi của chúng ta không thể tự mình vươn lên đỉnh cao thánh thiện, vì thế, Ngài vẫn trung thành trong mối tình của Ngài. Ngài vẫn nuôi chúng ta bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Chúng ta cần thứ của ăn thần linh này để sống, để đi nốt quãng đời còn lại của chúng ta giữa muôn vàn gian khó. Chúng ta hãy vững tin vào tình yêu viên mãn của Ngài và cứ tiếp tục bước tới.

5. Tai họa và sám hối – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Phải có cái nhìn thấu suốt của Đức Giêsu mới thấy sức nặng của câu nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng phải chết hết như vậy”
1/ Tai họa: Khi mấy người kể lại cho Đức Giêsu về 2 tai họa chết người ở Giêrusalem, thì Đức Giêsu đã nhấn mạnh câu nói trên hai lần:
Tai họa thứ nhất: Quan Philatô ra lệnh treo hình Hoàng đế La mã từ dinh Hêrôđê đến đền thánh Giêrusalem. Quan muốn thay thế thờ Thiên Chúa bằng thờ Hoàng đế. Người Do Thái thấy đó là một xúc phạm ghê gớm, nó làm ô uế đền thờ thánh thiêng bằng hình tượng ngoại giáo. Họ đã nổi xung biểu tình cuồng nhiệt, bạo động chống lại đế quốc. Philatô cho lính mặc giả dạng Do Thái, giấu võ khí trong áo choàng, len lỏi trà trộn vào đám biểu tình để đánh đập tàn sát dã man. Một số người Galilê đã bị chết khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Thảm họa thứ hai: Tháp Silôê, một lô cốt xây cao như cây tháp để canh ngoại biên dân cư Silôê, nơi đó có một hồ nước từ suối Silôê chảy tới. Đột nhiên cây tháp bị đổ đè chết 18 người.
2/ Nguyên nhân: Trước những tai họa như thế, người ta thường đổ lỗi cho những nguyên nhân vu vơ, người Việt Nam thường nói là tại số, tại trời định, người Công giáo cũng gán cho Chúa định, người Do Thái lại kết tội những kẻ bị tai họa đó là do tội họ, họ có tội nên bị phạt.
Kết án như thế là đổ dầu vào lửa, kẻ bị tai nạn đã bị đau khổ, lại bị đau khổ thêm. Kẻ đổ lỗi tại số, tại trời, tại Chúa, đó là những kẻ kém lòng tin vào lòng thương yêu của Thiên Chúa.
a) Nguyên nhân sâu xa làm cho những người chết trong tai họa là sự xung đột giữa ý thức hệ tôn giáo và ý thức hệ chính trị. Quân Rôma tôn thờ Hoàng đế của họ như một vị thần trên hết và bắt các dân trong Đế quốc phải tôn thờ Hoàng đế để thống trị chư dân. Do Thái quá cuồng tín, họ độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa, dân ngoại không được phép đến gần Thiên Chúa, ai vào đền thờ là làm ô uế đền thờ, sẽ bị dân Do Thái đánh chết, như trường hợp Thánh Phaolô dẫn mấy người Ephesô vào đền thờ để tẩy uế. Thế mà “tất cả thành sôi động, dân chúng đổ xô chạy đến, họ túm lấy Phaolô, lôi ông ra khỏi đền thờ, đóng của lại và tìm cách giết ông thì quân lính nghe tin loạn lớn khắp cả Giêrusalem, lập tức họ kéo đến xông vào đám dân. Dân chúng thấy viên đại úy đến thì thôi đánh đập Phaolô, bấy giờ lính bắt Phaolô…” (Cv. 21, 30-36)
Như vậy, chính sự cuồng tín tôn giáo và chính trị của xã hội loài người đã xúi giục những người Galilê nổi loạn và bị thảm sát, đó là tội chung của người thời đại đó.
b) Nguyên nhân gây ra tai nạn tháp Silôê đổ xuống đè chết 18 người cũng do các tệ đoan con người, từ những người sản xuất vật liệu kém chất lượng đến những con buôn giả dối, từ người xây cất đến những kẻ đốc công vô lương tâm. Đạo lý suy đồi đó là lý do khiến cho bao nhiêu công trình sụp đổ, chết người, chứ không phải là tại tội các nạn nhân.
3/ Sám hối và được cứu thoát: Đức Giêsu không vạch lá tìm sâu, không tìm những nguyên nhân tôn giáo, chính trị, kỹ thuật, càng không được kết tội ai. Nhưng trước những tai họa đó, Đức Giêsu nhấn mạnh cho chúng ta phải lo nhất là đến cái chết đời đời.
Điều quan trọng phải lo là xét tội mình, phải đấm ngực mình để sám hối, để cải thiện chính mình. Ai cũng lo sám hối và cải thiện nên người tốt thì việc mới tốt, xã hội tốt, tôn giáo tốt, chính trị tốt và mọi thứ văn hóa, kỹ thuật khoa học đều tốt, sẽ không còn nổi loạn bắt bớ, tranh đấu, chiến tranh chém giết nữa. Không lạ gì Phật giáo lấy diệt dục con người là nền tảng tự giác, Nho giáo lấy tu thân vi bổn để tề gia, trị quốc bình thiên hạ.
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa kiên nhẫn làm cho Maisen sám hối, bỏ tính nhát sợ chạy trốn vâng lời Thiên Chúa nhận lấy trách nhiệm đi thương lượng với vua Pharaon, còn Pharaon trước bao nhiêu tai họa vẫn cứng lòng. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi Pharaon sám hối, rút cuộc ông đã sám hối, mềm lòng ưng thuận cho dân Israel ra khỏi Ai Cập.
Thiên Chúa còn kiên nhẫn hơn nữa đối với dân Israel, mỗi khi họ gặp sức ép của Pharaon, họ đã kêu rên, than trách Maisen và cả Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã cho Pharaon càng tăng sức ép thì dân càng mong sớm được giải phóng trở về quê hương. Khi dân biết nghe lời Maisen ra khỏi Ai Cập thì Thiên Chúa càng thương yêu cứu chữa họ và ban cho bao nhiêu đặc biệt như: đi dưới ánh sáng soi đường ban đêm, đám mây che mát ban ngày, vượt qua biển đỏ bình an, ăn thức ăn linh thiêng, uống nước linh thiêng chảy từ tảng đá. Thế mà phần đông họ đã không biết ơn Thiên Chúa, lại còn chống đối, phản loạn, không cần Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bỏ mặc họ và họ đã chết, xác họ ngổn ngang trong sa mạc. Thánh Phaolô đã lấy bài học đó để răn dạy giáo đoàn Corintô và chúng ta. Chúng ta phải lo sám hối đừng tưởng mình vô tội, đừng tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo sa ngã (Bài đọc II). Sa ngã và chết đời đời là vấn đề nguy khốn nhất. Lời Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hôm nay: “Nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng phải chết hết y như vậy”, không phải chỉ chết đời này mà còn chết đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bị Philatô kết án tử hình, không phải vì tội Chúa mà chính vì thương yêu con, đền tội con và cứu con. Xin cho con biết thành tâm nghe tiếng Chúa kêu gọi con: Hãy ăn năn sám hối để trở về với Chúa và được sống vinh phúc đời đời.

6. Sám hối
Dân Do Thái đã có lịch sử huy hoàng với những vị vua sáng chói như Đavít, như Salomôn. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, tình thế đã đảo ngược. Họ phải cúi đầu chấp nhận ách thống trị của đế quốc Lamã. Pháo đài Antonia được dựng lên ở Giêrusalem; bịnh đội Lamã coi thường người Do Thái và những quyền lợi của họ. Viên toàn quyền của hoàng đế César xen vào nội bộ tôn giáo bằng cách chọn lựa và công nhận những thầy cả thượng phẩm. Miền bắc là xứ Galilêa, mặc dù do vua Hêrôđê cai trị. Nhưng Hêrôđê cũng chỉ là một tên hề múa rối, quyền hành nằm cả trong tay Philatô. Chính vì thế một sự oán ghét thù hận âm ỉ trong lòng người Do Thái. Bề ngoài thì hoà hoãn nhưng bề trong thì sôi sục như một cục than hồng dưới lớp tro tàn. Họ mong đợi Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ lầm than.
Bấy giờ Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài lên tiếng rao giảng về Tin Mừng Phúc Âm. Người ta kể lại cho Ngài nghe việc một số người Galilêa có lẽ đã xách động dân chúng chống lại binh đội Lamã. Thế là theo lệnh của Philatô binh đội Lamã xông vào đền thờ, tàn sát họ khiến máu họ hoà lẫn với máu của lễ vật. Những người kể lại sự việc này hy vọng Chúa Giêsu sẽ đứng lên giải phóng dân tộc và họ sẽ theo Người cho dù có phải chết. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu thì khác. Người đến không phải để gieo rắc hận thù, nhưng đến để rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người ăn năn để được cứu độ. Người nói: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy.
Rồi một sự kiện khác nữa đó là ngọn tháp Siloe bất thần sụp đổ và đè chết 18 người. Thiên hạ cho rằng họ là những kẻ tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Người muốn coi đó như một tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như thế. Với chúng ta cũng vậy, những tiếng chuông cảnh tỉnh không ngừng vang lên, những tín hiệu báo động không ngừng xuất hiện. Nếu chúng ta biết thực thi Lời Chúa, nghĩa là biến sám hối ăn năn, thì những tai ương hoạn nạn sẽ là một cái gì tốt lành, vì nó sẽ đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Một người bà con lối xóm, Bị trúng gió và chết liền tức thời. Phải chăng người ấy là một kẻ tội lỗi. Không phải là như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hai chuyến xe lửa đầy ắp người đụng phải nhau khiến cho hàng trăm người bị chết. Một thành phố bị động đất khiến cho hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Phải chăng họ là những kẻ tội lỗi, không phải như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Rồi hằng ngày báo chí, truyền thanh truyền hình đã tường thuật cho chúng ta biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn: nào là đói khát, nào là chiến tranh, nào là bạo động… Phải chăng những nạn nhân đều là những kẻ tội lỗi. Không phải là như vậy, nhưng nếu chúng ta không biết hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hằng ngày Chúa vẫn gởi đến với mỗi người chúng ta những tiếng chuông cảnh tỉnh và những tín hiệu báo động, có khi chợt loé lên như một tia chớp, có khi âm vang như một hồi còi dài. Thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta phải biết lắng nghe, phải biết nhìn xem, để nhận ra được tiếng Chúa hầu giục lòng ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.

7. Sám hối.
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè bẹp, có những kẻ đã nghĩ xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ là những kẻ tội lỗi. Ý nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết. Và như thế, những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.
Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa Giêsu đã xác định không phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó là điều chúng ta thường xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố gắng chúng ta lại càng khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn năn sám hối và cải thiện đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta hay biết về kinh nghiệm ấy. Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây vả không có trái. Ngài muốn chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh. Rồi cũng chính Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do, chúng ta có thể đón nhận hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể sinh những hoa trái tốt, nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do là bởi chúng ta có biết đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta sẽ cảm thấy lo lắng cho số phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi phó thác cho tình thương của Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy nhiên, tâm tình sám hối không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí giúp đỡ người nghèo.
Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám hối của chúng ta còn rất hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải chỉ là không còn phạm tội nữa, mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành mới là những hoa trái thiêng liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng ta đã có được những hoa trái thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta vẫn chỉ là những cây vả không có trái?

8. Hãy trở về với tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: “Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô” (Lc 13, 3).
Người ta đến và kể cho Đức Giêsu nghe câu chuyện thương tâm mới xảy ra tại Giêrusalem: quan tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát một nhóm người ngay tại Giêrusalem, khiến máu của họ hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Thuật lại biến cố này, họ muốn Đức Giêsu vì tình đồng hương mà đồng tình với họ để phản đối tổng trấn Philatô và đế quốc Rôma. Đồng thời, người Do Thái cũng cho thấy những người bị giết kia là những người tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Còn họ được bình an vô sự là vì họ công chính tốt lành trước mặc Giavê. Chúa đã chỉnh đốn lại quan niệm sai lạc đó. Người mời gọi họ thay đổi cái nhìn. Đừng nghĩ những người bị giết kia là người tội lỗi nhất nhưng trước những biến cố xảy ra hãy nghĩ về bản thân mình trước. Vì trước mặt Chúa, mọi người đều là người tội lỗi. Do đó cần phải nhận ra tội lỗi, thiếu sót của mình và sám hối.
Phải chăng chúng ta dễ có cái nhìn kết án người khác giống như những người Do Thái hôm nay, khi chúng ta nghĩ rằng: ta giàu sang là do Chúa thưởng cho người công chính, đạo đức còn những người nghèo khổ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Lắm khi chúng ta nghe người khác nói: Chúa phạt nó hay ông Trời có mắt mà…Trước mọi biến cố của cuộc đời, Chúa muốn chúng ta phải có thái độ đúng đắn hơn. Cần có cái nhìn đức tin và lòng khiêm nhường trước những sự kiện để có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Đức tin luôn mời gọi chúng ta nhìn vào những thất bại đổ vỡ cho một khởi đầu mới. Đức tin mang lại cho chúng ta đôi mắt để nhìn xuyên qua tăm tối và thấy được ánh sáng của niềm hy vọng. Ngay những trang đầu của sách thánh, Thiên Chúa đã dẫn đưa chúng ta vào cái nhìn hy vọng ấy. Sự sa ngã của ông bà nguyên tổ đã không phá vỡ chương trình của Thiên Chúa, trái lại đã trở thành khởi đầu của một công cuộc đổi mới kỳ diệu hơn. Giáo hội đã không ngừng cảm tạ Chúa vì không những Ngài đã tác tạo con người một cách diệu kỳ mà còn tái tạo con người một cách diệu kỳ hơn. Toàn bộ lịch sử cứu rỗi là một chuỗi những vấp ngã và chỗi dậy của con người đan xen với nhau. Tuyệt đỉnh của cuộc tái tạo không ngừng ấy chính là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Ta dễ dàng xét đoán anh em và lên án người khác là vì ta không biết nhìn vào bản thân. Có nhìn lại chính mình, ta mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn. Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo được chứa đựng trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin. Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới nhận được ơn cứu độ và tình thương của Chúa. Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh em. Như vậy, mến Chúa yêu người chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi.
Lòng sám hối càng sâu sắc và tinh thần khiêm tốn càng cao độ, thì lòng mến đối với Thiên Chúa mới chân thành và tình yêu đối với tha nhân mới thiết thực. Viên đá kiến cố nhất cho một tòa nhà kiến trúc là viên đá đặt thấp nhất dưới chân nền. Đức Giêsu lên án gắt gao thái độ của những người biệt phái. Họ có tất cả mọi nhân đức, nhưng chính vì thiếu lòng khiêm nhường sám hối mà toà nhà đạo đức của họ đối với Chúa là giả tạo và họ cũng không hề biết thế nào là cảm thông, tha thứ và yêu thương. Người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lại bản thân hàng ngày, nhất là trong mỗi thánh lễ, để từ đó mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Chúa, và cảm thông tha thứ cho anh em.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nũa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”. Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ.
Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, động đất, hỏa hoạn,…Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình không sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối…trước khi ra trước mặt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đàng khác, có phải bấy lâu nay, chúng ta sống mà ít nhìn lại bản thân mình. Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu mùa chay với lối suy nghĩ như người ta phạm tội nên cần ăn năn sám hối còn tôi, tôi tuân giữ hết mọi điều, sống tốt lành, thánh thiện, đạo đức thì cần chi đến sám hối, cần chi đến ăn năn. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa. Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Nếu thực sự chúng ta đang sống trong lối suy nghĩ như thế hãy để tâm suy nghĩ dụ ngôn cây vả của Đức Giêsu. Hình ảnh cây vả cũng là hình ảnh của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Cuộc đời chúng ta không ngừng được chủ vườn là Cha trên trời săn sóc với biết bao ân huệ của Người. Chúng ta lãnh nhận một cách nhưng không những ân huệ ấy thì đòi chúng ta cũng phải sinh hoa trái bằng cách cho đi cách nhưng không như vậy. Vì thế, phải coi chừng kẻo chúng ta đang là những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng biết ơn, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, trung thành với việc bổn phận mà Thiên Chúa giao phó cho mình. Hãy sinh hoa lợi với nén bạc mà Chúa trao cho mình. Hãy nghe lời Chúa dạy hôm nay mà ăn năn sám hối. Người luôn luôn chờ chúng ta. Người cho chúng ta có thời giờ hoán cải và làm phát sinh hoa trái. Nhưng thời hạn ấy rất cấp bách. Chúng ta cần phải hoán cải ngay hôm nay khi Chúa còn gia hạn cho chúng ta.
Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta. Lời kêu gọi sám hối không chỉ dành cho những người tội lỗi nhưng dành cho tất cả mọi người. Lời kêu gọi sám hối hôm nay, không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, từ điều xấu nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như một bổn phận. Phải trở nên tốt hơn mỗi ngày vì kẻ nào biết làm điều tốt mà không làm thì mắc tội! Hãy biết sám hối về những thiếu sót vì chúng ta đã không làm những điều tốt lành đẹp lòng Thiên Chúa.
Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối. Tuy nhiên, sám hối không chỉ đòi ta nỗ lực diệt trừ tội lỗi, nhưng điều quan trọng là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài trên cuộc đời mình, từ đó, ta định hướng lại toàn bộ cuộc sống, chỉnh đốn lại những hướng sai lạc đang làm lệch lạc cuộc sống tâm hồn và ơn gọi của mình. Sám hối còn là ơn Chúa ban cho những tâm hồn mong mỏi được giải phóng khỏi tội lỗi để đón nhận ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nhìn nhận mình đều là những tội nhân đáng thương, đang cần lòng Chúa thương xót, tha thứ và ban ân sủng để chúng con can đảm sám hối, can đảm nhìn nhận sự thật về mình để sống tinh thần mới trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.

9. Mùa Chay – Mùa Đổi Mới
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:
– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhứt là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, đài, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hỏa hoạn…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành, để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác, để không hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải vẫn là vấn đề thức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra trước mặt Đấng Phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, nên lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến tòa giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội. Mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu nầy. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho Thánh Lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện ngay bây giờ và kéo dài trong suốt đời ta.

10. Hối cải – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều đời của ông tổ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh sống ở Ai-cập. Trong chương trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen đã chứng kiến: Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Ông Môisen nhìn thấy sự lạ là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu của trời cao loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới bắt đầu khai mở.
Thiên Chúa mạc khải chính mình: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “Ta là Đấng Hiện Hữu.” Người phán: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.”(Xh 3, 14). Dân chúng sống tạm nhờ trong miền đất Ai-cập đã qúa lâu, nhiều cháu chắt không còn nhớ đến các tổ phụ cha ông. Trong suốt thời gian lưu lạc ở đất Ai-cập, sách sử không ghi lại những chứng tích biến cố vĩ đại nào. Sau khi tể tướng Giuse, con của ông tổ phụ Giacob qua đời, dân chúng sống trong âm thầm và sinh xôi nẩy nở rất đông. Thiên Chúa luôn ghé mắt đoái nhìn đến đoàn con dân của Người. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập để minh chứng bàn tay uy quyền Thiên Chúa.
Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại. Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của kiếp người. Chúng ta biết ông Môisen cũng chỉ là một con người mỏng dòn và giới hạn mọi điều. Khi dân hối lỗi, Chúa lại tha thứ. Suốt 40 năm lang thang trong hoang địa, Môisen đã dẫn đoàn dân tới bờ miền Đất Hứa. Ông đã chu toàn sứ mệnh thanh luyện niềm tin của Dân vào Thiên Chúa duy nhất.
Mùa sám hối, xin kể câu truyện: Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng. Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh. Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.
Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược đãi, bị ghép tội và bị giết. Chúa Giêsu nhắn nhủ mọi người: Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13, 3). Chưa chắc những người này là những người tội lỗi. Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.
Có đôi khi biết thân và biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc thân ý xấu, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết, bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ, vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan trái và báo thù khủng khiếp.
Tại sao nhiều người thích nói dối? Nói dối vì muốn dấu diếm sự thật không tốt và không muốn bị rầy la quở trách. Nói dối loanh quanh sẽ không có điểm dừng, nói dối này kéo theo dối trá khác. Vì nói thật thì mất lòng. Nói thật thì mất lợi lộc. Nói thật có thể bị mất danh hờ. Nói thật thì mất nhiều thứ khoái và nói thật thì bẽ bàng. Chúng ta biết chỉ có sự thật mới giải thoát. Sự thật thì đơn giản và vắn gọn. Sống đạo là sống trong sự thật. Hạt giống đức tin của tình yêu và sự thật cần được vun trồng tưới gội để phát triển. Đừng để niềm tin bị bóp nghẹt giữa đám cỏ dại của sự gian dối. Biết rằng chúng ta không thể tránh được mọi thói hư tật xấu ở đời, nhưng vẫn có thể khắc phục nó bằng cách tu tâm luyện tính mỗi ngày. Xa tránh và dám dứt bỏ các dịp tội và đừng níu kéo nó. Vun xới cho các đức tính tốt có cơ hội phát triển hơn mỗi ngày. Vì nếu sống đời Kitô hữu mà không sinh hoa trái tốt, cuộc sống sẽ trở nên vô dụng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả để cảnh báo: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?(Lc 13, 7). Nhân đức không phát triển giống như cây không sinh trái, sẽ bị chặt đi.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cor 10, 12).
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn Chúa tới muôn ngàn đời.

11. Hãy sám hối
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Nếu các ngươi không chịu ăn năn sám hối, thì các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy.
Người Hồi Giáo thường kể rằng: ngày kia Đức Allah truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Allah, nhưng xem ra Đức Allah không hài lòng mấy. Ngài bảo: “máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Allah mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt, nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian, nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn nữa”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội, giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Allah chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
Dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, đây cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua bài Tin Mừng chúng ta thấy thái độ của người Do Thái: đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do Thái đã mau mắn đi tới kết luận: “sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.” Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh chính bản thân mỗi người như Chúa Giêsu đã kết luận: nếu các ngươi không chịu ăn năn sám hối, thì các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy.
Sám hối là một cuộc đổi mới, từ bỏ tội lỗi và từ bỏ thái độ dửng dưng với Đức Kitô cũng như ơn cứu độ của Người. Ai không chịu sám hối đều sẽ bị kết án. Vấn đề không hệ tại ở chỗ người đó đạo đức nhất hay tội lỗi nhất, nhưng ai không trở lại với Đức Kitô thì chắc chắn kẻ đó sẽ phải hư mất đời đời.
Và rồi sự kiện tháp Siloe, do ngẫu nhiên và cũng có thể là do mục nát, cây tháp đó đã đổ xuống và đè chết 18 người. Người ta có thể bị sát hại bởi một sự sắp đặt có chủ ý như trường hợp những người Galilê, hay chết vì tai nạn rủi ro như trường hợp các nạn nhân trong vụ tháp đổ. Không trường hợp nào trong hai trường hợp vừa nói cho phép kết luận những nạn nhân đó tội lỗi hơn những người khác. Bài học rút ra từ hai ví dụ minh hoạ trên là, hãy sám hối và đó là một việc bắt buộc. Không nên lãng phí thời giờ để bới lông tìm vết về những người ra như đang gặp cảnh khốn đốn, ra như đang bị Thiên Chúa trừng phạt. Thay vào đó, mỗi người cần phải sám hối, từ bỏ tội lỗi và trở về với Đức Kitô.
Tóm lại, có hai thái độ cần tránh: trước tiên là thái độ chìm đắm trong những giải thích về nguyên nhân của sự ác và tìm những câu trả lời gán trách nhiệm cho “những người khác”, nói họ còn tội lỗi hơn nữa, tại hoạ họ còn phải chịu còn lớn lao hơn nữa. Thái độ thứ hai cũng cần phải tránh, đó là những người tiêu cực quá ý thức về những giới hạn của con người, nên họ thất vọng hoàn toàn và không phấn đấu cố gắng và tiếp tục tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa toàn năng và từ nhân. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy để mắt nhìn vào hoàn cảnh của người tội lỗi, và đừng quên rằng mỗi người chúng ta cũng là người tội lỗi, và nhớ rằng chúng ta luôn có thời gian để tiếp nhận tin vui từ tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn nhận mình đều là những tội nhân đáng thương, đang cần lòng Chúa thương xót. Xin thương ban ơn thánh Chúa, giúp thanh luyện chúng con trở thành những con người mới, luôn biết sám hối như Chúa đã kêu mời chúng con trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

12. Tai họa và tội lỗi – Cố Lm. Hồng Phúc
Tất cả chúng ta, ai cũng thích nghe tin tức. Ngày nào không đọc báo, không xem tin tức, truyền hình, chúng ta cảm thấy như thiếu một cái gì. Có những tin tức làm xúc động dư luận quần chúng và người ta bàn tán, có khi còn đặt câu hỏi: Vì sao Chúa để xảy ra như vậy?
Hôm nay, trong bài Phúc Âm, có hai bản tin sốt dẻo, hai tai nạn làm xao động dư luận và người ta đem kể lại với Chúa với thâm ý xin Ngài vạch công tội.
Một là tin vị Tổng trấn Lamã, ông Philatô, vốn nổi tiếng có bàn tay sắt, vừa ra lệnh hạ sát một nhóm người Galilê nổi loạn, tại chính trong Đền thờ và lấy máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh. Hai là mẩu tin ngọn tháp Siloê đổ, chôn sống 18 người. Họ đem kể lại với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội.
Dân chúng, xưa cũng như nay, vẫn có quan niệm rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta nghĩ đến tội kẻ khác hơn là tội của mình. Và khi không đổ cho kẻ khác được thì lại đổ vào…Thiên Chúa. “Vì sao Chúa để như vậy?” Hôm nay, quần chúng qui tội cho nạn nhân và những người liên hệ. “Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó?”
Chúa Giêsu dùng diệp này để nói với họ và qua họ, với chúng ta rằng: “Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”.
Đây là lời kêu gọi sám hối. Đây là tất cả Tin Mừng rao giảng: Hãy ăn năn trở lại, hãy từ bỏ tội lỗi, quay về với Thiên Chúa.
Việc “trở lại” là vấn đề quan trọng sinh tử của mỗi người, nên Chúa còn nhấn mạnh sau đó trong dụ Ngôn Cây Vả. Có thể trước mặt thính giả gió chiều đang đong đưa cành lá một cây vả xanh tươi. Nhưng đã ba năm rồi, nó không sinh quả. Chủ nhân đang muốn chặt nó đi, để nó khỏi chiếm đất và quăng vào lửa. Nhưng có người ngăn can xin để thêm một năm nữa…may ra.
Dụ ngôn trực tiếp ám chỉ dân Do-Thái, dân được tuyển chọn nhưng lại giả điếc làm ngơ, tìm cách giết hại Chúa. Nhưng dụ ngôn cũng hướng về chúng ta… Chúa cũng cho chúng ta sống thêm chuỗi ngày năm tháng… may ra… Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng bị đốn ngã và đem ném vào lửa đời đời. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng tha thiết kêu gọi sự ăn năn trở lại và sống gương mẫu. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.
Lạy Chúa, lời kêu gọi ấy, chúng con xin đón nhận.
Mùa Chay là mùa sám hối, xin Chúa giúp chúng con sống tinh thần chay tịnh: MISERERE MEI – Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.

13. Trở về với Đấng Yêu Thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người, Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người (Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17). Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.
Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn, để phục vụ con người.
Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn của họ. Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và chọn lựa của mỗi con người.
Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng, Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc.1, 14). Sám hối là điều rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.
Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.
Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết, nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.
Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao cho tôi không?
Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”, và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn lựa của tôi không?
Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, ơn gọi là gì? Ơn gọi của Môsê là gì? Ơn gọi của bạn là gì?
2. Như thế nào là người trưởng thành? Đâu là những khía cạnh mà con người cần lưu ý để trở thành người phát triển toàn diện?

14. Hãy sám hối – Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
“May ra sang năm nó sẽ có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt đi” (Lc 13,9)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết: “Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết”. Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 3,1-15)
Tuần vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp chặng thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lúc bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy rụi: Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải dể tiêu diệt mà để giải thoát.
Thiên Chúa gọi đích danh Môsê: Ngài biết rõ từng người.
Thiên Chúa nói với Môsê “Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…”: Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn “Ta là điều Ta là”. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này: (1) Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng giải thoát); (3) Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng hằng hữu”; (4) Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là”: ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật.
Điều quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải thoát họ khỏi cảnh khổ.
2. Đáp ca (Tv 102)
Thánh vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I: ca tụng những công trình giải thoát của Thiên Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 13,1-9)
Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối:
+ cc 1-5: người Do Thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ “ác giả ác báo”. Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là “ác giả” cho nên bị “ác báo”. Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
+ cc 6-9: Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4. Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành:
Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
Tảng đá đã phun ra nước cho dân Do Thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do Thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hãy ăn năn sám hối
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có người sẽ thắc mắc: người tốt cũng cần phải sám hối sao?
Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2. Cơ hội thứ hai
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau:
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
– Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
– Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
***
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó: Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
***
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác? (FM)
* 4. Đất thánh
Chúa phán với Môsê: “Nơi ngươi đang đứng là đất thánh”.
Mọi nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai: “Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần”. Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm sóc thân xác chúng ta.
Tâm trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báo v.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô: “Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen” (Pl 4,8)
Nhưng thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa”. (FM)
* 5. Tản mạn suy tư
a/ Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
b/ Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những “phép lạ” vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/ Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ. (FM)
* 6. Tại sao Chúa chọn Môsê?
Trích đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người Do Thái, ông chịu không được nên đã ra tay can thiệp.
Một lần khác ông thấy hai người Do Thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng ra tay can thiệp.
Và một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa “thấy cảnh khổ cực của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…” thì Ngài chọn Môsê.
* 7. Chuyện minh họa
a/ Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. “Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
b/ Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn mời gọi người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết tích cực sống tinh thần cầu nguyện và sám hối của Mùa Chay.
2. Trong đời sống thường ngày / vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu có / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai khó nghèo.
3. Hãy thay đổi đời sống / vì Nước Trời đã tới gần bên / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết nỗ lực hoán cải con tim / thay đổi tính hạnh / để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
4. Sám hối trước tiên là lãnh nhận bí tích Hòa Giải / rồi thực hành bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chân thành xưng thú tội lỗi / và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện “và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”
VII. Giải tán
Như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta đừng làm cho Chúa phải thất vọng.

15. Ai là tốt, ai là xấu?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn…? âu đó cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.
Thế còn thái độ của Kitô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giêsu cho thấy là các môn đệ Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.
Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Kitô hữu, nhất là khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức Giêsu đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?
Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ. Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải là chuyện đơn giản.
Đức Giêsu cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận, sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giêsu kêu gọi, không chỉ mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Kitô, đều phải trở thành một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.
Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi, cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái ăn. Người làm vườn (là Đức Kitô Giêsu) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng sự tự hiến cứu chuộc của Người. Kitô hữu là những cây vả đã được Kitô Giêsu tưới bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các Kitô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”, là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Kitô Giêsu, biểu hiện vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con. Con ước mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của Chúa. Amen.

16. Sống mùa chay
Ngày 27. 02. 2010, trận động đất ở Chilê đã làm hơn 700 người thiệt mạng và gây ra rất nhiều thiệt hại vật chất. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nạn nhân và các gia đình gặp khó khăn do thiên tai ở Chi lê. Chúng ta biết, từ khi con người chống lại Thiên Chúa và chối bỏ Ngài thì thiên nhiên không còn lệ thuộc con người nữa, nhưng nó đi theo qui luật bảo tồn của riêng nó. Và chúng ta phải lo đi tìm hiểu về qui luật của tự nhiên, vũ trụ để tránh thiên tai chứ thiên tai không tự tránh con người. Ngày nay, các nhà khoa học biết tự làm ra những máy móc tối tân để dự báo kịp thời các chấn động trên trái đất, vũ trụ. Thế nhưng, có đôi lúc con người không ghi nhận chính xác dấu chỉ của thiên nhiên và chưa ứng phó đúng mức trước các báo động thiên tai khiến nhiều người thiệt mạng.
Âu cũng là một lời cảnh báo cho chúng ta rằng: giờ Chúa đến như kẻ trộm.
Vì vậy, con người phải lo chuẩn bị sẵn sàng, để khi Chúa đến, Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Chúng ta hãy thờ phượng Chúa và lo cho tha nhân vì Chúa, rồi Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta. Còn ai làm điều ác, ức hiếp đồng loại sẽ có phần phạt tương xứng là đời đời đau khổ!
Ðiều gì là tội hay phúc ai cũng biết. Ðời sau ai cũng có nghe nói tới rồi. Lương tâm mỗi người cũng nói cho chúng ta biết phải làm lành lánh dữ.
Nếu ai còn chưa sám hối thì hãy mau hoán cải quay về với Chúa trong chay tịnh, khiêm nhường, bác ái. Chúa sẽ không chê bỏ những ai có lòng sám hối. Thời gian có hạn. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn cây vả trong vườn nho. Mỗi người chúng ta cũng như cây vả trong vườn nho vậy. Cây vả Do thái cũng giống như cây sung ở Việt nam, không đem lợi nhuận gì cho chủ, nhưng chủ thương vẫn để cho nó chiếm 1 chỗ trong vườn nho. Ðiều đáng buồn là nó choán đất 3 năm rồi mà không sinh quả. Lẽ ra là đẵn nó đi phứt cho rồi nhưng Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, ưu đãi đặc biệt để giúp nó sinh trái.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không thay đổi đời sống, không lo sinh lợi, không lo chu toàn bổn phận của mình đối với Chúa và anh em mình thì chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Mùa chay là mùa ăn năn thống hối. Ðộng đất, sóng thần cũng là những dấu chỉ nhắc nhở chúng ta lo thay đổi cuộc sống. Mỗi người chúng ta lo hãy xét mình xem, tôi còn những tính xấu nào chưa sửa, còn những tội nào chưa dốc quyết từ bỏ. Nếu tôi còn hay nóng giận, ghen ghét thì từ nay tập tính hiền từ, yêu thương; tôi còn đam mê rượu chè cờ bạc thì từ nay tôi quyết tâm bỏ, không bén mảng tới những nơi đó để khỏi bị cám dỗ. Nếu tôi còn chưa nhận ra tình thương của Chúa đối với mình và giữ đạo lơ là thì trong mùa chay này, tôi sẽ năng đi lễ, cầu nguyện với Chúa nhiều hơn để Chúa ban ơn cho tôi cảm nhận được tình thương của Ngài.
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: việc hôm nay chớ để ngày mai. Vậy, ngay hôm nay, chúng ta hãy đề ra cho mình một chương trình sống mùa chay. Hãy cố gắng sao cho hôm nay chúng ta sống đẹp lòng Chúa hơn hôm qua, tuần này khá hơn tuần trước, để đến tuần Phục sinh, linh hồn chúng ta thực sự sáng đẹp giống Chúa Giêsu Phục sinh.

17. Đổi mới cái nhìn – Thu Băng, CMR
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi họ ư? Không phải thế. Nếu các ông không sám hối thì cũng xẩy ra như thế. Cũng như 18 người bị tháp Siloác đổ xuống đè chết là đáng tội ư? Không phải thế, nếu các ông không sám hối thì cũng chết như vậy (Lc.13:01-09).
Một nhà thiên văn mới sáng chế ra một chiếc kính viễn vọng. ông để trên sàn gác để đêm đêm nhìn ngắm tinh tú trên bầu trời. Một đêm kia ông khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bạn bè biết, thế là người ta ùn ùn kéo đến thưởng lãm và tán thưởng. Thế nhưng có một ông bác học già tuổi đến xem qua rồi ông lắc đầu. Ông xem rất kỹ, cuối cùng ông khám phá ra sợi chỉ xanh mắc vào ống kính. Ông nói với bạn:
– Hãy quan sát lại bộ kính của anh xem có gì trục trặc không.
Ống viễn vọng kính là hình ảnh cái nhìn của chúng ta. Chỉ vướng mắc một vật nhỏ vào là làm cho mắt chúng ta nhìn cảnh vật ra khác. Con mắt thiển cận nhìn cảnh vật ra đen tối, mờ ảo, con mắt sáng quác nhìn cảnh vật ra vĩ đại, quan trọng. Vì thế Chúa nhắc khéo: “Muốn nhìn cái đà trong con mắt anh em thì hãy lấy cái rác ra khỏi mắt mình trước đã”. Đừng “suy bụng ta ra bụng người”, nhìn mặt trăng và sợi chỉ hóa ra con rồng xanh, lấy lòng mình mà nhìn lòng người khác dễ bị lệch lạc lắm.
Quan niệm của Chúa thì khác, Ngài xác định họ không phải là kẻ tội lỗi, Ngài dùng những biến cố khác nhau như tiếng chuông mà cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân mình, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa. “Nếu các ngươi không ăn năn thì cũng sẽ bị chết thê thảm như thế”. Hãy biết đấm ngực mình mà ăn năn: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Có như thế, những biến cố xẩy đến trong đời mới đem lại lợi ích cho chúng ta, mới cảnh tỉnh mình khỏi tình trạng tội lỗi. Chính những biến cố ấy là lời Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành thánh thiện.
Lạy Chúa, cây vả không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn kỹ, nghĩ kỹ, đến việc nở sinh hoa trái dồi dào, để không bị Chúa loại trừ.

