CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – B và LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI

Các bài suy niệm
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: St 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16
* Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN 6
1. Chúa Nhật 27 Thường Niên 6
2. Hãy sống khắng khít 9
3. Chúa Nhật 27 Thường Niên 15
4. Gia đình 18
5. Giá trị của gia đình 20
6. Không thể chia lìa 23
7. Một mình 26
8. Nụ hôn 29
9. Chung thủy trong hôn nhân 33
10. Bất khả phân ly 46
11. Cả hai sẽ thành một 48
12. Điều Thiên Chúa kết hợp 52
13. Hôn nhân bất khả phân ly 54
14. Bài tình ca đầu tiên 67
15. Chung thủy trong tình yêu 70
16. Chúa Nhật 27 Thường Niên 73
17. Chúa Nhật 27 Thường Niên 77
18. Chúa Nhật 27 Thường Niên 81
19. Gia Đình: Thách đố và giải pháp 84
20. Loài người không được phân ly 89
21. Mors sola – Chỉ có sự chết 92
22. Chúa Nhật 27 Thường Niên 97
23. Để thành toàn tình yêu 100
24. Sự gì Thiên Chúa kết hợp 102
25. Độc thê hay đa thê? 105
26. Trên cả ‘sợi tơ hồng’ 113
27. Chúa Nhật 27 Thường Niên 117
28. Chúa Nhật 27 Thường Niên 121
29. Có Chúa trong đời nhau 124
30. Chúa Nhật 27 Thường Niên 129
31. Chúa Nhật 27 Thường Niên 133
32. Chúa Nhật 27 Thường Niên 136
33. Chúa Nhật 27 Thường Niên 138
34. Vợ chồng bất khả phân ly 141
35. Bền vững 143
36. Đời đời 147
37. Lởi giao ước 149
38. Vấn đề gia đình 152
39. Bài toán lạ 160
40. Bà mẹ tên ‘Hale’ 167
41. Trẻ thơ 170
42. Hôn nhân 173
43. Không tốt 176
44. Cam kết 179
45. Tuổi thơ 181
46. Gia đình 183
47. Túp lều lý tưởng 186
48. Bất khả phân ly 190
49. Chúa Nhật 27 Thường Niên 196
50. Thánh hoá trong chân lý 199
51. Chúa Nhật 27 Thường Niên 203
52. Hãy gìn giữ hạnh phúc 211
53. Chúa Nhật 27 Thường Niên 214
54. Chung thủy 222
55. Chúa Nhật 27 Thường Niên 226
56. Chúa Nhật 27 Thường Niên 230
57. Chúa Nhật 27 Thường Niên 232
58. Chúa Nhật 27 Thường Niên 240
59. Chúa Nhật 27 Thường Niên 244
60. Tìm lại sự ngạc nhiên 253
61. Chúa Nhật 27 Thường Niên 257
62. Chúa Nhật 27 Thường Niên 265
63. Chúa Nhật 27 Thường Niên 271
64. Chúa Nhật 27 Thường Niên 277
65. Chúa Nhật 27 Thường Niên 284
66. Chúa Nhật 27 Thường Niên 292
67. Huyền nhiệm tình yêu 301
LỄ MÂN CÔI 305
1. Đức Chúa Ở Cùng Bà 305
2. Tôi là nữ tỳ của Chúa 308
3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 311
4. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 316
5. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 320
6. Xin Vâng 324
7. Này tôi là tôi tớ của Chúa 327
8. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 331
9. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu. 339
10. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối 343
11. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng. 347
12. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 351
13. Hoa Mân Côi 356
14. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 360
15. Hiệu năng của chuỗi Mân Côi 364
16. Mẹ tuyệt vời 368
17. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 370
18. Nữ Tỳ của Chúa 375
19. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 380
20. Hãy siêng năng lần hạt Mân côi 386
21. Chuỗi Mân Côi ngày ấy 392
22. Mân Côi 396
23. Tháng Mười thắm sắc Mân Côi 398
24. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 401
25. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 419
26. Chuỗi Mân Côi 423
27. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 425
28. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 429
29. Lời kinh của mỗi cá nhân 433
30. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 435
31. Kinh Mân Côi 439
32. Ave Maria, Lời con thảo 442
33. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 447
34. Kinh Mân Côi 452
35. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 454
36. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 459
37. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào 463
38. Phương thuốc thần diệu 466
39. Tháng Mân Côi: Nghĩ về Mẹ 470
40. Lá sầu riêng 472
41. Lễ Mẹ Mân Côi 475
42. Lễ Mẹ Mân Côi 478
43. Mẹ Đầy Ơn Phước 482
44. Lễ Mẹ Mân Côi 485
45. Kinh Mân Côi và Giáo Hội 488
46. Kinh Mân Côi 491
47. Thánh Mẫu Mân Côi 494
48. Lễ Đức Mẹ Mân Côi. 496
49. Lễ Mẹ Mân Côi 499
50. Cầu nguyện và cải thiện đời sống 503
51. Lễ Mẹ Mân Côi. 507
52. Mân Côi: Khỉ cứu mặt trăng. 510
53. Lễ Đức Mẹ Mân Côi 512
54. Lễ Mẹ Mân Côi 515
55. Lễ Mẹ Mân Côi 519
56. Vị Thánh Của Kinh Mân Côi 523
57. Kinh Mân Côi 525
58. Lễ Mẹ Mân Côi 528
59. Lễ Mẹ Mân Côi 534
60. Hoa quả lòng lời kinh Mân Côi 546

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.
Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.
Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?” Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.
Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng như thời nay.
Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc. Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.
Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.
Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”
Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.
Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.
Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã, khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục… Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.
Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.
Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn,
bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.
Gợi ý chia sẻ:
1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?
2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?
Lời nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.

2. Hãy sống khắng khít
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trong các Chúa nhật thường niên, phụng vụ thường đọc cho chúng ta nghe một cách liên tiếp các đoạn chính yếu trong một sách Tin Mừng. Năm nay, chúng ta đọc sách Tin Mừng theo thánh Marcô, và lần trước chúng ta đã đọc xong chương 9 thì hôm nay chúng ta bắt đầu nghe sang chương 10, mà chúng ta sẽ đọc tiếp trong các Chúa nhật sau.
Rồi để làm sáng tỏ bài Tin Mừng, phụng vụ chọn một đoạn Cựu Ước có khả năng hướng lòng chúng ta về mạc khải của Ðức Yêsu để chúng ta thấy chính Người đã đến không phải để xóa bỏ nhưng để kiện toàn và hoàn tất luật cũ hay đạo cũ và mọi lời tiên tri trong Cựu Ước. Chẳng hạn hôm nay bài sách Khởi nguyên đã được chọn vì bài Tin Mừng. Ðức Yêsu đã gợi lại một câu trong sách Khởi nguyên, thì phụng vụ đọc cho chúng ta nghe chính đoạn sách ấy để giúp chúng ta dễ hiểu lời Tin Mừng hơn. Ðồng thời chúng ta cũng sẽ thấy chính Ðức Yêsu sẽ làm cho bài sách Khởi nguyên thêm giá trị.
Cuối cùng bài Thánh Thư được chọn để dạy chúng ta biết sống đạo một cách cụ thể, theo như các tông đồ đã chỉ bảo cho giáo dân của các ngài. Không tất nhiên tư tưởng bài Thánh Thư phải ăn khớp với bài Tin Mừng. Phụng vụ thường chỉ muốn đọc cho chúng ta nghe hết thư này sang thư khác. Chẳng hạn lần trước chúng ta đã đọc hết thư Yacôbê, thì kể từ Chúa nhật này và liên tiếp trong nhiều Chúa nhật thường niên sau này chúng ta được nghe đọc thư Hipri, nói rằng của thánh Phaolô nhưng có lẽ chỉ là của một tác giả hoặc môn đệ thân cận của ngài và thấm nhiễm tinh thần của ngài. Ðoạn thư trích hôm nay không liên ý trực tiếp với giáo huấn của bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên. Nhưng tuy nói về những vấn đề khác nhau, cả ba bài Kinh Thánh vẫn bổ túc làm cho huấn giáo của Chúa nhật này thêm phong phú.
Chúng ta sẽ thấy bài Tin Mừng và bài sách Khởi nguyên nói đến nỗi an ủi mật thiết trong tương quan giữa người nam và người nữ. Nhưng sánh sao được với niềm an ủi và thắm thiết giữa Ðức Kitô và môn đệ Người, mà bài thư Hipri hôm nay gợi lên? Chúng ta hãy lần lượt đọc lại những bài Thánh Kinh ấy.
1. Nam Nữ Là Một
Bài sách Khởi nguyên hôm nay là một trong những bản văn rất quý hóa trong kho tàng tư tưởng của loài người. Người ta chỉ có thể chê khi đọc hời hợt và tưởng rằng bản văn đó mới được viết ngày hôm qua, ở giữa thời đại khoa học này. Ngược lại, nếu nhớ rằng nó đã khai sinh cách đây vào khoảng ba nghìn năm và do một ngọn bút ở một dân tộc ít văn hóa, người ta sẽ phải kinh ngạc và tự hỏi làm sao tác giả có thể viết ra những tư tưởng thâm thúy như vậy. Có cả một kho tàng khôn ngoan, tâm lý và sáng suốt trong những lời văn này.
Con người được mô tả như là một hữu thể cần hiệp thông và thông cảm. Nó không thể sống cô đơn cho dù đang ở giữa một cảnh bồng lai tiên cảnh như nơi địa đàng. Nó cũng không thể thỏa mãn với sự bầu bạn của mọi thứ động vật. Tác giả thật khéo ám chỉ loài người và loài vật cũng chỉ là một giống động vật khi ông nói Adong nhìn các giống vật và thấy chúng đều là “sinh vật”, nghĩa là cũng giống như ông là loài có sinh khí. Tuy nhiên lập tức ông cũng nhận ngay ra địa vị “linh ư vạn vật của mình” khi tác giả viết: Adong đặt tên cho từng loài, để tỏ ra địa vị ưu việt của ông… “Nhưng con người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào tương đối”. Adong chưa tìm được vật nào giống như mình để cảm thông và làm đầy đời sống cho mình. Nói cách khác, ông cảm thấy chưa đầy đủ dù có cả vũ trụ và vạn vật ở dưới quyền. Ông muốn và cần có một ai như mình nhưng lại khác mình và bổ khuyết cho mình.
Thượng đế đã can thiệp. Thiên Chúa không để con người cô đơn. Tác giả sách Thánh dùng hình ảnh bình dân để diễn tả sự can thiệp này. Yavê đưa Adong vào một giấc hôn mê, Người rút một xương sườn của ông, lắp thịt vào, làm ra người nữ và đem giới thiệu với ông. Vừa nhìn thấy, Adong đã kêu lên: phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi, nàng là Ishsha: (đàn bà) vì đã được rút ra từ Ish: (đàn ông).
Rõ ràng tác giả đã xây dựng hình ảnh từ “nguyên tự” và từ quan niệm bình dân lấy sự giống nhau về xương thịt để nói lên sự giống nhau về bản chất. Tức là tác giả muốn khẳng định đàn bà cũng là “người” như đàn ông và giữa nam nữ có một sự mật thiết bù đắp cho nhau. Tư tưởng của ông tiến bộ hơn người đồng thời rất xa, vì sau ông nhiều thế kỷ, ở nhiều nơi người ta vẫn chưa nhìn nhận sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ. Và với câu sau, “người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác”, ông làm cho độc giả thấy tình gia đình phu phụ keo sơn đến mức nào.
Dù sao cách nói của ông vẫn có nhiều hình ảnh và có thể làm người ít học lấy hình ảnh làm thực tại. Họ đâu có biết sách Khởi nguyên ở đoạn trước đã viết về nam nữ như sau: “Thiên Chúa đã dựng nên loài người theo hình ảnh mình. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng”. Vậy, điều mà ở đây tác giả nói một cách đơn sơ, tổng hợp nhưng vẫn đề cao sự bình đẳng và đồng loại giữa nam và nữ, thì ở chương sau ông đã dùng hình ảnh để nói lên một cách dễ hiểu hơn. Chúng ta quý cả hai lối trình bày và sung sướng được nghe nói đến những nét thâm thúy nơi con người.
Tuy nhiên ở đây phụng vụ không muốn lưu ý chúng ta về việc nam nữ đồng loại và bình đẳng cho bằng việc họ thu hút nhau, bù đắp cho nhau và khắng khít với nhau, để dẫn chúng ta sang bài Tin Mừng.
2. Không Ðược Ly Dị
Chúng ta không hiểu rõ hoàn cảnh vì sao các Biệt phái lại chọn vấn đề rẫy vợ để thử Ðức Yêsu. Họ muốn thử gì? Ðể xem ý kiến của Người về vấn đề ly dị ư? Không chắc ở thời đó vấn đề có sôi bỏng như ở thời ta không, cho dù luật Rôma bấy giờ cũng cho ly dị và tâm tư đạo đức của người Dothái có vẻ không rõ ràng. Ðúng hơn, họ muốn gài bẫy Người, để xem Người có kính trọng luật Môsê không? Nhưng luật này nói thế nào? Họ chỉ có thể trích được một câu trong sách Thứ luật (24,1) cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết ly thư, chớ không có chỗ luật nào nói rõ về việc được phép ly dị… Chính các Biệt phái cũng phải nhận rằng Môsê chỉ cho phép viết ly thư chứ không ra lệnh phải làm việc này. Dựa vào chỗ đó, Ðức Yêsu làm cho họ hiểu rằng: vì lòng dạ lì lợm của họ mà Môsê đã phải cho phép như vậy. Ðó là một nhượng bộ bất đắc dĩ, không thể kéo dài mãi mãi. Nước Thiên Chúa đã đến rồi; con người phải dùng sức mạnh mà vào; người ta phải trở về với Thiên Chúa và lệnh truyền của Người. Thế mà từ nguyên thủy nam nữ đã khắng khít với nhau và đàn ông đã bỏ cả cha mẹ mình để nên một thân thịt với bạn mình. Ðức Yêsu giải thích việc đó là ý của Thiên Chúa muốn phối hợp hai người lại với nhau, và không ai được phép phân ly nữa. Về nhà, Người còn dạy rõ: không ai được rẫy vợ mình để cưới vợ khác. Ai làm như vậy sẽ phạm tội ngoại tình.
Thánh Marcô không nói đến phản ứng của Biệt phái khi nghe Ðức Yêsu trả lời, vì đứng về quan điểm luật họ còn biết nói gì nữa? Nhưng đối với con người thời nay, có lẽ phán quyết của Người còn cần được tìm hiểu thêm. Người ta có thể đưa ra ý kiến này, ý kiến khác về vấn đề ly dị. Phụng vụ hôm nay chỉ xin chúng ta suy nghĩ về bài sách Khởi nguyên và đoạn Phúc Âm hôm nay để thấy việc vợ chồng khắng khít với nhau là một cái gì nằm sâu trong bản chất nam nữ mà Thiên Chúa đã dựng nên từ nguyên thủy. Ðó là ý muốn của tạo hóa và của bản tính con người. Nếu điều này có lúc khó chấp nhận, thì chúng ta hãy đọc tiếp đoạn Phúc Âm trên.
Thánh Marcô nói đến việc Ðức Yêsu yêu quý trẻ nhỏ và dạy chúng ta phải đón lấy Nước Trời như một trẻ nhỏ. Câu nói này có thể có hai nghĩa. Hoặc là người ta phải đơn sơ như trẻ nhỏ khi đón nhận Nước Trời, không xét nét, không do dự vì trẻ nhỏ cho gì chúng cũng lấy. Hoặc là người ta phải coi Nước Trời như hồng ân tốt đẹp, tinh sạch mà người ta phải đón lấy như đón một trẻ nhỏ. Bất cứ hiểu theo nghĩa nào, người ta cũng có thể dùng Lời Chúa nói đây để giúp mình chấp nhận luật không ly dị nói trên, vì rõ ràng đấy là ý Chúa, là Nước Trời đến với chúng ta mà chúng ta phải đón lấy như trẻ nhỏ. Chúng ta cũng có thể dùng bài Thánh Thư để khuyến khích mình thêm vì tác giả thư Hipri, tuy nói đến một vấn đề khác, nhưng cũng sẽ chỉ muốn chúng ta bắt chước Chúa mà có tinh thần hòa hợp.
3. Hãy Sống Khắng Khít
Tác giả nhắc lại việc Ðức Yêsu đã ngang qua thống khổ tử nạn mà được vinh quang huy hoàng. Trong chốc lát và theo một diện nào đó Người đã tỏ ra như thua các Thiên Thần vì hình dạng khổ nạn của Người. Nhưng đó là ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người muốn Ðức Kitô phải chịu khổ đau như vậy để kiện toàn bản chất con người chúng ta. Người muốn hướng dẫn số đông nhân loại lên phúc vinh quang nên đã dùng thống khổ hạ Ðức Kitô xuống thân phận tôi đòi tội lỗi như mọi người để khi Người được triều thiên ban tặng thì cả nhân loại được chia phần vinh quang của Người.
Như vậy, ở đây tác giả thư Hipri đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Ðức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Có thể nói vì muốn được loan báo Danh Chúa cho anh em và ngợi khen Thiên Chúa giữa cộng thể loài người mà Ðức Kitô đã phải đồng hóa và nên một với loài người trong đau khổ. Người không để lại cho chúng ta một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất sao? Người đang kêu gọi chúng ta không những kết hiệp bất khả phân ly với Người mà còn với nhau nữa. Người đang khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.
Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Ðức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng; như vậy đạo tốt sẽ làm đẹp đời. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.

3. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
THIÊN CHÚA ĐÃ KẾT HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Đó là lời Chúa Giêsu được thánh Marcô ghi lại trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe và thỉnh thoảng đã từng nghe vào mỗi dịp lễ cưới, hay cử hành nghi thức chứng hôn nào đó. Đến phần cầu nguyện cho đôi tân hôn, chủ tế dang tay đọc: “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, Cha đã tạo dựng muôn loài từ hư vô, và an bài mọi sự trong trời đất ngay từ thuở ban đầu. Khi dựng nên con người gống hình ảnh Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam, vì vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương thịt. Như thế, Cha dạy chúng con rằng: sự gì Cha đã phối hợp nên một, loài người không bào giờ được phép phân ly…
Cha đã chúc phúc cho xã hội họ gầy dựng nên được sinh sôi nảy nở. Lời chúc phúc này, dù nguyên tội hay đại hồng thuỷ cũng không xóa bỏ được”. Như thế đã rõ hôn nhân trong ý định nhiệm mầu yêu thương của Thiên Chúa.
Đẹp thay cái thủa ban đầu
Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy người nam và người nữ được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thật là đẹp. Đẹp về các mai mối: Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ: Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19,6). Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Nhờ hôn nhân, người nam và người nữ trở nên không phải một tổ hợp nhưng là một thể xác (x. St 2,24), nghĩa là một sự thông hiệp tình yêu phát sinh sự sống mới. Đúng là, đẹp thay của thủa ban đầu.
Hôn nhân ngày hôm nay
Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.
Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận.
Loài người không được phân ly
Ngay từ thủa ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam, có nữ. Hôn nhân đã có trong chương trình của Thiên Chúa. Ngài muốn người nam và người nữ kết hiệp với nhau thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau. Tới Tân ước, cả bốn sách Tin mừng không có dấu hiệu nào cho thấy Chúa Giêsu chống lại việc hôn nhân.
Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn; nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ, hay nói cách khác: một vợ, một chồng. Người nam không thể là chồng của người nữ nào khác, ngoài vợ mình; người nữ không thể là vợ của một người nam nào khác, ngoài chồng mình. Thế nên, loại trừ mọi hình thức đa thê, đa phu. Vĩnh hôn; có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Vì thế, khi cả hai còn sống thì không thể tháo cởi dây hôn phối vì bất cứ lý do nào, dù cả hai người đồng ý với nhau, hay vì bất cứ quyền lực nhân loại nào ép buộc.
Tại sao hôn nhân Công giáo không cho phép ly dị? Thưa là vì: Hôn nhân Công giáo mô phỏng tình yêu giữa Thiên Chúa đối với loài người, cụ thể là tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, mà tình yêu giữa Thiên Chúa đối với con người luôn là một tình yêu không chia sẻ và bền vững muôn đời.
Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết, trọn đời mình. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.
Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay chung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay gặp gian lao thử thách nào, vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt. Amen.

4. Gia đình
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên một bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ, người anh cần củ lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái. Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?” Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi hơn, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu.
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình, thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên. Và một gia đình như vậy phải được xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố.
Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hoà hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều dao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái giáo cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: Có được phép bỏ vợ không? Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Ngài về hôn nhân. Hôn nhân phải có hai đặc tính: Một vợ một chồng và không được ly dị.
Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.

5. Giá trị của gia đình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chưa bao giờ các gia đình lại gặp nhiều khốn đốn, nhiều đe doạ và sóng gió hung tợn như ngày hôm nay. Hàng loạt rồi hàng loạt gia đình bị rạn nứt, bị sụp đổ, bị tan tác trước những cơn địa chấn kinh hồn do nếp sống hưởng thụ và vô thần gây nên (nạn ly dị tràn lan, hôn nhân thử cũng như kết hôn đồng tính gia tăng đáng sợ…)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra giá trị cao cả của gia đình để chúng ta trân trọng yêu mến gia đình và từ đó quyết tâm xây dựng gia đình nên tốt lành thánh thiện hơn.
Dựa vào Lời Chúa, chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình có một giá trị rất cao quý, vì những lý do sau:
* Chính Thiên Chúa là kiến trúc sư đã thiết kế và trực tiếp xây dựng nên gia đình:
Bài đọc thứ nhất cho thấy Thiên Chúa đã thiết lập nên gia đình đầu tiên bằng hình ảnh rất nên thơ: Trước tiên, Ngài dựng nên ông Ađam và trong khi Ađam say ngủ, Ngài rút một xương sườn của ông mà dựng nên E-và. Ađam hoan hỉ đón nhận Evà làm bạn đời và xác nhận rằng đó là xương thịt của ông.
Đó là cách diễn tả rất thi vị, rất độc đáo để trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã sáng tạo nên gia đình và gia đình là tác phẩm ưu việt của Ngài.
Ta có thể hình dung mỗi gia đình như một toà lâu đài và lâu đài đặc biệt nầy được chính Thiên Chúa vừa là nhà thiết kế, vừa là kỹ sư xây dựng. Vì thế, gia đình là một công trình rất đáng trân trọng của Thiên Chúa.
* Lý do thứ hai khiến cho gia đình đáng cho mọi người chúng ta tôn trọng là vì chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai quyền năng phép tắc cũng đã vui lòng đến sống dưới mái gia đình Na-da-rét. Trong ba mươi ba năm mang lấy thân phận con người, Ngài đã dành ra đến gần ba mươi năm nương náu trong gia đình Na-da-rét. Thế là tại đây, mái ấm gia đình trở nên cung điện của Thiên Chúa.
* Lý do thứ ba là Chúa Giêsu rất quý trọng gia đình.
Khi có một gia đình mới được thành lập tại Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ được mời dự tiệc. Đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu, Mẹ Maria phải cậy nhờ Chúa Giêsu cứu nguy cho đôi tân hôn. Chúa Giêsu biết là giờ Ngài chưa đến, chưa đến lúc để làm phép lạ đầu tay. Mà nếu cần thực hiện một phép lạ đầu tay thì cũng phải thực hiện vì một lý do rất hệ trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại chấp nhận làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu cho gia đình mới được vui.
Sự kiện Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tay chỉ vì hạnh phúc của một đôi tân hôn, của một gia đình mới xây dựng chứng tỏ Chúa Giê -su rất quý trọng gia đình.
* Lý do thứ tư là Chúa Giêsu lập bí tích hôn phối để nâng cấp gia đình những người con cái Chúa.
Đối với những người sống trong Hội Thánh, Chúa Giêsu còn thiết lập nên bí tích hôn phối để làm cho gia đình họ trở thành gia đình thánh. Thế là nhờ bí tích hôn phối, gia đình là một tổ chức thế tục trở thành một Hội Thánh nhỏ của Chúa Giêsu.
Vì những lý do kể trên, gia đình là một công trình cao đẹp và rất đáng trân trọng. Có thể nói rằng không một công trình kiến trúc vĩ đại nào của con người, ngay cả đại thánh đường Phêrô tại Rôma được xây dựng trong suốt 130 năm bởi nhiều kiến trúc sư tài năng nhất thế giới, cũng không thể sánh bằng.
Giả như có một ai đó đang tâm phá huỷ đền thờ thánh Phêrô tại Rôma, thì đó là một tội ác lớn lao đối với nền văn minh nhân loại, thì kẻ nào phá vỡ gia đình là thánh điện của Thiên Chúa, là kiến trúc tuyệt mỹ của Thiên Chúa Ba Ngôi thì đáng chịu tội nặng nề hơn.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu củng cố nền tảng gia đình và lên tiếng cảnh cáo mọi người nhớ rằng: gia đình là “công trình mà Thiên Chúa đã kiến tạo, thì loài người không được phá huỷ”. Phá huỷ gia đình là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa.
Vậy xin đừng ai phá huỷ gia đình hay làm cho gia đình xuống cấp bằng cách đưa vào nhà mình những tệ nạn xã hội, những gương xấu, những nguyên nhân phát sinh tội lỗi.
Trái lại, mỗi người hãy xây dựng gia đình mình trở thành tổ ấm cho tình thương và sự sống phát triển, xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để cho sự “hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa” (thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2002)
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã chọn gia đình làm nơi cư ngụ của Ngài, ban ơn giúp sức để chúng ta biết dựng xây gia đình mình ngày càng hạnh phúc, an vui và thánh thiện như gia đình của Chúa Giêsu ngày xưa. Amen.

6. Không thể chia lìa
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi những người biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu về việc ly dị, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát rằng vợ chồng không thể phân li. Người trích dẫn lại lời Kinh thánh: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li.” (Mc 10, 6-9)
Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà. E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà chỉ là xương thịt của mình: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. (Sáng Thế 2, 18-23)
Trong hôn nhân, tuy người nam và người nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với nhau.
Tuy nhiên, một số người không nhìn nhận vợ chồng là một và bất khả phân li vì họ có cái nhìn phân mảnh nên không thấy được tính duy nhất trong đa tạp.
Đối với hạng người nầy, khi nhìn vào chiếc kìm hay chiếc kéo, họ chỉ thấy có hai gọng thép ghép lại với nhau và nói rằng đây chẳng là gì ngoài hai gọng thép; nhưng người hiểu biết thì cho rằng đây không đơn thuần là hai gọng thép mà là một chiếc kéo hay một chiếc kìm.
Khi nhìn vào một ngôi nhà gạch, người có nhãn quan phân mảnh cho rằng đây là tập hợp của rất nhiều gạch đá. Nhưng người hiểu biết thì quả quyết đó là một ngôi nhà.
Tay phải và tay trái, tuy là hai cánh tay riêng biệt nhưng cũng nên một với nhau vì cùng thuộc về một thân mình.
Đầu và thân mình tuy là hai phần riêng biệt, nhưng cũng chỉ là một vì cả hai đều thuộc về nhau và cùng thuộc về một thân mình.
Tương tự, khi nhìn vào người nam và người nữ đã kết hôn, người không đón nhận giáo lý của Chúa thì cho rằng đây chỉ là một người nam sống bên cạnh một người nữ; nhưng người am hiểu giáo lý Chúa dạy thì biết rằng đó là một gia đình gồm hai người đã nên một xương một thịt với nhau.
Hôm nay, Chúa Giêsu tái khẳng định với chúng ta rằng vợ chồng không còn là hai mà là một huyết nhục và điều gì Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân li.
Đã nên một xương một thịt với nhau mà phân li, chia cắt thì đau xót biết bao! Phân li như thế khác chi tự phanh thây xẻ thịt mình.
Cấu trúc của máy bay có hai cánh. Nhờ hai cánh mà máy bay cất cánh và giữ được thăng bằng. Nhờ cấu trúc nầy, máy bay lướt gió, vượt lên trên các tầng mây, bay xuyên qua đại dương và các lục địa. Nếu có ai đó chặt bỏ mất một cánh, thì máy bay không thể cất cánh được, hoặc nếu có cất cánh được thì cũng lảo đảo mấy vòng rồi lao xuống đất.
Cấu trúc của gia đình là nam và nữ kết hợp nên một như hai cánh máy bay. Nếu ai phá vỡ cấu trúc nầy, gia đình sẽ bị đổ vỡ và gây ra tổn thất rất lớn cho xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa Chúa đã cầu xin cho các môn đệ được hợp nhất nên một như Ba Ngôi là một, thì nay xin Chúa cũng lặp lại lời cầu đó cho mỗi thành viên trong các gia đình: “Lạy Cha, xin cho người chồng, người vợ, người con trong các gia đình nầy được “nên một như chúng ta là một” (Ga 17,22), nhờ đó các gia đình con cái Chúa được hiệp nhất trong yêu thương và trở nên hình ảnh sống động của Gia Đình Ba Ngôi.

7. Một mình
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Sống một mình không tốt. Lời khuyên của tiền nhân là như thế. Trải qua nhiều kinh nghiệm sống ông cha đã nhận biết con người không thể nào hạnh phúc tràn đầy nếu sống vò võ một mình. Sống một mình đây không thể hiểu là sống độc thân. Sống một mình đây có nghĩa là sống mà không biết đến ai, chỉ biết đến mình tôi, riêng tôi mà thôi. Tôi là quan trọng. Ngoài tôi ra, tôi không cần ai. Đó là ý nghĩa đích thực của sống một mình. Cá nhân sống một mình trong cảnh cô đơn, thiếu người chia sẻ tâm tình, dù rằng quanh mình có nhiều người thân nhưng không sống chung được với ai. Con người lệ thuộc vào nhau để sống; chọn sống một mình là chọn hưởng những sáng chế của người khác còn mình khư khư tích trữ tài năng cho riêng mình. Quốc gia chọn sống một mình theo chính sách bế quan toả cảng, bài khích các quốc gia khác chính là chọn sống lạc hậu, thụt lùi mà một số nước gặp phải, trở thành tụt hậu trong nhiều thế kỉ.
Chọn sống một mình là chọn cuộc sống tự trói buộc mình, tự ngăn cách mình với mọi người. Mỗi người trong chúng ta là con người xã hội, cần sống chung với mọi người trong xã hội. Sống chung có những phiền phức riêng của nó. Thí dụ sống chung luôn có những tư tưởng khác biệt, í kiến dị biệt nên cần phải có người lãnh đạo hướng dẫn chọn í kiến thích hợp chung, có lợi cho đại đa số. Điều không may xảy ra cho xã hội là người lãnh đạo thường lầm lẫn giữa lãnh đạo với dụng quyền. Tài lãnh đạo là tài tổ chức, điều hợp và biết cắt cử, xử dụng người đúng công việc. Nhờ khéo tổ chức, giỏi điều hành và xử dụng đúng tài năng mà công việc tiến hành tốt đẹp, được việc và những cộng tác viên lại thoải mái,vui vẻ, hăng hái trong công việc. Người lãnh đạo thiếu những đức tính cần thiết trên thường xử dụng quyền lực như là cách duy nhất để điều hành công việc. Trong khi người có tài lãnh đạo rất ít khi dùng quyền, ngay cả người đó có quyền rất ít khi dùng tới bởi vì người đó thấy không cần thiết phải xử dụng đến mà thay vào đó là tài năng thuyết phục, giải thích, trình bày sao cho người nghe tự nguyện thi hành một cách vui vẻ.
Dụng quyền vì người lãnh đạo thiếu khả năng lãnh đạo nên dùng bạo lực như sức mạnh nồng cốt thay cho các khả năng thiếu sót khác. Dụng quyền thường gây nên bất mãn, bực dọc và đó là nguyên nhân gây nên bất hoà, bất mãn ngầm trước khi đi đến ra mặt chống đối. Dùng sức mạnh, bạo lực đạt được kết quả theo í muốn, giải quyết được vấn đề này nhưng lại nảy sinh ra những vấn đề khác, có thể phức tạp, rắc rối hơn vấn đề đã được giải quyết. Người lãnh đạo tự ban cho mình quyền xử dụng sức mạnh nhưng thực ra họ không có quyền đó. Quyền họ tưởng có chỉ là giả tạo, ảo ảnh, chính họ trao trong tay họ. Thực tế cuộc sống cho thấy càng cố gắng xử dụng bạo lực, sức mạnh để cầm giữ người khác nhiều bao nhiêu thì càng tạo ra sức phản hồi, ngăn cách, chia rẽ bấy nhiêu. Sức mạnh, bạo lực và ban thưởng tạo ra những kẻ nịnh đầm, vâng vâng, dạ dạ vì bổng lộc, danh lợi mà không gây được thiện cảm, tâm tình quí trọng và lòng mến thiết tha, chân thành.
Bạo lực trong gia đình giết chết tình yêu gia đình, đào sâu hố ngăn cách giữa cha mẹ và con cái trước khi xảy ra tình trạng li dị. Điều này xảy ra ngàn năm trước đây và đến nay xem ra vẫn chưa có thuốc trị. Vì thế có chuyện người ta giả vờ hỏi Đức Kitô về vấn đề li dị. Ngài mượn cơ hội hỏi giả vờ để đưa ra câu trả lời thật. Hôn nhân Thiên Chúa giáo xảy ra giữa một người nam và một người nữ. Hôn nhân này lâu bền vĩnh cửu và là bí tích thánh.
Lị dị không phải là vấn đề mới mẻ gì trong cuộc sống. Thời tổ phụ Môi sen đã có li dị. Thời Đức Kitô cũng có xảy ra li dị và thời đại mới dường như li dị càng ngày càng tăng, không giảm vì lòng chai dạ đá (Mc 10,7)
Mọi cố gắng định nghĩa hôn nhân khác với điều Đức Kitô truyền dậy đều đưa đến đổ vỡ thảm khốc vì nó là khôn ngoan của loài người, không phải khôn ngoan của Thiên Chúa. Xã hội chúng ta đang sống li dị xảy ra thường xuyên và có đà tăng nhanh gây nên bởi những định nghĩa khác nhau về hôn nhân. Những định nghĩa mới này thường là xa lạ, khác biệt với giáo huấn vừa tinh tuyền vừa thánh thiện được Đức Kitô cổ võ và bảo trợ. Ngài cổ võ vì đó là tình yêu thực, hạnh phúc thực đến từ nguồn hạnh phúc thực là Thiên Chúa vua tình yêu.

8. Nụ hôn
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Hôn nhân, hôn ước, hôn phối, hôn lễ, thành hôn, kết hôn, tiêu hôn, tái hôn. Tất cả nhấn mạnh về chữ hôn. Chữ hôn đứng vai chủ động diễn tả hành động yêu thương, cử chỉ trìu mến, tác thành như tân hôn, kết hôn, thành hôn, tái hôn. Chữ hôn dùng trong trường hợp cử hành các nghi thức mừng vui như hôn lễ, hôn phối, hôn ước. Tiếc thay chữ hôn còn dùng diễn tả sự kiện buồn tẻ, cô đơn như tiêu hôn.
Kinh thánh ghi lại hai nụ hôn: Nụ hôn phản bội của Yuđa bị chỉ trích. Nụ hôn đó đến từ đầu, do suy luận, có tính toán hơn thiệt. Trái lại Chúa khen nụ hôn chân thành đầy lòng yêu mến của chị phụ nữ thống hối ăn năn trở lại Lc 7,36tt. Nụ hôn đó đến từ con tim, không so đo hơn thiệt. Chúa yêu chị nhiều; chị đáp lại nhiều. Nói đến nụ hôn gợi nhớ hình ảnh bông hoa chớm nở, không giống kiểu hôn trên màn ảnh tivi lè lưỡi lát người yêu.
Có nhiều cách diễn tả tình yêu. Một trong những cách đó là dùng nụ hôn để diễn tả nội tâm một cách trìu mến. Chúng ta cùng tìm hiểu câu Chúa trả lời những người hỏi Chúa về vấn đề li dị trong Phúc Âm thánh Marcô 10,1-12.
Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương, một thịt.
Môsê cho phép li dị vì sao? Vì các ông lòng chai dạ đá. Người ta nại cớ, viện vào sức mạnh quần chúng, ý kiến đại đa số ép Môsê làm công việc Môsê không muốn. Điều chắc chắn là lòng chai dạ đá của con người không lay chuyển ý định của Thiên Chúa. Hôn nhân không phải là điều mới mẻ.Thiên Chúa dự liệu ngay từ thuở sáng tạo, khởi đầu công trình tạo dựng của Ngài. Thiên Chúa sáng tạo không chùn bước, tháo lui trước sức ép ý kiến đa số hoặc sức mạnh đám đông. Luật Chúa là luật yêu thương nên không thể bỏ qua. Luật yêu thương này không bị thời gian chi phối. Không thể nại cớ luật cũ xưa như trái đất, lỗi thời cần phải thay đổi. Chúa không chối bỏ điều đó Ngài tái xác định khi nhắc đến câu ‘lúc khởi đầu công trình sáng tạo’. Luật Chúa dù cũ cổ xưa như trái đất không bị mai một với năm tháng, thời gian. Luật yêu thương tồn tại và vĩnh cữu đến muôn đời.
Luật Chúa là luật yêu thương, có lợi cho con người. Luật Chúa là luật tạo dựng, kết hợp. Luật xã hội tốt lành nếu luật đó có nguồn gốc phát xuất từ luật Chúa. Luật Môsê cho phép viết giấy li dị không phát xuất, không có nguồn gốc từ luật Chúa vì thế Chúa nhắc cho họ nhớ là ngay từ đầu công trình sáng tạo vấn đề li dị đã bị loại bỏ, không được đặt ra. Luật Môse cho phép li dị với lí do chính đáng, luật đó thuần túy xã hội, do con người sáng chế ra. Chúa Yêsu muốn đưa con người trở về nguồn gốc từ lúc sáng tạo đó là luật yêu thương. Chúa thấy mọi sự tốt đẹp trong công trình sáng tạo của Chúa. Luật con người sáng chế thay đổi theo hòan cảnh, nơi chốn. Luật đó tồn tại nhất thời, không vĩnh cữu.
Căn bản của hôn nhân là tình yêu, không phải luật lệ ràng buộc. Chính tình yêu liên kết hai người thành mối giây yêu thương. Người ta nhấn mạnh đến luật hôn nhân. Chúa nhắc đừng lầm ý định của Chúa. Ngài nhấn mạnh đến tình yêu. Hôn nhân liên kết hai người không phải vì luật ràng buộc mà là yêu thương.
Chính tình yêu gắn bó, liên kết hai người thành một ‘xương, một thịt’. Bởi thế người đàn ông lìa bỏ cho mẹ để luyến ái vợ mình và cả hai trở nên một xương một thịt. Luật không có khả năng gắn bó hai người thành xương thịt. Luật hỗ trợ cho hôn nhân nhưng không gắn bó. Liên kết, gắn bó là hoa trái của luyến ái, của tình yêu. Luật không bảo đảm giúp hôn nhân tồn tại. Tình yêu bảo đảm gắn bó, liên kết hôn nhân. Đôi tân hôn tuyên hứa trung thành, lời hứa chưa phai, luật chưa đổi nhưng họ đã chia tay vì tình yêu tàn lụi. Luật không thay đổi nhưng mức độ yêu thương tàn lụi nên có lắm li dị, nhiều phá ngang. Hôn nhân tồn tại bao lâu hai người còn yêu nhau, tình còn nồng, dù lời thề đã phai.
Con người dùng luật để liên kết hôn nhân. Chúa dùng tình yêu liên kết hôn nhân; dùng mối tình của chàng, nàng trao nhau. Tương tự như thế Chúa không liên kết chúng ta bằng luật nhưng ‘Ai yêu mến Thầy…. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở lại với người ấy Gn 14,24’.
Tình yêu nối kết nên một, không phải luật. Nếu là luật thì đó chính là luật yêu thương. Hôn ước, có đại diện Hội Thánh chứng kiến, công khai trước thân nhân, thân hữu và xảy ra trong nơi thánh, biến hôn ước thành giao ước thánh. Chúa chúc phúc, thắt chặt và nâng mối tình tự hiến trao ban thành bí tích. Chúa liên kết hai người bằng chính hai mối tình họ tự nguyện dâng hiến. Chúa ban ơn giúp họ sống trong tự do, tôn trọng và giữ mối tình sắt son bền chặt. Khi một trong hai mối tình lỏng lẻo tình yêu chao đảo, lỏng lẻo. Khi cả hai mối tình thắt chặt tình yêu bền chặt. Khi một trong hai mối tình chết đi; mối còn lại không bị ràng buộc nữa. Người đó tự do thắt mối tình mới.
Khi có tố tụng tòa án hôn phối không làm công biệc tháo gỡ bí tích hôn phối. Dùng chữ tháo gỡ bí tích hôn phối là sai. Sự gì Thiên Chúa liên kết con người không được phân li. Nhiệm vụ của tòa hôn phối là xét xem mối tình hai người trao nhau năm xưa có ngăn trở gì không. Nếu không ngăn trở thì đó là bí tích. Một khi đã là bí tích, tòa án hôn phối đành bó tay, không có năng quyền tháo hay cởi. Nếu có ngăn trở, hôn ước xưa không phải là bí tích. Tòa hôn phối tuyên bố đây không phải là bí tích với những lí do đính kèm. Môt khi không phải là bí tích nghĩa là Thiên Chúa chưa kết hợp. Vì chưa kết hợp con người có quyền phân li.

9. Chung thủy trong hôn nhân
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Mọi người phải công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu nền tảng gia đình không vững chắc thì lâu đài xã hội có nguy cơ sụp đổ. Ngày nay nền tảng gia đình đang bị lung lay do những cuộc đổ vỡ, phản bội, nói đúng, hơn là do những cuộc ly dị xẩy ra hằng ngày. Thực ra chế độ đa thê và ly dị đã có từ xưa trong xã hội, nhưng nó được đặt lại cho dân Chúa từ thời ông Maisen. Chính ông đã cho phép hợp thức hóa, qui định luật và làm thành thủ tục. Luật này vẫn còn tồn tại cho tới thời Chúa Giêsu .
Luật tuy đã có đấy, nhưng người biệt phái muốn Chúa Giêsu phải xác định rõ ràng xem người đàn ông có được phép rẫy vợ không, có ý gài bẫy Chúa, để Ngài phải trả lời và trả lời thế nào cũng gặp nguy hiểm. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời có hay không mà chỉ dùng Kinh Thánh để nhắc nhở cho người ta phải trở về nguồn gốc ý định đầu tiên của Thiên Chúa khi dựng nên loài người: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19,6).
Ngày nay, Giáo hội vẫn trung thành với giáo lý của Chúa Giêsu và luôn khẳng định đặc tính “vĩnh viễn” của hôn nhân Công giáo. Không ai có quyền hủy bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp vì đây là luật của Chúa. Luật bất ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: St 2,18-24.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Sáng thế nói với chúng ta về nguồn gốc cặp vợ chồng đầu tiên trong nhân loại: chính Thiên Chúa đã tạo dựng người nam người nữ, bổ túc cho nhau để trong hôn nhân, họ tạo thành một cặp vợ chồng bền vững. Chúng ta có thể rút ra được mấy tư tưởng – – Người nam sống một mình cô đơn cần phải có người khác để chia sẻ.
– Thiên Chúa dựng cho người nam một người nữ làm trợ tá tương xứng.
– Người nữ trợ tá này có quyền bình đẳng với người nam.
– Người nam và người nữ kết hợp với nhau, gắn bó với nhau thành một xương một thịt.
+ Bài đọc 2: Dt 2,9-11.
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái nhằm tôn vinh chức tư tế của Đức Kitô: Ngài là vị tư tế hoàn hảo. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống làm người chịu nạn chịu chết, bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn, nhưng qua việc Phục sinh, Ngài lại được nâng lên và trở thành vị lãnh đạo thập toàn.
Nếu các Kitô hữu cùng kết hợp với cuộc khổ nạn của Ngài thì Ngài cho phép mọi người được dự phần vinh quang của Ngài.
+ Bài Tin Mừng: Mc 10,2-16.
Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần:
a) Về vấn đề ly dị:
Có người biệt phái đến phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề ly dị có ý gài bẫy Ngài, bởi vì luật Maisen đã cho ly dị, còn Chúa Giêsu thì lại kết án.
Về vấn đề ly dị thì có hai trường phái đối nghịch nhau: phái tự do và phái bảo thủ. Phái tự tự do thì cho rằng có thể ly dị vì bất cứ lý do gì dù rất tầm thường. Còn phái bảo thủ thì khắt khe hơn, chỉ dược ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy chủ trương khác nhau, nhưng hai phái này có một điểm chung là cho phép ly dị.
Sau khi giải thích tại sao Maisen đã phải dàn xếp như vậy, Chúa Giêsu lớn tiếng tuyên bố cần phải tái lập cho hôn nhân được sự trong sáng nguyên thủy: “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.
b) Thái độ đối với trẻ con.
– Người Do thái có thói quen đem trẻ nhỏ đến cho những người có uy tín đặt tay chúc lành cho chúng. Thấy Chúa Giêsu là bậc Thầy nhân hậu có nhiều uy tín, họ đã đem trẻ nhỏ đến để Ngài chúc lành cho chúng.
– Các môn đệ tỏ ra khó chịu, muốn đuổi chúng đi vì chúng là những kẻ bắng nhắng, hay quấy rầy người lớn.
– Nhưng Chúa Giêsu ngăn cản các ông và dạy cho các ông một bài học là mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại trừ bất cứ ai.
– Nhân dịp này, Chúa cũng bảo người lớn phải có tâm hồn như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chung thủy trong Hôn nhân
1. Theo ý định của Thiên Chúa.
Theo sách Sáng thế, Thiên Chúa đã dựng nên con người là Adong giống hình ảnh Chúa, cho làm chủ mọi công trình tạo dựng của Ngài, nhưng Ngài thấy “con người ở một mình không tốt” nên từ cạnh sườn của Adong Thiên Chúa đã dựng nên cho ông “một trợ tá tương xứng với ông”. Thiên Chúa đã giới thiệu Evà cho ông và ông đã phải thích thú kêu lên: “Đây là xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishsah) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra”(St 2,23).
Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài và do một tình thương đặc biệt, Ngài cho hai người phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt, bởi vì “người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình và hai người sẽ nên một xương một thịt”(St 2,24).
Như vậy, ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ để thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu duy nhất và chung thủy: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mt 19,6).
2. Luật thời Maisen.
a) Luật trong sách Đệ nhị luật:
Luật ly dị của người Do thái vốn bắt nguồn từ Đệ nhị luật 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Câu ấy chép: “Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng, bởi chàng thấy nơi nàng một xấu hổ nào, thì chàng được viết một tờ ly dị, trao vào tay nàng và đuổi khỏi nhà mình”(Đnl 24,1).
Thoạt tiên, tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau: “Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý”. Về sau tờ giấy ly dị được viết lại kỹ lưỡng và trau chuốt hơn.
Vào thời Tân ước, chứng từ này phải do một rabbi có tài năng thảo ra. Sau đó, nó còn phải được một hội đồng gồm 3 rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ ở Tòa An Tối cao. Nhưng nói chung thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và hoàn toàn do ý muốn của người đàn ông.
b) Hai trường phái cắt nghĩa luật.
Maisen phần lớn chỉ lấy lại “luật theo tục lê” của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện bằng cách “hợp thức hóa”,”qui định” và thiết lập một “thủ tục”. Ông muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại.
Vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật pháp dựa theo chương 24,1 trong sách Đệ nhị luật. Câu ấy qui định người đàn ông có thể ly dị vợ nếu có một “xấu hổ”. Vậy họ phải giải nghĩa câu này thế nào? Trong vấn đề này chúng ta thấy có hai trường phái đối nghịch nhau: trường phái bảo thủ và trường phái tự do.
* Trường pháo bảo thủ (Rabbi Shammai): giải thích hết sức khắt khe: xấu hổ là ngoại tình và chỉ có ngoại tình (tà dâm) mà thôi.
* Trường phái tự do (Rabbi Hille): phái này cắt nghĩa rất rộng rãi. Họ bảo nó có nghĩa là nếu người vợ làm hỏng đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò truyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bạn bè của chồng gần bên chồng… là đáng xấu hổ.
Thậm chí Rabbi Akiaba còn đi rất xa để giải thích câu “nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng” là nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình.
Sở dĩ có vấn đề được đặt ra ở đây là theo luật Do thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Cùng lắm, người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi. Phụ nữ bị chồng ly dị dầu có thuận ý hay không, nhưng đàn ông thì có thể tự ý ly dị vợ. Chỉ có lý do để một người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phung, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau.
Truyện: ly dị nơi bộ lạc Babira.
Bộ lạc Babira bên Phi châu là nơi người chồng ly dị dễ dàng nhất với vợ.
Người chồng chỉ việc đợi lúc ban đêm, đặt trước túp lều của vợ mình một bình dầu nhỏ và một chiếc gậy (gậy chống để đi cho đỡ mỏi) là sáng dậy người vợ hiểu ngay rằng người chồng đã ly dị với mình.
Chiếc gậy để lại cho vợ có nghĩa là: bà hãy đi tìm người khác mà nương tựa. Còn lọ dầu nhỏ là theo một phong tục cổ truyền.
3. Vấn nạn đặt ra cho Chúa Giêsu.
Vấn đề được đặt ra là luật pháp cho phép ly dị đã rõ ràng như vậy rồi, tại sao những người biệt phái lại hỏi Chúa Giêsu: “chồng có được phép rẫy vợ không”? Đó là câu hỏi đầy ác ý, có ý gài bẫy Ngài. Họ đặt ra câu hỏi ấy để bắt bí Chúa Giêsu: dù Chúa trả lời như thế nào đi nữa, thì Ngài cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể.
Thật vậy, người biệt phái đã thử thách Chúa Giêsu một cách thâm độc ghê gớm. Hỏi Chúa Giêsu: Chồng có được phép ly dị vợ mình không? Họ hỏi câu này ngay trong đất của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Gioan Tiền hô đã cảnh cáo vua và dã bị chặt đầu. Nếu Chúa Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với Maisen. Nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ly dị, thì lại trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì dân chúng rất tôn kính Gioan.
4. Chúa giải quyết vấn đề.
Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Thế ông Maisen đã truyền dạy các ông điều gi”? Khi dùng từ ngữ truyền dạy, Ngài buộc những lời chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải là một “lệnh truyền” của Maisen mà chỉ là một “nhân nhượng” vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: ông Maisen đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.
Thực ra, luật này (Đnl 24,1) chỉ cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết tờ ly dị, chứ không có chỗ luật nào nói rõ việc được phép ly dị… Chính các biệt phái cũng phải công nhận rằng Maisen cho phép viết tờ ly dị chứ không ra lệnh phải làm việc này (GM B. Nguyễn sơn Lâm, Lời Chúa các Chúa nhật năm B, tr 422).
Phần Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trưng Kinh Thánh để trả lời: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành nên một xương một thịt… Sự gì Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”.
Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, thương yêu nhau chí thân chí thiết đến nỗi nên cùng một xương một thịt, hợp nhất với nhau nên một. Người Đông phương diễn tả sự hiệp nhất đó bằng một hình tròn, trong đó có âm có dương. Am là nữ, dương là nam, hình tròn chỉ sự toàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Am dương hòa hợp vơi nhau hoàn hảo như thế gọi là thái hòa. Hòa tới tột độ gọi là thái cực. Nhờ sự hòa hợp đó sinh ra bốn mùa xuân hạ thu đông gọi là tứ tượng. Bốn mùa xoay vần, đắp đổi nhau làm cho muôn loài, muôn vật được phát triển, sinh sôi nảy nở, lớn lên, xanh tốt, trưởng thành, kết trái, rồi lại trở về cội nguồn hoàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ.
Hình tròn thái hòa âm dương không có góc cạnh gẫy góc, không có khuyết điểm, phân chia, thật hoàn toàn tốt đẹp diễn tả được ý nghĩa hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập như Ngài đã nói: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta, như họa hình Ta” (St 1,28).
(Vũ Khắc Nghiêm, Xây Nhà Trên Đá, năm B, tr 190)
HÔN NHÂN THỜI CHÚNG TA.
1. Thực trạng các gia đình thời nay.
Lịch sử con người đầy rẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Maisen dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Hêrôđê ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp tục cho đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/1989 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Trong tiệc cưới người ta thường chúc cô dâu chú rể nhiều điều tốt lành, nhưng có một lời chúc mà người ta dùng nhiều nhất là “Trăm năn hạnh phúc”. Cầu mong hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng để có được hạnh phúc quả thật không dễ chút nào. Bởi hôn nhân không phải là chuyện tháng ngày, mà là chuyện cả một đời. Rất cần có sự keo sơn, chung thủy, nhẫn nhục và tha thứ cho nhau.
Hiệp nhất trong hôn nhân phải là sự hiệp nhất trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác. Có thể nói hôn nhân chính là cuộc đời “3 in 1”: hai trong một.
Người ta thường nói: “Vợ chồng như đũa có đôi” để minh họa cho sự hiệp nhất, gắn bó, nương tựa giữa hai vợ chồng:
Thà rằng chiếu lác có đôi
Chẳng hơn chăn gấm lẻ loi một mình.
Có một câu thơ khá phổ biến, như một điệp khúc dễ thương: “Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai”. Trước đây, vợ chồng thường xưng hô với nhau: “Mình ơi mình”, còn ngày nay, các bạn trẻ lại thi vị gọi người bạn đời là “Một nửa của tôi ơi”!
Lý tưởng thì vậy đấy nhưng thực tế thì thật là chua chát. Người ta không ngại ngùng chặt phăng cái nửa mình mà quăng đi nơi khác. Vì tình, vì tiền, vì chức quyền, danh vọng, vì tính tình khác biệt… người ta có thể xé toạc cái giao ước hôn nhân mà bỏ vào thùng rác. Lúc này giao ước còn có nghĩa gì đâu! Lúc này người ta cho phản bội là một việc bình thường nên mới thẳng thừng nói với nhau:
Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
(Thế Lữ)
3. Lý do của việc ly dị.
Theo tài liệu của Ủy Ban Tòa thánh chuyên trách về gia đình, chúng ta thấy tài liệu viết: “Con người và gia đình hiện nay sống trong một xã hội “bị động”, nghĩa là thiếu lý tưởng, muốn làm gì thì làm, bị tục hóa và là nơi mà sự giải thoát mình được thực hiện bằng nhiều cách, mà một trong những cách đó là dùng ma túy… Thời đại chúng ta đề cao tự do, một thứ tự do không còn được coi là tích cực hướng về sự thiện, mà là thoát ly khỏi mọi điều kiện cản ngăn mỗi người làm theo ý riêng mình…
Người ta ca tụng chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ” (Tập Du désespoir à l’espérance, L.E. Vatican, 1992).
Vì muốn theo chủ nghĩa thực dụng ích kỷ để thỏa mãn những khoái lạc thể xác, người ta không còn tôn trọng hôn nhân theo truyền thống nữa mà thích theo hôn nhân tự do. Loại hôn nhân này chẳng có phép đời, cũng chẳng có phép đạo. Tại Pháp, năm 1975 loại hôn nhân tự do là 445.000 trường hợp. Đến ăm 1982 loại trường hợp tự do đã tăng lên gấp đôi tức là 809.000 đôi.
4. Phải củng cố lại tình yêu gia đình.
Chúng ta phải đổi mới và làm tươi trẻ lại tình yêu hôn nhân như người ta nói: “Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng và hãy cưới lại nhau mỗi ngày”. Trong bài đọc 2, tác giả thư Do thái đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Đức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Đức Kitô đã không để lại cho chúng ta một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất đó sao? Ngài đang kêu gọi chúng ta không những kết hợp bất khả ly với Ngài mà còn với nhau nữa. Ngài muốn khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.
Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương – nhận và cho tình yêu. Tuy nhiên, khả năng yêu thương không phải là một vật mà Ngài ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thực sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.
Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đem hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi.
Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc.
Đứng trước tình trạng bi đát của các gia đình, Hội đồng Giám mục Pháp đưa ra một đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình: “Để xem xét mục vụ về bí tích hôn nhân, chúng ta phải thực sự quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hòa sinh sản đạt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bầy những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi, nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất, mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người”(Fiches dominicailes, năm B, tr 295).
5. Cầu nguyện cho gia đình hiệp nhất.
Người ta thường nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, dù con người có nỗ lực đến đâu cũng không đạt tới kết quả mong muốn nếu không có ơn Chúa trợ giúp vì Ngài đã nói: “Không có Thầy các con không làm được gì”, nhưng Ngài cũng nói: “Hãy xin thì sẽ được”, do đó, chúng ta phải nỗ lực cầu nguyện nhiều để gia đình được hiệp nhất, tránh được sự đổ vỡ đang rình rập.
Để có được những tâm tình đó, chúng ta hãy đọc lại đoạn kết bài giảng của Đức Cha B. Nguyễn sơn Lâm: “Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Đức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.
Truyện: Chiếc ghế quì.
Một phụ nữ Đức đến xin tòa ly dị, vì ông chồng quá say sưa, chửi mắng, đập phá. Vị chánh án là ông Windthorst, một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức. Vị chánh án hỏi:
– Lúc chồng bà say sưa, chửi mắng, đập phá, bà đối xử thế nào?
Bà trả lời:
– Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi phải gây sấm sét giông tố đối lại.
Vị chánh án ôn tồn bảo:
– Tôi thấy hình như trong nhà bà thiếu một việc cần thiết để gây hòa bình, đó là chiếc ghế quì. Bà hãy về sắm chiếc ghế quì. Rồi mỗi lần ông chồng trở về say sưa, chửi bới, đập phá, bà hãy mau mắn quì vào ghế đó và thay vì nói với chồng, bà hãy nói với Chúa.
Bà này về làm đúng theo lời chỉ bảo. Ít lâu sau bà trở lại, sung sướng báo tin cho cho vị chánh án hay: “Môn thuốc ghế quì thật là linh nghiệm”.

10. Bất khả phân ly
Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái, Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép, thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam, nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam…
Để diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.
Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.
Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân thành.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục, qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra trong từng giây từng phút.
Bởi đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính cách pháp lý mà thôi.