18. Con đường sống
Chúa phán: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23) là câu lời Chúa mà tôi vẫn thích nghe và thích đọc đi đọc lại nhiều lần trong suốt Mùa Chay. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng ban sự sống, là Thiên Chúa của kẻ sống. Vì thế, Ngài luôn mở ra những con đường sống cho con người, nhất là những người tội lỗi, những tâm hồn dập nát đau thương, những tâm hồn cần đến lòng thương xót Chúa.
Muốn có được cuộc sống hạnh phúc, con người phải làm một sự chọn lựa cho mình ngay từ giây phút này. Đây là một công việc không dễ làm chút nào. Bởi lẽ, suy nghĩ của con người chúng ta rất hạn hẹp và hay phạm nhiều sai lầm. Cụ thể, trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy những người Do thái có suy nghĩ rất lệch lạc. Họ nghĩ rằng: những người bị quan Philatô giết hay những người bị tháp Silôê đè chết là những con người tội lỗi, đáng phải chết. Còn họ – những người còn đang sống thì không có lỗi! Chúa Giêsu nói cho họ biết: suy nghĩ đó là lệch lạc và nguy hiểm vô cùng. Chúa tuyên bố rõ ràng rằng: “Ta nói cho các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Khi nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn chỉ ra cho mọi người một con đường sống. Đó là con đường “ăn năn, hối cải”. Đây là con đường khôn ngoan dành cho những ai muốn tìm đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng ai là kẻ cần phải ăn năm sám hối? Có phải hết mọi người đều cần như thế không? Những người tốt lành thì sao?
Trước hết, sự ăn năn sám hối là thật sự cần thiết và rất cấp bách cho những người tội lỗi, những người sa ngã vì yếu đuối, những người nguội lạnh trong đời sống đức tin. Khi phạm phải sai lầm, con người thường cảm thấy mình bị Thiên Chúa loại trừ và bỏ rơi. Nhưng sự thật thì lại hoàn toàn khác như thế. Ngài vẫn luôn chờ đợi ta quay trở về để đón nhận ơn tha thứ. Tha thứ là niềm vui của Thiên Chúa, Đấng là Cha của chúng ta. Chúng ta đọc được những lời rất cảm động ấy trong sách tiên tri Isaia: Đức Chúa phán: “Hãy đến đây, ta cùng nhau giàn xếp! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1,18). Điều lạ lùng nơi Thiên Chúa là Ngài không chấp tội con người khi họ biết hồi tâm sám hối. Bởi vì nơi Thiên Chúa chỉ có hiện tại. Trong bài đọc I hôm nay có nhắc đến một nhân vật quan trọng là Môsê. Môsê được Chúa tuyển chọn làm người chăn dắt dân Israel ra khỏi đất Ai Cập dù trong quá khứ ông đã phạm tội giết chết một người Ai cập. Trên thập giá, tên trộm cướp chịu đóng đinh bên hữu của Chúa chỉ nói có một lời sám hối ăn năn thôi mà Chúa đã tha thứ hết mọi tội lỗi cho anh và anh trở thành người đầu tiên được hưởng hạnh phúc Thiên đàng: “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với ta” (Lc 23,43). Cho nên, trước mặt Thiên Chúa, tội nhân nào cũng còn tương lai. Thánh nhân của Chúa hầu hết đều là những tội nhân biết sám hối mà thôi.
Có một câu chuyện kể rằng: “Tại một vùng nông thôn nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói kém đã rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự “ST”, có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer). Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống hòng chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ “ST” đáng nguyền rủa này. Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: “Tôi không thể từ bỏ sự tin cẩn của những người xung quanh và của chính tôi”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)”. Và Chúa cũng đang nghĩ về chúng ta như thế nếu chúng ta biết hoán cải cuộc sống của mình.
Sự sám hối cũng cần thiết cho cả những con người được coi là tốt lành trong cuộc sống. Tại sao vậy? Câu chuyện được Chúa Giêsu nói đến trong Tin mừng hôm nay là một minh chứng cho chúng ta rồi đó. Ông chủ muốn đốn Cây Vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa. Cũng vậy, người Kitô hữu phải sinh ra những hoa quả tốt lành xứng với phẩm vị của mình như: bác ái, công bình, yêu thương, tha thứ, hy sinh… Có lẽ, chúng ta ít khi nào tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà tôi lại chưa làm hoặc không làm?
Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà tiếng gọi ấy còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi hạng người. Hãy chọn lựa cho mình con đường sống theo tiếng gọi của Tin mừng hôm nay là: ĂN NĂN VÀ SÁM HỐI để sinh hoa trái thánh thiện như ý Chúa muốn.

19. Sám hối và canh tân – Lm. GB. Trần Văn Hào
Ý thức về tội lỗi
Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và mạnh mẽ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Sự an phận giả tạo
Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ, thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng mình.
Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình. Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc. Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào nhìn rõ được chính mình.
Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp:“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm, suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi anh ta thốt lên: “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.

20. Sám hối để cứu lấy mình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có người nghĩ cách đơn sơ rằng khi phạm tội thì đi xưng tội là xong, sau đó, về phạm tội lại, rồi xưng tiếp… Thế là cuộc sống của họ cứ đong đưa qua lại như người đu dây: phạm tội – rồi xưng tội, xưng tội – rồi phạm tội… Và cảnh đu dây kiểu này cứ tiếp diễn mãi suốt cả cuộc đời. Những người như thế chẳng biết sám hối là gì và họ cảm thấy không cần sám hối.
Không sám hối thì sẽ bị hủy diệt
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su lên án lối sống đạo theo kiểu đu dây đó. Ngài dạy rằng nếu ai không dứt khoát với tội lỗi, không thực lòng ăn năn sám hối thì sẽ bị hủy diệt, nghĩa là phải trầm luân đời đời trong hỏa ngục. Ngài mạnh mẽ lên án những người không sám hối, xuyên qua hai trường hợp sau đây.
Thứ nhất, “Khi có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng”, Chúa Giê-su liền nói: “Nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết thảm như vậy!”
Thứ hai, nhân sự kiện có mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết cách oan ức, Chúa Giê-su cảnh báo: “Nếu các ngươi không chịu sám hối, thì các ngươi cũng sẽ chết thảm như vậy!”
Từ đó, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng nếu ai không dứt khoát từ bỏ tội lỗi và ăn năn sám hối thì sẽ phải trầm luân trong hỏa ngục muôn đời.
Sám hối để cứu lấy mình
Nếu tôi biết mình có khối u ác tính đang trong giai đoạn đầu và có thể chuyển thành ung thư kết liễu đời tôi, tôi phải làm gì? Chắc chắn là tôi phải diệt khối u đó ngay, càng sớm càng tốt, không để nó hủy hoại đời mình.
Tội lỗi cũng là khối u ác tính có sức lây lan nhanh chóng và tàn phá dữ dội; sám hối là cắt bỏ khối u tội lỗi đó để cứu mình khỏi chết, như lời cảnh báo của Chúa Giê-su: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt.”
Nếu tôi là tài xế lái tàu nam bắc và dư biết rằng nếu mình lái tàu chạy trật đường rầy thì phải gánh lấy hậu quả vô cùng tai hại; thử hỏi: Tôi có điên rồ chạy trật đường rầy không? Hay là chăm chú lái tàu đi đúng đường để bảo toàn sinh mạng của mình và của bao người khác?
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu chạy trật đường rầy nên phải lao xuống vực; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết, như Chúa nhắn bảo hôm nay: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt.”
Nếu tôi làm ăn phi pháp, buôn bán hê-rô-in khối lượng lớn và biết rằng thế nào cũng bị phát hiện và phải chịu tử hình, thì tôi có tiếp tục làm điều phi pháp đưa mình đến chỗ chết, hay dứt khoát từ bỏ để tự cứu lấy mạng sống mình?
Phạm tội mà không chịu sám hối và dứt khoát từ bỏ tội lỗi… thì cũng giống như người tiếp tục buôn bán hê-rô-in mà không chịu bỏ nghề, mai đây ắt phải mang lấy án phạt đời đời như lời Chúa dạy: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt.”
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để tạo cơ hội cho chúng con sám hối và sửa mình. Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc… để rồi bị hủy diệt muôn đời.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại như cơ hội cuối cùng, để nhổ sạch tội lỗi, lập thêm công đức và sinh nhiều hoa trái tốt… Nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.

21. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét lớp.
Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng của viên gạch.
Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận bánh xe – chặn giấy – kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) – làm gối kê đầu khi dã ngoại – giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ – tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…
Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể mang lại nhiều công dụng như thế.
Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.
Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng làm hàng rào bảo vệ nương rẫy – thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho cháy xém) – che chắn gió – phủ xanh đồi trọc – chống xói mòn – cung cấp trái cho chim chóc – ủ làm phân xanh, vân vân…
Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như thế.
Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết lợi ích mà những kẻ lười biếng chẳng làm việc gì, có thể mang lại cho xã hội.
Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà không ai tìm được bất kỳ một cống hiến nào của nhóm người nầy cho nhân quần xã hội.
Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô tích sự, chẳng mang lại lợi ích gì, còn thua cả viên gạch hay cây bàn chải trong câu chuyện trên đây. Người nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối và một trong những lý do khiến người ta phải sám hối là vì đã không dùng thời giờ và năng lực Chúa ban để sinh nhiều “hoa trái” vật chất hay tinh thần.
Trổ sinh những loại hoa trái nào đây?
Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng trong vườn nho của Chúa.
Mỗi con người là một tạo vật rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì, theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt.
Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối với Chúa, đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả không trái trên đây.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha ban cho chúng con thêm một cơ hội chót để hoặc là trổ sinh hoa trái tốt lành hay là chết.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con tăng thêm giá trị và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.

22. Sám hối
Khi nói đến hai từ “sám hối” chắc chắn có nhiều người tự hỏi: Sám hối là gì? Tôi là người đạo đức, siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, không ăn trộm ăn cắp… vậy tại sao tôi phải sám hối? Thật ra, Sám hối là thay đổi hướng đi, là phản tỉnh lại mình, thay đổi cái nhìn, cách nghĩ, là ý thức thân phận mỏng giòn của mình, để đổi mới đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Để làm được điều này, tôi thiết tưởng mỗi người phải nhận thấy được “thông điệp” mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta qua:
1. Tha nhân
Theo quan niệm nhân quả, người ta thường gán ghép cho những người khi gặp các biến cố: vui buồn, bệnh tật, chết chóc hay là những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống là do nghiệp chướng họ làm. Cũng tương tự thế, Có biết bao lần chúng ta đã nói hay đã nghe những cách giải thích như: Trời phạt, Chúa phạt hay là ông trời có mắt. Từ đó làm chúng ta có cái nhìn không đúng về người khác, đồng thời chúng ta tự tạo một mối an tâm cho chúng ta là được Chúa ưu đãi mình hơn kẻ khác. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã sửa lại quan niệm sai lầm ấy. Theo Ngài, tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, đều cần phải nhìn ra tội lỗi của mình và sám hối. Vì “Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không; chẳng ai có lương tri, chẳng ai tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 14,1-3). Do đó, trước mặt Chúa, đừng ai tự hào mình công chính hơn người khác “vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14b). Đồng thời không nên phán đoán về giá trị đạo đức của người khác, nhất là không bao giờ kết án người khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán mà thôi. “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Thật ra, có biết bao người hiền lành, thánh thiện bị Chúa thử thách và thánh hóa bằng nghịch cảnh, bằng những tai ương dồn dập. Vì “Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân”. Thật vậy, Chúa thương ai nhiều thì thường thử thách người đó nhiều bằng đau khổ. Do đó, không thể cứ thấy ai gặp hoạn nạn là ta nghĩ họ vì tội lỗi nên bị Chúa phạt. Đó là một quan niệm sai lầm. Nhưng quan niệm này vẫn còn ăn sâu vào mỗi người chúng ta. Thật vậy, khi đứng trước những tai ương sự dữ, chết chóc, chúng ta dễ có khuynh hướng xét đoán họ, dễ có cái nhìn soi mói, thiếu cảm thông.
Đứng trước quan niệm sai lầm của dân Do thái, và đôi khi là của mỗi ngừơi chúng ta hôm nay, Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm này. Ngài chỉ cho ta thấy rằng: hết thảy chúng ta đều là tội nhân, đều phải chịu sự phán xét của thiên Chúa, cho nên phải mau mau sám hối, để cải thiện đời sống: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì các ngươi sẽ chết như vậy” (Lc 13,5).
2. Bản thân
Trong các thông điệp mùa chay hàng năm, Đức Thánh Cha luôn mời gọi chúng ta hãy thay đổi cách suy nghĩ, và nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, để canh tân đời sống. Bởi vì, nhân loại hôm nay như đang mất đi cảm thức về tội, họ làm tội, nhưng không còn ý thức về tội. Đó là một điều nguy hại và làm cho con người ngày càng cách xa Thiên Chúa, mà chỉ sống trong ảo tưởng. Vì thế, họ cho mình là thánh thiện, và tự đề cao chính mình.
Như A. Adler đã nói: “Sự cao cả của con người bắt đầu khi con người biết nhìn nhận mình đúng như thực trạng của mình”. Hơn nữa, để thực thi lời mời gọi hoán cải của Chúa và Hội thánh, chúng ta cần phải kiểm điểm lại chính mình, khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài muốn chúng ta tự xét mình và nhận ra lỗi của bản thân mình hơn là xét lỗi và thấy lỗi của người khác. Thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình chỉ khiến ta phát sinh lòng kiêu ngạo, tự mãn, khinh người. Còn nhận ra tội lỗi hay yếu đuối của mình, sẽ giúp ta khiêm nhường, nhất là cảm thông được những yếu đuối và tội lỗi của người khác. Nếu vì những yếu đuối hay vì một số tội lỗi ta đã phạm mà ta trở nên khiêm nhường và thông cảm với người khác hơn, thì những yếu đuối hay tội lỗi ấy đúng là những tội lỗi hồng phúc. Như thánh nữ Catarina thành Sienna đã nói “Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ” Vậy, nhìn mình , biết mình để mà ăn năn sám hối thật là điều cần kiếp mà mỗi người phải làm trong mùa chay này.
3. Biến cố & thời gian
Sám hối là lời đầu tiên mà Gioan đã rao giảng cho dân Do Thái, sám hối cũng được Chúa Giêsu rao giảng đầu tiên khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của mình: “Anh em hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Ngày nay, Giáo hội cũng rao giảng sự sám hối cho dân của Thiên Chúa. Hôm nay, để quảng diễn cho sự cần kíp phải ăn năn sám hối, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây vả để nói lên điều này. Hình ảnh cây vả trong bài Tin mừng hôm nay, giúp tôi liên tưởng đến bản thân mỗi người chúng ta.
Cây vả được người chủ vườn trồng, những ước mong nó sẽ sinh nhiều trái ngọt. Tuy nhiên, đã nhiều năm, ông chủ chờ đợi nó mà nó vẫn cứ trơ trơ, chẳng chịu sinh một trái nào. Vì thế, ông chủ buồn lắm, và quyết định chặt nó đi cho đỡ tốn đất, thế nhưng, người làm vườn đã nài xin cho cây vả một án treo! Thử xem nay mai, nếu không ra trái, thì hãy tính sổ nó.
Cuộc sống của mỗi người còn quý hơn cây vả. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Ngài. Ngài cho ta được làm con của Chúa, và được chăm sóc trong vườn ươm của Giáo hội. Và cũng vì tình yêu, Ngài đã lấy chính thịt máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhằm cho chúng ta trổ sinh hoa trái thơm lành như lòng mong đợi. Thế nhưng mỗi người chúng ta đã làm gì để đáp lại niềm mong đợi của Chúa?
Mùa chay là dịp thuận tiện giúp chúng ta ăn năn sám hối, mà sám hối luôn là vấn đề của thời gian, con người cần thời gian để mà hoán cải và Thiên Chúa cũng cần thời gian để chờ đợi, Ngài không bỏ cuộc, Ngài khoan hồng, bao dung với con người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta như ông chủ chờ đợi cây vả, ông ta chờ nó cho ra trái thế nào thì Thiên Chúa cũng chờ đợi chúng ta quay về với tình yêu của Ngài như vậy.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn anh em xung quanh bằng một con tim biết cảm thông và chia sẻ, Ngoài ra con còn nhận ra được những thiếu sót nơi bản thân để biết sám hối và hoàn thiện mình mỗi ngày. Amen.

23. Lời kêu gọi hoán cải
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống, ‘hoán cải cuộc đời’. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống, ‘hoán cải cuộc đời’. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng. Mùa chay là thời điều chỉnh, lập lại trật tự nội tâm và nghiêm túc khám phá những giá trị làm cho con người thăng tiến. Cần phải xác tín, lên đường không chần chờ với tất cả nỗ lực để hoán cải, canh tân cuộc sống.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Ex 3, 1-15
Bụi Gai Bốc Cháy
Thiên Chúa đã thấy cảnh khốn quẩn của dân Ngài bị phó mặc trên đất Ai Cập cho sự ức hiếp, và cái chết. Sau khi tỏ mình cho Môsê trên núi Sinai, Thiên Chúa trao phó cho ông sứ mạng giải phóng Israel.
Sợ bị quân của Pharaon vây bắt, Môsê trốn trong sa mạc Madian, chăn cừu cho cha vợ. Ông đã được thấy một thị kiến nhiệm màu: Bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi.
Thiên Chúa đã tỏ mình ra với ông: Ngài là Đấng Tự Hữu. Ngài trao phó ông sứ mạng giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa dân về miền Đất Hứa.
Với mỗi Kitô hữu, hình ảnh bụi gai bốc cháythắp sáng lên trong cuộc sống mỗi người niền tin tưởng, niềm hy vọng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta, Ngài giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi biến chúng ta trở nên người tự do đích thực.
2. Bài đọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12
Phải Cảnh Giác
Thánh Phaolô cảnh tỉnh những người tự mãn, tự phụ cho mình có sức mạnh không bị sa ngã trước những cám dỗ. Gợi nhớ lại những sự bất trung của dân Do Thái không đếm xỉa gì đến sự tốt lành của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho thấy cần phải thận trọng trong cuộc sống đừng ỷ lại, đừng tự phụ.
Trong số những người tín hữu tại Corintô, có một số người tự kiêu về bí tích thanh tẩy của mình, về việc tham dự vào Tiệc Mình Máu Chúa, để rồi tự cho mình có khả năng tránh được tất cả nguy hiểm sa ngã.
Thánh Phaolô khuyên bảo họ hãy dè chừng, hãy coi gương của những người Do thái ngày xưa tuy cùng được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa nhưng nhiều kẻ đã phải chết, đã sống không đẹp lòng Chúa và phải chịu cảnh khốn khổ.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, cần phải nhận ra sự yếu đuối của mình để đặt niền tin vào Thiên Chúa, vào ân sủng của các bí tích. Tránh xa sự tự mãn, chỉ biết cậy dựa vào sức mạnh cá nhân.
3. Tin mừng: Lc 13, 1-9
Sự Khẩn Thiết Của Việc Hoán Cải
Chúa Giêsu cảnh báo nghiêm khắc với các môn đệ và với mọi người về sự khẩn thiết của việc hoán cải và tính cần thiết của việc cảnh giác trước những nguy cơ sa ngã.
Dựa vào hai biến cố thảm thương: những người bị Philatô giết hại và những người bị tháp Silôê đè chết, Chúa Giêsu thúc giục người nghe hãy hoán cải, hãy sợ hãi những sự trừng phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên con người.
Hoán cải luôn là điều khẩn thiết. Không thể dựa vào lòng khoan giãn nhân từ của Thiên Chúa để rồi từ chối hoán cải. Cây vả đã không sinh trái được thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đốn bỏ.
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng nhớ đừng quên rằng sự kiên nhẫn của Ngài là sự kiên nhẫn của một tình yêu có yêu cầu cao, đòi phải nỗ lực hoán cải, không ngừng canh tân cuộc sống, không được trì hoãn bất cứ gía nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Hoán cải, một cách nhìn mới về thực tại nhân sinh: Trước những biến cố đau thương của người khác, người ta dễ bị cám dỗ giải thích một cách thiếu bác ái. Như trường hợp những người bị Philatô giết chết, thì mọi người dễ dàng qui kết do bởi họ có tội nên bị án phạt như thế. Hay như trường hợp của anh mù bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa sáng mắt cũng vậy, người ta cho rằng đó là hậu quả tội lỗi của anh hoặc của cha mẹ anh. Trong thực tế ngày nay cũng không hiếm những kiểu qui kết, giải thích như vậy. Chúng ta thường được nghe những lối giải thích: ‘Trời phạt, trời có mắt’; ‘ Đáng đời’. Khi nhìn thấy những sự đau khổ, thất bại, bi thương của người khác, người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực hơn là tích cực. Còn khi chính mình gặp hoạn nạn thì lại than trách ‘Trời không có mắt; Thiên Chúa bỏ rơi tôi’; ‘tôi có tội tình gì đâu sao Trời lại phạt tôi?’… Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những biến cố sảy ra trong đời sống quanh ta. Một biến cố có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau tuỳ theo tâm lý, tính tình, trình độ của mỗi người. Khôn ngoan nhất chính là biến theo lời dạy của Chúa Giêsu: biết dựa vào các biến cố sảy ra để mà hoán cải không ngừng. ” Đừng tưởng những người đó tội lỗi hơn các người khác. Không phải thế đâu. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.” Quả vậy, nhìn người mà ngẫm đến ta, người ta bị như thế tôi không bị phải chăng là hồng ân Chúa dành cho tôi? Người ta bị như thế có ý nghĩa gì và nhất là mang lại bài học gì cho tôi? Để rồi chân nhận rằng tôi chẳng tốt lành hơn ai. Chính tôi phải hoán cải, phải thay đổi nếu không thì còn tệ hại hơn ai hết.
Như thế, hoán cải giúp mở ra một cái nhìn mới về những thực tại nhân sinh để thông cảm hơn, quảng đại hơn với tha nhân và nghiêm khắc sửa đổi bản thân mình hơn.
2. Hoán cải, một cách nhìn của hy vọng: Sau lời mời gọi phải hoán cải nếu không sẽ bị huỷ diệt, Chúa Giêsu trình bày dụ ngôn về cây vả không trái ông chủ muiốn chặt nhưng người ta điền xin cho thời gian để chăm sóc tốt hơn hy vọng sẽ có trái. Qua dụ ngôn này cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa, một mặt kêu gọi phải hoán cải mặt khác lại tạo điều kiện để con người có cơ hội hoán cải. Chính Thiên Chúa đã thấy sự khốn cùng của con người trong thảm cảnh của tội lỗi, sa đọa và sự chết, nên Ngài đã chủ động để Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến giải phóng và đưa con người vào trong sự tự do của con cái Chúa. Bài đọc I cho thấy tình yêu thương đó của Thiên Chúa khi Ngài trao phó cho Môsê sứ mạng giải phóng dân Israel ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Cũng tình thương hải hà ấy, Thiên Chúa đã trao phó sứ mạng giải phóng con người cho Đức Giêsu Kitô Con Một của Ngài. Như vậy, về phía Thiên Chúa thì Ngài luôn yêu thương mở ngỏ con đường yêu thương để đón nhận mọi người quay trở về vời Ngài. Vấn đề là từ phái con người có đáp trả tình yêu thương của Thiên Chúa hay không để mà sám hối quay trở về. Thiên Chúa không kết án, Thiên Chúa chỉ mời gọi hoán cải, nên hoán cải luôn là một niềm hy vọng. Vì nhờ hoán cải con người được sống và sống tốt hơn trong tình yêu Thiên Chúa.
Hoán cải không chỉ là đau buồn sám hối vì tội lỗi của mình, nhưng còn là một niềm hy vọng được sống, được làm lại cuộc đời. Hoán cải là một cách nhìn của hy vọng. Vậy nên, còn chần chờ gì nữa mà không hoán cải? Sai lầm ư, tội lỗi ư? Đừng lo âu buồn chán, that vọng! Hãy mau quay về Thiên Chúa đang chờ đợi, đang chăm sóc để chúng ta sinh hoa kết trái trong đời sống nhân đức.
3. Hoán cải, một cách nhìn thăng tiến: Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã khuyến cáo đừng ỷ lại, đừng tự phụ hãy ý tứ kẻo sa ngã. Lời nhắc nhở của Thánh Tông Đồ hàm ý nhắc nhở phải nhận ra sự yếu đuối, mỏng dòn của bản thân để nỗ lực cậy trông, bám vào ơn Chúa mà tiến tới. Và từ đó cũng giúp hiểu thêm một cách nhìm mới về sự hoán cải. Thánh Nhân khuyên nhủ đừng chiều theo dục vọng, đừng than trách mà bị diệt vong, nhưng hãy biến đổi. Không chiều theo dục vọng để tâm hồn thanh thoát vươn lên theo đường lối thánh ý Chúa. Không lẩm bẩm than trách để biết nhận ra tình thương của Thiên Chúa, để biết được những yếu đuối của bản thân ngỏ hầu toàn tâm, toàn ý sửa đổi cuộc sống theo những giá trị của Tin mừng. Không đi theo con người xác thịt mà đi theo tinh thần mới trong Đức Giêsu Kitô nghĩa là phải sống một đời sống mới trong ân sủng của Thiên Chúa. Từ bỏ hay không chiều theo xác thịt để sống đời sống mới trong Đức Kitô đó chính là hoán cải, là đổi đời, đúng hơn là ‘lên đời’. Như thế, hoán cải là một sự thăng tiến đời sống.
Hoán cải phải đi đến kết quả là sinh hoa trái tốt tươi trong đời sống, nghĩa là thăng tiến được bản thân trên mọi khía cạnh nhân bản cũng như tâm linh. Còn nếu không biến đổi, không tốt hơn thì không phải là hoán cải mà chỉ là sự dậm chân tại chỗ.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương chờ đợi chúng ta là những tội nhân sám hối quay trở về với Ngài. Trong niềm tin tưởng vào tình yêu khoan dung của Thiên Chúa chúng ta cùng dâng lên Ngài những lời cầu xin.
1. Giáo Hội là nơi Chúa Giêsu Kitô bày tỏ tình yêu tha thứ cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội nhất là các vị chủ chăn luôn mang lấy tấm lòng từ bi hay thương xót của Chúa Giêsu Kitô.
2. Ngày nay nhiều người lầm đường lạc lối sa chân vào trong nhiều tệ nạn của xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những dự án, những chương trình của chính phủ về việc giải quyết những tệ nạn xã hội được phát triển tốt đẹp và những anh chị em lầm đường lạc lối sớm hoàn lương trở về với đời sống đúng phẩm giá làm người.
3. Hoán cải phải sinh hoa trái trong đời sống đạo đức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết nỗ lực hoán cải cuộc sống theo thánh ý Chúa bằng việc từ bỏ những đam mê tật xấu và hang say sống theo những đòi hỏi của Tin mừng.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, chúng con thật vui sướng đựơc làm con cái Chúa. Xin cho chúng con luôn đựơc Thánh Thần Chúa hướng dẫn để mau mắn sám hối khi lỗi lầm và không ngừng hoán cải thăng tiến cuộc sống theo Chúa Giêsu Kitô. Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

24. Hãy sinh hoa trái – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn có những hối tiếc do lầm lần của quá khứ. Hối tiếc vì mình đã sống như thế! Hối tiếc vì việc tốt mà mình đã bỏ qua. Hối tiếc vì việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Và dường như, ai trong chúng ta cũng từng hối tiếc về một việc làm nào đó.
Nhà Bác học Einstein, “cha đẻ của nguyên tử lực”, là một người Đức gốc Dothái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hittle. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941, bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà khoa học.”
Đôi khi nhìn lại mình, chúng ta vẫn thấy mình là tội nhân. Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim bao người. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho nhân thế. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc như Einstein: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế!
Người Việt Nam có câu “ai nên khôn mà không dại một lần”. Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự huỷ diệt mình. Cây có sinh trái, trái mới cho hạt, và hạt mới nẩy mần, phát triển thành cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền luỵ đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc, vậy hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, vậy hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy.”
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù sẽ tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê, ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.

25. Lòng kiên nhẫn đầy xót thương – Dã Quỳ
Trong xã hội có người tốt lẫn kẻ xấu, người lương thiện cũng như kẻ bất lương. Người tốt kẻ xấu đều có chung một khuôn mặt người và chỉ khác nhau ở bản chất, ở tấm lòng và cái tâm. Qua cuộc đối thoại và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa cho chúng ta nhận ra lòng kiên nhẫn đầy xót thương của Thiên Chúa đối với con người và lòng hạn hẹp ích kỷ chỉ lo kết án của con người đối với nhau.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Chúa ở bên chúng ta và giúp chúng ta sống tốt lành. Nhưng nhiều khi chúng ta đã bị lôi kéo theo chiều hướng xấu. Thế nên, trong cuộc sống khi nhìn vào những biến cố hay tai nạn…, ta tiêu cực chỉ nhìn và phán đoán những nạn nhân ấy “ở ác nên gặp điều dữ…” Bởi trong ta thiếu tình yêu và lòng xót thương. Sự kiêu ngạo ngự trị trong ta nên mắt ta nhìn người chỉ thấy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa, Đấng thánh thiện lại nhìn mọi sự việc và con người với cái nhìn vượt qua dáng vẻ bề ngoài.
Bản tính “Nhẫn nại và xót thương” đã xâm chiếm toàn bộ ánh nhìn và hành động của Thiên Chúa. Người chỉ khoan dung, tha thứ và cảm thông với ngàn yếu đuối lỗi lầm của con người. Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa nhân từ luôn nhẫn nại với dân của Ngài. Vì “Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu ân nghĩa và thành tín.”(Xh 34,6) Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác chết, nhưng một lòng muốn nó ăn năn sám hối để được cứu sống nên Ngài kiên nhẫn và nhân từ với tất cả tội nhân. Chính vì thế khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,13b)
Ghét tội chứ không ghét người có tội. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta sống. Chúa không muốn ta khinh ghét người tội lỗi nhưng là cảm thông và yêu thương. Bởi tất cả mọi người đều cần đến ơn tha thứ của Chúa, vì không ai là kẻ vô tội. Chúa đã luôn đi bước trước, kiên nhẫn chờ đợi và xót thương tha thứ cho ta mãi mãi. Vậy những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta theo lòng nhân hậu của Người, ta cũng hãy trao lại cho những ai mắc lỗi với chúng ta. Ước gì mỗi người luôn biết rõ rằng chính mình là kẻ tội lỗi để biết sám hối và trở về với Chúa. Như vậy, khi ta đọc Kinh Lạy Cha “… Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” chúng ta sẽ không ngại ngùng và nghi ngờ, vì chúng ta đã đón nhận được lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy ý thức để tránh xét đoán và lên án tha nhân. Nhưng biết mình và biết khiêm nhường như lời Thánh Phaolô muốn nói với ta: “…Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.”(1Cr 10,10-12) Vậy, hãy nhận biết những yếu đuối của chúng ta và cầu xin Chúa giúp ta cố gắng sửa đổi lối sống. Như vậy, những sự bất lực của chúng ta cũng có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và gắn bó với Người hơn. Thật khó để ta có thể đứng vững trong tình trạng cố định, nhưng phúc cho ta là có Thiên Chúa luôn trợ giúp nên ta không sợ hãi bước đi trên hành trình mà Ngài muốn dẫn chúng ta tới cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Vậy hãy tin tưởng vào Ngài. Và nếu chúng ta có làm được điều gì tốt như hoa trái của đức ái, thì đó là chính Thiên Chúa ở trong ta, Người ban ơn, hướng dẫn giúp ta làm mọi sự với lòng thương xót của Người, như lời thánh Phaolô khẳng định “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7) Chúng ta chỉ là những dụng cụ nhỏ bé yếu hèn trong bàn tay Chúa và qua Chúa, nhờ Chúa mà ta sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa về tấm lòng bao dung, nhẫn nại đầy xót thương mà Chúa dành cho chúng con. Không có Chúa, chúng con không thể sống và làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết sám hối trở về với Chúa, đón nhận được lòng xót thương tha thứ và những ơn phúc từ Chúa để cuộc sống chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Amen.

26. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bỗng nhiên chiếc xe từ từ chậm lại rồi dừng hẳn. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Tài xế xuống xe, anh tìm chiếc bánh xe dự trù, nhưng anh đành thất vọng, vì nó không còn chút hơi nào trong đó. Anh đành xin lỗi mọi người và xin chờ đợi để anh tìm cách đem chiếc bánh xe đi vá lại, đem về ráp vào thì chiếc xe mới hoạt động tiếp tục được. Anh còn nói thêm: đã nhiều năm nay, chiếc xe nầy chạy rất tốt, không bao giờ bị như thế nầy. Tôi cũng xuống xe chờ đợi và nhìn thấy: những bánh xe, nó đã tới thời kỳ phải được xem lại, nếu không thì nó cũng sẽ lập lại tình trạng như thế nầy nữa.
Tôi chợt suy nghĩ: chiếc xe phải rơi vào tình trạng như thế nầy, vì nó luôn an tâm, tự hào và ngủ quên trong sự an toàn của nó. Chính vì nó tự mãn nên không bao giờ được kiểm tra tận tình, nên nó mới bị nằm giữa đường. Nếu nó còn tiếp tục tự hào nữa mà không lo sữa chữa thì nó cũng sẽ lại rơi vào tình trạng như thế nữa.
Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì các ngươi sẽ như thế.
Chúa Giêsu dùng một sự kiện thực tế để nhắc nhở cho mọi người. Ngài không kết án, nhưng kêu gọi mọi người nhìn sự kiện thực tế, để xem lại chính mình. Nhìn người để biết chuẩn bị mình cho chu đáo. Nhìn người để biết sữa đỗi con người của mình cho tốt đẹp. “Đã ba năm nay tôi đến tìm quả, nhưng không thấy, vậy anh cón để nó làm gì cho hại đất”.
Thiên Chúa đã đến tìm quả nơi những cây Ngài đã trồng nơi mãnh đất trần gian. Ngài đã tìm được những quả tốt đẹp nơi vườn cây. Nhưng có những cây, Ngài đang chờ đợi với tất cả sự kiên nhẫn. Nếu nó cứ vô dụng mãi mà còn làm hại cho mãnh đất màu mở của Ngài, thì số phận nó đã được an bài.
Con người thời nay thường an tâm với vỏ bọc bên ngoài, tìm cách che đậy những lầm lỗi của mình bằng cách kết án người khác khi có thể. Chúng ta thường nghe những câu nói: đáng đời, Chúa phạt, Trời hại… chính bản thân chúng ta nhiều khi cũng thốt lên những câu như thế. Chúng ta vẫn an tâm với cách sống của mình. Dường như chưa bao giờ chúng ta dám đặt mình vào hoàn cảnh như thế để tìm một chút suy tư cho cuộc sống.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối…”
Chúng ta cùng nhau để ra ít phút suy tư về cuộc sống của mình. Chúng ta không thấy mình có lỗi gì hết, không làm hại ai, không cướp của giết người, chúng ta vẫn thường đọc kinh, dự lễ, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo khó. Với những việc làm như thế, chúng ta an tâm về đời sống của chính mình, chúng ta tự cho mình là đạo đức thánh thiện, không cần phải thay đỗi cách sống, không cần phải nhìn lại hay sữa đỗi điều gì. Cũng chính vì sự tự mãn đó, mà chúng ta sẵn sàng kết án người khác, cho họ là không đạo đức, không thánh thiện, là người tội lỗi, kẻ xấu không đáng nói chuyện hay tiếp xúc với chúng ta. Khi bất chợt họ gặp rủi ro bất trắc trong cuộc sống, chúng ta vui mừng cho như thế là quả báo, vì chúng ta luôn muốn cho họ như thế. Nếu họ gặp những điều may mắn tốt lành, chắc chúng ta không được vui. Với đời sống như thế, chúng ta có giống như cây vả mà hôm nay Thiên Chúa đến tìm quả, Ngài vui mừng vì tìm được những quả ngon, hay Ngài phải tức giận mà nói với người làm vườn: “Đã ba năm nay tôi tìm quả nhưng không không thấy, vậy anh hãy chặt nó đi, còn để nó làm gì cho hại đất”. Cây con người của chúng ta, không phải chỉ có cành lá sum suê là đủ, nhưng còn phải có kết quả, cây phải cho trái. Cho dù cây không làm hại ai, nhưng nó đã choáng cả một vùng đất rộng, vươn cành lá che mất đi ánh sáng của những cây khác, mà không có ích lợi, nó không thể tồn tại mãi như thế được.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết trổ sinh những quả tốt đẹp trong đời sống, để dâng lên Chúa.

27. Cởi dép ra – Dã Quỳ
Suy Niệm Bài Đọc I (Xh 3, 1-8.13-15)
Hôm nay bước vào vùng đất thánh, Gia-vê đã ra lệnh cho Mô-sê “cởi dép ra”. Cả một vùng núi chỉ có chỗ Mô-sê đứng là đất thánh hay sao? Mô-sê trốn thoát khỏi triều đình Pha-ra-ô bên đất Ai-cập, nơi ông đã ra tay giết chết một người Ai-cập và vùi xác xuống cát. Ông đang sống lưu vong, đang cậy dựa và nhờ vả vào sự che chở của nhạc phụ (x.Xh 2,11-3,6). Cuộc sống của ông đang tạm yên ổn. Ông có vợ, có gia đình, có tài sản và những gì cần thiết cho cuộc sống của một con người bình thường. Tất cả những thứ đó là Đôi Dép ông đang mang. Nó che chở, bảo bọc và giúp ông đi đến tương lai trong sự an toàn. Cởi dép ra! Đó là một mệnh lệnh. Đó là một điều kiện mà Gia-vê muốn nơi người mà Ngài sẽ chọn. Cởi dép là cởi bỏ tất cả những cái “an toàn tạm bợ” để tiếp xúc với một hoàn cảnh thực tế, trần trụi và đau thương, tê tái: “Ta thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi khổ của chúng.”(Xh 3,7) Mô-sê sống hạnh phúc bên gia đình tại Mađian. Ông không nghe thấy tiếng kêu ai oán, thống thiết; không nhìn thấy những cảnh tượng tang thương của những thân phận đồng bào. Ông sinh ra trong sự bảo bọc và lớn lên trong hoàng cung. Ông đâu hiểu hết những đoạn trường mà dân tộc của ông đã và đang trải qua. Tại sao vậy? Vì Chân Ông Đi Dép.
Cởi dép là chấp nhận bước vào những khó khăn mới, những nẻo đường khác đầy cam go và thử thách, Cởi dép là chấp nhận đồng hóa với nỗi đau của dân tộc mình. Khi bỏ đôi dép, người ta sẽ có những cảm giác rất khác nhau trên cùng một con đường. Ta sẽ có cảm giác mát rười rượi khi bước trên những đoạn đường lót gạch bông. Ta sẽ cảm nhận được sự thô nhám của nền xi măng. Cảm giác mịn như nhung khi giẫm chân lên bờ cát mịn. Từng bước chân ta tạo ra âm thanh lạo xạo vui tai. Khi giẫm chân lên cỏ, ta có cảm giác êm êm. Nhưng ta sẽ có cảm giác nhói đau khi bước chân lên những con đường đầy đá sỏi lởm chởm. Khi bước chân không vào bãi rác, ta sẽ cẩn thận lần đi từng bước một và cảm nhận dờn dợn chạy khắp thân mình. Mỗi địa hình sẽ cho chúng ta những cảm nhận khác nhau với bước chân trần của mình. Cởi dép ra để mình sống thực với những cảm nhận của cuộc sống mà khi đi dép, chúng ta không có cơ hội nếm trải.
“Cởi dép ở chân ngươi ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.” Đôi dép ấy là của nhạc phụ cho tôi. Bộ áo quần này do hiền thê tôi may sắm. Những thứ đó là đồ dùng cho việc chăn chiên dê. Những thứ đó không thể dùng vào sứ vụ mới. Tất cả những gì là của con người hãy trả lại cho con người. Ta gọi ngươi để ngươi bước vào một sứ mệnh và một ơn gọi mới “Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-cập.”(Xh 3, 10) Ta sẽ trao cho ngươi những phương tiện mới. Phương tiện ấy không chỉ là đôi dép, chiếc áo choàng hay cây gậy. Điều mà Gia-vê trao cho ông là tất cả những gì cần thiết trong sứ vụ “Phần Ta, Ta sẽ ở với ngươi.” (Xh 3,12)
Mô-sê đã cởi dép, bỏ lại tất cả để mặc lấy niềm tin, tâm tình phó thác và lòng trông cậy vào Gia-vê Thiên Chúa là “Đấng Hiện Hữu”, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông” của ông. Ngài sẽ trở thành khiên che thuẫn đỡ cho ông trong suốt hành trình sứ mệnh. Còn tôi, hãy nhìn vào Đôi Dép tôi đang mang và hãy nhìn lại đời sống của mình để biết tôi đang sống nhờ vào sự che chở và bảo bọc của cái gì? và của ai?

28. Dấu chỉ thời đại.
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào những hiện tượng trong thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã diễn tả:
– Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.
Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng của thú vật, họ cũng biết được thời tiết. Chẳng hạn:
– Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra chung quanh, để nhờ đó mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất đó là những người Galilêa bị Philatô giết và trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp Silôê đổ xuống đè chết. Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là những kẻ tội lỗi cho nên bị Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài coi những biến cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được gởi đến với họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay trở về cùng Chúa, nếu không thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như vậy.
Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Hằng ngày qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao nhiêu sự kiện, biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất. Chỗ này có những người chết vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết vì thiên tai bão lụt, động đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết vì bệnh tật và nghèo đói.
Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều lúc chúng ta cũng đã có một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái: Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với cung cách mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh ý Ngài được gói ghém qua những biến cố, qua những sự kiện ấy.
Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố, những sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn nói gì với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải uốn nắn, sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại những hoa trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.

29. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
MAY QUÁ, MÌNH THOÁT NẠN! HAY MÌNH XỨNG ĐÁNG
Có thể nói một trong những đặc tính của thời đại hôm nay đó là tính thời sự. Nhờ phương tiện thông tin ngày càng hiện đại nên tin tức đó đây tức thời được cập nhật qua các phương tiện nghe nhìn. Chỉ ngồi trước màn ảnh truyền hình một lát thì ta có thể biết khá tường tận nhiều sự việc vừa xảy ra trên thế giới. Chịu khó thống kê một chút, thì chúng ta có thể kết luận rằng nhóm “hung tin” hình như đang chiếm thế thượng phong về tần suất được tường thuật, chẳng hạn như: chiến tranh, dịch bệnh, động đất, sống thần, lũ lụt, khủng bố, hỏa hoạn, bão tuyết…
Trước những tai ương hoạn nạn thì có những phản ứng khác nhau. Có người thì điềm nhiên như sự xảy ra là ở đâu đâu, không liên hệ gì đến mình. Cũng có thể thoặt đầu vẫn có cảm xúc ít nhiều nhưng rồi dần dà nghe thấy quá nhiều tai ương hoạn nạn, nên hóa thành vô cảm. Vô cảm trước hoạn nạn mà tha nhân đang gánh chịu là một thái độ đáng lên án. Thái độ này dễ nhận biết cách nào đó và chẳng ai muốn bị kết án là hạng người vô cảm, vì chính bản thân người vô cảm cũng ít nhiều nhận thấy cái sai trái của mình. Tuy nhiên có một phản ứng thoạt xem ra không đáng trách nhưng thật tai hại. Có thể gọi phản ứng này với câu nói ngoài miệng hay lời thầm trong lòng những người thuộc hạng này: “Hú hồn, may quá, mình vẫn bình yên, mình may mắn hơn! Hay mình đang xứng đáng?”.
“Mình may mắn hơn”. Một câu nói, đúng hơn là một phản ứng rất có thể có nơi nhiều người không bị tai ương hoạn nạn. Trước các biến cố cuộc đời, người vốn quen kết luận theo quy luật nhân quả “ở hiền thì gặp lành; làm ác thì chuốc dữ”. Chính vì thế khi một tai ương hay hoạn nạn xảy đến cho người này, người kia, thì người ta dễ quy kết nguyên nhân là do tội, do lỗi của các nạn nhân hay của mẹ cha, ông bà họ trước đây. Chính các tông đồ cũng đã từng hỏi Chúa Giêsu về nguyên nhân khiến cho một người bị mù từ lúc mới sinh mà tin mừng Gioan tường thuật: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến cho người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”(Ga 9,2).
Cũng vì thói quen nhìn các sự kiện theo mối liên hệ nhân quả nên khi những tai ương hoạn nạn không ảnh hưởng gì đến chúng ta thì chúng ta rất có thể không chỉ nghĩ rằng may quá, mình không vương nạn mà còn có thể tự hào rằng mình đang còn tốt lành, còn đang xứng đáng. Đây quả là một thái độ ít nhiều vừa tắc trách lại vừa đáng trách.
Một tai ương, hoạn nạn xảy ra, có thể là do sự vận động của giới tự nhiên theo quy luật của nó như chuyện hết mưa thì trời lại nắng.., cũng có thể là do tác động của con người như chuyện biến đổi khí hậu bất thường do hiệu ứng nhà kính…, cũng có thể là do lỗi hay tội của người này, tập thể kia gây ra cho chính bản thân họ hay cho tha nhân, chẳng hạn như chiến tranh hoặc nhiều tai nạn giao thông…Là Kitô hữu, chúng ta vốn tin nhận rằng mọi người đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời thì không thể nào có thái độ vừa tắc trách vừa đáng trách trước các hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đáng gánh chịu đó đây. Trái lại, chúng ta cần phải tích cực liên đới với họ và đồng thời phải biết cảnh tỉnh bản thân để hoán cải, đổi thay ngay hôm nay.
Sống tình liên đới: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một ông chủ vô tình hay một vị thần bàng quan với con dân. Khi mạc khải cho Môsê biết mình là “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp”, thì Người muốn khẳng định rằng Người mãi đồng hành thiết thân với dân Người tuyển chọn và Người không bao giờ bỏ rơi dân Người. “Đức Chúa phán: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập…”(Xh 3,). Sự liên đới của Thiên Chúa đã nên phổ quát và trọn hảo khi trao ban chính Người Con Một vì nhân loại chúng ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3, 16-17).
Sống tình liên đới với tha nhân, đặc biệt trong những hoàn cảnh hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đang gánh chịu, thì trước hết cần ý thức rằng có thể do sự thiếu sót hay do tội lỗi của chính chúng ta đã làm cho tha nhân phải gánh chịu các cảnh bỉ cực ấy. Thứ đến, nếu giả như chúng ta “vô can” trong các hoạn nạn, tai ương ấy thì chuyện “máu chảy, ruột mềm” hay chuyện “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” là chuyện tự nhiên, đương nhiên phải có trong nghĩa tình anh em một nhà, cùng một Cha trên trời. Hơn nữa, trong niềm tin, chính tội lỗi mới là tai ương, hoạn nạn đáng sợ nhất. Noi gương Chúa Kitô, vâng lênh Chúa Kitô, chúng ta “phải làm việc này mà nhớ đến Người”: đó là dùng chính con người của mình, xác thân mình, máu huyết, sự sống của mình để gánh tội của nhau, để làm cho nhau nên thanh sạch, được sống và sống dồi dào (x.1Cr 11,23-25).
Biết cảnh giác và tỉnh thức để hoán cải: Thánh Tông đồ dân ngoại lưu ý: “Ai tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng, kéo ngã” (1Cr 10,12). Trước chuyện một số người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng hoặc chuyện mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã cảnh báo người đương thời rằng chớ vội quy kết rằng họ có tội hoặc cho rằng mình vô tội hay đang xứng đáng, nhưng phải biết tỉnh thức mà sám hối ăn năn.
“Chưa tận thế đâu”. Một câu nói rất có thể có ích khi nhắc nhớ chúng ta chớ hấp tấp, nóng vội mà quên đi quy luật của thời gian. Tuy nhiên câu nói trên cũng có thể tố cáo sự thiếu cảnh giác và tỉnh thức của chúng ta. Nhiều tổ chức, nhiều chương trình, kế hoạch hay công việc đòi hỏi có thời gian tính. “Dục tốc bất đạt” vốn là kinh nghiệm có từ ngàn xưa. Thế nhưng, trong chuyện sửa sai, nhiều khi không thể để đến ngày mai, vì sẽ không còn có cơ hội hoặc vì hậu quả xấu đã ra trầm trọng, thành tình trạng di căn, khó có thể khắc phục. Đặc biệt trong việc hoán cải tâm hồn thì luôn cần phải làm ngay trong hôm nay, giờ phút này. Xin đừng quên rằng không phải một ngày, không phải một giờ, nhưng có thể chỉ một phút, một giây sẽ quyết định số phận, quyết định hạnh phúc đời đời của bạn, của chính tôi.
Một trong những thái độ sống cần thay đổi đó là sự bàng quang, vô cảm, an phận trước cảnh bỉ cực của tha nhân hoặc tự nhủ: may quá, mình không vương nạn, mình đang xứng đáng.

30. Tôi thú nhận – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Ăn năn sám hối là một trong những chủ đề được nói đến nhiều trong mùa chay. Người Kitô hữu vốn rất nhạy bén với đề tài này. Một lẽ thường tình đó là vì tội lỗi luôn mang tình hiện sinh. Người ta dễ cảm nhận nơi chính bản thân mình sự bất toàn, yếu đuối. Hơn nữa, hầu như các tôn giáo, cách riêng Kitô giáo thường xuyên nói về sự tội. Khởi đầu những cuộc cử hành Phụng Vụ chẳng hạn như Phụng Vụ Thánh Thể thì luôn có phần sám hối ăn năn. Xin được thú nhận công khai vài lỗi lầm của mình. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.
Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng: Ở đây, bản thân không dám xưng thú những tội về điều răn thứ sáu hay thứ chín. Xưng thú công khai những tư tưởng đen tối, ô uế thì kỳ quá. Lắm khi lại gây cớ vấp phạm, làm mất lòng khiết tịnh cho lớp hậu sinh non dạ, trẻ đời. Mình là hàng có thánh chức thì cũng phải ý tứ một chút chứ. Tốt thì khoe mà xấu thì cần phải che đi vậy. Xưng thú tội ham muốn công danh, chẳng hạn muốn được làm quản hạt, làm Tổng đại diện hay thậm chí được đội mũ, cầm gậy thì cũng có thể châm chước đôi phần. Dẫu sao cái tham muốn ấy cũng phảng phất chút nào đó sự thánh thiêng. Còn chuyện tham lam của tiền thì không xưng người ta cũng nhận ra. Ông cha nào tham lam, keo kiệt thì khó lòng qua mắt được đoàn tín hữu.
Xin công khai thú nhận tội trong tư tưởng đó là lười suy nghĩ về cách “sống đạo hôm nay” theo lời dạy của Hôi Đồng Giám Mục Việt Nam năm nay. Việt Nam đã vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Nước ta đang chuẩn bị bầu cử Quốc Hội. Thế mà tôi lại thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc. Tôi đã lười suy nghĩ về một cơ quan quyền lực cao nhất. Tôi đã phạm tội vì không trăn trở làm sao để có một Quốc Hội thực sự là đại diện cho nhân dân. Tôi đã phạm tội vì không chịu suy nghĩ làm sao để cuộc bầu cử quốc Hội sắp tới thực sự là công bằng, dân chủ…
Tôi đã phạm tội trong lời nói: Nói sai, phát biểu xằng bậy, gây bất hòa, chia rẽ thì đáng phải xưng thú. Giảng dạy những điều lầm lạc, chủ quan, duy ý chí thì cũng rất cần xưng thú. Và cả những điều sai lầm khác từ môi miệng tôi phát ra gây hại cho tha nhân, cho xã hội, cho Hội Thánh.
Tuy nhiên điièu tôi muốn xưng thú ở đây về tội trong lời nói đó là tôi đã không nói những gì cần phải nói. Tiên tri Êgiêkien đã nói thay Giavê rằng: Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà trở về nẻo chính đường ngay, để kẻ gian ác chết trong tội ác của nó thì ta sẽ đòi nợ máu nó nơi ngươi. (x.Giê 33,8). Tôi thú nhận rằng tôi có thấy chuyện cơ cấu trong việc bầu cử Quốc Hội là đi trái với sự công bằng và dân chủ. Số đảng viên Cộng sản hiện nay khoảng ba triệu người. Dân số nước ta hiện nay khoảng 80 triệu người. Thế mà người ta lại cơ cấu cho người ngoài đảng được vào Quốc Hội chỉ 10 %. Tôi nhận ra sự thiếu công bằng. Không biết vì sợ hãi, vì chút lợi lộc hay vì một nguyên nhân nào đó mà tôi đã không nói. Tôi thành thật thú nhận mình đã tự biện minh rằng đợi Hội Đồng Giám Mục lên tiếng trước đã, đợi Giám Mục giáo phận lên tiếng trước đã. Mình chỉ là ông cha xứ vùng quê, vùng xa. Không nên cầm đèn chạy trước ô tô. Vì thế tôi đã không nói, không dám nói điều phải nói, điều cần nói.
Một cuộc bầu cử trong công bằng và dân chủ thì mội sự đều là có thể. Một vị dù là cấp cao hay quyền lớn đều có thể trúng cử hay không trúng cử. Khi đã cơ cấu số người ở cấp này, cấp kia; số người chuyên trách ở tỉnh này, vùng nọ thì chắc chắn sẽ có
rất nhiều người không thể nào không trúng cử, nghĩa là chưa bầu mà chắc chắn trúng cử vì phải trúng cử thì không còn chuyện công bình ở đây. Tôi biết chuyện này mà tôi đã phạm tội vì không dám nói. Có thể mình viết bài không ai chịu đăng, nhưng mình có thể nói trong phạm vi, quyền hạn của mình. Sao lại không?
Còn lắm chuyện của hôm nay như chuyện các ngôi nhà đồ sộ, ngất ngưỡng ở Thủ Đô… Người ta đã đã lý luận rằng đó là xây nhà không phép, sai phép nhưng không trái phép. Đúng là quá xem thường người dân. Đang có quyền chức thì muốn nói sao cũng được kiểu miệng nhà quan có gang có thép chăng? Vừa qua Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra 6 tiêu chí để xét duyệt những người ứng cử vào Quốc Hội, trong đó có tiêu chí là: “không có tham vọng cá nhân”. Quả thật nếu dựa vào tiêu chí này thì đốt đuốc cả ban ngày cũng không tìm ra một ai, chỉ trừ những trẻ em chưa có trí khôn hay những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần. Cũng có thể tìm ra, nhưng đó là những thánh nhân mà đã qua đời! Tôi thú nhận mình biết và hiểu những chuyện này nhưng đã không lên tiếng. Quả thật tôi đã phạm tội nhiều trong việc dùng lời nói. Tôi đã ngại ngần nói lên sự thật. Tôi đã hèn nhát không dám bảo vệ sự công bằng. Tôi đang thờ ơ với việc việc sống đạo hôm nay. Tôi chưa nỗ lực xây dựng nước nhà phát triển trong công bình, dân chủ và văn minh.
Tôi đã phạm tội trong việc làm và những điều thiếu sót: Làm nhiều, sai nhiều; làm ít, sai ít. Một thực tế hiển nhiên ít ai chối cãi. Thế nhưng không làm, không chịu làm việc phải làm trong khả năng và hoàn cảnh là một sai lầm trầm trọng.
Lại biện minh cho mình. Là linh mục, là mục tử, mình chỉ giảng dạy thôi chứ. Còn làm là chuyện của tín hữu giáo dân. Biện minh thế nào đi nữa thì tôi cũng thấy hổ thẹn với người Samaritanô nhân hậu mà Chúa Giêsu đã kể chuyện trong Tin Mừng (x. Lc 10,29-37). “Ông hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Tôi biết điều này chứ thế mà tôi vẫn khoanh tay đứng nhìn. Thú thực rằng tôi đâu có vô tâm. Tôi đã cầu nguyện nhiều lắm. Nhưng phải thú nhận rằng tôi đã lợi dụng sự cầu nguyện để khỏa lấp các thứ tội trong việc làm. Đó là không chịu nỗ lực công tác với ơn Chúa. Đây cũng là một trong những cách thế phạm đến tội: ” những điều thiếu sót “.
Tôi thú nhận… Chúa có hài lòng về sự thống hối của tôi không? Sám hối, ăn năn là để sửa đổi, để bắt đầu làm lại, bắt đầu lại sống đạo hôm nay. Tội của tôi sẽ mãi còn đó nếu tôi chỉ biết thú nhận mà không sửa đổi.

31. Cái nhìn nội tâm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?

32. Ăn năn sám hối – R. Veritas
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Khi một người có vẻ gian ác gặp tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn thường đưa ra nhận xét: ác giả ác báo, đúng là hắn bị trời phạt. Đây là cách suy nghĩ thông thường của người đời. Cách đây đã hơn hai ngàn năm, những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng suy nghĩ cách thường tình như thế khi họ đến kể cho Người nghe câu chuyện của người Galiê đang dâng lễ vật thì bị quan Philatô giết chết. Khi kể câu chuyện này, họ ngầm ý nói rằng những người Galiê đó chắc phải ăn ở thất đức mới bị giết đang khi dâng lễ như vậy. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu sửa sai cách suy nghĩ thông thường đó và kêu gọi dân chúng sám hối để thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Khi nghe thuật lại biến cố tàn sát những người Galiê tại nơi tế đàn, Chúa Giêsu không đồng tình với các suy nghĩ thông thường của những người kể chuyện. Người đưa ra một cái nhìn mới, trong đó điểm quan trọng là mỗi người hãy tự xét lấy cách ăn thói ở của mình thay vì xét đoán cách ăn thói ở và số phận của kẻ khác.
Phê bình, xét đoán người khác là một việc làm thường gây thích thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác mình là người tốt, hoặc ít nữa, cũng không phải là người tồi tệ, đốn mạt. Người xưa có khuyên kẻ quân tử hãy tự kiểm mỗi ngày ba lần để sửa mình. Trong dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu cũng không ngừng nhắc nhở dân chúng sám hối. Người đưa ra hình ảnh cây vả trồng trong vườn nho là hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh Thánh khi nói về người Israel và dân Israel. Cây vả ở đây là một cây vả đã ba năm rồi mà không hề sinh hoa kết quả. Ba năm Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân chúng, thế mà có mấy ai thu lượm được hoa trái. Đúng ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên những con người ù lì ương ngạnh kia như lời Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha nhân ái và giàu lòng thương xót, Người vẫn độ lượng và gia hạn cho họ thêm một thời gian để ăn năn hoán cải. Vì yêu thương, Người đã dằn cơn giận và cho họ thêm một cơ hội nữa: Hãy sám hối khi vẫn còn thời cơ. Chúng ta thường mải miết lo toan cho cuộc sống vật chất mà lơ là với cuộc sống tâm linh, đã biết bao năm rồi, chúng ta như cây vả được trồng trong vườn nho của Thiên Chúa, chúng ta đã mọc lên ra sao, chúng ta xanh tươi cành lá hay chúng ta quắt queo cằn cỗi, chúng ta đâm bông kết trái hay chẳng có quả nào, chúng ta có tìm hiểu tại sao mình ở trong tình trạng hiện nay hay không, chúng ta có kế hoạch cụ thể nào để phát huy những điểm tốt và khắc phục những điểm xấu của mình hay chưa, ngày hôm nay của chúng ta có khác hơn ngày hôm qua không, chúng ta có quyết tâm làm cho ngày mai của chúng ta khá hơn ngày hôm nay hay không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói rằng: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được”. Xin cho con luôn kết hiệp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình để cuộc sống của con được sinh nhiều hoa trái tốt lành làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.

33. Chúa đợi ta
Cùng với Giáo hội ta đã đi gần nửa chặng đường của Mùa Chay năm nay. Xin được phép dừng lại đôi chút để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại tâm tình của mình. Ta đã sống và nhất là đang có tâm tình nào trong Mùa Chay năm nay? Điểm trọng yếu của Mùa Chay là Giáo hội muốn mọi thành phần dân Chúa ý thức thân phận của mình. Ý thức về sự yếu đuối của mình để rồi ta biết phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa trung thành. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Và Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa khoan dung. Chắc chắn là không ai trong chúng ta dám cho mình là kẻ vô tội hay là người công chính trước mặt Chúa. Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ ai trong chúng ta đều là kẻ có tội trước mặt Chúa. Dù vậy, nhiều khi ta lại có thái độ ” Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán ” hay ” Chỉ thấy cái rác trong mắt anh em còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy ” (Mt 7, 3) như những người Do thái trong Tin mừng hôm nay.
Có lẽ, họ hãnh diện lắm khi kể lại cho Chúa Giêsu chuyện một số người bị tổng trấn Philatô giết. Họ nghĩ rằng vì mình công chính hơn nên đã không bị giết như những người kia. Thật là một sai lầm lớn. Mỗi người chúng ta được sinh ra làm người, được sống và được mọi ân huệ của Thiên Chúa không bao giờ là do công trạng của mình. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban cho.
Những gì Thiên Chúa ban cho, Người chỉ mong rằng ta biết dùng nó mà sinh ích lợi cho mình và cho mọi người. Thiên Chúa đang chờ đợi đời sống ta sinh hoa kết trái. Muốn được sinh hoa kết trái ta hãy để cho Người vun xới. Khi ta đến với Người qua việc lãnh nhận các Bí tích, khi ta đến với Người trong các giờ kinh nguyện…là ta đang để cho Người vun xới.
Đồng thời Người cũng kêu gọi ta cộng tác vun xới với Người. Ta cộng tác với Người bằng cách đem niềm vui và hạnh phúc đến cho những người anh chị em xung quanh. Ta cộng tác với Người bằng việc xây dựng tình đoàn kết và yêu thương nhau trong gia đình hay cộng đoàn ta đang sống.
Tóm lại, Thiên Chúa không nỡ “chặt” ta dù rằng có khi ta làm phiền lòng Người hay đời sống ta không sinh hoa kết quả. Thiên Chúa luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để ta sinh hoa kết trái đem lại lợi ích cho ta và cho mọi người. Hãy biết luôn tận dụng những cơ hội tốt đó.

34. Mua thời gian – Lm. Vũ Đình Tường
Câu nói có tiền mua gì cũng có rất đúng cho chủ thuyết duy vật chất, như nhà cửa quần áo, đồ dùng. Chủ nghĩa trọng tinh thần cho thấy người dù có nhiều tiền cũng không mua được trí thông minh, tính khiêm nhường hay lòng bác ái như thế sức mạnh đồng tiền, dù có quĩ tiền tệ quốc tế bảo chứng, cũng có giới hạn riêng của nó. Về phương diện tâm linh, nhất là khi phải đối diện giữa sống và chết thì tiền hầu như trở thành bất lực. Đồng í có người may mắn nhờ nhiều tiền cơ hội chữa lành bệnh cao hơn. Điều này không có nghĩa người giầu, kẻ uy quyền sẽ không bao giờ chết. Ngày nào đó họ cũng phải ra đi. Khi sống tiền của, chức tuớc họ có là kẻ đồng hành như bóng với hình nhưng khi chết họ ra đi trong cô đơn, độc hành vì tiền bạc họ có lìa xa họ. Trái lại kẻ tin vào Đức Kitô suốt đời họ luôn cùng đồng hành với Ngài và cùng đồng hành trên đường về thiên quốc.
Ai cũng biết của cải vật chất cần cho sự sống và làm cho cuộc sống thoải mái hơn. Của cải vật chất ít nhiều cũng đóng vai trò giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa nhưng của cải vật chất tự nó không có khả năng dẫn ta đến với Đức Kitô. Thực ra của cải vật chất một mặt mang lại cơm no, áo ấm mặt khác lại tạo nên sức ép, đè nén, mà không ai có thể chối bỏ được thực tế dồn ép này của cuộc sống. Sức dồn ép được coi là gánh nặng cuộc đời của mỗi người. Khi sức ép trở thành gánh nặng quá mức chịu đựng, tinh thần người đó bị suy sụp, trở thành nạn nhân của gánh nặng cuộc đời. Để gánh nặng trở nên nhẹ nhàng hơn Đức Kitô vạch ra cho những ai tin vào Ngài một con đường, giúp người đó học cách trút bỏ gánh nặng cuộc đời.
Cách học trút bỏ gánh nặng cuộc đời chính là rộng mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa và thực hành giáo luật yêu thương. Đặt niềm tin vào Đức kitô là chọn đúng con đường dẫn đến hạnh phúc thật và sự sống trường sinh vì chính Ngài xác nhận Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chọn theo Đức Kitô là chọn đúng đường dẫn đến hạnh phúc thật. Chọn dẫn đến sự thật mà sự thật có sức mạnh giải thoát con người khỏi gánh nặng cuộc đời. Chọn sự sống Đức Kitô ban chính là sự sống vĩnh cửu chỉ mình Đức Kitô có và ban cho những ai mong mỏi kiếm tìm sự sống đó.
Đôi khi chúng ta thất bại trong việc tin theo Đức Kitô. Trong trường hợp đó Ngài không bỏ rơi chúng ta nhưng ban cho chúng ta một giải pháp khác giúp ta trở về với Ngài. Giải pháp đó được coi như là cách mua thời gian. Làm sao để mua được thời gian đó. Thưa câu giải đáp tìm thấy trong cuộc đối thoại giữa chủ nhân và người làm vườn trong bài đọc hôm nay.
Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. vậy anh chặt nó đi để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp. Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu khôn thì ông sẽ chặt nó đi Lc 13,7-9
Xin cho thêm một thời gian nữa, một cơ hội nữa là điều người làm vườn xin lòng từ bi, hỉ xả, bác ái từ ông chủ. Xin cho một cơ hội để thay đổi, hoán cải, từ bỏ lối cũ quay về lối mới. Lòng thương xót của ông chủ phát sinh từ tình yêu bao la và chính tình yêu bao la khiến ông chủ ban thêm một cơ hội. Chỉ một cơ hội thôi sao? Thưa không, hàng năm Giáo Hội luôn tạo thêm một cơ hội, tuỳ theo mùa phụng vụ và mỗi mùa phụng vụ lại tạo thêm một cơ hội giúp con người hồi tâm quay về với Thiên Chúa. Tình yêu Chúa thể hiện qua Giáo Hội trong việc kiên trì chờ đón con người thống hối trở về, không phải một năm mà hàng năm. hết năm này sang năm khác, Giáo Hội luôn mở rộng vòng tay đón nhận ta quay về cùng tình yêu Chúa để gánh nặng cuộc đời giảm nhẹ, hưởng hạnh phúc thật và sự sống thật.

35. Cơ hội cuối cùng – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp chán.”
Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày mai còn kịp”.
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).
Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập xuống trên họ” (1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13:3).
Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi, nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc 13-8-9a).
Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.
“Dụ Ngôn Cây Vả” không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.
“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.
Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống, thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.
Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân thành:
“Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ như là vào mồ chết vậy.
Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết trong sự kính sợ Chúa.
Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng. Amen.
Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự sống con trong tay ba Đấng.
Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba Đấng.”
Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến muôn đời.