11. Cả hai sẽ thành một
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm – ViKiNi)
Người Pharisiêu đã thử thách Đức Giêsu một cách thâm độc ghê gớm. Họ hỏi Đức Giêsu: Chồng có được phép ly dị vợ mình không? Họ hỏi câu này ngay trong đất của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ anh mình là Philip I. Gioan tiền hô đã cảnh cáo vua và đã bị chặt đầu. Nếu Đức Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và nghịch lại với Môisen. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ly dị, thì lại trái ngược với Gioan và dân chúng phản đối vì dân chúng rất tôn kính Gioan.
Phần Chúa Giêsu, Người luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa, nên Người đã trưng Kinh Thánh để trả lời: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành nên một xương một thịt … Sự gì Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”. Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, thương yêu nhau, chí thân chí thiết đến nỗi nên cùng một xương thịt hợp nhất với nhau nên một, không còn là hai mà là một: Mình với ta tuy hai mà một. Người Đông phương diễn tả sự hợp nhất đó bằng một hình tròn, trong đó có âm có dương. Âm là nữ, dương là nam, hình tròn chỉ sự toàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Âm dương hòa hợp với nhau hoàn hảo như thế gọi là thái hòa. Hòa tới tột độ gọi là thái cực. Nhờ sự hòa hợp đó sinh ra bốn mùa xuân, hạ, thu, đông gọi là tứ tượng. Bốn mùa xoay vần, đắp đổi nhau làm cho muôn loài, muôn vật được phát triển, sinh sôi, nảy nở, lớn lên, xanh tốt, trưởng thành, kết trái, rồi lại trở về cội nguồn hoàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ.
Hình tròn thái hòa âm dương không có góc cạnh gẫy góc, không có khiếm khuyết, phân chia, thật hoàn toàn tốt đẹp diễn tả được ý nghĩa hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập như Ngài đã nói: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta, như họa hình Ta” (St. 1, 26).
Hình ảnh Thiên Chúa là gì?
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa thành Một Thiên Chúa Duy Nhất không bao giờ phân ly, không lúc nào xa cách, hoàn toàn trọn hảo bền vững đời đời. Chỉ có tình yêu như thế mới thực sự trọn vẹn chân thiện mỹ. Chỉ có tình yêu đó mới thể hiện được sự hiến dâng thí mạng sống cho người mình yêu: “Chúa Cha đã dạy Tôi thế nào, thì Tôi nói như vậy. Tôi hằng làm những điều đẹp ý Người” (Ga. 8, 28-29). “Cha ơi! Nếu được, xin cất chén đắng này khỏi Con. Nhưng đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt. 26, 39). Tình yêu thí mạng sống đó đã tạo nên sức mạnh hoạt động không ngừng cho nhau, phục vụ lẫn nhau: “Cha Ta hằng làm việc luôn”. Như Kinh Dịch nói: “Thiên hành kiện” – Trời làm việc kiên cường, không hề ngừng nghỉ để làm gì? Để sáng tạo và cứu độ. Do tình yêu chí thiện, chí mỹ đó, Thiên Chúa sáng tạo muôn loài, muôn vật và đã dựng nên người có nam có nữ và làm hai nam nữ thành một, giống hình ảnh Thiên Chúa: Ba Ngôi thành một. Có hai mới thương yêu nhau được, không bị cô đơn, cô độc, đóng kín câm lặng. Có yêu nhau nên một mới tạo sức mạnh sinh sôi, nảy nở, phát triển, thăng tiến: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, “thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Thiên Chúa đã làm cho con người có nam có nữ chụm lại nên hòn núi cao, có sức bao quát thống trị muôn loài. Vì thế, Thiên Chúa đã trao ban cho đôi tân hôn đầu tiên một quà tặng vô cùng phong phú là vũ trụ bao la, chứa đầy muôn loài muôn vật: từ những vật vĩ đại như mặt trời, mặt trăng, tinh tú đến chim trời, cá biển, rừng núi, sông ngòi, những côn trùng, sinh vật đầy dẫy những tài nguyên trên mặt đất và dưới lòng đất. Thiên Chúa đã nói với đôi tân hôn Adong Evà rằng: Hãy thống trị, cai quản, phát triển và hưởng dùng quà tặng đó (Bài Đọc I).
Giống như nhà tỷ phú, sau khi lập gia đình cho con, ông đã chia gia tài cho con để con kinh doanh phát triển và hưởng dùng tùy ý. Nhưng đáng buồn thay cho đôi tân hôn đầu tiên đó, đã không biết hợp nhất để kinh doanh, phát triển mà lại đi ăn chơi đàng điếm với bọn rắn quỷ miệng ngậm những nọc độc ghê gớm gây ra đau khổ truyền kiếp cho loài người.
Dầu vậy, Thiên Chúa đã không bỏ rơi họ, Thiên Chúa tiếp tục cứu vớt lấy hình ảnh của Ngài. Ngài vẫn yêu thương họ và còn tặng ban cho họ một món quà quý giá vô cùng hơn món quà sáng tạo, đó chính là Con Một rất yêu dấu của Chúa Cha: “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu quý của Ngài cho chúng ta, để cho chúng ta được sống và được sống dồi dào”. Con Một đó là Đức Giêsu đã trải qua gian khổ, cam chịu khổ hình, phải nếm sự chết, trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ, và cho mọi người được ơn cứu độ. (Bài Đọc 2)
Đó là công trình cứu độ.
Như vậy ba bài đọc trong Thánh lễ này nói về ba công trình vĩ đại của Thiên Chúa: Bài 1 nói về công trình sáng tạo, bài 2 nói đến công trình cứu độ, bài Tin mừng nói về công trình thiết lập gia đình và trao cho gia đình tiếp tục công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Sau cùng, đạt tới kết quả là: Các trẻ em được hưởng ơn phúc của ba công trình đó. Cho nên, Đức Giêsu đã ôm các em và nói: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì chẳng được vào”. Các em đã đón nhận mọi ơn huệ một cách ngoan ngoãn và biết ơn người cho như thế nào, thì hôn nhân trở nên cha mẹ các em cũng phải biết đón nhận công ơn sáng tạo, công ơn cứu độ và công ơn thiết lập gia đình một cách sẵn sàng vâng phục và biết ơn Thiên Chúa như vậy, mới được vào nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập gia đình để thực hiện chương trình tình yêu sáng tạo và cứu độ của Chúa, xin cho các gia đình biết sống yêu thương hợp nhất, chung thủy với nhau, cùng nhau chăm lo xây dựng và cứu độ con cái để cả gia đình được tiến vào nước tình thương vinh phúc đời đời của Chúa. Amen.

12. Điều Thiên Chúa kết hợp
Điều Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly.
Trong một năm chúng ta cử hành rất nhiều lễ cưới, nhưng phụng vụ Chúa nhật thì hầu như lại không đề cập tới hôn nhân. Một vài trường hợp ít ỏi như ngày hôm nay chẳng hạn, vấn đề hôn nhân được đặt ra, không phải một cách trực tiếp, nhưng là một cách gián tiếp. Tuy nhiên, qua phần Lời Chúa, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận về cuộc sống gia đình.
Trước hết, với bài đọc I trích từ sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy: Con người, trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, không phải chỉ là nam hay nữ, mà là nam và nữ. Người nữ được dựng nên từ xương thịt của người nam. Cả hai cùng có một bản chất, cùng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Có lẽ, không một tài liệu cổ xưa nào có được một quan niệm vừa rõ ràng vừa thơ mộng về sự bình đẳng giữa người nam và người nữ cho bằng câu chuyện của sách Sáng Thế Ký. Đồng thời, sự kết hợp giữa người nam và người nữ, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc sống lứa đôi, cuộc sống hôn nhân, cuộc sống gia đình không phải là một sự chúc dữ, không phải một chuyện chẳng đặng đừng, mà là một sự thật xuất phát từ Thiên Chúa. Cuộc sống ấy là khởi điểm cho sự hiện diện của con người trên mặt đất này: Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể. Đây là một sự kết hợp có tính cách thánh thiện và thiêng liêng, bởi vì từ sự kết hợp này mà nảy sinh những con người mới, có tự do, có hiểu biết, có yêu thương và cũng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy hôn nhân chính là hành động cộng tác và tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn gạt bỏ những dễ dãi do sự cứng lòng của con người để trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một là do Thiên Chúa thiết lập.
Tiếp nối vào đó, thánh Phaolô còn xác quyết: Sự gắn bó ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Một sự kết hợp làm nên cuộc sống mới. Bởi đó, sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống hôn nhân. Không phải ngẫu nhiên mà phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu, dấu chỉ về sự hiện diện của Nước Trời giữa trần gian, lại đã được Ngài thực hiện trong một đám cưới.
Ngày nay, gia đình tại nhiều nơi đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chồng bỏ vợ và vợ bỏ chồng, con cái thì bơ vơ vất vưởng. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa củng cố nền tảng của gia đình bằng cách làm cho vợ chồng biết trung thành và gắn bó với nhau trong suốt cuộc sống yêu thương của mình.

13. Hôn nhân bất khả phân ly
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân.
Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị thử thách nặng nề: nhiều cặp vợ chồng ly dị nhau, nhiều cặp khác thì ly thân, nhiều cặp khác nữa thì vẫn còn sống chung nhưng ngoại tình.
Trong thánh lễ này, anh chị em hãy cầu nguyện cho gia đình mình, và cũng hãy cầu nguyện cho những gia đình đang bất hòa với nhau.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ cho những người làm vợ làm chồng đã vì yếu đuối mà có lần không trung tín với nhau.
Xin Chúa tha thứ cho những vợ chồng không hòa thuận yêu thương nhau.
Xin Chúa thứ tha cho những cha mẹ không làm gương tốt cho con cái.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 2,18-24)
Bài tường thuật về việc Thiên Chúa tạo dựng người nữ. Qua những hình ảnh mà tác giả tạm dùng, chúng ta khám phá được những ngụ ý sau: (1) Người nữ là trợ tá tương xứng của người nam (trong khi mọi dã thú và chim trời đều không thể làm bạn tương xứng với người nam được); (2) Người nữ vừa thân thiết vừa bình đẳng với người nam (hình ảnh chiếc xương sườn ở ngang hông người nam); (3) Vợ chồng phải gắn bó với nhau thành một xương một thịt.
2. Ðáp ca (Tv 127)
Bài thơ ca tụng người vợ đức hạnh: nàng như cây nho đầy hoa trái, nàng là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Mc 10,2-16)
Ðoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài học:
a/ Về cuộc sống hôn nhân: Những người biệt phái phỏng vấn Ðức Giêsu về vấn đề ly dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép ly dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.
Còn lập trường của Ðức Giêsu là tuyệt đối không được ly dị: “Ðiều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly”.
Nhân dịp này, Ðức Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau (“luyến ái”) và đồng tâm nhất trí (“nên một huyết nhục”) với nhau.
b/ Về thái độ đón tiếp:
Người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng (“đặt tay trên chúng”).
Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người Do Thái coi khinh trẻ nhỏ (coi chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
Phản ứng của Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
4. Bài đọc II (Dt 2,9-11) (Chủ đề phụ)
Ðức Giêsu là đại biểu của loài người. Qua cuộc chịu nạn và chịu chết, Người bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn. Nhưng qua việc phục sinh, Ngài lại được nâng lên trở thánh vị lãnh đạo thập toàn. Các kitô hữu kết hợp với Ðức Giêsu trong đau khổ thì cũng được chia xẻ vinh quang với Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình: Vấn đề Ly hôn và con cái
“Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết… Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại… chính tôi nữa!”
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!
Lý do người ta dựa vào, là “Ðã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau”. Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây:
Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?
Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Ðó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?
Ðó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn… Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:
Những người biệt phái dẫn chứng với Ðức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Ðức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Ðức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.
Ðức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại “Ðiều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”. Nghĩa là Ðức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Ðức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.
* 2. Chung thủy trong tình yêu (Mc 10,2-16)
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
– Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
– Chàng đi làm quan năm năm mới về. Ðáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Ðó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: “Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục “là giao ước tình yêu”. Hiệu quả của giao ước này là “hai người trở nên một”. Ðiều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: “Mình với ta tuy hai mà một”. Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Ðavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Ðó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh “Ðức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng” (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu “cơm không lành canh không ngọt”, muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp “đường ai nấy đi” thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Ðức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: “Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.
****
Lạy Chúa, “Chúa là tình yêu”, xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
3. Trở lại thành trẻ thơ
Ðức Giêsu nói: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào”.
Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ:
1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.
Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin…
2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.
3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau:
– Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.
4. Chuyện minh họa
a/ Ðổi lời tuyên hôn
Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị:
– Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ: Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau “cho đến chết”, Cha có thể đổi lại là “cho đến khi không còn yêu nhau nữa” được không ạ?
Linh mục hỏi lại:
– Tại sao thế?
– Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.
– Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.
– Nghĩa là sao ạ?
– Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã.
– Thế nào là hôn nhân nửa vời?
– Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa; thứ hai là nửa vời về chọn lựa: chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau; thứ ba là nửa vời về dấn thân: chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.
– Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn?
– Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.
– Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu?
– Ðúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.
b/ Nam và nữ
Truyện kể Ấn độ về tạo dựng: Khi tạo dựng người nam xong, Ðấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.
Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.
Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Ðấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.
Một tuần sau, người nam trở lại và nói: “Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy”.
– Ðược.
Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Ðấng sáng tạo và nói: “Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con”.
– Ðược.
Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói: “Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy!”
– Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy!
Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng: “Con sẽ làm gì? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy!”
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho những người Thiên Chúa đã liên kết thành vợ chồng trong hôn nhân, để họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy: “Ðiều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly”.
1. Nhiệm vụ của Hội thánh là giúp mọi người chuẩn bị và nuôi dưỡng đời sống hôn nhân theo ý Thiên Chúa / Xin cho các vị chủ chăn luôn tận tâm thi hành nhiệm vụ rất cần thiết và cao quí này.
2. Nhiệm vụ của xã hội là tạo điều kiện và môi trường tốt / để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân đúng phẩm giá con người / Xin cho các nhà cầm quyền biết ý thức trách nhiệm đó / để loại bỏ mọi ảnh hưởng nguy hại đến đời sống hôn nhân.
3. Nhiệm vụ của vợ chồng là chung thủy với nhau trọn đời / để tôn trọng và yêu thương nhau / Xin cho các đôi vợ chồng đang chia rẽ bất hòa / biết nhận lỗi và tha thứ cho nhau / để gia đình được sum họp.
4. Nhiệm vụ của vợ chồng công giáo là thi hành đúng lời cam kết với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh khi cử hành bí tích hôn phối / Xin cho các đôi vợ chồng trong họ đạo chúng ta / luôn nêu gương sống trung thành với lời cam kết đó.
Chủ tế: Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình chúng con, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô…
VI. Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh nghiệm gia đình, chúng ta đã hiểu tình cha yêu thương con cái là thế nào. Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta hơn bất cứ người cha trần gian nào. Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Hôm nay Lời Chúa đã dạy cho chúng ta hiểu tình nghĩa vợ chồng như thế nào. Cầu chúc cho những vợ chồng trở về gia đình sống hòa thuận yêu thương nhau.

14. Bài tình ca đầu tiên
(Suy niệm của Lm. Hồng Phúc)
“Đây là xương bởi xương tôi…”
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một quan niệm về tình yêu hôn nhân và gia đình trong đạo mới.
Trước hết, Sách Sáng thế mô tả cái nhìn đầu tiên, âu yếm và ngây ngất của ông Ađam trên Eva, người bạn đường từ trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa xuất hiện. Đó là bài tình ca đầu tiên: “Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishâh) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra”. (Stk 2,23). Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên, giống hình ảnh Người và do một tình thương đặc biệt. “Người đàn ông ở một mình không tốt, Ta phải ban cho nó một người bạn tri kỷ”. Vì thế, hai người sẽ phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt. Tình yêu vợ chồng phải là một tình yêu, duy nhất và chung thủy: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Nhưng tình yêu loài người có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm. Sách Sáng Thế mở màn bằng mối tình keo sơn giữa hai nguyên tổ. Nhưng, than ôi, lịch sử cũng đầy nhan nhãn những cuộc chia ly, đổ vỡ và phản bội. Không phải chỉ trong hàng ngũ người ngoại đạo mà cả trong tập đoàn dân Chúa. Theo linh mục Lawrence Wrenn, chánh án tòa án hôn phối giáo phận Hartfort, Connecticut, thập niên trước đây có 120,000 đôi ly hôn tại tòa án dân sự và có phân nữa tái hôn. Họ cảm thấy bối rối, buồn phiền nên lập ra nhiều nhóm đòi sự thông cảm của Giáo Hội.
Ngày xưa, người Do Thái nói với Chúa: Ông Môsê cho phép rẫy vợ thì ngày nay họ nói: Luật pháp cho phép! Như xưa Chúa trả lời vì sự cứng đầu của các ông, thì ngày nay Chúa vẫn khẳng định: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Lời Chúa đưa ta đến nhận định này: Luật pháp trần gian chỉ có hiệu lực khi không phản lại luật Thiên Chúa. Chứng chỉ ly dị, trước mặt Chúa chỉ là mảnh giấy vụn: “Ai bỏ vợ mình mà lấy vợ khác thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình”. Những nguyên tắc căn bản của luật Chúa sẽ giúp cho đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, bão bùng, giông tố, biết tự chủ, biết nhịn nhục, để giữ vững hạnh phúc. Đó cũng là một ơn của Bí tích hôn nhân.
Và Phúc Âm Marcô kết luận bằng một bối cảnh rất dễ thương. Một đám con trẻ đến quây quần chung quanh Chúa. Ngài ôm chúng vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng đó cũng là một sự mời gọi các đôi vợ chồng, các người làm cha mẹ? Khi trái tim đôi bên không còn cùng rung một nhịp, khi phải chước cám dỗ muốn từ bỏ, chia ly, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Bỏ nhau, đường ai nấy đi là một cách giải quyết cho mình, nhưng còn chúng, chúng đi đâu? Biết dâu chúng lại trở nên kẻ thù của cha mẹ, bỏ công sinh thành. Đây chứng từ của một em bé tên là Nina, trích trong cuốn “Dossier des enfants du divorce” (Con cái người ly dị) của Jeanne Delas: Ba thương mến, con viết về bàn giấy của ba vì con không biết bây giờ ba ở đâu, vì ba đã bỏ gia đình. Con mong rằng ba mạnh khoẻ và nhớ đến bé Nina mỗi tối khi ba đi ngủ. Con mong rằng bà ấy không dữ lắm. Con chắc là bà dữ, vì bà đã bắt ba bỏ nhà ra đi. Con hôn ba. Nina” (trg 74).
Chúa phán: “Hãy để con trẻ đến với Ta, dừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng”. Nước Trời là thiên đàng của nhi đồng. Một người thanh niên đã nói: “Nhìn thấy cha mẹ tôi thương yêu nhau, tôi hiểu hơn về Thiên Chúa”.
Phía sau đại thánh đường kính Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux, có hai phần mộ nằm song song. Đó là các phần mộ của thân phụ và thân mẫu của Thánh Nữ. Ông Louis Martin và bà Zelie Guérin. Trước hai phần mộ có pho tượng vị Thánh Nữ, với câu khắc ghi lời Bà đã nói: Tôi cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người làm cha mẹ đáng thiên đàng hơn là trần thế (Đọc: Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu của H.P. trg 246).
“Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trogn gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của nhóm ôliu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lột dành cho người biết kính sợ Chúa” (Tv 127, 1-2 – Đáp Ca)

15. Chung thủy trong tình yêu
(Suy niệm của Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
– Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
– Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: “Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục “là giao ước tình yêu”. Hiệu quả của giao ước này là “hai người trở nên một”. Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: “Mình với ta tuy hai mà một”. Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh “Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng” (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu “cơm không lành canh không ngọt”, muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp “đường ai nấy đi” thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: “Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.
****
Lạy Chúa, “Chúa là tình yêu”, xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen.

16. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Guy Marin)
Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể hủy bỏ mối liên hệ hôn nhân không. Chúng ta biết câu trả lời rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra, phản ứng đầu tiên của chúng ta là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa Giêsu phải lúng túng, các ông còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ phải trả lời cả! Như vậy các nhà chức trách trong Giáo Hội sẽ có một khoảng cách không gian để xoay sở và các Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.
Chúng ta có thể thực sự nghĩ như thế không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy không, nếu chúng ta tin vào Lời Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có quyền lựa chọn trong Tin Mừng những gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời này lời nọ không phải là lời của Tin Mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên Chúa đó sao?
Có được phép rẫy vợ không?
Vào thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường được chấp nhận nơi người Do Thái. Người chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao giờ cũng cho phép người chồng được tái giá. Người vợ không có quyền này. Những cuộc tranh cãi thường liên quan đến những lý do khiến người chồng sử dùng quyền rẫy vợ: tùy theo trường phái đó có thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy món ăn. Bởi vậy trong Phúc Âm thánh Matthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?”.
Thánh Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ nêu câu hỏi, đó là “để làm cho Ngài lúng túng”. Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về nhiều phương diện. Ngài phải tránh nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy Giả vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp pháp của ông (6,17). Đây không phải là một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và Ngài có thể bị chống đối bởi những thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyến bảo vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của các môn đệ cho thấy rõ điều này: “Nếu không thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới vợ còn hơn” (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.
Chúa Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của Môsê và sau đó Ngài giải thích câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ. Nhưng Ngài sẽ không để mình bị giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì được phép và không được phép. Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa và về con người từ bản văn của sách Sáng Thế. “Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo nên nhân loại, Ngài đã làm ra cho họ có nam có nữ…” Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một người phối ngẫu.
Thánh Kinh rút ra những hậu quả từ việc sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ. Quả thật, theo quan niệm Thánh Kinh, việc sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng không do bởi lề luật cũng không do bởi sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó không thể bị cắt đứt được.
Sứ điệp không tưởng.
Nếu cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không kể những cặp nam nữ chung sống với nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin Mừng này lại chẳng là không tưởng ư? Nó không tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim mới.
Một điều chắc chắn là các nhà chức trách của Giáo Hội cũng như dân Kitô không thể chối bỏ một giáo huấn như thế được. Đàng khác, không ai được kết án những anh chị em mà đã thất bại trong quan hệ hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc phải có tình thương huynh đệ đối với những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi Olympic, không phải tất cả các lực sĩ đều lãnh huy chương, nhưng mục đích của hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho được huy chương.

17. Chúa Nhật 27 Thường Niên
GIA ĐÌNH – HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA BA NGÔI
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.
I. Thật tuyệt vời tình yêu nam nữ
Sách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến bước về với Thiên Chúa.
Thật đẹp tình yêu giữa người nam và người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh phúc của họ.
Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và xa lìa Thiên Chúa: “chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn”. Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do. Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do chọn lựa của ông, vì Adam tự do!
II. Điều Thiên Chúa liên kết con người không được phân ly
Tình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.
Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác, trở nên “xấu như quỷ”. Quỷ chính là thiên thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên Chúa vì con người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính họ, và không hạnh phúc với người khác.
Không chung thủy, muốn chọn người khác, là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một người trưởng thành thật sự.
III. Tình yêu cần được vun tưới nuôi dưỡng
Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.
Con người, cần được yêu một cách thật cụ thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối với mình. “Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc” là một câu mà người bạn đời của mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?
Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Yêsu luôn lấy Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con cái, trong cách sống… Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Làm sao để chung thủy trong đời sống gia đình?
2. Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị mai một nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn?
3. Theo bạn, có nên ly dị không? Tại sao?

18. Chúa Nhật 27 Thường Niên
XƯƠNG BỞI XƯƠNG TÔI, THỊT BỞI THỊT TÔI
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người nam yêu thương và qúy người nữ như xương thịt mình
Bài trích sách Sáng Thế cho thấy người nam không thể tìm được hạnh phúc nơi một tạo vật nào khác trừ người nữ. Và người chồng sẵn sàng bỏ cha mẹ để lập gia đình mới với vợ mình. Với quan điểm này, khi người biệt phái hỏi Đức Yêsu “người ta có được rẫy vợ không” và họ trả lời Đức Yêsu rằng “Môsê đã truyền cho người chồng viết giấy ly hôn để rẫy vợ”, thì Đức Yêsu nói “Do lòng dạ chai đá của các ngươi mà Môsê cho các ngươi làm ly thư, còn từ ban đầu không có như vậy”. Thiên Chúa muốn một khi đã thành vợ chồng, thì hai vợ chồng phải sống với nhau trọn đời. “Điều gì Thiên Chúa kết hợp thì con người không được phân ly”.
Liệu người ta có thể sống với nhau trọn đời không? Chắc chắn là có thể, vì đã có rất nhiều cặp vợ chồng sống với nhau trọn đời. Nếu hai vợ chồng không thể sống với nhau trọn đời, thì Thiên Chúa đã không muốn điều này. Tuy vậy, sống với nhau trọn đời không phải là chuyện dễ dàng, vì nếu dễ dàng thì người ta chẳng cần phải cầu nguyện cho đôi tân hôn, và nếu ngoại tình là chuyện bất khả thì người ta đâu cần phải thề hứa “sống chung thủy với … khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng … suốt đời tôi”.
Để sống với nhau trọn đời, người ta phải yêu thương. Yêu thương như Chúa Yêsu yêu thương con người, yêu đến độ hiến mạng sống cho người mình yêu, yêu đến độ lấy thân mình để nuôi sống người mình yêu, yêu đến độ dám chết cho người yêu để người yêu được sống và được sống hạnh phúc. Dù tình yêu có bị phản bội, có bị bỏ rơi (như các tông đồ đã bỏ Chúa, như Phêrô đã chối Chúa) thì Ngài vẫn tha thứ, vẫn yêu.
“Yêu là cùng nhìn về một hướng”, cùng có chung lý tưởng; “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Tất cả những điều đó rất đẹp nhưng chưa đủ để gọi là yêu. Yêu là muốn những điều tốt lành cho người mình yêu dù mình có bị thua thiệt. Tình yêu không chỉ là “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, nhưng cũng còn có thập giá và những giọt nước mắt nữa. Và tất cả những điều này, chỉ ở trong Thiên Chúa con người mới có thể tin tưởng, tha thứ và chung thủy với nhau trọn đời.
Nam và nữ bình đẳng
Thiên Chúa tạo dựng người nữ từ xương sườn của người nam. Điều này không hàm ý người nữ kém giá trị hơn người nam, nhưng nam và nữ bình đẳng vì cùng xương cùng thịt như nhau, cùng bởi Thiên Chúa mà có.
Ngày nay người ta thường nghe nói thần học nữ quyền, phong trào thần học cho thấy mọi người dù nam dù nữ đều bình đẳng với nhau. Không được coi người nam hơn người nữ. Thực sự trước mặt Thiên Chúa, tất cả con người, dù nam dù nữ cũng đều được Thiên Chúa yêu thương và trân trọng như nhau. Thánh nam không hơn thánh nữ. Và trong hạnh các thánh, chính sự mong manh của người nữ lại cho thấy sức mạnh và uy quyền của Thiên Chúa hơn nơi những người mạnh khoẻ.
Người ta cần quan tâm để tất cả mọi người dù nam dù nữ đều bình đẳng với nhau, cả trong cách đối xử giữa vợ chồng cũng như trong công việc gia đình và bổn phận đối với con cái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, đâu là điểm khó khăn nhất trong đời sống vợ chồng?
2. Làm sao để người ta mãi mãi yêu nhau?
3. Theo kinh nghiệm riêng, xin bạn chỉ cách làm đẹp “thể lý” và “tinh thần”?
4. Tại sao đức tin lại giúp người ta chung thủy trong đời sống gia đình?

19. Gia Đình: Thách đố và giải pháp
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Hồi thế kỷ XVI, Henri VIII vua nước Anh muốn ly dị với bà Catherine d’Aragon, để cưới lấy Anne de Boleyn. Nhà vua xin Đức Giáo Hoàng Clément VII tháo gỡ dây hôn phối với người vợ chính thức, để nhà vua lấy người vợ thứ hai. Nhưng Đức Giáo Hoàng đã nói một câu bất hủ rằng: “Nếu Ta có hai linh hồn, ta sẽ hy sinh cho nhà vua một linh hồn. Nhưng ta chỉ có một linh hồn mà thôi. Vì vậy, ta không thể cho như lời vua xin”. Vua Henri VIII tức giận, nên đã tách lìa Giáo Hội nước Anh ra khỏi Giáo Hội Công Giáo, và thành lập Anh Giáo ngày nay.
Sự tách lìa đó gây thiệt hại vô kể cho Giáo Hội. Nhưng Giáo Hội thà chấp nhận, chứ không thể phá hủy dây hôn phối đã thành sự.
Vâng, đặc tính hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh hôn: một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết. Đó là luật Chúa. Dù là Đức Giáo Hoàng cũng không có quyền thay đổi. Vì “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ” (Mc 10,9).
Nhưng, giá trị cao đẹp của Bí Tích Hôn Nhân đang phải đối mặt với bao thách đố của thời đại. Xin được nêu lên một số thách đố tiêu biểu sau đây:
1. Chế độ đa thê: Mới đây tổng thống Uhuru Kenyatta ký luật hợp thức hoá chế độ đa thê. Theo đó, luật mới cho phép một người đàn ông có quyền kết hôn với một số không giới hạn phụ nữ mà không cần sự đồng ý của người vợ thứ nhất. Hiện nay, chế độ đa thê được hợp thức hoá ở hơn 40 quốc gia trên thế giới, hầu hết là các quốc gia Hồi Giáo.
2. Hôn nhân đồng tính: Hiện nay có khoảng trên 10 quốc gia chấp nhận hôn nhân đồng tính. Điều này đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa mà chúng ta nghe đọc trong bài đọc thứ I hôm nay: Gia đình đầu tiên Thiên Chúa tạo dựng là một người đàn ông và một người đàn bà, chứ không phải nam với nam hay nữ với nữ (St 2,18-24). Trong bài huấn dụ trước 40. 000 tín hữu và khách hành hương hôm qua, ĐTC tái định nghĩa gia đình như sau: “Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ”.
3. Nạn sống thử, “Góp gạo thổi cơm chung”. Với chủ trương, hợp thì tiến tới hôn nhân, không hợp thì chia tay. Hậu quả là nhiều người con sinh ra ngoài hôn thú, không có bố, thậm chí là không có mẹ chăm sóc. Tình trạng này chiếm tỷ lệ không nhỏ trong giới trẻ hiện nay.
4. Nạn phá thai: Theo các số liệu thống kê cho biết bình quân mỗi năm cả nước Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, cao nhất các nước Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Có nhiều nguyên nhân đưa đến nạn phá thai, trong đó nguyên nhân đầu tiên là do sống buông thả, sống thử, nên có thai ngoài ý muốn. Nguyên nhân thứ hai là bị ảnh hưởng bởi các chương trình KHHGĐ và giáo dục sai lầm.
5. Nạn bạo hành trong gia đình: Theo một nghiên cứu về bạo lực ở các gia đình Việt Nam cho biết: 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Trong đó: 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập; 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ dân ở thành thị có xảy ra bạo lực; 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là người vợ. Bạo lực cũng có thể do con cái cháu chắt gây nên.
6. Ly dị ngày càng tăng: Cuộc điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn. Năm 2005 có tới 65.929 vụ. Có 4 nguyên nhân thường xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%).
Trên đây là một số trong muôn vàn thách đố tiềm ẩn nhưng hiểm hoạ không chỉ phá vỡ nền tảng gia đình mà còn đẩy nhân loại đến bờ vực của sự sa đoạ và huỷ diệt. Trước những thách đố như trên, chúng ta phải làm gì để giữ trọn luật Chúa và gìn giữ hạnh phúc gia đình? Dựa vào thư mục vụ năm tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình của HĐGM Việt Nam, xin đưa ra một số việc thực hành sau đây:
Thứ nhất, gia đình là cộng đoàn cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích:
Hãy siêng năng cầu nguyện. Hãy sắp xếp thời giờ thích hợp để mỗi thánh viên trong gia đình có thể cầu nguyện chung với nhau tối sáng. Có những lúc vì công ăn việc làm không thể qui tụ chung với nhau trong giờ kinh tối sáng, những lúc đó cần có sự hiệp thông trong cầu nguyện, nghĩa là hãy cầu nguyện cho nhau. Vợ chồng cầu nguyện cho nhau. Con cái cầu nguyện cho cha mẹ, cha mẹ cầu nguyện cho con cái. Đó là cách thế để gìn giữ hạnh phúc gia đình và cũng là cách thế để cứu vãn gia đình. Gương cầu nguyện của Thánh Nữ Mônica luôn nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng và hiệu năng của việc cầu nguyện. Ngài chung sống với một người chồng hoàng đàng, trác táng và thiếu chung thuỷ. Auggustinô lại là một đứa con sống vô luân, ngã theo lạc giáo… Nhưng Thánh Nữ không sờn lòng nản chí mà luôn kiên trì hy sinh trong cầu nguyện. Cuối cùng, chồng và Augustinô được ơn trở lại, đặc biệt là Augustinô trở thành linh mục, giám mục, một vị đại thánh.
Hãy lãnh nhận các bí tích: Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh những Bí tích, là những dấu chỉ hữu hình diễn tả và đem lại ơn thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa.
Bảy Bí tích liên quan đến các giai đoạn và các thời điểm quan trọng của đời sống người Kitô hữu: Bí tích sinh ra (Rửa Tội), lớn lên (Thêm Sức, Thánh Thể), chữa lành (Hoà Giải, Xức Dầu) và lãnh nhận sứ mạng xây dựng cộng đoàn (Truyền Chức, Hôn Phối). Nhờ lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí Tích Giải Tội và giao hoà đời sống Kitô hữu, đời sống các gia đình được nuôi dưỡng và mỗi ngày một tăng trưởng hơn.
Thứ hai, gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình Công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, “Hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
Trong bài huấn dụ ngày 28/10/2013, ĐTC Phanxicô đã đưa ra ba từ khóa cho đời sống gia đình: “Xin phép. Cám ơn. Xin lỗi”. “Chúng ta xin phép để không trở thành kẻ xâm lấn trong gia đình”. Anh làm điều này được chứ? Anh có đồng ý em làm việc này không? Chúng ta cám ơn vì tình yêu thương…mỗi ngày anh nói cám ơn vợ mấy lần? mỗi ngày chị nói cám ơn chồng mấy lần? Và từ cuối cùng: Xin lỗi. Tất cả chúng ta đều có sai lầm và đôi khi có ai đó trong gia đình và trong hôn nhân bị phiền lòng… nhưng các bạn hãy nghe lời khuyên này: đừng để một ngày kết thúc mà chưa làm hòa với nhau”.
Ngoài hai việc làm chủ chốt để gìn giữ gia đình trên đây, Hội Đồng Giám Mục còn mời gọi các gia đình cần có trách nhiệm phục vụ sự sống, tham gia vào sứ vụ Phúc-âm-hóa, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng hành động cụ thể. Việc chuẩn bị cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình cũng là đòi hỏi khẩn thiết hơn bao giờ hết… Cái Ngài cũng tái khẳng định chân lý mà Chúa Giêsu đề cập trong bài tin mừng hôm nay: “Định chế gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Định chế này dựa trên bản tính con người, do chính Thiên Chúa thiết lập, hướng đến thiện ích của chính gia đình và xã hội; vì thế, mọi cá nhân và tập thể xã hội cần nhìn nhận và tôn trọng định chế này”.
Nguyện xin Thánh Gia Thất là gia đình mẫu mực gìn giữ và hướng dẫn tất cả các gia đình chúng ta trước các trào lưu xấu để tất cả giữ trọn luật Chúa và sống hạnh phúc với nhau. Amen.

20. Loài người không được phân ly
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Vợ chồng chung thủy
Một quan nước Lỗ tên Hồ Tử mới cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. Năm năm sau ông được phép về thăm mẹ và vợ. Khi về gần đến nhà, ông thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Ông giở trò ong bướm, “Này em, hái dâu cực nhọc sao bằng có người chồng làm quan. Anh là quan có nhiều vàng bạc. Nếu chịu lấy anh, em không phải hái dâu vất vả nữa.”
Người thiếu nữ vẫn thinh lặng, nhìn ông cách khinh bỉ. Về đến nhà, ông chào mẹ, nhưng khi vừa thấy vợ, ông choáng váng, vì đó chính là người thiếu nữ hái dâu lúc nãy.
2. Chấp nhận và kính trọng nhau
Khi còn chập chững trên đường chính trị, Haronicosen biết mình có nhiều khả năng, nhưng ông thấy cần có thêm kinh nghiệm của các bậc lão thành. Ông đến gặp nhà chính trị nổi tiếng Stalipovin. Ông này sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm, “Tôi cầu chúc ông gặp nhiều may mắn trên đường chính trị. Nhưng theo kinh nghiệm, tôi thấy cần có ba điểm sau đây. Trước tiên, nếu ông đặc trách về truyền thông, ông nên rút lui ngay. Kế đó hãy tự đặt cho mình một luật mà không bao giờ lợi dụng lỗi lầm của kẻ thù để mỉa mai mạt sát họ. Sau cùng ông hãy sẵn sàng nhận lời chỉ trích của người khác.”
3. Cảm thông và tha thứ
Thiền sư nổi tiếng Nhật Bản là ông Shecchery. Ông đang ngồi thiền thì có tên cướp xông vào. Hắn dí gươm vào cổ ông và bảo, “Hãy trao hết tiền bạc cho ta.” Vị thiền sư điềm nhiên chỉ cái hộp và nói, “Tiền để trong hộp đó, ngươi lấy hết đi và để cho tôi yên.” Tên cướp mừng quýnh. Nhưng rồi thiền sư lại bảo, “Nhưng đừng lấy hết. Hãy chừa lại cho ta một ít, vì ngày mai ta phải đóng thuế.”
Nhưng tên cướp cứ giả điếc, lấy hết tiền trong hộp, không chừa lại đồng nào. Ít ngày sau, tên cướp bị sa lưới pháp luật. Hắn khai đích danh thiền sư là kẻ bị hắn uy hiếp. Thế là thiền sư được mời ra tòa để chứng minh. Ông đã tuyên bố, “Đối với tôi, người này không phải là tên cướp, vì chính tôi đã cho anh ta tiền.” Nhưng vì có nhiều tiền án nên tên cướp vẫn bị tống ngục. Sau khi mãn hạn tù, anh đã tìm đến thiền sư và xin làm đệ tử ông.
4. Chồng cứu vớt vợ
Ở một đảo nhỏ bên Ý, nếu bắt quả tang người đàn bà nào phạm tội ngoại tình, thì sẽ cột tảng đá to vào cổ nó, xô xuống biển cho chết. Ngày nọ có người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội đó, và bị xử theo quy định. Thế nhưng đến ngày xử, chồng người đàn bà này vẫn còng đi đánh cá chưa về, nên phải đình cuộc xử, chờ người chồng về. Chờ mãi người chồng cũng không về, dân làng đem người đàn bà đó đến vùng biển sâu, cột tảng đá lớn vào cổ, xô xuống…
Hôm sau, người ta hết sức ngạc nhiên thấy người đàn bà đó xuất hiện trong làng. Thì ra người chồng đã hay biết tất cả, và vì muốn cứu vớt vợ mình, nên không về mà ở lại ngoài khơi. Hôm xô vợ anh xuống biển, anh núp sau gành đá dưới đó, đón lấy người vợ, tháo tảng đá ra và đưa về nhà.
5- Ly dị nơi bộ lạc Babira.
Bộ lạc Babira bên Phi châu là nơi người chồng ly dị dễ dàng nhất với vợ.
Người chồng chỉ việc đợi lúc ban đêm, đặt trước túp lều của vợ mình một bình dầu nhỏ và một chiếc gậy (gậy chống để đi cho đỡ mỏi) là sáng dậy người vợ hiểu ngay rằng người chồng đã ly dị với mình.
Chiếc gậy để lại cho vợ có nghĩa là: bà hãy đi tìm người khác mà nương tựa. Còn lọ dầu nhỏ là theo một phong tục cổ truyền.
6- Chiếc ghế quì.
Một phụ nữ Đức đến xin tòa ly dị, vì ông chồng quá say sưa, chửi mắng, đập phá. Vị chánh án là ông Windthorst, một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức. Vị chánh án hỏi:
– Lúc chồng bà say sưa, chửi mắng, đập phá, bà đối xử thế nào?
Bà trả lời:
– Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi phải gây sấm sét giông tố đối lại.
Vị chánh án ôn tồn bảo:
– Tôi thấy hình như trong nhà bà thiếu một việc cần thiết để gây hòa bình, đó là chiếc ghế quì. Bà hãy về sắm chiếc ghế quì. Rồi mỗi lần ông chồng trở về say sưa, chửi bới, đập phá, bà hãy mau mắn quì vào ghế đó và thay vì nói với chồng, bà hãy nói với Chúa.
Bà này về làm đúng theo lời chỉ bảo. Ít lâu sau bà trở lại, sung sướng báo tin cho cho vị chánh án hay: ”Môn thuốc ghế quì thật là linh nghiệm”.

21. Mors sola – Chỉ có sự chết
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Đại hội quốc tế về gia đình năm nay được tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một trong những vấn đề mà Giáo hội rất quan tâm hiện nay là tình trạng gia đình đổ vỡ và những hệ lụy của nó. Lập trường bất di bất dịch mà Giáo hội luôn khẳng định là tôn trọng giá trị gia đình với tính cách bất khả phân ly của Bí tích Hôn nhân mà chính Chúa Giêsu đã thiết định. Tính bền vững của định chế hôn nhân trong đời sống Kitô giáo được lặp lại trong giáo huấn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã tác hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Hôn nhân, Một bí tích Thánh thiêng
Hôn nhân Công giáo là một bí tích linh thánh chứ không phải đơn thuần chỉ là một khế ước mang tính xã hội. Xã hội ngày nay, người ta vẫn cho ly dị là hợp hiến. Giáo hội nói không. Giáo hội không bao giờ cho phép, và thực sự Giáo hội cũng không có quyền cho phép. Quyền đó dành cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Hiểu như vậy, ly dị trong Kitô giáo chính là tiếm quyền của Thiên Chúa, hay nói thẳng ra là ăn cắp độc quyền duy nhất dành choNgài. Cho dù Giáo hộikhông loại bỏ những nạn nhân của sự đổ vỡ trong đời sống gia đình và cố gắng đưa ra những giải pháp để chữa trị tận căn (sanatio), nhưng Giáo hội tuyệt đối không bao giờ cổ xúy việc ly dị. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn quan trọng này.
Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Sáng thế gợi lại định chế “một vợ một chồng” giữa người nam và người nữ do chính Đức Chúa Giavê thiết định ngay từ thuở ban đầu: “ Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cũng lặp lại xác quyết đó: “ Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt (Mc 10,7-9)”. Khi nhắc lại giáo huấn này, Đức Giêsu cũng gợi nhắc về tội ngoại tình mà chúng ta thường dễ mắc phải qua nhiều dạng thức khác nhau. Khi đọc diễn văn trước quốc hội Mỹ ngày 25 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã mạnh mẽ tái khẳng định học thuyết xã hội mà Giáo hội chủ xướng, là nói không với hôn nhân đồng tính. Ngồi ngay trước mặt vị chủ chăn đáng kính là ông chủ tịch Thượng viện, người đã ký vào văn bản cho phép hôn nhân đồng tính trở thành luật hợp pháp. Đức Thánh Cha không run sợ trước bất cứ một áp lực chính trị nào để công bố cho cả thế giới biết những gì thuộc quyền thánh thiêng của Thiên Chúa.
Chủ nghĩa thực dụng hiện nay
Ở bên Mỹ, lớp trẻ rất tâm đắc câu châm ngôn:‘Easy come, easy go’. Thích thì đến với nhau, ở với nhau, không thích nữa thì đường ai nấy đi, đơn giản thế thôi. Đây là một não trạng thực dụng mang tínhvô thần, đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Ở Hoa kỳ, người ta ước tính khoảng 50% các cặp vợ chồng sau khi đã thành hôn, sẽ bỏ nhau. Nhanh hay chậm còn tùy mỗi hoàn cảnh. Cũng may mắn, con số các vợ chồng công giáo ly dị ít hơn. Ở Việt Nam, theo khảo cứu của tiến sỹ Nguyễn minh Hòa thuộc Đại học Khoa học xã hội nhân văn, tỷ lệ ly hôn từ 31 đến 40%, và hơn một nửa thuộc các gia đình trẻ ở độ tuổi từ 23 đến 30. Sự chia tay có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung cũng do lối sống ích kỷ và thích hưởng thụ (consumerism), là lối sống mà trước đây Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã mạnh mẽ cảnh báo.
Sống trung thành
Người ta vẫn thường nói: “Một người vợ trung thành là một cô gái suốt đời chỉ đay nghiến duy nhất một ông chồng mà thôi”. Đời sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên và phẳng lặng. Có những lúc cơm không lành canh chẳng ngọt, và điều đó rất thường xảy ra. Nhưng làm cách nào để chúng ta có thể vượt qua những sóng gió và sống chung thủy. Hơn 10 năm về trước, khi quốc hội Hoa Kỳ cho công bố công khai những cuộn băng tự thú của ông Bill Clinton về những lăng nhăng tai tiếng của ông với cô đào Monica Lewinski, gia đình ông cựu tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu dậy sóng. Một con người tài ba đã thành công trong việc điều hành một cường quốc đứng đầu thế giới lại thất bại trong việc điều khiển chính bản thân và gia đình mình. Nạn nhân đầu tiên của sự phản bội này chính là bà Hilary, phu nhân của ông. Cho dù bà ta có bản lĩnh ngoan cường, rất bình tĩnh chống đỡ, nhưng bà đã tỏ lộ sự cay đắng phũ phàng khi phải hứng chịu những búa rìu của công luận. Người ta thường nói khôn ba năm nhưng lại dại một giờ, và sự dại dột đó có khi phải trả giá khá đắt.
Nhìn lại một cách thoáng chung nơi các gia đình Công giáo ở Việt Nam chúng ta, tình trạng ly dị tương đối không nhiều, nhưng không phải là hiếm. Có lẽ, do truyền thống văn hóa, hoặc do lối sống tình làng nghĩa xóm khá chặt chẽ, nên các vợ chồng khó bỏ nhau. Sống giữa một giáo xứ đa phần toàn tòng, nếu một cô gái nào lăng nhăng bỏ chồng đi sống với người khác, chỉ còn cách độn thổ hoặc đi biệt xứ, còn nếu trở về làng, chắc chắc sẽ bị thiên hạ ném đá khủng khiếp. Nhưng điều quan trọng nhất trong đời sống gia đình, là vợ chồng luôn luôn phải canh tân sự trung thành của mình mỗi ngày với cảm thức đức tin và tín thác vào ơn thánh. Người ta vẫn ví von khi so sánh nụ hôn đầu tiên của hai vợ chồng lúc mới cưới nhau, giống hệt cái bắt tay rất lịch lãm và thân thiện của hai võ sĩ trước khi thượng đài. Một nhà xã hội học nọ cũng đã diễn tả: Sự ngọt ngào của hai vợ chồng trong những ngày tháng trăng mật đầu tiên được sánh như những cơn gió hiu hiu giữa bầu trời vần vũ mây đen. Sau làn gió thoảng và những giọt mưa dịu mát, là chớp lòe và sét nổ. Tình trạng này không phải là hiếm, khi chúng ta nhìn vào thực trạng các gia đình của chính chúng ta. Có rất nhiều nguyên do gây nên đổ vỡ. Những lý do ban đầu xem ra chẳng đâu vào đâu, nhưng nếu vết thương không được cứu chữa kịp thời, nó sẽ dần khoét sâu vào cơ thể và biến dạng thành một khối u ác tính vô phương chữa trị.
Để có thể khắc phục, phương thuốc quan trọng nhất chính là sự khiêm tốn và hiền dịu đi đôi với lòng quảng đại biết tha thứ. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy học với tôi vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là quy chuẩn căn bản để bảo toàn hạnh phúc trong các gia đình. Nếu không biết ứng xử trong sự hiền lành và nhẫn nhục, chúng ta sẽ dần biến gia đình thành một bầu khí hỏa ngục đáng sợ. Khi mới cưới nhau, anh nói em nghe và ngược lại em nói anh nghe. Cưới nhau về một thời gian, nhiều xung khắc xảy ra dẫn đến tình trạng anh nói anh nghe, và em nói chỉ mình em nghe. Cao điểm cuối cùng là chiến tranh bùng nổ: Anh và em chúng ta cùng nói, cả làng cả xóm đều nghe. Có bao giờ trong gia đình của chúng ta, vợ chồng cùng ngồi lại bên nhau để giải gỡ những khó khăn hay không? Đối thoại là điều rất cần thiết để hóa giải những nghi kỵ và hiểu lầm, nhưng đừng bao giờ biến cuộc đối thoại thành một cuộc họp ‘chi bộ đảng’ chỉ để đay nghiến hay kết án lẫn nhau.
Mors Sola
Có một giai thoại thuật lại. Cô Catherine kết hôn với anh Jean Wasa, một sĩ quan Phần Lan. Người chồng bị kết án tù vì bị gán vào tội phản loạn. Nhà vua khuyên cô Catherine đi lấy chồng khác, vì số phận tù nhân hầu như không có ngày được ra. Catherine đã từ chối và còn xin nhà vua một đặc ân, là cho được vào tù ở chung với chồng mình. 17 năm sau, vua Eric băng hà, cả 2 vợ chồng được tha bổng. Người ta hỏi cô động cơ nào cô xin vào tù cùng sống với chồng, cô chỉ chiếc nhẫn cưới đeo trên tay, trên đó có khắc hàng chữ ‘Mors Sola’, nghĩa là, chỉ có sự chết mới có thể phân lìa chúng tôi. Chúng ta đều quá biết điều đó, đặc biệt được nghe nhắc đi nhắc lại trong các thánh lễ hôn phối, nhưng nhiều người vẫn lạnh lùng xé rào và gián tiếp tiếm quyền của Thiên Chúa.
Kết luận
Trên đời này không có gì ghê tởm và đáng khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Ông Ford, Tổng giám đốc một công ty lớn chuyên sản xuất xe hơi tại Mỹ đã rất thành công trong sự nghiệp xã hội cũng như nơi chính bản thân và gia đình ông. Trong ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn, người ta hỏi ông đâu là bí quyết khiến ông thành công và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Ông dí dỏm trả lời: “Trong cuộc sống gia đình, tôi vẫn tôn trọng nguyên tắc giống như nguyên tắc sản xuất xe hơi, đó là “luôn trung thành với mẫu mã ban đầu”.
Trong đời sống vợ chồng, mẫu mã ban đầu của chúng ta có thể đã dúm dó và cũ kỹ theo thời gian, nhưng chỉ sống trung thành, chúng ta mới có thể thành công và hạnh phúc.

22. Chúa Nhật 27 Thường Niên
MỘT TÌNH YÊU GIỐNG NHƯ TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊSU.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller)
Vào ngày cưới, cô dâu và chú rể tuyên bố trước Thiên Chúa và với nhau, cũng như trước mọi người hiện diện rằng họ sẽ chấp nhận nhau dù tốt hay xấu, giàu hay nghèo, bệnh hoạn hay mạnh khỏe và họ sẽ yêu nhau cho đến chết. Một cuộc hôn nhân được giả thiết sẽ kéo dài cho đến suốt đời. Nhưng điều đó thì không luôn luôn xảy ra giống như vậy. Ngày xưa, khi các đôi hôn nhân Công giáo có vấn đề thì họ biết rằng họ phải tìm cách cố gắng để khắc phục nó. Cái điều cuối cùng mà họ nghĩ đến mới là ly dị. Bây giờ ly dị là điều đầu tiên mà các cặp hôn nhân nghĩ đến khi họ gặp một vấn đề.
Giáo Hội đã cố gắng tranh đấu để dủ lòng xót thương hơn là cứng nhắc về bí tích hôn phối. Điều đó có thể trình bày khi một cặp hôn nhân gặp một chướng ngại cho cuộc hôn phối hợp lệ ngay từ khi bắt đầu và Giáo Hội đã ban phép tiêu hôn. Điều này không phải là ly dị. Đó là một sự nhận biết bí tích hôn nhân hợp lệ đã không hiện hữu. Tiến trình để bảo đảm cho sự tiêu hôn thì lâu dài bởi vì Giáo Hội được ủy nhiệm bởi Đức Kitô để bảo vệ và đề xướng bản tính của hôn nhân là một Giao Ước suốt đời. Một Giao Ước không thể chia cắt, cũng không thể bị thiêu hủy, ngoại trừ có một lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên khi quan sát thấy rằng một số những đôi hôn nhân không thể sống chung khi họ không thể tiêu hôn được. Những người Công giáo đã ly dị không được tái hôn và sẽ được rước lễ.
Tuy nhiên chúng ta phải gìn giữ hôn nhân theo viễn cảnh, hôn nhân không phát xuất nơi xã hội, cũng không được thiết lập bởi những thực hành thế tục. Hôn nhân là một sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là giáo huấn của sách Sáng Thế Ký. Thiên Chúa muốn hôn nhân phản ánh chính tình yêu của Ngài đối với dân Người, không bao giờ suy tàn và tình yêu đó được ban cho đặc ân sự sống. Không thể không có khó khăn trong hôn nhân. Hôn nhân là một thách đố để trở nên giống Thiên Chúa, không có gì ngạc nhiên khi hôn nhân không dễ dàng.
Thiên Chúa thì trung thành, Người không chỉ yêu chúng ta kh chúng ta yêu Người. Người không xóa bỏ tình mến của Người dành cho chúng ta bởi vì chúng ta đã yêu một người khác. Thiên Chúa không thấy buồn sầu hay bực tức vì tội lỗi của chúng ta. Ngài không giận dữ khi chúng ta không làm điều vừa ý Ngài. Thiên Chúa không sợ Ngài sẽ mất thời gian để chăm sóc chúng ta khi chúng ta lâm cơn ốm nặng. Tình yêu của Thiên Chúa thì kiên nhẫn, quảng đại và luôn quan tâm. Trên hết, tình yêu Thiên Chúa không bao giờ suy suyển, tình yêu ấy là một lý tưởng thách đố tất cả mọi cặp vợ chồng.
Làm cha mẹ là một phần của đời sống hôn nhân. Có con cái đó là một ân phúc nhưng cũng có thể là có nhiều đòi hỏi đi kèm theo. Đừng ngạc nhiên, có con cái là trở nên giống Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã được kết trái. Tuôn trào từ Người là đặc ân của sự sống. Chúa Giêsu rất yêu thương những trẻ nhỏ. Nơi chúng, Người không chỉ thấy đó là hoa quả tình yêu giữa người chồng và người vợ, nhưng Người cũng còn thấy đó là sự tuôn trào sự sống từ nơi Cha thần linh của Người.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu của tình yêu hôn nhân và của các bậc cha mẹ, đặc biệt là hy tế của Người trên thánh giá. Hy sinh cần thiết cho đời sống hôn nhân. Chỉ có tình yêu mới làm cho sự hy sinh trở nên có thể. Tình yêu đó phát xuất từ Chúa Giêsu, đặc biệt là từ Thánh Thể. Những đôi hôn nhân Công giáo phải cùng nhau lãnh nhận Thánh Thể với lời cầu nguyện trong tâm trí của họ: “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con yêu mến lẫn nhau và yêu mến con cái của chúng con với một tình yêu mà Người đã tỏ bày cho chúng con, đặc biệt là qua đau khổ và cái chết trên thánh giá của Người. Xin cho tình yêu của chúng con chẳng bao giờ chết nhưng luôn tăng trưởng sâu xa và mạnh mẽ hơn qua từng năm tháng. Xin cho tình yêu của chúng con trở nên giống như tình yêu của Người”. Điều đó không dễ dàng nhưng sẽ có thể và nó sẽ trở nên đáng giá.

23. Để thành toàn tình yêu
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn Phúc âm này là đối tượng của quá nhiều công trình bình giải, tốt nhất chúng ta chỉ nên tìm hiểu đường lối của Giáo hội về điểm này. Sau đây là lập trường của Cộng đồng Vaticanô II về tình yêu trong hôn nhân.
1) Tình yêu vợ chồng có đặc tính nhân bản cao quý vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác, do một tình cảm tự nguyện, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người. Cho nên tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm linh khiến chúng ta trở nên cao quý như những yếu tố vào dấu hiệu đặc thù của tình bạn thiết giữa vợ chồng. Bởi ơn huệ đặc biệt của ân sủng và lòng ưu ái của Người, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy.
Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh như thế, phải thấm nhuần cả đời sống, hướng dẫn vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ âu yếm. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn mạnh. Vì vậy tình yêu vợ chồng vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy và xu hướng này nếu được vun tưới chỉ vì ham thích, sẽ tan biến mau chóng để lại những di lụy thảm hại.
2) Sự âu yếm nói trên biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua tác vụ riêng của hôn nhân. Bởi vậy những hành vi thực hiên sự kết hợp mật thiết và thanh khiết của vợ chồng đều là đoan chính và tự chế. Được thi hành thật sự đúng với nhân luân, những hành vi ấy biểu thị và khuyến khích sự trao tặng tương giao, nhờ đó hai người thêm phong phú trong niềm hân hoan và biết ơn.
Tình yêu ấy được bảo đảm với sự cam kết giữa vợ chồng và nhất là được chuẩn nhận bởi bí tích của Đức Kitô.
Mối tình đó trung thành bất khả phân ly về thể xác và tâm hồn, bất kể thăng trầm trong cuộc sống do đó nó loại hẳn mọi sự ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận cái phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình thân ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận. Để kiên trì gánh vác những bổn phẩn của ơn gọi Kitô giáo này cần phải có một nhân đức ít thấy, vì thế, vợ chồng đã được ân sủng củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện – một tình yêu vững bền, đại lượng, sẵn sàng hy sinh.
3) Tình yêu vợ chồng chân chính sẽ được quý trọng hơn và gây được một dư luận lành mạnh hơn, nếu những đôi vợ chồng Kitô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong tình yêu cũng như trong việc ân cần giáo dục con cái, nếu họ đóng góp trách nhiệm hoạt động trong việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội, một sự chấn hưng cần thiết để đề cao hôn nhân và gia đình.
Phải biết kịp thời giáo dục thanh thiếu niên theo một đường lối thích ứng, tốt nhất là trong khung cảnh gia đình, để giới trẻ hiểu biết về phẩm giá, chức năng và cách thể hiện tình vợ chồng. Nhờ vậy, một khi đã được rèn luyện để giữ gìn đức khiết tịnh, chừng nào tới lứa tuổi thích hợp, giới trẻ từ giai đoạn đính ước đúng đắn, có thể dấn mình vào bậc hôn nhân (Hiến chế Vui mừng và Lo âu, 49).

24. Sự gì Thiên Chúa kết hợp
(Suy niệm của GM. Lệ Tâm)
Trình thuật của đoạn Tin Mừng này là vấn đề Ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chua Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sự Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không? Và luật do Thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện người Phari sêu đặt vấn đề với Chúa là: “Có được phép ly dị không” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Người bảo không, tức là Người đang chống lại luật. Ngược lại, nếu người bảo được, thì họ sẽ chống lại Người. Cho nên, rõ ràng là người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời sao đây?
Chúa hỏi lại họ: “Ông Môse truyền dạy thế nào?”. Thật sự trong Cựu Uớc không có chỗ nào ghi một mệnh lệnh phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì? Vậy những người Pharisêu trả lời Chúa thế nào đây? Họ trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24, từ câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Vì thế, Chúa Giêsu đã trả lời cho người Pharisêu: sở dĩ ông Mô sê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”, nên chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Như thế, Chúa Giêsu cho biết rõ ràng lập trường của Người là không bao giờ được ly dị. Một khi người nam và người nữ đã kết hợp với nhau nên vợ chồng trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo Hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một bông hoa, một trái ngọc ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Người.
Phía sau đại thánh đường kính Thánh Terexa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux có hai phần một nằm song song. Đó là phần mộ thân phụ và thân mẫu của thánh nữ: ông Louis và bà Zelie Martin. Trước hai phần mộ có tượng thánh nhân với hàng chữ: “Tôi cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người cha mẹ tốt lành thánh thiện”.
Hôn nhân là bài ca đẹp về tình yêu, là nơi mà ở đó một cộng đoàn yêu thương được thiết lập và cũng là nơi qui tụ những nét tươi đẹp nhất của vũ trụ này. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về luật vĩnh cửu của hôn nhân, luật một vợ một chồng: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly. Ngày nay, con người đang đi ngược với luật Chua dậy: biêt bao gia đình tan vỡ, vợ chồng phân ly. Điều này khiến cho đời sống vợ chồng đánh mất dần ân sủng và hiệu quả của bí tích Hôn Phối nơi mình.
Quả vậy, qua bí tích này, Thiên Chúa chúc lành cho đôi hôn nhân, ban tình yêu và hạnh phúc cho họ, đời sống gia đình không còn là gánh nặng nhưng là niềm vui, và là con đường để hai gnười nên thánh. Thế nhưng, vì thiếu tôn trọng hay quá ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân nmình mà hai người đã chia tay nhau, để rồi mỗi người phải mang lấy đau khổ, gánh lấy bất hạnh và mất dần ân nghĩa với Chúa và với nhau. Hơn thế nữa, những người con của họ cũng phải mang lấy rất nhiều hệ luỵ do cha mẹ gây ra bởi sự ích kỷ của mình.
Lạy Chúa, xin cho những ai đang sống đời hôn nhân, và cho mọi gia đình trên thế giới này hiểu rằng: yêu thương và chung thủy là ocn đường duy nhất để mỗi thành viên đạt được hạnh phúc và nên thánh thiện, và những ai sắp bước vào đời sống hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm đời sống gia đình luôn mãi.