36. Có sám hối, có sự sống
(Suy niệm của Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ., dongten.net)
Bối cảnh sơ lược
Bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh ĐỨC GIÊSU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM (Lc 9,51 – 19,27). Đây là cuộc hành trình Chúa Giêsu hướng về con đường khổ nạn và sự chết, để rồi Ngài sẽ phục sinh.
Cụ thể hơn, trước đó trong chương 12 Chúa Giêsu đã giảng lời những bài giúp ích cho mọi người, như lời động viên các môn đệ hãy nói công khai và đừng sợ (Lc 12,1-12); lời huấn giáo cho đám đông đừng thu tích của cải cho mình (Lc 12,13-21); tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Lc 12,22-32), bán của cải đi mà bố thí (Lc 12,33-34). Sau đó Chúa Giêsu cũng nói lên thái độ của Chúa trước cuộc thương khó (Lc 12,49-50).
Sau bài Tin Mừng nhắc nhớ về sự sám hối mà chúng ta tìm hiểu và suy niệm, Luca kể cho chúng ta nghe về việc Chúa chữa một phụ nữ còng lưng ngày Sa-bát và sau đó là một số dụ ngôn.
Ngoài ra, hai phần này bắt đầu chương 13 của Luca và các tác giả phúc âm khác không có ghi lại. Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Sau đó, Chúa Giêsu kêu gọi trực tiếp về việc hoán cải. Chúa Giêsu thêm vào dụ ngôn cây vả mà người chủ muốn chặt bỏ bởi vì nó không sinh trái; ở đây cũng là lời kêu gọi khẩn thiết thay đổi cuộc sống.
Cấu trúc đoạn Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng có thể chia làm hai phần rõ rệt:
1. Lời mời gọi sám hối: Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết (câu 1-5)
2. Dụ ngôn cây vả không ra trái (câu 6-9).
Tìm hiểu và suy niệm
1. Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2. Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy
Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Biến cố đầu tiên là chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Như thế, những người Ga-li-lê ở đây là khách hành hương về Giê-ru-sa-lem để dự lễ. Nhưng lễ đó là lễ nào? Các nhà chú giải giả thiết là có thể dịp dâng chiên Vượt Qua. Tuy nhiên, biến cố đó chính xác là biến cố nào, các nhà chú giải không biết, dù cho với người Do-thái thì Phi-la-tô trong thời gian làm tổng trấn xứ Giu-đê, ông là người tàn ác và không nhượng bộ, và ông được biết tới với những vụ đàn áp đẫm máu.
Theo cha Piere Cardon, mặc dù chúng ta không có những nguồn khác nói về sự kiện này, nhưng một biến cố thuộc loại này không phải là khó tin trong tình hình cai trị tàn ác của Phi-la-tô thời đó. Đàng khác, người Ga-li-lê có xu hướng nổi dậy và tấn công, nhất là trong trường hợp những người Zelote mà đảng của phát triển tại Ga-li-lê và mục đích là dùng bạo lực để thay đổi chính trị. Những cuộc hành hương mừng lễ vượt qua mang lại cho họ một dịp để gây lộn xộn trong thành Giê-ru-sa-lem. Phi-la-tô là một người tàn ác và khắt khe. Hành vi đàn áp này càng ghê tởm hơn, khi ông trộn máu của những người đang dâng lễ với máu của những con chiên mà họ đang dâng hiến…Sự kiện được kể lại chắc đã có một tiếng vang lớn. Mọi người tỏ ra tức tối khi thấy máu người đổ ra trong đền thờ, thấy sự xúc phạm đến các lễ vật, và nhận thấy rằng người La-mã thậm chí không ngại xúc phạm những gì được hiến dâng cho Thiên Chúa.
Ngoài ra, Piere Cardon còn đưa ra một giả thiết, là nếu người ta dựa vào “cái nhìn chính trị” và kể cho Chúa Giêsu nghe biến cố đó để cố ý gài bẫy Chúa, thì Chúa trả lời sao đây. Nếu Chúa nói: “Những vụ tàn sát này rõ ràng là bất công, đàn áp, thì họ có thể tố cáo Ngài với chính quyền La-mã”. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy, Ngài từ chối tham gia lãnh vực chính trị trần tục, Ngài không bao giờ chọn lựa bạo lực làm phương tiện để mang lại hoà bình. Và nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ tỏ quan điểm trong những cuộc xung đột đối kháng và chia rẽ này. Cho nên Ngài đến để quy tụ và hợp nhất các con cái của Thiên Chúa bị phân tán (x.Ga 11,52). Điều này cũng giải thích việc từ chối dấn thân chính trị rõ ràng về phía những người mà Chúa Giêsu phái đi loan báo Phúc Âm cho khắp thế giới. Như thế, thay vì đi vào vết chân “chính trị”, Chúa Giêsu kêu gọi họ ăn năn hối cải theo tinh thần tôn giáo.
Luca diễn tả Chúa đã mở lời nói với họ: “Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Trước hết chúng ta dừng ở câu đầu tiên của Chúa Giêsu Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Câu này lột tẩy một thói quen là người ta dễ dàng nhìn đến tội lỗi và lẫm lỡ của người khác, còn bản thân mình thì không ý thức để sám hối ăn năn. Điều thứ hai mà qua câu này chúng ta thấy được, đó là thói quen suy nghĩ của người Do-thái, là sẽ không có hình phạt nếu không có tội. Như thế, họ tin rằng các tai hoạ xảy đến là hậu quả tội lỗi mà họ đã phạm trước đó. Sách Gióp có viết rằng:
“Điều tôi thấy rành rành
là những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc hoạ
cuối cùng chỉ gặt lấy hoạ tai” (4,8) &
“Con cái anh mà đắc tội với Người,
Người bắt chúng phải gánh
những hậu quả do tội ác chính mình đã phạm” (8,4).
Chúa Giêsu không theo cái nhìn này của người Do-thái. Với Ngài điều quan trọng là tinh thần sám hối và ăn năn. Vì thế, Chúa đã dựa vào điều người Do-thái thường nghĩ, để dạy dỗ họ tinh thần sống của Tin Mừng. Đó là Chúa mời gọi họ quan tâm đến sự hoán cải riêng thay vì quan tâm tới những lầm lỗi của người khác. Chúng ta nghe Chúa nói với các phụ nữ trên đàng Thánh Giá: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Về tinh thần mời gọi sám hối, cụ thể hơn, Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố thứ hai mà người Do-thái biết tới.
4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Tháp Si-lô-ác được nhắc đến ở đây là tháp nào? Theo cha Pierre Cardon, Ở phía nam Giê-ru-sa-lem, bức tường thành chạy tới tận giếng Si-lô-ác. Có thể ở đây có một cái tháp trên tường thành; người ta giả thiết rằng tháp này ngã khi Phi-la-tô cho làm công trình dẫn nước. Các thính giả của Chúa Giêsu nhớ lại tai hoạ làm 18 cư dân thành Giê-ru-sa-lem bị chết. Tai nạn này là một thảm kịch mà con người không trực tiếp gây ra – ít ra là do sự cẩu thả của những thợ xây tháp.
Sau khi Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố đó, lần thứ hai Ngài kêu gọi sám hối: nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Chữ hết trong câu 5 này cũng đã được nhắc đến trong câu 3 trước đó và ở trong cùng một ý nghĩa: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Điều này không chỉ nói lên sự liên hệ chặt chẽ giữa hai câu và hai biến cố, mà còn qua đó còn nhấn mạnh đến sứ điệp chính yếu là “sám hối hoặc là chết”, “có sám hối có sự sống”. Hơn nữa, còn ám chỉ đến cái chết không chỉ đến với một cá nhân, mà tất cả những ai không sám hối thì sẽ lãnh nhận hậu quả đau thương đó.
Ngoài ra, Pierre Cardon một lần nữa nhấn mạnh rằng, đối với Chúa Giêsu không có mối liên hệ giữa tai hoạ và tội lỗi. Việc tìm kiếm thủ phạm thì quá dễ để không hối hận gì. Lầm lỗi thuộc về ai? Chính những người khác phải chịu trách nhiệm…! Đối với Chúa Giêsu đây không phải chuyện nói về “những người khác”. Ngài đưa người ta về với lương tâm của chính mình: “các ông tham dự vào bạo lực”. Chính tâm lòng con người, hơn là các cơ cấu, phải thay đổi. Nơi chốn duy nhất mà tôi có quyền lực thực sự, chính là hạnh kiểm của cuộc đời tôi, của sự hoán cải của tôi. Trốn tránh trách nhiệm của mình bằng cách tố cáo những người khác là điều vô ích. Các thảm hoạ đặc biệt không chỉ ra trách nhiệm của cá nhân, nhưng chúng có thể được xem như là những cảnh báo về sự phán xét của Chúa. Tất cả đều là người tội lỗi, tất cả đều phải đương đầu với cái chết, tất cả đều được đặt dưới sự phán xét của Chúa. Dó đó tất cả mọi người đều cần hoán cải nếu muốn khỏi bị phán xét và lên án.
Mỗi dịp mùa Chay, Ki-tô hữu lại có cơ hội để suy tư và sống tinh thần sám hối thực sự. Tro xức trên đầu ngày thứ Tư lễ tro với câu nói: “Hãy trở về và tin vào Tin Mừng” hoặc “Hãy nhớ mình là bụi tro” đều mang một sứ điệp rõ ràng và mạnh mẽ: “sám hối”, và khi sám hối thì dẹp qua mọi thói kiêu căng, thói đạo đức giả… Và chúng ta sám hối, một đàng chúng ta ý thức thân phận mỏng dòn và yếu đuối của bản thân, một đàng khác chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ chúng ta trong sứ điệp mùa Chay năm 2016, năm Thánh Lòng Thương Xót: “Lòng thương xót ‘diễn tả cách thức Thiên Chúa đến với tội nhân, trao cho họ một cơ hội mới để nhìn lại chính mình, để hoán cải và tin vào Thiên Chúa’ (Misericordiae Vultus, 21), và nhờ đó, có thể phục hồi lại mối tương quan với Người. Trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã bày tỏ khát khao của Ngài được đến gần với các tội nhân, dù họ có lạc xa Ngài đến thế nào đi nữa. Bằng cách này, Người hy vọng làm cho trái tim chai cứng của Tân Nương được mềm mại hơn” (số 2) và “chúng ta đừng lãng phí mùa Chay này, vì đây là thời gian thuận tiện cho việc hoán cải! Chúng ta cầu xin điều này nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã gặp được lòng thương xót lớn lao đã tuôn đổ dồi dào trên Mẹ, là người đầu tiên thừa nhận sự thấp hèn của mình (Lc 1, 48) và gọi mình là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa (x. Lc 1, 38)” (phần kết).
Ngoài ra, một suy tư khá hay của cha Pierre Cardon, là khi quan sát Chúa Giêsu và cách hành xử của Ngài, chúng ta thấy đứng trước sự ác, Chúa Giêsu đưa ra những lời kêu gọi. Cụ thể, kế bên tinh thần sám hối là căn bản và nền tảng, có hai thái độ cần tránh đi. Trước tiên là thái độ chìm đắm trong những giải thích về nguyên nhân của sự ác và tìm những câu trả lời gán trách nhiệm cho “những người khác”, nói họ còn tội lỗi hơn nữa, tại hoạ họ phải chịu còn lớn lao hơn nữa. Thái độ thứ hai cũng cần phải tránh, đó là những người tiêu cực quá ý thức về những giới hạn của con người, nên họ thất vọng hoàn toàn và không phấn đấu cố gắng và tiếp tục tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa toàn năng và từ nhân.
Kế bên đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy mắt nhìn vào hoàn cảnh của người tội lỗi, và đừng quên rằng mỗi người chúng ta cũng là người tội lỗi, và vào thời gian luôn luôn thuận lợi, để tiếp nhận tin vui tình yêu của Thiên Chúa.
6 Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?8 Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Sau phần đối thoại trực tiếp với đám đông, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn cho họ nghe. Ở đây, chúng ta hỏi dụ ngôn là gì? Frère Théophile Penndu giải thích như sau: “Dụ ngôn: Nguyên ngữ Hy Lạp là: Para Ballein: ném qua một bên, phóng chiếu, gợi chú ý để đi xa hơn… từ đó mà có từ Antenne Paraboles để trên mái nhà, bắt sóng và hình ảnh để chiếu to lên trên màn hình. Dụ ngôn là gì? Là một kiểu nói rất phổ biến trong thế giới Do-thái. Nó thường là một sự so sánh, một ẩn dụ, một hình ảnh được kể lại dưới hình thức một câu chuyện cụ thể và lôi cuốn mượn từ cuộc sống hằng ngày, với mục đích khiến cho người nghe suy nghĩ không phải về những ý tưởng trừu tượng mà về những thái độ sống”.
Ngoài ra, dụ ngôn có lợi gì? Frère Théophile Penndu giải thích tiếp: “Dụ ngôn là phương pháp sư phạm rất hiệu quả. Nó bắt người nghe phải có thái độ, có lập trường chứ không trung dung được…dụ ngôn khiến người nghe phải có lập trường, phải dấn thân vào một tình huống cụ thể. Nhưng câu chuyện kể khéo đến độ người nghe không biết là nói về mình. Một cách nào đó, các nhân vật trong dụ ngôn dấu mặt tới cuối mới lộ ra”.
Còn với Chúa Giêsu, Ngài dùng dụ ngôn nhứ thế nào? Theo Frère Théophile Penndu “Là nhà sư phạm lão luyện và tâm lý gia đại tài, Chúa Giêsu biết rằng thính giả của mình có những quan niệm rất sai về Thiên Chúa và về cách thế đi theo Người. Song Ngài không muốn chặn đầu họ ngay: ‘Ông lầm rồi, ông không hiểu gì cả…’ Ngài thích giúp họ dần dà khám phá ra sự thực về chính mình một cách bất ngờ khởi đi từ việc quan sát những sự kiện trong đời thường. Như vậy, Chúa Giêsu giúp họ nắm bắt được những thực tại thiêng liêng và đề cao những giá trị phổ quát về con người”.
Giờ đây, chúng ta đi vào dụ ngôn cây vả không trái mà Chúa Giêsu chỉ nói trong phúc âm của Luca (13,6-9).
Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy có hai nhân vật. Người chủ vườn và người làm vườn. Hình ảnh được nói tới là một cây vả được trong vườn nhỏ của chủ vườn. Pierre Cardon giải thích rằng, trong những vườn nho ở Palestine, người ta tự ý trồng cam quýt hoặc cây ăn trái khác, nhất là cây vả. Các vườn nho được xem là những mảnh đất rất thuận tiện để trồng cây vả. thậm chí cây vả cũng phát triển tốt tại những thửa đất khá bạc màu; vườn nho là mảnh đất rất tốt. Việc chăm sóc cây vả cũng như các cây nho được ông chủ giao phó cho người làm vườn.
Giờ đây, đi vào diễn tiến của dụ ngôn, chúng ta đọc thấy: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Như thế người chủ ra cây vả tìm trái, nhưng ông ta không tìm thấy trái nào cả. Đó là tình trạng của cây vả. Tình trạng này đã đưa lại tâm trạng thất vọng của ông chủ vườn. Lý do ông thất vọng là gì? Ông đã nhẫn nại đợi cây vả này trong vòng 03 năm và mong ngóng nó ra trái, nhưng cuối cùng ông đã thất vọng.
Về con số 03 năm, Pierre Cardon giải thích rất có lý, người ta đồng ý để ra ba năm cho cây phát triển. Trong ba năm này, không được thu hoạch trái. Ở đây, chúng ta đọc trong sách Lêvi 19,23-25: “23 Khi các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn.24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng ĐỨC CHÚA.25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi”.
Như thế, ba năm cây vả lớn lên dù có trái thì người trồng vườn cũng không chú ý tới. Rồi tới năm thứ 4, tất cả các trái của cây vả được dâng lên cho Thiên Chúa. Nghĩa là từ năm thứ năm trở đi người chồng vườn mới chú ý đến hoa trái của cây vả. Theo sự giải thích này, thì cây vả đã trồng được 07 rồi, nghĩa là 04 năm đầu ông chủ không chú ý đến việc cây vả ra trái cộng với 03 năm liên tiếp ông chủ chú ý xem cây vả ra trái thế nào, thì đều không tìm thấy trái. 07 năm rồi mà không ra trái, thì tình hình có vẻ không hy vọng gì nữa. Nếu việc xác định biểu tượng trong dụ ngôn là đúng, thì có thể nói đã đủ thời gian để cây vả sinh hoa kết trái. Ông chủ đã đợi một cách kiên nhẫn; hơn cả thời gian bình thường để cây ra trái. Kết luận về điều này được nói lên trong phần kế tiếp, khi ông chủ vườn ra quyết định dứt khoát và nói với người làm vườn anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Quyết định này của ông chủ, một cách nào đó có lý, vì cái cây xấu này không chỉ không sinh trái, mà còn choán chỗ những cây khác và làm đất bạc màu là thứ thể được dùng cho các cây khác. Cây vả hấp thụ nhiều yếu tố dinh dưỡng trong đất, cũng bằng các cây nho chung quanh nó hấp thụ. Có những cây vả không sinh trái, chẳng hạn phát sinh từ những hạt bị thoái hoá. Cho chặt cây vả là một hành động khôn ngoan. Cho nên tốt hơn là trồng một cây khác có khả năng sinh trái. Trước quyết định của ông chủ, người làm vườn phản ứng ra sao?
“Nhưng người làm vườn đáp: Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. Kiểu nói, “người làm vườn đáp” mà Luca sử dụng ở đây làm cho đối thoại trong dụ ngôn sống động hơn, nghĩa là Luca sử dụng chất liệu được một người chứng kiến Chúa Giêsu giảng nói lại với Người.
Trong Tân Ước từ ngữ “phân” chỉ được tìm thấy ở đây. Theo Pierre Cardon, đây không phải từ ngữ thường dùng trong minh hoạ tôn giáo. Người làm vườn có thể đề nghị xới đất chung quanh cây hoặc tưới nước cho cây, hoặc chăm sóc, tỉa cành lại cho cây. Ngoài ra, cây vả là cây cần chăm sóc rất ít. Do đó đây là một cách thức khác thường người thợ làm vườn muốn thực hiện như một cố gắng cuối cùng.
Nhưng chúng ta có bao giờ nghe rằng bằng cách bón phân cho một cái cây không sinh trái chúng ta có thể làm cho nó sinh trái hay không? Nếu cái cây đã “vô sinh”, thì nó không bao giờ ra hoa kết trái. Dù sao người làm vườn cũng mất công thử làm điều không thể xảy ra! Đây thực sự là một việc đối xử ân huệ dành cho cái cây không sinh trái. Trái với mọi hy vọng, người làm vườn vẫn còn hy vọng.
Như thế, trong dụ ngôn cây vả đây, lòng thương xót và sự phán xét được diễn tả thật sống động. Các lời này được nhân cách hoá bởi ông chủ và người làm vườn là những người tranh luận về cái cây không sinh trái. Sự căng thẳng này nằm trong thẳm sâu con tim của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta có thể đọc lời của tiên tri Hô-sê:
“8 Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.
9 Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận,
sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa,
vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm.
Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh,
và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (11,8-9).
Trở về với dụ ngôn, chúng ta thấy thái độ đặc biệt người thợ làm vườn cho thấy Chúa Giêsu đưa ra một thái độ vượt lên trên trật tự loài người, thái độ của Thiên Chúa là Đấng không gì mà Ngài không làm được (x.Lc 18,27). Và Chúa Giêsu là trung gian. Sứ vụ của Chúa Giêsu là dấu chỉ đầy hiểu quả của sự lo lắng không mỏi mệt và lòng thương xót của Chúa Cha. Thiên Chúa không đành trừng phạt mà không thử hết mọi cách nhằm làm trái tim dân Ngài cảm động. Ngài muốn cứu thoát tất cả. Ngài chậm bất bình và đầy tình thương. Đây là niềm hy vọng của chúng ta.
Như thế, chúng ta được Chúa ban cho sứ điệp cao quý về lòng thương xót của Thiên Chúa, và sứ điệp là chúng ta cần chú trọng đến sự cấp bách của hoán cải và ăn năn.
Câu cuối cùng của người làm vườn “may ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Cách nói trong tiếng Hy-lạp “eis to mellon” được dịch là sang năm (cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là sau này). Nhưng chính xác có nghĩa là “trong tương lai”. Cho nên tiếng nói của bản văn càng nêu bật lời kêu cầu lòng thương xót và ân huệ của Thiên Chúa. Người làm vườn cầu xin lòng thương xót cho cây vả. Các yếu tố này được củng cố nếu người ta không xác định thời gian rõ rệt cho việc chặt cây. Thời gian phán xét trong tương lai vẫn không được xác định. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy từ ngữ “nếu không” cũng không được xác định. Theo Pierre Cardon, ý nghĩa rất rõ ràng; sau các “hành vi cứu độ” và sau thời gian đủ để đổi mới, cây vả phải đáp ứng. Nếu nó không có gì cả, sự chọn lựa duy nhất là phán xét.
Cuối cùng, dụ ngôn kết thúc với một sự bỏ ngỏ, cũng giống như một số dụ ngôn khác. Ông chủ có chấp nhận một kỳ hạn mới hay không? Cây vả sẽ sinh trái hay không? Chúng ta không biết.
Cuối cùng, yếu tố thời gian của giây phút hiện tại đóng vai trò quan trọng trong dụ ngôn này. Chúng ta ở vào giới hạn cuối cùng của khúc quanh quyết định xác định số phận của mỗi người; nếu chúng ta chậm trễ thay đổi cách sống và hoán cải, thì chúng ta sẽ chết mà không gì có thể cứu chữa được. Hạnh phúc thay những người mà ông chủ thấy sẵn sàng (x.Lc 12,37.38.40.43). Nhưng khốn thay những người khác vào thời hạn cuối cùng mà không sám hối. Thật vậy, có sám hối có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau.
Câu hỏi gợi ý
1. Cây vả không trái có thể là mỗi người. Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu. Tất cả những gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì anh em hãy làm cho họ (x.Mt 7,12). Đó là khuôn vàng thước ngọc của tình yêu. Bạn hãy nhìn lại cây vả đời bạn, xem cây vả đang ra trái nhiều không, hay là đang cằn cỗi và không có trái? Để cây vả đời bạn có trái, bạn nên có thái độ tích cực nào?
2. Chúng ta không nên lạm dụng sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và dù vậy, cho tới nay chúng ta đã bỏ lỡ dịp tốt. Thiên Chúa đã kiên nhẫn với con người, không mất hy vọng và mặc dù các dấu hiệu không sinh hoa kết trái của họ. Vì thế, chúng ta nên ý thức đừng phí phạm thời gian nữa: bây giờ chính là thời cứu độ. Có bao giờ bạn cảm thấy mình lạm dụng sự kiên nhẫn của Chúa không? Tại sao? Đừng phí phạm thời gian nữa. Ngày hôm qua không bao giờ trở lại.
3. “Có sám hối, có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau”. Bạn có đồng ý với tư tưởng này không? Với bạn sám hối nghĩa là gì? Bạn đã và đang có hành động và cách sống sám hối như thế nào? Thánh Augustinô nói rằng, để dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Sự cộng tác của chúng ta là yếu tố quan trọng để Chúa thương tha tội chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Sự cộng tác đó, là sự ăn năn sám hối thật tình của chúng ta.
4. Trong Thánh Kinh có nhiều câu chuyện sám hối, như người phụ nữ tội lỗi sám hối và khóc bên chân Chúa (Lc 7), dụ ngôn người cha nhân hậu và người con hoang đàng (Lc 15), Da-kêu sám hối (Lc 19), như hình ảnh của Phê-rô khóc lóc sám hối (Lc 22) và như người trộm lành sám hối (Lc 23)…Bạn thích câu chuyện sám hối nào nhất trong Thánh Kinh? Bạn hãy lấy câu chuyện đó, cầu nguyện, suy niệm và tâm tình với Chúa.
Tham khảo
– Pierre Cardon de Lichtbuer SJ, Các dụ ngôn về nước Trời, (cuốn 2),Tôn Giáo, t.819-863.
– ĐTC. Phanxico, sứ điệp mùa Chay 2016.
– Frere Théophile Penndu, Chúa Giêsu nói bằng dụ ngôn, Lm. Nguyễn Văn Diễm chuyển ngữ, phần giới thiệu tổng quát và dụ ngôn cây vả không trái (Lc 13,6-9).
Chuyện minh họa
1. Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. “Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
2. Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (GM Arthur Tonne).
3. Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Âu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief! Ăn trộm cừu! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng:”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
4. Cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
– Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói:
– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói:
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000? Hai ngàn rồi! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa!!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên:
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy!
Lập tức có tiếng đáp lại:
– Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).
5. Làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học
Nhà bác học Einstein: « Cha đẻ của nguyên tử lực” là một người Đức gốc Do thái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hitte. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet, dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941 bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói rằng: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học.”

37. Ăn năn sám hối
“Có người kể cho Chúa Giêsu nghe mấy người Galilê bị Philatô giết tại nơi họ tế lễ; máu họ hòa với máu tế vật. Chúa nói:….nếu anh em không lo sám hối, anh em cũng sẽ phải chết y như vậy.” (Lc 13, 2)
Có một chị nọ theo đạo chồng, đạo hạnh không tốt lắm, nên cũng lôi thôi việc đi nhà thờ. Sau đó hai vợ chồng ly dị nhau; người vợ từ đó làm ăn lên lắm và người vợ cũng xem ra muốn bỏ đạo luôn. Người chồng có vợ khác, và người vợ có bồ khác dù không ở chính thức. Người vợ mới hơn bốn mươi tuổi, một hôm, bất ngờ trong khi đi xe Honda, đã té ngã ra bất tỉnh, một lát sau thì chết luôn, chưa kịp đưa vào nhà thương chi cả. Một cái chết bất ngờ, không chờ đợi, khiến mọi người xung quanh hoảng sợ. Mấy câu chuyện được thuật lại trong bài Phúc âm chúa nhật hôm nay, cũng tương tự như thế; dù vậy cái nhìn của Chúa Giêsu, xem ra khác hẳn với cái nhìn của người đời, nhất là trong thời Chúa Giêsu.
* Kính mời anh chị em cùng suy niệm:
a. Chúng ta hãy xem lại câu chuyện của bài Tin Mừng: Có mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe: có mấy người Galilê đang tế lễ, họ đã bị Philatô giết. Máu của họ đổ ra hòa với máu tế vật họ đang dâng. Đây là một vụ nổi loạn của một số người Do thái; Philatô đã cho lính đến đàn áp thẳng tay. Sử gia Do thái là Joseph Flavius đã ghi lại khá rõ ràng…
Câu chuyện thứ hai: tháp Silôê ngã xuống đè chết 18 người. Đây là cây tháp được xây dựng trên bờ kinh đào trong thánh Giêrusalem, phía Tây Nam , không rõ vì lý do gì bỗng nhiên đổ sập xuống đè chết 18 người. Câu chuyện thứ ba, một dụ ngôn: Thấy cây vả trong vườn không sinh trái, ông chủ đòi đốn bỏ; nhưng người đầy tớ xin để lại vài năm, hi vọng sau khi chăm sóc bón phân cho nó, nó sẽ cho trái, bằng không sau đó sẽ chặt bỏ đi không muộn màng…
b. Hai chúa nhật tuần trước, phụng vụ Lời Chúa cho ta hiểu ý nghĩa của mùa chay là chịu thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Hôm nay Lời Chúa kêu mời chúng ta hãy sám hối chân thành bằng những việc làm cụ thể. Đưa ra hai biến cố chết người thê thảm, với hình ảnh cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu kêu mời phải thành tâm sám hối, để có thể sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi…
Chúa phán: Nếu anh em không lo ăn năn sám hối, anh em sẽ phải chết y như vậy…Từ thời Chúa Giêsu trở về Cựu Ước, người ta cho những người bị chết thê chết thảm, chết vì tai nạn bất ngờ… là do tội lỗi của họ. Điều này gần giống với quan điểm của Á Đông chúng ta: “Ác giả ác báo”. Qua bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn khác. Người nói: họ chết như thế, không hẳn vì tội lỗi của họ. Phần anh em, nếu không lo hối cải, anh em sẽ chết y như vậy.
Khi dùng hai biến cố chết người thảm thương này làm bối cảnh cho lời giảng dạy, Chúa muốn đánh đổ quan niệm củ, sai lầm của người Do thái, coi cái chết bất ngờ vì tai nạn, bệnh tật… là do tội lỗi mà ra. Rồi Chúa khẳng định: nếu không sám hối ăn năn, sinh hoa kết quả, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những kẻ đó. Họ sẽ bị Ông Chủ loại bỏ vĩnh viễn. Ông Chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa, và cây vả là ai ngoài người Kitô hữu, những người mà Chúa Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Người?
c. Gợi ý sống và chia sẻ: * Là người kitô hữu, ta hiểu rõ Thiên Chúa đầy lòng bao dung, sẵn sàng chờ đợi ta thống hối ăn năn, luôn gia hạn cho ta thêm cơ hội để ăn năn, như ông chủ chờ đợi cây vả sinh hoa trái trong bài Phúc âm này. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ sao đây? Ta có mau mắn lo chớp cơ hội, ăn năn sám hối tội lỗi của mình không?

38. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối.
Suy Niệm
Chúng ta vừa nghe trình thuật Bài đọc I kể về một Thiên Chúa rất mực thương dân, Ngài đã chọn Môisen với kế hoạch giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Lúc bấy giờ, vì sợ Pharaô lùng bắt, Môisen trốn trong sa mạc và làm nghề chăn chiên. Đang khi chăn chiên, một hôm bỗng Môisen được diện kiến Thiên Chúa. Ngài hiện ra với hình ảnh một bụi gai rực lửa nhưng không bị cháy rụi. Ngài gọi đích danh Môisen và nói: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…”
Thiên Chúa dùng Môisen đưa dân vượt qua Biển Đỏ an toàn. Ngài là Đấng quan phòng, yêu thương đồng hành và dẫn dắt dân dưới hình cột mây ban ngày, cột lửa ban đêm. Nhưng Bài đọc II cho chúng ta biết dân chúng lại sống không đẹp lòng Thiên Chúa. Họ đã quỵ ngã trong sa mạc vì chiều theo những dục vọng xấu xa. Tuy nhiên, Chúa không buông bỏ dân mà tiếp tục kêu mời dân hoán cải.
Và rồi trong cuộc sống, mỗi khi nhận thấy có một tai ương, ôn dịch, chiến tranh, hoạn nạn hay một biến cố xảy ra với ai đó, người ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái như “Trời phạt nó”. Chẳng hạn, thời Chúa Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy dùng vũ lực chống lại chính quyền Rôma và đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh giết chết. Theo quan điểm của họ, những người này chết là đáng tội. Còn mười tám người Do Thái bị tai nạn lao động, tháp Silôác đổ xuống đè chết đang khi được thuê đào đường dẫn nước cho quân Rôma đế quốc áp bức, nên cũng là đáng tội.
Thực ra, khi một biến cố xảy ra có thể là do hấp lực trái đất, sự mỏng giòn của kiếp người, những sai lầm không tránh được. Nên tai nạn xảy đến với ai thì không nhất thiết do họ có tội hơn những người khác; trong khi những người khác dễ nghĩ mình sạch tội nên vẫn còn bình yên. Không khéo điều này đưa người ta đến sự tự cao và an toàn giả tạo. Chúng ta đừng gán ghép bất hạnh, nghèo nàn với tội lỗi, hay thành công và giàu sang là được ban thưởng.
Chúa Giêsu coi biến cố đau thương của một sự việc tai nạn mất mát như một sứ điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi mau hối cải để khỏi chịu chung số phận: “Nếu các ngươi không hối cải, hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Vì biết đâu chừng đây có thể là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống trên chúng ta. Vậy chúng ta cần hoán cải thế nào?
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả được trồng trong vườn nho để ví về mỗi chúng ta. Một cây vả không có lợi về kinh tế lắm và cũng không có giá trị bằng cây nho, thế nhưng nó vẫn được trồng trong vườn nho. Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối. Ngài còn là người chủ vườn kiên nhẫn chờ đợi một năm, hai năm, rồi ba năm… Cây vả được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó.
“Nhất quá tam”, hay “quá tam ba bận” diễn tả sự kiên nhẫn chịu đựng của một người. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng vì cây vả không sinh trái nên ra lệnh cho chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất. Ông chủ không hề bốc đồng hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông không muốn đầu tư cho một sự vô ích.
Anh làm vườn xin chủ gia hạn thêm một năm nữa thôi, vì anh còn chút hy vọng và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cẩn thận, và chờ đến mùa này năm sau. Anh kiên nhẫn, hy vọng nhưng cũng đòi hỏi cương quyết: nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ. Đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Cây vả ấy muốn nói về mỗi chúng ta, tự bản thân chúng ta mới biết kết cuộc của cây vả. Vì thế mà đoạn Tin Mừng để mở ngõ cho mỗi người chúng ta viết lên phần sau đó: liệu cây vả ấy có ra trái như ông chủ mong đợi không là phần quyết định của mỗi chúng ta.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được an phận. Vì thế mà một người được xem là tốt lành có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết. Rất nhiều người cảm thấy bằng lòng với chính mình khi đi lễ mỗi tuần, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, tham gia công tác giáo xứ và đóng góp vào nhà thờ thường xuyên nên không cần sám hối… Giây phút này đây, chúng ta cần tỉnh thức với câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); Coi chừng, tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,23).
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ một ai. Sám hối và thay đổi đời sống cũ không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Đây là lời kêu gọi nhắm đến mọi người. Người chủ muốn đốn cây vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như lý ra nó phải sinh. Một Kitô hữu mà sống không có Chúa Kitô thì không phải là Kitô hữu. Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn thực thi cái tốt, điều thiện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý Hội thánh Công Giáo còn đòi buộc cả những điều tích cực “Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta”.
Câu chuyện vào một đêm bão tuyết rơi lạnh lẽo, bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí xong, người thanh niên quay gót. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu là có nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên vô gia cư mới qua đời. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy xấu hổ. Ông hối hận vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Chúng ta được thôi thúc phải hoán cải ngay lúc này, khi đang còn thời giờ mới kịp. Mùa Chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ. Đừng để mùa Chay năm nay trôi qua vô ích.

39. Hai bài học từ hai bài đọc
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Hôm nay ta sẽ rút ra hai bài học từ hai bài đọc. Bài học một từ bài đọc một. Bài học hai từ bài đọc ba, tức bài Tin Mừng.
1. Bài học một.
Bài đọc I trong 5 Chúa nhật Mùa Chay cứ tuần tự thuật lại 5 giai đoạn trong lịch sử cứu độ, hay còn được hiểu là 5 giai đoạn trong cuộc hành trình loài người tìm gặp Chúa (1). Hôm nay tới giai đoạn của Môsê. Bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng để ý là Chúa không hiện ra với ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc (thật ra thời dân ở Ai Cập làm gì có đền thờ, nhưng chí ít cũng chọn một nơi “ngon” hơn một chút); và hay ho hơn nữa, Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông đang chăn cừu. Vậy là, Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi “phàm trần” và trong một sinh hoạt “phàm trần.”
Chúng ta có biết đặc điểm của người giáo dân được CĐ Vatican 2 kể ra là gì không? Hãy mở Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương 4, bàn về giáo dân, số 31, thấy ngay: “tính cách phàm trần (trần thế) là tính cách riêng biệt và đặc thù của người giáo dân” mà người giáo dân chiếm 99,99% Dân Chúa.
Vậy là, Chúa không bắt người giáo dân phải vào đền thờ mới gặp được Chúa. Sẽ có lúc Chúa đòi như thế, như hôm nay Chúa nhật ta đến Nhà Thờ (nhưng đó không phải là bài học ta rút từ bài đọc 1 hôm nay). Chúa cũng không đòi chúng ta phải ngưng công việc thường ngày, rồi quỳ đọc kinh cầu nguyện, bấy giờ Chúa mới hiện ra. Không. Ngài đã gặp Môse đang khi ông chăn cừu, trong sa mạc đất phàm.
Khi ở Chicago, ghé thăm văn phòng của một bà giáo dân làm việc cho giáo xứ, tôi ngạc nhiên thấy trong phòng bà lúc nào cũng có ngọn nến. Bà tới nơi làm việc, việc đầu tiên là đốt ngọn nến. Hỏi bà lý do, bà có sẵn ngay: nơi làm việc là nơi thánh.
Ta thử đọc lại câu chuyện Mô-sê: Hãy cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Mà Chúa chẳng ngại gì hiện diện giữa nơi phàm trần, nơi mà người giáo dân sống và làm việc. Ta nghe thêm Công Đồng nói: “Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả dệt thành đời sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, (…) để họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình: tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác.”
Không cần thắp lên ngọn nến bằng sáp như bà kia khi đến nơi làm việc, nhưng cứ buôn bán lương thiện, chạy xe (ôm, xích lô, taxi, tải…) không ép giá, thi cử không quay cóp, dạy học theo lương tâm, làm các nghề sự nghiệp hành chánh công minh chính trực, chu toàn bổn phận cha mẹ, vợ chồng con cái trong gia đình…, ắt sẽ là những ngọn nến có khi còn sáng hơn ngọn nến sáp kia nhiều, vì được đốt bằng tim gan, xương máu của ta. Làm việc tận tuỵ sao không tiêu hao xương máu được !
Vậy là bài học một rút từ bài đọc một là ta hãy biến nơi phàm trần ta ở, chốn trần thế ta làm việc trở thành nơi thánh bằng cách để Chúa đến ở với ta.
2. Bài học hai
Bài học hai rút ra từ bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng nhắc đến 2 biến cố đẫm máu, tuy thua xa các vụ bắn chết 50 người tại hai đền Hồi giáo bên New Zealand mới đây, hay không kêu to như vụ nổ ở thành phố cảng Thiên Tân Trung Quốc năm nào (12-8-2015), cũng không dã man như vụ giết 6 người tại Bình Phước 4 năm trước đây (7-7-2015), nhưng cũng gây kinh hãi: “Khi ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.” Vậy là họ bị giết ngay trong khu vực đền thờ, mới có máu chiên bò sát sinh hoà lẫn với máu của người bị giết. Đó là chuyện người ta kể cho Chúa nghe.
Đáp lại, Chúa kể cho họ nghe chuyện mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Nhà thờ Ngọc Lâm, tỉnh Thái Nguyên sáng 17-1-13 sập mái, chết mấy người, bị thương trên 5 chục. Cũng ghê ! Ta thử theo chân các nhà lịch sử Kinh Thánh để hiểu hơn một chút hai cuộc chết chóc mà Tin Mừng nhắc đến. (2)
Lúc đó Phi-la-tô, tên rất quen thuộc, vì ta có nhắc đến tên ông quan này trong kinh Tin Kính, Philatô có một quyết định rất tốt rằng Giê-ru-sa-lem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông quyết định xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một phần tiền của Đền Thờ. Nghe đến ý tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ vào việc không phải đền thờ (trần thế) cũng đủ khiến dân Do-thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Phi-la-tô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Lính được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, lính xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân người Galilê.
Còn về phần mười tám người bị tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Nhưng có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Phi-la-tô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó từ đền thờ, tức là một cách lấy trộm của Chúa. Khi tháp Si-lô-ê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó, cho nên Chúa phạt nhãn tiền. Người Do-thái đã nghiêm khắc kết buộc “đau khổ” và “tội lỗi” với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7) Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giê-su đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như người mù thủa mới sinh: “chẳng phải lỗi nó, chẳng phải tội cha mẹ nó.”
Mà thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Thánh vịnh nói: «Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân». Các Ki-tô hữu thời sơ khai, các thánh tử đạo, thường là những người hiền đức nhưng cuộc đời của họ nhiều khi gặp toàn nghịch cảnh, và có khi phải chết một cách thảm thiết. Chẳng hạn rất nhiều Ki-tô hữu bị Nê-rô cho sư tử xé xác và bị thiêu sống tập thể. Chính thánh Tê-rê-xa A-vi-la cũng gặp rất nhiều thử thách, đến nỗi bà phải than với Chúa: «Bây giờ con mới hiểu tại sao Chúa lại quá ít bạn như thế, vì Chúa thường đối xử với bạn thân thiết của Chúa như thế này đây!».
Cho nên khi nói về hai cuộc chết chóc trên, Chúa Giêsu muốn nói ngay, chẳng phải họ có tội mà họ chết đâu. Chúa Giê-su còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu nhìn vào chết chóc đó mà ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt.
Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dễ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho ý của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác.
Và rồi chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chính chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà… Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên vô hồn (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên…). Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta.
Người khôn ngoan nhất là người -như Chúa Giêsu dạy- biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa ” (Rm 8,28). Amen.
————————————————–
(1) Bài đọc I các Chúa nhật Mùa Chay có một bố trí đặc biệt, không liên quan tới bài Tin Mừng, như các CN Thường Niên. Nó diễn đạt lại 5 giai đoạn của lịch sử cứu độ, CN I: Thời nguyên thủy; CN II: Thời Abraham; CN III: Thời Mô-sê; CN IV: Thời Đất Hứa ; CN V: Thời các ngôn sứ.
(2) theo giải thích trong bài chia sẻ của cha Hàm

40. Dấu chỉ cảnh báo – AM Trần Bình An
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 là một trận động đất mạnh 9,0 Mw ngoài khơi Nhật Bản, xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí tâm chấn nằm cách ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Oshika, Tohoku 72 kilômét (45 mi) tại độ sâu 32 kilômét (20 dặm). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ghi nhận cường độ mạnh nhất của thảm họa ở mức 7 tại miền Bắc tỉnh Miyagi, mức 6 tại các tỉnh khác và mức 5 tại Tokyo.
Trận động đất đã gây ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến vào đất liền 10 km (6 mi).
Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản đã chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng tại quốc gia này, bao gồm những hư hỏng nặng nề về đường bộ và đường sắt, cũng như gây cháy nổ tại nhiều khu vực, kèm theo một con đập bị vỡ. Khoảng 4,4 triệu hộ gia đình rơi vào tình trạng mất điện và 1,5 triệu hộ bị mất nước. Nhiều nhà máy phát điện đã ngưng hoạt động và ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do rò rỉ khí hydro đã xảy ra tại nhà chứa các lò phản ứng, khi hệ thống làm mát bị hỏng hoàn toàn. Ngày 18 tháng 3, ông Yukiya Amano, người đứng đầu Cơ quan Nguyên tử Quốc tế đã cho biết cuộc khủng hoảng này “cực kì nghiêm trọng”. Mọi cư dân trong phạm vi bán kính 20 km (12 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và 10 km (6 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima II đã phải sơ tán. Ngoài ra, chính quyền Hoa Kỳ khuyến cáo công dân của họ phải di tản cách các nhà máy điện 80 km (50 mi).
Theo các ghi chép về cường độ động đất, đây là trận động đất mạnh nhất từng xảy ra ở Nhật Bản và là một trong năm trận động đất mạnh nhất thế giới, từ khi các thiết bị ghi nhận được sử dụng từ năm 1900. Đây được cho là sự va đập kiến tạo lớn nhất giữa Bắc Mỹ và Thái Bình Dương trong 1.200 năm. Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tuyên bố: “Trong vòng 65 năm từ sau Thế chiến thứ II, đây là cuộc khủng hoảng khó khăn và gay go nhất mà Nhật Bản phải đối mặt.” Trận động đất đã di chuyển đảo Honshu 2,4 m về phía Đông và làm lệch trục Trái Đất khoảng 10 cm.
Ước tính thiệt hại lúc đầu tại những nơi bị ảnh hưởng của Nhật Bản vào khoảng từ 14,5 đến 34,6 tỉ USD. Ngày 14 tháng 3, Ngân hàng Nhật Bản đã rót 15.000 tỉ ¥ (183 tỉ USD) vào hệ thống ngân hàng, để giảm thiểu ảnh hưởng thị trường tài chính. Ngày 21 tháng 3, Ngân hàng Thế giới ước tính thiệt hại lên vào khoảng 122 đến 235 tỉ USD. Chính phủ Nhật Bản cho biết tổn thất do động đất và sóng thần tàn phá miền Đông Bắc có thể lên đến 309 tỉ USD. Đây là kỉ lục thế giới về thiệt hại do thiên tai gây ra. (Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, Wikipedia)
Thảm hoạ sóng thần Tōhoku bất ngờ đổ ập xuống phía Đông Nhật Bản gây kinh hoàng cho nhân loại, nhắc nhở mọi người đang sống trong thế giới đầy bất trắc, luôn tiềm ẩn thiên tai, hay nhân tai do chính con người tham lam, hám lợi, khai thác, phá huỷ môi trường, hoặc do thù địch gây nên chiến tranh. Vì vậy, cuộc sống vốn mỏng dòn, lại càng thêm yếu đuối, mỏng manh, càng bất lực hơn trước sức mạnh sự dữ tung hoành. Nếu ai không sẵn sàng chuẩn bị đón nhận cái chết, thì thật thiếu khôn ngoan.
Bước vào Tuần 3 Mùa Chay Thánh, Tin Mừng thánh Luca hôm nay phát đi thông điệp cấp bách, cảnh báo con người phải canh tân nếp sống, qua những dấu chỉ rất cụ thể, công khai diễn ra ngay trước mắt mọi người. Nếu ai cứ tiếp tục bảo thủ, cố chấp, ngang bướng, không chịu đổi mới, sẽ phải chịu án phạt nặng nề.
Dấu chỉ
Hai sự kiện nóng hổi xảy ra công khai. Mấy người Galilê bị quan Tổng trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôê đè chết, đều là những dấu chỉ quan trọng cho tất cả những ai đang sống. Đừng kiêu căng mạo nhận là quan toà, để kết án những người tử vong, mà hãy tỉnh táo xét mình, sám hối, ăn năn, cải hoá, kẻo chẳng còn thì giờ hay cơ hội như những người xấu số kia. Hai lần liên tiếp, Đức Giêsu đều tha thiết cảnh tỉnh: “Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.”
Cũng đừng tự phụ, kiêu hãnh con nhà đạo gốc, thành phần ưu tuyển, kinh kệ, lễ lạc sáng chiều, ăn chay làm phước, hãm mình hy sinh, mà cố tình phớt lờ, coi thường, bỏ qua Lời Chúa mời gọi sám hối. Ông Gioan Tẩy Giả đã nghiêm khắc cảnh báo những kẻ giả hình, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt như rắn độc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (Mt 3, 9-10)
Hả hê thấy người khác gặp sự khó, xôn xao, hào hứng tám chuyện không may xảy đến bạn bè, hàng xóm, láng giềng, người Kitô hữu vô tình hay hữu ý, bỗng dưng trở nên những vị quan toà nghiêm minh, sắc sảo, sáng suốt, cầm cân nảy mực, tha hồ ném đá thiên hạ. Đó chính là giết người nhẹ nhàng và tinh tế không bằng gươm đao, giáo mác, mà bằng chính cái lưỡi lắt léo, không xương, tự cao tự đại, hợm hĩnh, kiêu căng, đạo đức giả. Hãy giữ chay mắt, chay tai, chay miệng lưỡi và giữ chay tâm hồn.
Hoa Trái
“Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có.” Nếu cây tươi tốt, xum xuê xanh lá, mà không thể sinh nụ, đơm bông, kết trái, thì cây thành vô dụng, chỉ đáng chặt bỏ làm củi. Người Kitô hữu cũng vậy, nếu chỉ biết chăm lo, o bế thân xác, vinh thân phì gia, thì cũng khác chi cây cối khô cằn. Vì thế, ngôn sứ Gioan Tiến Hô đã hết lời mời gọi: “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” (Lc 3, 8) Dốc lòng ăn năn cách trọn là chân thành trở về với Chúa, trung thực thi hành Lời Chúa dạy.“Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn.” (Cl 1, 10)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)
Cụ thể như, đừng gian dối, hãy nói sự thật, đừng nổi nóng, oán giận, đừng trộm cắp, hãy làm ăn lương thiện, đừng chửi thề, nói lời độc địa, hãy nói những lời tốt đẹp xây dựng và làm ích cho tha nhân, nhất là đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc… Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. (Ep 4, 25-32)
Lòng Thương Xót
Lời can gián, van xin của Người Làm Vườn Giêsu biểu lộ Lòng Thương Xót vô cùng:“Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi.” Người ra sức che chở, bênh vực, gìn giữ cây xanh của Người. Hơn nữa, Người còn van xin Chủ Vườn tạo điều kiện cho Người chăm sóc kỹ lưỡng hơn, bón phân tốt hơn, cũng như xin gia hạn thêm thời gian để cây kịp sinh hoa trái. Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103, 8-11.13).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt, mở lòng chúng con nhìn thấy, hiểu thấu những điều Chúa muốn ngỏ lời qua những dấu chỉ thời đại, qua những biến cố, sự kiện trong đời, qua những thảm hoạ, tai ương hoạn nạn của tha nhân, hay của chính chúng con. Xin giúp chúng con sớm giác ngộ, mà quyết tâm sám hối, ăn năn, canh tân, trở về với Chúa cực nhân, cực ái, tràn đầy lòng thương xót.
Kính xin Mẹ Maria, giàu tình mẫu tử, luôn thương yêu nhắc nhủ chúng con trong từng phút giây, dốc tâm trở về với Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để chúng con có thể sinh hoa thơm trái ngọt, quên mình, yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.

41. Sám hối
1. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có hai câu chuyện mang tính thời sự thời Đức Giêsu. Câu chuyện thứ nhất do những người Do thái kể cho Đức Giêsu nghe về một số người Galilê bị quan Philatô giết chết, có lẽ vì nổi loạn chống lại Roma; câu chuyện thứ hai, do chính Đức Giêsu kể đó là mười tám người bị tháp Silôê sụp đổ đè chết. Trước cảnh đau thương đó, người Do thái thời Đức Giêsu, có thể ngay cả chúng ta nữa, thường nghĩ rằng”ác giả, ác báo”, ai làm điều ác thì ắt sẽ gặp điều ác. Đức Giêsu khuyên họ đừng vội vàng suy đoán trước những đau khổ của người khác, nhưng tốt hơn, đây là dịp tốt để mỗi người hãy xem xét lại lương tâm mình để lo sám hối, lo thay đổi đời sống của mình hơn là đoán xét người khác.
Sau đó Đức Giêsu kể thêm dụ ngôn cây vả để trình bày rõ hơn chủ đích sám hối của Người. Qua dụ ngôn này Người nhấn mạnh thêm hai chi tiết nữa: phải khẩn trương sám hối trong lúc thời giờ còn có thể được, giống như cây vả được người làm vườn gia hạn thêm một năm nữa; đồng thời, sám hối phải được biểu hiện bằng những việc làm tốt đẹp cụ thể, giống như cây vả phải sinh hoa trái.
2. Trước hết, lời mời gọi sám hối không nhằm riêng ai, mọi người chúng ta đều được mời gọi phải sám hối. Ai trong chúng ta dám nói mình là vô tội: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3), hay như Thánh Phaolô nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Khuynh hướng con người là như thế, không muốn đi đường ngay nẻo chính. Sám hối nguyên ngữ Hylạp là Metanoia, nghĩa là quay ngược lại, là nhận mình đã đi lạc hướng và cố gắng quay trở về đường ngay nẻo chính. Một cách dễ hiểu hơn, sám hối đó là thấy mình làm điều sai quấy với lương tâm, với luật Chúa, luật Hội Thánh thì mau mắn sửa đổi. Ngay cả dù không “đi lạc”, nhưng đó là thiếu sót trong việc bổn phận hằng ngày hay lẽ ra ta có thể thực hiện một điều lành tốt hơn mà lại không cố gắng!
Hãy nhìn lại xem, trong cuộc sống của chúng ta biết bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh em khi vô tình lúc hữu ý, khi tỏ tường lúc thầm kín… Thế nhưng thực tế trong cuộc sống chúng ta cũng dễ giống như những người Do thái xưa cho mình là người công chính. Dễ bực bội, dễ thấy lỗi lầm thiếu sót của người khác, còn chính lỗi mình thì không. Thích tìm tòi, chỉ trích thiếu sót của người khác, ngược lại không muốn ai nhắc tới khuyết điểm của mình. Chính vì vậy ca dao ta có câu: “chân mình những lấm mê mê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người”. Vậy Lời Chúa hôm nay nhắc mỗi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình mà sám hối, hoán cải.
3. Kế đến, phải khẩn trương sám hối. Trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, người làm vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm nữa. Một năm nữa nếu không sinh hoa kết trái thì kết thúc cuộc đời cây vả. Điều nay cho chúng ta suy nghĩ: lúc ta còn sống là lúc ta còn có thể hoán cải, khi ta kết thúc cuộc đời thì không còn làm gì được nữa, cho nên hãy biết dùng thời giờ Chúa còn cho ta sống ở trần gian nầy mà lo sám hối.
Những người Galilê bị Philatô giết như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, họ không nghĩ đây là lần cuối cùng họ lên Giêrusalem mà không bao giờ còn sống trở về quê hương của họ. Mười tám người trong câu chuyện tháp Silôe, chắc chắn họ cũng không nghĩ họ bị đè chết oan uổng như vậy. Hằng ngày qua thực tế cuộc sống, hay qua các phương tiện truyền thông chính chúng ta chứng kiến, hay được nghe, thấy lại những cái chết thật bất ngờ do nhiều lý do. Hẳn chúng ta còn nhớ thảm hoạ tại Tòa Tháp Đôi Trung tâm thương mại thế giới ở New York , Mỹ ngày 11/09/2001 , đã giết hại gần 3.000 người, có ai trong họ ngờ rằng ngày đó là ngày cuối cùng trong cuộc đời của mình!
Hơn thế nữa, ta phải sám hối luôn vì nhớ lại tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, người con hiếu thảo là người con luôn làm vui lòng cha mẹ mình. Sám hối, trở về với Thiên Chúa là phương thức tốt nhất đẹp lòng Ngài. Vậy hãy mau mau trở về với Đấng là Cha giàu lòng thương xót.
4. Cuối cùng, sám hối cần được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, giống như cây vả phải sinh trái. Việc sám hối không chỉ là nói suông mà cần phải thể hiện bằng việc làm cụ thể. Biết bỏ lễ Chúa Nhật khi không có lý do chính đáng là lỗi Luật Chúa, thì phải quyết tâm đi lễ. Biết mình hay chưởi thề nói tục, thì phải quyết tâm nói những lời hay. Biết trộm cắp là không tốt, thì phải quyết tâm giữ phép công bằng… đó là những việc làm nói lên sự sám hối của ta.
Thế nhưng cũng có người nghĩ rằng mình đã là người giữ đạo đàng hoàng, bởi tuân giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, đâu cần gì phải sửa đổi đời sống. Hãy nhớ trong dụ ngôn cây vả tuy cành lá xum xuê không bị sâu bọ gì, nhưng lại không trái, làm ta có thể nghĩ đến đời sống thiếu tích cực của người Kitô hữu, đó là thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, thiếu chu toàn việc bổn phận cách tốt nhất hay bỏ qua việc lành phải làm. Vậy trong cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta hãy ý thức hơn, nhất là trong mùa chay nầy, không những quyết tâm không làm điều xấu, mà còn phải cố gắng hết sức để chu toàn nhiệm vụ, cố gắng thực hiện việc lành việc tốt, đó là hoa trái của sám hối.
5. Hôm nay đã là chúa nhật thứ 3 mùa chay, đã gần nữa đoạn đường của mùa chay năm nay. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc sám hối của mỗi chúng ta. Hãy thành tâm nhìn lại sự giới hạn của mình, hãy nhắc nhau, hãy cầu nguyện cho nhau để đáp lại lời mời gọi sám hối của Đức Kitô, hầu chúng ta được bình an, hạnh phúc ngay ở đời nầy và nhất là hạnh phúc mãi mãi với Người mai sau.

42. Phúc và họa – AM Trần Bình An
Theo dữ liệu mới được cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thu thập, về vụ nổ thiên thạch xảy ra sáng 15/2/2013 tại Nga, kích thước ước tính của vật thể trước khi rơi vào bầu khí quyển Trái đất là 17 m (thay vì 15 m như tính toán trước đó), với khối lượng 10.000 tấn.
Năng lượng phát ra trong vụ này tăng từ 30 kiloton (theo ước tính ban đầu) lên gần 500 kiloton, tương đương với 30 quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima năm 1945. Rất may là hầu hết năng lượng của vụ nổ đã bị hấp thụ bởi bầu khí quyển. Thiên thạch đã lao vào khí quyển với vận tốc 64.000 km/giờ và phát nổ ở độ cao 19-24 km so với mặt đất, gây ra đám mưa thiên thạch trên bầu trời các tỉnh Chelyabin, Tyumen, Kyrgan và Sverdlovsk cũng như nhiều địa phương ven dãy núi Urals của Nga.
Hơn 1.200 người dân ở các địa phương bị thương, trong đó có 50 người phải nhập viện. Tỉnh trưởng Chelyabin, ông Mikhail Yurevich cho biết tại tỉnh này có 100.000 nhà ở, bệnh viện và trường học bị vỡ kính cửa sổ hoặc hỏng mái với tổng thiệt hại ước tính lên hơn hơn 33 triệu USD.
Các chuyên gia cho rằng các khối thiên thạch nhỏ rơi xuống Trái đất từ 5 – 10 lần mỗi năm. Nhưng khả năng xảy ra nổ thiên thạch lớn trên diện rộng khiến 1.200 người bị thương ở Nga mới đây chỉ xảy ra một lần trong ít nhất 100 năm. (Internet)
Thiên tai vừa xảy ra khiến người tín hữu Kitô hôm nay liên tưởng ngay đến vụ tháp Silôác đổ xuống, khiến 18 người tử vong. Điều Chúa Giêsu muốn nói đến nhân sự kiện này, là sự phán xét, lòng sám hối và lòng thương xót. (Lc 13, 1-9)
Xét mình thay xét người
Khi nghe thuật lại vụ một số người Galilê bị quan Tổng trấn Philatô sát hại, Chúa Giêsu không rơi vào cái bẫy bộc lộ quan điểm chính trị, không phán xét những nạn nhân đáng thương hay xấu số. Mà Người lại kêu gọi chính những người kể chuyện, hãy xét lại chính mình.
Nhân tiện, Chúa Giêsu thuật lại sự kiện 18 nạn nhân bị tháp Silôác đổ, Người cũng kêu gọi người nghe hãy coi lại bản thân.
Thay vì dễ dãi làm quan tòa, quen thói xét xử người khác, thì khiêm tốn làm tội nhân, để biết ăn năn, thống hối tội lỗi của chính mình. Khi phán xét người khác thì mặc nhiên tự coi mình làm kẻ cả, có thẩm quyền xét xử công tội người khác, một biến tướng của tánh kiêu ngạo, chính là tiếm quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Ồ! tôi vô tội, tôi đâu trộm cắp, đâu gian tham, ức hiếp, hại ai? Tôi đạo đức lễ lạy hằng ngày, kinh sách hằng đêm. Nhưng tôi hay ra cái điều hiểu biết, trí thức, khôn ngoan, sắc sảo nhận định, nhạy bén phê phán, xét đoán, thâm thúy phẩm bình thiên hạ, tôi còn phạm những điều thiếu sót nữa. Vậy tôi phỏng sẽ được phúc trường sinh, hay họa sa hỏa ngục?
Sám hối
Sau hai biến cố và tai họa vừa nhắc đến, Chúa Giêsu rút ra một bài học, một kết luận chung duy nhất: “Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!” (Lc 13, 3&5)
Từ cái chết thể xác, Chúa nhắc đến cái chết linh hồn, cái án phạt muôn đời. Từ cái thuyết nhân quả đời này, Chúa áp dụng thuyết nhân quả vào đời sau.
Có thành tâm xét mình, tôi mới biết tội lỗi đã vấp phạm đến tha nhân và đến Chúa như thề nào. Tôi ân hận đã xúc phạm đến anh em, bè bạn, vợ con, hàng xóm, đồng nghiệp, và nhất là xúc phạm đến Chúa. Tôi đã phạm tội và đã thiếu sót, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu đức Ái, thiếu đức Trong sạch, lỗi phép Công bằng… Lúc này, tôi đang gặp họa, hay sắp có phúc?
Lòng Thương Xót
Lòng nhân từ của Chúa Giêsu không dừng lại nơi đây, mà mở ra một niềm hy vọng tươi sáng. Với dụ ngôn cây vả không trái sau ba năm vun trồng, ám chỉ sau ba năm nghe rao giảng, mà con người vẫn cứng lòng, không chịu nghe theo Tin Mừng, Chúa Giêsu chân thành biểu lộ Lòng Thương Xót vô ngần.
“Thưa ông, ông cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 8-9)
Như thế, khi nghe người làm vườn nài nỉ, van xin chủ vườn khoan chặt cây vả không sinh hoa kết trái, tôi có nhận ra Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa chăng? Vì Thiên Chúa “là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung.”(Tv 103, 8) Ngài còn cho tôi cơ hội và thời gian, để hoán cải, để đơm bông kết trái, tất nhiên tôi phải chịu nhiều thách đố, chịu lột xác đau khổ, tỉa cành, chặt rễ, khấc thân, vô phân. Vậy tôi còn phúc nào hơn nữa?
Ngay sau vụ mưa sao băng ở Nga vào ngày thứ sáu 15/2/2013, thiên thể 2012 DA14 lớn bằng bể bơi Olympic, có bề ngang tới 50 mét với sức mạnh có thể xóa sổ một thành phố cỡ như London, đã bay sượt qua trái đất ở khoảng cách gần 28 000km, khoảng cách bằng 1/10 khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng, và không gây hại gì, (BBC)
May mắn, chưa có mảnh thiên thạch nào đó rơi ngay xuống vùng tôi cư ngụ, chắc chắn vì lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Đó chính là hồng phúc của Người Cha Nhân Từ.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađalêna “được tha nhiều vì đã yêu nhiều.” Phải làm như Gioan, trốn bỏ Chúa trong vườn Giệtsimani, nhưng trở lại đứng bên thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” (Đường Hy Vọng, số 890)
Lạy Chúa Giêsu, chưa bao giờ nhân loại gặp nhiều thiên tai, hoạn nạn như hiện nay, xin Chúa thức tỉnh lòng trí con, để chân thành ăn năn sám hối, hầu xứng đáng được hưởng lòng từ bi thương xót của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, đã bao lần Mẹ hiện ra, nhắc nhủ, khuyên lơn mọi người, hãy ăn năn sám hối, xin Mẹ gúp con biết hoán cải trở về với Chúa, đừng tiếp tục thách thức lòng vị tha nhân hậu của Chúa nữa. Amen.

43. Hoán cải tâm hồn.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật. Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.
Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa, được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi lại một vài biến cố thời sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi ý nghĩa các dấu chỉ của một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô sát hại người Do Thái và biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các lý do nội tại và ngoại tại của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ, đến nổi không còn đứng vững được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra lệnh giết mà không cần biết thực hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta hội họp bị sát hại vì đường lối và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân là những người chẳng may gặp những hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn những người khác nên Chúa phạt. Hay nói cách khác, không phải vì người gian ác tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể kết luận họ là những người thánh thiện.
Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội lỗi và bất công đó sẽ trở thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con người hoán cải tâm lòng, thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống tốt lành thánh thiện hơn, để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác, để khỏi phải chết đời này và nhất là khỏi phải chết đời sau.
Kêu gọi loài người trở lại sống với Chúa, bởi vì ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình đã gieo vào trong cuộc đời trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua kiểu cách sống tội lỗi gian tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, điều duy nhất Thiên Chúa muốn là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên trong sáng tinh tuyền. Đó là cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không ngừng tiếp tục trong lịch sử loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo.
Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn định mức trước và từ đó hiện ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành. Tường thuật của gặp gỡ giữa Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng. Đối với các dân tộc Trung Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của người đó. Giavê, tên của Thiên Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn tả “sự hiện hữu”, nhưng trong nghĩa chủ động, nó có nghĩa “trở thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can thiệp vào hay sống với”.
Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê đây, chứa đựng một Tin Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn luôn hiện diện bên con người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp để trợ giúp, giải thoát và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi nữa, Thiên Chúa là Đấng giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.
Tên gọi Thiên Chúa: “Lửa, khói, bão táp, v.v…” một thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Cũng thế “bàn tay, cánh tay phải, v.v…” diễn tả sự chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn, yếu đuối.
Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng giải phóng và cứu độ con người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là thái độ ký thác trọn vẹn. Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và chống đối, không diễn tả bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Và thường khi, đó là thái độ của những người không có lòng tin.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, thánh Phaolô nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ ngày xưa đã từng lẩm bẩm than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự hiện diện giấu ẩn, nhưng sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc đời họ và trong lòng lịch sử thế gian.

44. Hoán cải
Thế giới vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên cách lạ lùng và trật tự. Thiên Chúa đã đặt để nơi vũ trụ những quy luật tự nhiên có giá trị ngàn đời. Quy luật nơi vũ trụ rất cân bằng và sự cân bằng này không thể bị phá vỡ. Một trong những quy luật ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của con người chính là quy luật nhân quả. Quy luật này chi phối cả trên những giá trị đạo đức của con người. Một tư tưởng tốt hay xấu, một lời nói, hành động đúng hay sai của chúng ta đều mang lại một kết quả xấu hay tốt tương ứng. Quan niệm của những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng này. Những người sống tốt thì được giàu sang, gặp toàn điều lành. Còn những người tội lỗi ắt sẽ nghèo khổ và gặp hoạn nạn, tai ương.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta cái nhìn đúng đắn hơn về số phận của những người tội lỗi hay công chính. Qua đó mọi người phải nhận ra và hoán cải trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Luca trình bày cho ta thấy có 2 phần rõ rệt. Phần đầu là lời mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị và xã hội đã xảy ra. Phần thứ hai là lời mời gọi hoàn cải qua dụ ngôn về cây vả không sinh trái.
Hai biến cố chết người thê thảm đã gây ấn tượng cho nhiều người Do thái thời ấy phải suy nghĩ. Thật ra việc người Galilê bị giết không ai biết đích xác Luca muốn ám chỉ đến biến cố nào, bởi thời đó Philatô đã thực hiện nhiều cuộc sát hại. Theo sử gia F. Gioseph, đã có một cuộc tàn sát người Samari gần Garidim, ở đây không nhắc đến máu hoà lẫn với tế vật gì cả. Một trận nổi loạn khác là khi ông Philatô đưa hình tượng của hoàng đế Lamã vào khiến người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn. Cũng có sự bất đồng xảy ra khi Philatô lấy tiền quỷ của Đến thờ để xây đường ống dẫn nước vào Giêrusalem đã khiến người do thái nổi loạn. Thực ra, khi Chúa Giêsu trưng dẫn 2 sự kiện này Ngài không có ý cho ta tìm hiểu lại lịch sử các biến cố thời đó. Điều quan trọng là Chúa Giêsu đã vận dụng các biến ấy để kêu gọi mọi người hoán cải. Cái chết của những người Galilê, cũng như của 18 người bị tháp Silôê đè rõ ràng là một thách thức cho những người còn sống phải canh tân đời sống. Cái chết có thể đến bất cứ ai cách chớp nhoáng như những người xấu số trên.
Qua đến dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này là một sự gợi nhắc cho mỗi người về nỗi nguy kịch của cuộc sống: Lúc này đây là thời gian cuối cùng, thời gian “gia hạn” đã gần kết thúc rồi. Những người không đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải sẽ chết vì không hoạt động và không sinh trái. Cái chết do sự ươn lười thì trầm trọng, đáng trách hơn cái chết vì sự ác độc của người khác hay do tai nạn bất ngờ gây ra. Một biến cố xảy đến, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Người khôn ngoan nhất là người biết lợi dụng những gì xảy đến thay đổi cuộc đời, để tạ ơn Chúa khi gặp may mắn, để xin cho tâm hồn được vững mạnh khi gặp biến cố đau buồn và để vâng theo ý Chúa khi những điều xảy đến hoàn toàn trái ý.
Một đời sống vô ích sẽ đưa đến thảm hại vô cùng. Cây vả cứ múc lấy dưỡng chất từ đất mà không sinh trái, đó là tội của nó. Về phía chúng ta, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta đã múc lấy từ cuốc sống quá nhiều điều. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác. Chúng ta sẽ không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của những người yêu thương chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một nền văn mình, một sự tự do, một niềm tin kitô giáo mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Vì thế, chúng ta có trách nhiệm làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp hơn.
Sự hoán cải không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi nhưng nhằm đến tất cả mọi người. Có người sẽ thắc mắc: Người tốt cũng phải hoán cải sao? Thưa, họ vẫn phải hoán cải. Cây vả bị đốn đi không phải vì nó sinh trái xấu, nhưng vì nó không sinh những trái vả như nó phải sinh ra. Tiếng gọi hoán cải không chỉ kêu gọi là thôi đừng làm những điều xấu nữa mà còn kêu gọi hãy sinh trái bằng những việc tốt lành.
Mọi kitô hữu như cây vả được Thiên Chúa đặc biệt ươm trồng trong vườn nho. Ta đã được hưởng vô vàn những ân ban, được Thiên Chúa Cha yêu thươn, được sống thân tình với Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần luôn luôn hướng dẫn. Vì thế, coi chừng số phận của chúng ta cũng giống như cây vả không sinh trái trong dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta cần phải được sinh hoa trái, đó là: lòng yêu mến Thiên Chúa, bác ái với tha nhân, trung thành với bổn phận, phát triển những năng khiếu tự nhiên để phục vụ cho người, làm đẹp cho đời. Ta không có tham vọng thay đổi người khác, thay đổi cộng đoàn hay thay đổi cả thế giới. Ta chỉ cần làm một điều quan trọng và rất cần thiết là thay đổi chính mình.
Một triết gia Ấn Độ khi nhìn lại của người đã đi qua, ông đã tự nói với lòng mình trong sự hối tiếc. Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thiên Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhân thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà thưa thay đổi được một người nào. Lúc đó tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con được biến đổi tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ chỉ biết cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con. Lời cuối cùng của vị triét gia là một sự nuối tiếc: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Thay đôỉ là một điều kiện bắt buộc để con người tồn tại và phát triển. Như triết gia Henri Bergson đã nói: ” Sống là để thay đổi, thay đổi để trưởng thành, trưởng thành để tiếp tục phát triển bản thân “. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, mỗi kitô hữu đều có khát vọng được sống và sống đời đời. Do đó đòi hỏi mỗi kitô hữu phải hoán cải đời mình để khỏi nhìn thấy sự sống phải tắt lịm trong tầm tay của mình. Hoán cải vẫn là vấn đề thức thời và cấp bách.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho ta một kỳ hạn nữa. Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay. Bao lâu còn sống, ta như cây còn xanh tươi. Thiên Chúa luôn mong chờ cuộc sống mỗi tín hữu luôn trĩu nặng hoa trái Tin Mừng. Hãy tin tưởng bắt đầu ngay hôm nay. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và hãy thay đổi chính mình.

45. Lời mời gọi sám hối.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai họa là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?

46. Thay đổi bộ mặt thế giới – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy niệm Lời Chúa’)
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: “Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này” Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân.
Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê: “Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng”. Và Thiên Chúa là Đấng đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên câu châm ngôn: “Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình”.

47. Sự kiên nhẫn chờ đợi – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.
Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói cùng Môisê chắc chắn vẫn còn vang dội đến ngày hôm nay: “Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ của chúng và Ta đến cứu chúng”. Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói với Môisê những lời đó, thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất không bao giờ thay đổi đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của con người thời đại. Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình, gia đình mình, xung quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ. Khổ vật chất do túng thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền, thương nhớ, sợ sệt, lo âu… Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói: “Ta đã thấy, đã nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng”.
Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái thế nào? Người không cứu họ như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt biến buồn ra vui, đổi đau khổ thành hạnh phúc và con người mất cả tính người trở nên như một cái máy chỉ còn biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi. Không, Chúa đã cứu dân Người bằng một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc, trong cuộc hành trình về đất Hứa, đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu thoát, con người phải trung thành với Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian nan, qua thử thách, con người phải luôn nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là: “Chúa là Đấng thương xót và nhân ái”. Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm thía những lời của thánh vịnh trên. “Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn thể thân tôi hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người”.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp dụng vào Tân Ước hình ảnh trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi dân chúng bằng Manna trong sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá chảy ra. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời sống mới qua bí tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí Tích Thánh Thể và uống nước từ tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Và thánh nhân cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước đã được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng đã được thanh tẩy tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp chắc chắn là tự mình tạo lấy sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ: “Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã”.
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn, chúng ta hãy thấy được tình yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người và cố gắng trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này. Vì “đây là lúc thuận tiện, đây là thời cứu độ”.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi hãy đặt câu hỏi: Phải bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe được tiếng trả lời: Hãy bắt đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công việc quá to lớn vĩ đại, nhưng mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan trọng của tôi trong Mùa Chay này và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng thành của tôi và giúp đỡ tôi.

48. Sự sám hối, một điều kiện tất yếu
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
“Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!” Ðó là những lời nói đầy khẩn cấp của Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào trước sự cảnh cáo của Chúa?
Sau đây tôi xin được giới thiệu ba phản ứng tượng trưng:
“Sám hối? Tôi cảm thấy điều đó chẳng có liên quan gì đến hoàn cảnh của tôi cả”. Vâng, sẽ có người phát biểu như thế: “Nếu so sánh cuộc sống của tôi với cuộc sống nhiều người khác, thì tôi cũng không đến nỗi! Nếu không hơn ai, thì cũng không thua kém ai. Con cái tôi đều học hành đàng hoàng, cũng có công ăn việc làm đâu vào đấy. Tôi đi nhà thờ đọc kinh xem lễ thường xuyên. Với bà con láng giềng mọi sự đều vui vẻ hài hòa. Vậy tôi đâu có làm gì sai quấy cả, tại sao tôi còn cần phải sám hối?”
“Sám hối? Ðó là một lời quá nghiêm khắc đối với tôi”, đó là ý kiến của một người khác. “Sám hối! Vâng, đó là cả một vấn đề! Chắc chắn rằng nhiều khi tôi cảm thấy có điều gì đó trong cuộc sống mình không được thuận thảo và xuôi chảy. Ðôi lúc tôi cũng tự bảo mình là tôi có thể hoàn toàn sống khác với hiện tại! Ðã có biết bao nhiêu dịp may bị bỏ lỡ, bao nhiêu trường hợp tốt đã không lợi dụng được! Nhưng cuộc sống con người là thế! Từ sáng tinh sương cho tới chiều tối: hết trách nhiệm này đến bổn phận nọ! Nào lo lắng cho gia đình, cho con cái, cho nghề nghiệp, cho công ăn việc làm, cho tiền bạc! Vâng, nhiều khi tôi đã muốn chạy thoát mọi sự và bắt tay lại từ đầu! Nhưng tôi cần phải bắt đầu lại ở chỗ nào và tôi phải dừng lại ở chỗ nào? Không thể được. Sám hối? Ðó là một lời nói quá nghiêm khắc đối với tôi. Tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa. Và tôi nghĩ rằng, có lẽ tôi cứ tiếp tục sống như từ xưa tới nay!”
“Sám hối? Vâng, đó là dịp may và thuận lợi cho tôi!” một người thứ ba lại phát biểu như thế: “Sám hối? Tôi sực nhớ lại tất cả: vâng, trước kia tôi thường chỉ sống một cách hời hợt bên ngoài, và cứ thế từ ngày này sang ngày nọ! Nhưng rồi sau đó, có một chuyện không hay đã xảy ra và làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi đã xích mích và đụng độ công khai với một vài người. Tôi đâm ra chán nãn. Tôi luôn trốn tránh, không tiếp xúc với cộng đồng giáo xứ nữa. Nhưng rồi tôi lại hối hận và đã tìm cách hàn gắn lại những đổ vỡ. Tuy nhiên, tôi nhận thấy sự việc thật phức tạp, vướng mắc đủ thứ “dây mơ rễ má” này nọ nữa, chứ không dễ dàng. Và biến cố đó đã ám ảnh tôi mãi, cả đến hôm nay nữa. Tôi bổng thấy mình hoàn toàn khác hẳn. Một cách chân thành, tôi thấy mình còn quá thiếu sót trong cuộc sống, tôi thấy đời mình không thể cứ tiếp tục mãi như thế được. Vì thế tôi đã bắt đầu suy tư, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Bài giảng Tám Mối Phúc Thật của Ðức Giêsu là kim chỉ nam, là đèn soi, là động lực cho mọi định hướng của tôi. Tôi đã cảm nhận được rằng, mọi sự không thể một sớm một chiều lại được giải tỏa và trở lại bình thường, nhưng đối với tôi, sự sám hối và cải thiện cuộc sống là dịp tốt, là cơ may duy nhất để tiếp tục sống một cách có ý nghĩa và nhân bản hơn.”
Trên đây là ba phản ứng hay ba quan niệm trước việc “sám hối”! Còn chúng ta, chúng ta phản ứng ra sao? Phải chăng chúng ta cũng đồng ý với một trong ba phản ứng trên: Sám hối, chẳng có gì kiên quan đến hoàn cảnh của tôi; hoặc: sám hối, một tiếng quá nghiêm khắc đối với tôi; hoặc: sám hối, một dịp tốt duy nhất đối với tôi, để sống có nhân bản hơn?
Trước khi mỗi người trong chúng ta phải tự trả lời câu hỏi đó, chúng ta còn cần có những suy nghĩ đúng đắn! Ðể có thể tìm thấy nơi sự sám hối ý nghĩa đầy đủ của nó, người ta cần phải có những cảm nghiệm nào đó. Vâng, người ta cần phải có những cảm nghiệm cá nhân: Cuộc sống của mình sẽ đi về đâu? Tại sao người ta phải thay đổi quan niệm sống của mình và thay đổi thế nào? Nếu không? v.v… Một người chỉ có thể sống và nói được như thế, nếu người đó có được một cảm nghiệm khác, cảm nghiệm về ý nghĩa bài Giảng Trên Núi của Ðức Giêsu và cảm nghiệm về Thiên Chúa, Ðấng hằng đứng sau tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động. Thiên Chúa của Ðức Giêsu đòi hỏi và tạo điều kiện cho con người sống trong một cách thức nhất định nào đó – vừa cụ thể vừa khác biệt – theo như người ta lựa chọn. Trong sự cảm nghiệm đó, chính Thiên Chúa sẽ trở nên chương trình sống, và khi đối mặt với chương trình sống đó, chỉ còn lại một cách duy nhất để có thể đứng vững được là không ngừng nỗ lực dấn thân vào trong chương trình đó với tất cả lòng tin tưởng. Con người cần phải thiết kế cuộc sống mình với Thiên Chúa và luôn nỗ lực thực thi thánh ý của Người; Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống làm chứng giữa lòng đời cho lòng nhân hậu, sự công bằng và tình thân thiện của Thiên Chúa đối với nhân loại, trong phạm vi tư riêng cũng như trong phạm vi rộng lớn. Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống còn nhắm tới những mục đích cao cả khác, chứ không chỉ giới hạn trong những tư lợi và hạnh phúc riêng của mình, v.v…Nói đúng hơn, đó chính là sự sám hối, nghĩa là sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, để cho Thánh Thần của Người soi sáng, hướng dẫn và biến đổi cuộc sống của mình. Như vậy, sự sám hối ở đây trở thành điều kiện cần thiết cho một cuộc sống theo đúng với kế hoạch của Thiên Chúa. Trong ý nghĩa đó người ta có thể hiểu cuộc sống như một vận may để mang lại hoa trái.
Ðó chính là điều bài Tin Mừng hôm nay muốn đề cập tới, khi coi sự sám hối là một điều cần thiết, và sống có nghĩa là chấp nhận cái vận may đó, mà Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy chấp nhận lấy vận may đang trong tầm tay chúng ta. Chúng ta hãy loại bỏ thái độ thờ ơ và tính ươn lười dễ chịu, bởi vì chúng sẽ dẫn chúng ta vào trong ngõ cụt cuộc đời. Trong những điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, mỗi người hãy tìm cho cuộc sống riêng của mình một lối thoát thích hợp và đúng đắn. Như thế, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên có giá trị, là một niềm vui và là một ơn lành của Thiên Chúa. Amen.

49. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau: Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
– Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
– Một ngàn đồng, và ai tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
– Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó; Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siluê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Giêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen.