25. Độc thê hay đa thê?
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Khoảng thập niên 50 và 60 thế kỷ XX, giới thanh niên miền Nam Việt Nam thường hay nói vui với nhau: “Lấy vợ Nhật, nằm giường Lèo, ăn cơm Tiều, xài đồ Tây”. Bộ nhớ hồi này đã kém đi nhiều, không hiểu có nhớ hoàn toàn đúng như vậy không; nhưng không hề gì, vì nhắc lại câu nói ấy ở đây, kẻ viết bài này chỉ muốn nói đến cái ý nghĩa, mục đích của câu nói. Đại khái câu nói ấy diễn tả cái mơ ước được sở hữu toàn đồ dùng tốt đẹp. Trong 4 cái mốt (mode) thời thượng ấy, tôi chỉ hiểu được 3: * Lấy vợ Nhật (gái Nhật mặc kimono rất đẹp, rất quyến rũ); * Ăn cơm Tiều (cơm Tàu đủ món, đủ kiểu, đủ mùi vị); * Xài đồ Tây (hồi đó, mặc Âu phục – gọi là “quần Tây áo Tây” – là cái mốt rất hợp thời trang). Nhưng còn “giường Lèo” thì mù tịt, chẳng biết hình dáng và công dụng của nó ra sao? Chỉ nghe truyền khẩu giường Lèo là giường của người nước Lào (Ai Lao) rất đẹp, rất êm. Mà có lẽ cũng vì thế nên có câu nói về chế độ hôn nhân: “Một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ngủ chuồng heo”. Như vậy, muốn được ngủ trên cái giường Lào rất đẹp, rất êm ái, thì chỉ nên có một vợ mà thôi.
Nói dông dài cho vui để có cái cớ đi vào suy niệm bài Tin Mừng CN XXVII/TN-B (Mc 10, 2-16). Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật nhóm ngưới Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi không phải vì họ quan tâm đến vấn đề đạo đức trong hôn nhân, mà thâm ý của họ chỉ “là để thử Người”. Biết quá rõ dụng ý của đám người chuyên gài bẫy, Đức Giêsu đã hỏi vặn lại: “ông Mô-sê đã truyền dạy điều gì?” và khi đám Pha-ri-sêu trả lời là ông Mô-sê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ, thì ngay lập tức Đức Giêsu giáng một đòn rất nặng: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.” Tiếp theo đó, Người chỉ ra ngay từ khởi nguyên Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ “họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”, mà đã là một xương một thịt thì tất nhiên không được “rẫy vợ” dù bất cứ dưới hình thức nào.
Xã hội thời hiện tại không chỉ thoả hiệp, mà còn chấp nhận bằng luật pháp nhiều hình thức “rẫy vợ”: từ ly thân, ly hôn tới ly dị; ngoài ra, đây đó – thậm chí cả trong tôn giáo – vẫn còn tục đa thê. Với Ki-tô Giáo thì lập trường dứt khoát khẳng định là hôn nhân chỉ có một vợ một chồng, vì tuy là hai nhân tố nhưng đã nên “một xương một thịt”. Bởi tiên vàn thì cuộc hôn nhân nguyên thuỷ của loài người đã từ một mà ra (“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó’… ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” – St, 2, 18-24).
Có một phản biện vui vui trong trường hợp này: Tại sao Thiên Chúa lại không lấy một cái xương đầu hoặc xương chân, mà lại “rút một cái xương sườn của con người ra” để làm nên người phụ nữ? Và cũng có một đáp án vui vui: Vì nếu lấy xương đầu thì rất có thể người vợ sẽ “đè đầu vít cổ” người chồng, mà nếu lấy xương chân thì người phụ nữ sẽ bị chồng “vít cổ đè đầu” biến vợ mình thành nô lệ thay vì trợ tá. Tuy chỉ là những chuyện nhàn đàm trong lúc trà dư tửu hậu, nhưng tôi thấy rất có lý. Sở dĩ Thiên Chúa lấy cái xương sườn ở trung tâm thân thể của người nam mà dựng nên người nữ, là có ý cho biết người nữ bình đẳng với người nam, người nữ chỉ có thể là trợ tá, chớ không thể là bà chúa và càng không phải là nô lệ của người nam. Đối lại, người nam cũng không thể là ông chủ hay đầy tớ của người nữ. Nam nữ phải bình đẳng, bình quyền – rất thâm thuý và xác thực.
Chính vì thế, nên Đức Ki-tô mới dạy: “Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly… Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mc 10, 6-12). Vâng, dù là hợp pháp (theo luật lệ xã hội) hay lén lút, thì những việc làm, những hành động đi ngược lại giáo huấn trên, không những chỉ là phản bội người bạn đời của mình (bội ước hôn nhân), mà còn là vi phạm giới răn của Thiên Chúa nữa. Đó là chưa kể trường hợp đôi vợ chồng phạm tội ấy đã có con, thì việc làm của họ còn làm gương mù, gương xấu cho con cái, tác động mãnh liệt vào cuộc sống con cái khiến cho chúng dễ sa chân vào những hệ luỵ không thể lường trước được.
Viết tới đây, chợt nhớ tới một câu nói về hôn nhân Ki-tô Giáo mà kẻ viết bài này rất tâm đắc: “Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai”. Chỉ một câu ngắn gọn thôi đã gói ghém tình yêu ‘nhận về’ và tình yêu ‘cho đi’ trong Tình Yêu Thiên Chúa. Nói khác hơn, câu nói trên bao hàm cả tình yêu giới tính (tình ái – eros) lẫn tình bác ái (agape) Ki-tô giáo (xc Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 2-10). Xin được trích cả đoạn văn có câu tâm đắc nêu trên: “Việc chuẩn bị này cũng không được lãng quên tầm quan trọng phải giúp người trẻ thủ đắc được khả năng phê phán liên quan đến các môi trường chung quanh của chúng, và lòng can đảm Ki-tô Giáo giúp biết hiện diện trong đời nhưng không thuộc về đời. Đây là điều ta đọc được trong Thư gửi Diognetus, một văn bản đáng kính và chắc chắn là xác thực từ thời Ki-tô Giáo sơ khai: “Các Ki-tô hữu không khác biệt gì với những phần tử khác của nhân loại xét cả trên bình diện xứ sở, tiếng nói lẫn phong tục…Toàn bộ nếp sống của họ đã làm nó trở nên đáng ca ngợi và ai cũng phải nhìn nhận là phi thường… Họ cũng cưới vợ cưới chồng và sinh con đẻ cái như những người khác; nhưng họ không bỏ rơi con cái họ. Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai. Họ thấy họ trong thân xác, nhưng không sống theo thân xác.” (xc Tập “Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Nhân”, Vatican 1996, số 27 – nguồn: Thanhlinh.net).
Quả thật, vấn đề đa thê ngay từ thời phong kiến, mặc dù được xã hội công nhận, nhưng trong dân gian đại đa số quần chúng vẫn không chấp nhận. Có câu chuyện tiếu lâm “Ba bát canh bầu” kể rằng: Có một anh chàng 3 vợ, bữa sáng tới vợ cả, bà cả thầm nghĩ “chắc thế nào khi sang dì hai, thì đức ông chồng sẽ được đãi một bữa cơm thịnh soạn, thôi thì ta nấu cho chàng một bát canh bầu lót dạ vậy”. Ăn xong tô canh bầu, xế trưa sang bà hai, bà hai nghĩ bụng “chắc chàng đã ăn no nê ở bên chị cả, thôi thì ta nấu cho chàng một tô canh bầu, để bụng đến chiều sang dì ba dùng bữa cho ngon miệng”. Chiều sang bà ba, bà ba cũng nghĩ “chắc chồng mình đã ăn no bên chị cả, chị hai, thôi thì nấu cho chàng tô canh bầu ăn cho nhẹ bụng để ngủ cho ngon giấc”. Anh chàng ăn ba tô canh bầu, tối đến hết ngủ được, vì bị “Tào Tháo đuổi” chạy có cờ suốt đêm (tiêu chảy đấy!). Nếu tình trạng này kéo dài, anh chàng 3 vợ chắc chắn chẳng còn đi tiêu chảy, đi tả nữa, mà là “đi tàu suốt” luôn. Hoặc như câu chuyện dẫn ở đầu bài viết “Một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ngủ chuồng heo”, cũng đã đưa ra một lời răn đe: chớ ham đa thê.
Xã hội ngày nay, vấn đề đa thê tuy đã được đa số các quốc gia không thừa nhận, nhưng công nhận cho ly hôn, ly dị, thì cũng có nghĩa là bỏ vợ (chồng) này lấy vợ (chồng) khác, và cũng không hiếm cảnh “chán cơm thèm phở”, lén lút “phòng nhì, phòng ba”, gian dâm, ngoại tình. Câu chuyện gian dâm ngoại tình, ngay trong Cựu Ước cũng đã răn đe: “Nhờ thế, con sẽ thoát khỏi người đàn bà trắc nết, khỏi người phụ nữ không quen cứ nói ngon nói ngọt. Người bạn đường thời son trẻ, ả đã bỏ rơi, giao ước của Thiên Chúa, ả hằng quên lãng” (Cn 2, 16-17); “Hỡi con, sao con lại mê say người đàn bà xa lạ, ôm ấp người phụ nữ không quen?” (Cn 5, 20). Đến Tân Ước, trong vấn đề hôn nhân gia đình, Thánh Phao-lô cũng dạy: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ…. Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.” (1Cr 7, 3-5, 10-11).
Thánh Phao-lô cũng không quên nhắn nhủ đừng phạm tội gian dâm ngoại tình, vì làm như thế là mình đã xúc phạm đến thân xác mình, mà thân xác con người là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là đền thờ sống động cúa Chúa Thánh Thần, là chi thể của thân thể Đức Giêsu Ki-tô, thì xúc phạm đến thân thể mình nào có khác gì xúc phạm chính thân thể Đức Giêsu, xúc phạm đến Thiên Chúa? (“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.” – 1Cr 6, 15-18).
Quả thât “Những đặc tính căn bản của hôn phối là sự duy nhất và bất khả phân ly. Nhờ tính cách Bí Tích, những đặc tính ấy đựợc kiện toàn đặc biệt trong hôn phối Ki-tô giáo.” (Giáo Luật HTCG, Ðiều 1056). Đó cũng là lý do cho biết tại sao sách Giáo Lý HTCG (số 1611) khẳng định: “Khi nhìn giao ước của Chúa với Ít-ra-en dưới hình ảnh của một tình yêu hôn nhân độc hữu và chung thủy (x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31, Ed 16;23), các ngôn sứ đã dọn lòng Dân Tuyển Chọn để họ ý thức sâu xa về tính duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân (x. Ml 2,13-17).”
Nói tóm lại, là Ki-tô hữu (tức là những người đã được chính Đức Giêsu Thiên Chúa nhận là bạn hữu, anh em) xin hãy “mở rộng bàn ăn cho mọi người”, và kiên quyết “không mở rộng giường ngủ cho ai”. Một vợ một chồng yêu thương gắn bó, chung thuỷ trọn đời, thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Ấy cũng bởi vì: “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ “không còn là hai, nhưng là một xương thịt” (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly.” (Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes” – số 48).
Sống trong đời sống hôn nhân, người Ki-tô hữu hãy gìn giữ biểu tượng “Hôn nhân là hiện thân của Tình Yêu Cứu Độ” cho trong sáng, quang minh chính đại, đúng với ý nghĩa đích thực của nó; bởi vì “Toàn bộ đời sống Ki-tô giáo mang dấu ấn của tình yêu “hôn nhân” giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích Thánh Tẩy, cửa ngõ dẫn vào dân Thiên Chúa, đã là mầu nhiệm “hôn nhân”, nên cũng được gọi là “thanh tẩy chuẩn bị hôn nhân” (x. Ep 5, 26-27) trước khi dự tiệc cưới là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là bí tích của giao ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao Ước Mới, vì biểu thị và thông ban ân sủng cho họ (x. DS 1800; CIC 1055, 2).” (Giáo Lý HTCG, số 1617). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVII/TN).

26. Trên cả ‘sợi tơ hồng’
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Mon-ta-nhơ (Montaigne) đã trình bày hôn nhân tựa như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Tương tự, tục ngữ- ca dao Việt Nam cũng có câu: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta đã từng xem qua bộ phim “Chúng tôi muốn ly hôn”, và một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại “Đừng chia tay người mình yêu”? Đặc biệt các bạn trẻ có thể quá quen thuộc với nội dung những thước phim này bàn đến vấn đề gì. Thật ra, trong đó phát hoạ bức tranh của thực trạng ly hôn ngày nay, nêu lên những lý do khiến các đôi vợ chồng chẳng phải dắt dìu nhau đi trên con đường trải đầy hoa hồng thời còn yêu nhau, mà dìu dắt nhau ra toà để kết thúc cuộc tình lãng mạn đẹp đẽ, chấm dứt đời sống hôn nhân-gia đình, có đoạn: Thẩm phán quan toà hỏi:
– Tại sao chị xin ly dị? Người vợ liền trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”. Một bà vợ khác nêu lý do: “Do ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”…
Và cứ thế mỗi người đều có lý do này lý do nọ, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị!
Khi mới quen nhau, tình yêu thuở ban đầu luôn đẹp đẽ, trong sáng như hình ảnh A-đam thoạt nhìn E-và, thốt lên: “Đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Tình yêu khiến ông nhận ra bà là một phần không thiếu của mình. Tình yêu gắn kết ông bà tổ phụ loài người nên “một xương một thịt” (x. St 2, 24). Chẳng phải xa lạ, chẳng cần cách biệt, mà E-và chính là “thân thể” của A-đam, “người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra” (St 2, 23). Không vì thế, mà người nữ bị xem thấp kém, phụ phần của người nam; đúng hơn, là người đồng hành, người cộng tác và hỗ trợ suốt cuộc đời này.
Hơn nữa, tình yêu thuở ban đầu này cần được hun đúc, sưởi ấm hằng ngày trong đời sống hôn nhân – gia đình. Ở bậc sống nào cũng có niềm vui, nỗi buồn và những thách đố riêng. Đặc biệt, trong đời sống hôn nhân biết bao nhiêu thăng trầm sóng gió, nhưng cũng không thiếu nhiều tiếng cười giòn tan bên nhau, khi chứng kiến tiếng trẻ thơ chào đời, nhìn nó lớn lên mỗi ngày. Theo lẽ thường tình, cuộc sống vợ chồng không thể tránh khỏi những sự bất hoà, hiểu nhầm, hoặc chưa hiểu nhau, nhưng dù gì đi nữa, người bạn đời luôn bên cạnh sớt chia, cảm thông, rộng lượng như còn thuở mới quen: “Hôm nay sum họp trúc mai. Tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”, hay đã về chung sống với nhau: “Cây đa lá rụng đầu đình. Bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu”, hoặc “Qua đồng ghé nón thăm chồng. Đồng bao nhiêu lúa, thương chồng bấy nhiêu”. Trên hết, Thiên Chúa là Đấng kết hợp người nam và người nữ, nên hôn nhân chính là thiên luật (luật của Thiên Chúa), chứ không phải luật do Giáo hội soạn ra (Giáo luật). Chính vì thế, hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh hôn: “Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 6-9). Hơn cả ‘ông tơ bà nguyệt’ se duyên ‘sợi dây tơ hồng’, mà chính Thiên Chúa kết hiệp người nam và người nữ, để họ trở nên một thân thể trong “giao ước tình yêu”. Điều này minh chứng việc ly hôn cũng đồng nghĩa với sự bất trung với hôn ước, và bất tuân thánh ý Chúa.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, bên canh rất nhiều đôi vợ chồng bước đi bên nhau hạnh phúc trong đời, thì không ít những bước chân dẫm đạp lên đời nhau đến nỗi đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt nhúm, lạnh tanh, cuộc vui đã tàn lụi chóng vánh, chặng đường chung tay không trọn vẹn như mơ ước chốn thiên đường hằng mong. Với biết bao thách đố trong đời sống hôn nhân – gia đình, chúng ta cùng quay về ‘cội rễ’ của thánh ý Chúa, chứ không chạy theo xu thế của xã hội, hay thói đời “lòng chai dạ đá” (x. Mc 10, 5) như Đức Giê-su chỉ ra trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Quả thật, để hâm nóng tình yêu thuở ban đầu, đôi vợ chồng cần được thánh hoá hằng ngày qua kinh nguyện, qua đời sống yêu thương, tha thứ, nhẫn nại, đón nhận nhau và dám thay đổi nết xấu của bản thân vì người mình yêu. Hơn thế, tác giả thư Do Thái khẳng định: “Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những người được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2, 11). Vì vậy, chúng ta cần chạy đến với Đức Giê-su hằng ngày trong giờ cầu nguyện gia đình, tham gia vào các hội đoàn thăng tiến đời sống hôn nhân, v.v…như Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn Gia đình số 59 đã viết: “Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Ki-tô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.
Sau cùng, những ai đang sống trong bậc sống gia đình nên nhớ rằng mình không chỉ là vợ chồng thông thường như bao đôi vợ chồng ngoài xã hội kia, mà là cặp đôi được Thiên Chúa kết hiệp nên một trong Bí tích hôn phối, qua ‘giao ước tình yêu’, là đôi vợ chồng Công giáo. Hơn nữa, cũng nên nhắc nhở mình hằng ngày: chúng ta không đơn thuần là ông bố bà mẹ chung chung ngoài xã hội, mà là người bố người mẹ Công giáo, sống đạo giữa đời, luôn biết đặt Thiên Chúa làm trọng tâm đời mình và cuộc sống gia đình. Và như thế, mới mong sống hạnh phúc, cùng nhau vượt qua thách đố cuộc đời.
Lạy Chúa, xin gìn giữ chúng con
Luôn sống trọn vẹn với ơn gọi
Hôn nhân – gia đình và con cái
Hằng gắn kết, nhân ái không ngơi. Amen!

27. Chúa Nhật 27 Thường Niên
LY DỊ LÀ PHẢN CHỨNG YÊU THƯƠNG
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Người ta có được phép ly dị vợ mình bất cứ vì lý do gì không?” (Mc 10,2).
Chẳng biết các biệt phái đã đặt vấn đề này với Chúa Giêsu để đưa Ngài vào bẫy hay họ thành tâm muốn xin một lời chỉ giáo. Bởi lẽ trong bối cảnh vua Hêrôđê vừa ly dị vợ và cưới người khác, nếu Chúa Giêsu phản đối ly dị thì chẳng khác chi tự gây xung đột với nhà vua. Mặt khác, Ngài cũng có thể bị kết tội lạc giáo nếu câu trả lời mâu thuẫn với những gì được ghi trong luật Môisen-người chồng được bỏ vợ bằng cách trao tờ ly thư nếu như thấy vợ mình “thiếu đoan trang đứng đắn”.
Giải thích về ý nghĩa của nhóm từ “thiếu đoan trang đứng đắn,” trường phái Giáo sĩ Shammai của Do thái cắt nghĩa rằng: luật cho phép người đàn ông bỏ vợ chỉ với lý do cô ta phạm tội ngoại tình. Trong khi đó trường phái Hillel, vốn rất phóng túng, lại cắt nghĩa rằng người vợ có thể bị ly dị nếu làm hư đồ ăn, hay nói chuyện với người đàn ông lạ mặt, hay kể xấu về họ hàng bà con bên chồng. Kết quả là phái tự do phóng túng đã thắng thế khi mà nhiều người đàn ông đã đưa vợ ra toà vì những lý do không đâu vào đâu.
Trước những lối lý giải khác nhau của hai trường phái Shammai và Hillel về vấn đề ly dị, cộng với lối sống tự do quá trớn của nhiều người đương thời. Đức Giêsu đã khẳng khái xác định lý do Môisen để cho người ta ly dị là vì lòng dạ quá chai lì và ngang bướng của họ. Còn từ thưở tạo thiên lập địa, sự đó chẳng hề được lập ra.
Đức Giêsu đã hướng con người về với khung cảnh sáng thế để chỉ ra rằng Thiên Chúa đã thương dựng nên người nam và người nữ, tác thành họ nên một trong tình yêu, và điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, sẽ không có một quyền lực nào được phép phân ly (Mc 10:6-7), dù đó là quyền lực của tiền bạc, sắc đẹp, sức khoẻ, tuổi tác, tính tình… ngoại trừ sự chết, lúc người ta trở về với Đấng Tạo Thành.
Tính chất bất khả phân trong hôn nhân đã được tôn trọng và bảo vệ từ ngày khai nguyên của Giáo hội cho đến thế kỷ thứ 15. Rất nhiều quốc gia trên khắp thế giới đã có chung một sự tín phục đối với giáo lý của Đức Giêsu: “Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly.”
Thế nhưng vào thế kỷ thứ 16, một biến cố đau lòng đã xảy ra, gây phương hại trầm trọng đến yếu tố bất khả phân của hôn nhân. Số là vua Henry VIII của nước Anh đã tìm mọi cách để xin Giáo hội Công giáo cho phép tiêu hôn với hoàng hậu Catherine thành Aragon. Giáo hội can đảm cự tuyệt và trả lời nhà vua: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không thể phân ly.” Thế là hận thù phát sinh. Thế là sự ác dâng tràn. Nhà vua bèn mua chuộc và tạo áp lực lôi kéo một số giám mục về phía mình. Sau đó cắt đứt quan hệ với Giáo hội Công giáo, thành lập giáo hội Anh giáo, tự phong làm giáo chủ của giáo hội mới. Nhà vua đi cưới vợ khác, và đưa cả đất nước vào con đường lầm lạc. Thế nhưng Henry vẫn không tìm được hạnh phúc, dù đã trải qua nhiều lần kết hôn.
Việc làm sai trái của vua Henry VIII-ly dị và hậu quả của nó-đã xâm nhập vào luật pháp của dân Anh. Từ đây lan sang các quốc gia trong vùng biển Tại Tây Dương. Thậm chí còn len vào tận luật pháp của Hoa kỳ. Cho đến hôm nay, vấn đề ly dị đang ăn sâu vào nhiều quốc gia Á châu và Mỹ châu.
Việc cho phép ly dị của luật pháp dân sự không những gây ra vô số tác hại khủng khiếp cho hai người nam, nữ, song còn làm tổn thương trầm trọng đến thể xác và tinh thần của con cái. Phải chăng đó là lý do Đức Giêsu đã tái xác định với các môn đệ: từ khởi nguyên không có chuyện đó, và “Ai bỏ vợ mà đi lấy người khác tức là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và nếu ai bỏ chồng mà đi lấy chồng khác, thì người đó cũng phạm tội ngoài tình luôn” (Mc 10:11-12). Thế nên luật pháp trần gian và tờ ly thư mà nó cấp phát cho, cũng chỉ là mảnh giấy vô hồn, vì chúng không tuân theo đường lối của Thiên Chúa.
Thật đáng ghi nhận biết bao khi Kinh Thánh tiếp nối bài huấn từ của Đức Giêsu về vấn đề ly dị với hình ảnh Ngài ẵm các em nhỏ vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng Thiên Chúa muốn nói với các bậc cha mẹ: dù gì thì cũng hãy nhìn vào con cái. Chúng không thể cùng một lúc bước đi trên hai nẻo đường đối nghịch của cha mẹ. Cha mẹ đã từng được phối hợp “nên một” rất thiêng liêng trong con cái đó phải được bảo vệ và duy trì nhân danh Thiên Chúa. Bởi vì trong Thiên Chúa không có phân ly.
Thiên Chúa đã chúc lành cho các em nhỏ. Chẳng nhẽ cha mẹ lại chống lại ý Trời bằng ly dị, một hành động chúc dữ cho con mình.
Con cái là phúc lộc Thiên Chúa trao ban cho cha mẹ. Ơn lành của Thiên Chúa nơi các em, cha mẹ sẽ được hưởng nhờ. Để con cái đón nhận phúc lành của trời cao và để ơn lộc đó sinh hoa bình an, kết trái vui tươi, và chín mùi hạnh phúc, cha mẹ phải biết đưa con mình đến với Đức Giêsu. “Người ta đem các trẻ nhỏ đến với Ngài để Ngài đụng đến chúng” (Mc 10:13). Khi đưa con em đến cùng Chúa, cha mẹ cũng đã tự đưa chính mình đến với Ngài.
Song, giữa thế giới hôm nay, phải đưa con và đưa mình đến với Đức Giêsu như thế nào?
Trong các phương cách tiếp cận Đức Giêsu, không gì dễ dàng và hữu hiệu hơn cầu nguyện. Thử hỏi có phải bao gia đình tan nát, bao con cái buông tuồng; bao tâm hồn sa đoạ, là vì gia đình thiếu cầu nguyện? Phải chăng là vì các thành viên bỏ bê, không màng chi đến mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa?
Thực tế cho thấy phần lớn những gia đình bất hạnh là những gia đình coi thường đạo đức. Những đôi vợ chồng gấu ó đến độ phân ly là những cặp vợ chồng xem giá trị thiêng liêng nhẹ hơn giá trị trần tục.
Chỉ với đời sống liên kết với Đức Giêsu qua cầu nguyện, người ta mới tìm được sức mạnh đỡ nâng và khám phá giá trị bất biến của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Chí lý làm sao lời xác minh của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Gia đình cầu nguyện là gia đình tồn tại. Một gia đình không bỏ cầu nguyện là một gia đình không mất hạnh phúc.”
“Vinh phúc thay người kính sợ Chúa,
Và hằng đi trên đường quang minh Thiên Chúa
Người hưởng huê lợi tay người tạo nên
Và hạnh phúc Chúa thưởng ban muôn đời.”

28. Chúa Nhật 27 Thường Niên
NHÌN LẠI CÁC TƯƠNG QUAN: HƠI THỞ THẦN LINH VÀ SỰ BÌNH ĐẲNG TRONG TẠO DỰNG
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Các bài đọc hôm nay đưa ra những suy tư về tương quan của con người với Thiên Chúa, với thế giới loài vật và giữa con người với nhau. Các bài đọc cho thấy một sự tiến triển tư tưởng về các tương quan, và nhắc nhở chúng ta rằng một số lý tưởng xã hội và văn hóa cần được giải thích lại đối với những bối cảnh khác nhau.
Bài đọc một trích từ sách Sáng thế bao gồm một trong những trình thuật về cuộc tạo dựng con người và loài vật. Chúng ta cần chú ý thận trọng bởi vì câu chuyện này đã bị giải thích sai khi khẳng định quyền thống trị của con người trên muôn loài và sự lệ thuộc của người nữ vào người nam. Những cách đọc sai lệch này phản ánh thành kiến của người chú giải hơn là ý định của bản văn.
Câu chuyện tạo dựng khẳng định quyền năng sáng tạo, sự kết nối và chăm lo của Thiên Chúa cho mọi loài thụ tạo. Việc Thiên Chúa dựng nên con người đầu tiên và làm sinh động bằng cách thổi hơi đã làm nổi bật mối liên hệ mật thiết giữa tạo hóa và thụ tạo. Tương tự, việc dựng nên người thứ hai từ xương sườn của người đầu tiên cho thấy con người có quan hệ gần gũi với nhau, không phải là tương quan cấp bậc nhưng đúng hơn là hỗ tương vì cả hai được hợp nhất trong cùng một thân phận thụ tạo của Thiên Chúa. Đặt việc tạo dựng các sinh vật khác ở giữa việc tạo dựng người nam và người nữ xác định sự liên hệ giữa loài vật và con người trong công trình thế giới. Qua việc đặt tên cho loài vật, con người tham dự vào việc hướng dẫn và cuộc sống của loài vật, đón nhận một quyền hạn nào đó nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm đối với chúng.
Bài Tin mừng theo thánh Máccô cũng suy tư về những tương quan: vợ – chồng và người lớn – trẻ nhỏ. Nên chọn đọc bài Tin mừng dài trong sách Bài đọc. Như ở nơi khác trong các sách Tin mừng, người Pharisêu cố dồn ép Đức Giêsu nói những gì không hợp với luật Do Thái, nhưng Ngài không bị rơi vào bẫy của họ. Khi họ đặt vấn đề ly dị với Đức Giêsu, Ngài hỏi luật nói gì về việc này. Họ khẳng định rằng chồng có thể ly dị vợ, một giải thích nơi Đệ nhị luật 24,1-4 tạo cho người nam ly dị người nữ nhưng làm khó cho người nữ khởi sự việc ly dị. Để trả lời, Đức Giêsu giải thích lại mục đích và ý nghĩa của luật như sau: 1) Đức Giêsu nói rằng luật ly dị được ban hành vì “lòng chai dạ đá” của dân Israel. 2) Ngài giải thích luật ly dị dựa trên trình thuật tạo dựng từ bài đọc một. 3) Đức Giêsu giải thích luật ly dị và những cuộc hôn nhân tiếp theo dựa trên giới răn chống lại việc ngoại tình.
Phương pháp giải thích của Đức Giêsu đưa ra một kiểu mẫu để đọc Kinh Thánh. Ngài đặt lề luật vào bối cảnh lịch sử và nêu rõ mục đích của nó cho những thính giả nguyên thủy. Sau đó, Đức Giêsu sử dụng truyền thống Kinh Thánh bao quát hơn để suy gẫm về sự kết hợp giữa con người, và Ngài xác nhận các mối tương quan con người, đồng thời, một cách triệt để, hình dung lại những động năng chi phối quyền lực giữa con người với nhau.
Nơi Israel cổ xưa, việc ngoại tình được hiểu theo nghĩa hẹp, áp dụng đối với một người nam có quan hệ tình dục với một người nữ đã có gia đình. Ngoại tình là một hành vi xúc phạm đến chồng của người nữ, chứ không xúc phạm đến vợ của người chồng đó. Bất kỳ hành vi xúc phạm nào đối với người nữ đều được xem là ít nghiêm trọng hơn là sự xúc phạm đến quyền hạn của người đàn ông đối với hành vi tình dục của vợ mình. Mặc dù ngày nay ngoại tình được xem như sự không chung thủy đối với người phối ngẫu, nhưng cách hiểu này không phải là tiền đề của giới răn xa xưa chống lại tội ngoại tình.
Lối giải thích của Đức Giêsu mở rộng phạm vi yếu tố cấu thành việc ngoại tình, và bao gồm ý tưởng là người nữ cũng có thể là kẻ ngoại tình. Mặc dù nghe có vẻ tiêu cực, nhưng đó lại là một cái nhìn cải cách về người nữ trong hôn nhân như là người bạn đời bình đẳng, và mở rộng, như là người vi phạm cũng như bị xúc phạm giống như người nam. Đức Giêsu nhấn mạnh nhiều đến việc vi phạm về sự kết hợp hôn nhân hơn là sự vi phạm của một người đối với những quyền của người khác.
Ở cuối bài Tin mừng, mối tương quan cấp bậc giữa người lớn và trẻ em lại được xem xét khi Đức Giêsu khuyến khích đưa trẻ em đến với Ngài. Đức Giêsu khẳng định giá trị của trẻ em ngang bằng với người lớn, vì tất cả mọi người đều được mời gọi lắng nghe Tin mừng và để được Chúa chúc lành. Hơn nữa, Đức Giêsu nhìn nhận trẻ em cũng có quyền của mình và mời gọi người lớn hãy nên giống như chúng để được vào vương quốc của Thiên Chúa.
Nguồn:
https://www.americamagazine.org/faith/2021/09/16/word-lectionary-liturgy-readings-241401

29. Có Chúa trong đời nhau
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Chuyện tình yêu đôi lứa ngày mới xây mơ dệt mộng biết bao là sắc màu xinh đẹp. Những hẹn hò trước lễ thành hôn, những nũng nịu hồn nhiên, những chiều chuộng rất nhân từ, những cho nhau không hề giữ lại, không hề tiếc nuối… tưởng như là hạnh phúc! Đôi tim hồng rạng rỡ. Mạch sống căng tràn sức xuân. Tưởng như thế là thời gian chuẩn bị đã xong, đã đủ. Rồi cuối cùng, quyết định đến với nhau nên nghĩa vợ chồng. Hôn nhân tự nhiên đẹp theo một khuôn định tự nhiên của Đấng Tạo Hóa, mà đôi khi con người không khám phá ra nổi. Đã vậy, còn mơ hồ định nghĩa tình yêu như một chuyện tự nhiên mà không cần đến sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Vì thế, chuyện đến với nhau và để bỏ nhau cũng bỗng dưng cho là chuyện tự nhiên bình thường.
Ki-tô hữu Công Giáo khi bước vào đời sống hôn nhân cũng không thiếu những ước mơ hạnh phúc lãng mạn của thuở ban đầu yêu nhau say đắm. Nhưng hẳn phải khác hơn người không tin Thiên Chúa ở nhiều điểm:
– Thứ nhất là tin mọi biến cố trong đời đều có sự can thiệp của Thiên Chúa,
– Thứ hai là phải học hiểu thấu đáo về ý nghĩa của Hôn Nhân Công Giáo, đặc biệt là ý nghĩa Đơn Hôn và Vĩnh Hôn: một vợ một chồng và suốt đời trung tín. Bởi Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân tự nhiên lên hàng Bí Tích khi Ngài nói rõ: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.
– Và thứ ba: phải sống niềm tin ấy trong đời hôn nhân bằng sự chung thủy sâu xa và chân thành.
Thiên Chúa đã Liên Kết:
Khi chuẩn bị bước vào hôn nhân, Kitô Hữu hẳn phải biết kết hiệp với Chúa và xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn để tình yêu đôi lứa được thánh hóa nên tình yêu vợ chồng trong cuộc hôn nhân thánh thiện. Nhờ ơn Bí tích, đôi vợ chồng dần dần khám phá ra những chiều kích kỳ diệu mới mẻ trong hôn nhân.
Có người chưa hiểu thấu ý Chúa khi mới thành hôn, nhưng qua thời gian, họ đã ngộ ra: “Ngày ấy tôi tưởng tôi chọn em. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu: Chúa đã can thiệp vào con người, vào ý muốn tôi, không phải tự sức riêng tôi. Và tôi cảm tạ Chúa vì tôi đã lấy em, không phải người khác. Nếu là một người khác, chắc gì họ đã chịu đựng được tôi cho đến hôm nay”. Và ngược lại, người vợ cũng phải hiểu được thấu đáo điều đó và đừng đứng núi này mà trông núi nọ.
Sự ràng buộc của Hôn Nhân Công Giáo, của Bí tích hệ tại ở việc Thiên Chúa muốn thi thố tình thương của Ngài qua việc kết hiệp ấy. Đã có không ít người tuyên bố: “Nếu cho phép tôi chọn lần thứ hai, tôi sẽ không chọn anh ấy nữa. Nhưng vì chỉ được chọn có một lần và muôn đời không đổi, nên tôi mới hiểu ra tôi “phải làm thế nào” “phải cộng tác với ơn Chúa thế nào” để người ấy chính là người tuyệt vời nhất của đời tôi, và để tôi nhìn nhận”.
Con người vẫn là loài kiêu ngạo trên đời, và cả trong tình yêu cũng không thiếu cốt cách kiêu ngạo ấy. Không biết thế nào là tình yêu mà vẫn cho rằng mình yêu người ta nhất, và vì yêu ngạo, không nhận ra tình yêu của người khác dành cho mình. Sự ngu đần về tình yêu không phải nơi người ngu chữ ít học, mà là nơi người ngu vì coi cái tôi của mình to lớn hơn cả trời cả đất.
Vậy thì, việc “tôi phải làm thế nào”, “phải cộng tác thế nào” ấy là tôi phải học bài tình yêu hiền lành và khiêm nhượng. Chỉ khi tôi hiền lành và khiêm nhượng, thì:
– một là tôi mới thấy người ấy đáng yêu,
– hai là mới có sức làm cho người ấy thay đổi con người từ đáng ghét đến đáng yêu,
– và ba là, mới chứng minh cho người ấy rằng tôi yêu người ấy.
Công việc của người tin, hiểu điều “Thiên Chúa đã liên kết” là cộng tác với ơn Chúa làm cho điều đã liên kết trở nên thành toàn, bền vững.
“Không được phân ly”
Vậy, khi xác nhận được điều “Thiên Chúa đã liên kết”, hẳn phải giữ điều Chúa dạy “không được phân ly”.
Có thể nói các trường hợp ly dị đều bắt nguồn từ chỗ không những chối bỏ việc “Thiên Chúa liên kết” mà còn cho rằng việc liên kết với nhau là do chính mình. Vì thế họ nghĩ đơn giản rằng đã yêu nhau được thì cũng có quyền bỏ nhau khi không còn yêu nhau nữa. Đó là cách yêu và cách bỏ của những người không tin có Thiên Chúa. Những người Công Giáo thời nay cũng bắt chước như vậy. Họ cũng đang chối bỏ Thiên Chúa.
Người Do Thái ngày xưa có hai chủ trương: một là không sống với nhau được nữa thì cứ ly dị, hai là nếu người vợ ngoại tình thì người chồng được ly dị. Nhưng Chúa Giêsu đã khẳng định “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.
Thời nay, nạn ly dị tràn lan. Ai dám đổ thừa cho người không tin Thiên Chúa làm gương xấu cho người tin Thiên Chúa, nhưng thiết tưởng các Ki-tô hữu phải tự đấm ngực mình về tội bất trung với người bạn đời, cũng đồng nghĩa với tội bất trung với Thiên Chúa. Ly dị thì chỉ có hai người mà hậu quả của ly dị thì ảnh hưởng tới không biết bao nhiêu người! Trước hết là con cái mồ côi cha mẹ khi cha mẹ hãy còn sống, rồi đến những chuyện tình lần thứ hai, thứ ba, thứ năm thứ bảy của người đã ly dị, kể cả chuyện tái hôn bất hợp pháp, lần này sang lần nọ. Cuộc sống không phút bình yên cho ai cả!
May mắn thay, khi đã ly dị, còn có người biết sám hối và ngộ ra mình đã thưa nhau ra tòa vì nhiều lý do vặt vãnh, nhưng còn nhiều lý do sâu xa hơn:
– Ngày chưa cưới nhau thì “Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con lấy được người con yêu”. Cưới được rồi, chẳng thấy có phút kinh nguyện mà thưa với Chúa ‘Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con yêu được người con đã lấy”.
– Nhớ xưa, khi còn là con nít, được nhận nhiều hơn cho đi. Nay lớn rồi, phải cho đi nhiều hơn nhận lại, mới chứng minh được là mình đã trưởng thành, đã lớn. Lòng ích kỷ của mình chỉ thích nhận hơn là cho đi.
Hai người lấy nhau nên vợ thành chồng không còn là con nít với nhau nữa. Họ cùng là người lớn. Nhưng trong tình yêu, bỗng dưng cả hai sẽ có khi là con nít để nhận, là người lớn để trao. Lẽ công bằng trao và nhận. Con nít của lòng đơn sơ khiêm nhượng, và người lớn của lòng quảng đại bao dung.
– Sách Talmud Do Thái có đoạn: “Xin đừng làm phụ nữ khóc, vì Thượng Đế đang đếm từng giọt lệ của nàng. Hãy nhớ, nàng không đi ra từ đôi chân hay từ cái đầu của chàng. Nàng đã đi ra từ cạnh sườn của Chàng. Bởi thế, nàng được bình an dưới cánh tay ấp ủ của chàng và nàng hạnh phúc gối lên ngực chàng bên trái tim nồng ấm”.
À thì ra, tình yêu của chúng tôi đã thiếu sự “tôn trọng nhau suốt đời” như lời đã hứa.
Và còn bao nhiêu lý do sâu xa nữa…, nhưng một lý do cốt lõi của nạn ly dị vẫn là: Từ chối sự hiện của Chúa trong đời mình và trong đời nhau.
Lạy Chúa, chỉ vì chúng con không mời Chúa đến và ở lại trong lòng chúng con, trong nhà chúng con, nên gia đình chúng con trở nên một địa ngục trần gian quá kinh khủng. Từ nay, xin cho chúng con biết giữ Chúa ở trong lòng mỗi chúng con, trong nhà chúng con, để sự hiện diện của Chúa kiện toàn hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc trong mái ấm gia đình của chúng con. Amen.

30. Chúa Nhật 27 Thường Niên
ĐỪNG CHIA TAY VỚI NGƯỜI MÌNH YÊU
Hôn nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang sống với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc. Cũng có những người đang kéo lê cuộc sống gia đình “cơm không lành, canh không ngọt”, một cuộc sống khổ đau không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có câu ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: “Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay người mình yêu”. Chắc chắn các bạn trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:
– Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án, người vợ trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”.
Một bà vợ khác trả lời: “Tại vì ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”… và mỗi người đều có lý do không đâu cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy có được phép ly dị không? Đây là một vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4). Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”.
Chúa Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị là một trục trặc của tình yêu, nó không phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của Thiên Chúa không phải như thế”.
Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không những làm lu mờ, mà có khi còn làm mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam có nữ là để sống chung với nhau. “Đàn ông ở một mình không tốt”. Và Ngài đã dựng nên người đàn bà. Người đàn bà, trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã reo lên: “Đây đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ đó “người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc xương sườn đã bị lấy mất, còn người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã xuất phát” (Osty) để kết hợp với nhau thành một xương một thịt, một thân một thể. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.
Điều Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là phẩm giá con người. Con người càng thấp bé, càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải trả lại cho phụ nữ quyền làm con người, phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự sống mới. Đó là những đứa con của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu thương con cái là kết quả của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con người. Phải tôn trọng các em như con người, từ bào thai các em đã là hơi thở và là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến trong thư gởi tín hữu Êphêsô: “Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly với vợ”. Chính với tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô, như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”.
Thánh Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: “Ai đã kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không được rẫy vợ”.
Hôn nhân là một định chế do chính Đấng Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại được. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con người, nghĩa là không còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên cường và ngày càng tiến gần đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên Chúa.

31. Chúa Nhật 27 Thường Niên
HÔN NHÂN TRONG TIN MỪNG NHÂN ÁI
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Hôn nhân, với các khía cạnh liên quan của nó, vẫn luôn là một vấn đề lớn của xã hội loài qua các thời đại. Trước đây tôi vẫn thường coi nó là một vấn đề thuần luân lý. Chính vì suy nghĩ như thế cho nên trong công tác mục vụ, tôi thường xuyên phải đối mặt với, một bên là những đòi hỏi bền vững của các ràng buộc luân lý, bên kia là sự yếu đuối mỏng dòn của thực tế con người. Không ít lần trong thâm tâm tôi cảm thấy bị xâu xé khủng khiếp; không biết cách nào trung hòa giữa hai trạng thái đối nghịch nhau như thế.
Xét về khía cạnh con người vốn mãi mãi là ‘lòng chai dạ đá’, thì luân lý hôn nhân, ngay cả trong các nền luân thường đạo lý chặt chẽ nhất, chẳng hạn như Luật Mô-sê của Cựu Ước, cũng vẫn phải mở ra lối thoát; “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đối với một xã hội thượng tôn luật pháp như Do Thái Giáo thời Đức Giêsu, thì ly dị trong một số trường hợp được pháp luật qui định, đúng là một lối thoát cần thiết. Xã hội nào cũng vậy, thời xưa cũng như ngày nay, mọi người đều nhận thức, cách này hay cách khác, giá trị của hôn nhân, và đều mong muốn duy trì nó cho thật bền vững. Thế nhưng thực tế phũ phàng không ngừng yêu cầu phải chấp nhận, trong một số trường hợp bất khả kháng, một sự phân ly dưới hình thức này hay hình thức khác, ly dị hay ly thân… hay gọi là gì cũng được. Mấy ông Pha-ri-sêu quen đề cao luật pháp, khi đặt câu hỏi trước Thầy Giêsu, họ cũng thừa biết rằng học thuyết mà Người đang giảng dạy, cho dầu có cao đẹp tới mấy, cũng khó có thể đi ra ngoài cái lẽ thường tình này. Hiểu như thế, ta sẽ thấy câu Đức Giêsu trả lời họ thực không đơn giản chút nào. Rõ ràng ở đây Thầy không giới thiệu một nền luân lý mới, chắt chẽ hơn, khắt khe hơn những gì họ từng giảng dạy. Vì là một người phàm ‘giống chúng ta mọi đàng’ (Dt 4:15), Người chắc chắn không thể nhắm mắt làm ngơ trước một nhân loại mỏng dòn yếu đuối, nhất là trong lãnh vực tình dục nhạy cảm của hôn nhân. Và vì là người đang rao giảng về một Thiên Chúa nhân ái và thứ tha, Đức Kitô chắc chỉ muốn cống hiến một giải pháp cho vấn đề hóc búa này hoàn toàn dưới nhãn quan Tin Mừng. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì, trong nền văn hóa cổ đại, ‘lúc khởi đầu công trình tạo dựng’ không chỉ mang ý nghĩa thời gian hoài cổ, mà còn để chỉ thời vàng son của mạc khải Thiên Chúa (xem chú thích trong Christian Community Bible). Vậy thì rõ ràng Đức Giêsu đang muốn đặt hôn nhân trong bối cảnh của Tin Mừng cứu độ.
Phải rồi, chỉ trong tình yêu bao dung và tha thứ của Thiên Chúa – Đấng đã yêu thương con người tội lỗi tới độ chết trên thập giá, thì ‘lòng chai dạ đá’ của con người đầy dục vọng mới tìm được thuốc chữa. Chữa đây không phải là tiêu diệt hoàn toàn bất trung – lăng loàn – ‘fornicatio’ (xem Mt 19,9), để có thể sống trọn đời trung thủy. Nếu có phương pháp cụ thể nào giúp cho các cặp vợ chồng đạt được điều này, thì thật đáng mừng cho hôn nhân biết mấy… Mong rằng, luật pháp cũng như các tổ chức xã hội loài người sẽ ngày càng tiến bộ hầu có thể tiến dần tới mục tiêu hoàn hảo đó. Hãy cứ để các xã hội dân sự, với nền văn hóa và truyền thống của riêng mình, giúp cho hôn nhân ngày càng được thêm củng cố bền vững, dựa trên các qui định của luật pháp con người! Kitô hữu chúng ta chân thành cầu mong cho nền dân luật ngày càng tiến bộ và sáng suốt hơn. Thế nhưng tham lam và yếu đuối vẫn luôn mãi là thực tế phũ phàng mà chỉ lòng nhân ái bao dung của Tin Mừng Đức Kitô mới cống hiến được liều thuốc chữa lành hữu hiệu nhất. Phaolô đã từng so sánh hôn nhân với tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh; một tình yêu bền vững, không phải là vì Hội Thánh tự mình đã ‘xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào’, nhưng vì nhờ ‘Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống’ mà Hội Thánh mới được nên ‘thánh thiện và tinh tuyền’ như thế (Ep 5,25-27).
Hôn nhân Tin Mừng là như thế đó! Ta không thể hiểu đây là một nền luân lý đối kháng với các nền luân lý khác, cũng chẳng phải là một lề luật cạnh tranh với các luật lệ dân sự hay tôn giáo khác, nhưng là niềm tin thâm sâu vào tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Thế nhưng, như Đức Giêsu chứ không như các Pha-ri-sêu, mỗi khi đề cập tới hôn nhân gia đình, chúng ta sẽ luôn đề cao giá trị nhân ái – bao dung của Tin Mừng làm nền tảng cho lòng trung tín. Hôn nhân, nếu muốn thực sự là Tin Mừng, phải lấy giới luật yêu thương mới làm nền tảng duy nhất cho mình; “anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Phải chăng đó mới đích thực là mong muốn của Đức Giêsu khi Người lên đưa ra một khẳng định xem ra mang nặng tính luật pháp: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”?
Lạy Chúa là Đấng thủy trung, Chúa đã đến trần gian không phải để dạy cho con người biết cách cử xử với nhau dựa trên một luân lý hay luật pháp cao đẹp. Tin Mừng nhân ái của Chúa phải trổi vượt trên tất cả, vượt thắng mọi bế tắc của con người yếu đuối! Xin Chúa giúp con, trong khi thi hành mục vụ hôn nhân, luôn biết xa tránh nhãn quan luân lý – luật lệ hạn hẹp, để biết hướng các anh chị em Kitô hữu tới diện mạo Thiên Chúa nhân ái, thứ tha và cứu độ, như cột trụ chống đỡ cho đời sống hôn nhân của họ. Amen.

32. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne – Trích trong ‘Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật & Lễ Trọng’)
CẦU NGUYỆN VỚI NHAU, Ở VỚI NHAU.
Lớp giáo lý người lớn đang học về hôn nhân. Giáo lý viên xin mỗi học viên cho một câu hỏi về hôn nhân: những câu hỏi tiêu biểu cho cuộc hội thảo ba cấp: Một cặp Công giáo kết hôn được 14 năm, cặp Tin lành Methodist 22 năm và một cặp Mennenite kết hôn mới hai năm. Người chồng Mennonite trả lời hay nhất: Jennie và tôi cả hai đã cam kết với Đức Kitô, khi chúng tôi còn học trung học, điều đó giúp chúng tôi cam kết với nhau trong hôn phối.
Cam kết là quan hệ thường thấy thời nay, nó có nghĩa là một lời thề, một lời hứa với một người khác. Trong tôn giáo, nó có nghĩa là một lời hứa đúng đắn và long trọng để hoàn toàn trung thành với Đức Kitô. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một lời hứa long trọng và thành thật, hoàn toàn trung thành với nhau.
Điều làm sáng tỏ ý nghĩa của tôi hôm nay là: một đôi hôn phối, họ trung thành với Chúa, có nhiều cơ may trung thành với nhau. Kinh nghiệm và điều tra đã làm sáng tỏ điều đó: Năm 1975 trong 4 cặp có 1 cặp ly dị. Nhưng trong 57 gia đình đi lễ đều đặn chỉ có một cặp ly dị. Điều đáng chú ý là 500 cặp gia đình đọc Kinh Thánh đều đặn và cầu nguyện chỉ có một cặp ly dị.
Chúng ta không thắc mắc khi cặp hôn phối cầu nguyện với nhau, họ thường ở với nhau.
Khi một đôi hôn nhân gặp vấn đề. Họ thường thổ lộ với người khác, họ phàn nàn với lối xóm và bạn bè. Họ khóc lóc với mẹ với cha. Họ thở than với người đồng nghiệp, với người cùng hội cùng thuyền. Họ cũng có thể tin cậy ở một bác sĩ, một linh mục, một tâm lý gia, một luật sư, một cố vấn hôn nhân, một viên chức. Họ nói với bất cứ ai về tình cảnh rắc rối của họ. Nhưng họ không thưa với Chúa về điều đó. Tất cả những người nêu trên có thể cho họ lời hướng dẫn, lòng cảm thông và sự giúp đỡ nào đó. Nhưng không ai có thể nâng đỡ họ như Chúa, Đấng thông biết mọi sự và yêu thương mọi loài. Hãy đơn sơ và thành thật, bạn thân thưa với Chúa về nỗi khó khăn của bạn, chân thành và khiêm nhượng, bạn xin Chúa giúp. Nếu thật sự bạn cảm thấy mình có tội. Đừng quá dễ dãi tha thứ cho mình. Bạn xin Chúa hoán cải trái tim người có lỗi. Nếu bạn có lỗi, một lần nữa bạn hết sức khiêm nhượng xin Chúa giúp bạn thay đổi. Nếu bạn cam kết với Chúa, hai bạn cũng cam kết với nhau. Nếu bạn tập cầu nguyện riêng tư với Chúa. Hai bạn cũng sẽ cùng cầu nguyện với nhau dễ dàng. Kết quả là mọi vấn đề sẽ được giải quyết trước khi chúng trở nên trầm trọng.
Chúa ban luật cấm ly dị. Chúa sẽ giúp bạn giữ luật đó. Hãy xin Chúa giúp bạn trong Thánh Lễ hôm nay. Khi Chúa ban mình cho chúng ta trọn vẹn, chúng ta sẽ cố gắng dâng trọn vẹn chúng ta cho Chúa.
Xin Chúa chúc lành bạn.

33. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Noel Quesson)
Đừng chia cắt những gì Thiên Chúa đã kết hợp
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: “Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ; người anh cần cù lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái… Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?”.
Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu!
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Và một gia đình như vậy phải xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông, đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hòa hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều giao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: “Có được phép bỏ vợ không?”. Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật cho ly dị của Môisê. Chúa bảo đầu tiên không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều theo sự yếu đuối của con người mà tạm thời đưa ra những quy luật rộng rãi. Đã đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc tính: một vợ một chồng và không ly dị.
Chỉ có một vợ một chồng, vì hai người nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị cùng quan trọng như nhau, bổ túc cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không ai thay thế được. Và phải có tư thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên vui hạnh phúc, nhất là cho những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh thần. Không ổn định, không vững chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị lâu dài được.
Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống của đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc trong cuộc sống này trong khi mong đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau.

34. Vợ chồng bất khả phân ly
Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có được phép ly dị hay không? Bởi vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng định: Một người đàn ông lấy vợ, nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt mình, ông ta có quyền dãy vợ và đuổi vợ đi.
Đây là một vấn đề được tranh cãi rất nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương được ly dị với bất cứ lý do nào, có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý do thật nghiêm trọng và chính đáng mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài sẽ mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào thì Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.
Hơn thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình. Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và đã phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ từ thuở ban đầu thì đã không như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, để cả hai trở nên một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết luận:
– Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.
Lời xác quyết của Chúa Giêsu thì vững vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội luôn bênh vực cho tính cách bất khả phân ly của hôn nhân.
Như chúng ta đã biết gia đình là tế bào sống động của nhân loại, là nền tảng kiên vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại được là do tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.
Thực vậy, vì lợi ích của cả hai vợ chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những quốc gia mà chế độ đa thê còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một thứ đồ chơi không hơn không kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn tiếng bênh vực quyền lợi của người phụ nữ.
Tiếp đến vì lợi ích của con cái mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một mầm non, cần phải được che chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu của người mẹ. Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm người, trong đó cha mẹ chính là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể thay thế. Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một nơi, mẹ một nẻo và như thế, chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất khả phân ly.
Để duy trì được đặc tính này, dĩ nhiên chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ chính những hy sinh và từ bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.
Có lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly.

35. Bền vững
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố cho những người Pharisêu cũng như cho mọi người biết chủ trương của Ngài về hôn nhân và cũng là lề luật của Thiên Chúa, là vợ chồng phải nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly, tức là chỉ được một vợ một chồng và phải sống chung thủy với nhau suốt đời. Nói khác đi, Chúa Giêsu không chấp nhận đa phu đa thê và ly dị. Tại sao Chúa Giêsu lại chủ trương như vậy và đòi hỏi mọi người phải sống như vậy?
Trong báo Tuổi Trẻ Cười số 3 phát hành vào đầu tháng ba năm 1984, có một bài đầu đề là “Hôn nhân kiểu Mỹ” kể rằng: chuyện thay vợ đổi chồng như thay áo của người Mỹ cũng đáp ứng nhu cầu tiện dụng, bởi vì mọi thứ trong cuộc sống của họ đều phải tiện dụng, đều mang dấu vết những sản phẩm chế tạo hàng loạt. Khi nói như vậy tác giả bài báo này có dụng ý nói rằng: chuyện bỏ nhau, chuyện thay vợ đổi chồng ở Mỹ rất nhiều và rất dễ dàng. Mọi người dân Mỹ đều thuộc làu bộ luật ly dị, vì nó giản tiện hơn những bộ luật khác.
Đó là chuyện của xứ người, còn ở xứ ta thì sao? Báo chí cho biết: tại thành phố Hồ Chí Minh, qua thụ lý sơ thẩm của các tòa án quận huyện, được tòa án thành phố tổng hợp, thì hiện tượng ly hôn đã gia tăng đáng kể, đến mức báo động trong những năm gần đây. Báo chí còn cho biết thêm: phần đông đơn xin ly hôn là của những đôi vợ chồng ở lứa tuổi 30 tới 40 và có rất nhiều đôi vợ chồng mới lấy nhau từ một đến năm năm. Có bài báo, sau khi đã kể ra một số lý do dẫn đến ly hôn, đã kết luận: có những trường hợp có lý do chính đáng, nhưng cũng có những trường hợp lý do đưa ra xin ly hôn thật lẩm cẩm. Một số dẫn chứng trên cho thấy tình trạng hôn nhân ngày nay và củng cố cho điều Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay.
Bước vào hôn nhân, tất cả mọi người, ai cũng muốn được hạnh phúc, trọn đời yêu thương, và cuộc tình không phải chỉ là chuyện tháng ngày, vui thì ở, chán thì chia tay, nhưng trái lại, luôn bền vững, tươi đẹp. Chính Chúa Giêsu cũng mong muốn như thế, nên Ngài đã nâng sự kết hợp vợ chồng lên hàng bí tích, nghĩa là một sự kết hợp thánh thiện, bền chặt, biểu tượng của sự kết hợp mầu nhiệm giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Sự kết hợp này keo sơn và bền chặt, ngoài sự chết, không sức mạnh nào, không uy quyền nào có thể chia lìa. Vì thế, khi những người Pharisêu đến chất vấn Chúa: có được phép ly dị để lấy người khác không? Hẳn là họ muốn hỏi: có được thay vợ đổi chồng, đa phu đa thê không? Họ còn nại đến thế giá của ông Môsê để hỏi thử Chúa. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã điềm đạm nhắc lại cho họ biết luật nguyên thủy của Thiên Chúa là một vợ một chồng, còn việc ông Môsê cho phép bỏ nhau để lấy người khác là vì lòng dạ dân chúng thời đó cố chấp, nên ông Môsê phải nhường bộ, chứ thuở ban đầu đâu có thế. Như vậy, Chúa Giêsu đã chính thức rút lại luật Môsê và thay thế những gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân ước, nghĩa là Chúa chính thức xác nhận luật nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân, đồng thời Chúa đòi hỏi mọi người phải sống theo luật lệ này. Vì thế từ xưa cho đến nay, Giáo hội vẫn luôn trung thành tuân giữ.
Hôn nhân là vấn đề tình yêu, một tình yêu chân chính không chấp nhận chia sẻ, phân tán. Khi yêu người ta muốn chiếm trọn, muốn được chung tình, chứ không ai muốn chung chạ hay nửa đường đứt gánh. Vì thế, bất cứ khi nào tình yêu bị sứt mẻ, bị chia sẻ, bị phản bội, người ta sẽ không quản gian nguy, không ngại tai tiếng, không ngại hy sinh, để quyết bảo vệ cho kỳ được tình yêu đó, như đánh ghen, đập phá, chém giết, thuê người hành hung, tạt át xít tình địch… Tất cả những hành động đó không ngoài mục đích đòi quyền yêu và được yêu một cách tuyệt đối trong hôn nhân, không ngoài mục đích bảo vệ đạo chung thủy của vợ chồng.
Không thể có hạnh phúc trong những gia đình chồng đèo bồng vợ lang chạ, trái lại, khi “sợi giây” tơ hồng bị xé lẻ thì biết bao cảnh hỗn loạn tang thương xảy đến cho gia đình, vợ chồng sẽ không còn lòng quảng đại để tha thứ và để cảm thông nhau như trước nữa, bầu khí gia đình ngột ngạt, nghi kỵ, hằn học, ăn miếng trả miếng sẽ bùng nổ từ đây, và không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ đưa nhau ra tòa đòi ly dị. Tình trạng bi đát này sẽ gây nên nhiều đau khổ cho hai người.
Nhưng hậu quả tai hại nhất của gia đình ly dị là số phận con cái. Thật bất hạnh cho chúng, sinh lầm trong những gia đình bất hòa ấy: tâm tư tình cảm chúng bị đầu độc, chia sẻ, tình huynh đệ bị sứt mẻ héo tàn, tuổi trẻ mơ mộng bị hoen ố, lòng chúng hoang mang, mặc cảm, chán chường. Tội ác phát sinh ra tội ác, từ một gia đình thiếu tình yêu, chúng càng khao khát tình yêu khi nhìn đến anh em của những gia đình khác, chúng muốn tình thương mà lại thiếu tình thương, chúng muốn thoát ly gia đình để đòi hỏi một sự bù đắp nào đó, đòi hỏi không được thì càng gào thét, đập phá, quấy rối… và trở thành những trẻ em hư hỏng.
Trong phạm vi tự nhiên mà đã nguy hại như thế huống chi là phạm vi siêu nhiên. Gia đình là nền tảng của Giáo hội, là tế bào sống của Giáo hội. Nếu tế bào đó không sống, bị hư hỏng thì nhiệm thể đâu còn có lành mạnh được. Chúa nói: “Gia đình nào chia rẽ là tự hủy”. Trường hợp đau thương đó nếu còn được người cha hay người mẹ biết chịu đựng, nhẫn nại, hướng dẫn các con thì còn hy vọng cứu vãn được con cái, nhưng nếu “ông ăn chả bà ăn nem” thì sẽ không còn mảnh đức tin nào nữa. Chúa Kitô đã xác định rõ ràng: “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”, phân ly là mất mát, là chết chóc.
Nếu thực tại hôn nhân ngày nay đã lệch chính đạo và xa rời ý muốn của Thiên Chúa, thì nhiệm vụ đưa hôn nhân trở về nguồn là một vinh dự và cũng là một trọng trách của đôi bạn đã kết ước, của các bậc cha mẹ, của các gia đình, và của hết mọi người có nhiệm vụ rao truyền lời Chúa cho muôn dân.