50. Suy niệm của Radio Veritas Asia
ĐẤNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT CHẬM BẤT BÌNH VÀ HẾT SỨC KHOAN NHÂN
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án:
– Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật Tân. Một tòa án địa phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một viên thị trưởng và sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân Phi đều biểu lộ sự hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì lại tỏ ra bất mãn vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là phải tử hình.
– Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore. Một phụ nữ Phi Luật Tân vốn làm nghề “giúp việc nhà” tại Singapore đã bị toà án tại nước này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila cũng như nhiều nơi khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh thức suốt đêm để cầu nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án cần phải được xét lại bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy nhiên, mặc cho phản đối của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng Thống Phi Luật Tân, sáng thứ Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người phụ nữ Phi theo đúng qui định của hình luật nước này.
Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua hai vụ án trên đây xem ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất cứ nơi nào và thời đại nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải được giải oan. Thời Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương tự. Cho dẫu được lồng vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra lệnh hành quyết một số người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng những người này lãnh một hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những con người có tội cho nên cần phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết cũng được nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng phạt vì họ là người tội lỗi.
Cùng với tự do hạnh phúc và những giá trị cơ bản khác, công lý là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi công lý lại càng bất toàn hơn. Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà không hề được xét xử. Còn nay trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết bao nhiêu người bị hàm oan, còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới pháp luật. Nơi đây, người ta đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu để bãi bỏ. Quả thật trên trần gian này khát vọng về công lý của con người không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của những người bị Philatô sát hại, cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời những người Do Thái của thời đại này hãy vượt qua cái quan niệm thông thường về công lý của con người: “mắt đền mắt, răng đền răng”, “có vay có trả”, “tôi cho bạn là để bạn cho tôi lại”. Đó là cái quan niệm thông thường của con người về công lý. Tuy nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả, Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là cách thế Thiên Chúa đối xử với con người. Theo công lý của loài người, thì cây vả không sinh trái phải bị chặt quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của Thiên Chúa là cái nhìn của “Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca.
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của tình yêu, của sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối không chỉ là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin vào tình yêu của Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong cuộc sống xã hội.
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: “Con người bất nhân đó chính là ông”. Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là “mắt đền mắt, răng đền răng” nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có điều kiện đó, chúng ta mới xứng đáng cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” trước khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô.

51. Sám hối chân thành – Cao Huy Hoàng
Thời nào và ở đâu cũng có những oan sai. Oan sai có thể do luật sai tự bản chất, cũng có thể do người thi hành luật và cũng có thể do phía tố tụng có tính cách áp chế. Vì thế, oan sai luôn là một bất công đáng tiếc dẫn đến những tai họa khôn lường. Cái chết của những người Galilee do quyết định của Tổng Trấn Philato có thể là một oan sai, mà “tiếng dân kêu chẳng thấu trời”. Những cái chết thật bi thương. Và khi mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe câu chuyện ấy, những tưởng Đức Giêsu đồng quan niệm với họ rằng những người ấy bị án tử vì phạm pháp, không ngờ Chúa Giêsu lại nói ” Các ông tưởng mấy người Galilee đó bị như vậy, là vì họ tội lỗi hơn mấy người Galilee khác sao?” (Luc 13,2). Tôi muốn hiểu từ “tội lỗi” ở đây đồng nghĩa với từ “phạm pháp”, phần đời. Như vậy, theo ý của Chúa Giêsu, thì không chắc là những người nầy đã bị án tử vì phạm pháp. Trong suốt mùa chay, bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào mà phụng vụ đã chọn, có nhắc tới “sự chết”, đều làm tôi liên tưởng đến cái chết của Đức Giêsu. Tôi thiết tưởng, Ngài cũng muốn nói đến cái chết của Ngài, một cái chết do oan sai, một cái chết của người vô tội, chết thay cho người có tội. Vì thế Ngài nói tiếp ” Nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy” (Luc 13,3).
Ngài còn dẫn chứng và giải thích cái chết bất ngờ của 18 người do tháp Siloa ngã đè, “không phải vì họ có tội nặng hơn những người ở thành Giêrusalem, nhưng nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy” (Luc 13,5). Tôi lại liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu, không phải là là sự trừng phạt của Thiên Chúa Cha, mà là Thánh Ý Nhiệm mầu mặc cho cái chết ấy một ý nghĩa cứu chuộc- Chết là một điều kiện tất yếu để có sự Phục Sinh. Như vậy, cái chết phần xác của 18 người bị tháp đè, cũng không phải là sự trừng phạt hay trả thù của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Ngay đến cái chết đời đời của linh hồn con người -sự chia lìa, không được phúc chung hưởng vinh quang Thiên Chúa – Chúa Giêsu cũng không muốn, mà ngược lại Ngài gọi mời sám hối trở về để được sống đời đời.
Chúa Giêsu lại đưa ra ví dụ cây vả, để giải thích thiết thực bài học, lời khuyên, lời cảnh tỉnh “sám hối” mà Ngài đã nói với mấy người Galilee, và với chúng ta. Sám hối không chỉ là nhận ra sự tiêu cực, ích kỷ, lười lĩnh của mình trong cuộc sống, mà còn là phải canh tân đổi mới để cuộc sống tích cực hơn, sinh động hơn, nhiệt tình hơn, sinh hoa kết trái nhiều hơn, xum xuê, đầy cành. Sinh hoa kết trái chính là sự cho đi, sự hiến dâng cho cuộc đời, làm cho cuộc đời có một sức sống mới bắt nguồn từ hoa trái ấy. Cây Vả Giêsu mà Thiên Chúa đem trồng nơi trần gian đã sinh hoa kết trái cho nhân loại. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha đã biểu lộ nơi Người Con Chí Ái, khi Người Con, chính là Đức Giêsu Ki tô, đã cống hiến trọn vẹn sự sống mình cho nhân loại, cho nhân loại được sống và sống dồi dào.Tôi nhớ đến “Bài Ca Đức Mến” (1 Cor 13), một tuyệt phẩm của Thánh Phao-lô, một bức họa cuộc đời Chúa Giêsu Cứu Thế, và tôi vẫn nghĩ đây là tiêu chuẩn hoa trái của lòng sám hối chân thành đối với mỗi tín hữu chúng ta hôm nay, không chỉ trong mùa Chay nầy, mà suốt cả đời người.
“Lòng mến thì khoan dung, nhân hậu,
lòng mến không ghen tuông,
lòng mến không ba hoa, không tự mãn,
không khiếm nhã, không ích kỷ
không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ
không mừng trước sự bất công,
nhưng biết chia vui cùng lòng chân thật
Trong muôn sự, lòng mến hết lòng bao dung,
lòng mến hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy.
lòng mến không hề tàn tạ…” (1Cr 13, 4-8)
Với ví dụ cây vả, tôi lại nhớ đến cây vả của tôi và những cây vả thời nay- thời thịnh vượng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ-và bỗng trăn trở không ít khi tôi đặt mình trước yêu cầu sám hối là “sinh hoa kết trái” của Chúa Giêsu. Điều rất đáng tiếc: không chỉ là những cây vả sợ hy sinh cống hiến, mà còn là những cây vả chê bai chế nhạo những cây vả khác là dại dột, vì đã, đang nhiệt tình cống hiến những hoa trái cho đời: Người tham lam lo tích lũy vào kho tàng của mình thì chê người liêm chính là dại dột- nghỉ chơi. Người ươn lười không lo mở rộng nước Chúa thì chê bai chế nhạo người nhiệt tình là điên rồ, không hợp thời. Người không làm việc bác ái thì cho rằng người bác ái là lãng phí, cầu danh. Người không tha thiết với việc cầu nguyện thì lên án người cầu nguyện là đạo đức giả. Hoặc một thái độ khác của cây vả thời nay: Người dối trá nhất bao giờ cũng bắt người khác phải thành thật. Người phạm pháp nhiều nhất vẫn yêu cầu người khác thi hành luật nghiêm túc… Cây vả của tôi ơi, đã đến lúc phải sinh hoa kết trái, vì Đức Giêsu, “người làm vườn” của Ông Chủ Vườn, là Thiên Chúa Cha, đang khẩn thiết van xin ” Ông Chủ Vườn” gia hạn, để cây vả sinh hoa kết trái.
Anh em Phan sinh, trong những buổi họp, thường hát: “Một người không biết yêu ai, là người chưa biết yêu mình. Một người không biết cho ai, là người nghèo trắng đôi tay. Một người không chung phận người là người chưa sống trong cuộc đời. Chỉ một người biết Sống, Yêu, Cho người, người ấy thực là người. Lạy Chúa! nếu không sống để yêu thì đời con như đã chết. Nếu không biết cho đi thì làm sao mong sẽ được gì. Nếu không có bác ái thì đời con như cây bộng, như thùng rỗng, như tiếng thanh la, tan trong hư không… Một người không biết yêu ai, mà nguyện cầu Thiên Chúa yêu mình. Một người không biết cho ai, mà nguyện cầu lạy Chúa ban ơn. Một người không chung phận người mà đòi ai nấy chia phận mình….”. Những ngày trước, tôi thờ ơ lắm. Hôm nay, nhớ lại, bỗng giật mình, vì thông điệp bài hát nhắc nhớ tôi canh tân bao điều…
Nối kết những suy tư từ Lời Chúa hôm nay, tôi ơi hãy nhớ cho rằng: Đức Ki Tô Cứu Thế đang bị tôi tiếp tục xử oan, vì Ngài vô tội. Nhưng Ngài vẫn thương yêu chấp nhận cái chết- để Phục Sinh. Ngài vẫn chờ đợi tôi nhận ra cái con người ích kỷ của tôi, để kịp sám hối là hiến dâng đời tôi nên hoa trái phần rỗi cho tôi và cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, cây vả của con không chấp nhận sinh trái, vì sinh trái là phải cho đi. Xin tha thứ cho lòng ích kỷ vô học của con, và xin mở lòng con ra, để con biết rằng “khi hiến thân là khi được nhận lãnh… lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…”. Amen. (Thánh Phanxicô Assisi)

52. Sám hối để tự cứu mình – Lm Ignatio Trần Ngà
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giêsu cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: “nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”.
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.

53. Người giết người – Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong cuộc động đất (01/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần… giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng “Người Giết Người” còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân “Người Giết Người” là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ “Vô Thần” và “Vô Luân”. Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến “con người trở nên như thù địch của con người!” Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết “những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do “Họ tội lỗi hơn người khác!” Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị “tiêu diệt!” giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng “Đất Hứa” yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc “Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện” giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào “Trở Về” (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.

54. Hãy sinh hoa kết trái – Lm Jos. Tạ Duy Tuyền.
Có ai đó đã nói rằng: “lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa”. Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục… Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy”.
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.

55. Tất cả mọi người cần phải hoán cải
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Trước những hoạn nạn hoặc tai họa xảy ra, người bàng quang thường bàn tán. Với người họ cho là tốt, họ nhận định: “Ông bà nầy xem ra ăn ở phúc hậu, sao lại bị trời phạt như thế nầy!”. Với người họ không thích, họ phê: “Ăn ở thất đức, trời phạt là phải”. Quan niệm cho là người tội lỗi, ăn ở bất chính thì gặp phải bệnh tật, hoạn nạn, tai họa, là quan niệm rất phổ biến trong dân gian, nhất là thời xưa. Ở Do Thái thời của Đức Giêsu cũng thế. Nghe tin tổng trấn Phi-la-tô giết những người Galilê một cách tàn nhẫn trong đền thờ, hoặc những người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, dân chúng kết luận: họ là người xấu, mắc tội nặng, cho nên mới bị chết một cách khủng khiếp như vậy. Họ xem tai họa là hậu quả của tội lỗi. Ai không bị tai họa thì có thể an tâm cho mình là người tốt.
Chúa Giêsu đã sửa quan niệm coi tai họa là hậu quả của tội lỗi và bảo: “Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” Hoán cải và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu chính là con đường dẫn vào Nước Thiên Chúa. Vì vậy, suy nghĩ về cuộc sống và chỉnh hướng cuộc sống theo Tin Mừng phải là thái độ sống liên lỉ của tất cả mọi kitô hữu.
Khi nghe đến từ sám hối, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn chay, hãm mình, đánh tội và bao việc lành chúng ta phải làm, để không bị Chúa đoán phạt. Thực ra, sám hối không tiêu cực như thế. Lời đầu tiên Đức Giêsu rao giảng là: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Triều Đại Thiên Chúa chính là sự sung mãn Thiên Chúa ban cho loài người, là ý nghĩa cuộc đời, là tương lai và hạnh phúc bất diệt của con người. Và Ngài ban tặng món quà đó qua chính con Ngài là Đức Kitô. Qua cuộc sống, các hoạt động, cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại, Đức Kitô đã bộc lộ cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai: Người là Tình yêu vô tận. Và Thiên Chúa ao ước cho chúng ta thực tâm đón nhận Tình yêu ấy và từ bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường đến cùng Người. Thiên Chúa không muốn chúng ta làm những việc đạo đức cách miễn cưỡng, sám hối sửa minh bề ngoài, nhưng yêu thương phải được đáp trả bằng yêu thương. Sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó mới là hoán cải thật lòng, là sám hối cụ thể trong đời thường, thể hiện trong tình thương tha nhân, quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm, tình liên đới và giúp đỡ cụ thể. Sám hối thực lòng bắt đầu ở con tim và thể hiện ra hành động cụ thể. Và để sống trọn vẹn tình thương ấy, đôi khi chúng ta phải sửa đổi cách sống, nhất là tính ích kỷ và lòng ham muốn hưởng thụ.
Trong ý nghĩa đó, không thể hoán cải một lần là đủ, nhưng con người cần phải làm mãi trong cuộc đời. Không thể nói: tôi đã tốt đủ rồi, không cần phải sửa đổi nữa. Cũng không thể phàn nàn với Chúa: con còn phải làm gì nữa, để Chúa được vui lòng. Nhưng hãy tự hỏi: tôi còn có cách thế nào để bộc lộ lòng tri ân của tôi đối với Chúa, để làm chứng tá hơn nữa cho tình thương lớn lao Chúa dành cho tôi.
Mùa Chay thiết tưởng là thời gian thuận tiện để chúng ta suy tư về cuộc sống của chúng ta trước mặt Chúa, để khám phá những dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong cuộc sống thường ngày, để nhận định được những gì chúng ta còn có thể sửa đổi, để con đường chúng ta đi được đúng hướng. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không nhằm hăm dọa con người, nhưng là sứ điệp về lòng nhân hậu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Người, chúng ta sẽ hoán cải, để đạt được niềm tin sâu xa hơn và cuộc sống bác ái cụ thể hơn.

56. Kiên nhẫn của tình yêu – Achille Degeest
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v… Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.

57. Mùa chay, mùa đổi mới.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:
– Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.
Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.

58. Trừ phi các ngươi hối cải – McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. MỘT CƠ HỘI THỨ HAI
Người Pharisêu không có thì giờ dành cho người tội lỗi. Họ tin rằng những người đó chỉ là đồ bỏ đi. Đức Giêsu không đồng ý, và kể lại cho họ nghe một câu chuyện:
Vườn nho là một nơi rất đặc biệt, thường chỉ dành ra để trồng nho mà thôi. Tuy nhiên, trong dụ ngôn của mình, Đức Giêsu lại nói về một cây vả được trồng trong một vườn nho. Vào thời kỳ đó, điều này không phải là bất thường. Đất đai quá khan hiếm, đến nỗi người ta phải trồng cây ở bất cứ chỗ nào có thể được. Vậy chúng ta đang có một cây được trồng ở một nơi rất đặc biệt.
Thông thường, một cây vả phải mất ba năm mới trưởng thành. Nếu đến lúc đó, mà nó vẫn không trổ sinh hoa quả, thì chắc chắn nó sẽ không thể nào đơm hoa kết trái được. Đây là trường hợp thân cây mà Đức Giêsu đang nói đến. Sau ba năm, người chủ vườn đến xem, và nhận thấy thân cây này vẫn cứ cằn cỗi. Ông ta đã kết luận rằng đó là một thân cây vô dụng. Nó đã rút chất bổ dưỡng từ lòng đất, mà không hề trả lại gì cả, phải chặt nó đi thôi, vì nó chiếm mất khoảng không gian có giá trị. Thế là ông bảo người làm vườn chặt bỏ thân cây này.
Nhưng vốn là một người có nhiều hiểu biết về cây vả, và là một người rất kiên nhẫn, nên người làm vườn đã đáp lại: “Thưa ông xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm, nó có trái, nếu không, thì chúng ta sẽ chặt nó đi”.
Người chủ vườn đồng ý. Chúng ta không được nghe kể thêm điều gì sẽ xảy ra cho cây vả đó, nhưng không thành vấn đề. Đức Giêsu đã cho thấy quan điểm của Người: Tương tự như người làm vườn kiên nhẫn với cây vả, cũng vậy, Thiên Chúa rất kiên nhẫn với các tội nhân.
Bài Tin Mừng này gợi lên bài Tin Mừng về cơ hội thứ hai. Thiên Chúa rất kiên nhẫn. Lịch sử Giáo Hội đầy rẫy các ví dụ về những cây vả cằn cỗi, nhưng cuối cùng cũng đã trổ sinh hoa quả; nói cách khác, đó là các tội nhân đã hối cải và nên thánh.
Môsê, nhân vật trung tâm của Bài đọc 1, là một gương mẫu tốt đẹp. Khi còn trẻ, ông đã giết chết một người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không hề loại bỏ ông. Thật vậy, ông có tính tình nóng nảy. Nhưng nơi ông vẫn có điểm tốt. Ông là một ngài hiếm có –loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy xảy ra điều bất công hoặc tội ác. Chính nhờ tính cách này, mà Thiên Chúa đã chọn ông trong việc dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Người ta có thể cho rằng Einstein là người có trí tuệ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm lên 2 tuổi, ông vẫn chưa biết nói. Cha mẹ của ông rất lo lắng cho ông, đến nỗi họ đã đưa ông đi khám bác sĩ. Sau này, một trong những giáo viên của ông rất thất vọng về ông, đến nỗi đã nói rằng “Anh sẽ không bao giờ đáng giá một chút gì cả”, bởi vì chưa hề có dấu hiệu nào về sự vĩ đại của ông trong tương lai. Nhưng cha mẹ và thầy giáo của ông đã phán đoán về ông quá sớm. Một số người phát triển một cách từ từ và chậm trễ, nhưng điều đó lại càng tốt hơn.
Nhưng loại người này cần có một người nào đó tin tưởng nơi họ, một người nào đó kiên nhẫn đối với họ, nếu không, nhiều tài năng sẽ bị mai một dần. Chúng ta có khuynh hướng hay khắt khe với người khác, cho đến khi chính bản thân chúng ta cần có một cơ hội thứ hai. Chúng ta phải cởi mở tâm hồn với người khác, bằng tấm lòng nhẫn nại và khoan dung, mà chúng ta mong muốn cho bản thân mình.
Nhưng dụ ngôn này cũng cho thấy rõ ràng đây như một cơ hội cuối cùng. Nếu người ta khước từ hết cơ hội này đến cơ hội khác, thì khi ngày cuối cùng đến, không phải là Thiên Chúa không cho họ vào, nhưng là họ cố tình chọn loại trừ bản thân. Nhưng ai trong chúng ta muốn cho mình trở nên cằn cỗi, trong khi chúng ta có thể trổ sinh hoa quả?
Suy Niệm 2. LỜI KÊU GỌI THỐNG HỐI.
Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là một thân cây rất đặc biệt, bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt -vườn nho. Mặc dù được như vậy, nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó vẫn được tạo cho một cơ hội khác. Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng trong vườn nho của Chúa. Tình trạng cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng cằn cỗi của dân Israel trước mặt Thiên Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành. Thật vậy, Người nói với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể diễn ra như thế nào –người tốt lành cần phải thống hối sao?
Trong trường hợp những người tốt lành, đối với họ, sự sa ngã hệ tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là sự công kích chính yếu của dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như không đạt yêu cầu, không phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi vì nó không hề trổ sinh bất cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?
Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu hỏi: Tôi đã thiếu sót không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu gọi tránh xa sự dữ, mà còn là lời kêu gọi “trổ sinh hoa quả” của lối sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất cả mọi người.
Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không có bất cứ giây phút chuyển biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước, ông mời đi chăn giữ đàn cừu của ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi, để đến với cuộc sống của tự do và ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo cả một quá trình lớn lên và phát triển. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình liên tục hoán cải.
Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời cảnh báo và đe doạ. Mục đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có thể chúng ta đang bỏ lỡ, hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống sâu xa, phong phú và chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng họ đang an toàn, biết sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã nhiều cho bằng người cho rằng mình không thể được cứu độ.
NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHÁC.
1. Điều mà chúng ta nhận thấy được trong sự kiện bụi gai đang bốc cháy, đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân Người.
Thiên Chúa đã nghe được tiếng kêu cứu của dân Người đang bị nô lệ, và Người đã sai Môsê đi giải phóng cho họ. Ngọn lửa là biểu tượng của tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa không hề bị suy giảm khi cho đi.
Điều gì nơi Môsê làm cho Thiên Chúa nhận thấy rằng ông đúng là người để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với sự tự do? Kinh Thánh không nói nhiều với chúng ta về tính cách của người thanh niên Môsê. Kinh Thánh không nói rằng ông là người tốt lành hoặc sốt sắng. Nhưng Kinh Thánh kể lại cho chúng ta về ba giai đoạn trong cuộc đời của ông, trước khi có sự mặc khải trong bụi gai đang bốc cháy. Khi nhìn thấy một người Ai Cập đang tấn công một người Israel, ông đã can ngăn. Ông nhìn thấy những người chăn cứu dân Midianite ngăn cản các cô con gái của Jethro không được cho đàn gia súc uống nước, đã can thiệp.
Tất cả những sự kiện này đưa dẫn chúng ta đến cùng một kết luận. Chúng chỉ ra cho chúng ta rằng ông là loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy một điều bất công hoặc tội ác đang xảy ra. Vậy chúng ta có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn ông, để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Nhưng cảm nghiệm riêng tư về Thiên Chúa có thể làm cho người ta ích kỷ. Nhưng đây không phải là trường hợp của Môsê. Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa càng lôi kéo ông vào sứ vụ giải thoát dân tộc của ông.
2. “Vùng đất mà ngươi đang đứng là vùng đất thánh”.
Tất cả trái đất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đều là vùng đất thánh thiện, và xứng đáng được đối xử bằng sự kính trọng. Nhưng vùng đất thánh thiện nhất vượt lên trên tất cả thì lại ở trong tâm hồn chúng ta.
Trước hết, cơ thể con người mang tính cách thánh thiện. Cơ thể chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Điều đó đủ lý do để kính trọng và săn sóc cơ thể. Nhưng Thánh Phaolô đưa ra cho chúng ta một lý do sâu xa hơn, để kính trọng cơ thể. Ngài nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”.
Tâm trí con người là thánh thiện. Nhiều người mỗi ngày đầu lấp đầy tâm trí họ bằng đủ mọi thứ rác rưởi từ T.V. radio, báo chí v.v… Theo lời của Thoreau “Người ta sẵn sàng chất chứa tâm trí mình bằng những thứ rác rưởi –họ cho phép những tin đồn vô căn cứ và những sự kiện tạp nham xâm nhập vào tâm trí mình, mà đáng lẽ nên dành để cho những suy nghĩ thánh thiện. Liệu tâm trí con người sẽ là một phạm vi công cộng, hoặc tự thân nó sẽ là một nơi thuộc về thiên đường?”. Chúng ta nên phấn đấu đi theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Plm 4,8).
Nhưng nơi thánh thiện nhất chính là tâm hồn con người. Trong thời đại của chúng ta, người ta bận tâm quá nhiều với vẻ sạch sẽ bề ngoài, và có nguy cơ coi thường sự thanh sạch bên trong, hoặc là sự thanh sạch của tâm hồn. Chính từ trong tâm hồn, mà tất cả những suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta tuôn chảy, tựa như dòng nước đổ ra từ một con suối. Nếu con suối đó sạch sẽ, thì tất cả dòng nước chảy từ đó ra sẽ trong sạch. Như vậy, chúng ta phải cố gắng giữ sao cho tâm hồn mình luôn được thanh sạch và tinh tuyền. Đặc biệt là chúng ta sẽ được nhìn thấy và gặp gỡ Thiên Chúa ngay tại nơi thánh thiện này. Theo lời của Đức Giêsu: “Phúc cho những kẻ có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.

59. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn, thì có người thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ Philatô giết hại những người Galilê. Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để tuyên bố rằng số phận của những người bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển cho người ta ăn năn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng cách nói thêm một tai hoạ về mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem số phận của họ như là dấu hiệu họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ khác nếu không ăn năn thì cũng phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa Giêsu hiện ra hình ảnh của nước Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn bằng hình ảnh cây vả không sinh trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và cũng tượng trưng cho mọi linh hồn không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin nên chỉ có thể phỏng đoán thôi. Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết đang lúc dâng lễ tế. Như chúng ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ là tội nhân, nhưng dịch họ là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC (x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điểm đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là một phát biểu đúng đắn.
Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ ngôn cây vả không sinh trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh cáo đáng sợ.
1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác.
Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng: “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá nhiều như thế hệ chúng ta, và vì chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.
2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hoá, tất cả cuộc tiến hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ mạnh mẽ phát triển trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?”.
3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được.
Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh mà không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng: tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể mọc”. Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra thế nào… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như thế nào. Cậu nói: “Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm tròn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân của cơ may thứ hai.
Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.
5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng.
Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó. “Hôm nay là ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ”.

60. Thống hối – R. Gutzwiller
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình.
Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.
1. Bài học của các biến cố
Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.
Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: ‘Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy’. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần đến.
Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.
Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.
Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.
2. Dụ ngôn
Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi
Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.
Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu…
Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.
Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.

61. Lời mời gọi sám hối – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai hoạ là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?

62. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
HÃY TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt hơn”. Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày”.
Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ ước hão huyền.
Chúng ta thường có khuynh hướng giống như cậu học trò kia, muốn đưa ra những điều kiện ngược đời, trong khi đó, việc mà mỗi người đều có thể làm được, đó là trở nên người tốt, thì lại bị lãng quên hoặc coi nhẹ. Trở nên người tốt, đó là điều kiện đầu tiên để thành đạt trong cuộc sống.
Một nhóm người đến thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những sự kiện vừa xảy ra. Khi thuật lại những sự kiện này, không phải vì họ thương xót các nạn nhân mà ngược lại, họ muốn kết án họ như những người tội lỗi. Khi nhận định và phê phán người khác, họ tự coi mình là những chuẩn mực về luân lý. Chúa Giêsu đã điều chỉnh quan niệm của họ. Theo giáo huấn của Chúa, bất cứ ai cũng cần phải sám hối. Bởi lẽ những hình phạt dành cho người cứng lòng, kiêu ngạo có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, giống như cây tháp Si-lô-ê đổ xuống hoặc như cuộc chém giết đẫm máu của Phi-la-tô. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi đến cho các thính giả đương thời cũng như cho các độc giả hôm nay đã rất rõ ràng: hãy sửa soạn tâm hồn, hãy sẵn sàng và khiêm tốn nhận mình là tội nhân. Chính nhờ sự khiêm tốn đó mà họ có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha bao dung nhân hậu.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được diễn tả qua câu chuyện bụi gai trong sa mạc. Ông Môi-sen đã được gặp gỡ Chúa tỏ mình qua bụi gai đang cháy bừng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Chúa tỏ cho con người biết danh xưng của Ngài. Danh xưng ấy gắn liền với các tổ phụ của dân tộc Israen. “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Bài đọc I). Nói đến Thiên Chúa của tổ phụ là nói đến biết bao điều lạ lùng Chúa đã thực hiện vì yêu thương dân riêng của Ngài. Những gì được kể nối tiếp trong sách Xuất hành đã cho ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu. Ngài đã cứu dân Do Thái ra khỏi Ai-cập để dẫn đưa họ về tới bến bờ tự do là Đất Hứa.
Mùa Chay là thời điểm để chúng ta suy tư về lịch sử cứu độ cũng như lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người. Thiên Chúa luôn ghi dấu ấn tình yêu của Ngài nơi cuộc sống chúng ta. Có điều chúng ta ít nhận ra những dấu ấn ấy. Hình ảnh cây vả đã ba năm liền không sinh trái là tượng trưng của một cuộc sống khô cằn, thiếu tình Chúa, vắng tình người, khép kín trước tha nhân. Dù con người mang nhiều tội lỗi, Chúa vẫn luôn bao dung và kiên nhẫn. Ngài giống như người làm vườn gia hạn chờ đợi thêm một năm nữa rồi mới quyết định số phận của cây vả. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta trở về. Hãy sinh hoa trái để không bị đốn ngã và tiêu diệt. Đó là điều Chúa muốn nhắn gửi chúng ta.
Trở lại câu chuyện mở đầu trên đây, Lời Chúa cũng mang nội dung tương tự, tức là mời gọi chúng ta hãy trở nên con người tốt, để rồi nhờ đó chúng ta mới có hy vọng thành đạt trong xã hội. Hạnh phúc siêu nhiên đời này cũng như đời sau là kết quả của những cố gắng nỗ lực sống tốt với anh chị em xung quanh mình.
“Ôn cố nhi tri tân”, học chuyện đã qua để biết thêm điều mới mẻ. Thánh Phao-lô mời gọi giáo dân Cô-rinh-tô hãy nhìn lại lịch sử Cựu ước để “làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (Bài đọc II).
Ước chi mỗi chúng ta được biến đổi nhờ những thực hành của Mùa Chay, để chúng ta trở nên những người loan báo lòng nhân hậu của Chúa trong một xã hội đang nhạt phai tình người. Amen.

63. Đổi mới cách nhìn
Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.
Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:
– Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?
Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện vừa nghe là một hình ảnh tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người.
Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có vướng mắc những sợi chỉ mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và nhìn người bằng cặp mắt thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người, chúng ta muốn lấy lòng mình làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm trong mắt người khác mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.
Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai biến cố mà Chúa Giêsu đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận:
– Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người.
Đúng thế, thay vì đánh giá người khác, chúng ta phải đánh giá chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa như lời Ngài đã phán:
– Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì các ngươi cũng sẽ chết thê thảm như vậy.
Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần thiết là phải thay đổi cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân mình, chứ đừng nhìn vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng nghiêm khắc với người khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng:
– Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng:
– Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà mọi đàng.
Có như thế, những biến cố xảy đến trong cuộc đời mới thực sự đem lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến cố ấy chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.

64. Sám hối
Bài đọc 2 của Chúa nhật III Mùa chay năm C trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi giáo đoàn Côrintô:
“Tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây khi đi ngang qua biển đỏ và tất cả nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tất cả đã cùng ăn một thức ăn thiêng liêng; tất cả đã cùng uống một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng, tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, vì họ đã bị ngã gục trong hoang địa. Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo dục vọng xấu xa như những người đã chiều theo nó. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm và đã vong mạng bởi một tay sứ thần huỷ diệt”.
Thánh Phaolô giải thích Kinh thánh Cựu ước cho rõ nghĩa và đồng thời áp dụng vào đời sống cho giáo đoàn tại Côrintô. Phaolô đã áp dụng điều gì cho giáo đoàn Côrintô? Chúng ta lần lượt nhận ra điều đó trong những dòng sau đây: Đọc trong toàn thể thư gửi giáo đoàn Côrintô, bài sách Thánh này nằm trong phần bàn về những liên hệ đức tin của người tín hữu. Đức tin này đòi hỏi một thái độ dứt khoát với những thói tục xấu, với việc tôn thờ không đúng trong quá khứ. Việc từ khước một số tự do vì Tin Mừng và tính cách cố gắng liên tục để chiếm đoạt trọn vẹn Tin Mừng cũng như để khỏi bị sa ngã. Thánh Phaolô viết: Cha ông chúng ta đã được ở dưới đám mây, băng ngang qua biển và tất cả đã nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tổ phụ, áng mây, lòng biển, Môisê đưa người tín hữu Côrintô trở về quá khứ cách đó hơn 13 thế kỷ.
Việc dân Israel bỏ Ai Cập lên đường về đất hứa, các biến cố này Môisê dẫn đầu với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Sự trợ giúp này được biểu dương bằng áng mây ban ngày và cột lửa ban đêm, bằng việc vượt qua biển đỏ an toàn. Sự trợ giúp này có tính cách thường xuyên, vì suốt cả cuộc hành trình của dân Israel, Thiên Chúa đã cho đám mây và cột lửa ngang đầu giúp cho dân. Sự trợ giúp này còn có tính cách bất thường trong những hoàn cảnh đặc biệt, vì Thiên Chúa đã cứu họ khi họ bị dồn vào thế cùng đường cũng như khi họ không còn của ăn và nước uống.
Như vậy, hai biểu hiệu “áng mây” và “biển” đã nói lên ơn bảo trợ của Thiên Chúa liên tục và trọn vẹn. Sự trợ giúp này còn nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mây là biểu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày xưa sự hiện đó được biểu hiện qua đám mây, nhưng trong thời Tân ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua chính Con Một của Ngài nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.
Điều này thánh Phaolô nói lên trong đoạn văn tảng đá thiêng liêng là chính Chúa Kitô. Thiên Chúa đã ban cho dân Israel nhiều ân huệ trong thời gian lưu lạc trong sa mạc, nhưng dù vậy có người trong bọn họ đã sa ngã, đã phạm tội và do đó họ là đối tượng của hình phạt của Thiên Chúa.
Các ân huệ không là thứ bảo đảm an toàn cho họ, nếu họ không biết sống đẹp lòng Chúa, và đây cũng chính là điều mà thánh Phaolô muốn dạy bảo các tín hữu Côrintô. Các ơn Thiên Chúa ban cho Giáo hội, cho tín hữu thật là dồi dào, nhưng chúng ta không được phép tự hào về các ơn này để rồi sống buông thả, thiếu cố gắng và sau cùng sẽ bị tai hoạ cho đời mình.
Như vậy, Cựu ước là biểu tượng của Tân ước, Phaolô dùng nó để dạy dỗ giáo đoàn và nhắc mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức và hãy làm trổ sinh những hoa trái tốt. Đừng an phận với những ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người, nhưng chúng ta phải cộng tác với ân huệ này và làm cho nó sinh hoa trái trong cuộc đời. Hãy làm cho đời sống chúng ta triển nở thêm phong phú. Đây cũng là điều được nhắc nhớ chúng ta qua bài Phúc âm của Chúa nhật III Mùa chay mà mỗi người chúng ta cần phải lãnh nhận và áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người Kitô hữu.

65. Ăn năn sám hối
Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.
Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào “cứu thế” chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.
Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.
Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.
Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.
Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?
Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.

66. Sám hối
Trước khi đi vào bài Tin Mừng hôm nay, thầy có mấy câu để hỏi các em, nếu ai biết xin giơ tay nhé.
. Trong các em, ai đã nhìn thấy tội của mình? Và ai đã nhìn thấy tội nơi người khác? – Vâng, đa số trong các em nhìn thấy tội của người khác hơn là thấy tội của mình. Chính cái nhìn hạn hẹp này mà Chúa Giêsu nhắc nhở những người Do thái ngày xưa, và Ngài cũng nhắc nhở chúng ta ngày nay rằng: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết”.
Vậy để giúp nhau sống lời Chúa hôm nay, thầy cùng các em tìm hiểu ba điểm sau đây:
. Sám hối để được tha thứ.
. Sám hối để được sống.
. Sống tinh thần sám hối.
Sám hối để được tha thứ. Các em có biết:
. Trong thánh lễ, sau khi làm dấu, chúng ta thường đọc kinh gì? Đọc kinh cáo mình và kinh thương xót.
. Qua những kinh đó chúng ta thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng ta.
. Tại sao ta phải sám hối trước thánh lễ? Vì chúng ta muốn có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh.
. Giáo hội cho chúng ta bốn mươi ngày trong mùa chay. trong bốn mươi ngày này Giáo hội kêu gọi mỗi người Kitô hữu hãy sám hối lỗi lầm để trở về với Thiên Chúa.
. Do đó, sám hối là một điều rất cần thiết cho mỗi người Kitô hữu, vì nếu muốn được tha thứ thì phải sám hối!
. Vậy để luôn biết mình và để luôn được sống thân tình với Thiên Chúa, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa và ý thức mình là kẻ có tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa.
Sám hối để được sống.
Để thấy kết quả của việc ý thức tội lỗi và quyết tâm trở về với Thiên Chúa như thế nào, giờ đây thầy kể cho các em nghe một câu chuyện.
Ngày xưa, Thiên Chúa sai tiên tri Giona đến một thành rất tội lỗi tên là Ninivê để khuyên bảo dân thành này. Giona không vâng lời Thiên Chúa, xuống tàu đi sang nơi khác, nên Chúa đã cho con cá nuốt ông trong bụng hết ba ngày ba đêm để cảnh cáo ông. Sau đó, cá nhả Giona lên bãi biển. Ông không dám cãi lệnh Thiên Chúa nữa. Ông đến thành Ninivê, rảo khắp thành phố trong ba ngày và rao giảng rằng: còn 40 ngày nữa Ninivê sẽ bị tàn phá, nếu anh em không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa thì sẽ bị phạt.
Nghe lời kêu gọi đó, thì từ nhà vua cho đến dân và súc vật trong thành đều tỏ lòng kính sợ Thiên Chúa. Nhà vua cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm, ngồi trên đống tro cùng dân trong thành ăn năn khóc lóc tội lỗi và hết lòng thống hối, trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thấy họ thật lòng từ bỏ cách ăn thói ở gian ác tội lỗi của họ, nên Ngài không phạt nữa.
Qua câu chuyện thầy vừa kể, các em có biết:
. Nhờ đâu mà dân thành Ninivê được Chúa tha thứ không? Nhờ lòng ăn năn sám hối của họ.
Cũng vậy, để được Thiên Chúa tha thứ như dân thành Ninivê, chúng ta phải biết sám hối những lỗi lầm của mình và quyết tâm trở về với Thiên Chúa.
. Nhìn lại bài Tin Mừng, các em thấy những người Do thái nghĩ gì về những người đã chết do Philatô giết và tháp Silôê đè là những người có tội, bị Thiên Chúa phạt. Còn họ nghĩ họ là những người tốt, không có tội nên không bị Chúa phạt. Những người Do thái này không chịu nhìn tội lỗi của mình và họ chỉ nhìn tội lỗi của người khác.
Thấy những người Do thái này cứng đầu, lì lợm, không chịu nhìn nhận là mình có tội, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở họ rằng: “Cả các ngươi nữa, nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”.
Tội lỗi đã làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa, làm chúng ta phản bội Chúa, chống lại tình yêu của Chúa và nhất là làm chúng ta đánh mất sự sống với Ngài.
Nhưng Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, Ngài đã ban chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã gánh lấy hết mọi tội lổi và chịu chết thay cho chúng ta. Như vậy, Chúa Giêsu đã xoá đi tội lỗi của chúng ta và biến đổi chúng ta từ nô lệ tội lỗi trở thành con cái của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy sám hối, trở về với Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu chuộc của Chúa như tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta đã xoá tội của các ngươi… Hãy trở về với Ta vì Ta đã cứu chuộc các ngươi”.
Sau khi thấy được kết quả của việc sám hối, giờ đây chúng ta quyết tâm sống tinh thần sám hối.
Sống tinh thần sám hối.
Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu với mẹ rằng:
– Mẹ ơi, con đói bụng quá.
Mẹ ôn tồn:
– Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ…
– Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến khi mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.
An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:
– Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì phải biết phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy.
Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận và thưa mẹ rằng:
– Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không làm mẹ buồn nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn con nữa đâu.
Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết sám hối, biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà, cha mẹ, thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh nhau, chửi thề, nói dối…
Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của mình, rồi mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính hư tật xấu.
Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa. Chúng ta hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để trở về với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh nhận bí tích Giải tội.
Trong tuần này, thầy và các em cùng nhau mỗi ngày lặp lại nhiều lần với lời nguyện tắt sau đây nhé:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”.

67. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng ba năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để dành chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn con hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không có trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. Ngay trong bài đọc 1 hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác?

68. Thay đổi cái nhìn
Cùng một biến cố, nhưng người ta có thể nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Bệnh AIDS (SIDA) chẳng hạn, các nhà Y học coi đó như một thách đố cho việc tìm tòi, một số kỹ nghệ gia coi đó là dịp để tung ra các sản phẩm phòng ngừa, các nhà đạo đức thì coi đó như là chiếc roi của Thiên Chúa trừng phạt nhân loại, còn người có đức tin thực sự lại nhận ra ở đó khởi điểm của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu đã nhắc đến phản ứng rất thông thường của người Do thái và có lẽ cũng là của nhiều Kitô hữu, đó là qui trách cho Thiên Chúa mọi sự trừng phạt. Khi Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì là những kẻ tội lỗi. Khi tháp Silôê đổ xuống làm một số người chết, người ta cũng bảo là họ bị Chúa phạt.
“Chúa phạt”, đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai họa cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác.
Ước gì hoa trái của yêu thương, phó thác, tha thứ trổ bông trong tâm hồn và tràn ngập trong ánh mắt chúng ta.

69. Dấu chỉ của thời đại
Trong bài Phúc Âm Lc 12,54-59 chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Đừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy”.
Lạy Chúa.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn thức tỉnh chúng con, mời gọi chúng con sám hối, canh tân. Chúng con muốn vượt ra khỏi những vòng nô lệ của tật xấu và tội lỗi. Xin thương ban ơn thánh Chúa, thanh luyện giúp chúng con trở thành những con người mới, sống theo mẫu gương của Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.

70. Tản mạn
Trong bài đọc 1 kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những “phép lạ” vẫn diễn ra hàng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ.

71. Kiên nhẫn – Trầm Thiên Thu
Kiên nhẫn (nhẫn nại) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh.
Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người bình thường.
Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: “Môsê! Môsê!”. Ông thưa: “Dạ, tôi đây!” (Xh 3:4). Người phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là Đất Thánh” (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3:6). Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao? Không phải Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng? Biết vậy, Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” (Xh 3:14). Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (Xh 3:15).
Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật!
Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp! Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu?”. Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương!
Rồi khi gặp trắc trở, con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện” (Tv 103:6-7), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là “tận cùng bảng số”.
Từ một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1 Cr 10:1-4). Chữ “tất cả” và chữ “một” khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch” cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca “Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người” với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”.
Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng “không hề có Thiên Chúa”, dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này” (1 Cr 10:10-11). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.
Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?” (Lc 13:2). Tình trạng “tưởng mình hơn người” rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Lc 18:19).
Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng!
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

72. Sám hối để được cứu chuộc
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp…, nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Nếu Chúa Nhật I Mùa Chay nói về chủ đề cám dỗ, Chúa Nhật II nói về vinh quang, thì Chúa Nhật thứ III Mùa Chay hôm nay nói về chủ đề sám hối.
Tại sao chủ đề sám hối lại được đặt vào trọng tâm của Mùa Chay? Thưa vì khi sám hối, con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra sự bất toàn của chính mình. Từ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ, khởi đầu lại hành trình đức tin và tiếp tục đi trong đường lối yêu thương của Người.
Hôm nay, vào giữa Mùa Chay, Giáo Hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình sám hối, vì: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2 Cr 6,2b).
1. Lý do cần phải sám hối
Khởi đi từ bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành cho thấy: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con cái của Người cách đặc biệt, nên ngay từ xa xưa, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham, qua đó, Người thiết lập một dân riêng, để từ đây, Thiên Chúa mạc khải tình thương của Người cho nhân loại qua việc yêu thương, chăm sóc và giữ gìn.
Tình thương ấy được tỏ hiện cụ thể qua việc Thiên Chúa tiếp tục chọn và gọi Môsê để trao phó cho ông sứ mạng giải thoát dân Người ra khỏi ách nô lệ bên Aicập.
Đến bài đọc II, thánh Phaolô gợi lại sự chăm lo của Thiên Chúa cách đặc biệt trên cộng đoàn. Tuy nhiên, Ngài thấu hiểu được tâm lý con người, nên đã cảnh báo họ về những cám dỗ. Để chứng minh, Ngài đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân từ Aicập vượt qua Biển Đỏ, rồi trong suốt hành trình nơi Samạc, họ đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, ấy thế mà, dân Israel đã bội nghĩa vong ân, đã thay trắng đổi đen, và đã vướng vào những cạm bẫy của ma quỷ, để rồi kiêu ngạo, thách thức Thiên Chúa. Vì thế, nhiều người đã phải chết trong sự ngu dốt do tính kiêu ngạo của mình.
Từ đó, thánh nhân mời gọi tín hữu Côrintô hãy sám hối, tin tưởng, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với sự hướng dẫn đầy tình nhân ái của Người.
2. Nếu không sám hối, sẽ phải chết
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc dân chúng báo tin cho Đức Giêsu về hai sự kiện, một là: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ vật trong đền thờ, và biến cố 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết, sau đó, họ kết luận: những người đó phạm tội nên mới bị chết cách đau đớn như vậy!!!
Khi nghe thấy tin ấy, Đức Giêsu đã không nhìn sự kiện dưới khía cạnh luân lý, kinh tế hay chính trị, mà Ngài nhìn dưới gọc độ tôn giáo. Vì thế, Ngài đã đánh đổi quan niệm cũ sai lầm mà người Dothái thường gán cho những người ốm đau, bệnh tật, tai nạn là do phạm tội nên bị Thiên Chúa phạt bằng câu nói đầy tính tiên tri: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Điều này đã được chính Đức Giêsu chứng minh qua phép lạ chữa cho người mù từ lúc mới sinh, Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Mặt khác, Ngài cũng muốn nhắc cho dân chúng ở đó rằng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án mà thôi, nên: “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Như vậy, qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy ý chính, trọng tâm của sứ điệp chính là: “Hãy sám hối để được ơn tha thứ và cứu chuộc”.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Lời mời gọi ấy ngày nay vẫn con nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc thay, nhiều người vẫn dửng dưng và cho rằng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình!”; hay nghĩ rằng: “Đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn! Thực ra, chỉ những ai dại dột hay kiêu ngạo thì mới cả gan nghĩ như vậy, bởi lẽ trong thực tế đã chứng minh cách nhãn tiền rằng: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì: cái chết nó đến với chúng ta cách bất ngờ đến độ như kẻ trộm lúc đêm khua hay như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu chúng ta…
Vì thế, ngay giây phút này, mỗi người hãy tâm niệm câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); và câu nói của thánh Phêrô: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Vì ngài: luôn đánh giá rất cao người tội lỗi trở về hơn là người đạo đức mà kiêu ngạo.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp…, nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Bởi vì nếu lời mời gọi sám hối dành cho những người tội lỗi là: từ bỏ con đường bất chính, gian dâm, trộm cướp, hối lộ, bóc lột…, thì lời mời gọi sám hối dành cho những người đạo đức, công chính…, đó là: làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, biết cảm thông cho những thân phận xấu số, cảm thương với người nghèo và rộng tay làm phúc bố thí cho họ, nhất là nâng đỡ những người tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời…
Tại sao vậy, Thưa! Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý của Đức Giêsu còn đòi buộc cả những điều tích cực như: khi thấy điều tốt mà không làm thì cũng mắc tội. Điều này cũng được chính thánh Giacôbê nhắc đến trong thư của ngài: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17).
Vì thế, nếu tỏ lòng sám hối là điều cần làm ngay lúc này, thì lời mời gọi sinh hoa quả tốt là các nhân đức cũng là điều cấp thiết. Bởi vì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10; Lc 3,9).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng: biết sám hối là một lựa chọn khôn ngoan. Biết đổi mới đời sống theo thánh ý Chúa là người có phúc. Amen.

73. Suy niệm của JKN.
ĐỪNG ĐOÁN XÉT NGƯỜI KHÁC, HÃY TỰ XÉT CHÍNH MÌNH
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao có người cho rằng những người bị giết hay bị chết trong bài Tin Mừng là những kẻ tội lỗi? Đức Giêsu có quan niệm như thế không? Ngài có đồng ý với việc xét đoán người khác kiểu đó không? Lập trường Ngài thế nào?
2. Áp dụng dụ ngôn cây vả vào đời sống người Kitô hữu hôm nay, thì hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta là gì? Là việc tham dự những nghi thức tôn giáo cho đầy đủ, hay là tình thương phải có đối với nhau?
Suy tư gợi ý:
1. Đừng xét lỗi kẻ khác, hãy xét lỗi chính mình
Thời Đức Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy chống lại chính quyền Rôma và đã bị giết. Một số nhà giải kinh cho rằng những người bị Philatô giết ở đây cũng vì lý do ấy. Mặc dù không ủng hộ chính quyền Rôma, người Pharisêu phản đối việc dùng vũ lực chống lại chính quyền. Vì thế, theo quan điểm của họ, những người bị giết này là đáng tội chết. Còn nhóm Dêlốt, một đảng chính trị chuyên khủng bố người Rôma, chủ trương bất hợp tác với chính quyền đế quốc. Vì thế, khi thấy 18 người Do Thái đào đường dẫn nước thuê cho người Rôma và bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, họ cũng kết án những nạn nhân này là đáng tội chết.
Thấy họ thích xét đoán và kết án người khác như vậy, Đức Giêsu lên tiếng phản đối. Theo Ngài, khi ta kết án người khác, thì chính ta lại là kẻ đáng bị kết án hơn cả: «Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1; x. Lc 6,37). Ngài muốn đừng ai xét đoán ai, mà mỗi người hãy tự xét về lầm lỗi của chính mình, đồng thời sám hối và sửa đổi mình trước đã. Vì thói đời thường «thấy cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy» (Mt 7,3). Vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, mình không phải là Thiên Chúa nên không thể biết rõ hoàn cảnh phạm lỗi của người khác để có thể kết án họ. Càng kết án người khác, ta càng bị Thiên Chúa kết án: «Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em» (Mt 7,2). Vậy, ta đừng dại gì mà xét đoán người khác?
Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình trước đã: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!» (Ga 8,7). Khi được mời gọi xét lại chính mình, những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình ấy đã từ từ «bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi» (Ga 8,9). Tại sao vậy? Vì họ vẫn còn liêm sỉ để nhận ra chính mình cũng chẳng phải vô tội! Nếu ta có thái độ «tiên trách kỷ, hậu trách nhân», hay «tiên xét kỷ, hậu xét nhân», thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Vì khi xét mình, ta sẽ luôn luôn nhận ra mình cũng có lỗi. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình thì ta sẽ không dám kết án ai.
Rất nhiều lần khi thấy con cái mình phạm một lỗi nặng, tôi muốn nổi trận lôi đình với chúng, dự định la mắng chúng một trận nên thân. Nhưng khi bỗng nhận ra mình ngày xưa cũng phạm những lỗi y hệt chúng ngày nay, thì tôi hết giận ngay. Và tôi chỉ trách mắng chúng một cách nhẹ nhàng; nhờ vậy, việc giáo dục chúng có kết quả hơn. Nhiều lần ra đường bị một ai đó chạy ẩu làm tôi bị té hoặc bị thương, tôi giận muốn điên lên. Nhưng khi nhận ra chính mình cũng đã từng làm cho người khác khốn khổ y như vậy, tôi bèn mỉm cười và cơn giận lập tức tiêu tan.
2. Hãy tự xét lỗi mình và cải thiện theo đúng đường lối Chúa
Ta chỉ có trách nhiệm xét lỗi của ta, chứ không có trách nhiệm xét lỗi người khác: «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?» (Gc 4,12). Nếu thấy mình có lỗi thì ta phải sám hối và tự sửa chữa, nếu không, e rằng ta sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt: «Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy».
Rất nhiều người cảm thấy mình vô tội, không cần sám hối, vì thấy rằng mình chẳng bao giờ làm điều ác cho ai. Mình vẫn được mọi người cho là ngoan đạo: vẫn đi lễ, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, vẫn đóng góp vào nhà thờ… Nhưng tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23). Lúc ấy họ sẽ phân bua: «Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chúa sẽ nói lại: «Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống…» (Mt 25,41-44).
Quả thật, rất nhiều Kitô hữu không biết được cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu. Họ tưởng nằm ở trong các nghi thức tôn giáo, trong việc lễ lạy, rước sách. Nhưng Đức Giêsu đã nói thật rõ ràng: «Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7), và «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) chứ không phải mấy chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ, thậm chí cả việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa nữa. Thật vậy, thánh Phaolô nói: «Những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện» (Dt 9,9). Điều làm cho con người nên hoàn thiện và nên giống Thiên Chúa là tình thương, vì tình thương chính là bản chất của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8.16).
Nhiều người không hiểu cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu, nên họ hay lên án những ai không giữ những luật lệ giống như họ. Họ hành xử không khác gì những người Pharisêu xưa lên án Đức Giêsu và các tông đồ: nào là vi phạm ngày sabát (chữa bệnh, bứt bông lúa mì…), nào là không giữ luật lệ tiền nhân (ăn không rửa tay, nhậu nhẹt với phường tội lỗi…). Nhưng Đức Giêsu trả lời họ: «Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội» (Mt 12,7). Trước mặt Đức Giêsu, những người Pharisêu này mới chính là kẻ có tội. Nhưng tiếc thay cho họ: tội mình thì không thấy, mà lại thấy tội của những kẻ vô tội! Thời nay, nhiều Kitô hữu trách cứ những người khác là khô khan, nguội lạnh chỉ vì những người này không sốt sắng giữ đạo theo kiểu của họ, đang khi những người bị trách cứ này lại giữ luật yêu thương của Đức Giêsu gấp nhiều lần họ. Thiết tưởng câu của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đáng cho họ suy nghĩ: «Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). 3. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ con người hối cải
Điều Thiên Chúa mong đợi nơi con người là sự hối cải. Hối cải là quay trở về với Ngài: quan niệm giống như Ngài, nói và hành động theo gương Ngài. Theo quan niệm của Ngài, yêu thương là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất, nền tảng nhất. Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm khác với Ngài, họ coi chuyện yêu thương là thứ yếu, mà coi những nghi thức tôn giáo mới là quan trọng. Họ đã đi vào đúng vết xe đã đổ của các kinh sư, của giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa.
Đức Giêsu đến trần gian đã 2000 năm nay để chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm xưa. Nhưng cho đến hôm nay, biết bao kẻ mang danh theo Đức Giêsu vẫn coi thường việc chỉnh đốn đó, vẫn tiếp tục đi theo con đường Ngài đã đả phá từ thời đó. Ngài thì đặt nặng quan hệ yêu thương giữa con người với con người, còn họ vẫn tiếp tục coi trọng những nghi thức tôn giáo hơn quan hệ đó. Ngài nói: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23-24). Hãy xem Ngài quan trọng hoá quan hệ yêu thương giữa con người với con người hơn các nghi thức tế tự như thế nào! Nhưng rất nhiều Kitô hữu, kể cả những người có trách nhiệm dạy dỗ Kitô hữu, đã quan trọng hoá theo chiều ngược hẳn lại với Ngài!
Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không ra trái trong bài Tin Mừng là một lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa kết trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: «Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 3,10; Lc 3,9). Các Kitô hữu quan niệm không đúng một phần khá quan trọng là do những người có trách nhiệm giáo dục họ đã không chỉ dạy họ cho đúng, hoặc đã không nhấn mạnh đủ điều nào là điều Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên tất cả những điều khác.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu kêu gọi sám hối, nếu không sẽ bị trừng phạt tất cả. Nhưng chúng con phải sám hối điều gì đây? Chúng con phải thay đổi điều gì trước tiên? Hoa trái mà Cha mong mỏi nơi chúng con là gì? Đọc kỹ Tin Mừng, chúng con thấy hoa trái mà Cha mong đợi nơi chúng con chính là tình thương. Nhưng chúng con lại quan trọng hoá chuyện khác. Chúng con lại đi đúng vào vết xe đã đổ của người Pharisêu xưa, là quan trọng hoá các nghi thức tôn giáo mà coi thường luật yêu thương của Cha. Xin giúp chúng con sửa đổi lại quan niệm cho đúng.

74. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”. (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thống hối. Không có gì tốt đẹp bằng lòng thống hối. Thống hối có sức canh tân cuộc đời. Thống hối là điều kiện để được tha tội khi lãnh nhận Bí tích Giao Hoà. Vì vậy, chúng ta thấy thống hối là chủ đề xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Thời cựu ước, các ngôn sứ luôn kêu gọi dân chúng thống hối. Đáp lại lời mời gọi đó, rất nhiều cá nhân cũng như tập thể đã thống hối từ bỏ tội lỗi của mình. Trổi vượt hơn cả là gương thống hối của vua Đavít; sự thống hối của dân thành Ninivê. Thánh Gioan Tẩy Giả không những rao giảng về sự thống hối, mà còn làm phép rửa thống hối và dân chúng đã tuôn đến với Ngài rất đông. Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu mời sự thống hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15).
Con người cần phải thống hối vì bản tính con người là bất toàn, tội lỗi. Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói: « Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi kể cho dân chúng và các môn đệ nghe hai câu chuyện tai nạn xảy ra: Câu chuyện thứ nhất về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh; câu chuyện thứ hai về việc mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Chúa Giêsu nói rõ ràng rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế”(Lc 13,2). Rồi Ngài kết luận: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”(Lc 13,5).
Như vậy, điều quan trọng mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta thực hiện chính là phải có lòng thống hối. Nếu chúng ta không có lòng thống hối thì cũng sẽ bị tiêu diệt như những người trong hai câu chuyện trên đây. Thống hối về những tội nào? Chúng ta phải thống hối về các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót. Trong Kinh thú nhận chúng ta thường đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Thông thường, chúng ta chỉ xét mình và xưng những tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm, ít khi chúng ta xét mình và xưng các tội thiếu sót. Thiếu sót về bổn phận: Bổn phận đối với Chúa, đối với Giáo hội, đối với tha nhân. Thiếu sót vì không làm điều tốt khi có thể làm được. Thánh Giacôbê đã nói: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Chúng ta không vi phạm luật, không làm điều xấu vẫn chưa đủ mà còn cần phải làm điều tốt. Bổn phận của cây vả là sinh trái tốt. Bổn phận của kitô hữu là sinh hoa trái việc lành. Cây vả không sinh trái sẽ bị chặt đi. Người kitô hữu không sinh hoa trái việc lành cũng sẽ chung số phận như vậy.
Trong dụ ngôn người Phú hộ và ông Lazarô cho chúng ta thấy: Nhà Phú hộ bị phạt trong Hoả ngục không phải vì giàu có, nhưng vì có cơ hội làm việc lành mà không làm. Đó cũng là lý do mà Chúa Giêsu nói với những người bên tả của Ngài trong ngày phán xét:“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”(Mt 25, 42-43).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta có tinh thần thống hối. Thống hối về tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Thống hối về những tội thiếu sót. Đồng thời, xin Chúa cho chúng ta luôn tránh xa tội lỗi và cố gắng “sinh hoa trái” là những việc lành phúc đức. Amen.

75. Sám hối vì chưa làm điều tốt
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).
Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo theo toàn bộ phần mái bị sập.
Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự vấn.
Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái.
Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.
Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.
Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. “Đã ba năm nay…”. Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối canh tân.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó?
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon ngọt hơn. Amen.

76. Hãy hoán cải vì Chúa giầu lòng xót thương
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài “hoán cải” với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: “Lạy Chúa Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!”. Sau hai tuần sám hối tội lỗi, chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi nghèo hèn, nhưng chúng ta, “hướng cặp mắt” lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: “Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ” (Ca nhập lễ).
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng: “Chúa nhân từ và thương xót.” Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại… thật là khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một cái chết đột ngột, người đời nói về họ: “Như thế nào, họ đã làm gì sai?”. Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi người ta mang đến và hỏi Chúa: “Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: “Không phải anh cũng không phải cha mẹ” (Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất cứ ai.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống, giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau: “Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?… Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: “Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết luận cho cả hai trường hợp như sau: “Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy.” (Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi ” (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Kitô.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: “Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh trái. “Amen.

77. Chúa mời gọi ăn năn hối cải.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
Càng đi gần tuần thánh, phụng vụ càng hối thúc con người ăn năn sám hối tội lỗi để lãnh nhận sự tha thứ của Chúa. Phụng vụ Chúa nhật thứ III mùa chay kêu gọi con người quay về với Chúa với lòng thống hối thật tình để đón nhận lòng thương của Chúa Giêsu.
BIẾN CỐ 18 NGƯỜI CHẾT, CHÚA DÙNG ĐỂ ĐÁNH THỨC CON NGƯỜI:
Thánh Luca trong trích đoạn Tin mừng đọc Chúa nhật 3 Mùa Chay, năm C đã kể lại rằng:” Lúc ấy có mấy người đến thuật lại cho Chúa Giêsu về việc tổng trấn Philatô giết một số người ở Galilêa”. Chúa Giêsu trả lời với họ ngay:” Các ngươi tưởng những người bị giết là những người tội lỗi hơn những người ở Galilêa hay sao? Không đâu, nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng bị giết như những người ở Galilêa”. Chúa Giêsu còn đưa vụ 18 người bị tháp Siloe đè chết. Việc này làm xôn xao dư luận dân chúng ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói ngay: có chắc rằng 18 người bị tháp đè là những người tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem không?
Trong thời Chúa Giêsu và ngay trong thời đại chúng ta đang sống, chúng ta dễ cắt nghĩa những biến cố, những vụ việc, những sự kiện theo cảm nghĩ chúng ta, những lối giải thích thiếu bác ái, thiếu lòng thương xót đối với người khác hoặc chúng ta cho đó là Trời phạt, Trời có mắt, còn sự việc nào có liên quan tới ta, ta cắt nghĩa nhẹ đi, hay ém nhẹm cả đi. Qua những phản ứng của chính Chúa Giêsu khi dân chúng thuật lại vụ việc Philatô giết một số người ở Galilêa và 18 người bị tháp Siloe đè chết. Chúng ta có thể thấy nơi Chúa Giêsu một số quan niệm sống. Đối với Ngài không có chuyện những người bị tai hoạ là những người tội lỗi hơn những người khác. Mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa và con người tất cả đều phải hối cải, ăn năn, trở về với Thiên Chúa. Để giải thích cho con người hiểu hơn về tấm lòng của Thiên Chúa chờ đợi con người hối cải, không thể chần chờ, ù lì mãi trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã đưa ra ví dụ cây vả. “Cây vả đã ba năm không có trái, ông chủ muốn chặt, nhưng người làm vườn đến xin ông chủ khoan nhượng cho thêm một năm nữa để anh cuốc xới, bón phân, tưới nước, xem thế nào không chừng nó sẽ sinh quả, bằng không sẽ chặt nó đi “. Ông chủ luôn tỏ ra kiên nhẫn đợi chờ.
CHÚA MỜI GỌI CON NGƯỜI HOÁN CẢI, ĂN NĂN:
Mọi Kitô hữu đều giống như cây ăn quả Thiên Chúa trồng: con người từ nhỏ đã được lãnh nhận bí tích rửa tội, làm con Thiên Chúa và làm con của Giáo Hội, Chúa đã vun xới, chăm con người qua những lời giáo huấn, Kinh Thánh, Phụng vụ, con người đã lãnh nhận biết bao ơn huệ Thiên Chúa trao ban, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn…Do đó, con người đừng để cho mình trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả trong dụ ngôn hôm nay. Chúa đã trao cho con người tuỳ khả năng: người một nén, người hai nén, người ba, bốn nén và người năm nén. Tất cả phải làm lợi ra cho Chúa tuỳ khả năng của mình. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi con người miễn là con người biết hối cải, ăn năn và quay trở về với Thiên Chúa. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân thống hối để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa thật lạ lùng kỳ diệu. Không những Thiên Chúa không bắt tội con người mà còn sai chính Con Một của Ngài đến trần gian để yêu thương, tha thứ và hoán cải tội lỗi con người không ngừng. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để con người ăn năn, hối cải, trở về với Chúa để xin Ngài tha thứ cho. Mùa chay cũng giúp con người đổi mới suy nghĩ, thái độ và cử chỉ đối với người khác. Sự hoán cải của con người là cử chỉ tốt đẹp để con người đáp trả lại lòng Chúa thương yêu, muốn cứu vớt con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để sám hối, ăn năn và trở về với Thiên Chúa hầu lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao con người phải ăn năn sám hối?
2. Con người thường nghĩ gì khi người khác bị tai hoạ?
3. Tại sao Chúa lại kiên nhẫn với con người?

78. Chúa yêu thương kẻ tội lỗi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Người ta thường hay bình luận và thầm thì kết án người khác khi họ gặp tai họa nào đó trong cuộc đời.Thời Chúa Giêsu cũng vậy những người Do Thái hay lên án, kết án người khác khị họ gặp tai nạn, thử thách, hiểm họa trong cuộc đời.Chẳng hạn, Chúa nhật III Mùa chay hôm nay, hai tai nạn: một Philatô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloe đổ, đè chết 18 người. Người Do Thái liền cho rằng những người này có tội, nên bị Chúa phạt. Người khác bình yên vô sự lại cho rằng họ vô tội, nên Chúa thương không giáng phạt vv…Còn đối với Chúa Giêsu thì sao?
Đối với Chúa Giêsu, Ngài có suy nghĩ, có cái nhìn hoàn toàn khác so với những người Do Thái. Bởi vì, Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn xót thương. Chúa không coi những nạn nhân qua hai vụ việc có tội hơn những người đồng hương. Qua hai sự cố đáng thương này, Chúa nhấn mạnh mọi người đều là tội nhân, mọi người đều là kẻ đáng bị phán xét và nhận án phạt của Chúa, nên tất cả đều phải ăn năn sám hối, quay về với Thiên Chúa để tránh hình phạt của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn tất cả. Ngài không dựa trên những sự việc, những sự cố con người gặp phải ở trần gian này để kết án, lên án người khác. Ngài luôn động viên, khuyến khích và thúc bách mọi người phải thống hối, hoán cải để Chúa thương không giáng phạt và thi ân giáng phúc. Do đó, Chúa Giêsu đã nói lên tính cấp bách phải ăn năn trở lại như trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Đức Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh hoa trái. Đọc Kinh Thánh chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israen làm dân riêng của Ngài. Chính vì thế, Ngài đã ban cho họ muôn vàn hồng ân cao quí, nhưng dân lại bất trung với Ngài, không trung thành với Lề Luật của Ngài và không thờ phượng một mình Thiên Chúa.Nói một cách khác họ không sinh hoa kết trái tươi tốt.
Đức Giêsu Kitô đã khẩn thiết xin Thiên Chúa Cha cho họ một thời gian, một cơ hội để họ có thế hoán cải tốt, nhưng cuối cùng họ vẫn chứng nào tật nấy, không ăn năn, không hối cải, không sửa đổi. Nên, Thiên Chúa đã loại bỏ họ và điều này đã được minh chứng khi thành thánh Giêrusalem bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Thực tế, Thiên Chúa đã yêu thương và luôn muốn dân Israen biết điều, biết sám hối, ăn năn tuân theo Lề Luật và trung thành với mình Thiên Chúa như giới luật thứ nhất:” Ngươi chỉ thờ lạy và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất “. Thiên Chúa đã cho Israen rất nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ…Thiên Chúa cũng chọn lựa chúng ta làm con của Ngài và luôn yêu thương săn sóc, gìn giữ chúng ta. Thiên Chúa luôn mong đợi và ước muốn chúng ta sinh hoa kết trái tươi tốt. Tuy nhiên, nếu chúng ta lỡ lầm sa ngã phạm tội, Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội, những dịp thuận lợi để chúng ta biết quay về, biết ăn năn hối cải để tiếp tục sinh hoa kết trái đến nỗi có chùm được 30, có chùm được 60 và có chùm được 100.
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy sống theo Lời của Ngài và có lòng quảng đại, đặc biệt biết quan tâm đến dân nghèo, đến những người cơ nhỡ, neo đơn, những con người thấp cổ bé họng vv…Ngài mời chúng ta phải sinh hoa kết trái, nghĩa là làm cho cuộc sống đẹp hơn, tốt hơn, phong phú hơn, con người và xã hội thăng tiến, nhân đạo hơn.
Mùa chay không chỉ đưa chúng ta trở về quá khứ để than khóc tội lỗi, khiếm khuyết bất toàn của mình, nhưng Mùa chay nhằm dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống mới, cuộc sống tràn đầy ân sủng của. Mùa chay phải là mùa đổi mới con người, đổi mới cuộc đời, mùa hoa tình thương, mùa thực hành việc lành phúc đức vv…
Chúng ta dựa vào lời của P. Benoit Gschwind để kết thúc bài suy niệm này: “…Nếu phải có kiên trì và thời gian để cây ra trái, thì để đạt tới sự thánh thiện, có lẽ còn cần kiên trì và thời gian nhiều hơn.Như người trồng nho chăm sóc cây vả, thì chính Thiên Chúa chăm sóc chúng ta để chúng ta có thể lớn lên.Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Người tha thứ cho chúng ta, nâng chúng ta dậy và an ủi chúng ta. Không bao giờ Người hết hy vọng vào chúng ta. Nhưng chúng ta có muốn đáp trả tình yêu Chúa, bằng cuộc đời chúng ta không? Thời gian chạy theo tiến trình của nó. Phục Sinh đang nẩy mầm trong sa mạc. Hôm nay, thời đã đến để khẩn cấp nghe tiếng gọi hoán cải và quan tâm kiên trì với chính mình, như Thiên Chúa kiên trì với mỗi người chúng ta”.

79. Đâu là họa, đâu là tội?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Chúa có cái nhìn của Chúa, con người có cái nhìn của con người. Vì thế, trước một sự cố đem lại tai họa và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không luận bàn hay bình luận theo góc độ, theo quan niệm của người Do Thái thời đó. Hai mẫu chuyện, hai mẩu thời sự nóng lúc đó là quan tổng trấn Philatô tàn sát mấy người Galilêa nổi loạn, ngay chính trong đền thờ và máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh và việc tháp Siloê đổ xuống đè bẹp 18 nạn nhân. Người Do Thái kể lại cho Chúa Giêsu với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội. Chúa Giêsu không nghĩ ai là người có tội hay những người bị nạn là tội lỗi hơn những người đồng hương của người Do Thái. Người muốn nhấn mạnh rằng ai cũng là tội nhân, ai cũng có tội, ai cũng đáng chịu án phạt của Người, do đó, cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Quan niệm xưa cũng như nay, vẫn cho rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta thường nghĩ tới tội của người khác hơn là tội của chính mình. Và khi không đổ tội cho kẻ khác được, họ lại đổ cho Thiên Chúa:” Tại sao Chúa lại để cho bị thế này, thế nọ?”. Trong Tin Mừng Lc 13, 1-9, dân chúng qui lỗi cho những nạn nhân và những người có liên quan:” Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó”.Chúa Giêsu nhân cơ hội này nói với họ và qua họ, nói với tất cả nhân loại:” Nếu chúng ta không ăn năn sám hối thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”. Vâng, con người thường có quan niệm đổ lỗi cho người khác. Ai cũng tưởng mình là đạo đức, thánh thiện. Ai cũng tự kiêu cho mình là hơn người khác. Người ta làm lỗi chứ tôi không phạm tội. Thái độ này là thái độ tự mãn của” người Pharisiêu ” trong đền thờ cầu nguyện. Trong ta phải chăng cũng có con người tự mãn hay người Pharisiêu tự mãn? Thái độ kiêu ngạo là thái độ bị Chúa khinh chê và lên án. Quan niệm của con người vẫn thường cho những người bị nạn, bị thử thách, bị đau ốm là những người có tội. Họ cho rằng hoạ đâu, tội đó.
Thiên Chúa đã chọn lựa dân tộc Israen làm dân riêng và ban cho họ nhiều ân huệ đặc biệt. Chúng ta thấy rõ lập trường của Chúa trong dụ ngôn cây vả. Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh trái. Dân Israen luôn bất trung với Thiên Chúa, họ không sinh hoa kết trái, không trung thành với lề luật, không sống chính trực, và không thờ phượng một mình Thiên Chúa. Chúa đã cho họ một cơ hội mới để họ ăn năn sám hối, đổi mới cuộc đời với những lời giảng dậy của Chúa Giêsu và các phép lạ Người làm. Tuy nhiên, dân Do Thái vẫn ngoan cố, vẫn cố chấp. Chính vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại trừ bằng biến cố Giêrusalem bị tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công Nguyên.
Do đó, sám hối là điều cấp bách mọi người phải làm. Đây là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng vì Nước Trời đã gần đến”.
Thiên Chúa cũng kêu mời chúng ta và tuyển lựa chúng ta làm con của Người qua Bí Tích Thanh Tẩy. Người yêu thương chúng ta, chăm sóc chúng ta qua bàn tay yêu thương của Người, và Người chờ mong chúng ta sinh hoa kết quả tươi tốt. Vì thế, nếu chúng ta chưa thực hiện được những ước mơ của Người, thì Người cũng cho chúng ta một cơ hội, một dịp thuận tiện để chúng ta cải hoá tự tân, đổi mới cuộc đời hầu chúng ta có thể sinh hoa kết trái tươi tốt. Thánh Phaolô hôm nay cũng nhắc nhở mọi người: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.
Mùa chay là cơ hội tốt và vận may cho chúng ta trở về với Chúa, chúng ta hãy vận dụng tốt nhất cơ hội này để sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.

80. Hoa trái thiêng liêng – Lm Trần Bình Trọng
Thường khi đọc thánh kinh, ta có khuynh hướng chọn những lời êm ái dịu dàng, những lời có sức làm dịu mát tâm hồn và làm phấn khởi tâm can. Tuy nhiên Chúa cũng dùng những lời khắt khe để cảnh giác dân Người. Trong Phúc âm hôm nay Chúa cảnh tỉnh dân chúng là: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13: 3). Chúa Giêsu muốn nói đến những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết không phải vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác, hay mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, không phải vì họ tội nặng hơn những người khác trong thành Giêrusalem. Còn Thánh Phao-lô nhắc nhở cho tín hữu Cô-rin-tô: Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cr 10:12). Thánh Phao-lô xác nhận rằng Chúa ban nhiều đặc ân cho dân được chọn trong cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Trong sa mạc, Người đã nuôi dưỡng họ cách kỳ diệu. Họ biết rằng họ là dòng dõi được lựa chọn. Tuy nhiên trong sa mạc, họ đã xúc phạm đến Chúa. Họ rơi vào cái tình trạng tự mãn. Họ nghĩ rằng tất cả mọi sự trong đời sống họ đều tốt đẹp, và họ nghĩ rằng Chúa sẽ săn sóc họ, bất kể việc họ làm. Họ cho rằng họ trổi vượt hơn các dân tộc khác. Từ những cảm nghĩ kiêu căng tự phụ đó, họ đánh mất ơn nghĩa với Chúa, vì phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cr 10:5).
Nhờ bí tích rửa tội, ta cũng được giải thoát khỏi cuộc lưu đầy trong tội lỗi và trở thành dân tộc mới được chọn. Do đó ta cũng có thể có thái độ tự mãn. Thực ra thì Chúa nhẫn nại chờ đợi ta. Chúa ban cho ta nhiều cơ hội để sửa đổi cuộc sống. Chúa ban cho ta thời giờ để cắt tỉa, vun xới và tưới bón, khả dĩ có thể mang lại hoa trái thiêng liêng trong đời sống. Và đó là ý nghĩa về dụ ngôn cây vả trong phúc âm hôm nay. Chúa kêu gọi ta phải sinh hoa kết quả thiêng liêng. Nhưng làm sao ta có thể sinh hoa trái trong miền đất khô chồi cằn cỗi của tâm hồn. Để có thể sinh hoa kết quả trong đời sống, ta phải cắt tỉa, phải vun xới và tưới bón. Vậy thề nào là cắt tỉa trong đời sống thiêng liêng? Ta phải cắt bỏ tội lỗi và nết xấu, và còn cắt bỏ dịp tội. Rồi ta phải vun xới cho đời sống thiêng liêng bằng việc dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc từ thiện bác ái. Ta còn phải tưới bón cho tâm hồn bằng của ăn thiêng liêng là lời Chúa và Mình thánh Chúa.
Giáo hội dùng mùa chay như là phương thế để giúp ta ăn năn sám hối và trở về với Chúa. Thường ta dễ thấy lỗi lầm của người khác, nhưng lại khó chấp nhận những lầm lỗi của mình. Khi có xích mích với người khác, ta luôn cho mình là phải và đúng. Khi nói về tội, ta cũng thường chỉ nghĩ về tội trong hành động, mà không mấy khi nghĩ về tội trong tư tưởng. Chúa phán: Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu (Mk 7:22). Tâm lý học cũng xác định là hành động là do tư tưởng mà ra. Nếu ta cho rằng ta vô tội và đạo đức, thì đâu là những hoa quả thiêng liêng trong đời sống? Có phải mỗi tuần ta đến nhà thờ lẩm bẩm vài câu kinh một cách máy móc theo thói quen hình thức? Hay là ta đã sống tâm tình cầu nguyện, hướng lòng về Chúa và kết hợp với Chúa. Đâu là gương sáng của ta cho con cái? Đâu là những gương hi sinh, vị tha, bác ái? Thiết tưởng hôm nay và trong mùa chay này, ta cần tự xét và kiểm điểm xem đâu là hoa quả của đời sống thiêng liêng?

81. Chú giải của Fiches Dominicales
HÃY HOÁN CẢI VÀ ĐI THEO CON ĐƯỜNG TỰ DO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hoán cải là khẩn cấp.
Sau cuộc hiển dung trên núi, Đức Giêsu quả quyết lên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc “xuất hành “, cuộc “ra đi ” của Người. Người khuyên đám đông hãy biết phân định những dấu chỉ của Nước Trời và hãy đón nhận Tin Mừng đừng chậm trễ.
Một sự kiện được các thính giả trình lên: Philatô tàn sát mấy người xứ Galilê tại Đền thờ các sử gia xác nhận ông đã dùng những cực hình tàn bạo – và lấy máu của họ hoà vào máu các lễ vật của họ. Phả i chăn ng họ là ” những người tội lỗi hơn những người Galilê khác?”.
Thay vì trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu dẫn sang một sự kiện khác đã diễn ra tại Giêrusalem: tháp Siloê đổ đè chết 18 người. người kết luận bằng cách nhắc lại lời cảnh báo nghiêm trọng: “Ta bảo cho các ngươi biết: nếu các ngươi không hoán cải, các ngươi cũng sẽ chết như họ “.
Đứng trước những bất hạnh của người khác, ta tự nhiên tìm xem đâu là lỗi lầm của nạn nhân. Họ đã chết như thế, có lẽ đó là hình phạt do tội lỗi của họ. Và ta tự cho mình là công chính vì ta đã không bị nạn.
Đức Giêsu khuyên họ đừng nên tìm giải thích những cái chết tức tưởi tốt hơn hãy năng nhận biết mình tội lỗi và mau mắn hối cải.
H. Cousin chú giải: “Hai kiểu chết khốc liệt nói trên phải là lời cảnh báo cho những ai không mau mắn thay đổi đời sống, lượng xét lại ý kiến và những hoài vọng lầm lạc của họ. Cũng như từ đầu đã nói, hai thảm kịch kia diễn ra không có nghĩa là các nạn nhân đã phạm phải một tội nặng nề nào, thì việc không gặp hoạn nạn cũng không phải là dấu chỉ về sự vô tội của những “người sống sót”. Mọi người đều là tội nhân là cần hoán cải trước khi bị Thiên Chúa phán xét. Trước khi gặp tai nạn, khi cuộc đời xem ra tươi sáng, đã cần phải sám hối và đón nhận Lời cứu độ của Thiên Chúa do Đức Giêsu loan báo. Để sau, e rằng quá muộn. ” (Tin Mừng theo thánh Luca “, Ccnturion, trg 91).
2…. Và sinh hoa kết quả như Chúa mong muốn.
Tiếp liền theo sau là dụ ngôn cây vả không trái. Dụ ngôn này làm dịu lại những lời lẽ nghiêm khắc của Đức Giêsu.
Người thợ làm vườn mà dụ ngôn trình bày cho ta luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh hoa kết quả. Ông thuyết phục người chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây ăn hại đất một cách vô ích ấy; và ông đã nhận được một án treo: ” Xin hãy để nó sống thêm năm nay nữa… Biết đâu nó sẽ ra trái? nếu không, lúc ấy ông hãy đốn nó đi”.
Thiên Chúa là như thế. Tha thiết mong người ta hoán cải đừng chậm trễ và hãy đem tình yêu đáp lại tình yêu đi bước trước của Người. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhẫn nại vô biên đối với người tội lỗi. Người chấp thuận cho họ một sự trì hoãn ân huệ. Người không tuyệt vọng vì bất kỳ ai. Ta vẫn thường hát rằng: ” Với Chúa chẳng có ai là quá xa,… Với Chúa chẳng có gì hư mất… Vì Chúa chẳng có gì chấm dứt ” (phiếu L.82, chẳng có đứa con hoang đàng nào mà không được tha thứ”).
H. Cousin kết luận: “Nếu giờ phán vét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta hoán cải chứ không phải là Người đã chấp thuận các hành vi của ta… cây vả không trái chưa bị nhổ ngay là do lòng nhân hậu khôn tả, tuy nhiên nó vẫn còn bị đe doạ phải chết nếu năm sau vẫn không ra trái… Lời khiển trách cây vả vì không ra trái – là lời cảnh báo cho thính giả của Đức Giêsu: họ không được trì hoãn việc chính yếu đến ngày mai là phải quyết định sinh hoa kết quả cho Chúa ngay” (Sđd, trg 192).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một tình yêu vừa nhẫn nại vừa đòi hỏi
(F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn”, Centurion-
Duculot, trg 196).
Không báo, không đài, chẳng có ti vi, mà biến cố vẫn nhanh chóng loan truyền khắp xứ sở. Lợi dụng lúc dân tụ tập trong đền thờ, bộ hạ của Philatô đã vét được một mẻ lưới vừa gọn ghẽ vừa dễ dàng, rồi họ mau chóng biến thành một cuộc thảm sát. Nạn nhân là những ai? Những người Galilê vốn có tiếng là có tinh thần dân tộc mạnh mẽ và bị chính quyền thống trị Rôma coi như những hạt nhân cách mạng. Nhưng họ đã làm gì xúc phạm đến Thiên Chúa đến nỗi phải chịu một tai hoạ như thế?
Câu hỏi gây lúng túng, nhưng đó là câu hỏi cần đặt ra cho vị tiên tri mới mà giáo lý mới lạ của Người đã lôi cuốn biết bao đám đông. Mỗi người đều có câu trả lời sẵn phù hợp với truyền thống xưa cũ. Thiên Chúa chúc lành và thưởng công những người công chính. Vì Người trừng phạt kẻ tội lỗi. Thành công là giàu sang là những dấu chỉ rõ ràng của sự ưu ái của Thiên Chúa. Thất bại vì nghèo khổ đúng là phần thưởng cho những kẻ tội lỗi.
Đức Giêsu đã trả lời cho những kẻ đến hỏi người: Còn anh em, anh em nghĩ rằng anh em là thánh, là những người được Chúa Quan phòng sủng ái vì anh em không bị nạn ư? Tất cả anh em đều đáng bị kết án vì có tội. Đừng lừa dối mình về ý nghĩa của các biến cố và nội dung của các dấu chỉ’? Thiên Chúa không phải là một “ông chủ ” khắc nghiệt và nóng vội trừng phạt tức khắc là từ chối khoan giãn. Hình phạt và phần thưởng, sẽ có, nhưng không phải theo cái lối mau chóng tức thờ i ấy.
Đừng gán ghép bất hạnh với tội lỗi, thành công với Chúa quan phòng. Những kẻ thoát nạn không phải là những người
được khen thưởng, cũng không phải là những người khốn khổ vì có tội. Chẳng có ai vô tội. Tất cả mọi người đều được mời gọi hoán cải và sinh hoa kết quả. Đó mới là chính vấn đề.
Thiên Chúa là người thợ làm vườn nho đã bài bác lý lẽ của người chủ vườn và đã đề nghị một khoan giãn ân huệ mới cho cây vả. Thật là một Thiên Chúa nhẫn nại.
Nhẫn nại nhưng lại rất đòi hỏi, phối kết hài hoà sức mạnh và sự dịu dàng, công lý và xót thương, tình yêu con người và cương quyết chống lại điều ác.
2. Tính chất nghiêm trọng của những chọn lựa của ta
(“Cử hành”, Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 17. trg 18).
“Nếu các ngươi không hoán cải, tất cả các ngươi sẽ phải chết”. Ta những muốn xoá đi những câu Tin Mừng như thế. Nhưng làm sao thoát khỏi lời loan báo về cuộc “phán xét “: những chọn lựa của ta tự nó mang một yếu tố quyết định, đó là vấn đề sinh tử “Sa ngã.. bị loại trừ… chết”).
Tin Mừng giúp ta ý thức về tính chất nghiêm trọng của những lựa chọn và do đó của tự do của ta.
Chọn được sống tức là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc Xuất hành, Đấng tự xưng: ” Ta là “. Chọn sự sống hơn là những lối sống dẫn đến sự chết, là bước theo Đức Giêsu trên con đường Phục sinh. Hoán cải là chọn sự sống. Nhưng chẳng phải một lần mà xong. Đó là một hành trình kiên trì với Đức Kitô, có Thánh Thể nuôi dưỡng.
3. Ngày mai sẽ là quá trễ.
(Mgr. Daloz, trong Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” DDB, trg 1 09).
Đoạn văn ta đang đọc khai mở cho các môn đệ và cho đám đông vây quanh Đức Giêsu ý nghĩa của thời gian hiện tại: Đây là thời khẩn cấp phải hoán cải. Luca luôn nhấn mạnh đến tính chất cấp thiết này: một thời gian trì hoãn đã ban cho ta, đừng để nó trôi qua mất. Đây là lúc ta phải phân định những dấu hiệu tiên báo về một tương lai gần đến, vì ta có thể đoán được ngày mai thời tiết ra sao: ” Thời gian hiện tại, làm sao ngươi không nhận biết? “. Đó là sắp xếp trước khi ra hầu toà, lúc ta còn có thể thay đổi đời sống trước khi chịu số phận như những người Galilê mà Philatô đã tàn sát.
Đây là năm trì hoãn mà người làm vườn ban cho cây vả, để nó mang lại những hoa trái mà ông chủ đang mong chờ… đừng trì hoãn việc hoán cải đến ngày mai. Thời giờ ngắn ngủi lắm, đây là lần gia hạn cuối cùng. Ngày mai sẽ là quá trễ. Ta có cơ may được nghe những lời cảnh báo này. Ngày hôm nay là một ngày hồng ân của Thiên Chúa, ta không được bỏ lỡ. Đức Giêsu mời gọi ta hãy phân định: ta qui hướng về một tương lai mà ta có thể linh cảm thấy. Tin là bước đi trong đêm tối, nhưng đức tin hướng ánh mắt ta về một thế giới tương lai là hé lộ cho ta thấy tính cách khẩn cấp của việc hoán cải.

82. Chú giải của Noel Quesson
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: “Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế” hay là “chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?”.
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh”. Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. “Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về “những người khác”. Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. “Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc “hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn… Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị “trừng phạt” bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế”.
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là “Nguyên nhân đệ nhất” như’ các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: “Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi”. Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. “Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết”: Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá”: Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một “mạc khải”, một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải…
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói “triệt’ để” của Luca “Các ông sẽ chết hết”. Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải”. Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện “mạc khải”: Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài “Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là “một quả”. Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả… Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích “. Trái lại, Đức Giêsu nói: “Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!” Người không những lên án “trái thối” mà còn lên án cả tình trạng “không sinh trái”.
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người “làm vườn” đầy tình thương với “cây nho” của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: “Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.

83. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA MỜI GỌI ĂN NĂN HỐI CẢI,
DỤ NGÔN CÂY VẢ KHÔNG SINH HOA TRÁI
1. Chỉ có Luca ghi lại việc người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết vụ Philatô giết một số người Galilea. Thật là phù hợp với những điều chúng ta biết về lịch sử Do thái thời ấy. Những niềm hy vọng thiên sai kích thích tâm trí, gây ra những cuộc nổi loạn chống lại đế quốc La mã và trong dân Do thái, người Galilê được xem như là nhóm người thích đấu tranh nhất. Philâtô, khi đó là tổng trấn đại diện chính quyền La mã đã thẳng tay đàn áp mọi âm mưu phản loạn. Ông không sợ gây đổ máu đám dân mà ông hằng khinh bỉ (x. F. Josèph, Antiquités juives, XVLLL 3,2,4,1).
Những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ những người dính líu đến vụ phản loạn đó.
Khi hay tin, Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi tưởng những người Galile ấy là hạng tội lỗi hơn mọi người Galile khác vì đã phải khốn như thế này sao? Thật ra, đây là một định kiến chung cho rằng những ai gặp phải một tai ương nặng nề là đáng tội hơn những người thoát khỏi (như ý các bạn của Giop, Giop 4,7; x. Ga 9,2-3). Theo Chúa Giêsu quan niệm về sự quan phòng như thế là sai lầm. Tai ương, ôn dịch, chiến tranh, đói kém, động đất không nhất thiết giáng trên những người Galile bị Philatô tàn sát, Chúa Giêsu quả quyết họ không phải là những người có tội hơn những người Galile khác. Thay vì an tâm nghĩ rằng những người đáng tội nhất đã làm thoả mãn phép công bình của Thiên Chúa, toàn dân hãy lo mà sám hối: “Vì nếu các ngươi không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Quốc gia Do thái bị đe doạ tiêu diệt, nếu không lo hối cải.
Vậy Chúa Giêsu là sáng tỏ biến cố mà người ta vừa mới thuật lại cho Ngài bằng lời loan báo về ý nghĩa của thời gian mà Ngài đã khai mạc lúc bắt đầu khai giảng. Ngài không chối từ mối tương quan giữa tội lỗi và hình phạt, nhưng chỉ phủ nhận điều này là: biến cố mới xảy ra chứng tỏ người Galile bị tàn sát xấu xa hơn đồng hương của họ. Mọi người đều là tội nhân, mọi người đều chịu phán xét của Thiên Chúa và chịu án phạt của Ngài. Vì vậy mọi người phải lo ăn năn sám hối, nếu muốn thoát khỏi cơn thịnh nộ và án phạt của ngày chung thẩm.
2. Và Chúa Giêsu xác nhận lời cảnh cáo nghiêm trọng của Ngài bằng một ví dụ khác. Trong khi các nạn nhân thảm cảnh trước là người Galile, bây giờ nạn nhân là những người ở Giêrusalem. Tháp Silôê nằm trên bờ kinh đào và bể nước Silôê ở phía tây nam Giêrusalem. Khi sập xuống, tháp đó đè chết 18 người. Có phải họ là những người có tội hơn những người khác cư ngụ ở Giêrusalem không? Thật là một câu hỏi vô ích làm quên mất vấn đề chính yếu: là mọi người dẫn Israel có bổn phận sám hối để quốc gia tránh khỏi những hình phạt đang đe doạ.
Chúa Giêsu đưa ra một lối giải thích có tính cách tôn giáo chứ không có tính cách triết học, chính trị hay thể lý về các biến cố. Thiên Chúa nói với chúng ta qua những biến cố lịch sử. Chúa Giêsu thâm tín rằng thời sau hết đã bắt đầu và Ngài phán đoán thời gian hiện tại trong viễn tượng ấy. Điều xảy ra trong thời gian này chỉ là một nhắc nhở đến thời sau hết. Các tai ương xảy ra trong lãnh vực chính trị hay thiên nhiên đều là những dấu chỉ cho những tai ương của ngày sau hết. Ngày cánh chung buộc mọi người phải có thái độ, phải ăn năn sám hối. Tất cả mọi tai biến xảy ra trong thời gian có mục đích làm cho chúng ta suy nghĩ, có mục đích loan báo cho chúng ta biết cần phải quay về với Thiên Chúa. Nếu con người không nghe là vì họ cứng lòng: “còn những người khác, những kẻ không bị giết trong tai hoạ ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc tay họ đã làm: vẫn thôi không thờ lạy ma quỉ và thần tượng, vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương nhìn thấy, ngóng nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ (Kh 9,20-21).
Ở vài nơi trong Cựu Ước, cây vả tượng trưng cho Israel (x. Ge 1,7) và trong Gierêmia 8,3 cây vả tượng trưng một Israel không sinh hoa trái. Từ hình ảnh Cựu Ước này, có thể kết luận cách chắc chắn rằng cây vả trong dụ ngôn của câu 6-9 cũng tượng trưng dân được chọn. Cũng như trong các đoạn Cựu Ước mới trích dẫn trên, chủ nhân của cây vả là Giavê. Vậy Giâvê cũng được trình bày trong dụ ngôn qua hình ảnh chủ nhân cây vả. Từ hai nét ẩn dụ được chứng thực cách chắc chắn này, người ta có thể rút ra từ văn mạch một nét ẩn dụ thứ ba: Chúa Giêsu được tượng trưng qua những người làm vườn nho can thiệp xin cho cây vả yêu quí được gia hạn ân xá sau cùng. Ẩn dụ chỉ có từng ấy. Còn những chi tiết khác của dụ ngôn phải được giải thích như những kiểu so sánh đơn sơ, không phải từng nét một, nhưng cách nói chung: vườn nho trong đó người ta trồng cây vả, thời gian ba năm chờ đợi, việc phân bón, những săn sóc này nọ cho cây vả đau yếu.
Việc phân tích vắn tắt những yếu tố ẩn dụ này của dụ ngôn giúp ta nắm được bài học Chúa Giêsu muốn dạy trong văn mạch của đoạn này. Thiên Chúa chờ đợi nơi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối sau cùng mà Chúa Giêsu, Đấng trung gian giàu lòng thương xót gởi đến cho họ. Lát nữa thì sẽ quá muộn, và dân Israel sẽ chịu số phận như cây vả không sinh hoa trái.
Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân do thái. Nhưng cũng có thể áp dụng cho các tội nhân bỏ qua những dịp ăn năn sám hối và khất lần việc hoán cải. Xét theo khía cạnh này, dụ ngôn thật là một bài học luôn luôn thích thời.
KẾT LUẬN
Tất cả những gì xảy ra vào thời Chúa Giêsu đã được minh giải nhờ biến cố cứu rỗi hiện thân trong Chúa Giêsu, dù đó là những sự kiện chính trị, những tai biến lịch sử hay những hành động của chính Chúa Giêsu. Đó là thời sau cùng. Đó là lời Thiên Chúa mời gọi ta có một quyết định dứt khoát: ăn năn sám hối trở về. Cũng như Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cần phải ăn năn sám hối không được trì hoãn với bất cứ giá nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống và trong hành động. Nhưng Chúa Giêsu còn vượt quá Gioan tẩy giả. Ngài biết ngày phán xét sắp đến và việc tiêu huỷ đền thờ Giêrusalem không thể tránh khỏi, tuy nhiên Ngài đã bào chữa cho dân Ngài. Ngài hiến dâng tình yêu, hy lễ, chính cả mạng sống cho Israel để dân này được cứu rỗi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dẽ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho chướng tính của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác. Nhưng chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà… Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên mù quáng (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên…) Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta. Một biến cố có thể được giải thích bằng ngàn cách khác nhau, tuỳ theo tính khí tự nhiên (lạc quan hay bi quan), tuỳ trạng thái tâm hồn lúc ấy (nặng nề hay phấn khởi), tuỳ những phán đoán giá trị của môi trường sống, tuỳ nền giáo dục… Người khôn ngoan nhất là người – như Chúa Giêsu dạy – biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28)
2. Mọi tín hữu đều giống như cây ăn trái Thiên Chúa đã trồng. Từ thời thơ ấu, từ khi lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã không ngừng được chủ vườn trên trời săn sóc: được giáo dục theo Kitô giáo, được vô số ân sủng ban sức mạnh và ánh sáng trong các nhiệm tích, được sống thân mật với Thiên Chúa, được ân huệ tự nhiên đủ loại, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn… Và vì đó, phải coi chừng kẻo chúng ta trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn: những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng yêu mến biết ơn Thiên Chúa, bác ái luôn luôn với tha nhân, trung thành với bổn phận đặc biệt mà Thiên Chúa đã giao phó, giản dị chúng ta cách dùng của cải Thiên Chúa ban, phát triển những năng khiếu tự nhiên, có lòng thẳng thắn và vui vẻ, phục vụ, trong sạch, khiêm tốn, phục thiện… Nếu cho đến lúc này chúng ta vẫn là những cây vả không sinh hoa trái thì cũng còn thì giờ để hoán cải và làm phát sinh kết quả với thời hạn mà Chúa còn dành cho chúng ta trước khi đưa chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài. Nhưng những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu thật cấp bách: chúng ta phải hoán cải ngay bây giờ chúng ta khi thời giờ còn kịp. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ cho. Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian này cách khôn ngoan thì Thiên Chúa sẽ yêu thương đón nhận chúng ta và sẽ khiến chúng ta hát lên được bài ca Alleluia bình an và vui mừng của mùa phục sinh.

84. Chú giải của William Barclay
ĐAU KHỔ VÀ TỘI LỖI (13,1-5)
Chúng ta được nghe nói đến tai hoạ. Trước hết là những người Galilê đã bị Philatô giết đang lúc họ dâng lễ vật. Như chúng ta biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ kích động. Lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ như vậy cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn giữa họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào giữa dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù địch đó đã bắt ngòi. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần 18 người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, cho đến nay, vẫn còn là một sự kiện bí mật. Bản King James cũng gọi họ là tội nhân, nhưng dịch là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước cho Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôác đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu dân của Ngài không chịu hoán cải thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng –Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SCN (Lc 19,21-13). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và có những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tai hại mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân Rôma sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất yếu phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ phải đau khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng không thể nào tránh thoát được. Cá nhân thường bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là tội lỗi của y, nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là phát biểu đúng đắn.
CƠ HỘI CUỐI CÙNG (13,6-9)
Đây là một dụ ngôn vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh báo đáng sợ.
Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác. Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần, trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. C.E.M. Joad đã nói về thế hệ của chúng ta “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng chúng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được uỷ thác quá nhiều như chúng ta, và vì thế chưa thể có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Chúa như vậy.
Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại. Người ta chủ trương rằng tất cả cuộc tiến hoá trên thế giới này là nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho chúng ta là “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?.
Hơn nữa, dụ ngôn này cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được. Cây vả kia cứ rút lấy dinh dưỡng của đất, không biết sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó. Xét cho cùng, có hai hàng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự chăm sóc của những người yêu thương chúng ta. Ta đã thừa hưởng một nền văn minh Kitô giáo và tự do mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận với ta. Ápraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng, tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ rằng cây hoa có thể mọc”. Có một cậu học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ khác như thế nào. Cậu nói: “Theo một điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng tự biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm trọn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
Dụ ngôn này dạy chúng ta về Phúc Âm của cơ may thứ hai. Một cây vả thường ba năm mới ra trái, nếu lúc đó nó không ra trái, chắc không bao giờ ra trái nữa. Những cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Máccô, Phaolô cũng rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã và trỗi dậy.
Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng. Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng mời gọi khuyên nhủ của Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta một cách vô ích, thì đến một ngày, không phải Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó.

85. Sám hối bằng các việc lành – Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).
2. CÂU CHUYỆN: Điều gì làm tăng giá trị của cây vĩ cầm?
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng… Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc du dương êm dịu. Tiếng đàn nghe thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn… hai ngàn… Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?” Bấy giờ bà mẹ đã giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của vị nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp ngàn lần đấy con ạ!”.
3. SUY NIỆM:
1. Phạm tội sẽ bị phạt và sám hối sẽ được tha: Ngôn sứ Gio-na được Đức Chúa sai đến với dân Ni-ni-vê, một thành phố giàu có và cực kỳ rộng lớn để công bố lệnh trừng phạt vì tội lỗi của họ: “Còn bốn mươi ngày nữa Ni-ni-vê sẽ bị phá hủy”. Nghe tin ấy, vua thành Ni-ni-vê đã lập tức ra sắc chỉ như sau: “Truyền cho người và súc vật, bò bê và chiên dê không được ăn uống, phải mặc quần áo vải thô, phải từ bỏ lối sống gian ác và những hành vi hung bạo… để nài xin Đức Chúa nguôi cơn thịnh nộ và bỏ ý định giáng phạt hầu chúng ta khỏi phải chết”. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà quay trở lại. Người đã không giáng phạt họ nữa. Ngôn sứ Giô-na đã tức giận trước tình thương tha thứ của Đức Chúa. Ông xin Chúa cất mạng sống của ông, vì ông thà chết còn hơn sống khi thấy lời tuyên sấm của mình không ứng nghiệm. Chúa muốn cho Gio-na thấy lý do tình thương của Người nên khi Gio-na ra ngòai thành dựng một cái lều để chờ xem sự thể diễn tiến ra sao. Đức Chúa cho một cây thầu dầu mọc nhanh làm bóng che mát khiến ông rất vui. Nhưng sáng hôm sau Chúa lại khiến một con sâu cắn cây thầu dầu bị khô héo khiến Gio-na bị nắng chíếu nổi giận xin được chết đi cho xong. Đức Chúa đã hỏi Gio-na: “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên. Trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương dân Ni-ni-vê, một thành phố lớn trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật vô tội hay sao?” (Gn 3,1-4,11).
2. Không sám hối sẽ bị chết: Trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, Người liền nói với họ rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”
3) Chỉ có thể sám hối nhờ ơn Chúa: Con người chúng ta thường dễ hướng chiều về đàng tội: Chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính… cũng đủ làm cho nhiều người sa ngã và ngày càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi, tự đánh mất phẩm giá cao quý của mình. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Đức Giê-su, biết chạy đến với Người và xin Người ban ơn tha thứ thì chắc chúng ta sẽ được Người ban ơn biến đổi nên con người mới của Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng gia nghiệp là hạnh phúc Nước Trời đời đời.
4) Về dụ ngôn “cây vả không sinh trái”: Đức Giê-su kể dụ ngôn về một cây vả không sinh hoa trái. Tuy không cho trái quả độc, cũng không gây thiệt hại cho chủ vườn… Nhưng tội của cây vả không trái là đã không sinh lợi cho chủ vườn lẽ ra phải có. Cũng vậy, nhiều người tuy không phạm tội cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt tha nhân… Nhưng đã làm ngơ không giúp đỡ tha nhân gặp nạn… Họ đã được trao cho một nén bạc, thay vì phải làm lợi gấp đôi cho chủ, lại đem chôn giấu đi (x. Mt 25,18), thể hiện qua thái độ không quan tâm thăm viếng và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát bệnh tật (x. Mt 25,42), để mặc cho sự gian ác hoành hành trong xã hội… Người tín hữu sống đạo hôm nay là phải tránh thái độ thờ ơ giống như cây vả không sinh trái, qua thái độ không dấn thân phục vụ những người nghèo khổ tàn tật bệnh họan…
5) “Gieo gió gặt bão.- Phạm tội sẽ bị phạt: Đây là quy luật muôn đời của nhân lọai. Nhưng có người thắc mắc: Tại sao nhiều kẻ gian ác phạm nhiều tội ác mà vẫn ngày càng giàu có sung túc mà không hề bị trừng phạt? Lời Chúa hôm nay trả lời cho vấn nạn ấy: Chính là nhờ có Chúa Giê-su, giống như người làm vườn trong bài dụ ngôn, đã đứng ra cầu thay nguyện giúp cho các tội nhân có thêm thời gian hồi tâm sám hối. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta tĩnh tâm cầu nguyện và quyết tâm đổi mới bằng việc thực thi công bình bác ái. Nếu chúng ta tiếp tục trì hõan thì chắc chắn sẽ bị án phạt vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung tòan nhân lọai sẽ đến bất ngờ.
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết: Tội “những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” cụ thể là những tội gì?
2) Hiện nay bạn có trong tình trạng khô khan biểu lộ qua thái độ lười biếng đọc kinh dự lễ và bỏ qua các việc thăm viếng chia sẻ cơm áo giúp đỡ những người đau khổ bệnh tật thể xác tinh thần như cây vả không ra trái trong Tin Mừng hôm nay hay không?
5. NGUYỆN CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại đau khổ: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban mưa thuận gió hòa. Khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, con nghĩ họ đã bị Chúa phạt xứng với tội lỗi đã phạm!… Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không còn hiểu sai lạc một chiều như vậy. Vì trong thực tế, có nhiều người tốt và đạo đức mà vẫn gặp phải rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa thánh thiện và vô tội, mà cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn chịu chết nhục nhã bất công trên cây thập giá.
– Lạy Chúa. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu mỗi ngày biến đổi nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội cho con và nhiều người. Xin cho con luôn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa quan phòng và giúp con ngày một nên hòan thiện hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

86. Hãy quay về người ơi!
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 13: 1-9: Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn.
Trải dài dòng chảy lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Chúa Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Với trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Ta thấy rằng trước tiên, Chúa dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.
Hẳn ta còn nhớ chuyện về Đavit,sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: “Con người bất nhân đó chính là ông”.
Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là “mắt đền mắt, răng đền răng” nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Lời kêu gọi thống hối của Chúa Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.

87. Sám hối thật lòng – Huệ Minh
Cha ông chúng ta vẫn khuyên dạy con cháu: “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”… Và trong Thánh Kinh, các câu chuyện như lụt Hồng Thuỷ, thành Sôđôma bị tàn phá,v.v… cũng thường được giải thích theo quan niệm báo ứng ấy.
Không lạ gì người Do Thái thời Chúa Giêsu, cũng như chúng ta ngày nay, thích áp dụng nguyên tắc nhân quả “ác giả ác báo” nhưng là áp dụng cho người khác! Trước hai tai hoạ xảy ra gây chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân “tội lỗi hơn mọi người khác” nên mới bị thảm hoạ như vậy.
Đành rằng, nếu gieo gió thì có thể sẽ gặt bão, song Chúa Giêsu khuyên mỗi người không nên hồ đồ xét đoán người khác, nhưng hãy xem các biến cố đó là cơ hội giúp ta xét lại chính mình mà trở về với nẻo chính đường ngay. Vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét chung cuộc trên mọi người.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một cách quyết liệt về sự cần thiết phải sám hối, phải cải thiện đời sống, bằng không, “tất cả chúng ta sẽ bị huỷ diệt”. Chúa Giêsu lặp đi lặp lại câu đáng sợ: “tất cả sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13, 3.5).
Lý do mà Chúa Giêsu nhấn mạnh về sự sám hối, ăn năn chừa tội, canh tân đời sống, vì đó là bước đầu tiên, bước không thể thiếu, để chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa, Đấng Thánh Khiết Tuyệt Đối. Chúa muốn đưa toàn nhân loại vào vương quốc Thánh Thiện, yêu thương của Ngài, để chúng ta trở thành “Dân Thánh, dân đặctuyển” của Ngài, nên Chúa muốn chúng ta cải thiện đời sống, xa bỏ đường lối gian tà, tội lỗi.
Chính vì thế, mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, khi “có người thuật lại cho Chúa Giêsu về một tin giật gân: Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu của các vật sát tế” thì Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy cho toàn dân việc tối quan trọng là tất cả phải sám hối nếu không thì tất cả sẽ bị huỷ diệt.
Theo lịch sử nước Do Thái, thì 20 năm trước khi biến cố trên xảy ra, thì có người thuộc phe vua Hêrôđê đứng lên xúi giục dân Galilê làm loạn, không nộp thuế cho đế quốc Rôma nữa, và có nhiều người hùa theo. (Cv 3, 7).
Chính vì vậy, Hêrôđê và Philatô hiềm khích với nhau. Tuy nhiên, dù theo phe Vua Hêrôđê, thì những người đó vẫn phải đến Giêrusalem để thờ phượng Giavê Thiên Chúa như luật dạy, hơn nữa, họ nghĩ rằng, nơi Thành Thánh uy nghiêm như thế, nơi pháo đài an toàn thì Philatô chẳng dám xông vào hành hung. Thế nhưng, lần này, Philatô ra lệnh tàn sát mấy người thuộc phe Hêrôđê ngay tại nơi hiến tế chiên bò, làm cho máu những người đó hoà lẫn máu của các vật sát tế.
Những người này nghĩ rằng: Chúa Giêsu là Vị Thầy, Một Ngôn Sứ cao cả, Ngài sẽ về phe dân tộc và đạo giáo để bênh vực, và Ngài sẽ có cách trả thù cho những người dân vì yêu nước mà phải chịu tàn sát như thế.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thuộc phe phái nào, Ngài đứng trên mọi phe phái chính trị, mục đích của Ngài gíang thế là cốt để cứu vớt sinh linh thoát vòng tội lỗi mà thôi! Chính vì thế, khi nghe tin ấy, Chúa bảo họ rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilêa bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở Galilêa ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế! Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,3).
Cũng vậy, 18 người ở Giêrusalem bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa bảo dân chúng rằng: “Các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem ư? Không phải thế! Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,5). 18 người này là những người đang chờ ở bờ hồ Silôê, mong được chữa lành bệnh, thình lình bị tháp sụp đổ đè chết!
Cả 2 biến cố đau thương tuy lấy đi mạng sống của con người, nhưng đó chỉ là sự mất mát, khổ đau cho thân xác, không thể so sánh với sự trầm luân đời đời của linh hồn nếu không sám hối, không cải thiện đời sống!
Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: Đừng bao giờ xét đoán tội lỗi của một người qua các thảm cảnh hay tai nạn họ phải chịu. “Đừng xét đoán kẻo sẽ bị xét đoán” (Mt 7, 1) Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta rằng: Mỗi khi thấy các tai họa xẩy ra cho những người chung quanh, chúng ta hãy tự xét mình, để tránh những thảmhọa ghê gớm hơn, nếu không sámhối, canh tân đời sống để trở về với Thiên Chúa! Đó mới là tai hoạ thảm khốc nhất, là sự huỷ diệt kinh khủng cho linh hồn mãi mãi! Thành tâm sám hối, cải thiện đời sống là phương cách duy nhất có thể tránh thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, tránh thoát phép công thẳng của Ngài.
Do đó, không bao giờ có ngoại lệ, chỉ trừ Đức Maria, hoàn toàn tinh vẹn, thì tất cả nhân loại, tất cả chúng ta, ai cũng cần phải cải thiện đời sống, nếu không, sẽ chắc chắn bị huỷ diệt, huỷ diệt đời đời! Đây là lời cảnh cáo nghiêm trọng của Thiên Chúa: Không sám hối sẽ bị huỷ diệt! Những người bị tai hoạ kia chỉ bị tàn sát, bị chết về thân xác, nhưng ai không sám hối, sẽ bị đày đọa mãi mãi về linh hồn và cả thân xác bên kia thế giới!
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh Kinh, nó được kêu gọi bởi Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, các tông đồ và hôm nay luôn được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái (x. Lc 13,6-9).
Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn mà còn phải chuyển hoá như ý nghĩa cua Métanoia, trong lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả truyền cho chúng ta biến đổi sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa luôn nuôi hy vọng và chờ đợi ở nơi chúng ta trong kiếp người dù ở thân phận nào, kể cả tội nhân khi sám hối và đơm bông kết trái: Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người.