36. Đời đời
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisêu đã trưng dẫn luật Môsê cho phép một người Do Thái ly dị vợ mình. Một câu trích trong sách Đệ Nhị Luật (24,1) nói rằng: “Nếu một người đàn ông thấy nơi vợ mình có điều gì chướng thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Nghe có vẻ giống như ném một cái rác vào trong thùng rác.
Nhưng Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tính vĩnh viễn và bất khả phân ly của hôn nhân. Người trích một câu trong sách Sáng Thế Ký như sau: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.
Hôn nhân là một giao ước vĩnh viễn giữa người chồng và người vợ, được ký kết trước mặt Thiên Chúa. Hai người tự nguyện thề hứa dâng hiến cuộc đời cho nhau. Giao ước này khác xa các hợp đồng kinh tế. Chẳng hạn, nếu chúng tôi muốn thuê một căn hộ chúng tôi sẽ ký một hợp đồng trong một thời hạn nhất định, có ghi rõ số năm, tháng mà chúng tôi sẽ thuê căn hộ đó. Giao ước hôn nhân thì khác hẳn. Bởi vì nó không phải là một giao kèo có thời hạn, nhưng là một cam kết dấn thân sống kết hiệp với nhau trong suốt cả cuộc đời.
Hai người phải phối hiệp với nhau. Trong hôn nhân, sự chia cách là hậu quả của những hiểu lầm. Ly dị có thể phá hủy không chỉ là cuộc sống lứa đôi mà thôi, nhưng còn phá hủy cả tương lai của con cái nữa. Vì thế, hôn nhân mang ý nghĩa một sự kết hiệp vĩnh viễn, giữa người chồng với người vợ, và còn là sự liên đới giữa cả cha mẹ với con cái nữa.
Cả hai vợ chồng sẽ trở nên một xương một thịt. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, họ không còn là hai nữa nhưng đã kết hợp nên một. Điều này có thể thấy được trong cố gắng kết hiệp của họ để giúp nhau lớn lên trong sự trưởng thành.
Để cuộc sống lứa đôi được hạnh phúc, người ta cần phải có nhiều yếu tố chẳng hạn như sự thành thật, tinh thần hy sinh, hợp nhất, sự tha thứ, tinh thần phục vụ quảng đại.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho mọi cuộc hôn nhân. Xin giúp các người làm chồng và làm vợ biết sống trung thành với lời dạy của Chúa.

37. Lởi giao ước
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Chúng ta hiểu rằng, hôn nhân được kết hợp bằng lời giao ước của hai người trong ngày đám cưới. Lời giao ước đó sẽ không bao giờ thay đổi. Đó là định luật của hôn nhân gia đình. Lời giao ước hôn nhân được dựa trên nền tảng Lời Chúa: “Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”. Lời Chúa hôm nay như là một sự nhắc nhớ cho những ai đang sống trong bậc hôn nhân gia đình, những ai đang sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình thì lời giao ước này rất có ý nghĩa và giá trị cho đôi vợ chồng để giữ lòng chung thủy với nhau. Lời giao ước này không thể xóa bỏ hay thay đổi giá trị của bí tích hôn nhân.
Dựa vào bối cảnh bài Tin mừng của thánh Maccô, chúng ta có thể phân định ra hai thái độ, đó là thái độ của người chấp nhận hôn nhân là bất cả phân ly và thái độ của kẻ chối bỏ lề luật hôn nhân là vĩnh viễn. Một số người đến gặp Chúa Giê-su hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế để muốn thử Chúa Giê-su. Người đáp: “Thế ông Mô-sê đã cho phép các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Mô-sê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” Đức Giê-su nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa liên kết loài người không được phân ly.”
Đây là lời chúc phúc và cũng là lời giao ước khi cả hai người thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Lời cam kết đó thì rất thiêng liêng, nó như là di sản quý giá để hai vợ chồng hứa gắn kết với nhau suốt đời. Ấy thế mà lời giáo ước đó ngày nay, con người ta dễ dàng phá bỏ. Có bao giờ họ nghĩ lời hứa với nhau trong ngày thành hôn không? Họ nói gì! Họ thề hứa giữ lòng chung thủy với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng nhu lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).
Những lời thề hứa thì ngọt ngào và đầy lãng mạn mà họ trao cho nhau: “Sau ngày hôm nay, anh chính thức là chồng và là người sẽ luôn yêu thương và che chở cho em đi hết cuộc đời. Anh hứa sẽ luôn chăm sóc và bảo vệ em trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nếu em cười, anh sẽ cùng cười với em, nếu em khóc, anh sẽ là bờ vai vững chắc. Và cho dù cuộc sống này có dẫn đến điều gì đi chăng nữa, thì anh cũng sẽ luôn ở lại bên cạnh em.”
Lời thề của người vợ: “Anh yêu, anh sẽ là người chồng mà em hằng yêu thương, tôn trọng, ngưỡng mộ và tin tưởng suốt cuộc đời. Hôm nay, em thực hiện một cam kết trước khi Thiên Chúa và tất cả những người thân yêu rằng, con đường phía trước sẽ chỉ có em và anh. Em sẽ luôn làm cho anh cười cho đến khi anh mỏi mệt. Enh hứa sẽ luôn luôn bên cạnh anh, và là người vợ tuyệt vời nhất bằng cả trái tim mình.”
Khi yêu nhau thì hứa với nhau đủ điều, khi sống với nhau rồi thì lời hứa như gió thoảng bay. Người ta dễ quên đi lời thề, đánh mất đi hạnh phúc trong tầm tay, và tình yêu của thuở ban đầu. Tình yêu là sự kiên nhẫn, tình yêu là lòng vị tha và tình yêu cũng là sự chấp nhận lẫn nhau. Tình yêu là một điều thật đẹp đẽ trên thế gian. Lời thề nguyện sẽ kề vai sát cánh bên nhau vượt qua dẫu bệnh tật hay khỏe mạnh, dẫu nghèo khó hay giàu có. Hãy nhớ lời thề hứa với nhau để đi đến cuối con đường cuộc đời. Không có gia đình nào là hoàn hảo, nhưng gia đình luôn mang lại sự yêu thương, che chở, nâng đỡ, chăm sóc, ủi an, niềm vui và hạnh phúc.
Gia đình là một ngôi nhà an toàn cho ta trú ngụ trong cuộc đời.
Gia đình là nơi ta học cách yêu thương, quan tâm, chăm sóc người khác và bản thân ta.
Gia đình là nơi ta học được cách sống, giao tiếp, yêu thương, khoan dung và tha thứ.
Gia đình là nơi cho ta giải bày tâm sự. Gia đình là chỗ dựa tinh thần và thể xác tốt nhất.
Gia đình cho ta những bữa cơm ấm áp đầy yêu thương và chia sẻ mà ai đi xa cũng nhớ về.
Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria chúc lành cho gia đình chúng con. Amen.

38. Vấn đề gia đình
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Ai cũng có một gia đình, thế nên chẳng ai lạ gì về gia đình, nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì chắc chắn không là chuyện đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ!
Trong Mười Điều Răn được Thiên Chúa truyền qua ông Mô-sê, có một điều răn nói về gia đình: Điều răn thứ tư. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình thuộc dạng “tế bào gốc”, và gia đình còn được hiểu theo dạng “đại gia đình”.
Điều răn này được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Điều răn này quan tâm hệ lụy thân thuộc giữa các thành viên trong gia đình và dòng tộc. Điều răn này đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn ở mức rộng hơn, đó là đề cập trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo đất nước. Thật đa dạng chứ không như chúng ta tưởng.
Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng”. Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ gia đình – đặc biệt là các nhân đức, nhưng sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) nói: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó”.
Trong chuyến Tông du Cuba, ĐGH Phanxicô đã gặp gỡ với các gia đình tại nhà thờ chính tòa Santiago ngày 22-9-2015. Sau khi nghe một bà mẹ trẻ và một người cha của 3 đứa con nói về hy vọng của mình, ngài đã mô tả gia đình là các trung tâm nhân văn và hơi ấm.
ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Chúng ta ở đây như một gia đình! Và bất kỳ lúc nào chúng ta đến với nhau như một gia đình, chúng cảm thấy mái ấm. Cảm ơn các gia đình Cuba. Cảm ơn người dân Cuba vì, trong những ngày này, đã cho tôi được cảm nhận là một phần của gia đình, vì cho tôi được cảm nhận mình trong mái ấm. Buổi gặp này như ‘trái cherry trên cái bánh’ vậy. Kết chuyến viếng thăm Cuba của tôi bằng cuộc gặp quy tụ các gia đình là một lý do để tạ ơn Chúa vì ‘hơi ấm’ lan tỏa từ những con người biết chào đón và chấp nhận người khác, cho người đó được thấy mình trong mái ấm”. Thực sự gia đình rất quan trọng, dù nhỏ hay to, dù giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm”, và gia đình là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo hội. Khi mặc xác phàm, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.
Gia đình liên quan hôn nhân. Bắt đầu một gia đình là bắt đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian là Adam, Thiên Chúa xác nhận: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2:18a). Vì thế, Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18b).
St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.
Nhìn thấy “sinh vật lạ”, vừa giống mình mà lại vừa khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời là thế mà. Nam châm khác dấu thì hút nhau dữ lắm nghen! Con người khoái chí nên nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Việt ngữ gọi “” đó là em, là phụ nữ, là nội tướng. Và Kinh Thánh đã nói rõ: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Hay quá sức! Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng vẫn gọi nhau là “mình ơi!”. Độc đáo quá chừng!
Đó mới chỉ là bước khởi đầu tạo lập một gia đình. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, thế nhưng vấn đề quan trọng là những ngày tháng tiếp theo, không chỉ vài tháng hoặc vài năm, mà kéo dài cả phần đời còn lại, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ”. Vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không thì mới là vấn đề!
Giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) qá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa có “ấm hơi” mà đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân của sự việc đáng buồn này là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thật tồi tệ!
Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha, vì hạnh phúc của chính mình và của người bạn đời. Tuy nhiên, hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi và nước mắt. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc thật kỳ diệu, hạnh phúc ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2). Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia!
Sự thật rất minh nhiên, không hề mơ hồ chút nào: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Ước mơ đó là của bất kỳ ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay tại trần gian này. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc cho mọi người: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).
Quả thật, có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Có ơn Chúa, chúng ta có biết đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17:17). Sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô được mời phát biểu tại phiên họp Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong diễn văn này, ngài đã gọi Hoa Kỳ là “vùng đất của tự do và ngôi nhà của người can đảm”. Ngài đề cập vấn đề duy trì phẩm giá con người, bảo vệ môi trường, và kêu gọi chú ý đến các thành viên gia đình – đặc biệt là những người trẻ. Con người và môi trường có liên quan với nhau – môi trường thiên nhiên, môi trường gia đình và môi trường tâm linh.
Trong gia đình, vai trò cha mẹ rất quan trọng. Ước gì mỗi cha mẹ đều biết tâm nguyện sâu sắc điều này: “Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo – Parare Domino plebem perfectam”. Đó là một cách truyền giáo tích cực, là tân Phúc Âm hóa thực tế, là làm cho “Danh Cha cả sáng và Nước Cha trị đến” – không cần phải làm gì to lớn.
Làm cho gia đình hạnh phúc bằng những tiếng cười thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ”. Coi vậy chứ không dễ đâu đấy! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9).
Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc. Tất cả chúng ta, không phân biệt bất cứ điều gì, đều là thành viên của Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em“” (Dt 2:10-11). Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!
Nói đến gia đình là nói đến hạnh phúc, gọi là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì hóa thành tổ lạnh, là bất hạnh. Hạnh phúc gia đình thiếu vắng sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dạng “ly” nào cũng là “chia ly”, dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh cho con cái – và chính cả hai vợ chồng!
Theo trình thuật Mc 10:2-12, một hôm có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Ca dao Việt Nam rất chí lý khi đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Cách “kê” rất quan trọng. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau. Dù chỉ là giống về bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là tha thứ.
Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành”. Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa.
Những người đã lập gia đình, hãy cố gắng sống “tương kính như tân”, và đừng quên rằng chính mình đã long trọng thề hứa với nhau trước mặt vị đại diện Giáo hội và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em”.
Lời hứa đó không là hứa cho vui, hứa cho xong lần, hứa cho đủ nghi thức, nhưng là lời hứa có tính chất “thề” (thề “độc” chứ không thề thường đâu). Mà lời thề thì không ai “giải” được, vì đó là lời thề với Thiên Chúa!
Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Hệ lụy tội lỗi thật đáng sợ! Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Đó là sự liên lụy tội lỗi.
Lạy Thiên Chúa, Nguồn Mạch Yêu Thương, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đán về giá trị gia đình, nhờ đó mà chúng con có thể tuân giữ Thánh Luật của Ngài, đó là biết tích cực bảo vệ gia đình, bảo vệ nhân phẩm con người và duy trì luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

39. Bài toán lạ
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chắc hẳn bài-toán-hôn-nhân là bài toán “lạ” nhất, đơn giản nhất, khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1+1=1, thế nhưng bài toán này vẫn hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19:5). Hôn nhân Công giáo có “đặc điểm” khác hẳn các hôn nhân khác nhờ hôn luật thánh: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:6).
Từ thuở hồng hoang, sau khi tạo dựng con người, Đức Chúa là Thiên Chúa đã phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Một cách quan phòng và tiền định kỳ diệu của Thiên Chúa. Điều đó cho thấy tiền đồ của Ngài là muốn con người sống hài hòa với nhau, liên kết với nhau, cùng chia sẻ vui buồn và tận hưởng hạnh phúc.
Và rồi Ngài “lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19). Thiên Chúa tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị. Hạnh phúc quá! Tuy nhiên, sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:10). Vì thế, Ngài “cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào” (St 2:21). Nghe kể việc Chúa làm thật là chuyện lạ, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho là “ma thuật”, nhưng không, hoàn toàn đó là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và chỉ một mình Ngài làm được như vậy!
Sau đó, Ngài lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra – ý nói “con người” ở đây là “đàn ông”, Ngài làm thành một “sinh vật lạ”, và dẫn đến với con người. Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24).
Có những đàn ông “tự đề cao” mình và “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên đàn ông trước, đàn bà là “sản phẩm” của đàn ông, là cấp dưới nên phải “lệ thuộc” đàn ông. Thậm chí người ta còn quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao?
Nhóm Xa-đốc gồm những người không tin có sự sống lại, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Mô-sê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có con. Hết thuốc chữa! Nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì cô ta sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em kia. Bọn họ chắc mẩm Chúa Giêsu sẽ “bó tay”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói chắc hơn hàn xì: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36). Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt”, chẳng biết Kinh thánh chứ nói chi biết đến quyền năng Thiên Chúa.
Thời kỳ sáng thế cũng vậy thôi. Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam, nữ, hoặc đồng giới. Thế nên người ta vô tư mà “ở mát”: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2:25). Chỉ sau khi phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ nên muốn… độn thổ! Bởi vì “bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7).
Nam và nữ “thu hút” nhau như hai cực nam châm trái dấu, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là liên kết để tạo một gia đình mới – tế bào cơ bản của xã hội. Hôn nhân đòi buộc sự chung thủy một vợ, một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn:
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
Sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự của người vợ:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Sự chung thủy ấy cũng được thể hiện qua lời tâm sự của người chồng:
Tay cầm quyển sách bìa vàng
Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu
Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng”, không hề sóng sánh. Luật chung thủy không chỉ “bắt buộc” ở người vợ mà cả ở người chồng. Vì khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo hội và cộng đoàn Dân Chúa, ai cũng vui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”. Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một”, vì thế mà không ai lại tự “xẻ” mình ra!
Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn. Hôn nhân là một ơn gọi và là bí tích, hôn nhân Công giáo là hôn nhân thánh. Tác giả Thánh vịnh chúc mừng: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hôn nhân là hành trình đầy trọng trách và gian khó, nhưng bù lại cũng nhiều niềm vui, có thể nói rằng hôn nhân là “nỗi đau ngọt ngào”. Đó là niềm hạnh phúc độc đáo trong hôn nhân! Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay cay, chính vị cay đó khiến người ta nghiện ăn trầu.
Và niềm hạnh phúc đó chính là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Một lần nữa, tác giả Thánh vịnh cầu chúc cho những người sống đời hôn nhân: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình” (Tv 128:5-6).
Thánh Phaolô phân tích: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu” (Dt 2:9a). Thật vậy, “Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9b). Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10).
Thiên Chúa là Đấng chí nhân, Ngài không muốn ai phải hư mất, mà chỉ muốn tất cả chúng ta cũng được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc với Ngài. Đó là Tình Yêu Chúa, đó là Lòng Chúa Thương Xót. Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, “những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2:11), vì thế, Ngài đã không hề hổ thẹn gọi chúng ta là huynh đệ – dù chúng ta quá khốn nạn, xấu xa và tội lỗi. Thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta từ “không” mà biến thành “có”!
Mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1:28). Mục đích của hôn nhân còn là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
(Mc 10:2-16)
Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10:2). Họ chẳng tốt lành gì, hỏi han cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ muốn thử Ngài, muốn “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” (Mc 10:3). Họ ra chiều vẫn “vô tư” khi trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10:4). Đức Giêsu chơi liên khúc với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mc 10:5-8). Và Ngài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:9). Đúng là họ “dốt đặc cán mai” mà vẫn muốn tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông đập lưng ông. Bọn họ đành ngậm bồ hòn mà “câm như hến”!
Ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch”, thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai làm sai là phạm tội.
Lúc đó, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Ngài bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10:14). Thấy các đệ tử mình theo mình mà chẳng giống mình, thế nên, dù Ngài rất nhân từ và hiền lành mà còn phải “nổi nóng” thì hẳn là chuyện không vừa, chắc chắn các môn đệ phải xua đổi các trẻ em dữ lắm. Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:15). Thánh Mátthêu còn kể rõ: “Ngài ÔM lấy các trẻ em và đặt tay CHÚC LÀNH cho chúng” (Mt 10:16).
Lại một Bài Toán Lạ nữa đối với tất cả chúng ta về “bí quyết” để làm công dân Nước Trời!
Lạy Thiên Chúa là Đấng Trung Tín, xin giúp những người sống đời hôn nhân luôn sống trung thành với lời hứa yêu thương, biết yêu quý trẻ em và học ở chúng bài học đơn sơ, đặc biệt là giúp chúng con luôn sống trung thành với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

40. Bà mẹ tên ‘Hale’
Lorraine Hale dừng xe khi đèn đỏ ở một ngã tư, bà nhìn thấy bên lề đường có một chị, dáng như nghiền xì ke, đang bồng một đứa bé.
Sau khi đèn xanh nổi lên thì Lorraine đạp ga và bà lái tiếp. Nhưng một cái gì đó đã nói với bà là bà phải trở lại cái chỗ vừa rồi. Bà liền quay trở lại và nói với người đàn bà nghiền xì ke kia rằng:
“Này, chị đang có những vấn đề nan giải và chị cần sự giúp đỡ. Chị hãy mang baby của chị đến nhà mẹ của tôi. Bà ấy sẽ giúp chị.”
Người đàn bà nghiện xì ke nhìn Lorraine một cách không hiểu. Loraine lập lại lời bà nói tới ba lần. Sau đó, bà đã viết địa chị nhà của mẹ bà và nhét vào tay người đàn bà nghiện xì ke.
Sáng hôm sau, người đàn bà nghiện xì ke đã đến trước cửa gia đình bà Hale. Đứa con bà đang bồng trên tay run cầm cập, xổ mũi, và còn bị tiêu chảy nữa. Đứa bé đang chịu sự giày vò của sự thiếu thuốc xì ke.
Các trẻ em của những người mẹ nghiện xì ke khi chào đời thì thường là những đứa bé nghiện xì ke. Chúng đã bị nghiện xì ke từ khi còn trong lòng người mẹ.
Mẹ của Lorraine thường được hàng xóm gọi là ‘Mother Hale’ (bà mẹ tên Hale) đã ẵm lấy đứa bé, chữa trị nó trong thời gian chờ cho nó cai nghiện thuốc.
‘Mother Hale’ đã không biết rằng nghĩa cử của bà đối với một người đàn bà nghiện xì ke đó đã biến đổi cuộc đời của bà.
Dần dần, lời đồn đã vang đi và các bà mẹ nghiện xì ke khác đã mang con mình đến cửa của ‘Mother Hale’.
Có lúc, ‘Mother Hale’ đã có đến cả hơn 20 em bé nghiện xì ke trong nhà bà. Một đôi lúc, bà hết cả tiền bạc để mua thức ăn và quần áo cho chúng. Nhưng bà đã cố gắng để thu xếp cho ổn thỏa.
Trong vòng 16 năm, ‘Mother Hale’ đã giúp 600 em bé cai nghiện thuốc xì ke. ‘Mother Hale’ chia sẻ rằng: “Thường là khoảng thời gian bốn đến sáu tuần để cai nghiện. Những đứa bé khóc lóc rất thảm thương và mình chỉ có thể làm một điều là ẵm chúng và yêu thương chúng.”
Tiếp theo đấy, một chuyện không ngờ đã xảy ra cho ‘Mother Hale’ và đã biến đổi cuộc đời của bà. Một người nào đó đã nói về ‘Mother Hale’ cho tổng thống Reagan. Tổng thống rất cảm động và ông đã nhắc đến trong cuộc diễn thuyết toàn quốc rất quan trọng trong năm là ‘State of Union’. Sau đó, TV đã chiếu hình ‘Mother Hale’, một người đàn bà 81 tuổi đang chảy những giọt nước mắt trên gò má.
‘Mother Hale’ đã trở thành một nhân vật nổi tiếng qua một đêm. Các báo chí đã đăng tải các tin tức về bà. Đồng thời các chương trình TV đã mời bà đến để phỏng vấn và nói chuyện. Qua đó, ‘Mother Hale’ đã được các nơi gởi tiền về để giúp bà thành lập thành một trung tâm với tất cả những tiện nghi và người làm. Nhiều thành phố khác đã cố gắng gặp bà để xin bà cho biết ý kiến hầu cũng thành lập các trung tâm để giúp những đứa bé nghiện xì ke.
Câu truyện về ‘Mother Hale’ thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay, khi các bà mẹ đã đem các con trẻ của họ đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay chúc lành. Và Chúa Giêsu đã nói: “Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng bởi vì Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng.” Chúa Giêsu đã “ôm chúng và chúc lành cho chúng” với tất cả tấm lòng yêu thương.
Và qua cách sống đó, chúng ta được truyền đạt để muốn làm một điều gì đó trong cuộc đời chúng ta.
Khi ‘Mother Hale’ giơ tay ra để bồng ẵm lấy đứa trẻ nghiện xì ke đầu tiên, bà đã không có một ý nghĩ gì về việc làm này của bà sẽ gây ảnh hưởng tới muôn triệu người do một hành vi tình yêu đó.
Bà đã không có một ý nghĩ gì về 16 năm trong tương lai điều bà làm sẽ trở nên một sự phản ứng để giúp đỡ cho muôn vàn trẻ em xấu số.
Bà đã không có một ý nghĩ gì về những hậu quả nối tiếp sẽ tiếp nối theo thành phố Harlem đến những thành phố khác.
Bà đã không có một ý nghĩ gì rằng Thiên Chúa sẽ dùng bà để bắt đầu một chương trình quan trọng mới hầu giúp ích cho những đứa trẻ đau thương trong thời đại chúng ta.
Trung Hoa có câu ngạn ngữ như sau: “Cuộc đời một đứa bé giống như một tờ giấy để các nét chữ được viết lên.”
Dấu vết của ‘Mother Hale’ là một dấu vết tuyệt vời mà bà đã in trên cuộc đời của hàng ngàn đứa trẻ.
Điều đó thật là tuyệt vời và nó làm cho chúng ta cũng muốn để lại những dấu vết tương tự trên muôn ngàn con trẻ mà chúng ta gặp hằng ngày trong cuộc đời chúng ta, nhất là trên con cháu chúng ta. Chúng ta mong muốn để lại trên chúng dấu vết của Chúa Giêsu để chúng có thể sau này cũng sẽ để lại dấu vết ấy trên con cháu của chúng ta.

41. Trẻ thơ
Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào đâu.
Tục ngữ Ả Rập có câu:
– Hương thơm của tuổi thơ thì xuất phát tự thiên đàng.
Còn người Ấn Độ thì bảo:
– Thức uống làm cho người ta hết khát, đó là nước. Trái cây làm cho người ta được lại sức, đó là trẻ thơ.
Những ý tưởng này đã gợi lên phần nào những nét đẹp của tuổi thơ. Thực vậy, những người đã lớn, khi nghĩ về tuổi thơ, bao giờ cũng cảm thấy một cái gì dịu mát và êm đẹp. Bao giờ cũng hối tiếc vì nó đã vuột khỏi tầm tay của mình.
Người ta đã gọi tuổi thơ là tuổi thiên thần. Vẻ đẹp của tuổi thơ không phải chỉ ở nơi mái tóc đen nhánh, ở nơi cặp mắt trong sáng hay ở nơi thái độ nhí nhảnh và nhõng nhẽo. Vẻ đẹp chính yếu của tuổi thơ là vẻ đẹp của tâm hồn. Nhờ vẻ đẹp này mà Chúa Giêsu luôn yêu thương, chúc lành cho các em, rồi đã lấy các em làm tiêu chuẩn, làm điều kiện, làm khuôn mẫu cho những ai muốn được vào Nước Trời:
– Ai không trở nên như trẻ nhỏ, thì chẳng được vào Nước Trời đâu.
Vậy vẻ đẹp tâm hồn của tuổi thơ là gì? Tôi xin thưa trước hết đó là sự đơn sơ.
Thực vậy, cặp mắt của tuổi thơ là cắp mắt của chim bồ câu, như lời Chúa đã so sánh:
– Hãy đơn sơ như chim bồ câu.
Nhìn vào cặp mắt đó, người ta sẽ thấy phản chiếu lên một sự trong sáng. Tuổi thơ không tính toán cộng trừ nhân chia. Không âm mưu, không phức tạp nhưng trước sau như một, không nghi lễ kiểu cách, không bôi bác giả hình, không rào trước đón sau…Các em hoàn toàn tin tưởng vào những lời chỉ dạy của cha mẹ, của thày cô, không một chút nghi ngờ và thắt mắc.
Từ đó, tôm hồn các em mang một nét đẹp thứ hai, đó là sự thành thật. Tục ngữ Việt Nam đã nói:
– Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
Trước khi lên đường đi phương xa, chúng ta thường phải hỏi ý kiến những người già cả vì họ đã từng trải và có thể chỉ dạy cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá. Trái lại, khi trở về nhà, muốn biết những gì đã xảy ra trong thời gian vắng mặt, chúng ta cứ hỏi các em nhỏ. Chúng sẽ không ngần ngại kể lại tất cả đúng với sự thật mà chúng đã ghi nhận, cho dù sự thật ấy, người lớn nhiều khi rất muốn dấu diếm.
Thái độ thành thật này cũng là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:
– Có thì nói có, không thì nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Một ông bố muốn trốn chủ nợ, bèn sai con ra nói với người khách bất đắc dĩ rằng:
– Bố cháu đi vắng.
Đứa nhỏ mở cổng, rồi lễ phép nói với người khách:
– Thưa bác, bố cháu sai cháu ra nói với bác rằng bố cháu đi vắng.
Đơn sơ và thành thật mà thôi chưa đủ, đặc tính thứ ba nổi bật nơi tuổi thơ, đó là sự phó thác. Thực vậy, các em cảm thấy mình nhỏ bé trước mặt cha mẹ, vì các em chưa có nghề nghiệp để tự túc tự cường, chưa có tiền bạc để sinh sống, chưa có đủ sức mạnh để chống trả với những hiểm nguy.
Chẳng hạn một em nhỏ bị đứa bạn xử ức, em khóc và không thể làm gì được. Thế nhưng, biện pháp cuối cùng em có thể thực hiện, đó là chạy về méc bu. Hay khi gặp một con chó dữ từ đàng xa xông tới, em sẽ làm gì? Chạy trốn thì không được mà chống cự thì cũng chẳng xong. Bấy giờ em sẽ không ngần ngại kêu ba, kêu má đến giúp dỡ. Đi bên ba má, em sẽ cảm thấy được an toàn.
Tuổi thơ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, nơi người lớn mà chẳng cần biết đến lý do, mà không lo đến hậu quả. Đó cũng chính là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:
– Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo cũng không gặt, thế mà chẳng con nào bị chết đói. Bộ các con không trọng hơn chim trời hay sao?
Cho đến bây giờ, Chúa vẫn hằng yêu thương chúng ta, miễn là chúng ta luôn giữ được những nét đẹp của tâm hồn tuổi thơ: đó là thành thật, đơn sơ và phó thác cho tình thương của Ngài.

42. Hôn nhân
Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân. Phần thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất chính là đoạn Tin Mừng thường được đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Đề tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không. Và luật Do thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu: “Có được phép ly dị không?” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược lại, nếu Ngài bảo được, thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời thế nào?
Chúa hỏi lại họ: “Ông Mô-sê truyền dạy thế nào?”. Thật sự trong Cựu ước không có một chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa thế nào? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Đó là trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có làm giấy ly dị đàng hoàng, nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này ký giấy ly dị, thì người chồng thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn tụ với nàng, cũng không được phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến vấn đề người chồng cũ có quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không? Luật trả lời không được. Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia đình của người Do thái cho phép chồng ly dị vợ.
Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”, nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai đang sống trong sự nên một ấy phải tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn mãi, không những một thân xác mà một tâm hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một đóa hoa, một trái ngọt ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Giáo hội.
Còn những người chuẩn bị đi vào cuộc sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để sự nên một ấy có thể được thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con người có nam có nữ để rồi nam nữ thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn nhân là chuyện của hai người trong cuộc. Những người khác dù là cha mẹ, vẫn phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người này người khác. Người ta đã coi đó là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong vấn đề hôn nhân.
Xin Chúa cho những ai đang sống đời hôn nhân luôn trung thành với nhau; và những ai sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.

43. Không tốt
Khi chúng ta còn là trẻ nhỏ; để sống còn, chúng ta cần có những người khác. Và khi đến cuối cuộc đời, chúng ta cũng cần có những người khác để sống còn. Và đây là một bí quyết: khoảng giữa cuộc đời, chúng ta cần có những người khác.
Kinh thánh nói: “Người ta ở một mình không tốt”. Một đôi khi, ở một mình đối với chúng ta là điều tốt và cần thiết. Nhưng đây không phải là một điều kiện thường xuyên. Con người là con vật có tính xã hội. Chúng ta không tự mình mà hoàn chỉnh. Nhân tính không thể có được trong sự đơn độc. Chúng ta cần đến những người khác. Cảm thấy có nhu cầu này không phải là dấu chỉ của sự bệnh hoạn mà là dấu chỉ của sự lành mạnh. Sự không lành mạnh do đó được định nghĩa như là một điều kiện trong đó người ta không thể tiếp xúc với người khác.
Con sư tử nguy hiểm nhất không phải là một con sư tử sống thành bầy hoặc có tiếng gầm to nhất mà là một con sư tử bước đi một mình trong thinh lặng. Những kẻ giết người hàng loạt hầu như lúc nào cũng trở thành những người cô độc và giận dữ. Người phạm tội tự sát thường là những người rơi vào tình trạng hoàn toàn cô lập.
Sự cô lập là một hoàn cảnh đau khổ hơn hết. Nó làm cho người ta quay về với chính mình và có thể dẫn đến bạo lực và rượu chè. Sự sợ hãi, sỉ nhục, phạm tội làm cho người ta muốn ở lỳ mãi trong sự cô lập của họ.
Trước hết, Thiên Chúa đã cho Ađam các thú vật. Nhưng Ađam không tìm thấy trong các con vật ấy người phối ngẫu phù hợp với mình. Một bản nghiên cứu được thực hiện trong số những người già ở Mỹ. Khi được hỏi ai là người ở gần họ nhất? Hai phần ba trong số người được hỏi đã trả lời đó là con chó hoặc con mèo cưng của họ. Thật đáng buồn.
Rồi Thiên Chúa đã cho Ađam một người phụ nữ, Evà. Và ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông nhận ra bà là người đồng hành và là người phối ngẫu của ông. Bà được làm ra bởi cùng một vật liệu như ông, có cùng một nhân phẩm như ông và do đó bình đẳng với ông. Một cộng đoàn thật sự chỉ có thể được thiết lập giữa những người bình đẳng.
Trong hôn nhân, Thiên Chúa đáp ứng nhu cầu của con người về tình bạn, sự đồng hành, sự thân mật và ấm cúng – chúng ta thiết tha mong ước những điều đó nhưng tìm thấy rất khó. Những nhu cầu ấy cũng có thể được đáp ứng khi phụ thuộc vào một cộng đoàn. Và những người có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa sẽ không bao giờ cô độc nữa.
Khi con người kết hôn họ đem đến với hôn nhân không chỉ sức mạnh của họ mà cả sự yếu đuối của họ. Tất cả chúng ta đều bị tội lỗi và lòng ích kỷ làm tổn thương. Đi vào hôn nhân là đi vào một trường học yêu thương, một trường học trong đó mọi người đều là những học sinh chậm chạp. Dây liên kết mà hai người cam kết trong ngày hôn lễ không được làm bằng vật liệu không hư hỏng, nhưng bằng vật liệu của con người và do đó có thể bị gãy đổ. Chỉ có một dây liên kết không gãy đổ là dây liên kết mà Thiên Chúa hình thành với chúng ta trong Đức Kitô.
Những điều gì làm cho dây liên kết hôn nhân bị yếu đi? Thiếu sự tôn trọng, thiếu sự hiệp thông, tính ích kỷ và trên hết là sự không trung tín. Sự tôn trọng, hiệp thông, lòng vị tha và trung tín làm sự liên kết trở nên mạnh mẽ.
Những mối quan hệ phải được củng cố, xây dựng. Nếu thờ ơ, lãnh đạm chắc chắn chúng giống như một khu vườn không có người chăm sóc. Người ta không nên e sợ mà phải đi tìm sự giúp đỡ nếu mình cảm thấy khó khăn trong hôn nhân. Những mối quan hệ vượt qua dông bão trở nên sâu xa hơn. Các cặp vợ chồng phải cương quyết đặt hôn nhân của họ và con cái họ lên trên những thành công về kinh tế.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng không thể phân ly không phải là sự bày đặt của các giáo sĩ. Nó được chứng minh mạnh mẽ trong nhu cầu đặc biệt của con cái. Chúng phải được nuôi dưỡng và chăm sóc trong một thời kỳ lâu dài, dài hơn bất cứ một thành viên nào của các chủng loài động vật khác.

44. Cam kết
Harold Kushner một giáo trưởng người Mỹ kể lại câu chuyện một cặp vợ chồng trẻ đến tìm ông vào một buổi tối nọ. Hôn lễ của họ sắp đến và ông là người làm lễ trong hôn lễ ấy. Anh thanh niên nói với ông về một vấn đề: “Thưa giáo trưởng, hẳn là giáo trưởng sẽ không phản đối nếu chúng con thay đổi chút ít trong nghi thức lễ cưới? Thay vì tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới lúc cuối đời, liệu chúng con có thể tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới khi nào tình yêu còn tồn tại? Chúng con đã nói với nhau về điều đó và chúng con cảm thấy rằng nếu một ngày nào đó chúng con không còn yêu nhau nữa thì về mặt tinh thần chúng con không gây cản trở cho nhau”.
Nhưng vị đạo trưởng đáp: “Tôi phản đối và tôi không thay đổi. Anh chị và tôi biết rằng có một điều như ly dị và chúng ta biết rằng nhiều cuộc hôn nhân ngày nay không kéo dài đến lúc một trong hai người qua đời. Nhưng anh chị hãy để cho tôi nói với anh chị một điều. Nếu anh chị đến với hôn nhân mà có thái độ “Nếu nó không êm xuôi thì chúng ta có thể chia tay”, tôi có thể bảo đảm với anh chị rằng vì suy nghĩ ấy của anh chị mà những việc đó sẽ không êm xuôi”.
“Tôi tán thưởng sự chân thật của anh chị. Nhưng anh chị phải hiểu rằng một cam kết hôn nhân không chỉ là ước muốn sống chung với nhau, nhưng là một lời cam kết chấp nhận những sự chán nản thất vọng vốn là một phần không thể tránh khỏi trong quan hệ của hai con người bất toàn. Ngay lúc bắt đầu cuộc hôn nhân việc chia sẻ cho nhau mọi việc đã là rất khó. Nhưng nếu chỉ đặt một phần của mình vào mối quan hệ ấy thì hầu như anh chị không có cơ may?”
Kết quả là mối quan hệ mong manh, thử nghiệm chắc chắn sẽ thất bại. Có những người bước vào hôn nhân và mong đợi nó làm cho đời sống họ lúc nào cũng thích thú và khi gặp đau khổ, và xung đột họ chỉ muốn lìa bỏ nhau.
Khi hai người kết hôn đời sống họ được liên kết với nhau. Từ đó mà họ có một số phận chung. Họ đã cam kết với nhau và có trách nhiệm lẫn nhau. Như thế Thiên Chúa đóng dấu và chúc phúc mối quan hệ này. Tuy nhiên, mối liên kết ấy không được làm bởi vật liệu không thể gãy đổ. Nó do con người tạo ra, nên nó là vật liệu không hoàn hảo.
Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương – nhận và cho tình yêu. tuy nhiên, khả năng yêu thương không phải là một vật mà Người ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thật sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.
Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đưa hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi.
Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc.

45. Tuổi thơ
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Người nào không trở nên giống như trẻ nhỏ sẽ không vào được Nước Trời”. Chúng ta thường nhìn tuổi thơ như một giai đoạn từ đó mình phải lớn lên và hoàn toàn để lại phía sau như thể không có gì ở đó đáng để giữ lại.
Chúng ta phải phân biệt giữa giống như trẻ nhỏ và ấu trĩ. Au trĩ có nghĩa là không trưởng thành, hay hờn giận, ngớ ngẩn, thiếu trách nhiệm… Trẻ nhỏ không phải là những thiên thần. Chúng ta phải trưởng thành ra khỏi những điều đó. Tuy nhiên có những phẩm chất giống như trẻ nhỏ và đáng yêu mà chúng ta phải cố gắng giữ lấy như tính cởi mở, nhạy bén, cảm giác về điều kỳ diệu, khả năng sống trong hiện tại.
Khổ nỗi, chúng ta thường đánh mất một vài phẩm chất của trẻ nhỏ và giữ lại những điều xấu nhất. Chúng ta thôi không giống trẻ nhỏ nhưng vẫn tiếp tục ấu trĩ. Chúng ta đã đánh mất gì khi tuổi thơ của chúng ta qua đi?
Óc tưởng tượng của tuổi thơ mạnh mẽ vô cùng. Mỗi đứa trẻ được ban cho một ý thức, một ý thức về điều kỳ diệu. Cái nhìn của chúng mới mẻ và rõ ràng. Words Worth đã nói rất hay: “Thiên đàng của chúng ta ở trong tuổi thơ”. Các trẻ nhỏ nhìn mỗi vật như thể đó là lần đầu tiên chúng trông thấy. Tham vọng của Picasso là vẽ tranh giống như một đứa trẻ. Ông nói rằng nghệ thuật nên đánh thức chúng ta để nhìn thế giới bằng một cái nhìn mới mẻ như cái nhìn của trẻ thơ. Trẻ thơ dạy chúng ta sống như thế nào. Chúng chưa sống theo những lối mòn xưa cũ, hoặc trở thành tù nhân của tập tục, thói quen và thành kiến. Chúng luôn luôn là chính chúng. Điều này làm cho chúng lôi cuốn và độc đáo.
Hạnh phúc là tình trạng tự nhiên của trẻ thơ. Chúng có khả năng rút ra sự thích thú từ những sự vật đơn giản. Một con búp bê cũ kỹ có thể làm cho tâm hồn một trẻ nhỏ vui sướng sáu tháng liền, còn người lớn thì không cần nhiều đến thế. Tại sao? Bởi vì người lớn đã đánh mất tâm hồn của một trẻ nhỏ. Nhiệm vụ của Giáo hội là giữ cho tâm hồn trẻ thơ luôn sống động.
Không gì dễ hơn là để cho đời sống tiếp tục làm cho tâm hồn mình trở nên già cỗi, khô khan và trắng trợn, sỗ sàng và ích kỷ. Trẻ nhỏ để cho chúng ta tiếp xúc với sự hiền lành và ngây thơ của chúng, để chúng ta bỏ bớt cuộc đấu tranh quyết liệt để sinh tồn. Chúng làm sống lại trong chúng ta cảm thức về điều kỳ diệu và chính cảm thức này hơn bất cứ điều gì sẽ giữ cho chúng ta luôn được trẻ trung.
Khi Đức Giêsu nói với chúng ta: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không vào được Nước Trời”. Người muốn nhắc lại tuổi thơ đã đánh mất của chúng ta để chúng ta được tái sinh trong tính cách ngây thơ cho dù thân xác chúng ta đã già yếu.
Đức Giêsu nói rằng chúng ta không thể vào Nước Trời nếu như chúng ta không đón nhận nó như một trẻ thơ. Nước Trời là một quà tặng. Trẻ nhỏ thích hợp với Nước Trời hơn bởi vì chúng biết phải nhận quà tặng như thế nào. Người nào không biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Nước Trời như một quà tặng, người ấy không thể vào được.

46. Gia đình
“Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, nhưng không ai biết…Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung độ khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại… chính tôi nữa!”
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỷ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!
Lý do người ta dựa vào, là “Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau”. Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót ba điểm sau đây:
1/ Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
2/ Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lật lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?
3) Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cần phải trải qua khủng hoảng mới đi đến chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?
Đó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn… Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:
1. Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Đức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẩn tránh trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.
2. Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của Thiên Chúa, con người không có quyền làm ngược lại “Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”. Nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có một trăm tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
3. Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đọa khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.

47. Túp lều lý tưởng
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Thật tuyệt vời biết bao khi hai thanh niên nam, nữ yêu thương nhau và được kết hợp thành vợ chồng, rồi cùng sống trong một “Túp Lều Lý tưởng”, luôn có anh và em để xây dựng một gia đình hạnh phúc:
“Đời mình đẹp mãi với Em và Anh,
Đời mình đẹp mãi dưới túp Lều Tranh!”
(Hoàng Thi Thơ)
Dù chỉ là một túp lều tranh, nhưng có hai tâm hồn yêu thương nhau cùng chung sống, “Túp Lều Tranh” trở nên “Túp Lều Lý Tưởng!”
Một cách đơn giản, mọi sinh vật “giống đực” và “giống cái” trên mặt đất, khi ‘đến thời đến lúc’ là có một sức thu hút lẫn nhau theo bản tính tự nhiên, chung sống với nhau và sinh sản con cái để nối dõi dòng giống. ‘Người Nam’ và ‘Người Nữ’ khi đến tuổi “cập kê” cũng có sức thu hút nhau theo bản tính tự nhiên, thương yêu nhau, rồi kết hiệp với nhau ‘nên một thân xác’ (Matcô 10:8) để sinh con cái tiếp nối cộng đồng nhân loại. Trong Bài Đọc I (Sách Sáng Thế 2: 18-24) Chúa đã chúc lành cho cuộc hôn phối của Adong và Evà, và bảo “Hãy sinh sản ra đầy mặt đất!” Trong Bài Phúc Âm (Matcô 10: 2-16),Chúa Giêsu đã vui vẻ chúc lành cho các em nhỏ người ta đưa đến với Chúa. Vì thế, hôn phối luôn luôn phải là sự kết hợp giữa một “Người Nam” và một “Người Nữ” để sinh con cái, không thể là sự phối hợp giữa hai người cùng phái tính, nam với nam hoặc nữ với nữ.
Hơn nữa, đời sống vợ chồng là một kết hiệp vĩnh viễn ‘mãi mãi dưới túp lều tranh’ không thể phân ly như Chúa Giêsu đã quả quyết “Điều gì Thiên Chúa đã kết hiệp, loài người không được phân ly!” (Mc. 10:9). Con người khác với các loài vật khác, con người đã được Chúa “dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Sách Sáng Thế 1:27), nên có tình yêu tự do và trách nhiệm. Trước khi kết hôn thành vợ chồng, các bạn trẻ luôn được tự do để suy nghĩ và lựa chọn, không thể “yêu cuồng, sống vội” để đưa đến tan vỡ đáng tiếc, phá họai hạnh phúc gia đình, và ảnh hưởng đến tương lai con cái. Để nói lên sự kết hiệp bền vững giữa vợ chồng, Bài Đọc I hôm nay đã lấy hình ảnh câu chuyện Chúa lấy chiếc xương sườn của ông Adong mà dựng nên bà Evà, người vợ của ông (Sách Sáng Thế 2: 21-23)
Hôn phối là điều rất quan trọng chẳng những cho gia đình, mà còn cho quốc gia và xã hội. Có những quốc gia ngày nay thiếu ‘giới trẻ” vì nhiều đôi vợ chồng không muốn sinh con, hạn chế sinh sản bừa bãi, phá thai tự do, và ly dị dễ dàng khi gặp những khó khăn thử thách.
Thiên Chúa đã chúc phúc cho đôi tân hôn đầu tiên của nhân loại là ông Adong và bà Evà ngay trong vườn địa đàng. Chính Chúa Giêsu cũng đã mở đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng việc cùng đi với Mẹ Maria và các Tông đồ đến dự tiệc cưới Cana, và làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để cứu vãn danh dự cho đám cưới nửa chừng hết rượu này.
Chúa Giêsu khi ‘xuống thế làm người’, Ngài cũng đã sinh ra và lớn lên trong một gia đình , dù nghèo khó và trải qua bao gian truân thử thách, nhưng vẫn luôn gắn bó và chia sẻ tình thương, hạnh phúc; đó thật là một gia đình gương mẫu cho các gia đình chúng ta. Thánh Giuse và Mẹ Maria là gương mẫu cho các bậc làm cha mẹ, và Chúa Giêsu là gương mẫu cho các người làm con ‘luôn biết vâng lời cha mẹ’ (Luca 2: 51). Khi chịu nạn chịu chết đổ máu ra để chuộc tội nhân loại, một lần nữa Chúa Giêsu lại “thánh hóa chúng ta và cho chúng ta trở nên anh em với nhau trong cùng một gia đình nhân loại!” (Bài Đọc II, Thư Do Thái 2: 9-11).
Sự bền vững và hạnh phúc gia đình đặt tại đâu?
Trước đây, tôi có nghe chuyện các bạn trẻ ở Hà Nội, sau năm 1954, sống trong cảnh nghèo khó , khi lập gia đình thì đặt hạnh phúc nơi ba chữ “B” đơn giản: ‘Buồng’ (tiếng Bắc, có nghĩa là phòng ngủ) tượng trưng một ‘căn hộ’ chính phủ cấp cho để ở; ‘Bìa’ là phiếu mua thực phẩm (theo chế độ quốc doanh thời đó); ‘Bà’ là mẹ già để gởi con khi vợ chồng đi làm. Sau này, tôi lại nghe nói tại các quốc gia tự do, thì các bạn trẻ đặt hạnh phúc gia đình trên ba chữ “C”: Car (xe), Condo (nhà), và Credit Card (Thẻ Tín Dụng).
Nhưng hạnh phúc gia đình không chỉ cần những điều kiện vật chất, mà còn cần những điều kiện tinh thần, nên các nhà đạo đức đưa thêm vào những chữ “C” khác: Communication: Vợ chồng phải biết thành thực và thẳng thắn bầy tỏ tâm tư, nguyện vọng với nhau để luôn ‘hiểu được nhau’ và cùng cộng tác (Cooperation) với nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình. Những sự thiếu thông cảm thường đưa đến chỗ hiểu lầm, nghi ngờ và ghen tuông, là những căn nguyên đưa đến bất hòa, và đổ vỡ đáng tiếc. Khi đã quyết tâm sống đời sống vợ chồng, các bạn trẻ phải quyết tâm dấn thân (Commitment) chấp nhận mọi khó khăn, thử thách, cùng chia vui, sẻ buồn để vượt qua mọi khủng hoảng mà đời sống chung luôn xẩy ra. Sau đó, vợ chồng cũng cần biết ‘thương cảm nhau’ (Compassion), nghĩa là phải biết quên mình, từ bỏ ích kỷ, để nhận ra những ‘khó khăn’, những ‘khủng hoảng’ của nhau để an ủi, nâng đỡ nhau trong cuộc sống, thay vì giận hờn, phiền trách hoặc xa tránh.
Ý thức được sự quan trọng của cuộc sống hôn nhân, nên cha ông chúng ta, từ thuở xa xưa, đã có những tục lệ, tuy có vẻ rườm rà, nhưng thật sự cần thiết, để chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc sống lứa đôi, như ‘làm mối’, ‘xem mắt’, ‘dạm ngõ’, ‘đính hôn’ trước khi thật sự ‘thành hôn’ với nhau để nên vợ chồng và xây dựng một gia đình mới.
Giáo hội cũng luôn khuyến khích các bạn trẻ hãy cầu nguyện và suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi quyết định cuộc sống hôn nhân. Sau đó, phải qua một khóa học “Dự Bị Hôn Nhân” để cùng nhau học hỏi giáo lý Công Giáo về đời sống gia đình giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nghe các kinh nghiệm của các vị đã sống lâu năm trong đời sống gia đình kể lại mà học hỏi và chuẩn bị chu đáo hành trang ‘vào đời’ để khởi sự một cuộc hành trình dài, đầy hạnh phúc, nhưng cũng không thiếu những khó khăn thử thách.
Xin hiệp lời cầu nguyện chung: Xin Chúa, qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Thánh Giuse, và các Thánh, ban muôn ơn lành cho các gia đình chúng ta, cho các bạn trẻ mới bước vào đời sống lứa đôi, cho các bạn trẻ đang tìm hiểu và chuẩn bị đời sống hôn nhân.

48. Bất khả phân ly
(Suy niệm của Trần Quang Huy Khanh)
Trong một tuần phòng nọ. Khi các linh mục đang ngồi thảo luận và trao đổi với nhau về kinh nghiệm mục vụ, một vị lớn tuổi đã chậm dãi phát biểu: “Tôi không biết các cha trẻ nghĩ thế nào, riêng tôi, tôi thấy làm lạ là nhiều cặp chúng nó mới hôm nào đưa nhau lên trước bàn thờ thề thốt yêu nhau, vậy mà quay đi, quay lại đã thấy chúng nó lên nữa, mà lần này với một đứa khác. Tôi đã tò mò hỏi một vài đứa thì chúng nó nói rằng: Tại vì cha quản nhiệm chúng con trẻ, nên làm đám cưới mát tay”.
Gọi ly dị là căn bệnh thời đại, vì trải qua mọi thời đại, ly dị vẫn là một vấn nạn nhức nhối và không thuốc chữa; đặc biệt, đối với con người của thời đại chúng ta đang sống. Một thời điểm mà theo Đức Piô XII, con người đang mất dần đi ý thức tội lỗi. Hoặc theo Đức Gioan Phaolô II, thế giới đang bị ảnh hưởng của một nền văn hóa sự chết. Trong xã hội hôm nay, dưới ảnh hưởng của nền văn hóa này, nền móng gia đình và hạnh phục hôn nhân đang bị đảo lộn tận gốc rễ. Qua đó, nền tảng xã hội cũng đang bị lung lay. Hơn 50% các cặp hôn nhân đã kết thúc bằng ly dị. Nhiều người ly dị sau chỉ mới 3 tuần lễ cưới nhau. Một số lớn chừng 3 hay 10 năm sau khi cưới. Và một số khác sau 30 năm chung sống với nhau. Như vậy, căn bệnh thời đại này không dừng lại ở thành phần tuổi tác, hoặc thời gian chung sống với nhau. Nó xẩy ra cho mọi lứa tuổi, và trong mọi hoàn cảnh.
Lịch sử đã chứng minh tính chất xã hội của chứng bệnh ly dị, khi cho biết ngay những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng đã đặt vấn đề với Ngài. Và trước đó nữa, Maisen cũng đã phải vất vả với vấn nạn này. Thánh Kinh kể lại, khi những người Biệt Phái đến chất vấn Ngài về đề tài ly dị, Chúa Giêsu đã nói với họ: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi mà Maisen đã viết ra luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:5-9).
Qua câu trả lời trên, chúng ta thấy rằng ly dị là do tâm trạng đổi thay, do những thúc đẩy từ nhiều phía, do ảnh hưởng xã hội, và do thiếu lòng thủy chung của con người. Hơn 10 năm trước, khi khảo cứu về hậu quả của những cuộc hôn nhân đổ vỡ, người ta đã đi đến kết luận rằng con cái của những cha mẹ ly dị chính là những nạn nhân đáng thương nhất qua hành động ly dị của cha mẹ chúng. Hậu quả này kéo dài cho đến khi chúng lớn, và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là các em trai, đặc biệt, nếu lúc cha mẹ chúng ly dị mà chúng đang ở vào lứa tuổi vị thành niên. Anh hưởng ấy có thể làm cho chúng có một cái nhìn thiên lệch, và mặc cảm tội lỗi về đời sống hôn nhân, gia đình. Nhưng gần đây, người ta lại có câu trả lời khác, đại khái cho rằng nếu cha mẹ mà cứ tiếp tục sống trong cảnh bất hòa, thì tốt hơn là nên ly dị, vì như thế sẽ giúp cho con cái sống trưởng thành hơn và không bị ảnh hưởng tâm lý về một cuộc hôn nhân đổ vỡ.
Nhiều cuộc khảo cứu còn đi xa hơn nữa, khi kết luận rằng trẻ em được nuôi dưỡng bởi những cha mẹ đồng tính luyến ái, và những cha mẹ tự nhiên không có gì khác biệt về tâm lý và tình cảm. Và ảnh hưởng của những lần phá thai không còn gây kinh hoàng cho nhiều phụ nữ như trước nữa. Ngược lại, chúng chỉ có tác dụng về mặt thể lý, như một lần đau bụng, đi cầu. Đó là tâm lý, đó là tâm trạng của con người thời đại. Điều này cho thấy rằng, con người thời nay đang mất dần đi ý thức của việc làm, và họ lẫn lộn giữa cái xấu và cái tốt, cái được phép làm và cái không nên làm, điều mà Chúa Giêsu gọi là sự cứng lòng: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi” (Mc 10: 5).
Thật vậy, do lòng dạ con người ra cứng cỏi, chai đá, mà hiện tượng ly thân, ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính mới đang được hưởng ứng và thịnh hành. Và không những chỉ có những con người bình thường, ít học thức mới có những quan niệm lệch lạc, nhưng cả những vị có trách nhiệm thuộc lãnh vực luân lý và đạo đức cũng bị những tư tưởng lệch lạc ấy chi phối. Đó là lý do tại sao có những linh mục “làm phép cưới mát tay”. Làm phép cưới mát tay hay làm phép cưới cẩu thả, thiếu điều tra kỹ lưỡng, và thiếu hướng dẫn, thiếu chuẩn bị cũng là một hình thức. Đối với những linh mục này, có lẽ việc ly thân, ly dị chỉ là hệ quả của tâm lý xã hội, hoặc một hành động thiếu kinh nghiệm của những người trong cuộc. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế, vì hậu quả của những việc làm cẩu thả ấy còn kéo dài cho tới những thế hệ kế tiếp. Thống kê cho biết, con cái những cha mẹ ly dị cũng có nhiều cơ hội ly dị.
Vấn đề ly dị tưởng chỉ là những đối chọi về quan điểm xã hội giữa những người Pharisiêu và Chúa Giêsu nên Ngài đã có những lời lẽ cứng rắn về hôn nhân. Nhưng điểm quan trọng ở đây, là nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã lập lại ý định của Chúa Cha ngay từ ban đầu khi sáng tạo vũ trụ, khi đó, Thiên Chúa đã đặt con người vào một ơn gọi hết sức quan trọng: “Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục (Mc 10: 6-8). Đó là những gì Thiên Chúa nói, và đó là việc Thiên Chúa làm.
Thật vậy, nếu nhìn luật một vợ, một chồng với cái nhìn của tâm lý hôn nhân gia đình, ta sẽ thấy đây là một đòi hỏi hết sức hợp tình, hợp lý, phù hợp với tâm lý sống của con người. Nó không hề đi ngược hoặc mang lại những khó khăn, những phiền toái mà con người không thể vượt thắng được. Ngược lại, nó mang đến cho những cặp vợ chồng một sự đảm bảo, một sự gắn bó hạnh phúc. Trong xã hội loài vật, Thiên Chúa cũng dựng nên những mẫu gia đình mà chỉ một vợ, một chồng, thí dụ, loài chim đại bàng đầu bạc của Bắc Mỹ. Chúng ở với nhau cho đến khi một con chết, và không bao giờ đi lang thang, hoặc cặp kè với những con khác.
Trở lại vấn đề con người, như khảo cứu đã cho biết, nếu một người đã ly dị một lần, thì có nhiều lý do cho thấy người ấy sẽ ly dị tiếp sau này. Thực tế đã chứng minh nhận xét này, vì có nhiều người ly dị, tái hôn đến ba, bốn, hoặc năm lần mà vẫn không hạnh phúc. Những người này tưởng rằng sau khi đã bỏ chồng, bỏ vợ sẽ gặp được hoàng tử hay công chúa của cõi lòng, nhưng như người Việt Nam đã có câu: “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”, hoặc: “Chê thằng toét mắt, lấy thằng gù lưng”. Do đó mới có hiện tượng ly dị, tái hôn, và tái hôn, ly dị.
Ngoài ra, theo tâm lý, một người đã mang tâm trạng cứ thử một lần cho biết, hoặc cứ bước vào đời sống hôn nhân, nếu không thích thì bỏ, thì người này hầu như sẽ kết thúc hôn nhân của họ bằng ly dị. Họ giống như những kẻ mang tâm trạng chán đời, và nuôi ý muốn tự tử. Trước sau, nếu họ không được giúp đỡ kịp thời, thì cũng sẽ kết liễu cuộc đời bằng những cái chết hết sức vô nghĩa. Bước vào đời sống hôn nhân mà còn trông trước, ngó sau, còn mang ý nghĩ muốn thử một lần cho biết, thì trước sau gì, những người này cũng gặp đổ vỡ. Hơn nữa, chứng tỏ rằng họ đã không nghiêm chỉnh, đã không trưởng thành, và không ý thức trách nhiệm về lựa chọn, quyết định, và hành động hôn nhân của mình, những yếu tố để tạo nên hạnh phúc. Và nếu bước vào đời sống hôn nhân như vậy, thì đừng đổ thừa cho Thiên Chúa, mà là lỗi tại mình.
Việc Thiên Chúa đã liên kết trong đời sống hôn nhân, do đó, là một hành động phù hợp với ơn gọi cao quí, cho biết đây không phải là việc làm con trẻ, hoặc một hành động mà con người có thể đùa giỡn. Con người không được phân ly, vì con người không có quyền coi thường đời sống này, hoặc làm khác đi những luật lệ mà Thiên Chúa đã đặt định, thí dụ, con người ngày nay đang muốn lập thành một quy ước hôn nhân cho những người đồng tính. Đây là một việc làm trái ngược, và một hành động phá vỡ luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài từ trước.
Trở lại những gì Chúa Giêsu đã nói về đời sống gia đình, ta thấy rằng, Thiên Chúa hết sức khôn ngoan và thương xót khi đặt định con người vào một cuộc sống hôn nhân tốt lành, và đã ràng buộc, cột chặt họ lại trong sự tốt lành ấy bằng hôn ước bất khả phân ly. Ngài không hề o ép, và không hề áp đặt con người trong sự ràng buộc này. Trái lại, Ngài đã tạo cơ hội cho con người sống hòa hợp và hạnh phúc với nhau. Thử hỏi, nếu Ngài không bảo họ phải nghiêm chỉnh, tránh nhiệm, và trưởng thành với hành động của mình, thì đời sống hôn nhân sẽ đi về đâu, và sẽ như thế nào? Những trái tim tan nát vì tình yêu bị phản bội, những đứa trẻ bơ vơ vì thiếu cha, thiếu mẹ, những cuộc tình vụng trộm, và những cuộc hôn nhân đồng sàng dị mộng sẽ trở thành một nỗi kinh hoàng cho cá nhân, gia đình, và xã hội nếu Thiên Chúa không ràng buộc con người bằng luật bất khả phân ly.
Hôn nhân là một ơn gọi, một chọn lựa, một cửa ngõ dẫn vào hạnh phúc. Nhưng hôn nhân Công Giáo với luật bất khả phân ly còn là một bảo đảm cho tất cả những hạnh phúc ấy, nếu con người đi đúng, và tuân thủ một cách tự nguyện những gì Thiên Chúa đã an bài: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:9).

49. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Sự gì thiên chúa đã kết hợp, loài người không phân ly (Mc. 10, 2-16)
Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về huyền nhiệm hợp nhất giữa hai vợ chồng “Họ không còn là hai, nhưng là một, một thể xác, một tinh thần, một quyền lợi, một một nhiệm vụ.” Bởi thế: “Với gia đình họ là một tổ ấm, tổ ấm của nhau, tổ ấm của con cái.” Với học đường họ là nhà giáo dục đầu tiên dạy dỗ con cái trở nên người công dân tốt cho xã hội. Với Giáo Hội thu hẹp, cha mẹ là cha sở dạy dỗ con cái về Thiên Chúa, ban Đức tin cho con cái qua Bí tích Rửa tội và giúp con cái lãnh nhận các Bí tích khác, lãnh nhận ơn thánh Chúa. Với nhiệm vụ Chúa trao, họ chính là Thiên Thần Hộ Thủ mà hôm nay Giáo Hội mừng kính cách riêng.
Hôm nay tôi cũng muốn nhấn mạnh đến vai trò hộ thủ, vai trò gìn giữ canh phòng mà Chúa đã trao phó cho các bậc làm cha làm mẹ: Đức Tin dạy có các Thiên Thần luôn ở bên để bênh đỡ, chỉ dạy chúng ta khi còn sống. Trong Sách Tân Ước cũng như Cựu Ước có đều nói Chúa đã cho mỗi người sinh ra trong trần gian một Thiên Thần canh giữ. Chúa Kitô gọi các con trẻ đến với Ngài, Ngài nói rằng: “Thiên Thần của chúng hằng thấy mặt Cha Ta ở trên trời”. Vì lý do ấy thánh Jêrônimô ca tụng: “Các linh hồn thật là cao quý, vì mỗi linh hồn được Thiên Chúa cắt cử riêng một Thiên Thần để canh giữ, nhắc nhở”. Thánh Tôma cũng quả quyết: “Mỗi quốc gia, mỗi đô thị, mỗi dân tộc, mỗi tu viện cũng như mỗi người, đều có Thiên Thần gìn giữ”.
Các Thiên Thần là tướng lãnh trên thiên đàng, các ngài có sứ mạng dẫn dắt chúng ta trên đường hoàn thiện. Ở mỗi nơi, mỗi chỗ, cả ngày cũng như đêm, các ngài không lúc nào rời chúng ta, ngay cả những khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Chúa.
Khi chúng ta cầu nguyện, các Đấng có nhiệm vụ dâng những kinh nguyện của chúng ta lên trước tòa Chúa để kéo muôn ơn phước xuống cho chúng ta. Lúc ta lâm nguy hoặc gặp điều nan giải, các Đấng sẽ lo cho chúng ta như cha mẹ lo cho con cái. Thử hỏi từ thuở sinh ra đến nay:
– Nhờ ai mà ta biết Chúa và tấn tới trên đường trọn lành, tấn tới trên đường sống đạo?
– Nhờ ai mà người có tội được phục thiện và vững vàng tin tưởng Chúa trước mọi đe dọa?
– Chính là nhờ các Thiên thần hộ thủ săn sóc, giúp đỡ, che chở, cầu thay nguyện giúp chúng ta vậy.
– Theo ông Hamon thì: “Mỗi khi Thiên Thần hoàn thành một công tác cứu rỗi nào, thì các ngài về trời mừng đại lễ cám ơn Chúa”.
Hỡi những người được Thiên Chúa mời làm cha, làm mẹ, quí vị hãy nghe Đức Hồng Y Wyzinsky nói về cha mẹ ngài những lời này: “Tôi mạnh dạn nói rằng: “Mẹ tôi chính là vị thiên thần sống bên tôi từ giây phút đầu tiên cuộc sống của tôi và cha tôi cũng chính là thiên thần che chở tôi từ khi tôi được chào đời”.
Vậy thì khi con cái gọi quí vị là Thiên Thần cha, Thiên thần mẹ cũng không sai, vì chính Thiên Chúa đã trao cho quí vị sứ mạng thương yêu, giáo dục, an ủi, cửu thoát và bảo toàn hồn xác con cái từ chiếc nôi lọt lòng cho đến nấm mồ an nghỉ cuối đời và cũng chính quí vị là thiên thần hướng dẫn con cái trên con đường về thiên đàng nữa.
Xin quí vị hãy gắng dạy cho con cái: tình thương mến, thảo kính, cởi mở, dễ dạy với mọi người…. Vì quí vị là Thiên Thần Chúa đã trao trách nhiệm chăm sóc con cái nên con của Thiên Chúa. Cha mẹ là khuôn vàng thước ngọc đưa con cái đi trúng và vững trên đường cứu rỗi.
Hỡi những kẻ làm con, hãy vâng nghe cha mẹ với tình con thảo, hãy để cho lời cha mẹ lọt vào lòng, nghĩa là hãy trở nên một người con ngoan thảo, yêu thương và kính trọng cha mẹ vì các ngài chẳng những lả cha là mẹ mà còn là Thiên Thần của Chúa canh giữ chúng con, chỉ dạy chúng con nên con của Thiên Chúa. Hãy luôn tỏ lòng hiếu thảo, kính yêu các ngài cho xứng vị làm con.
Hôm nay Giáo Hội biệt kính các Thiên Thần hộ thủ. Chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta được đầy lòng kính tôn các ngài và xin Chúa ban cho các Thiên thần cha Thiên thần mẹ…. có đầy đủ phẩm cách và đức tính của Thiên thần hộ thủ, để các con cái trọng kính, yêu mến, vâng nghe… và ngày sau cả cha mẹ, con cái được cùng nhau xum họp vui vầy bên toà Chúa.

50. Thánh hoá trong chân lý
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Chị Bernadette là người được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều lần lại hang đá Lộ Đức Nước Pháp. Để được ẩn mình ở nơi thanh vắng, chuyên việc chay tịnh cầu nguyện và sống trọn cuộc đời cho Chúa và Đức Mẹ, Chị đã thánh hiến đời mình trong chốn tu viện Dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa Nhật trong năm 1876, một Chị Nữ Tu đưa cho Bernadette xem bức ảnh người ta đã chụp Chị ở hang đá Lộ Đức trước đây, để xem phản ứng của Chị thế nào.
Đang khi chăm chú nhìn bức ảnh của mình, đột nhiên Chị Dòng Bernadette hỏi:
– Người ta dùng cái chổi để làm gì Chị nhỉ?
– Để quét nhà.
– Quét xong họ để chổi ở đâu vậy Chị?
– Để ở góc nhà, sau cánh cửa, chỗ cư trú thường lệ của nó.
– Đời em cũng thế Chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi.
I. DIỄM PHÚC CỦA TÂM HỒN BÉ THƠ
Phần thứ hai của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau khi Chúa đã minh xác lập trường của Chúa với những người biệt phái, về mục đích của Hôn Ước Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người, người ta đưa các trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để được Chúa chúc phúc, nhưng họ lại bị các môn đệ khiển trách. Thấy thái độ của các môn đệ, Chúa không bằng lòng nên phán bảo các ông: “Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những kẻ giống như chúng”. Rồi Chúa còn nhấn mạnh thêm: “Thật, Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước đó”. Rồi Chúa âu yếm ôm hôn chúng và chúc lành cho chúng.
Căn cứ vào thái độ thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ và lời quả quyết của Chúa: “Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng”, cho chúng ta thấy con đường thơ ấu thiêng liêng của Tin Mừng là cần thiết, để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa.
Bài Tin Mừng thứ bảy vừa qua, cũng nhắc lại cái diễm phúc của những tâm hồn bé nhỏ khiêm nhu, mới được Chúa mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, cái diễm phúc mà những kẻ kiêu căng tự phụ không bao giờ được nếm hưởng. Hơn nữa, Chúa còn đòi buộc chúng ta phải biến cải và trở nên như con trẻ, như một điều kiện khẩn thiết để được vào Nước Trời: “Nếu không trở nên như con trẻ, các con không được vào Nước Trời” và “Ai không tiếp nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, cũng sẽ không được vào Nước đó”. Tại sao? Thánh Giacobê trả lời cho chúng ta: “Chúa ban ơn cho người khiêm hạ, nhưng chống lại kẻ kiêu căng” (Jac 4:6).
II. MẪU GƯƠNG BÉ NHỎ KHIÊM HẠ
Chính Chúa Kitô đã tự trở nên mẫu gương bé nhỏ khiêm hạ cho chúng ta noi theo bắt chước, như một hấp lực lôi cuốn, chinh phục và cảm hóa chúng ta. Nhiều nơi trong Tin Mừng được Chúa nhắc đi nhắc lại sự khẩn thiết này, khi thôi thúc kêu gọi chúng ta noi theo: “Các con hãy học cùng Cha, vì Cha dịu hiền và khiêm hạ trong lòng”. Chúa còn tự hạ mình xuống như một người tôi tớ, khi quì xuống rửa chân cho các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly, để như một mẫu gương sống động có sức đè bẹp tâm trí kiêu căng tự phụ, chỉ muốn trồi mình lên trên kẻ khác, chiếm địa vị ưu tiên, đoạt chỗ nhất trong cộng đồng, vì các ngài luôn tranh dành nhau xem ai là người cao trọng hơn… Tấm gương ấy đã làm rung động con tim, khuất phục ý chí và cảm hóa tâm hồn các ngài. Sau khi chiếm được lòng cảm mến sùng mộ, Chúa mới lên tiếng âu yếm nhắn nhủ: “Hỡi các con nhỏ của Thầy, các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì rất phải. Thầy có như vậy thật; vậy nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy bắt chước mà rửa chân cho nhau”. Vậy: “Ai trong các con là Thủ Lãnh thì hãy tự hạ làm tôi tớ mọi người; cũng như chính Thầy đã không đến để được người ta phục vụ, nhưng để trở nên tôi tớ phục vụ mọi người và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28).
Thánh Tông Đồ Phaolô đã đề cao mẫu gương khiêm hạ của Chúa Cứu Thế, khi viết cho các Tín Hữu Giáo Đoàn Do Thái trong bài đọc hai hôm nay: “Anh chị em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần là Đức Giêsu Chúa chúng ta” và “Người đã không hổ thẹn gọi chúng ta là anh chị em của Người”, mặc dầu chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi.
III. ĐỂ ĐẠT TỚI ĐÍCH THÁNH THIỆN
Để đạt tới Đích Thánh Thiện của ơn gọi đặc biệt, được Chúa tuyển chọn thánh hiến cuộc đời cho Chúa, chúng ta hãy sống theo con Đường Thơ Ấu của Tin Mừng Chúa đã dạy và nhất là hãy sống theo mẫu gương khiêm hạ Chúa đã thực hiện.
Mặc dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, toàn năng, thánh thiện, Chúa đã nhập thể làm người mặc xác phàm nhân như chúng ta, trở nên con thơ bé nhỏ làm con Đức Trinh Nữ Maria, là một thụ tạo chính Ngài tạo dựng. Sống cuộc đời làm con, hằng suy phục Mẹ như một người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Mẹ.
Thánh Montfort đã ngây ngất sung sướng kêu lên trước tấm gương khiêm nhu bé nhỏ của Chúa Cứu Thế và cái diễm phúc của các linh hồn bé thơ được Chúa hài lòng: “Ôi linh hồn nào noi theo gương mẫu Chúa Giêsu trong sự thuần phục Mẹ Maria, thì làm vinh danh Chúa đến chừng nào!” (T.T.S.K.M.)
Kết Luận
Trước mẫu gương khiêm hạ vô cùng của Chúa Kitô, chúng ta hãy quyết tâm sống đời bé thơ thiêng liêng của Tin Mừng như Chúa đã dạy:
1. Thâm tín sự hư vô bất lực của mình trong mọi lãnh vực và cố trở nên bé nhỏ, thơ ngây ngoan thảo với các Bề Trên, để các vị đại diện Chúa dễ dàng giáo huấn, dẫn dắt chúng ta trên đường thiêng liêng.
2. Là những vị hữu trách, những nhà Tông Đồ, chúng ta hãy trở nên như người tôi tớ vô dụng phục vụ mọi người, như Chị Thánh Bernadette chỉ tự nhận mình là một cái chổi.
3. Nhất là chúng ta hãy trở nên một Giêsu Bé Thơ người con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng giúp chúng ta trở nên thánh thiện như Giêsu Con Mẹ, vì theo Thánh Phaolô: “Đấng thánh hóa và người được thánh hóa cả hai chỉ có một nguồn gốc”. Do đó, trở nên Chúa Giêsu là chính mục đích của đời sống chúng ta vậy.

51. Chúa Nhật 27 Thường Niên
MẦM MỐNG LY DỊ NƠI HAI NGUYÊN TỔ LOÀI NGƯỜI
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.)
Có thể nói bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này có liên hệ đến bài Phúc Âm tuần trước về chiều hướng của mình. Bởi vì, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước nói tới vấn đề gương mù gương xấu và việc phải dứt khoát với hành động này để được rỗi bằng cách từ bỏ mình, một hành động dứt khoát được thể hiện một cách biểu hiệu ở chỗ móc mắt, chặt tay chân làm xấu của mình đi. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là nạn ly dị, một trong những gương mù gương xấu chẳng những của thời xưa mà nhất là thời đại văn minh nhân bản nhân quyền ngày nay. Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu hôn nhân, như Chúa Giêsu khẳng định, là những gì ngay từ ban đầu đã được Thiên Chúa thiết lập và bởi thế loài người không được phép phân chia, không được quyền tháo gỡ, thì phải chăng, theo nguyên tắc tránh dịp tội của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, thì vợ chồng theo hôn nhân đã trở nên một thân thể (đã coi nhau và gọi nhau là “mình”, là “anh em”, “anh em như thể tay chân”) có thể bỏ nhau, một khi họ nên dịp tội cho nhau, chẳng hạn làm cho nhau đi đến chỗ ngoại tình (vì chồng không để ý chăm sóc chiều chuộng vợ, hay vì vợ không đáp ứng chồng trong việc chăn gối chẳng hạn), nhất là vì vợ chồng lén lút hoặc trắng trợn ngoại tình? Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã trả lời dứt khoát với một số người Pharisiêu về vấn đề ly dị là vấn đề do con người mà có, đúng hơn, do lóng trí con người hư hỏng mà ra, còn hôn nhân là do Thiên Chúa, do Đấng Toàn Thiện đã dựng nên họ theo hình ảnh yêu thương của Ngài, ở chỗ Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ, để họ tiến đến chỗ hiệp nhất nên một thân thể với nhau, một tình trạng phản ảnh sự sống thần linh hiệp thông Ba Ngôi nơi Ngài.
Thật vậy, mầu nhiệm về con người và ơn gọi của con người là ở chính cốt lõi của hôn nhân. Chính vì ơn gọi phản ảnh “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) mà con người mới được Ngài dựng nên theo giống hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26-27). Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải hữu thể của con người có yếu tố linh thiêng (linh hồn), có tự do, biết ý thức; và con người được dựng nên tương tự như Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải ở ngôi vị của con người biết yêu thương, trao tặng và hiệp thông. Đó là lý do, sau khi tạo dựng nên mọi sự trên trời dưới đất, như tất cả đoạn thứ nhất của Sách Khởi Nguyên cho thấy, Thiên Chúa, cũng Sách Khởi Nguyên thuật lại ở trọn đoạn thứ hai, còn làm một việc nữa cho riêng con người, loài được Ngài dựng nên sau hết, đó là hình thành cơ cấu hôn nhân nơi họ, một cơ cấu xã hội căn bản đầu tiên của loài người, một cơ cấu hiệp thông, yêu thương và sự sống. Và đó cũng là lý do bao lâu con người sống mầu nhiệm “hôn nhân” là yêu thương và sống ơn gọi “hôn nhân” là hiệp thông này, họ mới sống trong sự thật, vì họ sống đúng như ý muốn của Thiên Chúa, và họ mới hoàn toàn hạnh phúc, vì họ sống sự sống thần linh vô cùng toàn hảo và viên mãn của Thiên Chúa. Trái lại, bao lâu con người sống ngược với mầu nhiệm “hôn nhân” và ơn gọi “hôn nhân” này, tức tìm kiếm những gì ngoài ý định vô cùng khôn ngoan tốt lành của Thiên Chúa, bấy lâu con người còn sống trong bất hạnh và đầy những bất an.
Không phải hay sao, ngay từ ban đầu, nếu con người cương quyết sống theo những gì Thiên Chúa ấn định như lương tâm của họ ý thức được (x Gen 3:2-3) thì họ đâu đến nỗi đi đến chỗ “ly dị” trong tinh thần, một yếu tố nẩy sinh trong giòng dõi loài người như một thứ men làm cho họ càng ngày càng ly dị như thời đại văn minh tuyệt đỉnh về nhân bản ngày nay cho thấy? Cặp vợ chồng đầu tiên của loài người này đã không âm thầm “ly dị” nhau về tinh thần là gì, ở chỗ, ngay sau khi ăn trái cấm, mỗi người tự động đi tìm nơi trú ẩn và lấy lá vả che đậy chỗ kín của mình đi: họ không còn là một thân thể như trước nữa, họ đã ra khỏi tình trạng ngây thơ vô tội như trẻ nhỏ “trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25). Thậm chí họ đã đi đến chỗ chính thức “ly dị” nhau trước nhan Chúa, khi người nam không chấp nhận bản thân mình là nữ nguyên tổ Evà, người ông đã tuyên nhận là xương thịt của ông và là người Chúa cho ở với ông, qua việc ông phũ phàng và bất công đổ lỗi cho người nữ (x Gen 3:12), một lỗi lầm mà chính ông đáng lẽ phải đứng ra nhận lỗi, vì ông chẳng những đã không can ngăn vợ mà còn vào hùa với vợ để làm nữa. Nếu con người nam nguyên tổ Adong này yêu thương vợ trong chân lý, tức yêu thương theo ý Chúa, ở chỗ mạnh mẽ lên tiếng ngăn cản vợ về hành động hái trái cấm mà ăn của nàng, thì tình yêu của ông đã phản ảnh tình yêu vô cùng trọn hảo của Thiên Chúa rồi, và con cái miêu duệ của ông đâu phải mang mầm mống “ly dị” từ ông cho đến tận thế. Như thế, một cách nào đó, nguyên tội được phát xuất từ hôn nhân, từ tình yêu hôn nhân, từ thứ tình yêu sai trái nơi hôn nhân. Quả thực ly dị phát xuất từ con người, từ lòng trí hư hỏng của con người là như thế.
Tới đây một vấn đề nữa xuất hiện, đó là vấn đề “(nguyên) tội bởi đâu mà có?”, bởi vì ngay từ ban đầu con người nguyên tổ hoàn toàn tốt lành, lòng trí chưa hề bị hư hại tí nào, thì làm sao con người có thể đi tới chỗ “ly dị”, tới chỗ phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, đã liên kết. Đúng thế, ngay từ ban đầu, con người nguyên tổ được Thiên Chúa dựng nên hoàn toàn tốt lành, không bị hư hại tí nào, không có mầm mống tội lỗi trong mình như miêu duệ của các vị, không có đam mê nhục dục, không có tính mê nết xấu. Tuy nhiên, không phải vì thế mà con người không thể phạm tội. Con khổng long và một phần ba tinh tú trên trời bị mất chỗ của mình trên trời đâu có xác thịt, có mầm mống tội lỗi, thế mà vẫn có thể phạm tội, vẫn có thể làm mất lòng Thiên Chúa cơ mà (x Rev 12:1-9). Đệ nhất tạo vật về ân sủng, dù được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu, chẳng lẽ lại không phạm tội được hay sao, khi Người khăng khăng từ chối không chịu “xin vâng” (Lk 1:38) làm theo ý muốn tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra cho Người qua sứ thần Gabiên trong giây phút truyền tin? Bởi thế, trường hợp phạm tội của hai nguyên tổ, tội đầu tiên trong lịch sử loài người, tội phá giới, tội vượt biên, tội phân ly nhưnõng gì Thiên Chúa đã kết hợp, không phải là do lòng trí hư hỏng của con người, mà là do ý thức chọn lựa của con người. Thế nhưng, ngay từ ban đầu, nếu con người còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, lòng trí của họ còn hoàn toàn ngay thẳng, thì phải chăng việc họ làm, dù trái với ý muốn của Thiên Chúa, có xấu xa tội lỗi trước nhan Ngài, cũng chỉ là những hành động lầm lạc đáng thương?
Sở dĩ con người lầm lạc đáng thương là vì trình độ của con người hữu hạn chỉ tới đó. Nếu con người có Thần Trí của Thiên Chúa, chắc hẳn họ đã thấu hiểu được tất cả mọi sự như Ngài (x 1Cor 2:10) và đã không làm những gì trái ý Ngài. Thế nhưng, dù Thiên Chúa có muốn thông ban cho con người tất cả Thần Trí của Ngài ngay từ ban đầu đi nữa, con người tạo vật hữu hạn bấy giờ tự bản chất cũng không thể nào lãnh nhận được. Phải chăng đó là lý do “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) để qua Ngôi Vị nhân thần là Con Người Giêsu Kitô này, loài người “sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6) có thể được “rửa trong Thánh Thần” (Jn 1:34), được “tái sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), “được sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống như Con Người Giêsu Kitô đã sống “đẹp lòng Cha mọi đàng” (Mt 3:17, 17:3). Thật ra, làm việc gì ngoại tại, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đều tỏ mình là Lời ra và ban mình là Thần Linh của Ngài cho đối tượng của Ngài. Thiên Chúa đã bắt đầu ban Thần Trí của Ngài cho con người khi Ngài tỏ mình ra cho họ, khi Ngài bắt đầu tỏ cho họ biết giới hạn của họ giữa biên giới sự sống và sự chết, giữa cây biết lành biết dữ và cây sự sống. Trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, Ngài vẫn tiếp tục tỏ mình ra, vẫn tiếp tục ban Thần Trí của Ngài cho con người, và mức độ dồi dào Thần Trí nhất là lúc Con Ngài Nhập Thể, Vượt Qua và sai Thánh Thần từ Cha xuống trên Giáo Hội. Thế nhưng, chỉ có thành phần sống bé mọn (x Mt 11:25; Lk 10:21), biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh như Mẹ Maria đầy tin tưởng mới được tràn đầy Thần Trí của Thiên Chúa mà thôi!
Đó là lý do chúng ta thấy Chúa Giêsu, một lần nữa, đã dùng đến trẻ nhỏ, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy, để giải quyết vấn đề phức tạp của đời sống hôn nhân, điển hình là vấn đề gương mù ly dị nơi hôn nhân. Không phải hay sao, vì hai nguyên tổ không còn sống như những trẻ nhỏ, không còn sống ngây thơ vô tội, không còn hoàn toàn tin tưởng vào Đấng Tối Cao vô cùng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Năng, trái lại muốn trở thành người lớn, đầy lý sự và ham hố, nên đã đi đến chỗ “ly dị” nhau, không còn là một thân thể mà là hai (một tình trạng được biểu hiệu qua hành động hai vị nguyên tổ tìm cách che bịt cái của quí private part của mình đi)? Thật ra, thực tế cho thấy, không thể nào vợ chồng lại có thể trở nên một thân thể. Việc vợ chồng chỉ là một tác động biểu hiệu cho việc nên một thân thể này mà thôi. Thế nhưng, tình trạng ly dị vẫn có thể làm cho vợ chồng chấm dứt việc vợ chồng với nhau, không còn là một thân thể nữa. Như thế, vấn đề nên một thân thể đây không phải là vấn đề về sinh lý hay thể lý cho bằng về tâm lý và tinh thần. Đúng vậy, nếu vợ chồng không được phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể là một vấn đề bất khả phân ly, vấn đề trọn đời, chứ không phải vấn đề trò chơi tình ái, vấn đề pro choice của con người. Nếu vợ chồng biết chấp nhận nhau như là người Chúa cho ở với mình, (như bài đọc một cho thấy), biết ý thức nguyên tắc không phải họ chọn mà là được chọn (x Jn 15:16), thì không bao giờ họ sẽ đi đến chỗ ly dị, bằng không, họ sẽ là kẻ ly dị Chúa trước, phủ nhận những gì Chúa ban cho mình, gửi đến cho mình, và không bao giờ họ sẽ tìm thấy ý nghĩa đích thực và hạnh phúc hôn nhân trọn vẹn.
Nếu con người không sống nguyên bởi bánh, mà còn bởi lời Chúa (x Mt 4:4), thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể như ý định của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu này cũng thế, ở chỗ, Thiên Chúa không chỉ có ý dựng nên con người có nam có nữ để họ làm việc vợ chồng hầu sinh con đẻ cái như loài thú thuần huyết nhục thế thôi, mà là để họ biểu hiện một mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, đó là mầu nhiệm Chúa Kitô với Giáo Hội của Người (x Eph 5:32), một mầu nhiệm chỉ khi nào vợ chồng nỗ lực sống theo họ mới có hạnh phúc và hoàn trọn ơn gọi hôn nhân của họ thôi. Chúa Kitô và Giáo Hội của Người không bao giờ ly dị nhau. Cho dù Giáo Hội, qua yếu đuối của loài người, của thành phần đại diện Người thừa kế Thánh Phêrô và thừa kế các vị tông đồ, có những lúc phản bội tinh thần của Người, như dân Do Thái phản bội giao ước của Thiên Chúa cha ông họ song Thiên Chúa vẫn ở với họ, vẫn trung thành với giao ước của Ngài, vẫn thực hiện lời Ngài tự đoan hứa với họ thế nào, Chúa Kitô vẫn ở cùng Giáo Hội luôn mãi cho đến tận thế như vậy (x Mt 28:20). Đầu và thân thể không thể nào phân ly nhau thế nào, Chúa Kitô và Giáo Hội làm nên một Nhiệm Thể cũng không thể phân lìa nhau như thế. Chồng thực sự là đầu của vợ, như Chúa Kitô là đầu của Giáo Hội, và vợ là thân thể của chồng, như Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô. Vì là đầu của vợ, chồng phải yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội; và vì là thân mình của chồng, vợ phải vâng lời chồng trong mọi sự như Giáo Hội vâng lời Chúa Kitô như thế (x Eph 5:22-30).
Hình ảnh một thân thể có đầu và thân này, như bài đọc một cho thấy, đã được biểu lộ qua tác động nhận biết (thuộc đầu óc) của Adong đối với thân thể của mình là Evà, một ngôi vị được làm nên bởi thân thể của ông và phát xuất từ cạnh sườn thân thể của ông. (Chồng là đầu và vợ là thân còn được thể hiện nơi tâm lý trai cua gái, gái theo trai, và nam có ý nghĩ thèm thuồng thân thể nữ như ở Phúc Âm Thánh Mathêu 5:28 cho thấy). Nếu chồng luôn nhận biết vợ, tức yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội đến cùng (x Jn 13:1), và nếu vợ luôn gắn bó với chồng, ở chỗ nghe lời chồng, đáp lại tình yêu của chồng, thì không bao giờ có chuyện ly dị xẩy ra trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, vì mầm mống nguyên tội, mầm mống con người ngay từ ban đầu tách mình lìa xa Thiên Chúa nên không thể bền bỉ với nhau, vẫn còn tồn tại nơi con người nói chung và con người nam nữ vợ chồng nói riêng, mà cho dù họ có yêu nhau đắm đuối mấy đi nữa, họ vẫn cần phải có ơn Chúa đặc biệt, có Thần Linh, mới có thể trung thành với nhau, mới có thể hoàn toàn phản ảnh mầu nhiệm Nhiệm Thể Giáo Hội!
Tóm lại, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu xác định rõ dự án của Thiên Chúa và đường lối của con người. Dự án của Thiên Chúa bao giờ cũng là muốn con người hiệp nhất nên một; còn đường lối của con người thường hướng chiều về tình trạng chia rẽ ly dị. Tuy trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu không xác định rõ hai vợ chồng phải sống trọn đời với nhau, nhưng nếu hai vợ chồng phải nên một thân thể với nhau mới là vợ chồng theo dự án của Thiên Chúa thì có nghĩa là họ phải sống trọn đời với nhau. Thật vậy, nếu không ai lại phủ nhận thân thể của mình (x Eph 5:28-29), và không ai mất đầu mà còn sống thế nào, chồng cũng không thể thiếu vợ, không thể phủ nhận vợ là thân thể của mình, và vợ cũng không thể thiếu chồng, không thể tách rời chồng là đầu của mình như vậy. Chính vì con người cứng lòng, sống theo ý riêng của mình, chứ không sống theo dự án của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu như thế mà xã hội loài người càng ngày càng trở nên băng hoại như thực tế hiện nay cho thấy. Đó là lý do, để cứu vãn tình thế, để sống hợp với dự án của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, cách riêng trong đời sống hôn nhân, Chúa Giêsu kêu gọi con người hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, tình trạng con người nguyên sơ còn đang ngây thơ vô tội chỉ biết tin tưởng vào Chúa và làm theo ý Chúa mà thôi.

52. Hãy gìn giữ hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Có lần đọc trên báo một tâm sự của một cô gái trẻ viết về nỗi đau của gia đình mình. Ngày ấy cô còn bé lắm. Một buổi sáng, còn đang ngon giấc trên giường, bỗng cô nghe bàn tay thô ráp của cha mình gọi dậy. Cha bắt hai chị em cô thay quần áo để cùng cha mẹ ra tòa ly dị. Hiểu được đây là một rủi ro, cô ôm đứa em trai của mình chui vào một góc nhà ngồi khóc tấm tức, cho đến khi cha cô bế xốc hai chị em cô ra xe và chở đi. Còn mẹ đạp xe theo sau mà dòng nước mắt chảy quanh. Trên đường ra tòa, hai ông bà không nói với nhau nửa lời. Cô cũng không thể nhớ trước tòa, cha mẹ cô đã nói với nhau điều gì, nhưng hình như có lúc hai người rất to tiếng với nhau. Chỉ biết sau phiên tòa, cô theo mẹ, còn em trai của cô thì theo cha. Căn nhà, nơi mà chị em cô đã từng được hưởng những ngày hạnh phúc, người khác đã mua. Thế rồi chị em cô cũng lớn lên. Ngày cô lên xe hoa, không có sự hiện diện của cha cô. Ngày hạnh phúc nhất của đời người con gái, cũng lại là ngày cô tủi thân nhất. Suốt tuổi nhỏ, cô đã không có cha ở bên cạnh yêu thương, dạy dỗ, chăm sóc, đã là một mất mát. Bây giờ lên xe hoa theo chồng, không có mặt cha, cô càng hụt hẫng. Dường như tình cha trong cô không còn chút nào nữa. Em trai của cô bây giờ đang ở tuổi thanh niên. Rồi đây, nó cũng sẽ lập gia đình. Cô tin rằng, ngày đám cưới của em không đầy nước mắt như ngày đám cưới của cô. Cô tha thiết ước mong, cha mẹ cô cố nén giận, cố nén tự ái để mà tham dự đầy đủ, để em cô được vui và không mặc cảm bị bỏ rơi như chính cô.
Đọc những lời trên đây của cô gái trẻ, tôi có cảm giác, cô không chỉ viết cho cha mẹ mình, mà hình như viết cho những ai đang làm cha, làm mẹ, và tất cả những người sẽ sống đời sống gia đình, sẽ làm cha, làm mẹ, để họ hiểu rằng, hạnh phúc gia đình là do chính vợ chồng tạo ra, nhưng hạnh phúc gia đình mất thì không chỉ gây bất hạnh cho chính vợ chồng, mà còn gây đau khổ cho những người liên hệ, cụ thể là những đứa con mà vợ chồng sanh ra nó. Bởi những đứa con thay vì có đủ cha mẹ, lại trở thành những đứa trẻ mồ côi. Thú thật, không có gì bi đát cho bằng mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống. nếu mồ côi thật sự, đứa bé có thể chấp nhận được, vì nó biết rõ, cha mẹ nó đã chết. Nhưng đàng này, cha mẹ nó còn sống mà nó phải thiếu cha hoặc thiếu mẹ.
Nhưng không phải tự dưng mà tôi nói đến gia đình, nói đến bất hạnh của việc vợ chồng bỏ nhau. Đúng hơn, do chính Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta. Bài đọc I, trích sách Sáng Thế diễn tả lời vui mừng của Ađam khi lần đầu tiên thấy Evà: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Ngay từ khởi đầu của nhân loại, Ađam, Evà đã ý thức được sự cao cả của tình yêu vợ chồng. “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” nghĩa là gì? Nghĩa là vợ chồng phải gắn bó với nhau như xương với thịt, đúng hơn: như xương trong thịt và thịt gắn chặt vào xương. Bởi thế, không thể tách xương ra khỏi thịt, hoặc tách thịt ra khỏi xương mà không gây đau đớn, không gây tê tái cho nhau.
Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc ta về sự chung thủy của vợ chồng một cách dứt khoát hơn, nhấn mạnh hơn: “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”. Rõ ràng, trong lời dạy này, Chúa nhấn mạnh, hôn nhân là do Thiên Chúa muốn. “Thiên Chúa liên kết” kia mà! Do đó, nếu ai manh tâm phản bội vợ hay chồng của mình, phản bội hạnh phúc gia đình mà chính mình tạo ra, người đó cũng bắt đầu động chạm đến Thiên Chúa, vì đã cố tình đi ngược ý Thiên Chúa muốn. Nói cách khác, khi xúc phạm đến hôn nhân, không đơn thuần chỉ là xúc phạm đến những người có liên quan, mà còn xúc phạm đến chính Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra, chúc lành cho hôn nhân và làm cho hôn nhân trở nên tốt đẹp.
Ước mong các gia đình luôn luôn là mái ấm của tình yêu thương. Đặc biệt, gia đình Công giáo hãy là những mái ấm thật sự, nơi mà mọi người trong đó đều cảm thấy được yêu thương, vỗ về và cảm nhận hạnh phúc mà ngoài mái ấm gia đình ra, mình không thể tìm ở bất cứ nơi đâu. Những gia đình Công giáo phải là những gia đình đùm bộc nhau, để không còn cảnh ngay cả nhìn mặt nhau cũng không có, không còn cảnh vợ chồng bỏ nhau, không còn cảnh có những đứa con ôm nhau mà khóc vì cha mẹ chúng bất hòa, không còn cảnh những đứa con phải mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống, hay thiếu vắng cha mẹ trong ngày vui của những đứa con mà lẽ ra cả hai đều phải hiện diện, nhưng chỉ vì tự ái mà điều ấy đã không xảy ra.
Trên hết tất cả, chúng ta hãy để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn mình, để Lời Người dạy thực sự là lời thúc bách ta trong từng ngày sống của mình: sống làm sao đúng với mục đích của hôn nhân: Sinh con và giúp đỡ lẫn nhau. Ta hãy nhớ rằng: “Sự gì Thiên Cha đã liên kết, loài người không được phân ly”, để gia đình mãi mãi là gia đình hạnh phúc, và mọi người trong gia đình mãi mãi hưởng bình an.

53. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
VẤN ĐỀ HÔN NHÂN VÀ GIA NHẬP VƯƠNG QUỐC THIÊN CHÚA.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Luật Môisen đã nói rõ ràng là được phép rẫy vợ (x. c.4; Đnl 24, 1tt), tại sao Biệt phái còn hỏi Chúa Giêsu (c.2). Phải chăng để thử trí nhớ hoặc khả năng hiểu biết Cựu ước của Người?
2. Khi trích dẫn hai câu trong sách Sáng thế (1,27 và 2,24): Chúa Giêsu muốn đưa ra quan niệm nào về hôn nhân?
3. Luật Do thái có bao giờ đề cập đến trường hợp vợ bỏ chồng như Mc nói ở c.12 không?
4. Vấn đề chính của cc.13-16 là gì? Thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em (BJ, Osty, Ng-thế-Thuấn) hay là điều kiện để vào Vương quốc Thiên Chúa?
5. “Giống chúng” là “như một trẻ nhỏ” nghĩa là gì ? Phải chăng là cần đơn sơ, trong trắng ?
I. HÔN NHÂN: TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC NHÂN VỊ BÌNH ĐẲNG (10,1-12)
Lời chú thích xen vào về cuộc hành trình Giêrusalem (10,1) không được đúng lắm, vì con đường từ Galilê lên Giêrusalem trước tiên đi ngang qua Phêrê đã rồi sau đó mới qua Giuđê. Để thiết lập một thứ tự lịch sử cho những gì kế tiếp, thì các chỉ dẫn về lộ trình được theo là về đám đông tuôn đến cùng Chúa Giêsu, quả không đầy đủ. Vì các chỉ dẫn này chẳng có mục đích đặc trưng một giai đoạn rõ rệt trong hoạt động Chúa Giêsu, nhưng đúng hơn dùng làm câu chuyển tiếp. Chúa Giêsu đã rời Galilê, Người tiến dần tới đích cuộc hành trình và dọc đường người không ngừng giảng dạy “theo thói quen”.
Các biệt phái khai mở cuộc tranh luận về vấn đề ly dị; họ muốn thử coi các ý kiến của Chúa Giêsu và giăng bẫy cho Người (10,2). Câu hỏi: “Một người chồng có được phép rẫy vợ không?” được phát biểu cách trực tiếp và nhắm một quyền lợi căn bản. Bởi vì trong luật Môisen, nó được trả lời rành rẽ trong một vài điều kiện. Người chồng được phép rẫy vợ mình nên câu hỏi của các Biệt phái chỉ có thể là nhằm tranh luận các nguyên nhân và điều kiện của một cuộc ly dị thôi. Chúa Giêsu đáp (10,3) theo kiểu tranh luận thông thường bằng một câu hỏi móc lại: Môisen đã truyền sao? Nhưng các kẻ đối thoại không để mình bị lôi theo câu hỏi về cái được truyền một cách bình thường ấy. Họ trả lời bằng cách tham chiếu Đệ nhị luật 24,1tt: được phép rẫy vợ. Theo luật này, chỉ cần người chồng khám phá ra nơi bà vợ một điều gì đó “thô bỉ” hay “tởm gớm’? là ông ta đủ quyền trao cho vợ một ly thư. Người ta đã từng tranh luận để giải thích cái gì là vừa đủ “thô bỉ” hay “tởm gớm”. Chúa Giêsu không đi vào cuộc tranh luận này. Cái khiến Người lưu tâm, chẳng phải là tình trạng pháp luật, nhưng là con người và ý định trên con người của Thiên Chúa. Vì thế lập trường Người rất triệt để, triệt để đến nỗi Người coi việc cho phép của lề luật như tùy thuộc nhiều hoàn cảnh lịch sử và tuyên bố nó chỉ có hiệu lực hạn chế thôi. Người thấy trong việc luật Môisen ban phép ly dị một sự nhượng bộ cho lòng dạ lợm lì của người Do thái, thành thử là một sự thỏa hiệp của: một quan niệm hôn nhân không đề cao sự thông giao với kẻ khác, một quan niệm hôn nhân mà cách nào đó có trước tương quan đối thoại. Khi nói: “Nhưng từ khởi nguyên tạo thành…” (10, 6tt), Chúa Giêsu đặt các dự tính của Thiên Chúa trên con người bên kia các nhượng bộ của Lề luật, là những cái phát sinh từ nhiều hoàn cảnh lịch sử. Thiên Chúa đã sáng tạo con người “nữ và nam”, nghĩa là như những người đồng hội bằng nhau giữa lòng một cuộc đối thoại, Bãi bỏ thân phận lứa đôi này- cho dù trong khuôn khổ một cơ cấu xã hội hợp pháp – tức là vẫn ở bên này sự xác định của Thiên Chúa, vì đấy là lại rơi vào trong một tình trạng tiền đối thoại, trong một sự chai đá. Tâm hồn và một sự dửng dưng với một số phận của người đồng hội với ta.
Đối với tâm thức xã hội lẫn tâm thức văn hóa đương thời và chung quanh Chúa Giêsu việc nhắc lại “Khởi nguyên tạo thành” và nhắc lại việc con người được dựng nên như là “nam và nữ” theo nghĩa sách Sáng thế, không gì khác hơn là triệt để thừa nhận sự bình đẳng giữa nữ với nam. Ở đây, Chúa Giêsu phát biểu rõ rệt rằng: trước Thiên Chúa, người nữ chiếm một vị thế khác với trước luật Môisen, thành thử người ta tuyệt đối không thể tranh luận các lý do khiến người vợ phải bị từ rẫy hay được giữ lại bởi chồng. Chẳng phải ý muốn độc đoán của con người, nhưng là lòng tốt của Thiên Chúa ( như được diễn tả trong Sáng thế mà Chúa Giêsu trích dẫn ở 10,6-8) định đoạt số phận của một cuộc sống lứa đôi. Và không còn phải là chuyên ý thay đổi của người chồng, nhưng là thánh ý vững bền của Thiên Chúa bảo vệ nhân phẩm của người vợ. Tiến bộ này trong lịch sử văn minh và tôn giáo dựa trên một câu trích dẫn thứ hai từ Sáng thế thư (10,7tt) và mặc một hình thức giản lược trong 10,9. Vì bảo rằng con người không được phân những gì Thiên Chúa đã phối hợp, nên câu nói một khỏi phép ly dị của Môisen lối giải thích đã từng biến nó thành một xác định của Thiên Chúa, có hiệu lực phi thời gian, là cho thân rằng các khẳng định của Sáng thế là một bằng chứng về tính cách bất khả xâm phạm của hôn nhân (điều này ngược với quan niệm chính thức của các nhà thần học thời đó) cùng ngăn cấm người ta lấy pháp lý định đoạt số phận người phụ nữ.
Bài học ban cho các môn đồ, mà nơi Mc kết thúc cuộc tranh luận (10,10-12), một lần nữa xoay quanh, bằng lối phủ định, lập trường Chúa Giêsu đã theo: rẫy vợ, chính là phá hủy sự bình đẳng được bảo vệ bởi Thiên Chúa (10,11) và như thế là ngoại tình. 10,12 có lẽ là một áp dụng của thánh sử vào lãnh vực pháp lý ngoại Do thái (bản văn Hy lạp viết: “Nếu một người vợ rẫy chồng mình…”; nhưng theo luật Do thái, một người đàn bà không thể nào lấy chồng được; thành thử có lẽ chính Chúa Giêsu đã không tuyên bố như thế); hoặc 10,12 muốn nói (theo bản Aram có thể): người vợ nào cho chồng mình những lý do khiến ông trao cho một ly thư, thì phá vỡ hôn nhân để có thể lấy một chồng khác.
II. ƠN HUỆ NHƯNG KHÔNG (10,13-16).
Đây là một “điều kiện để được thu nhận” vào Vương quốc Thiên Chúa do Chúa Giêsu loan báo, một điều kiện được trình bày ở đây theo thể giai thoại tiền sử. Đề tài của đoạn văn không phải là thái độ của Chúa Giêsu đối với trẻ em, mặc dầu thái độ này xem ra khác thường trong khung cảnh xã hội thời cổ. Đề tài đích thực đúng hơn là câu hỏi sau đây: làm sao con người có thể dự phần vào Vương Quốc Thiên Chúa? Vì thế câu 15 mới nằm vào trong đoạn này, mặc dầu từ nguyên thủy nó đứng độc lập, để câu 16 nối liền trực tiếp với câu 14.
Khung cảnh giai thoại của hai lời Chúa Giêsu rất đơn sơ được mượn từ đời sống thường nhật: người ta đem các trẻ đến cùng một Rabbi đạo đức, để ông chúc lành cho chúng (10,13). Sở dĩ các môn đồ muốn đuổi hạng quấy rầy này đi (10,13) chẳng phải là vì thình lình nổi chứng dữ tợn, nhưng đó là cách bày tỏ thái độ vô tình cảm của người thời xưa đối với thế hệ mới lớn. Chúa Giêsu trái lại phật ý vì thái độ “bình thường” của các ông (c. 14); Người để các trẻ đến với Người, bồng ẵm chúng và đặt tay chúc lành cho chúng (c. 16). Đặc biệt việc bồng ẵm – chỉ được Mc nói tới – là khác hẳn thái độ thông thường. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đặt các trẻ em trong thế giới người lớn để làm sao cho việc biện minh hành động của Người được lưu ý nhất. Và Người biện minh cho hành động này với hai lý lẽ: vương Quốc Thiên Chúa được ban cho những người “giống chúng”, và ai không đón nhận vương Quốc này như một trẻ nhỏ, sẽ chẳng được vào trong. Nhưng “như một trẻ nhỏ” và giống chúng” nghĩa là gì ? Hoàn cảnh lịch sử của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn Mc loại trừ mọi lối giải thích tâm lý.
Không phải cái mà trẻ em tưởng nghĩ và cách chúng cảm nhận sự vật phải được coi như kiểu mẫu và lề lối đâu. Không! tư tưởng đúng hơn đi theo một chiều hướng xã hội: Chúa Giêsu so sánh với thân phận trẻ em giữa người lớn. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về những ai ít được lưu tâm như trẻ nhỏ. Bởi vì trong toàn thể thế giới cổ xưa, kể cả Do thái, trẻ em đặc biệt bị coi như một cái gì chưa hoàn thành. Có tính cách chuẩn bị và do đấy, đối với tư tưởng Do thái, là thiếu cách để thực thi lề luật, nên câu nói 10,14 có nghĩa là: Vương Quốc Thiên Chúa được ban cho những người không đủ năng cách, khờ dại, chả được học hỏi những vấn đề của Luật pháp. Nói cách khác: Vương Quốc Thiên Chúa không thể chiếm đoạt bằng những tính toán, bằng việc giữ đúng Lề luật. Nó là hồng ân nhưng không, chỉ ban cho ai sẵn sàng chờ đợi và đón nhận nó “như một trẻ nhỏ” (10,15). Thành thử lời này không đề ra cho chúng ta một tấm gương là lối cư xử trẻ con, ngay cả trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Nó cũng chẳng khuyến khích một thái độ ngây thơ sai lạc, một thái độ khiến con người trút cho kẻ khác bổn phận định đoạt số phận bản thân của mình. Đúng hơn đây là một lời phản đối ý tưởng cho rằng chợt nhất rằng ai có khả năng tài giỏi trong những vấn đề luật pháp mới đi vào được Vương Quốc Thiên Chúa. Theo phe các trẻ nhỏ như Chúa Giêsu làm ở đây (Người chứng minh bằng lời nói và hành động), thành ra là theo phe tất cả những ai chờ đợi sứ điệp của Người một cách đơn sơ, không thành kiến và không bị trói buộc trong những sợi dây của bao truyền thống cổ lỗ, những truyền thống vốn được duy trì với những cấm kỵ và kiêu căng của chúng. Vậy là qua hình ảnh “vị thế” xã hội của trẻ em, Chúa Giêsu vứt bỏ mọi tôn giáo muốn tìm cách quản lý ơn Thiên Chúa nhờ vào các quy luật chính thức và sự tuân phục quan niệm chính thức về lề luật và như thế muốn mua lấy sự cưu rỗi con người.
Ingo Hermann, L’evangile de Saint Marc, II, tr.35-40.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta nhận ra một điều luật căn bản: đó là ta phải vạch ra một lối sống dựa trên luật tình thương của Thiên Chúa chứ không được hướng theo ý riêng của chúng ta. Ở đây, chúng ta thấy được một bên là kế hoạch tình yêu theo ý Thiên Chúa, một bên là con tim chai đá của loài người. Và Chúa Giêsu dạy: không được vạch ra một lối sống rập theo con tim suy đồi, nhưng phải chiều theo kế hoạch tình yêu; Người loan báo rằng kế hoạch tình yêu này có giá trị như một luật buộc và rằng con tim loài người đã sai lệch thì nay cần phải sửa đổi. Đây là điểm nhắc nhở quan trọng cho lương tâm Kitô hữu chúng ta trong thời đại này. Căn cứ trên cái gì để chúng ta điều chỉnh cách thế suy tư và hành động của chúng ta? Có phải bất cứ cái gì đang xảy ra quanh chúng ta hay không? Có phải trên bầu khí do hạng trí thức mệnh danh là Kitô hữu, nhưng đã “làm bạn với vua trụy lạc” (R.Auclair), của bọn lạc giáo ở thời đại ta tạo lứa hay không? Có phải trên loại tiến sĩ giả mạo ở Israel sẵn có trái tim chai đá đến nỗi khéo léo chấp nhận ly dị, phá thai, thất trung trong việc vợ chồng không? Tin Mừng hôm nay mang lại cho ta một lối vệ sinh tinh thần và tư tưởng hết sức xác thực. Điều làm luật sống không phải là sự suy đồi của nhân loại, nhưng chính là ý muốn của Thiên Chúa, chính là luật tình yêu.
2. Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một dịp để cùng suy nghĩ cách bình tĩnh và sáng suốt về Thông điệp “Sự sống con người” (25-7-1968). Ân huệ của Thiên Chúa ban trong bí tích hôn nhân không phải là điều dứt khoát, một lần là xong. Cái “xương thịt duy nhất” đó, mà mọi đời sống gia đình phải hướng đến sẽ được thực hiện dần đần: “Chính trong suốt cả đời sống hôn nhân mà đôi vợ chồng được mời gọi làm cho tình yêu giữa họ lớn lên: hiểu nhau hơn, chịu đựng nhau hơn… Khi có những lý do để cách quãng các lần sinh con, họ đừng để bị ám ảnh bởi vấn đề các tương giao phối hợp mà trong đó họ đang gặp khó khăn, nhưng tốt hơn hãy tập trung tất cả nỗ lực tinh thần về lòng quảng đại của gia đình họ” (số 11). “Con người chợt tiến lên trên đường thánh thiện cách kiên trì, qua thất bại và dò dẫm; đây là một cuộc chiến đấu mỗi ngày, trong hy vọng…” (12). Nhưng giữa những khó khăn kinh khủng nhất, ân huệ của Thiên Chúa luôn luôn có đó: các gia đình “sẽ nhận thấy trong đời sống chung của họ rằng Đấng mà quyền lực đang hành động trong ta có khả năng thực hiện vượt quá, ” vô cùng vượt quá điều ta có thể nghĩ tới hay cầu xin” (13). Và lúc đứng trước một tranh chấp về bổn phận, điều quan trọng là tìm kiếm trước Thiên Chúa bổn phận nào, trong trường hợp ấy là lớn lao hơn. Hai vợ chồng sẽ quyết định sau khi đã cùng nhau suy nghĩ với tất cả sự cẩn thận mà tính cách cao cả của ơn gọi lứa đôi của họ đòi hỏi”. (Xin lưu ý: Các câu trích dẫn ở trên đây hy từ bảng “giải thích mục vụ của hàng Giám mục Pháp về Tđ Sự sống con người tháng 12-1968).
3. Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa, với tư cách là một người cha, là tình yêu tuyệt đối trao ban cho con người, và con người phải có thái độ hết sức nghèo khó và lệ thuộc đối với tình yêu này. Con người không được phép xem mình như có quyền lợi đòi hỏi được làm công dân Vương Quốc Thiên Chúa, hay kiêu ngạo tự mình kiến tạo Vương Quốc Thiên Chúa. Sự thật là, theo như Chúa Giêsu nói, con người phải biết đón nhận ân sủng Thiên Chúa ban như một trẻ em đón nhận ân huệ trao ban do tình thương.

54. Chung thủy
(Suy niệm của Br. Thiện Mỹ, CRM.)
LỜI CHÚA:
Bài đọc1: St.2,18-24: Cả hai nên một thân thể.
Bài đọc 2: Dt.2,9-11: Đấng thánh hóa và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc.
Phúc âm: Mc.10,2-16: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ.
SUY NIỆM:
Một quan nước Lỗ là Thu Hồ Tử cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. Năm năm sau ông được phép về thăm mẹ và vợ. Khi về gần đến nhà, ông thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Ông giở trò ong bướm:
– Này em, hái dâu cực nhọc sao bằng có người chồng làm quan. Anh là quan có nhiều vàng bạc. Nếu chịu lấy anh, em không phải vất vả nữa.
Người thiếu nữ vẫn thinh lặng, nhìn ông cách khinh bỉ.
Về đến nhà, ông chào mẹ. Nhưng khi vừa thấy vợ, ông choáng váng, vì đó chính là người thiếu nữ hái dâu lúc nãy.
Câu chuyện trên đây nói về Lời Chúa Giêsu dậy trong Tin Mừng hôm nay. Vợ chồng phải chung thuỷ với nhau trọn đời, phải giữ luật đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn của Thiên Chúa, vì “lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ: vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn phải là hai, nhưng là một xương thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mc.10,69).
Ngày xưa trong Do Thái giáo, sự trinh khiết vẫn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh: “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, trừ tội không gìn giữ trinh khiết. Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang của Thiên Chúa bỏ đi. Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ hình tượng, giết người hoặc tà dâm; khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”.
Nhưng “lý tưởng đẹp hơn thực tại”, đời sống thực tế đã hụt hẫng quá xa! Điểm xáo trộn ở đây là phụ nữ bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền xử dụng của người đàn ông làm chủ gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Người đàn ông có thể tự ý ly dị vợ, dù cho người vợ có thuận ý hay không. Còn người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong cùi hoặc khi người xâm phạm đến tiết hạnh một trinh nữ.
Ở đây chúng ta không thấy có sự bình đẳng giữa người nam và người nữ. Trong khi đó cả nam lẫn nữ đều là phàm nhân hay thay đổi đổi thay, chẳng hạn đối với nàng:
Ngày trước nàng dạ nàng thưa,
Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh!
Anh tưởng hoa nở trên cành,
Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa!
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Nên anh ngọt lại cho vừa lòng nhau.
Bây giờ chẳng hiểu gì đâu,
Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm!
Mặt mày thì cứ hằm hằm,
Nàng trợn một cái, ta bầm mấy hôm v.v.
Trong khi đau xót tiêu cực đối với người vợ, người đàn ông cũng không thiếu những đam mê oái oăm làm xé nát con tim nồng nàn:
Bồ là phở nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.
Bồ là nơi tỏ lời yêu,
Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.
Bồ là rượu ngọt trong bình,
Vợ là nước ở ao đình nhạt pheo.
Nhìn bồ đôi mắt trong veo,
Trông vợ đôi mắt nhăn nheo gườm gườm.
Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,
Vợ tiêu một cắc thì liền kêu hoang v.v.
Thêm vào những sự đó là những vấn đề trung lập sẽ đi vào yếu tố tâm lý “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Thậm chí cả những vấn đề tốt lành trước kia nay cũng trở nên xấu nốt. Đối với nàng trước kia anh là Hoàng tử , bây giờ anh chỉ còn là thằng hề. Đối với chàng trước kia em là Nàng tiên giáng trần, bây giờ en chỉ còn là mớ giẻ rách v.v.
Với luật Môisen cho phép và với tình thế khó khăn trong sự trung tín, mà trung tín là nhân đức quan trọng, nên những người biệt phái đến hỏi thử Chúa Giêsu để tìm mọi cơ hội bắt bẻ Chúa. Họ hỏi để gài bẫy Chúa về ly dị:
Nếu trả lời không được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị kết án là người đi ngược với luật Môisen, vì Môisen cho phép người ta ly dị khi người vợ làm điều ô nhục, họ viết tờ ly hôn cùng với hai người làm chứng để ly dị vợ mình. Đồng thời trả lời như thế lại xúc phạm đến vua Hêrôđê, vì ông đã ly dị vợ mình chính để cưới lấy Hêrôđia vợ của anh mình.
Nếu trả lời được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị gán cho là người tự do, phóng khoáng, lãng mạn. Bất cứ lý do gì cũng là cớ ô nhục để ly dị, như vậy là phá vỡ chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Cuối cùng Chúa đã làm sáng tỏ vấn đề bằng những lời rất khôn ngoan: “Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môisen đã viết ra điều đó”. Nhưng trong lúc khởi đầu cuộc sáng tạo là một nam một nữ (St.1,27): “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Như vậy một khi đã kết hôn, chúng ta không những phải tìm mọi cách để giữ lòng chung thuỷ trong tình yêu, mà còn phải làm thế nào cho tình yêu luôn tươi thắm như thuở ban đầu và phát huy càng ngày càng gia tăng: “Hôm nay hơn hôm qua và kém ngày mai”. Hãy quảng đại bỏ qua những khó chịu và làm nổi bật giá trị đạo đức của nhau. Tính nết sẽ làm ngọt ngào con tim hơn là nhan sắc. Gia sản Nước Trời mới là kho tàng chính yếu lớn lao của gia đình. Phiêu lưu mộng mơ quang cảnh Thiên Đàng hơn là những cuộc du lịch vòng quanh thế giới. Hai người cùng nhìn về quê trời hơn là chỉ nhìn nhau hoặc là nhìn về những thú vui tạm bợ ở trần gian. Được như thế gia đình mới có đức có hậu trong mối tình chung thuỷ và hấp dẫn nhau cả về phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên.

55. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Chiara Lubich)
“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”
Cung cách hành xử và nói năng của Đức Giêsu luôn làm ta bỡ ngỡ. Chẳng hạn như cách thức Người đối xử với trẻ em. Vào thời của Người, trẻ em bị coi rẻ trong xã hội và chúng chẳng có vị trí gì trong thế giới “người lớn”. Các tông đồ không muốn chúng đến vây quanh Người: chúng chỉ có quấy rầy mà thôi. Ngay cả các thượng tế và kinh sư cũng đâm ra “tức tối” khi thấy lũ trẻ reo hò trong đền thờ “Hoan hô Con Vua Đa-vít”. Họ yêu cầu Đức Giêsu hãy quở mắng chúng (xem Mt 21,15-16). Thay vì thế, Đức Giêsu có một thái độ đối với trẻ em hoàn toàn khác hẳn: Người gọi các trẻ em đến; Người ôm lấy chúng, đặt tay chúc lành cho chúng; và Người còn đưa chúng ra làm gương mẫu cho các môn đệ của mình:
“…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”
Tại một đoạn khác trong Phúc Âm, Đức Giêsu dạy rằng “nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Tại sao Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như các trẻ em? Vì trẻ em tin tưởng, phó thác nơi cha mẹ của mình; chúng tin vào tình thương của cha mẹ. Khi ở trong vòng tay của cha mẹ, chúng cảm thấy an toàn, không sợ hãi. Và khi thấy hiểm nguy, chúng lại càng ôm ghì lấy cha mẹ và ngay lập tức chúng cảm thấy mình được che chở. Đôi khi, ta đã từng thấy có những người cha, người mẹ đặt đứa trẻ lên cao chẳng hạn, rồi bảo con hãy nhảy. Và đứa trẻ đã thực hiện cú nhảy trong sự phó thác hoàn toàn.
Đức Giêsu muốn các môn đệ của Nước Trời cũng giống thế. Kitô hữu đích thực, như các trẻ em, tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Họ lao vào đôi tay của Cha trên trời, và họ tín thác Người vô điều kiện. Không có gì làm cho họ phải sợ hãi nữa bởi vì họ không bao giờ cảm thấy cô đơn. Cả khi thử thách xảy đến, họ tin vào tình yêu của Thiên Chúa, vì họ tin rằng mọi sự xảy ra đều vì lợi ích của họ. Có điều gì phải lo lắng sao? Họ liền phó mình trong tay Thiên Chúa, để rồi với lòng tin tưởng như trẻ thơ, họ tin rằng Người sẽ giải quyết mọi sự. Như một đứa trẻ, họ phó thác hoàn toàn, không so đo, tính toán thiệt hơn.
“…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”
Trẻ em phụ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ về thực phẩm, áo quần, nhà cửa, sự chăm sóc, giáo dục v.v. Chúng ta, “những trẻ em của Phúc Âm”, cũng phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Cha. Người nuôi ta như Người nuôi chim trời. Người mặc cho ta như Người mặc cho những bông huệ ngoài đồng. Người biết điều ta cần trước khi ta mở miệng cầu xin (xem Mt 6,26), và Người ban điều ấy cho ta. Ngay cả Nước Trời cũng không phải là cái mà ta chiếm đoạt được; ta lĩnh nhận như một món quà từ bàn tay Thiên Chúa.
Ngoài ra, trẻ em không làm điều xấu vì chúng không biết xấu là gì. Người môn đệ của Phúc Âm xa lánh sự dữ bằng cách yêu thương. Nhờ vậy, họ giữ mình trong sạch và lấy lại được sự hồn nhiên.
Không bị gánh nặng kinh nghiệm chất lên người, các trẻ em đối diện với đời trong thái độ tin yêu, luôn đi tìm những cuộc phiêu lưu mới. “Các trẻ em của Phúc Âm” tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và để lại quá khứ sau lưng, họ bắt đầu một cuộc sống mới mỗi ngày bằng cách bỏ ngỏ cho những tác động luôn mang tính sáng tạo của Chúa Thánh Thần.
Trẻ em không tự mình học nói được; chúng cần có người dạy. Người môn đệ của Đức Giêsu cũng không theo lối lý luận riêng của mình; họ học tất cả từ nơi Lời Chúa, bao gồm việc nói năng và sống theo Phúc Âm.
Trẻ em có khuynh hướng bắt chước cha mình. Nếu ta hỏi chúng khi lớn lên chúng sẽ làm gì, thì chúng thường trả lời là sẽ theo nghề của cha mẹ. “Các trẻ em của Phúc Âm” cũng vậy. Họ noi gương Cha trên trời, Đấng là Tình Yêu, và họ yêu thương như Người yêu thương. Họ yêu mọi người vì Chúa Cha cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (xem Mt 5,45). Họ yêu thương trước, bởi vì đang lúc ta còn là tội nhân thì Đức Kitô đã yêu thương ta (xem Rm 5,8). Họ mến yêu không vụ lợi vì Cha trên trời làm như thế.
Vì thế Đức Giêsu thích được các trẻ em vây quanh và Người đặt chúng làm gương mẫu:
“Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng”
Thực vậy, trẻ em không ngừng làm ta kinh ngạc. Betty, một bé gái sáu tuổi ở Milan, đã viết cho tôi: “Hôm qua ba cháu bảo cháu đi xuống hầm để lấy đồ. Cái cầu thang tối thui làm cháu sợ. Lúc đó cháu cầu nguyện với Chúa Giêsu và cảm thấy Người ở gần bên”.
Irene, Hillary và Laura, ba chị em ở Firenze, được mẹ chở đi mua sắm. Khi đi ngang qua trước nhà ông ngoại, chúng xin mẹ cho chúng được ghé thăm ông. Người mẹ bảo: “Các con đi đi, mẹ đợi ở đây”. Khi quay lại, chúng hỏi: “Tại sao mẹ không thăm ông ngoại?” Người mẹ trả lời: “Ông ngoại làm mẹ buồn. Như thế này để ngoại biết ngoại đã làm gì”.
Hillary trả lời: “Nhưng mẹ ơi, ta phải yêu mọi người, kể cả kẻ thù nữa”. Người mẹ không còn biết phải nói gì. Bà nhìn chúng và mỉm cười: “Con có lý. Các con chờ mẹ ở đây”. Và bà đi một mình lên chào ông ngoại.
Ta có thể học nơi trẻ em cách thức đón nhận Nước Thiên Chúa.

56. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Stephen Rocker – Chuyển ngữ: JB. Đào Ngọc Điệp)
Chúa Giêsu cấm việc ly dị. Ba sách Phúc âm và một trong các thư của Thánh Phao-lô đã đề cập đến việc này. Việc cấm đoán này thật khác thường, một phần vì Chúa Giêsu đã đi ngược lại lề luật Mô-sê. Hơn nữa, rõ ràng trong Tân Ước và lịch sử Giáo hội, việc trung thành với lệnh truyền của Chúa Giêsu đã và đang là một cuộc phấn đấu đối với những người theo Chúa Ki-tô. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói đến không phải là vấn đề ly dị. Việc thực hành ly dị hàm ý là đã có việc thực hành hôn nhân rồi, nhưng Giáo Hội và văn hóa lại không đồng ý với nhau về ý nghĩa của hôn nhân.
Trong phán quyết năm 2015, về vụ án Obergefell chống Hodges, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã thiết lập quyền “hôn nhân đồng phái” trong Hiến pháp. Pháp viện đã phán quyết rằng các cặp đồng giới được bảo vệ bình đẳng theo luật bảo vệ “những lựa chọn thân mật” và Pháp viện mô tả hôn nhân là một “sự kết hợp thân mật” và là một phương tiện để nói lên “các quyền tự do khác, chẳng hạn như bày tỏ tình cảm, hành vi thân mật và tính cách linh thiêng ”. Cần lưu ý rằng Tối cao Pháp viện đã mô tả một cách lỏng lẻo về hôn nhân dựa trên những cảm nghĩ cá nhân, chứ không định nghĩa hôn nhân một cách khách quan.
Trong khi nền văn hóa đại chúng không trình bày rõ ràng về ý nghĩa hôn nhân, thì Chúa Giêsu đã lặp lại định nghĩa về hôn nhân lấy từ sách Sáng Thế. “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Hôn nhân có ý nghĩa do sự kiện là một người đàn ông và một người đàn bà cùng nhau có khả năng đem lại sự sống mới. Hành vi độc đáo để hai người trở nên một cũng là hành vi mang khả năng sinh ra sự sống mới. Như thế Giáo hội dạy rằng tự bản chất tình yêu vợ chồng được xác định là để sinh sản và giáo dục con cái. Nói cách khác, trên nguyên tắc, sự kết hợp hôn nhân phải mở ra để đón nhận sự sống mới. Trong khi Giáo hội hiểu hôn nhân được đặt căn bản trên một sự kiện thiên nhiên, thì văn hóa hiện nay lại quan niệm hôn nhân hoàn toàn dựa trên cơ sở ước muốn và tán thành.
Trong Phúc âm theo Thánh Gio-an, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những người theo Người rằng: “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian.” (Ga. 17:14). Các trào lưu xã hội hiện nay đang đi ngược lại giáo huấn của Giáo hội về vấn đề này, nhưng chúng ta “không thuộc về thế gian”. Chúng ta khẳng định tình bạn và tình yêu dâng hiến có thể gặp thấy ở bất cứ nơi đâu, đồng thời Giáo Hội dạy rằng mối quan hệ tình dục luôn có ý nghĩa cao đẹp trong việc hình thành hôn nhân và đời sống gia đình.
Trong Phúc âm của Gio-an, Chúa Giêsu nói Người đã ban “lời” Người cho các môn đệ, “lời” ở đây cũng có thể được hiểu là “lý trí”. Nhờ lý trí, chúng ta có thể nhận ra trật tự thiên nhiên do Thiên Chúa ban bố. Về mặt đạo đức tính dục, dường như thế gian đã đánh mất nhận thức của mình, nhưng chúng ta là những môn đệ Chúa Kitô phải dạy và sống chân lý, không những cho hạnh phúc chúng ta mà còn cho hạnh phúc của thế giới nữa.
Nguồn: The Homiletic & Pastoral Review – (hprweb.com)

57. Chúa Nhật 27 Thường Niên
SỐNG ĐẠO TRUNG TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Theo Kinh thánh thì mỗi liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc, nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước hàng ngang giữa người với người nữa. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập giao ước hôn nhân hàng ngang bằng việc kêu gọi Ađam và Evà sống trung thành với nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt (St 2:24). Lời Kinh thánh này được Chúa Giêsu trích lại để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mc 10:7).
Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Người đã nâng khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thề hứa trung thành yêu thương và phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa khẳng định tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly (Mc 10:9). Khi mấy người Pharisêu thắc mắc tại sao ông Môsê cho phép li dị thì Chúa Giêsu bảo là tại lòng dạ chai đá của họ mà ông Mosê cho li dị. Thực ra từ đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trù liệu kế hoạch hôn nhân bất khả phân li để nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình: của vợ chồng và con cái. Còn li dị khiến con cái nhất là còn nhỏ tuổi thiệt thòi về mọi phương diện: thể chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng.
Trong quá khứ, hôn nhân được bảo vệ một cách tối đa: được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả mạng tin. Bằng cách cho phép ly dị, luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại không bảo vệ hôn nhân.
Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, mà đa số các giáo phận tại Mỹ đời nay đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không?
Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Những cặp dự bị hôn nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi. Có linh mục kia không biết nói chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu. Để cho hôn nhân có thể kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra nét đẹp và sống nét đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Người ta cần đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống hôn nhân.
Như vậy ta thấy mối liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và tin cậy. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân. Tuy vậy đời nay người ta lại thấy cảnh li lan tràn khắp đó đây. Nếu phân tích tại sao đời nay vợ chồng lại li dị dễ dàng như vậy, người ta có thể nêu ra tại những lí do sau đây (dĩ nhiên còn có những lí do khác nữa):
(1) Tại đặt nặng yếu tố tiền bạc trong đời sống hôn nhân. Khi thấy chồng làm ít tiền mà vợ lại thích mua sắm, thì nàng có thể bắt đầu để ý đến người có nhiều tiền hay làm nhiều tiền hơn.
(2) Tại đặt nặng vấn đề chăn gối. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi phim ảnh, nghệ thuật quảng cáo, và công ty xây cất nhà cửa với phòng ngủ của chủ gia đình thật lớn và sang có phòng tắm đặc biệt, có bồn tắm jacuzzi sóng ngầm chẳng hạn, mà người ta để ý đến vấn đề này. Vợ chồng cần tìm hiểu và để ý xem những lúc nào, hoặc thời kì nào người phối ngẫu không muốn chuyện chăn gối để tôn trọng nhau. Ngoài ra việc chăn gối hôn nhân phải là việc bày tỏ sự ưng thuận của cả hai người, lòng yêu thương, âu yếm, thông cảm, và coi trọng phẩm giá của nhau, chứ không phải là việc làm ép buộc, chỉ nhắm tìm khoái lạc. Vợ chồng cũng cần tìm những thoải mái về đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng có tính cách bền lâu bằng việc cầu nguyện, săn sóc gia đình và con cái hoặc làm việc xã hội và từ thiện bác ái nữa. Khi người ta cảm nghiệm hạnh phúc thoải mái về đời sống tinh thần và thiêng liêng, thì vấn đề chăn gối không còn phải là một nhu cầu lớn.
(3) Tại ích kỉ trong đời sống hôn nhân. Nếu một người phải đi làm lụng vất vả để nuôi gia đình mà người kia không góp phần mình, để cho nhà cửa lôi thôi, con cái nheo nhóc, cơm nước thất thường, thì người góp phần nhiều sẽ nản lòng. Nếu nấu giở thì cũng nên học cách nấu ăn sao cho người ăn được. Như vậy vợ chồng cần phải để ý để đáp ứng những gì mà người kia đã làm cho mình. Nói cách khác là có đi có lại mới toại lòng nhau. Còn không thì sẽ làm mất lòng.
(4) Tại để ý nhiều đến tình, mà quên nghĩa. Có những khi người ta còn lẫn lộn tình yêu với cảm tình hay cảm xúc trìu mến. Do đó khi không còn cảm thấy có cảm tình là người ta chia tay. Người ta quên đi những hi sinh và công ơn mà người khác đã làm cho mình. Có những người trọng nghĩa vợ chồng mà vẫn có thể chung sống với nhau mặc dù tình đã phai nhạt.
(5) Tại quên rằng vợ chồng còn là thánh giá cho nhau. Lập gia đình là để vợ chồng nâng đỡ nhau và săn sóc con cái về đời sống vật chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên vợ chồng còn là thánh giá cho nhau nữa nếu hiểu thánh giá là những bất đồng quan điểm với tính tình khác nhau, ăn ngử khác biệt, lại thêm tập quán, cách nói năng, cách nhìn đời cũng khác. Nếu học để chịu đựng và chấp nhận, những thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và mang lại ơn phúc cho đời sống hôn nhân.
(6) Tại quên đi phần sau của lời hứa hôn nhân. Trong thánh lễ cưới, vợ chồng hứa với nhau: Anh hứa nhận em làm vợ, em hứa nhận anh làm chống, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em). Vợ chồng phải thường xuyên nhắc nhở cho mình giữ lòng chung thuỷ lúa gian nan và khi bệnh nạn nữa cũng như yêu thương và tôn trọng nhau suốt cả cuộc sống.
(7) Tại không chịu tìm cách thăng tiến hoá đời sống hôn nhân. Tự nhìn và xét mình, người ta thường chủ quan hay vì tự ái mà không nhìn thấy mặt trái của mình. Do đó mà có những phong trào ra đời như Hội Ngộ Phu Thê (marriage Encounter) để giúp vợ chồng thông đạt với nhau cách hữu hiệu; hay phong trào Teams of our Lady để hướng dẫn vợ chồng cách thế phát triển đời sống hôn nhân; hoặc phong trào Thăng tiến Hôn nhân Gia đình để giúp vợ chồng đả thông những vấn đề bất hoà trong đời sống hôn nhân để mà tiếp tục thăng tiến.
(8) Tại nhìn thấy trước mắt có lối thoát. Vì có luật cho phép li dị cho nên khả dĩ tính của việc li dị được nằm trong tiềm thức của người chồng hay vợ nghĩa là đầu óc họ quan niệm rằng họ có lối thoát nếu không cảm thấy thoải mái trong đời sống hôn nhân. Trái lại thời xưa không có luật li dị, cho nên ông bà tổ tiên ta không nghĩ đến chuyện có thể li dị. Vì thế ông bà tổ tiên chỉ nhắm đến tính cách bất khả phân ly của đời sống hôn nhân cho nên cố xây dựng trên những ưu điểm của nhau thay vì chỉ nhìn đến những khuyết điểm. Nếu người ta cứ nhắm đến ý tưởng trung thành trong đời sống hôn nhân thì trong đời sống hàng ngày mà họ có súc phạm đến nhau bằng lời nói hay hành động, thì họ sẽ tìm cách hàn gắn, điều chỉnh và sửa sai, để có thể lèo lái tới đích. Còn nếu nghĩ rằng mình không sống với nhau được thì chia tay, thì người ta sẽ không cố gắng chỉnh đốn vấn nạn hôn nhân, mà cứ để vậy cho tới lúc không còn chịu đựng được nữa thì sẽ bỏ cuộc. Vì thế việc tâm niệm về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân sẽ giúp định hướng cho hướng đi trong đời sống lứa đôi. Trong quá khứ luật pháp không cho phép ly dị, vậy mà ông bà tổ tiên ta vẫn sống bên nhau cho đến bạc đầu long răng. Chẳng thế mà quan sát người ta thấy có những ông bà già ngồi ghế đá công viên, nhìn ngắm cảnh vật và người đi qua lại. Ông thì thẩy thức ăn cho chim câu, còn bà thì ngồi ngắm. Hai ông bà chỉ cần ngồi đó, có sự hiện diện của nhau là đủ, mà không cần nói nhiều. Vả lại sống với nhau lâu năm rồi, bây giờ lại lớn tuổi, nói nhiều làm chi cho mỏi miệng, mà cũng chẳng còn gì để nói.
(9) Tại đặt nhẹ việc phát triển tình bạn trong đời sống hôn nhân. Ở xã hội Việt Nam, vợ chồng được gọi là bạn trăm năm, nhưng nhiều vợ chồng lại không phải là bạn. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu bền vững trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu hôn nhân mà ít nói về tình bạn. Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình, tập quán và cách nhìn đời giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau. Nếu trước khi cưới chưa phải là bạn, thì sau khi cưới việc quan tâm và đáp ứng nhu cầu người khác cũng có thể khiến họ trở thành bạn với mình. Nếu bạn hữu không muốn xa nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau mãi mãi.
(10) Tại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Người ta có thể nhớ đem Chúa vào đời sống cá nhân, nhưng lại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân có nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành trong đời sống hôn nhân khi vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân còn có nghĩa là để Chúa làm chủ đời sống hôn nhân. Cũng nên biết khi vợ chồng cùng chung một niềm tin vào Chúa thì dễ thực hiện việc đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Theo thánh Gioan định nghĩa thì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:16). Và Thiên Chúa chia sẻ tình yêu cho loài người và cho vợ chồng nghĩa là Thiên Chúa có liên hệ mật thiết trong đời sống hôn nhân bằng cách kết hợp hai người nam nữ trong một tình yêu. Nói như vậy có nghĩa là khi chồng yêu vợ thì chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho vợ mình. Ngược lại khi vợ yêu chồng thì cũng chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho chồng mình. Thế nên ngay cả trong những tác động chăn gối, vợ chồng cũng cần đem Chúa vào để cho khỏi trở thành những tác động chỉ bao hàm nhục dục mà thiếu yếu tố yêu đương. Thống kê cho thấy những gia đình thường ăn chung và đọc kinh chung là những gia đình tránh cảnh đổ vỡ.
Sự trung thành giữa vợ chồng thường được Chúa dùng để so sánh với lòng trung thành của Thiên Chúa với loài người. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và Chúa muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua các bí tích họ lãnh nhận.
Lời cầu nguyện xin cho được trung thành trong đời sống hôn nhân:
Lạy Thiên Chúa hằng sống! Đấng luôn trung thành với lời giao ước, Chúa làm với loài người.
Xin dạy con cũng biết trung thành với lời giao ước mà con đã làm qua các bí tích mà con lãnh nhận: hôn nhân cũng như thánh chức.
Xin cho con được giữ trọn lời thề. Đừng để con nghe lời cám dỗ rỉ tai mà bất trung với nhau và bất trung với Chúa. Amen.

58. Chúa Nhật 27 Thường Niên
CON NGƯỜI MỚI ĐƯỢC SINH RA TỪ CẠNH SƯỜN ĐỨC GIÊ-SU, ADAM MỚI
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Từ cạnh sườn mở ra của Adam, Thiên Chúa đã dựng nên người phụ nữ đầu tiên. Bà Eva là mẹ của tất cả chúng sinh.
Cạnh sườn mở ra, trái tim được nhìn thấy, bộc bạch tình yêu muốn sẻ chia cho một đối tượng và cứ thế, sản sinh ra nhiều gấp bội đầy cả mặt đất.
Trái tim Adam được mở ra mới chỉ làm nên một nhân loại tự nhiên, hữu hạn, mỏng dòn, kết thúc bằng sự chết. Adam là người bởi đất mà ra, cũng sẽ trở về với cát bụi.
Chúa Giê-su, Adam mới, mở cạnh sườn từ trên thập giá, phát sinh một nhân loại mới, tháp nhập, lôi kéo tất cả vào trái tim rộng mở của Ngài, thì muôn đời con người được kín múc tận nguồn ơn cứu độ.
Bài đọc I, trích sách Sáng Thế, kể câu chuyện Chúa dựng nên Eva. Vì cớ Adam ở một mình không tốt: đơn độc giữa muôn loài, tình yêu không có đối tượng sẻ chia, không thể phong nhiêu, sinh sản cho đầy mặt đất, Eva người đàn bà đương đối, là bạn đồng hành, chia sẻ mọi khát vọng của Adam.
Với Eva, Adam không còn khoảng cách, không còn phải thinh lặng như khi đặt tên cho mỗi loài chim trời, dã thú, ông đã vui sướng reo lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23).
Chúng ta thấy cách thức tạo dựng Eva đầy kịch tính và thú vị: Chúa giáng xuống Adam giấc ngủ tê mê, rút một xương sườn của ông, bí mật làm ra người đàn bà, đưa nàng đến khi ông vừa thức dậy… Các chi tiết được nêu có ý nghĩa gì ?
Adam ngủ mê mệt là bằng chứng cho thấy ông không phải là tác giả của công trình sáng tạo. Chúa cho ông ngủ mê ngầm tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo duy nhất, mọi sự, mọi loài, cả đến những nhu cầu tất yếu nhân sinh cũng đều bởi tay Chúa ban tặng. Cây xương sườn Adam dùng làm vật liệu tạo dựng Eva là một ý tưởng đẹp, một chân lý khả tín về sự đồng bản tính “người”, đồng phẩm giá, địa vị, đồng trách nhiệm liên đới với mọi loài, nhất là bổ túc cho nhau trong việc làm chủ và tô điểm bộ mặt thế gian.
Bởi thế, người đàn ông sẵn sàng lìa bỏ cha mẹ, gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt (St 2, 24).
Sự gắn bó vợ/chồng trong câu chuyện Adam/Eva là hình ảnh tiền trưng cho sự kết hợp nhiệm mầu “Ngôi Lời nhập thể”, sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Một sự kết hợp hài hòa, bền vững, bất khả phân ly “Thần/Nhân” Giê-su. Trong sự kết hợp này, công trình sáng tạo mới được hoàn tất, hoàn hảo gấp bội so với công trình sáng tạo cũ, cả về phẩm chất, lẫn danh xưng.
Con người mới được sáng tạo trong Chúa Giê-su sẽ không còn cô đơn giữa thế gian, tình yêu và sự sống thần linh luôn hằng triển nở, phong nhiêu, đầy tràn mặt đất, sánh ngang cùng Tuế Nguyệt.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đề cập đến đặc tính hôn nhân bất khả phân ly mà trình bày mạc khải về sự kết hợp giữa Ngài với Hội Thánh. Trong cuộc hôn nhân nhiệm mầu này, công trình sáng tạo mới được thực hiện: con người được trở nên con Thiên Chúa, được ơn thần hóa, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, được thừa hưởng sự sống muôn đời.
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể diễn tả sự kết hợp kỳ diệu giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại của Chúa Giê-su, trong một ngôi vị duy nhất: Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Từ ngày Trời/Đất giao duyên, Thiên Chúa vĩnh viễn ở với loài người: “Ngôi Lời một khi đã làm người thì đời đời làm người, ngay cả khi ngự bên hữu Chúa Cha, cũng vẫn là một con người, vì thế, hy vọng có chỗ cho chúng ta trong gia đình Ba Ngôi” (ĐTC. Gio-an Phao-lô II).
Thưa anh chị em,
Đoạn kết của bài Tin Mừng nói về thái độ sống: phải trở nên trẻ thơ mới có thể gia nhập Nước Thiên Chúa. Đoạn văn có vẻ lạc điệu với nội dung trình bày ở phần trên, nhưng suy gẫm kỹ càng, độc giả sẽ “ngộ” ra chủ đích của thánh ký.
Thật vậy, con người mới, sinh ra từ cạnh sườn Đấng chịu đóng đinh, phải là con người đơn sơ, khiêm cung bé mọn. Chúa Giê-su đã tự khiêm, tự hạ đến cùng kiệt bằng cách dãi dầu học cho biết vâng phục thánh ý Chúa Cha và khi đã đạt tới mức thập toàn, đã trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.
Trở nên trẻ thơ là những kẻ đã được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần. Họ mới là những người luôn giữ lòng trung tín cho đến chết, mới không bao giờ bội nghĩa bất trung. Họ mới là những người diễn tả đúng sự kết hợp nhiệm mầu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh, mới đáng được hưởng hạnh phúc Nước Trời.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta:
* Một là: luôn ý thức mình đã được tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần, nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, nên phải luôn sống như những con cái ánh sáng. Hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau. Trên hết mọi sự, hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc mọi điều thiện hảo.
* Hai là: cố gắng hoán cải không ngừng, hoán cải tận căn, để mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong lời nói cũng như việc làm. Dốc quyết sống trung thực, thật thà trong mọi hoàn cảnh: “có thì nói có, không thì nói không, kỳ dư là bởi ma quỷ mà ra” (Mt 5, 37).
Thực hành những điều đó, chúng ta làm phải và đang bước đi trên đường dẫn tới sự trọn lành.
Nguyện xin Đức Giê-su, Đấng đã tái sinh chúng ta bởi nước và Thánh Thần, gìn giữ chúng ta luôn mãi vẹn toàn trong trong ân nghĩa Chúa, để có thể đạt tới sự sống muôn đời. Amen!

59. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII Thường Niên năm B, Bài đọc I và Tin Mừng đề cao tình chồng nghĩa vợ: cả hai trở nên một xương một thịt.
St 2: 16-24
Tự nguồn gốc, Thiên Chúa không chỉ tạo dựng con người có nam có nữ, nhưng Ngài còn tác hợp và đứng ra làm chủ hôn cho đôi vợ chồng đầu tiên.
Dt 2: 9-11
Đoạn trích thư gởi các tín hữu Do thái vạch lại mầu nhiệm của Đức Ki-tô, mầu nhiệm hạ mình đoạn vinh quang, nhờ đó Đức Ki tô dẫn đưa nhân loại đến cùng một vận mệnh theo cùng những giai đoạn.
Mc 10: 2-16
Trong Tin Mừng Mác-cô, Đức Giê-su tái khẳng định tình yêu bất khả phân ly của hôn nhân: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
BÀI ĐỌC I (St 2: 18-24)
Sách Sáng Thế là sách đầu tiên của bộ Ngũ Thư và toàn bộ Kinh Thánh. Sách mở ra với hai chuyện tích về công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVII nầy mời gọi chúng ta đọc chuyện tích thứ hai, chuyện tích cổ xưa hơn.
1. Đức Chúa tạo dựng con người có nam có nữ:
Đức Chúa, như một người thợ gốm, lấy đất nặn ra hình tượng người nam, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và người nam trở nên một sinh linh. Đoạn, Ngài đặt người nam sống một mình trong vườn Địa Đàng. Tiếp đó, Đức Chúa lấy đất nặn ra mọi súc vật, mọi chim trời, mọi dã thú và dẫn chúng đến với ông để ông đặt tên cho chúng, điều đó nói lên quyền thống trị của con người trên mọi loài thụ tạo khác. Nhưng trong các loài thụ tạo ấy, “con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng”.
Đức Chúa, như một nhà giải phẩu, làm cho người nam ngủ mê, rồi lấy cái xương sườn rút từ người nam mà làm thành một người nữ. Chỉ có người nữ là “một trợ tá tương xứng” với người nam, nghĩa là, chỉ có người nữ mới có thể chung chia những tâm tư tình cảm về đời sống vật chất và tinh thần với người nam. Như vậy sự khác biệt giữa hai phái tính nam và nữ là nhằm bổ túc cho nhau.
2. Đức Chúa thiết định hôn nhân:
Thiên Chúa dẫn người nữ đến với người nam (2: 22). Ở đây, hành động của Đức Chúa tương tự như hành động của ông tơ bà nguyệt kết nghĩa phu thê cho người nam người nữ đầu tiên, đồng thời chính Ngài đứng ra làm chủ hôn trong hôn lễ tiên khởi. Trong bầu khí tràn ngập niềm hân hoan phấn khởi, người nam xướng lên bài tình ca đầu tiên gồm hai câu với từ “nàng” được lập đi lập lại nhiều lần:
“Phen này, nàng là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng được gọi là đàn bà, vì nàng được rút từ đàn ông ra”.
Tác giả sử dụng hai trùng âm của ngôn ngữ Híp-ri: ’ish (“nam”) và ’ishah (“nữ”) để diễn tả mối quan hệ mật thiết giữa nam và nữ. Chuyện tích này mang tính tầm nguyên, vì đưa ra câu trả lời cho những vấn đề muôn thuở: tại sao nam và nữ lại có sức hấp dẫn lôi cuốn tự nhiên đến với nhau, và tại sao tình yêu nam và nữ còn mãnh liệt hơn cả tình nghĩa cha mẹ và con cái? Sức hấp dẫn của phái tính và sức mạnh của tình yêu lứa đôi phát xuất từ ý muốn của Thiên Chúa, nhằm mục đích thiết định hôn nhân, như một mối dây liên kết bất khả phân ly. Cả hai thành một xương một thịt, nghĩa là một mối dây liên kết giữa chồng với vợ còn bền vững hơn cả mối liên hệ tình thân ruột thịt giữa cha mẹ và con cái.
BÀI ĐỌC II (Dt 2: 9-11)
Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta đọc thư gởi tín hữu Do thái trong suốt bảy Chúa Nhật liên tiếp. Bức Thư nầy được gởi cho các Ki-tô hữu gốc Do thái, họ ôm ấp trong lòng nỗi nhớ nhung luyến tiếc về những đại lễ uy nghi trang trọng trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem.
1. Vấn đề về tác giả và người nhận thư:
Chúng ta không biết tác giả bức thư là ai, chắc chắn một người bạn đồng hành hay một môn đệ của thánh Phao-lô. Từ lâu, người ta gán bức thư nầy cho thánh Phao-lô, vì nhiều tư tưởng và cách nói rất quen thuộc với thánh Phao-lô; tuy nhiên, sứ vụ của Đức Ki tô được trình bày trong thư này là chức vụ tư tế không là tư tưởng của thánh Phao-lô.
Ngoài ra, chúng ta cũng không biết đích xác người nhận thư là ai. Nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” đã được thêm vào từ thế kỷ thứ hai, cũng không giúp chúng ta biết căn tính của người nhận thư. Những người trao đổi thư từ với tác giả bày tỏ nỗi xao xuyến và vỡ mộng vì tôn giáo mới quá thanh đạm so với tôn giáo của mình trước đó. Tác giả sẽ chứng minh cho thấy sự cao trọng tuyệt mức của Con Thiên Chúa, Ngài là Đấng Trung Gian cao vời khôn ví trên tất cả thiên sứ và ông Mô-sê, chức tư tế của Ngài thì cao trọng hơn chức tư tế của Giao Ước Cũ và hy tế của Ngài thì cao trọng hơn hy tế được tiến dâng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đoạn văn mà chúng ta đọc thuộc vào phần thứ nhất: Con Thiên Chúa cao vời khôn ví trên các thiên sứ.
2. Đức Giê-su, một con người tuyệt vời:
Trước hết, tác giả áp dụng Tv 8 cho Đức Ki-tô. Thánh Vịnh này ca ngợi phẩm chất cao vời của con người và tán dương địa vị mà Thiên Chúa đã ban cho con người ở giữa lòng cuộc sáng tạo của Ngài:
“Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8: 4-7).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái sửa đổi đôi chút Tv 8 để áp dụng vào Đức Giê-su, một con người tuyệt mức. Ông viết: Đức Giê-su “đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn”, tức là Người đảm nhận trọn vẹn thân phận con người, đó là điều tất yếu nhằm đảm bảo ơn cứu độ cho nhân loại. Tiếp đó, tác giả tóm tắt vắn gọn mầu nhiệm cứu độ. Với một văn phong cô động, tác giả khảo sát mầu nhiệm nầy dưới ba viễn cảnh: Thiên Chúa, Đức Ki-tô và nhân loại.
3. Sáng kiến của Thiên Chúa:
Sáng kiến cứu độ nhân loại phát xuất từ Thiên Chúa, Ngài là “nguồn gốc và cùng đích mọi loài”. Ngài đã muốn muôn loài muôn vật dự phần vào vinh quang của Ngài. Để đưa họ đến nguồn ơn cứu độ, Ngài đã chọn Đấng thánh hóa thập toàn là Đức Ki-tô.
4. Đức Ki tô, vị lãnh đạo thập toàn:
Đức Giê-su đã chấp nhận vai trò thánh hóa nầy. Thiên Chúa “đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn”. Như vậy, Đức Giê-su là “nguồn ơn cứu độ” của mọi người.
Một trong những nét đặc thù nhất của bức thư nầy, đó là đem lại một giá trị thập toàn cho đau khổ, thậm chí đối với Đức Ki-tô. Đề tài này được tác giả nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đức Giê-su, vốn là Thiên Chúa, thập toàn ngay từ khi mới thụ thai. Nhưng tác giả của bức thư không bao giờ đánh mất khỏi tầm nhìn hai bản tính của Đức Giê-su. Ấy vậy, chính nhờ nhân tính của mình mà Đức Giê-su đã kinh qua đau khổ và cái chết mà Thiên Chúa không thể. Từ đó, Đức Giê-su trở thành con người thập toàn, được Thánh Vịnh ca ngợi, có khả năng cảm thông với anh em đồng loại của Người (5: 2). Người là Đấng Trung Gian hoàn hảo, biến đau khổ thành nguồn ơn cứu độ.
5. Nhân loại được thánh hóa:
Nhân loại có thể dự phần vào ý định của Thiên Chúa nhờ ơn thánh hóa của Đức Giê-su. Đức Giê-su tự mình liên đới với con người ngõ hầu những ai liên đới với số phận của Người, họ trở nên thánh thiện nhờ trung gian cứu độ của Người.
TIN MỪNG (Mc 10: 2-16)
Đức Giê-su đang lên đường lên Giê-ru-sa-lem, đây là giai đoạn cuối cùng cuộc đời tại thế của Người. Một lần nữa, dân chúng lại tuôn đến với Người. Những người Biệt Phái một lần nữa tìm cách gài bẫy Người bằng những câu hỏi thâm hiểm. Ở đây, họ hỏi Đức Giê-su vấn đề ly dị với hy vọng câu trả lời của Đức Giê-su sẽ đặt Người vào trong thế đối nghịch với Luật Mô-sê để mà có cớ hãm hại Người.
1. Cuộc tranh luận về vấn đề ly dị:
Câu hỏi mà những người Biệt Phái nêu lên với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chồng có được rẫy vợ không?”, thật ra là một đề tài thường xuyên được tranh luận trong các trường phái kinh sư. Bản văn của thánh Mát-thêu phản ảnh rõ nét bầu khí tranh luận nầy: “Có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?” (Mt 19: 3). Thánh Mác-cô viết cho một công chúng rộng lớn hơn, vì thế không nêu lên lý do nào người chồng được phép ly dị vợ, nhưng đặt vấn đề một cách khái quát hơn: “Chồng có được phép rẫy vợ không?”.
Đức Giê-su sử dụng phương thế Người thường dùng: thay vì trả lời ngay thì Ngài hỏi họ ngược lại: “Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Khi đặt cho họ câu hỏi như thế, Đức Giê-su muốn dẫn đối phương của Người đến tận nguồn gốc của cuộc tranh luận.
Họ trả lời “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Câu trả lời của họ căn cứ trên Đnl 24: 1-4. Như vậy, họ xem ly dị là hợp pháp. Trong Do thái giáo thời xưa, việc ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại tòa án. Một câu trong sách Đệ Nhị Luật đã mở đường cho tất cả mọi lạm dụng: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà” (Đnl 24: 1). Như vậy, luật này cho phép người chồng ly dị vợ với bất kỳ lý do gì, chỉ còn một chút nhân đạo khi buộc người chồng phải trao cho người vợ một “chứng thư ly dị”. Thật ra, trong bối cảnh “thượng tôn nam giới” vào thời đó, Luật Mô-sê buộc người chồng phải cấp một giấy chứng thư ly dị để trả lại sự tự do cho người phụ nữ là nhằm bảo vệ người phụ nữ có thể tái hôn. Đã có những trường hợp những người chồng đuổi vợ đi, nhưng nếu người vợ cũ đi với một người đàn ông khác, người chồng có thể tố cáo vợ cũ là ngoại tình (và nàng sẽ bị ném đá).
Khi trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông”, Đức Giê-su xem lời dạy của Đnl 24: 1-4 như một sự nhượng bộ trước sự yếu đuối của con người và một sự miễn trừ trái với kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Để chứng minh cho thấy việc ly dị là vi phạm ý muốn của Thiên Chúa, Đức Giê-su trích dẫn chuyện tích sáng tạo thứ nhất: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ” (St 1: 27). Tiếp liền ngay sau đó, Ngài trích dẫn chuyện tích sáng tạo thứ hai: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2: 24). Cuối cùng, Ngài kết luận như một lời khẳng định: “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Quan điểm của Chúa Giê-su thì rất rõ ràng. Phá vỡ sự sắp đặt này của Đấng Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Người ta hiểu Đức Giê-su muốn rút ra một kết luận là cấm ly dị và tái hôn, bởi vì ly dị và đa thê không thuộc về chương trình của Thiên chúa. Chỉ hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly mới tôn trọng chương trình của Thiên Chúa và hoàn tất mục tiêu mà Thiên Chúa nhắm đến khi tạo dựng con người có nam và có nữ và tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ phát xuất từ Thiên Chúa.
Như vậy, Chúa Giê-su đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi “Chồng có được phép rẫy vợ không?”. Sau này thánh Gioan nhận định, nơi đây quả có một vị ngôn sứ còn cao cả hơn ông Mô-sê, nhà lập pháp của dân Thiên Chúa (Ga 1: 17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn đầy, Đức Giê-su đã đến phục hồi mọi sự vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo sĩ ưu tú lúc bây giờ), Chúa Giê-su cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà luật học Do thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Người xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân theo ý muốn của Thiên Chúa.
2. Giáo huấn các môn đệ:
“Khi về đến nhà, các môn đệ hỏi Người về điều ấy”: Kiểu nói “Khi về đến nhà” là một biểu thức mà thánh Mác-cô chủ ý dùng để giới thiệu một giáo huấn của Đức Giê-su trong chốn riêng tư giữa thầy và họ. Con đường Đức Giê-su mở ra mang tính đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của Người. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắc khe của Thầy mình. Và họ đang tìm cách xác định tư tưởng của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su trả lời cho các môn đệ một biểu thức đầy kinh ngạc khi đưa ra lời phán quyết: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”. Để đo lường tính cách mạng của lời phán quyết nầy, chúng ta nên nhớ rằng trong nền văn hóa Do thái “độc tôn nam giới”, chỉ có người chồng mới được phép rẫy vợ. Ngoài ra, tội ngoại tình chỉ được dùng để nêu lên sự bất trung của người vợ; không hề có án phạt được dự kiến đối với người chồng bất trung. Như vậy, Chúa Giê-su tái lập sự bình đẳng của chồng và vợ trong việc kính trọng phải có đối với hôn nhân. Thánh Mát-thêu đã không trích vế thứ hai “Ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình”, vì thánh nhân viết Tin Mừng cho người Ki-tô hữu gốc Do thái. Nhưng ở Hy-lạp cũng như ở Rô-ma, người vợ có quyền nầy, vì thế thánh Mác-cô không thể nào giữ im lặng về vấn đề này được.
3. Đức Giê-su và các trẻ em:
Từ việc phục hồi quyền hôn nhân, Đức Giê-su chuyển sang việc phục hồi quyền trẻ con. Thật khó để nghĩ rằng trình tự nầy thì ngẫu nhiên. Sau đoạn văn về hôn nhân, đến đoạn văn về con trẻ cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Cả hai đều có nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi thường trong xã hội lúc ấy; nhưng dưới mắt Đức Giê-su, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
Người vừa mới quở trách các đối thủ của Người là lòng chai dạ đá khi từ chối luật hôn nhân đích thật bắt nguồn từ Thiên Chúa. Đối lập với tinh thần quỷ quyệt của họ, Đức Giê-su nói đến đức tính trung thực, độ cảm thụ tuyệt vời và khả năng chân thành đón nhận Nước Thiên Chúa của con trẻ: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì chẳng được vào”.
“Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng”. Thánh Mác-cô một lần nữa trích dẫn những cử chỉ đầy thương mến của Đức Giê-su (ông là thánh ký duy nhất trích dẫn cử chỉ này). Qua cử chỉ này, Chúa Giê-su không chỉ bày tỏ tấm lòng yêu thương con trẻ nhưng còn dâng hiến tinh thần trẻ thơ như một linh đạo.

60. Tìm lại sự ngạc nhiên
(Suy niệm của Lm. Mark Link)
“Biết ngạc nhiên như trẻ thơ là trọng tâm mọi lời cầu nguyện và tôn thờ”
Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: “Đi đạo với Bà Tôi”. Bài được viết theo thể đối thoại như sau;
Ricky hỏi: Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào cuối mùa hạ?
Bà trả lời: Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần mặc lấy lá mới.
– Những lá mới từ đâu đến vậy?
– Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng
– Bà ơi, có bao giờ bà thấy bầu trời giống như một hồ nước úp lộn ngược không?
– Và những áng mây bé tí kia trông giống những chiếc thuyền buồm phải không nào?
– Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương buồm đi về đâu?
– Có lẽ đi dự “hội mây” đó cháu.
– Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?
– Có lẽ để quyết định xem trái đất có cần mưa thêm không?
– Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà nhỉ?
***
Bà của Richy thực là một gương mẫu hoàn hảo cho người trưởng thành. Bà không bị mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng của Chúa khi chưa hề bị tì ố. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.
Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề “Born Again” (Tái sinh). Colson một trong những người bị kết án trong vụ Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến hôm nay.
Trong một đoạn sách của mình, Colson đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho họ quan tâm.
Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông vẫn còn nhớ mãi những lời tâm sự ấy:
“Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt đứa nhỏ này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa”.
Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám phá rằng dù ông chưa tự chứng minh được là có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.
Điều này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay.
Nếu chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay; “Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó đâu”.
Có lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu chúng ta.
Nhà viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình Thiên Chúa như sau:
“Nếu người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết kiếm tiền”. Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: “Bi kịch của cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống”. Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.
Để kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; “Lạy Chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ.
Xin giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; “Kẻ nào không tiếp nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó”.
Xin hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa.
Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.”.

61. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
VẤN ĐỀ LY DỊ (10,1-12)
Nhiều lời khuyên bảo liên quan đến đời sống cộng đồng đã được Chúa Giêsu thực tại Caphanaum, xứ Galilê (9,33). Chặng đường dài của xứ Palestin, từ bắc tới nam đã được vượt qua (c. 1a). chúa Giêsu đang tiến bước hướng về Giêrusalem. Giờ đây Ngài đang tiếp xúc với cư dân mạn nam Palestin, ở hai bên bờ sông Giođan; ở phía tây là Giuđê, những đồng hương Do Thái với Ngài, phía đông là người xứ Pêrê (hiện là Giocđani) thuộc dân ngoại. Maccô muốn chứng tỏ Chúa Giêsu đang rao giảng cho tất cả mọi người không phân biệt. Đám đông đang hiện diện và thế là Chúa Giêsu dạy dỗ họ (c. 1b). Ở đây có đủ mọi điều kiện cần thiết để sứ điệp của Ngài đạt đến quảng đại quần chúng.
Đám biệt phái lại mon men đến gần Ngài (c. 2a). Lần tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và những kẻ nhiệt tình bảo vệ luật Môsê này đã xảy ra cách đây khá lâu (8, 11-12). Cũng giống nhu lần đó, lần này Maccô cũng ghi rõ những người Do Thái được số một này đến chất vấn Chúa Giêsu “để thử Ngài” (c. 2b). Cần phải nhớ rằng đàng sau những từ này, tác giả Phúc Âm muốn gợi lại thái độ của những người Israel vào thời còn ở hoang mạc lúc xuất hành từng biểu lộ sự cứng lòng với Môsê và với chính Thiên Chúa: “Ho thử thách Giavê bằng cách nói rằng: “Thiên Chúa có ở giữa chúng ta hay không?”. Còn ở đây thì họ giương bẫy gài Chúa Giêsu về vấn đề ly dị: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” (c. 2c). Vào bước ngoặt của Kỷ nguyên Kitô giáo vấn đề “rẫy” vợ được các giáo sĩ Do Thái tranh luận sôi nổi. Hai trường phái nổi tiếng đối đầu đưa ra những ý kiến ngược nhau. Một bên là giáo sĩ Hillel, thuộc dạng biệt phái tự do thì chấp nhận rất nhiều lý do cho phép vợ chồng có thể chia tay nhau. Ngược lại, giáo sĩ Shamamai thuộc khuynh hướng nghiêm khắc thì chỉ chấp nhận một số giới hạn các trường hợp được phép “rẫy” vợ. Bởi vì theo luật Do Thái, chỉ đàn ông mới có quyền ly dị vợ mình, nên Shammai theo cách thức của mình, đã bảo vệ cho phụ nữ trong một xã hội thượng tôn nam giới. Chính vì được đánh giá là một bậc thầy tăm tiếng nên Chúa Giêsu đã được hỏi ý kiến xem Ngài ủng hộ phe nào. Bẫy gài giương ra rất rõ ràng: Người ta sẽ đánh giá Ngài thuộc loại theo chủ thuyết “buông thả” hay chủ thuyết “gò bó” trong vấn đề này. Họ muốn đóng khung Ngài hoặc trong phe này hoặc trong phe kia. Trước tiên Chúa Giêsu dẫn đối phương về tận nguồn gốc cuộc tranh luận: “Môsê đã răn dạy các ông điều gì?” (c. 3). Câu hỏi này dễ trả lời (c.4). Lời quy chiếu của đám biệt phái về luật Môsê cho thấy thói quen xưa kia xem việc ly dị là hợp pháp (x. Đnl 24,1). Luật pháp Israel (bắt nguồn từ Môsê?). Chỉ nhân đạo hóa chút ít tập tục này bằng cách buộc người chồng phải trao cho người vợ mà ông ta ly dị một tờ giấy xác nhận. Tuy nhiên Chúa Giêsu không phải là không biết rằng bởi vì theo chủ trương buông thả quá độ nên truyền thống Do Thái đã phạm tội thiên bị bênh vực cho riêng cánh đàn ông. Người đàn ông có thể rẫy vợ mình kể cả vì những lý do không đáng gì hết! Một câu trong sách Đệ nhị luật đã mở đường cho tất cả mọi sự lạm dụng: “Khi một người nam cưới vợ, nếu cô này chẳng được ơn trước mặt người chồng bởi người ấy thấy nơi nàng có điều gì tỳ vết, thì người ấy thảo một tờ giấy ly dị, trao vào tay cô ta và đuổi cô ta về lại nhà cha mẹ…” (Đnl 24,1). Sử gia Do Thái Flarius Joseph (thế kỷ I sau Công nguyên) xác nhận là phe Hillel đã dùng đoạn này trong Torah để ủng hộ quyền tự do ly dị của cánh đàn ông. “Kẻ nào muốn lỵ dị, vì bất cứ lý do gì (có vô số lý do mà đàn ông có thể nại ra) thì cứ viết ra một chứng thư xác nhận (Cổ văn Do Thái 4,8,23).
Ý thức được hiện có đủ lối cắt nghĩa về vấn đề này Chúa Giêsu liền bắt đầu cách phục hồi luật Môsê vào đúng mực độ của nó: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá nên ông Môsê mới viết điều răn đó” (c. 5). Chủ đề dân được chọn cứng lòng không nghe lời Chúa đầy dẫy trong luật sư. Các tiên tri đã không ngừng tố cáo tấn kịch này của Israel, một dân tộc luôn cố “chống lại ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu cũng đã phàn nàn về “sự cứng lòng này” của đám biệt phái là những đại biểu ưu tú của dân (x. 3,5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu dự tính xoáy sâu hơn vào tư tưởng Ngài. Cũng như trước đây khi đề cập đến luật Môsê về ngày Sabat (x. 2,23-28). Lần này Ngài cũng đi trở vượt qua truyền thống Do Thái để trở về với ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa (c. 6). Chúa Giêsu đi trở ngược dòng thời gian: khá lâu trước thời kỷ Đệ nhị luật, sách Sáng thế mà Ngài trưng dẫn (St 1,27) đã trình bày sự kết hợp nam nữ như là nền tảng vững chắc để xây dựng cộng đoàn nhân lọai chứ không phải để phá hủy. Được tạo dựng theo hai phái tính nam, nữ nên cả đàn ông lẫn đàn bà “đều là hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao cả của việc hô kết hợp với nhau là ở đó. Chúa Giêsu đưa ra yêu muốn Đấng Tạo Hóa về sự kết hợp này: “Vì thế… cả hai sẽ thành một xương thịt” (c. 7-8). Quy chiếu này rõ ràng ám chỉ trình thuật thứ hai về cuốn tạo dựng (St 2,24). Bản văn này rất súc tích. Người nam và người nữ được kêu gọi xây dựng nên một tế bào gia đình độc lập. Sự kết hợp giữa họ tạo thành một đơn vị nền tảng, phát sinh do sợi dây tình yêu và tình dục. Được xây dựng trên ý định của Thiên Chúa nên đơn vị nguyên sơ này là một thực thể cần phải bảo vệ bằng mọi giá. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phố hợp, loài người không được phân ly!” (c. 9).
Như vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi trên. Như sau này thánh Gioan nhận thức, nơi đây quả có một vị tiên tri còn cao cả hơn Môsê, nhà lập luận của dân riêng Chúa (Ga 1,17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn đầy, Đức Mêsia đã đến phục hồi vũ trụ vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo sĩ ưu tú lúc bấy giờ) Chúa Giêsu cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà luật học Do Thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Ngài xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho mối dây liên kết hôn nhân. Con đường Ngài mở ra mang tính cách đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của Ngài. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắt khe của Thầy mình. Họ lợi dụng đám Biệt Phái rút lui để hỏi riêng Chúa Giêsu tại nhà (c. 10). Người ta có thể nghĩ rằng họ đai diện cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đang đương đầu với vấn đề ly dị nơi các thành viên của mình và đang tìm cách xác định tư tưởng của Chúa Giêsu về những trường hợp khó khăn, và Chúa Giêsu đã trở lại cho các môn đệ bằng một công thức đầy kinh ngạc (c. 11-12). Người ta có thể nêu ra hai nhận xét. Thứ nhất, ở đây liên quan đến việc tái hôn của những người đã ly dị, chứ không phải là một sự ly thân. Tình trạng này bị xem là “ngoại tình”. Đây là từ ngữ nghiêm khắc được các tiên tri dùng để bêu riếu Israel về việc họ “tương giao” với Thiên Chúa (x. Hs 1-3). Thứ hai là các từ ngữ được dùng cho thấy đàn bà cũng có quyền ly dị giống như đàn ông. Vào thời Chúa Giêsu, trường hợp này không hề có Thầy luật pháp Do Thái. Điều này cho thấy trường hợp này phát xuất từ luật Rôma. Khi soạn Phúc Âm cho các Kitô hữu đến từ gốc ngoại giáo, hẳn Maccô đã phải để ý đến các luật lệ Rôma.
Hai nhận xét trên đủ cho thấy rõ tư tưởng vững chắc của Chúa Giêsu về đề ly dị đã được Giáo Hội sơ khai áp dụng vào những tình cảnh mới. Vì thế không ngạc nhiên gì khi tư tưởng ấy vẫn còn áp dụng mãi đến ngày hôm nay. Giáo Hội luôn luôn phải đương đầu với những trường hợp hôn nhân bị “đứt đoạn” và vấn đề tái hôn. Dù sao trong tất cả những trường hợp này, người ta hãy nhớ rằng tư tưởng của Chúa Giêsu không xây dựng trên quan điểm “vị luật”, và Ngài luôn luôn rộng mở đón nhận những kẻ bị khai trừ và những người tội lỗi (x. 2,15-17).
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRẺ EM (10,13-16).
Giữa lúc Chúa Giêsu đang dạy dỗ về phương cách để trở thành môn đệ Ngài (từ 8,34) thì Maccô lại lồng vào quang cảnh ngắn gọn sống động đầy tươi mát này: Chúa Giêsu tiếp đón các trẻ em. Trước đây, Chúa Giêsu đã từng biểu lộ quan tâm của Ngài đối với thế giới trẻ em (9,35-37). Để được đầu với những cao vọng nhóm Mười Hai, lúc đó Ngài đã tự xem mình là tôi tớ cho tất cả mọi người. Ở đây sứ điệp này được lặp lại với trọng điểm nơi khác một tí. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết trẻ em là gương mẫu trong một trong việc tiếp nhận Nước Thiên Chúa.
Người ta mang trẻ em tới cho Ngài để được Ngài chạm vào chúng (c. 13a). không ghi rõ tuổi tác nhưng đây chắc chắn không phải là những đứa bé xíu. Từ ngữ Hy Lạp được dùng ở đây ám chỉ lứa tuổi từ 7-14. Cũng không thấy xác định rõ lý do tại sao “người ta” muốn Ngài chạm vào đứa trẻ em này. Thực sự rất nhiều lần chúng ta đã thấy nhiều người, nhất là các bệnh nhân chen nhau đến với Chúa Giêsu để chạm được vào vị lương y này (2,10; 5,25-28). Tuy nhiên các trẻ em này không phải là những bệnh nhân. Phải chăng những kẻ mang chúng đến với Chúa Giêsu chỉ muốn Ngài ban cho chúng một cử chỉ chở che?
Người ta rất cảm thấy chướng trước thái độ rõ ràng thù nghịch của các môn đệ (c.13b). Đây là một cử chỉ xua đuổi mạnh mẽ. Tại sao vậy? Vào thời Chúa Giêsu, người lớn thường có thái độ khinh thường trẻ em. Lũ trẻ lóc nhóc, hay đòi ăn này chẳng được xem trọng trong một thế giới đói nghèo. Thêm vào đó, đám trẻ thuộc cộng đoàn Do Thái này lại chưa biết gì đến lề luật Môsê nữa chứ. Cho nên người ta xem chúng như những kẻ “sống ngoài lề luật”. Chúng bị liệt vào hàng “bị khai trừ” giống như các bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ v.v… Sự khinh bỉ mà các bạn thân của Chúa Giêsu biểu lộ đối với đám trẻ em làm Ngài xúc động mạnh: “Thấy thế, Ngài bực mình” (c.14a). Maccô từng nêu lên tia nhìn giận dữ của Chúa Giêsu (3,5) tuy nhiên chưa bao giờ ông tỏ cho chúng ta biết lý do sâu xa Ngài tức giận. Còn bây giờ thì lý do đã rõ (c.14b): đám trẻ em, cũng như những kẻ bị “khai trừ” khác, vẫn có chỗ trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.
Cùng với Chúa Giêsu, Vương Quốc Thiên Chúa đã đến: đó là một trong những đề tài nổi bật được Chúa Giêsu ưa thích nhất trong lời công bố của Ngài (x.1,14-15). Giờ đây Ngài chỉ rõ đám trẻ em và “những kẻ giống như chúng” là những người được nhận lãnh Vương Quốc này. Tại sao vậy? Chúa Giêsu thường dùng lời nói tán dương “tinh thần của trẻ em”. Hẳn người ta đã nói nhiều đến sự ngây thơ vô tội của trẻ em. Người ta đã biến chúng thành kiểu mẫu luân lý mặc dù vẫn không phải luôn luôn cảnh giác được chiếc bẫy mà những kẻ trưởng thành khờ khệch thường hay rơi vào đó là một thứ “ấu trĩ chủ nghĩa” nào đó. Khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa tâm lý chiến đấu đã cho thấy một cái nhìn bớt thơ mộng hơn về trẻ em. Một nhà thông thái như Frend chẳng hạn còn dám nói trẻ em là một thứ “tà vạy đa hình”: một sinh vật tàng ẩn, dưới dạng mầm non, mọi xấu xa của người lớn.
Vì thế không nên lý tưởng hóa việc Chúa Giêsu tiếp đón trẻ em. Nếu Chúa lấy trẻ em làm gương cho những người lớn bắt chước là bởi vì theo não trạng thời đó, trẻ em là những kẻ bé nhỏ, nghèo nàn và bị khai trừ. Chúng ta hãy đọc lại: vào thời Chúa Giêsu trẻ em trước hết là một “kẻ nghèo” bởi chúng hoàn toàn lệ thuộc vào người khác, đồng thời chúng cũng tỏ ra rất có khả năng lắng nghe và tin cậy, điều này những người lớn hầu như đã đánh mất! Chính thái độ sẵn sàng nơi trẻ em đã biến chúng thành tấm gương cho các tín hữu. Chúa Giêsu đã long trọng quả quyết điều này (c.15). Người ta nhận thấy rõ đây là nỗi ưu tư mà Chúa Giêsu không ngừng điều chỉnh cho tầm nhìn của các môn đệ bởi vì họ là những kẻ Ngài đang huấn luyện để đảm nhận trách nhiệm trong Giáo Hội. Họ phải bỏ đi những tham vọng “làm cha làm chú” (9,33-34) và phải trở nên “bé nhỏ” để có thể đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa với lòng khiêm nhu và cởi mở tối đa.
Đoạn cuối trình thuật dễ thương này cho thấy Chúa Giêsu đã chuyển từ lời nói qua hành động. Ngài ôm đám trẻ và chúc lành cho chúng (c.16). Việc Chúa Giêsu trìu mến đám trẻ em – ít được yêu thương và thường bị ruồng bỏ này – mang đầy ý nghĩa sâu sắc. Theo Thánh Kinh cử chỉ “chúc lành” các giáo sĩ Do Thái thường làm, ám chỉ việc hiệp thông nhờ hành vi ban ân sủng của Thiên Chúa. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng Nước Thiên Chúa cho đám trẻ em.
Mọi cử động trong quang cảnh trên hé mở cho thấy những gì đang xảy ra trong Giáo Hội của Maccô. Một số môn đệ nắm giữ quyền hành, chắc chắn đang bị cám dỗ muốn “ngăn cấm” không cho những kẻ bé nhỏ, nghèo khó, bị khai trừ, gia nhập vào đời sống của cộng đoàn. Tác giả Phúc Âm đặt lại trước mắt các vị ấy cử chỉ tiên tri của Chúa Giêsu: với tư cách là tôi tớ mọi người, Chúa Giêsu muốn người ta để cho những kẻ bị thế gian khinh dể “đến với Ngài”; và không chừng những kẻ này lại được mời gọi vào sống thân mật với Thiên Chúa… trước tiên đấy!

62. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Chú giải của Noel Quesson)
Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?
Tại sao cả thế giới sống động: thực vật, thú vật hay con người, đều được tạo ra theo “mẫu” này? Tại sao sinh vật phải gồm có hai “giống”, chia ra làm hai phần “đực và cái” khác nhau, nhưng được tạo ra “cho nhau”. Tư tưởng con người không ngớt giao động về vấn đề này giữa phái Janséniste, và những người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng, loại người đòi được tự do tình dục và ca tụng lạc thú như mục đích của con người.
Luân lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi quanh vấn đề “Thanh sạch ” và “không Thanh sạch”.
Tâm trạng con người hiện nay có khuynh hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự phóng khoáng: “Hãy làm điều bạn muốn làm, hãy làm những gì vừa ý bạn”.
Đức Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?
Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?”.
Đó là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy. Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa, thì Người cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Những vết thương lòng rất khó lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng ngạc nhiên, vì giải đáp đã do luật đưa ra rồi. “Một người nào lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy nơi nó có điều gì thô bỉ, vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã thải hồi khỏi nhà mình” (Đnl 24).
Câu trả lời của luật pháp thật là rõ ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời Đức Giêsu, cũng như thời nay. Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa những tình huống của các Kitô hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta biết: Trong hầu hết các nước trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái giá.
Người đáp: “Thế ông Môsê đã răn dạy các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ”.
Trả lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải Kinh thánh “mang tính truyền thống” (nghĩa là chủ trương phải hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự chỉ đạt đến những điều ngây ngô và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm tiến, và luân lý, giáo huấn cũng tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy lại “luật theo tục lệ” của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện, bằng cách “hợp thức hóa”, “quy định” và thiết lập một; “thủ tục”. Ong muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại: Có hai cách giải thích đối nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực vậy vấn đề là giải thích chữ “việc làm gây đụng chạm nặng” trong điều luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải hiểu từ này ám chỉ một tình trạng “vô luân trầm trọng” mà thôi, như thái độ ngoại tình. Trong khi trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã hiểu rộng hơn, như đã lỡ để mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).
Qua thí dụ này, chúng ta có thể kết luận rằng: “Tất cả những gì hợp pháp, không hẳn là hợp luân lý”. Người Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng. Họ phải đủ sức chịu động để sống theo lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa tới một thái độ anh hùng theo Tin Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói cho cùng, đa số những đòi hỏi của Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế cả sao? Thái độ bất bạo động không phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều kiện, không phải là một lệch lạc sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một điều không tưởng sao? Chính trong bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường đối với thời đại của mình.
Đức Giêsu nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn ấy”.
Lần này, đáng lẽ Người ta không nên dịch từ Hy Lạp “Sclérocardia” mà nên chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi người sẽ hiểu: “Vì chứng bệnh “sơ cứng tim” của các người, mà Môsê đã cho phép ly dị”. Đây là một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự yêu thương Người kia (người phối ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm như mọi người). Ngày nay cũng như thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối “tương quan lực lượng”. Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư những trường hợp ly dị trong năm năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau trước khi cưới. Khước từ “hôn nhân”, khước từ “những tiêu chuẩn xã hội”, không phải là bằng chứng của sự trưởng thành! Sống chung, ăn ở với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó có nghĩa gì? ‘Không phải đó là giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó không vượt khỏi trình độ sơ đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước từ dấn thân thể sự, không “tự trao hiến” có nguy cơ cứ ở mãi trong tương quan thống trị giữa hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi phải tỏ ra tự do!
Coi chừng bệnh “chai tim” của bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay là tình yêu của tình bạn?
Còn thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.
Luật căn bản của lứa đôi cần phải kiếm tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc của hai phái tính là một “sáng tạo”, một “Thánh ý” của Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất thâm sâu của người nam và người nữ.
Một lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù trên thực tế những điều này dẫn đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý tưởng. Chúng ta không thể coi việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần phải có chiêm ngưỡng “dự án của Chúa về người nam và người nữ”.
Trước những quan điểm xã hội, những luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng “làm như mọi người”, chúng ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân? Có phải quan niệm như một minh tinh điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào đó trên máy thu thanh, dành cho những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi chừng! Trước tất cả những điều này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu và đã diễn tả quan niệm này trong sự sáng tạo của Người.
Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Như vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời khẳng định phi thường của Sách Thánh: “Chúng ta hãy tạo con người theo hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của chúng ta”. Và Thiên Chúa đã tạo con người theo hình ảnh của Người, theo hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra con người nam và nữ (St 1,26-27). Không phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại theo hình ảnh của Người, “nhiều” mà chỉ là “một”. Từ nhiều người, khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn gốc của sự hiệp nhất trên thế gian, ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi, một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình yêu chia sẻ, xin cho dân của Người nghị lực yêu thương.
Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.
Chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta, mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi như bất lực. Bí tích hôn phối đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để chữa bệnh con người không biết yêu thương như Thiên Chúa của giao ước hằng thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược lại chuẩn mực thông thường của chúng ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét đoán hay lên án những gia đình gặp khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta làm việc đó! Sự bất khả phân ly là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó sống theo, nhưng nhờ sự thương khó và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu chúng con. Xin làm cho chúng con biết yêu thương như Chúa.
Ai rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.
Sự đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói song hành này, rất có ý nghĩa.
Đối với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong thế giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu. Và Người cho chúng ta “sức mạnh” để yêu thương như thế, dù có gặp khó khăn.
Sự hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa muốn, không phải chỉ từ “lúc đầu”, không phải “một thiên đường đã mất” trong quá khứ. Đây là đường đi hằng ngày mà nơi đó “Thiên đàng đã tìm lại” đang xây dựng, nơi cuối cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa “Ba” mà là “Một”.

63. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Chú giải của Fiches Dominicales)
HỌ CHỈ LÀ MỘT XƯƠNG MỘT THỊT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ cuộc tranh luận “khi đi đường”
Đã hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, Người tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan.
B.Standaert nhận xét như sau: “Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ: Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích luật này luật nọ trong Kinh Thánh, ông- nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất cho đời sống luân lý Kitô giáo là việc noi gương Đức Kitô. Những trình thuật quan trọng loan báo số phận của Con người thật ra không gì là khích lệ, nhưng chính từ đinh mệnh Đức Kitô, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi thực tế của Kitô giáo. Do đó, ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống đó có những đòi hỏi quyết liệt, không khoan nhượng”. Ông nhận xét tiếp: “Theo Maccô trình bày, noi gương Đức Kitô là chìa khoá của tất cả đời sống luân lý. Sự tương cận giữa đời sống Đức Giêsu và đời sống người Kitô hữu mà Maccô đề ra vẫn là gương mẫu cho nỗ lực tìm hiểu đời sống Kitô giáo. Maccô mời gọi ta suy nghĩ lại cả những thực hành, hoạt động, bi kịch và ước vọng của ta dưới ánh sáng duy nhất của tấn thảm kịch mà Đức Giêsu đã trải qua: “bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại” (9. 31) (“L’evangile selon Marc”, Cerf, trang 78-79 và 81).
– Có lẽ ở Giuđê, nơi dân cư là người Do thái sống chung quanh thủ đô Giêrusalem, Đức Giêsu chạm trán với nhóm Pharisêu. Nhóm này muốn thử thách Người nên đặt vấn nạn về vấn đề ly hôn: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” Vào thời đó, việc chồng rẫy vợ trên nguyên tắc được mọi người chấp thuận. Sách Đệ Nhị luật 24,1 có viết: “Nếu một người đàn ông đă lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”? Người ta chỉ bất đồng ý kiến về lý do mà người đàn ông viện ra để rẫy bỏ vợ mình.
+ Phái bảo thủ, muốn bênh vực quyền lợi cho người đàn bà trong xã hội do đàn ông thống trị, (môn phái Shammai) chỉ nhận duy nhất một lý do là hợp pháp: đó là thói lăng loàn bất trị của người vợ, hoặc một hành động khiến có thể nghi ngờ lòng chung thuỷ của nàng.
+ Phái tự do (môn phái Hillel) cho phép rẫy bỏ vợ bất cứ vì lý do nào, thí dụ như vô sinh, hiếm muộn, gặp được người đàn bà khác mình thích hơn, hoặc chỉ vì nấu ăn dở.
Nhóm Pharisêu tự hỏi xem Đức Giêsu sẽ gia nhập phái nào? Nhưng họ cũng biết quá rõ, cho dầu chọn môn phái nào, Người cũng bị sập bẫy. Vì người ta sẽ chụp mũ Người là “cứng cỏi” hoặc là “buông thả” đối với Lề Luật thánh, và như vậy, không ai còn tin giáo huấn của Người.
– Nhưng Đức Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Người trả lời bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? Khi dùng từ truyền dạy, Người buộc những người chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải “một lệnh truyền” của Môsê, mà chỉ là một nhân nhượng vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”.
Bấy giờ, Đức Giêsu nại đến một quyền lực cao trọng hơn quyền lực của Môsê trong việc cắt nghĩa Lề luật. Như những lần tranh luận về ngày Sabát, ở đây, Đức Giêsu cũng nại đến ý Thiên Chúa từ thuở ban đầu: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ “lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Việc rẫy vợ, dù rằng có trao tờ ly hôn chỉ là một nhân nhượng, nó không huỷ bỏ ý muốn ban đầu của Thiên Chúa, và tính cách vĩnh viễn của hôn ước. “Vì thế họ sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
J. Hervieux giải thích: “Ra đời trước sách Đệ nhị luật rất lâu, sách Sáng Thế mà Chúa trích dẫn, đã trình bày sự phối hợp người nam người nữ như nền tảng vững chắc, trên đó nhân loại được xây dựng chớ không bị hủy diệt. Con người được tạo dựng có nam có nữ nên cả hai phái tính đàn ông và phụ nữ đều là “hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao quí của việc kết hợp nam nữ là ở đó. Đức Giêsu rút ra kết luận mà Đấng Tạo Dựng mong muốn: “Vì lý do cả hai thành một xương một thịt”. Lời lẽ thật hết sức rõ rệt. Đàn ông và phụ nữ ơn gọi làm nên một tế bào gia đình tự lập. Đôi uyên ương họ tạo lập trở nên một đơn vị nền tảng, phát xuất do mối tương quan tình yêu và giới tính. Cái đơn vị hàng đầu này, được tạo lập do ý định của Thiên Chúa, là một thực thể cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đức Giêsu cương quyết nhắc nhủ điều đó “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (“L’evangile de Marc”, Centurion, trang 141-142).
2) Đến cuộc chuyện vãn thân mật “ở nhà”.
Thay vì bị mắc vào âm mưu của các luật sĩ, Đức Giêsu cương quyết tái xác định ý nghĩa sự phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa sắp đặt tự nguyên thuỷ; Người không làm luật, Người chỉ đề nghị một thái độ đạo đức cơ bản: đó là đặt mình vào kế hoạch của Đấng tạo thành. Người mở ra con đường khắt khe hơn quan điểm thường tình của người phàm. Cũng thế, vừa khi trở về nhà, (nơi biểu trưng cho những giáo huấn mà Đức Giêsu dạy dỗ riêng các môn đệ) các môn đệ thay thế cho nhóm Pharisêu đặt câu hỏi: Và Đức Giêsu trả lời họ: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác, là phạm tội ngoại tình, đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác cũng phạm tội ngoại tình”.
Ta thấy, khi chuyển lời Chúa đến địa chỉ mới là những Kitô hữu gốc ngoại giáo, thuộc thế giới Hy-lạp, nơi mà luật pháp cho phép phụ nữ cũng như đàn ông được quyền tự ý ly dị, Maccô cũng để ý đến hoàn cảnh đặc biệt này. Ông lần lượt nêu ra trường hợp người chồng, rồi người vợ, lìa bỏ người bạn đời của mình; dù cho phía nào gây ra cuộc phân ly cũng sẽ có “ngoại tình” nếu đi lấy người khác, nghĩa là nếu kéo theo cuộc phối hợp khác.
J.Hervieux nhận xét: “ý kiến cứng rắn của Đức Giêsu về vấn đề ly dị được áp dụng cho Giáo Hội sơ khai trong bồi cảnh mới mẻ. Đem áp dụng cho Giáo Hội hôm nay cũng không là điều đáng ngạc nhiên. Giáo Hội luôn phải đối mặt với những trường kết hợp vợ chồng bị đổ vỡ rồi tái tạo. Dù sao đi nữa, ta phải luôn nhớ rằng ý kiến của Đức Giêsu không dựa trên quan điểm “ duy luật” và Người luôn dang rộng tay đón tiếp những người bị khai trừ và những kẻ tôi lỗi” (Sđd, trang 142).
Tiếp ngay sau giáo huấn này, là việc một số cha mẹ dẫn con họ đến với Đức Giêsu để “Người đặt tay trên chúng” và họ chạm phải phản ứng thô bạo của các môn đệ: các ông thẳng tay đuổi chúng.
Ta dễ hiểu phản ứng của các môn đệ, nếu ta nhớ rằng vào Đức Giêsu. Trẻ nhỏ thường bị người lớn khinh thường. Tất cả những chú nhóc chen chúc nhau trong cộng đồng Do thái đều mù tịt về luật Môsê, chúng bị liệt vào hạng “bị khai trừ”, như bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ.
Bực tức trước thái độ như thế, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để dạy về thái độ tinh thần mà người môn đệ của Nước Trời phải có: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. “Nếu Vị Tôn Sư nêu trẻ nhỏ ra làm gương mẫu cho người lớn bắt chước, chính là theo quan niệm của thời đó, vì chúng nhỏ bé, nghèo khó, bị khai trừ. Như đã nói, vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ là “người nghèo”: chỉ là một sinh vật hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Nhưng trẻ nhỏ cũng là dấu chỉ sống động cho khả năng biết lắng nghe và tin tưởng. Chính khả năng dễ hoà nhập của trẻ nhỏ là một tấm gương cho các tín hữu. Đức Giêsu long trọng quả quyết điều đó(câu 15). Bởi vậy, ta nhận ra rằng Đức Giêsu luôn lo lắng để uốn nắn cái nhìn của các môn-đệ, mà Người đang đào tạo để trở thành những người lãnh trách nhiệm trong Hội Thánh. Họ cần phải bỏ tính tự cao tự đại (9,33-34), phải trở nên nhỏ bé để đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn khiêm nhượng và rộng mở ” (Sđd trang 142).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Do bản tính yếu đuối của con người.
“Do bản tính yếu đuối của con người” đó là câu nói cửa miệng để biện minh cho luật lệ và quy chế. Không có nó, con người sẽ đi về đâu? Có lẽ xã hội sẽ do những người mạnh nhất, hoặc những kẻ xấu nhất thống trị. Luật lệ là điều cần thiết dù ở thời đại nào, hay trong nền văn minh nào cũng vậy. Đó là lời thú nhận về những giới hạn của thân phận con người.
Trả lời cho nhóm Pharisêu có ý gây hấn và đầy ác tâm, Đức Giêsu vạch một luống cày để gieo hạt giống cho sự sống vĩnh cửu. “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà Môsê đã ban hành luật như thế, kể cả luật hôn nhân, để các ông khỏi chìm xuống sâu hơn, đúng hơn để các ông giữ được độ cao và biết đâu, các ông có thể sẽ muốn vươn lên cao hơn”.
Một cái nhìn đầy tin tưởng đối với nhân loại! Người không lợi dụng điểm yếu của họ. Người khơi dậy điều tốt nhất nơi họ, điều làm cho một tạo vật nên giống hình ảnh của Đấng Sáng Tạo, tức lương tri và trí tuệ mở rộng vô biên đến tận cõi trời vĩnh phúc.
Như vậy, Đức Giêsu dẫn đối thủ của Ngài về với ý định đầu tiên mà cũng là cuối cùng của Thiên Chúa, đó là con người sống hoà hợp với nhau và với vũ trụ. Thiên đường tại thế và Nước Trời. Giữa hai thế giới ấy, những yếu đuối của con người đọc coi là “sự cứng cỏi của con tim”, là trái tim từ chối đập theo nhịp của Thiên Chúa. Là từ chối hoạt động cho sự hòa hợp trong vũ trụ theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo”.
2) Những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân: đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình.
Để xem xét mục vụ về bí tích Hôn nhân, chúng ta phơi thực quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hoà sinh sản đặt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bày những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người”.

64. Chúa Nhật 27 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của William Barclay)
DÙ SAU NÀY TỐT XẤU RA SAO (10,1-12)
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đi về phía Nam, Ngài đã ra khỏi xứ Galilê và vào trong địa phận xứ Giuđê. Ngài chưa đến Giêrusalem nhưng từng bước từng giai đoạn, Ngài đang đến gần khung cảnh cuối cùng. Có vài người Pharisêu đến chất vấn Ngài về việc ly dị để thử Ngài. Có thể ẩn đàng sau câu hỏi này, còn có nhiều động cơ thúc đẩy khác nữa. Ly dị là một vấn đề nóng bỏng, một đề tài tranh luận của các Rabbi, và có thể họ thật lòng muốn biết ý kiến và nhận định của Chúa Giêsu trong vấn đề này. Cũng có thể họ muốn thử Ngài về phương diện giáo lý chính thống. Có lẽ Chúa Giêsu đã từng đề cập đến vấn đề này rồi. Trong Mt 5,31-32 chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đề cập hôn nhân và việc tái hôn, nên số người ấy mong Ngài tự mâu thuẫn với chính mình và sẽ gặp rắc rối vì chính những lời Ngài đã nói. Cũng có thể họ vốn biết Ngài sẽ trả lời như thế nào nên tìm cách đẩy Ngài vào chỗ thù địch với Hêrôđê, là người đã ly dị vợ để cưới vợ khác. Cũng có thể họ muốn được nghe Chúa Giêsu nói trái luật Môsê sẽ như Ngài đã từng làm, do đó, họ sẽ tố cáo Ngài là kẻ giảng tà giáo. Có một điều chắc chắn: vấn đề họ đặt ra không phải là vấn đề thuần lý, chỉ liên quan đến trường phái của các Rabbi mà thôi. Đó là một trong những đề tài tranh luận gay gắt trong thời Chúa Giêsu.
Về lý thuyết, không có gì cao hơn lý tưởng về hôn nhân trong Do Thái giáo. Trinh khiết vốn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh. “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, ngoại trừ tội không gìn giữ trinh khiết”. “Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang Thiên Chúa quay đi”. “Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ ngẫu tượng, giết người hoặc tà dâm”. “Khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”. Lý tưởng đã nằm sẵn ở đó nhưng thực tế lại hụt hẫng quá xa.
Điểm cơ bản làm xáo trộn mọi sự ở đây là theo luật Do Thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của người đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Cùng lắm người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi. Phụ nữ bị chồng ly dị dù có thuận ý hay không, nhưng đàn ông có thể tự ý ly dị vợ. Lý do để một phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau.
Luật về ly dị của người Do Thái vốn bắt nguồn từ Đnl 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng, bởi thấy nơi nàng một điều gì chướng, thì chồng được viết một tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau: “Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị, cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý”. Về sau tờ ly dị được viết kỹ hơn, trau chuốt hơn “Vào ngày… tuần… tháng…năm… trên thế gian, theo cách đang tính đang thịnh hành tại thành phố…, bên bờ sông…, tôi là X. con trai của Y và dưới bất kỳ tên nào tôi được gọi ở đây, có mặt hôm nay… nguyên quán tại thành phố…, tự ý, không bị ai ép buộc gì, có từ bỏ, cho về và đuổi nàng Z. con gái của V. hoặc dưới bất cứ tên nào được người ta gọi mà từ trước đến nay vốn là vợ tôi. Hôm nay tôi đuổi nàng là Z. con gái của V. để nàng được tự do và có thể lấy ai tùy ý, chẳng ai có quyền ngăn cản. Đây là tờ ly dị, giấy đuổi, chứng chỉ ly hôn và theo luật Môsê, của Israel”. Vào thời Tân Ước, chứng từ này phải do một Rabbi đặc trách thảo ra. Sau đó, nó còn phải được một hội đồng gồm ba Rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ tại Tòa Công Luận, nhưng nói chung thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và thường thuờng do ý muốn của người đàn ông.
Nhưng vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật theo Đnl 24,1. Câu ấy quy định người đàn ông có thể ly dị vợ nếu thấy nơi nàng điều gì chướng (bản Anh văn dịch là ô uế). Vậy họ phải cắt nghĩa câu này như thế nào? Trong vấn đề này xuất hiện hai trường phái tư tưởng. Trường phái Shammai giải thích vấn đề hết sức khe khắt, điều chướng (ô uế) là ngoại tình và chỉ có nghĩa là ngoại tình (tà dâm) mà thôi. Cho dù người đàn bà ấy xấu xa gian ác như Giêsabên, nhưng nếu người ấy không ngoại tình, không thể có chuyện ly dị. Thứ hai là trường phái Hillel giải thích câu quan trọng này theo nghĩa rộng rãi nhất. Họ bảo người vợ làm hỏng một đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò chuyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bên chồng và nếu đó là người hay to tiếng (họ lại định nghĩa to tiếng là đã nói lớn đến nỗi nhà hàng xóm có thể nghe được) –đó là những điều chướng. Rabbi Akiba còn đi rất xa để giải thích câu “nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng” là “nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình”.
Bản tính con người vốn vậy, hễ điều gì lỏng lẻo hơn thì luôn luôn thắng thế hơn. Hậu quả là các lý do để ly dị hoàn toàn là những lý do nhỏ nhặt, hay chẳng có lý do nào cả lại là chuyện phổ biến tai hại. Sự việc vẫn tiếp diễn như thế nên vào thời Chúa Giêsu, phụ nữ thường ngần ngại không chịu tiến đến hôn nhân, vì hôn nhân quá bấp bênh. Khi Chúa Giêsu phán các lời ấy, Ngài đang đề cập một vấn đề nóng bỏng, và Ngài đã quan tâm đến phụ nữ mà giáng một đòn sấm sét hầu vãn hồi địa vị thích đáng phải dành cho hôn nhân.
Chúng ta cần ghi nhận một số điểm sau đây: Chúa Giêsu đã trích dẫn một quy tắc của Môsê, và Ngài thêm rằng sở dĩ Môsê đã quy định như vậy là “vì lòng các người cứng cỏi”. Câu này có một trong hai nghĩa sau đây. Có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như thế vì đó là điều tốt đẹp nhất người ta có thể trông mong nơi dân mà ông phải ban bố luật cho. Hoặc nó có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như vậy vì ông muốn cố gắng kiểm soát một tình hình lúc bấy giờ đã thoái hóa trầm trọng, và điều đó thật ra không hề có chuyện cho phép người đàn ông ly dị vợ, nhưng từ ban đầu, nó chỉ là một nỗ lực nhằm kiểm soát việc ly dị vợ đưa nó vào trong phạm vi một thứ luật lệ, khiến việc ly dị vợ gặp phải nhiều khó khăn hơn mà thôi. Dù sao Chúa Giêsu cũng đã vạch rõ, Ngài chỉ xem Đnl 24,1 như một quy định do một hoàn cảnh chứ không là một sự ràng buộc vĩnh viễn. Những chứng liệu Ngài trích dẫn còn lui về những thời xa xưa hơn. Để thêm uy quyền, Ngài nêu chuyện sáng tạo trời đất như trong Sáng Thế 1,27; 2,24. Theo quan điểm của Ngài, ngay trong bản chất của sự việc, hôn nhân vốn có tính cách vĩnh viễn, là sự kết hợp bền vững giữa hai người bằng một phương cách mà không bao giờ luật lệ, quy điều của con người có thể phá vỡ, cắt đứt được sự ràng buộc đó. Chúa Giêsu tin, trong cơ cấu của vũ trụ, hôn nhân là một sự kết hợp tuyệt đối vĩnh viễn, bất khả phân ly, chẳng có một quy tắc nào của Môsê nhằm vào một hoàn cảnh tạm thời lại có thể thay đổi được nó.
Chỗ khó hiểu trong phần tường thuật của Matthêu lại có một điểm khác hẳn. Trong Maccô Chúa Giêsu tuyệt đối cấm việc ly dị vợ và tái hôn. Trong Mt 19,3-9 Ngài vẫn tuyệt đối cấm tái hôn, nhưng về ly dị, thì có một trường hợp duy nhất được cho phép, là nếu có ngoại tình (hiểu theo Tin Lành). Hầu như chúng ta có thể chắc chắn rằng phần tường thuật trong Matthêu là đúng và dĩ nhiên ý đó cũng có cả trong Maccô nữa. Chính luật Do Thái dạy rằng sự kiện ngoại tình bắt buộc phải đưa đến việc hủy bỏ hôn nhân. Thật ra thì chính tội ngoại tình, bất trung, cũng đã cắt đứt sợi dây buộc chặt đôi vợ chồng trong hôn nhân rồi. Một khi đã phạm tội ngoại tình, thì trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất nên một đã bị tan vỡ, còn ly dị, chỉ là một sự kiện để chứng thực mà thôi. Bên Công Giáo hiểu được phép ly dị nếu là hôn nhân bất hợp pháp.
Yếu tính đích thực của đoạn sách này là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tình trạng lỏng lẻo của đạo đức về hôn nhân và tình dục vào thời của Ngài, cần phải được hàn gắn, sửa đổi. Những kẻ chỉ muốn kết hôn để tìm lạc thú rằng hôn nhân cũng là trách nhiệm. Những kẻ xem hôn nhân chỉ là một phương tiện nhằm thỏa mãn các đam mê xác thịt phải nhớ đó là một sự liên hiệp thuộc linh. Chúa Giêsu đang xây một thành lũy chung quanh gia đình.
NƯỚC TRỜI THUỘC VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÓ (10,13-16)
Các bà mẹ Do Thái muốn một Rabbi danh tiếng, có uy tín, chúc phúc cho con cái họ. Đó là điều hết sức tự nhiên. Đặc biệt là nhằm ngày thôi nôi cho chúng. Theo thói quen đó họ đã đưa nhiều trẻ nhỏ đến Chúa Giêsu.
Chúng ta chỉ hiểu được trọn vẹn vẻ đẹp sâu sắc của đoạn sách này nếu nhớ rằng sự việc đã xảy ra lúc nào. Phải luôn nhớ là Chúa Giêsu đang trên đường dẫn đến thập giá và Ngài biết rõ điều đó. Lúc ấy, bóng khổ nạn không rời khỏi tâm trí Ngài. Thế nhưng, cũng chính lúc ấy, Ngài đã dành thì giờ cho trẻ nhỏ. Ngay khi tâm trí Ngài bị căng thẳng như vậy, Ngài vẫn dành thì giờ để ẵm bồng chúng vào lòng, vẫn có thể mỉm cười với chúng và có lẽ cũng còn nô đùa một lúc với chúng nữa. Cũng chính vì thế mà các môn đệ Chúa đã tìm cách ngăn cản đám trẻ nhỏ lại, không phải vì họ là những con người thô lỗ, vô tâm. Nhưng thực sự họ chỉ muốn bảo vệ Chúa Giêsu. Họ không biết chuyện gì xảy ra, nhưng biết rõ là tấm thảm kịch đang ở truớc mặt và thấy rõ Chúa Giêsu đang trong sự căng thẳng. Họ không muốn Ngài bị quấy rầy, cũng không thể nào hiểu nổi Ngài muốn có trẻ nhỏ bên cạnh trong một hoàn cảnh như thế. Nhưng cả trong một tình huống như vậy, Chúa Giêsu vẫn phán “Cứ để trẻ em đến với Thầy đừng ngăn cấm chúng’.
Một cách ngẫu nhiên việc này cho chúng ta biết rất nhiều điều về Chúa Giêsu. Nó cho chúng ta biết Ngài là Đấng hay chăm sóc trẻ nhỏ mà trẻ nhỏ cũng mến Ngài. Ngài không thể là một người nghiêm nghị, âu sầu, chẳng biết vui vẻ gì. Gương mặt nhân từ của Ngài rạng rỡ như mặt trời vây. Chắc Ngài rất dễ mỉm cười, cũng thường vui vẻ reo cười. George Macdonald, bảo rằng ông không tin vào Kitô giáo của một người nếu trẻ em không tìm được một chỗ để quây quần vui chơi trước cửa nhà người ấy. Biến cố nhỏ bé, quý báu này đã chiếu cả một luồng ánh sáng của Chúa Giêsu vào loài người.
Ngài tiếp “Vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. Trẻ nhỏ có gì mà Chúa Giêsu lại yêu thích và đánh giá cao như vậy”
1/ Có khiêm nhu như trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng cũng có vài đứa trẻ thích phô trương, nhưng trẻ như vậy rất hiếm và hầu như đó là kết quả sự hướng dẫn chúng cách sai lầm của người lớn. Thông thường trẻ nhỏ rất bối rối khi được đề cao, được đưa ra quảng cáo, nó chưa hề biết suy nghĩ bằng ngôn từ của địa vị, của tính kiêu ngạo, háo danh. Nó chưa được học hỏi để khám phá ra tầm quan trọng của chính nó.
2/ Có vâng phục như trẻ nhỏ. Thật ra trẻ nhỏ thường không chịu vâng lời, nhưng cũng thật nghịch lý là bản năng tự nhiên của trẻ nhỏ lại vốn hay vâng phục. Trẻ nhỏ chưa học biết để kiêu ngạo, để muốn được độc lập giả tạo, là điều gây ngăn cách giữa một người với đồng bào, đồng loại.
3/ Có lòng tin cậy của trẻ nhỏ. Điều này được thấy rõ trong những trường hợp: (a) Trẻ nhỏ thừa nhận uy quyền. Vào một giai đoạn nào đó, nó nghĩ rằng cha nó biết hết mọi sự, và cha nó bao giờ cũng đúng, cũng phải cả. Nhưng điều đáng xấu hổ cho chúng ta là chẳng bao lâu nó thoát khỏi tuổi đó, nhưng do bản năng, nó vốn biết rõ sự ngu dốt, bất năng, bất lực của nó và tin cậy nơi người mà nó tưởng là hiểu biết. (b) Trẻ nhỏ có sự tin cậy đối với người khác. Chỉ có trẻ nhỏ mới không thấy người khác xấu. Nó sẵn sàng kết bạn với người xa lạ. Một vĩ nhân đã nói, lời khen tặng lớn lao nhất đời ông là lần kia một đứa trẻ hoàn toàn xa lạ đến nhờ ông cột dây giầy giúp nó. Trẻ nhỏ chưa biết hoài nghi về thế giới, nó tin rằng mọi người đều tốt. Có khi niềm tin cậy đó đưa nó vào chỗ nguy hiểm, vì có nhiều kẻ hoàn toàn không xứng đáng, sẽ lạm dụng nó, nhưng dầu sao thì lòng tin cậy đó cũng hết sức đẹp đẽ.
4/ Trẻ nhỏ vốn mau quên. Nó chưa biết lẩm bẩm và chất chứa điều cay đắng trong lòng. Cả khi bị đối xử bất công, mà ai trong chúng ta lại không có lần tỏ ra bất công với con cái, nó cũng quên ngay, quên đến nỗi chẳng còn gì để tha thứ nữa.
Thật vậy Nước Thiên Chúa thuộc về những người như vậy.

65. Chúa Nhật 27 Thường Niên
ĐỨC GIÊSU ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ VÀ CÁC TRẺ EM
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu Mc 10,1 là một tóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Mc: một chi tiết địa lý khá mơ hồ (“miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan”); một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.
Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn cc. 2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do Thái giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12 được xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Vấn đề ly dị (10,2-12):
a) giáo huấn cho dân chúng (cc. 2-9),
b) giáo huấn cho các môn đệ (cc. 10-12);
2) Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (10,13-16).
3.- Vài điểm chú giải
– chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4. Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.
– để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì cho rằng ngưòi Pharisêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta do Người giới hạn “tự do” của họ.
– Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: “thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bh ‘erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9) được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn bản: có được phép ly dị không?
– Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại toà án. Người chồng chỉ việc viết một giấy (“Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này”), rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu nói về phép (cc. 2.4) trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng (hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!). Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.
– vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một lời cho phép ly dị đến lời làm nền tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.
– Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy Người phản đối ly dị là do Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St 1,27; 2,24. Người khẳng định rằng trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên “một xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hề đối lập với Kinh Thánh.
– Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.
– loài người không được phân ly (9): “Loài người” đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.
– khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không thể là ngôi nhà ở Caphácnaum (x. 1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng các môn đệ.
– Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.
– và ai bỏ chồng… (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.
– trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.
– chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho chúng.
– Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu (x. 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc 18,16 đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.
– vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải được đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (x. c.15).
– Thầy bảo thật (15): Từ “thật” dịch từ amên trong bản Hy Lạp: “điều vững vàng”, “điều chắc chắn là thế”.
– đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được quan hệ với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Vấn đề ly dị (2-12)
Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.
Khi đặt câu hỏi cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đăt cuộc tranh luận trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thuở tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.
* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)
Sau một đoạn nói về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng (như một em bé nhận quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực thể hiện tại. Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Mc đã hiểu tương quan với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và nhất là lời hứa được công bố ở cc. 14t được xác nhận.
+ Kết luận
Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả Mc muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này các môn đệ cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông cho thấy các ông không có khả năng hiểu đường lối của Thầy, và do đó rất cần được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo huấn đặc biệt, các ông có tư cách để truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho các cộng đoàn.
Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn đệ phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.
Ngoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. “… Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những khác biệt của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ chuyển giao đức tin cho con cái” (Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 66).
2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Người lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.
3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân huệ.
4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân vị của mỗi người, người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ hay chê bai người nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì mình là Kitô hữu. Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của mình để xin tha thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?

66. Chúa Nhật 27 Thường Niên
PHÒNG TRÁNH LY HÔN TRONG ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay đề cao ý định của Thiên Chúa khi sáng tạo nên lòai người có nam có nữ, và truyền cho đôi vợ chồng này phải hiệp nhất với nhau nên “một xương một thịt”. Rồi từ giáo ước này sẽ phát sinh hiệu quả là: hai người không được phân ly. Tóm lại: Hôn nhân tự nhiên do Thiên Chúa an bài có hai đặc tính là: “độc hôn” (một vợ một chồng) và “vĩnh hôn” (bất khả phân ly).
CHÚ THÍCH:
– C 2-4: + Có mấy người Pharisêu đến gần Ðức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?”: Người Pha-ri-sêu hay Biệt Phái là một đảng phái tôn giáo không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Câu hỏi của họ ở đây đầy ác ý, nhằm gài bẫy bắt bí Người + Họ hỏi thế là để thử Người: Nhóm Pha-ri-sêu đã giăng ra một cái bẫy yêu cầu Đức Giêsu phải chọn một trong hai cách trả lời, mà cách nào cũng đều bất lợi cho Người. Nếu Đức Giêsu cho phép ly dị là Người đã tự mâu thuẫn với lời dạy của mình. Còn nếu trả lời không được phép ly dị, thì họ sẽ tố Người chống lại Luật Mô-sê. Hơn nữa, Đức Giêsu lại đang ở trên phần đất do vua Hê-rô-đê An-ti-pa cai trị. Ông vua này đã bỏ vợ để lấy bà chị dâu là Hê-rô-đi-a. Nếu phản đối luật ly dị, Đức Giêsu có thể bị chung số phận với Gio-an Tẩy Giả, đã bị ông vua này ra lệnh chém đầu trước đó.+ Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”: Trước khi trả lời, Đức Giê su hỏi ngược lại họ qui định của Luật Mô-sê? Họ cho biết ông Mô-sê đã cho phép rẫy vợ như sau: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì “chướng”, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà (Đnl 24,1). Về vấn đề ly dị có hai trường phái đối nghịch nhau: Trường phái tự do chủ trương chồng có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì dù là nhỏ mọn. Còn trường phái bảo thủ chỉ cho phép ly dị vợ trong trường hợp vợ ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai phái này đều chung lập trường cho phép ly dị.
– C 5-9: + Lòng chai dạ đá: Đây là kiểu nói trong Thánh kinh ám chỉ dân Do thái “mặt dày mày dạn”, cứng lòng và cố chấp trong sự lầm lạc của mình. Thái độ này đã được Đức Giêsu có lần nói đến như sau: “Họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri I-sai-a nói về họ rằng: Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành” (Mt 13,14-15; x. Is 6,9-10). + nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông: Chỉ vì lý do nhân đạo mà Mô-sê “nhân nhượng” cho dân Do thái được ly hôn. Giờ đây đã đến lúc Đức Giêsu tái lập trật tự theo thánh ý Thiên Chúa từ ban đầu. + Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ …: Hai nguyên tổ do Thiên Chúa dựïng nên giống hình ảnh Người và cho phối hợp nên “một thân xác và một tâm hồn”, để sống hòa hợp “một lòng một ý” với nhau. +và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt: Thánh Phao-lô sau này đã so sánh sự phối hợp thâm sâu giữa hai vợ chồng với sự kết hiệp nhiệm mầu giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh (x Ep 5,31-32). +Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly: Như vậy hôn nhân theo Đức Giêsu dạy mang hai đặc tính là “độc hôn” (một nam một nữ) và “vĩnh hôn” (tồn tại vĩnh viễn).
– C 10-12: +Khi về đến nhà: Tin Mừng Mác-cô thường sử dụng kiểu nói nầy để kết thúc các huấn giáo của Đức Giêsu dạy thêm cho các môn đệ. +Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình…: Việc ly hôn sẽ kéo theo hệ lụy tội lỗi cho nhiều người khác nữa.
– C 13-14: +Người ta dẫn trẻ em đến với Ðức Giêsu: Trẻ em ở đây không phải là trẻ thơ, nhưng là những trẻ đã đến tuổi khôn. Thấy Đức Giêsu là một ráp-bi nhân hậu nhiều uy tín và dễ gần, nên cha mẹ đã đem trẻ em đến để Người đặt tay chúc lành cho chúng. +Các môn đệ xẵng giọng với chúng: Các môn đệ không muốn trẻ em quấy rầy Đức Giêsu, nên la rầy đuổi chúng đi. Phản ứng nầy trái với gương sáng và lời dạy về sự khiêm tốn hiền lành của Đức Giêsu (x. Mt 11,29). +Người bực mình nói với các ông: Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng: Đức Giêsu yêu quý và muốn tiếp xúc gần gũi với các trẻ em (x. Mc 10,14). +Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Không chỉ đề cao sự vô tội, Đức Giêsu còn đề cao tính cách khiêm hạ của các trẻ em là: không ham địa vị quyền hành, không cậy dựa vào thế lực của tiền bạc, luôn tín thác cậy trông vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
– C 15-16: +Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào: Đức Giêsu cũng dạy người lớn muốn được vào Nước Thiên Chúa cũng phải đơn sơ khiêm hạ giống như trẻ em. +Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng: Chỉ Tin mừng Mác-cô mới đề cập đến cử chỉ âu yếm trẻ em này của Đức Giêsu. Việc đặt tay chúc lành cho trẻ em cho thấy thái độ nhân hậu và têu thương của Người khi sẵn sàng ban ơn chúc lành cho những tâm hồn đơn sơ khiêm hạ.
CÂU HỎI:
1) Nhóm Pha-ri-sêu giăng bẫy để thử Đức Giêsu thế nào?
2) Mô-sê viết điều luật cho phép ly dị vợ với nội dung thế nào?
3) Đức Giêsu đã quở trách thái độ nào của các Biệt Phái đã cho biết thái độ đó đã ứng nghiệm lời tuyên sấm nào của Ngôn sứ I-sai-a?
4)Tại sao Mô-sê cho phép ly dị và Đức Giêsu đã tái lập trật tự thế nào theo thánh ý của Thiên Chúa từ ban đầu?
5) Tại sao Đức Giêsu bực mình với các môn đệ và Người đề cao trẻ em ở điểm nào?
6) Người đòi những ai muốn được vào Nước Thiên Chúa phải nên giống trẻ em như thế nào?
7) Người biểu lộ tình thương đặc biệt đối với trẻ em qua hành động gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Đức Giêsu phán: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,6-9).
2. CÂU CHUYỆN: Hiệu quả của chiếc ghế quỳ để tránh ly hôn:
Một phụ nữ Đức đến xin tòa cho ly dị, vì ông chồng hay say sưa, la mắng, đập phá… Vị chánh án là ông WIN-THÓT (Windthorst), một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức thời bấy giờ đã hỏi bà rằng:
– Lúc chồng bà say sỉn, la mắng, đập phá đồ đạc như vậy thì bà phản ứng thế nào?
Bà ta trả lời:
– Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi cũng phải gây sấm sét, cho nổi giông tố để đối đầu lại lão ta chứ.
Bấy giờ vị chánh án mới ôn tồn bảo bà rằng:
– Tôi thấy hình như trong nhà của bà còn thiếu một chiếc ghế quỳ để giúp gây bầu khí hòa thuận giữa hai vợ chồng. Vậy tôi cho bà một phương thuốc hữu hiệu, giúp gia đình bà thuận hòa là: bà hãy về nhà mua một chiếc ghế quỳ. Rồi mỗi lần ông chồng bà say sỉn, chửi bới, đập phá… thì bà hãy im lặng đến quì vào chiếc ghế đó để nói chuyện với Chúa thay vì đối đáp lại ông ta.
Bà này về nhà làm theo lời chỉ dẫn của vị chánh án. Ít lâu sau bà quay trở lại báo tin vui cho ông chánh án rằng: ”Phương thuốc chiếc ghế quì của ông rất công hiệu. Vì khi tôi quỳ xuống cầu nguyện thì ông chồng của tôi cũng đồng thời hạ hỏa không còn la mắng đập phá đồ đạc trong nhà như trước nữa”.
3. THẢO LUẬN:
1) Để tránh ly hôn, các đôi vợ chồng trẻ cần làm gì trước và sau khi kết hôn?
2) Theo bạn, việc tổ chức giờ kinh tối gia đình hằng ngày ích lợi thế nào và cần tổ chức đọc kinh tối gia đình ra sao cho phù hợp với tâm lý và hòan cảnh thực tế hiện nay?
4. SUY NIỆM:
1) Thực trạng và hậu quả tai hại của sự ly hôn:
Khi nhìn các đôi bạn trẻ tất bật lo chuẩn bị cho ngày kết hôn, có người thầm nghĩ: “Liệu hai, ba, năm bảy năm sau, cặp nào trong số các cặp vợ chồng này sẽ ra tòa xin ly hôn đây?”. Thực tế là ở Việt Nam hiện nay cứ ba cặp kết hôn, lại có một cặp xin ly hôn chỉ sau một thời gian ngắn chung sống với nhau. Điều đáng buồn là 60% số vụ ly hôn này rơi vào số các gia đình trẻ, mà tuổi vợ chồng chỉ từ 23-30. Trong đó 70% vụ ly hôn khi họ mới kết hôn được từ 1 tới 7 năm và hầu hết gia đình họ đều đã có con.
Con trẻ là những người gánh chịu hậu quả rõ nhất sau khi cha mẹ ly hôn. Mỗi năm, riêng tại Tp.HCM có tới 50.000 trẻ em thiếu cha hoặc mẹ do gia đình tan vỡ. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Tư vấn Trẻ em và Ủy ban Dân số Gia đình: hơn 30% trẻ em lang thang đường phố Sài Gòn đều có cha mẹ bỏ nhau. Còn theo số liệu của Bệnh viện Nhi Đồng 2: trong năm 2004, có 16/20 ca trẻ em từ 14-17 tuổi tự tử. Nguyên nhân là do cha mẹ luôn xung đột, cãi vã hoặc ly hôn…
2) Nguyên nhân dẫn đến ly hôn:
Người ta ra tòa xin ly hôn có nhiều nguyên nhân. Nếu sự nhàm chán là nguyên nhân gây sự đổ vỡ hạnh phúc của các đôi vợ chồng lớn tuổi, thì sự hiếu thắng, tính sị diện hão, tình yêu lãng mạn thiếu thực tế, cái “tôi” quá lớn… lại thường là nguyên nhân dẫn đến ly hôn nơi các đôi vợ chồng trẻ. Có lẽ chính sự ảo tưởng, ngộ nhận về tình yêu và hôn nhân là lý do khiến các đôi vợ chồng trẻ mau đổ vỡ hạnh phúc. Họ cưới nhau không phải vì muốn tạo hạnh phúc cho nhau, mà chỉ vì đã lỡ dại “ăn cơm trước kẻng”. Quan niệm về hôn nhân của họ dựa trên sở thích hơn là tình yêu: thích thì ” góp gạo thổi cơm chung”, không thích thì chia tay. Thế nên nhiều trường hợp đôi vợ chồng trẻ ra tòa xin ly hôn chỉ vì những lý do rất “trẻ con” như: Ăn cơm mà không đợi nhau, ngủ ngáy, thái độ ích kỷ, tình yêu không còn lãng mạn như thuở ban đầu. Nếu vợ chồng trẻ biết bỏ đi “cái tôi” tự ái cao và biết nghĩ đến người khác nhiều hơn thì chắc chắn hôn nhân không còn là “mồ chôn của tình yêu” như nhiều người vẫn nghĩ.
3) Cần làm gì để tránh ly hôn?
a- Trước khi kết hôn:
Tránh đốt giai đoạn: Tiến trình dẫn đến hôn nhân thường diễn tiến như sau: Gặp gỡ để trao đổi tìm hiểu về nhau bằng những sinh hoạt chung, những buổi đi chơi riêng, những cú điện thoại, nhắn tin, email, gặp nhau trên facebook… Nhờ gặp gỡ trao đổi mà đôi bạn trẻ sẽ hiểu biết về gia cảnh, tính tình, học vấn, tôn giáo, sở thích, nhân cách… của nhau. Thời gian làm quen thường từ 3 đến 6 tháng. Tránh đốt giai đoạn khi mới quen nhau đi chơi chung vài ba lần đã vội nói lời yêu thương và trao cho nhau những lời hứa hẹn, những nụ hôn… rất dẽ dẫn đến tình trạng: ”Ăn cơm trước kẻng” và khi đã ném lao đành phải theo lao là cưới gấp mà không có sự lựa chọn nào khác.
Cần trang bị kiến thức căn bản về hôn nhân gia đình: Cũng do yêu vội, cưới gấp, nên nhiều đôi bạn trẻ không kịp thời gian học hỏi trang bị cho mình kỹ năng cho cuộc sống chung sau này. Trong thời gian tìm hiểu nhau đôi dự hôn cần tập thành các thói quen tốt như: quan tâm hỏi thăm và chia sẻ vui buồn với nhau, mỗi ngày làm nhiều việc tốt để làm vui lòng nhau là điều kiện trở nên vợ chồng, cha mẹ tốt sau này.
Cần chấp nhận con người thực cả ưu lẫn khuyết điểm của nhau: Khi mới yêu nhau người ta thường “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại”. Rồi khi đã thành vợ chồng sống chung với nhau, hai người sẽ “hiện nguyên hình” với đầy đủ ưu khuyết điềm, tốt xấu. Nếu không biết chấp nhận giới hạn của nhau, thì ly hôn là điều khó tránh khỏi.
Sự cần thiết của thủ tục tiền hôn nhân: Bí quyết sống chung của nhiều cặp vợ chồng hạnh phúc là nghệ thuật “nhắm một mắt” để dễ chấp nhận nhau, dễ thích nghi, bỏ qua những thiếu sót cho nhau… Do đó, các khóa dạy kỹ năng sống chung vợ chồng hoặc các lớp giáo lý hôn nhân rất cần cho các đôi chuẩn bị bước vào cuộc sống hôn nhân. Thực tế đã chứng minh: nếu đời sống hôn nhân vượt qua được khoảng thời gian thử thách khoảng từ ba đến năm năm đầu chung sống thì tỷ lệ hôn nhân bền vững sẽ cao hơn nhiều. Ý thức được sự quan trọng của việc tìm hiểu nhau trước hôn nhân, cha ông chúng ta từ ngàn xưa đã tạo ra nhiều tục lệ xem ra rườm rà, nhưng lại thật sự cần thiết để giúp đôi bạn trẻ chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc sống lứa đôi sau này như: lễ xem mắt, lễ cơi trầu dạm ngõ, lễ hỏi rồi sau cùng mới lễ cưới. Trong đạo công giáo, các thủ tục chuẩn bị kết hôn cũng nhằm kéo dài thời gian đính hôn giúp đôi bạn trẻ tìm hiểu nhau kỹ lưỡng hơn như: học giáo lý hôn nhân, giấy giới thiệu kèm chứng thư rửa tội thêm sức và độc thân, giấy xin rao, tập lễ nghi, xưng tội trước lễ cưới tại nhà thờ…
b- Sau khi kết hôn:
Cần biết hâm nóng tình yêu vợ chồng như có người đã nói: “Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng và hãy cưới lại nhau sau mỗi ngày”. Thiên Chúa dựng nên chúng ta để “nhận và cho” nhau tình yêu, nhưng để duy trì tình yêu ấy đòi hai người phải tập luyện: Mỗi ngày hãy tập bỏ đi tính ích kỷ và tập sống yêu thương qua cách ứng xử vị tha với nhau.
Cần biết nhẫn nhịn chịu đựng lẫn nhau: Sau một thời gian về chung sống với nhau, cá tính và các khuyết điêm đã che giấu trước khi kết hôn sẽ dần dần bộc lộ như người ta thường nói: “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân”. Khi đối diện với thói xấu và lối ứng xử không tốt của người phối ngẫu, người kia sẽ cảm thấy ngỡ ngàng và phản ứng. Từ đó sẽ phát sinh hậu quả cãi lôn nhau với những lời lẽ khinh thường nhau và làm tổn thương lòng tự trọng của nhau. Vợ chông sau khi kết hôn phát hiện nhừng khuyết điểm của người đối diện thì đừng lấy làm lạ, nhưng cần biết cảm thông với những khuyết điểm này, vì con người “nhân vô thập toàn”. Trong trường hợp đó cần cầug nguyện cho họ và xin Chúa giúp mình khôn ngoan tìm ra phương cách hữu hiệu giúp họ tu sửa thói hư.
Cần học sống Lời Chúa và cầu nguyện cho nhau như Đức Giêsu đã dạy: ”Nếu không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5b). Do đó, đôi vợ chồng cần ý thức tầm quan trọng của giờ kinh tối gia đình, và quyết tâm tổ chức đọc kinh chung hằng ngày, để đón nhận được dồi dào hồng ân Chúa ban phòng tránh nguy cơ dẫn đến ly hôn ly dị.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con xây dựng được hạnh phúc gia đình, Xin cho chúng con tránh những nguyên nhân gây sự đổ vỡ hạnh phúc dẫn đến ly hôn cụ thể là tính ích kỷ cố chấp. Xin cho chúng con ý thức sứ vụ loan báo Tin Mừng tình thương của Chúa cho tha nhân, bằng việc xây dựng cho gia đình chúng con ngày một hòa hợp hạnh phúc, các thành viên luôn nghĩ đến nhau và yêu thương phục vụ lẫn nhau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

67. Huyền nhiệm tình yêu
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tình yêu, 2 chữ nhưng đã làm hao tốn không biết bao nhiêu giấy mực của biết bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ …
Ta vẫn thường nghe những câu rất quen thuộc: Anh yêu em nhiều, em yêu em nhiều … nhiều là bao nhiêu? nhiều như thế nào? Chẳng ai biết được ngay cả người đang yêu.
Chính tình yêu là chất kết dính đời sống hôn nhân gia đình. Và, ta thấy đời sống hôn nhân gia đình được Thiên Chúa nâng lên hàng bí tích.
Đôi hôn nhân đầu tiên của nhân loại đó chính là Ađam và Evà. Hai ông bà được Thiên Chúa tạo dựng để rồi cả hai có nhau và trong nhau.
Và rồi, con cháu của ông bà nguyên tổ cũng ra đời và họ nối tiếp đời sống hôn nhân gia đình mà Chúa đã thiết lập, đã đặt để. Điều không đẹp đó là họ đã không còn chung thủy với nhau, không còn yêu nhau nữa để rồi họ chia cách nhau.
Đứng trước tình trạng đổ vỡ của gia đình thời Môsê. Môsê phải nói là chẳng đặng đừng lắm ta thấy trong Sách Đệ Nhị Luật rằng:
“Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, mà người chồng sau lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà và…” (Đnl 24, 1-3).
Thật sự, đây không phải là giải pháp tốt nhất. Có lẽ Môsê trong giới hạn, trong khả năng của mình và trong cái nhìn của con người nên đưa ra giải pháp như thế cho hợp lòng dân. Còn Chúa Giêsu thì lại khác, Chúa Giêsu nhấn mạnh và nói rất rõ: “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ” (Mc 10, 5)
Ta thấy Chúa Giêsu nhắc lại truyền thống nhiệm mầu của Thánh Kinh mà tuyên bố mối ràng buộc hôn nhân là không tháo gỡ được. Hôn nhân là dấu chỉ hữu hình tình yêu vô hình và hiệu quả của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Ngài khẳng định tính bền vững của hôn nhân. Nó có ý nghĩa vượt xa sự kết hiệp giới tính. Nó không phải chỉ liên quan đến thân xác mà còn bao hàm toàn thể nhân sinh. Ðôi vợ chồng là một về xác thịt và cũng là một về hiện hữu.
Vì thế, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Rõ ràng ông Adam không có cha mẹ để lìa bỏ.
Lời tuyên bố của Thánh Kinh nhắm đến toàn thể nhân loại. Tác giả muốn gọi sự kết hợp này là thuộc về “trái tim”, phát xuất từ trái tim, nơi thẳm sâu nhất của tồn tại con người. Hôn nhân, do đó, là sự dấn thân của hai trái tim giống như tình yêu trung tín của Ðức Chúa Trời.
Lòng thương yêu này vượt trên cả tội lỗi và nết xấu của mỗi người. Tức là trung tín trong bất cứ tình huống nào. Vì Thiên Chúa không thể bất trung với chính Ngài. Lời thề trong lễ hôn phối của đôi vợ chồng mới là: “giữ lòng chung thuỷ khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ” vang vọng tình yêu của Thiên Chúa.
Và vì thế, chúng ta phải đáp trả cho cân xứng. Nghĩa là trung tín với Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào, thuận lợi cũng như khi gặp khó khăn, khoẻ mạnh cũng như khi yếu đau. Ðừng bao giờ lãng quên giao ước giữa ta với Ðức Chúa Trời.
Nếu để ý, ta thấy Chúa Giêsu trách móc thật là đau:: “Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó”. Dịch sát nghĩa và đúng nghĩa hơn đó chính là “chính vì sự lòng chai dạ đá” của các ngươi.
Chính vì lòng chai dạ đá đó nên con người quên đi nguồn gốc tận căn của đời mình.
Trở về với nguồn gốc con người thì không có lề luật, chỉ có ơn sủng nhưng không tuyệt đối: người phụ nữ là một tuyệt tác của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, ban không cho người đàn ông; và ngược lại, người đàn ông, vốn là tác phẩm đầu tay của Thiên Chúa, được ban không cho người phụ nữ. Người phụ nữ là tuyệt tác, vì được dựng nên từ xương thịt con người, vốn là tinh hoa của sáng tạo; trong khi đó, người đàn ông được dựng nên từ bùn đất. Vì thế, người phụ nữ được gọi là phái đẹp và tượng trưng cho sự dịu dàng.
Và với nguồn gốc, là tình yêu hai người dành cho nhau một cách quảng đại và nhưng không, cùng với lời cam kết thuộc về nhau vĩnh viễn, vì cả hai một cách tự do, trở nên “một xương một thịt”.
Nguồn gốc của sáng tạo là ơn sủng và tình yêu, và ở ngọn nguồn của mỗi đôi hôn nhân cũng như vậy, cũng là ơn sủng và tình yêu.
Ta thấy trong cuộc đời, thật mầu nhiệm khi người con trai hay người con gái đã làm gì cho người kia, mà người này lại tự nguyện thuộc về mình suốt đời, tự nguyện cho đi, trao vào tay người kia cuộc đời mình? Xóa bỏ hay quên đi tình yêu nhưng không ban đầu này, đời sống hôn nhân sẽ không còn nền móng, và sẽ mau chóng đổ vỡ.
Và ta thấy đời sống hôn nhân không thể chỉ đặt nền tảng trên lề luật, cho phép hay không cho phép, nhưng đặt nền tảng trên ơn sủng, ơn sủng nhưng không của Thiên Chúa ban người kia cho mình, ơn sủng nhưng không của người này trao ban cho người kia; và từ đó phát sinh lời cam kết vĩnh viễn thuộc về nhau, cho dù cuộc đời bể dâu.
Vợ chồng chọn nhau, nhưng còn được mời gọi đón nhận nhau như quà tặng yêu thương của Thiên Chúa, trong một Giao Ước được Thiên Chúa đóng ấn vĩnh viễn. Tình yêu và Giao Ước của Thiên Chúa mới là đá tảng vững bền cho đời sống hôn nhân và gia đình. Bởi lẽ, cảm xúc của chúng ta hay giao động và không ổn định.
Ngày hôm nay, Chúa mời gọi ta nhìn lại tình yêu, lòng trung thành của ta với Thiên Chúa qua người bạn đời hay lòng trung thành với ơn gọi mà Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta. Có khi lòng ta xao xuyến, có khi lòng ta bồn chồn với những cuốn hút ngoài hôn nhân, ngoài ơn gọi của ta và rồi ta xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta trung thành, ta chung thủy với ơn gọi hôn nhân hay tận hiến mà Thiên Chúa mời gọi ta.

——————————————–

 

LỄ MÂN CÔI

1. Đức Chúa Ở Cùng Bà
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: “Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

2. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô” (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. “Phúc cho em là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa

3. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
CẦU NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

4. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
THÁNG MÂN CÔI: NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.

5. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
“Kẻ nghe lời Cha Ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?

6. Xin Vâng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình. Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng “Xin vâng” Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời “Xin vâng” thế nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện”

7. Này tôi là tôi tớ của Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa “Xin Vâng” của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: “Này tôi là tôi tớ của Chúa”, Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là “tôi tớ”, Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima… không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là: ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ “xin vâng”, thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn “Kinh Mân Côi” để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là “Totus Tuus”, trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: “Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng”. Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: “Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?”. Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: “Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không”. Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.

8. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
TẠI SAO CHÚNG TA ĐỌC KINH MÂN CÔI
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề – rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.

9. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu.
(Trích trong ‘Từng Bước Một Thôi’ – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.

10. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối
(Lc 1,26-38 – Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – ĐGM. Giuse Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời “xin vâng” thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng “xin vâng” không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự “nối mạng”, nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường……? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.

11. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng.
(Trích trong ‘Với cả tâm tình’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

12. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)
KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN PHÚC ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái”.
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: “Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình.”
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội”.
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống….
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.

13. Hoa Mân Côi
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
“Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền” (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời “Vãn Mân Côi” cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là “vườn Rôsa” – vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
“Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy” (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: “Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy” (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
“Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh” (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy” (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.

14. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
PHÚC ÂM HÓA GIÁO XỨ
BẰNG VIỆC SỐNG KINH MÂN CÔI
Sách Công vụ Tông đồ thuật lại biến cố các Tông đồ cùng với Mẹ Maria cầu nguyện mong chờ Chúa Thánh Thần đến. Lúc này, Đức Mẹ Maria vẫn còn ở với các Tông đồ, chứng tỏ rằng Mẹ giữ trọn tiếng Fiat mẹ thưa khi xưa. Dù nay Mẹ đã về cùng Thiên Chúa, Mẹ vẫn không bỏ Giáo hội. Mẹ đồng hành và cùng với Giáo hội đón chờ Chúa Thánh Thần đến. Và hôm nay cùng với Mẹ Giáo hội vững bước trên hành trình đức tin. Có Mẹ dìu dắt, che chở gìn gìn, Giáo hội sẽ vượt qua những phong ba bão tố của cuộc đời với lòng yêu Chúa sắt son, lòng cậy tin vững vàng vào Chúa và đến bến bình an.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội mừng lễ Mẹ Mân côi. Lễ này có gốc tích như sau: Căn cứ vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort, trong cuốn “Bí Mật Kinh Mân Côi”, thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Vào thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Anbi, thuyết cho rằng đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác. Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác. Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.
Rồi năm 1917, trong cả sáu lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Và sự kiện cuối cùng, ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân Công Giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mân Côi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, Đức Giáo Hoàng Ghê-go-ri-ô XIII đặt tên cho lễ này là lễ Mân Côi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo Hoàng Clément XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng: “Chuỗi mân côi là bảng tóm lược toàn bộ Phúc Âm, với trung tâm là mầu nhiệm nhập thể cứu chuộc, trong đó lặp đi lặp lại lời ngợi khen Đức Kitô”. Qủa thế, kinh Mân côi là bạn đồng hành của biết bao nhiêu con người từ bình dân đến thông thái. Kinh Mân côi là một lời cầu nguyện ngõ hầu đem lại sức mạnh cho đức tin đồng thời giúp chúng ta sống đạo lý Chúa một cách trọn hảo và tốt đẹp. Qủa thế, 20 mầu nhiệm Mân Côi là một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, Giáo hội dạy ta khi đọc kinh Mân Côi vừa suy niệm các biến cố lịch sử cứu độ của Chúa Giêsu vừa rút ra bài học luân lý giúp ta sống theo Tin Mừng của Chúa trong đời sống thường nhật. Chẳng hạn, mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Thương, chúng ta suy ngắm Chúa Giêsu chịu đánh đòn, rồi xin cho ta được hãm mình chịu khó bằng lòng với những khó khăn đớn đau trong cuộc sống để cùng với những đớn đau Chúa chịu xưa mà dâng lên Thiên Chúa Cha làm của lễ đẹp lòng Chúa nhất thay vì chúng ta trách móc và tuyệt vọng. Hay mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Vui, chúng ta suy ngắm việc Thiên Thần truyền tin, và rồi xin cho ta được sống tinh thần khiêm nhường như Đức Mẹ trong cuộc sống vì chỉ có khiêm nhường thì mọi người trong giáo xứ tôn trọng nhau, phục vụ nhau, yêu thương nhau và giúp nhau nên hoàn thiện như lòng Chúa mong muốn một cách dễ dàng. Cụ thể hơn nữa, với mầu nhiệm thứ ba của Mùa Vui, chúng ta suy ngắm việc Đức Mẹ thăm viếng bà Ê-li-sa-bet, ta xin cho được lòng yêu người. Lòng yêu người đó không chỉ qua việc cầu nguyện mà còn ở hành động là bác ái, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an và chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật trong giáo xứ mình như Đức Maria đã đến viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Ê-li-sa-bét. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau, nói với nhau những lời an ủi, chia sẻ tinh thần cũng như vật chất, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa. Vì vậy, những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Ước gì hôm nay và mãi mai chúng ta hãy hướng nhìn lên Đức Mẹ Mân Côi, Người Mẹ gần gũi và nhân hậu của Giáo hội. Xin Mẹ Mân Côi giúp mỗi người trong giáo xứ và gia đình chúng ta nên chứng nhân cho tình hiệp thông và phục vụ, cho đức tin nồng cháy và yêu thương người nghèo khổ một cách quảng đại để niềm vui Tin Mừng chạm đến cõi lòng của mọi người. Amen.

15. Hiệu năng của chuỗi Mân Côi
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 1: 26-38: Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa.
Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa. Chân Phước Alan nói rằng: “Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kitô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các linh hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô”.
Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội số 67 viết: “Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân thật. Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta”. Chính vì vậy, Đức Mẹ đã nói với thánh Mechtilđê: “Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.” Thánh Anphongsô còn cho biết: “nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh” như câu truyện “chuỗi hạt Mân Côi với vua Galicia”:
Alphonso từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng .
Một ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ Maria! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục”. Sau khi bình phục, nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
Anh chị em thân mến,
Kinh Mân Côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược, nhưng chuỗi Mân Côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã, Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
– Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có.
– Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay.
– Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo Hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.

16. Mẹ tuyệt vời
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mẹ vẫn thường cầu nguyện, và cầu nguyện mọi nơi mọi lúc như Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ sau biến cố Đức Yêsu lên trời (Cv.1, 12-14).
Mẹ được tổng lãnh thiên thần Gabriel chào là người “được Thiên Chúa thương”, “được đầy ân phúc”, vì Mẹ luôn vâng phục Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa vào đời mình. Với lời thưa “xin vâng” trong biến cố thiên thần chuyển đạt Ý Thiên Chúa (Lc.1, 38), Đức Mẹ đã đón nhận Lời Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình.
Kể từ khi đón nhận Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, Đức Maria vẫn nghèo như thuở nào, không được sung túc về vật chất. Không chỉ vậy, cuộc đời của Mẹ gian nan hơn, vất vả hơn; chẳng hạn, Mẹ đã bôn ba đi thăm bà Isave, phải chấp nhận sinh Đức Yêsu trong chuồng chiên cừu, bị lạc mất con ở Yêrusalem, khi Đức Yêsu đi rao giảng Mẹ đã phải tự sinh sống, khi Đức Yêsu bị chống đối lúc Ngài rao giảng, khi Mẹ theo Đức Yêsu trên con đường thập giá và đặc biệt dưới chân thập giá.
Mẹ Maria như luôn âm thầm, không làm gì to lớn trước mặt người đời. Mẹ vẫn luôn cưu mang Lời Chúa trong lòng, ngay cả khi đã sinh hạ Thiên Chúa nhập thể cho con người “ai là anh chị em và mẹ Ta? Đó là người nghe và giữ Lời Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã dùng con đường rất “bình thường” để đến với con người, để ở mãi với con người, để yêu mến và phục vụ con người, đó là “nhập thể”. Nhập thể là tự hủy, là chấp nhận trở thành con người, và vĩnh viễn là người. Thiên Chúa đã làm người, để giúp con người trở nên con Thiên Chúa. Đức Maria đã sống “âm thầm khiêm hạ” theo cách thức của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn liệt kê những điều mà một người phụ nữ nổi tiếng nhất đã làm được?
(Mỗi bạn có thể chọn một người nữ nổi tiếng nào đó trên thế giới, và kể những gì người đó đã làm được).
2. Đức Maria đã làm được điều gì mà người khác không làm được?
3. Dựa vào Ga.17, 23, giữa bạn và Đức Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn?
4. Bạn cũng có thể là anh chị em và mẹ Đức Yêsu (Lc.8, 19-21), vậy Đức Maria hơn chúng ta ở điểm nào?

17. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
HÃY NĂNG ĐỌC KINH MÂN CÔI
Khi chúng ta đọc “Kinh Kính Mừng”, chúng ta dâng lên Mẹ trên trời những hoa hồng nhỏ của tâm hồn con thảo. Chắc Mẹ sẽ vui mừng đón nhận lòng hiếu thảo của chúng ta. Không phải vì Mẹ thích được ngợi khen ca tụng, nhưng vì Mẹ thương chúng ta nên Mẹ vui khi thấy chúng ta chạy đến với Mẹ, để tỏ lòng yêu mến của chúng ta. Nhiều lần trong lịch sử, Mẹ đã nói với những người Mẹ chọn như đã nói với thánh Eulalia vào thế kỷ thứ IV ở Tây-Ban-Nha: “Khi con chào Mẹ với lời chào của thiên sứ, Mẹ cảm thấy vui mừng khôn tả”.
Nhiều lần Mẹ đã hiện ra tại Lộ-Đức, Fatima… Mẹ chỉ khuyên chúng ta lần chuỗi Mân Côi. Tại sao?
Kinh Mân Côi là lời kinh có từ thế kỷ thứ IV, đơn sơ chỉ có phần đầu, phần thứ hai được thêm vào độ thế kỷ thứ mười bốn. Lịch sử của kinh Mân Côi rất dài dòng vì từ từ qua một thời gian rất lâu mới hình thành thể thức hiện nay. Chúng ta không nói đến điều đó. Rất nhiều tài liệu đã được viết về vấn đề này.
Mẹ bảo chúng ta lần chuỗi Mân Côi, vì đó là dấu hiệu của tình yêu Chúa đối với Mẹ và với chúng ta. Chính Mẹ nói: “Chúa đã nhìn đến thân phận nữ tỳ của Chúa… đã làm cho tôi những điều kỳ diệu… Chúa hằng xót thương những ai kính sợ Người…”
Lần chuỗi Mân Côi không phải chỉ hướng về Mẹ mà hướng về Chúa. Chúa là tất cả, vì “tình thương của Ngài luôn bền vững muôn năm.”
Chúng ta đã nghe nhắc đi nhắc lại trang Tin Mừng của thánh Luca về việc thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, chúng ta có thấy nhàm chán không? Hãy khám phá không ngừng biến cố duy nhất tuyệt vời ấy. Hãy nhìn thấy tình yêu Chúa và khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Thật thế, mỗi khi đọc lại trang Tin Mừng này, ai là con cái Đức Mẹ phải cảm thấy vui mừng và tri ân, vì đây là một biến cố quyết định hạnh phúc của chúng ta, của toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đã đến trần gian đang ngập chìm trong tăm tối mịt mù. Dân Do Thái đã chờ đợi qua bao nhiêu thế kỷ và hôm nay, ngày hạnh phúc đã đến. Thiên sứ báo cho Mẹ một tin vui mà từ từ Mẹ mới khám phá. Tin vui đó chính là Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian. Điều đó không tạo nên một niềm vui rộn ràng trong lòng chúng ta sao? Đức tin chính là nhảy mừng trong Chúa.
Trình thuật của Luca rất sống động và mỗi khi chúng ta nghe đọc lại đoạn Tin Mừng này, chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Đọc đi đọc lại, chúng ta càng thấy Mẹ chúng ta đáng yêu như thế nào?
Thiên thần vào nhà trinh nữ…Thánh Luca không nói rõ thái độ của thiên sứ, chỉ nói là vào nhà, thế thôi và cung kính chào trinh nữ bằng những lời lạ lùng đến nỗi Maria ngạc nhiên và như sợ sệt và tự hỏi lời chào như thế có ý nghĩa gì.
Làm sao không hoảng sợ khi một người thanh niên bước vào nhà, trân trọng bái chào mình! Chúng ta nên chú ý đến chi tiết này. Thiên thần vào nhà trinh nữ như thế nào? Đây là một vấn đề mà nhiều nhà chú giải Kinh Thánh không đồng ý với nhau.
Xã hội Do Thái rất khắc khe về vấn đề liên lạc nam nữ, có thể nói là chủ trương “nam nữ thọ bất thân”. Vì thế nếu nói rằng thiên thần vào nhà trinh nữ vào lúc ban ngày thì không thể chấp nhận được. Người hàng xóm sẽ nghi ngờ về sự đứng đắn của Maria. Vậy thiên thần vào nhà trinh nữ như thế nào? Hay thánh Luca dùng một hình ảnh cụ thể để nói đến cuộc đối thoại của Maria với thiên thần? Hay đây chỉ là một thị kiến hoàn toàn bên trong, nhưng thánh Luca tường thuật như một việc xảy ra bên ngoài? Bao nhiêu câu hỏi không có câu trả lời. Theo ý kiến của một số nhà chú giải thì, có lẽ thiên thần đã hiện ra trong nhà vào lúc ban tối. Vậy đây là một lần hiện ra giống như thiên thần đã hiện ra với Dacaria trong Đền thờ. Giải pháp này xem ra phù hợp hơn.
Chúng ta không quá chú tâm đến những chi tiết đó, nhưng sẽ suy nghĩ đến cuộc gặp gỡ giữa thiên thần và Maria hơn.
Thiên thần chào Maria với những lời làm Maria ngạc nhiên và sợ hãi: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng; Đức Chúa ở cùng bà.”
“Maria bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì?”
E sợ nhưng không mất bình tỉnh, Maria vẫn tự hỏi… Nhưng thiên thần đã nhanh chóng đánh tan sự bối rối của Maria: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây, bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên nó là Giêsu…” Maria càng ngạc nhiên hơn và trả lời: “Việc này xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”
Thánh Luca đã nói trước, Maria đã đính hôn với một người thanh niên tên là Giuse, trong giờ phút này Maria lại nói rằng sẽ không biết đến việc lấy chồng, thế nghĩa là sao? Chúng ta thường không để ý đến vấn đề này mà chỉ xem như đã biết rồi. Đây mới là vấn đề. Đã đính hôn rồi thì sớm hay muộn người ta cũng rước về nhà, hơn nữa trong xã hội Do Thái, người nữ không có quyền quyết định, chỉ có bên nam có quyền mà thôi. Sao Maria dám quả quyết rằng tôi sẽ không có chồng?
Maria chỉ có một quyền duy nhất là năn nỉ. Bên đàng trai có thể trả tự do cho thiếu nữ đã đính hôn với mình. Có lẽ Maria tin cậy rằng Giuse là người tốt có thể chấp nhận chuyện này dễ dàng.
Thiên thần cho Maria biết, tất cả mọi sự không do nàng mà do chính Thiên Chúa. Ngài sẽ che chở nàng… Maria đã hiểu và đã tuân phục: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Thái độ của Maria thật dễ thương. Nàng bình thản, đắn đo và sau cùng chấp nhận, hoàn toàn tín thác vào Chúa, không bận tâm.
Khi chúng ta lần chuỗi Mân Côi là lúc chúng ta lặp lại những lời thiên thần chào và ngợi khen Mẹ “đầy ơn phúc”, không có gì tươi sáng hơn, không có gì êm đềm hơn. Mẹ được Chúa trên trời đoái đến và mời gọi mang Chúa Con đến với chúng ta. Mẹ thay chúng ta đón nhận hồng ân trên các hồng ân là Con của Chúa Cha.
Chúng ta cùng với Mẹ đi suốt quảng đường của Con Chúa, Đấng xuống thế làm người vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, và cùng với Mẹ, sống lại trong vinh quang. Như thế, chúng ta sẽ có Mẹ đi cùng chúng ta suốt quảng đường cuộc đời chúng ta. Như thế có phải là hạnh phúc không?
Tại sao có nhiều người không muốn lần chuỗi Mân Côi, viện đủ thứ lý lẽ, chỉ vì họ không hiểu được tình yêu của Mẹ và hồng ân họ lãnh được nơi Mẹ. Mẹ là phần thưởng Chúa ban cho những ai thành tâm sống trong tình yêu Chúa, tin vào tình yêu Chúa. Mẹ là quả tim đón nhận Chúa Giêsu, thì Mẹ cũng đón nhận chúng ta, vì Mẹ đã được trao phó làm Mẹ chúng ta. Giây phút đau thương nhất trên thập giá cũng là giây phút tuyệt hảo nhất vì trong giây phút đó, chúng ta đón nhận hồng ân êm đềm nhất là chính Mẹ Maria.
Mẹ là nguồn sống cho Ngôi Hai ra đời, Mẹ cũng là nguồn sống cho chúng ta là kẻ có tội. Ai cảm thấy mình yếu đuối, phạm tội, hãy tin vào Mẹ. Mẹ yêu Chúa Giêsu thế nào thì Mẹ cũng yêu chúng ta như thế.
Giáo Hội luôn thúc giục chúng ta yêu mến Mẹ, vì chỉ có Mẹ mới là nguồn suối tình yêu, giúp chúng ta yêu mến Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy nhờ Mẹ dẫn dắt chúng ta trên con đường yêu mến vì chúng ta chưa bao giờ có thể yêu Chúa đủ. Chúa Giêsu đến nơi bàn thờ này để nhập thể lại trong mỗi người chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, xin Mẹ giúp chúng ta đón nhận Ngài như Mẹ: “Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn”.

18. Nữ Tỳ của Chúa
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi, trong phụng vụ chỉ là lễ nhớ chứ không là lễ trọng. Ở Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục muốn khuyến khích giáo dân yêu mến Đức Mẹ đã cho phép kính trọng thể lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày Chúa Nhật, và khuyến khích giáo dân lần chuỗi Mân Côi. Và đúng thế, giáo dân Việt Nam rất yêu mến và tôn sùng Đức Mẹ, và trong các giáo xứ, việc lần chuỗi Mân Côi là việc thường ngày. Nhưng việc lần chuỗi Mân Côi có thể trở thành một thói quen đạo đức mà không ảnh hưởng gì đến đời sống của con người, nghĩa là không giúp người ta đạo đức hơn. Vì thế phải lần chuỗi một cách ý thức mới mang lại hiệu quả tốt.
Các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây vẫn khuyến khích yêu mến Đức Mẹ bằng cách lần chuỗi Mân Côi.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã viết một thông điệp về Việc sùng kính Đức Mẹ, vạch rõ con đường phải theo trong việc sùng kính Đức Mẹ vào chiều sâu và thích hợp với hoàn cảnh hôm nay. Đức Thánh Gioan-Phaolô II đã viết Tông Thư Chuỗi Mân Côi của Đức Trinh Nữ Maria và đã dâng một năm để cổ võ lòng sùng kính Mẹ Thánh Chúa bằng việc lần chuỗi Mân Côi là năm 2002.
Như thế, chúng ta thấy rằng việc lần chuỗi Mân Côi không là một sáng kiến cá nhân mà là một việc hệ trọng của Giáo Hội.
Chúng ta biết lần chuỗi như thế nào, là lặp đi lặp lại lời chào của Thiên thần khi đến truyền tin cho Đức Mẹ, và lời chào của thánh Êlisabết khi Đức Mẹ đến viếng thăm Bà, kèm theo một lời nguyện. Nhưng không chỉ có bao nhiêu đó, mà cùng với Mẹ suy ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu, dưới sự hướng dẫn của Mẹ.
Hôm nay, Giáo Hội nhắc chúng ta đến việc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ. Đây là một bản tình ca tươi mát, rực rỡ niềm vui. Thiên Chúa ngõ lời với con người, mời gọi con người bước vào tình yêu của Ngài. Ngài chọn một thiếu nữ, con cái Ađam để cùng với Ngài thực hiện chương trình yêu thương của Ngài là đưa Con Một của Ngài vào trần gian, để cứu vớt nhân loại, đang nằm trông ách nô lệ tội lỗi. Người con gái Xion ấy tên là Maria, một thôn nữ giản dị, trong sáng đã được đính hôn với một chàng thanh niên tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít.
Con gái Itraen, qua mười hai tuổi đều được đính hôn để tránh những việc không hay có thể xảy ra…Thời gian đính hôn là một năm, sau đó mới có lễ cưới.
Maria không thoát khỏi tập tục đó. Thế nhưng, một Thiên sứ đã được sai đến với nàng để báo cho nàng biết, nàng phải thụ thai một đứa con trai và sẽ đặt tên nó là Giêsu, và nó là Con Đấng Tối Cao. Chúng ta đã từng nghe nhiều lần đoạn Tin Mừng của thánh Luca nầy.
Ngay từ lời chào đầu tiên đã làm cho Maria bối rối: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà”. Maria bối rối vì nàng chỉ là một đứa con gái nhỏ, tại sao lại gọi nàng bằng những tước hiệu cao cả như thế? Chúng ta đã biết những lời đối đáp của Thiên thần với Mẹ Maria. Sau cùng Mẹ Maria, khi đã biết ý định của Chúa đã nói tiếng xin vâng vô điều kiện. Chính sự vâng phục nầy đã đem Con Một của Chúa Cha đến trần gian.
Chúng ta đọc kinh Mân Côi là lặp lại lời chào của Thiên thần và dùng những lời ấy để mừng Mẹ. Mẹ chính là Đấng đầy ân sủng, vì Mẹ đã được Chúa ưu ái tuyển chọn và sau nầy ở Lộ Đức, chính Mẹ đã cho chúng ta biết Mẹ là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội. Kinh Mân Côi hay là kinh Kính Mừng được tiếp nối bằng những lời của thánh Êlisabết khi Mẹ đến thăm bà: “Em có phúc hơn mọi người phụ nữ và con lòng em cũng có phúc”.
Đó không chỉ là lời của thánh Êlisabét mà thôi mà là lời của Chúa Thánh thần soi sáng cho bà. Chúng ta lặp lại những lời ấy để thấy vinh quang của Mẹ chúng ta. Nhưng không chỉ bao nhiêu đó, mà nhìn thấy tình yêu Chúa được tỏ ra nơi Mẹ.
Thiên Chúa đã thương chúng ta đến nỗi ban Con Một Người cho chúng ta . Muốn thực hiện điều đó, Chúa phải nhờ đến một tạo vật thấp hèn của Người, mời gọi nàng làm mẹ Con của Người.
Hơn nữa, chúng ta cùng với Mẹ, chiêm ngưỡng Người Con Một của Chúa Cha, Đấng đã vì chúng ta, mặc lấy xác phàm, làm người sống giữa chúng ta, chết và sống lại cho chúng ta. Đọc kinh Mân Côi tức là chiêm ngắm Chúa qua cái nhìn và tâm tình của Đức Mẹ, “không ai say sưa chiêm ngắm dung nhan Chúa Giêsu một cách liên tục như Mẹ”. Vì Ngài là con của Mẹ. Mẹ đã săn sóc nuôi dưỡng Ngài từ khi còn trong dạ Mẹ đến khi Ngài tắt thở trên thập giá. Chúng ta là con của Mẹ vì, trước khi lìa đời Chúa đã trao chúng ta cho Mẹ: “Thưa Bà, nầy là con Bà”.
Không ai biết rõ kinh Mân Côi phát xuất từ đâu vì nó được hình thành theo thời gian cho đến khi được chấp nhận cho đến hôm nay, nhưng ai đã liên kết Đức Mẹ với Chúa Giêsu một cách lạ lùng như thế?
Thật là một hồng ân cho chúng ta khi chúng ta mạo muội nói với Mẹ những lời chào của Thiên Thần và lòng trí chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu qua cuộc sống của Ngài. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Không có sự chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, kinh Mân Côi chỉ như một cái xác không hồn.”
Nhiều người cho rằng, lần chuỗi Mân Côi dài quá và phải chiêm ngưỡng những mầu nhiệm của Chúa Giêsu là một điều khó, làm nản chí nhiều người.
Nhưng ở đời, chúng ta phải đổ mồ hôi, công sức để có được một chút tiền, tại sao chúng ta lại ngại khó để tìm được vô vàn ơn lành cao cả hơn tiền bạc? Chỉ vì chúng ta không biết quí chuộng hồng ân Chúa đó thôi.
Kinh Mân Côi là nguồn suối mọi hồng ân: “Qua kinh Mân Côi, chúng ta lãnh nhận muôn vàn hồng ân qua tay Đức Mẹ”. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII cũng đã nói: “Kinh Mân Côi như một vũ khí thiêng liêng hữu hiệu chống lại sự dữ làm phương hại đến xã hội” và cả linh hồn chúng ta.
Những người yêu mến kinh Mân Côi đều được Đức Mẹ che chở phù hộ và giúp họ yêu mến Chúa.. Nhờ Mẹ, họ say mê Chúa Giêsu và đó là hạnh phúc cao cả nhất mà chúng ta có thể ước mong. Chắc chắn, Đức Mẹ không bao giờ bỏ rơi những người yêu mến Mẹ.
Đến với Mẹ, chúng ta không chỉ đến với một người mà là đến với Nữ Vương thiên đàng, đến với Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời”. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đủ sức để cầu cùng Con Mẹ cho chúng ta là những đứa con khốn khổ của Ngài. Chúa Giêsu, khi còn ở trần gian đã vâng lời Mẹ thế nào, thì hôm nay, Ngài vẫn vâng lời Mẹ như thế.
Chúng ta hãy tin vào lòng từ bi của Mẹ. Hãy đến với Mẹ vì Mẹ vẫn chờ đợi chúng ta. Chính Mẹ mới là con đường dẫn tới Chúa Giêsu Con Mẹ. Tất cả đều nhờ Mẹ thôi. Chúng ta là những kẻ tội lỗi cần được Mẹ trợ giúp mới bền vững theo Chúa đến cùng.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn đến với chúng ta như xưa Ngài cũng đến khi Mẹ chấp nhận lời mời gọi của Chúa, khi Mẹ nói tiếng xin vâng khiêm tốn và chân thành. Chúng ta hãy nghe tiếng Chúa mời gọi, không phải bằng âm thanh, nhưng bằng tình yêu của Ngài khi Ngài trở thành một tấm bánh, nuôi dưỡng chúng ta. Chúng ta còn một con đường dài để đến nơi yên nghỉ, hãy ăn lấy Bánh hằng sống để đủ can đảm bước đến cùng, như Mẹ đã bước đến cùng, dù phải đi đến đỉnh đồi Canvê máu lệ. Xin Mẹ giúp chúng ta mang Chúa Giêsu đến với mọi người sau khi đã thành một với Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta nuôi dưỡng Chúa Giêsu Con Mẹ, bằng tình yêu chân thành cũng như xưa Mẹ đã nuôi dưỡng Ngài và ban Ngài cho chúng ta.

19. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
Suy niệm:
Nếu như Kinh Lạy Cha là lời kinh trực tiếp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, thì kế đó, phải kể tới kinh Kính Mừng, lời kinh quen thuộc với lòng đạo đức bình dân nơi bổn đạo. Kinh Kính Mừng xuất thân chính từ lời Kinh Thánh. Đó là lời sứ thần Gabriel, khi truyền tin cho Đức Maria về việc Trinh nữ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, đã chào rằng “Kính mừng Maria đầy ơn phước Ðức Chúa Trời ở cùng bà”. Đó còn là lời của Isave người chị họ tràn đầy Thánh Thần, cùng với người con đang nhảy mừng trong lòng khi Đức Maria đem Chúa đến viếng thăm rằng “Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phước lạ”. Và với lời định tín “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” tại Công đồng Êphêsô năm 431, toàn thể Hội Thánh tôn vinh Đức Trinh nữ Maria khi tuyên xưng đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa nơi Mẹ.
Như chúng ta biết, điểm chính yếu mà thánh sử Luca muốn trình bày trong đoạn Tin Mừng trên đây là chính Ðức Giêsu Kitô, Đấng Messia, Con Ðấng Tối Cao, và là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Để chuẩn bị cho con Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài cần phải chọn cho Người Con sinh ra nơi một tâm hồn xứng đáng, một người phụ nữ tuyệt hảo, người được Chúa ưu ái và là người đầy tràn ơn sủng của Chúa để làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Thế nhưng, lời mời gọi của Thiên Chúa cũng làm đảo lộn hết của dự tính nơi thiếu nữ Nazaréth ấy. Nếu như Đức Maria muốn khấn dâng mình cho Thiên Chúa thì Ngài lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Còn nếu Maria muốn sống bậc hôn nhân với Giuse như bao con người “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, thì Thiên Chúa lại muốn cô cưu mang một người con không phải từ nơi người nam như Giuse, mà là thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần ban xuống. Thiên Chúa luôn thực hiện điều mà còn người không bao giờ nghĩ tới. Cho nên, chỉ bằng lòng tin, Đức Maria mới có thể đáp lại lời sứ thần “Nếu Chúa muốn, không có việc gì mà Ngài không làm được” để dấn thân cho Thiên Chúa và để Ngài hoạch định trên cuộc đời mình.
Mẹ còn vâng phục Thánh ý đón nhận các tín hữu làm con cái khi Chúa Giêsu trao nhân loại lại cho Mẹ, mà Gioan là đại diện “Đây là con Bà”. Vì thế, Mẹ đã đồng hành với các môn đệ ngay từ những giây phút đầu tiên Giáo hội được thành lập. Bài đọc I cho chúng ta biết tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Người. Gia đình Thiên Chúa giờ đây mở rộng ra bao gồm những ai lắng nghe lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện cùng một sự hợp nhất với nhau, và với Đức Maria làm Mẹ Hội Thánh.
Đời sống đạo của các tín hữu qua dòng thời gian cũng được Mẹ đồng hành, và có những lúc Mẹ còn hiện ra để an ủi con cái. Mẹ thường khuyên nhủ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. “Mân Côi” phát xuất từ tiếng Latinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Sở dĩ người Việt gọi là Mân Côi là vì tiếng Hán là “méi gùi”, và tiếng Hán Việt được đọc là Mân Côi, và có khi trại ra thành Môi Khôi, Mai Khôi. Hoa hồng lại là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Những lời kinh Kính Mừng được kết thành tràng Chuỗi tượng trương cho vòng hoa hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Như Đức Giáo hoàng Piô XII khẳng định: “Chuỗi Mân Côi là một bản tóm lượt toàn bộ Tin Mừng”, phác hoạ lại toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu, mà Mẹ đã gắn bó cách mật thiết với Người. Để rồi, trước sự sẵn sàng xin vâng theo Thánh ý, Đức Maria càng làm đẹp lòng Chúa, nên mọi đều Mẹ khấn xin đều được Chúa đáp lời. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ, hãy nhờ Mẹ dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa ngay trong giây phút hiện tại cuộc sống của chúng ta cũng như trong giờ lâm tử nguy khốn.
Lịch sử Giáo hội đã ghi lại những cuộc chiến thắng oanh liệt của nhờ lời việc lần chuỗi Mân côi:
Chẳng hạn, đầu thế kỷ XII bè rối Albigensê nổi lên ở miền Nam nước Pháp, gieo lầm than và đau khổ cho nhân dân. Thánh Đaminh đứng ra khấn xin Đức Mẹ soi sáng cách nào để cứu vớt những tâm hồn sai lạc. Đức Mẹ đã hiện ra, tay cầm một chuỗi Mân côi, và dạy thánh Đaminh cách đọc Kinh Mân côi, đồng thời truyền cho ngài rao giảng như một phương thuốc linh nghiệm ngăn ngừa tội lỗi và sự lầm lạc. Quả nhiên, hơn 100.000 kẻ rối đạo đã từ bỏ sự sai lạc, và rất nhiều người được thêm phấn khởi sốt sắng đọc kinh Mân côi.
Hơn thế nữa, vào thế kỷ XVI quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đe doạ xâm chiến toàn vùng đất Công giáo Âu châu. Và trong lúc thuỷ quân của Hồi giáo xuống vịnh Lépante để tràn sang Âu châu, đô đốc Don Juan người nước Áo chỉ huy hải quân Công giáo ra nghinh chiến. Lúc ấy, thánh Giáo hoàng Piô đệ V truyền lệnh cho các giáo phận tổ chức một nghi thức “cầu nguyện 40 giờ” gồm cuộc rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ và đọc kinh Mân côi cầu cho các chiến sĩ Công giáo thắng trận. Bỗng nhiên, tại vịnh Lépante gió đổi chiều làm lợi điểm cho các chiến hạm Công giáo ào ạt tấn công đánh chìm các chiến hạm quân Thổ vào ngày Chúa nhật 7/10/1571. Sau cuộc thắng trận nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, thánh Piô V dạy rước kiệu Mẹ trọng thể và thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.
Ngày nay, các tín hữu còn tiếp tục được khuyến khích dùng lời kinh Mân Côi giúp nâng tâm hồn lên tới Chúa. Nhưng không phải bởi số lượng lời kinh mà là bởi sự chú tâm sốt sắng chất lượng miệng đọc lòng suy. Nếu đọc kinh Mân côi mà không suy niệm mầu nhiệm, kinh Mân Côi sẽ chỉ có xác mà không có hồn. Phần kinh đọc gồm: Một lời nguyện bắt đầu một ngắm. Sau đó đọc Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh, và kết thúc mỗi chục bằng lời xin ơn: “Lạy Đức Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”. Và tiếp theo đến lời nguyện ngắm thứ hai…, cứ như vậy đến hết ngắm thứ năm của một mùa Vui, Sáng, Thương hay Mừng.
Lạy Mẹ Maria, chúng con là những người con thảo, xin quyết tâm làm thành một tràng chuỗi Mân Côi dâng lên Đức Mẹ trong tháng Mười Mân Côi này, hợp với lời chúc tụng Đức Mẹ là lời xin ơn của chúng con: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử”. Vâng, vì thân phận phải chết của chúng con, và vì chúng con tin tưởng đời sống của Mẹ đẹp lòng Chúa, nên lời cầu xin của Mẹ cũng rất hiệu nghiệm. Mẹ còn là thụ đạo đầu tiên được Chúa ban thưởng phúc Thiên đàng cả hồn lẫn xác. Vậy xin Mẹ giúp chúng con là con cái của Mẹ biết chạy đến nương ẩn nơi Mẹ để Mẹ chở che cho chúng con giữa biển hiểm nguy trần thế này và trong giờ sau hết, để ngày sau chúng con được vào hưởng vinh phúc Thiên đàng với Mẹ và Con của Mẹ là Vua muôn đời. Amen.
***
THẦN LỰC KINH MÂN CÔI
Ngoài những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: “Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ”.
– Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
– Chân phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
– Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
– Đức Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
– Đức Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
– Đức Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.

20. Hãy siêng năng lần hạt Mân côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu trên thế giới cùng đọc kinh Mân Côi hằng ngày trong suốt tháng 10 này. Ngài cũng mong rằng cộng đoàn tham gia hiệp thông, sám hối, cùng thỉnh cầu Đức Maria và Tổng lãnh thiên thần Micae bảo vệ Giáo hội khỏi quỷ dữ – là kẻ luôn muốn tìm cách chia rẽ chúng ta khỏi Thiên Chúa và anh chị em.
Trước khi lên đường tông du đến các quốc gia vùng Baltic, Đức Phanxicô đã gặp Cha Fréderic Fornos, dòng Tên, giám đốc “Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu cùng Đức Thánh Cha” và đề nghị Cha quảng bá lời kêu gọi này đến với các tín hữu trên thế giới.(Vatican News, 29/9/2018.)
Các Đức Giáo Hoàng đều cổ võ việc đọc kinh Mân Côi, nhất là trong các gia đình.
Đức Piô IX khuyên nhủ: “Kinh Mân côi là kho tàng quý giá của Giáo hội…hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình”. Đức Lêô XII thiết lập tháng Mân Côi. Đức Piô X khẳng định: “Nếu các con muốn cho gia đình mình hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối”.
Đức Piô XI huấn dụ: Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô XII mời gọi các bạn trẻ : Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục: Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi. Thánh Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi. Thánh Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”. (Tông thư Kinh Mân Côi).
Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi, đặc biệt là giờ kinh tối gia đình.
Hơn bao giờ hết, gia đình đang bị các sự dữ tấn công; thế giới đầy những biến động đe dọa hòa bình công lý. Mỗi Gia đình hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thực hiên ba lời dạy của Đức Mẹ Fatima : Hãy ăn năn, hãy tôn sùng Trái tim Mẹ, hãy năng lần hạt Mân Côi để được Chúa thương xót.
Giờ kinh tối trong gia đình chính là giờ “ngồi bên nhau” và “cùng nhau ngồi bên Mẹ, ngồi bên Chúa”, là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều thuốc thần tiên xây dựng gia đình hạnh phúc. Kinh nguyện gia đình là phương thế hữu hiệu của việc giáo dục đức tin cho con cái và là chất keo xây dựng gia đình hạnh phúc. Thế nhưng, phương thế này đang bị các gia đình Công Giáo lãng quên và thay vào đó bằng những phương thế giải trí: phim ảnh, truyền hình, máy vi tính, game, điện thoại, những cuộc vui chơi bên ngoài gia đình…Do đó, để củng cố đức tin cho cả nhà và xây dựng mái ấm hạnh phúc, mỗi gia đình đã tổ chức những giờ kinh tối trong gia đình.
Suốt tháng 10, mỗi lời kinh Mân Côi là một đóa hoa hồng diễn tả tình yêu của đoàn con cái dành cho Mẹ hiền. Qua Kinh Mân Côi, đoàn con thảo đọc đi đọc lại cả trăm cả ngàn lần kinh Kính Mừng, như trăm ngàn đóa hoa hồng dâng kính Mẹ từ ái.
Chất lượng kinh nguyện của từng gia đình tỷ lệ thuận với đời sống hạnh phúc. Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã từng nhắn nhủ: “Chúng ta hãy thương yêu nhau như Thiên Chúa đã yêu thương mỗi một người chúng ta. Mà tình yêu này được bắt đầu ở đâu? Ở ngay gia đình của chúng ta. Nó được bắt đầu ra sao? Ở việc gia đình cùng nhau cầu nguyện”.
Chuỗi Mân Côi là một bản tóm tắt gọn gàng, dễ nhớ về những biến cố quan trọng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Mân Côi là những bông hồng đẹp được tượng trưng bằng các kinh Kính Mừng để tôn vinh Người. Đức Mẹ đã có mặt trong cuộc đời Chúa Cứu Thế từ những giây phút đầu cho đến những giây phút cuối.
Lần chuỗi Mân Côi, cả gia đình cùng đọc những kinh trọng nhất trong đạo: Kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Cứu Thế đã dạy; Kinh Kính Mừng gồm lời chào của sứ thần Gabriel và lời ca tụng Đức Mẹ của bà Êliazabeth; Kinh Sáng Danh là lời tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi của Hội Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm là các mầu nhiệm trong đời Chúa Cứu Thế và Đức Mẹ. Ví dụ suy gẫm thứ hai mùa Vui, Đức Bà đi thăm bà Êliazabeth, cần phải cố gắng bắt chước Đức Mẹ thực hiện đức yêu thương ngay trong gia đình, với bà con, với mọi người. Thứ hai mùa Mừng, Chúa Giêsu lên trời, cần phải suy rằng cuộc đời này phải ăn thì phải làm lụng, buôn bán nhưng phải cố gắng nhớ đến mục đích đời này là để chuẩn bị về với Chúa đời sau, nên phải ăn ở lương thiện, tránh gian tham lỗi công bằng… Các mầu nhiệm khác cũng tương tự như thế. Đó là cách lần hạt hữu ích nhất.
Kinh Mân Côi là lời kinh phổ cập, đó là kinh của mọi tín hữu. Ai cũng đọc được, từ người trẻ cho đến người già, người thông thái cũng như người ít học, người giàu hay người nghèo, người khỏe mạnh cũng như người đau yếu, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi. Kinh Mân Côi có thể đọc được ở bất cứ đâu hay trong hoàn cảnh nào, ở nhà thờ, ở nhà mình, ở ngoài đường, trong nơi yên lặng hay giữa chốn ồn ào náo động và nhất là đọc chung với nhau trong gia đình hay những khi có đông người công giáo họp nhau lại. Đọc Kinh Mân Côi với ý thức là mình đang làm một công việc có chất Tin Mừng, được Giáo Hội công nhận và nhiệt tình khuyến khích, một công việc thu tóm lại tất cả cuộc đời Chúa Cứu Thế.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa”. Chuỗi hạt Mân Côi nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ Maria. Cầm Chuỗi Mân Côi trên tay, chúng ta sẽ thấy mình được tăng thêm nghị lực, sống vươn lên với niềm Tin, Cậy, Mến. Chuỗi hạt Mân Côi mang đến vô vàn ơn phúc huyền diệu cho mỗi người, mỗi gia đình.
Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”. Kinh Mân Côi chính là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lập đi lập lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng cỏ ấp ủ qua Thập giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi, để theo lời kinh nhỏ nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn người tín hữu là những nhà “tu hành” nghĩa là “tu thân bằng việc hành đạo”, thì Kinh Mân Côi chính là hành trang gọn nhẹ đeo cổ tay giúp thánh hóa bản thân gia đình và xã hội. Theo nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng ta quyết tâm sống theo lời Mẹ trong dịp hiện ra lần cuối tại Fatima là “hãy siêng năng lần hạt”. “Ai mến Mẹ thì yêu thích chuỗi Mân Côi. Bởi vì chỉ có người yêu mới lặp lại một chuyện, một lời mà không biết nhàm chán” (Đường Hy vọng số 947).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con siêng năng lần hạt Mân Côi trong mỗi ngày sống, nhờ đó chúng con được hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau. Amen.

21. Chuỗi Mân Côi ngày ấy
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Lời kinh Mân Côi luôn gắn bó với đời sống đức tin và lòng đạo đức bình dân của tín hữu Việt Nam. Vâng, từ những ngày đầu tiên Tin Mừng đến đất nước này, việc đọc kinh kính mừng thịnh hành đến nỗi mọi người đọc khắp mọi nơi. Đã vậy, các sự gẫm còn được suy gẫm theo cách văn vần để ngắm theo cung kinh vãn long trọng. Gẫm Năm Sự Vui, thứ năm thì gẫm: “Đức Bà tìm đặng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh. Ta hãy xin giữ nghĩa cùng Chúa luôn” trong bản kinh phép ngắm Rosa, là một chứng tích:
Lễ rồi, con lạc, Mẹ tìm con,
Lòng Mẹ, ba ngày rất héo hon.
Đoạn trở vào đền, tìm lại thấy,
Con về, thảo kính đến khi khôn.
Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này, xuống ơn
Cho con lòng thật ăn năn,
Soi gương phúc đức, siêng năng, vâng lời
(Văn côi thánh nguyệt tán tụng thi ca, 73-80)
Người Việt Nam vốn giàu tình cảm với mẹ mình thế nào thì nay, Kinh kính mừng đã trở nên lời kinh trước tiên là đầy tình cảm dành cho Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng sinh, và sau đó là lời kinh của Đức Tin khi học hiểu cùng Mẹ sống trọn Tin Mừng Chúa Giêsu, Con Mẹ. Đọc kinh kính mừng để ca tụng Mẹ, để noi gương mẹ, để xin ơn Mẹ sống Tin Mừng của Chúa và xin ơn an bình trong những lúc cùng khốn.
– Kinh kính mừng trong cơn bách đạo của các chứng nhân xin Mẹ được ơn can đảm làm chứng cho Đức Tin Công Giáo.
– Kinh kính mừng trong lúc khốn khổ ở La Vang, ở nơi này nơi kia xin Mẹ ơn bình an giữ đạo Chúa cho nên.
– Kinh kính mừng trong thời chiến tranh loạn lac, giữa bom đạn, giữa lúc tản cư, giữa đường chạy giặc, xin cho thoát khỏi nạn quỷ dữ vô thần.
– Kinh kính mừng của những ngày đất nước phải sống trong một hoàn cảnh mới.
Vâng, làm sao quên được cảnh đời cơ cực ở Việt Nam đã suốt bao nhiêu năm trời. Và cũng làm sao mà quên được những chuỗi kinh kính mừng trong phút giờ tưởng như là tuyệt vọng. Người người đọc kinh Mân Côi. Nhà nhà lẫn chuỗi Mân Côi. Trên nương rẫy, dưới đồng sâu, nơi hợp tác xã, trong trại cải tạo, dưới ánh trăng khuya bên ngọn đèn dầu khu kinh tế mới, cụ ông cụ bà thấp cao không đều giọng đọc với trẻ con, thế mà tiếng kinh kính mừng âm thầm râm ran như lời kêu van thống thiết Mẹ Ơi Đoái Thương chúng con giữa cảnh đời u ám điêu tàn!
Và nhờ kinh kính mừng, lòng người được bình an.
Tôi còn nhớ, phía sau nhà thờ gỗ loang lỗ những vết đạn, rách nát do những mảnh bom, cụ già Toma với năm bảy người bên ngọn đèn dầu, lần chuỗi Mân Côi:
– “Tháng này lần chuỗi xin Đức Mẹ cho có cha trông coi Giáo xứ”.
– “Sao không vào nhà thờ mà đọc kinh?”
– “Xứ mình không có cha, không dám làm gì trong nhà thờ cả. Ủy Ban Xã bên cạnh. Hôm bữa họ xách súng qua đây hỏi rồi”.
– “Vậy, mình đọc ở đây họ thấy có bắt không”
– “Không đâu! Đức Mẹ nào để cho ai bắt mình. Nhưng bắt thì mình xin. Đọc kinh mà, tội gì. Cứ đọc đi. Ban đầu thì sau nhà thờ, rồi ít bữa nữa đọc hè nhà thờ, cho người ta thấy quen mắt rồi mình vào trong nhà thờ”.
Và nhờ kinh kính mừng, Đức Mẹ đã cầu thay nguyện giúp. Chúa đã nhậm lời. Từ những buổi kinh ít người ngoài, rồi trong nhà thờ rách nát, đến đông hơn, rồi phụng vụ Lời Chúa, rồi “mượn” được Cha về làm lễ, và cuối cùng là có Cha xứ, xây nhà thờ mới, Giáo xứ phát triển….
Cụ Tô-ma đã qua đời được gần 20 năm, nhưng kỷ niệm Mân Côi ấy không phai nhòa trong ký ức của Giáo Xứ.
Tôi còn nhớ, một nửa buổi nọ, mang ra ruộng cho cha vài củ khoai. Đứng trên bờ nhìn xuống, tôi đếm cha cày được 10 đường cày rồi. Thế là tôi biết cha đã lần hai chuỗi. Bên kia, Mẹ chất đầy hai giỏ mạ. Thì ra mẹ cũng hai chuỗi Mân Côi rồi, không ít hơn.
Vâng, những ngày gian khổ ấy, cha mẹ chúng ta Lần Chuỗi Mân Côi không bằng xâu chuỗi ngọc sáng trưng, không bằng xâu chuỗi gỗ xinh xắn, nhưng bằng mười ngón tay bùn lầy, đen đủi, rám nắng. Chuỗi Mân Côi và 5 sự gẫm được tính bằng lọn mạ, đường bừa, đường cày, tính bằng vồng khoai, thúng bắp, bó rau thật sốt sắng, thật tin tưởng, thật khẩn thiết, thành tâm.
Cũng nhờ kinh kính mừng, đời sống các gia đình thật êm đềm hạnh phúc.
Không ai dám tiếc nuối một thuở thời lầm lũi trong nghèo khổ đau thương, trong nước mắt dập vùi. Bởi vì, ai cũng có quyền ước mơ một cảnh đời an nhàn thư thái, sung túc, thịnh vượng. Nhưng khi đã hưng thịnh, giàu sang, phú quý hay ít là có của ăn của để rồi, thì tôi bỗng dưng tiếc nuối lòng đạo đức của ông bà cha mẹ chúng ta trong những ngày gian khổ ấy. Lòng đạo đức của ông bà, của tiền nhân nay còn đâu?! Đáng lý ra, tấm gương sáng của những người đi trước chúng ta, hẳn phải lưu truyền lại cho hậu thế, và hậu sinh phải là những người tiếp bước lòng đạo đức ấy.
Là hậu duệ của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con là cháu trong gia đình Công Giáo hôm nay, nhân tháng Mân Côi này, hẳn phải lập lại đời sống đạo đức, đời sống Đức Tin, đời sống Tin Mừng mà cha ông ta đã nêu gương sáng lạn. Có như thế, thiết nghĩ mới gọi được là có lòng hiếu kính với ông bà, có lòng tri ân Thiên Chúa tri ân Mẹ Maria đã giúp ông bà cha mẹ chúng ta vượt qua bao gian nan thử thách của cuộc đời, để chúng ta có được ngày hôm nay.
Vâng, Lễ Mẹ Maria Mân Côi, nhắc đến sức mạnh của Kinh Mân Côi, của Chuỗi Mân Côi chiến thắng bè rối Albigeois chống phá Giáo Hội và cụ thể hơn, nhắc nhớ cho mỗi tín hữu Việt Nam rằng ông bà cha mẹ của chúng ta đã nhờ kinh Mân Côi mà vượt qua mọi gian nan, mà chiến thắng thế lực của quỷ thần
– để có một Giáo Hội Việt Nam thu hoạch mùa lúa dồi dào
– để còn các gia đình kính thờ Thiên Chúa
– để còn Đức Tin và hạnh phúc nhờ Đức Tin mang lại trong các gia đình công giáo trong mỗi tín hữu.
Chuỗi Mân Côi nay đâu? Kinh Mân Côi nay đâu? Lớp người trẻ, thế hệ con cháu có còn yêu mến, siêng năng và sốt sắng đọc kinh kính mừng hay lần chuỗi Mân Côi?
Thiết tưởng, bổn phận khẩn cấp của chúng ta hôm nay, đặc biệt người trẻ, là tái lập việc đọc kinh Mân Côi chung, riêng ở khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã giúp cha ông chúng con vượt qua gian nan và chiến thắng quỷ thần nhờ sức mạnh của kinh Mân Côi. Xin cho chúng con lòng yêu mến, sốt sắng cùng sống Đức Tin qua lời kinh Mân Côi trong suốt đời mình. Amen.

22. Mân Côi
Vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ tại Fatima, nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 7 tuổi và Phanxicô 9 tuổi. Khi các em đang chăn cừu thì bỗng một luồng sáng xuất hiện trên trời và Đức Mẹ hiện ra, nói với các em rằng: Ta từ trời mà đến. Từ tháng 5 tới tháng 10, Đức Mẹ đã hiện ra với các em 6 lần. Và trong lần hiện ra cuối cùng, có phép lạ mặt trời nhảy múa và Thánh Gia xuất hiện, Chúa Giêsu thì chúc lành cho dân chúng, còn Mẹ Maria thì mặc áo choàng núi Carmêlô. Hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ và những sự kể trên. Dù tin hay không tin sự kiện Fatima, chúng ta hãy chú ý đến những gì Jacinta đã làm trong những năm sau đó. Em thường hay lên núi, chậm rãi và kính cẩn đọc kinh Kính Mừng và em được nghe tiếng dội lại của lời kinh muôn thuở này từ vách núi.
Từ đó chúng ta ghi nhận: Lời kinh Kính Mừng là một lời kinh được đem xuống từ trời. Thực vậy, ngay câu đầu tiên: Kính mừng Maria đầy ơn phúc là lời chào kính của sứ thần Gabriel dưới mái nhà Nadarét để xác nhận tin vui Đức Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Tiếp đến: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và con lòng bà gồm phúc lạ. Đó là lời chào của bà Elisabeth đã được linh ứng từ trời. Còn phần cuối là những tâm tư được Giáo Hội thêm vào cũng trong chiều hướng được đem đến từ trời cao. Chẳng hạn khi hiện ra vào ngày 19.8.1917, Mẹ đã nói với ba em: Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội. Và kết thúc đó là lời nguyện xin: Khi nay và trong giờ lâm tử, là một lời cầu rất thích hợp cho ngày lễ hôm nay.
Như chúng ta đã biết vào cuối đời Mẹ Maria đã được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác vì Ngài không muốn để thân xác thanh sạch của Mẹ phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Cùng với Mẹ, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì một khi đã về trời, Mẹ sẽ là Nữ Vương trời đất. Với thiên chức làm mẹ, Đức Maria có đủ tình thương để sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Còn với tước hiệu là Nữ Vương trời đất, Đức Maria có đủ khả năng để nâng đỡ chúng ta. Thế nhưng điều cần thiết đó là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài và kêu cầu Ngài. Hơn thế nữa, chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời, hưởng hạnh phúc bất diệt bên Chúa và Mẹ Maria thân yêu của chúng ta.

23. Tháng Mười thắm sắc Mân Côi
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Kính mừng Mẹ Đức Chúa Trời hiển vinh
Hoa lòng thắm sắc Đức tin
Xin dâng kính Mẹ Đồng Trinh từng ngày
Tháng Mười được dành để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa-minh (thế kỷ XV), Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa-minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.
Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.
Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Thánh GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi những khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.
Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng Thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary Confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do đó, Thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.
Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày 5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.
Lm William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.
Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến (ba nhân đức đối thần) thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng. Kinh Mân Côi là chu kỳ của cuộc đời chúng ta, với đủ “sắc màu” quyện vào nhau: Vui, Thương, Mừng, Sáng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết yêu mến Đức Mẹ. Lạy Mẹ, xin dẫn chúng con đến với Chúa. Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
——————
(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).
Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.

24. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Trong ngày lễ kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, Phụng Vụ Lời Chúa nêu bật Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a. Chính ở nơi Tình Mẫu Tử của Đức Ma-ri-a mà Chúa Cha đã trao phó “Con Một làm người” của Ngài cho Mẹ để Mẹ nuôi dưỡng và săn sóc. Và cũng chính nơi Tình Mẫu Tử này mà Đức Giê-su đã trao phó cho người mẹ tuyệt vời của Ngài ân cần chăm lo Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, tức Giáo Hội mà Ngài đã mang nặng đẻ đau trên thập giá (Ga 19: 25-37).
Mỗi lần chúng ta lần tràng chuỗi Mân Côi là mỗi lần chúng ta chiêm ngắm Tình Mẫu Tử tuyệt vời này ở nơi niềm vui thầm lặng nhưng sâu thẳm của Mẹ khi đón nhận Người Con mà Thiên Chúa trao ban cho Mẹ (Năm Sự Vui), ở nơi sự kết hợp của tình Mẹ với Con trên con đường khổ nạn (Năm Sự Thương), và ở nơi niềm vui vỡ òa của Mẹ khi Mẹ gặp lại Con Mẹ phục sinh để từ nay sự sống đã chiến thắng sự chết, vận mệnh của con người đã sang trang (Năm Sự Mừng).
Cv 1: 12-14
Sau khi chứng kiến Đức Giê-su lên trời, các Tông Đồ theo lời căn dặn của Thầy trở về nhà ở Giê-ru-sa-lem: “Các ngài đã đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ và Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su”. Ngay từ những bước khởi đầu của Giáo Hội tiên khởi, Đức Ma-ri-a đã ở bên Giáo Hội với trọn tấm lòng hiền mẫu.
Gl 4: 4-7
Khi viết: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”, thánh Phao-lô nhấn mạnh Con Thiên Chúa đã thực sự đảm nhận trọn vẹn thân phận con người. Lời này được đọc trong ánh sáng của Tin Mừng Truyền Tin hôm nay mặc khải rằng Con Thiên Chúa không sinh ra bởi bất kỳ một người đàn bà nào, nhưng là một người đàn bà được tuyển chọn, một Tình Mẫu Tử được viết hoa, kiệt tác của công trình sáng tạo nên người nữ.
Lc 1: 26-38
Tin Mừng là bài tường thuật biến cố Truyền Tin. Nơi Thiên Chúa chuẩn bị để Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài là cung lòng thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đền Thờ đẹp nhất, được Thiên Chúa sủng ái nhất.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 12-14)
Đoạn trích sách Công Vụ Tông Đồ này được định vị trong bối cảnh các Tông Đồ, sau khi chứng kiến việc Đức Giê-su khuất dạng trong đám mây trời, liền trở về Giê-ru-sa-lem. Các ông tề tựu một nơi và chuyên tâm cầu nguyện trong khi chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến như lời căn dặn của Thầy mình trước khi từ giã các ông: “Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
1. Trở về nhà, các ông lên lầu trên
Căn phòng được định vị ở lầu trên. Lầu trên thường là căn phòng chính trong nhà Do thái, chắc hẳn đây là phòng Tiệc Ly, nơi các ông đã dùng bữa ăn cuối cùng với Đức Giê-su. Như vậy nơi mà Đức Giê-su cử hành thánh lễ đầu tiên với các ông trước khi Ngài bước vào con đường Tử Nạn, cũng là nơi các ông chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần, Đấng đưa các ông vào trong sự thật công trình cứu độ của Thầy mình.
2. Tất cả mười một Tông Đồ đều hiện diện ở đó
Việc kể tên mười một Tông Đồ nêu lên một nét đặc thù đáng chú ý. Trong các sách Tin Mừng, thánh Phê-rô và thánh An-rê được nêu tên trước tiên. Ở đây lại là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Sách Công Vụ giới thiệu hai vị Tông Đồ này như hai trụ cột của Giáo Hội tiên khởi, thường xuyên hoạt động cùng nhau.
3. Chuyên tâm cầu nguyện
“Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu nguyện”. Thánh Lu-ca thường nhấn mạnh các tín hữu tiên khởi đồng tâm nhất trí và siêng năng cầu nguyện. Các Tông Đồ làm Tuần Cửu Nhật giữa biến cố Thăng Thiên và biến cố Hiện Xuống.
4. Mấy người phụ nữ cùng với Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su
Trong số những người phụ nữ tề tựu với các Tông Đồ, chỉ một mình Đức Mẹ được nêu tên, trong mối liên hệ với Đức Giê-su: “Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su”. Đây là lần cuối cùng trong Tân Ước Đức Trinh Nữ được kể ra. Sau biến cố này, Mẹ sẽ không còn xuất hiện nữa, người ta không còn nói gì về Mẹ. Sự hiện diện của Mẹ ở đây, giữa các Tông Đồ, là một dấu chỉ mang một tầm mức vĩ đại. Mẹ đã ban cho nhân loại thân thể hữu hình của Đức Ki-tô dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần vào lúc Truyền Tin; Mẹ cũng có mặt ở đây vào lúc sinh hạ thân thể mầu nhiệm của Đức Giê-su, tức Giáo Hội, cũng dưới tác động của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống.
Chúng ta có thể phỏng đoán rằng những người phụ nữ ở bên cạnh Đức Ma-ri-a cũng chính là những người phụ nữ đã ở bên cạnh Đức Mẹ gần bên Thập Giá. Sự hiện diện của những người phụ nữ này gợi nhớ hoạt cảnh trên thập giá ở đó Đức Giê-su đã trao gởi Giáo Hội của Ngài cho Mẹ Ngài làm Mẹ Giáo Hội của Ngài khi nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà”, và khi nói với người môn đệ Chúa yêu: “Đây là mẹ của con” (Ga 19: 26-27).
5. Anh em của Đức Giê-su
Cùng có mặt với các Tông Đồ là “anh em” của Đức Giê-su, nghĩa là những anh em họ của Ngài. Ngôn ngữ Do thái cũng như ngôn ngữ Hy-lạp đều không có đặc ngữ để chỉ mức độ bà con thân thuộc này. Cựu Ước sử dụng cùng một từ “anh em” để chỉ mối liên hệ bà con họ hàng rộng lớn hơn: chú cháu (St 13: 8; 14: 14; 14: 16) hay bà con gần (G 19: 13-17) hoặc thậm chí bà con họ hàng xa (x. Lv 10: 1). Trong Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô kể ra bốn người anh em họ của Đức Giê-su: ông Gia-cô-bê, ông Giô-xết, ông Giu-đa và ông Si-môn (Mc 6: 3).
Sự hiện diện của những bà con thân thuộc của Đức Giê-su ở phòng Tiệc Ly vào lúc này chứng thực thái độ của họ đã thay đổi đối với Đức Giê-su. Trước đây, thánh Gioan nói “Anh em Người không tin vào Người” (Ga 7: 5); thậm chí họ không hiểu chút gì về sứ mạng của Ngài và cố tìm cách ngăn cản Ngài thi hành sứ mạng của mình nữa (x. Mt 12: 46; Mc 3: 31-35; Lc 8: 19-21).
Họ đã thay đổi thái độ lúc nào? Các bản văn Tân Ước không cho chúng ta bất kỳ một thông tin nào. Chắc chắn họ sắp lãnh nhận Chúa Thánh Thần như các Tông Đồ và họ sẽ cho thấy niềm tin tích cực của họ. Thánh Gia-cô-bê hậu sẽ là vị lãnh tụ của Giáo Hội Giê-ru-sa-lem và được phúc tử đạo vào năm 62. Như vậy, những người bà con nghi kỵ xưa kia đều đã là những chứng nhân bằng máu.
BÀI ĐỌC II (Gl 4: 4-7)
Các Ki-tô hữu Ga-lát bị những người Ki-tô hữu gốc Do thái làm lung lạc. Những người Ki-tô hữu gốc Do thái này muốn đưa vào trong Ki-tô giáo những nghi thức Do thái được cho là luôn luôn có giá trị, như phép cắt bì. Vì thế, thánh Phao-lô chứng minh cho thấy Luật Cũ là sự nô lệ, Luật mới là sự tự do. Thánh nhân sánh ví Luật Mô-sê với thời kỳ người thừa kế “phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định” (Gl 4: 2). Tuy nhiên, vai trò của Luật là tạm thời. Với Đức Giê-su, kế hoạch của Thiên Chúa đã đến hồi viên mãn, chúng ta không còn phải sống dưới chế độ của Lề Luật nữa, nhưng trong sự tự do của những người làm con cái Thiên Chúa, mà đã là con thì cũng đã là người thừa kế.
1. Con Thiên Chúa làm con của loài người (Gl 4: 4-5)
Thánh Phao-lô so sánh sự bảo hộ của lề luật (Gl 4: 2) với thời điểm khi Thiên Chúa can thiệp vào trong lịch sử để thực hiện công trình cứu độ qua Con của Ngài là Đức Giê-su: “Khi thời gian đến hồi viên mãn”. Sự tự do của con người đã đạt được nhờ Đức Ki-tô.
Trong kiểu nói: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới”, động từ “sai” phát triển trong Giáo Hội tiên khởi một nét nghĩa tôn giáo đặc thù: sai ai vào việc phục vụ Nước Trời là ban cho người đó đầy đủ uy quyền ở nơi Thiên Chúa.
Ở đây cuộc sống tiền hữu của Chúa Con không được nói đến một cách minh nhiên, nhưng mặc nhiên. Trong kiểu nói: “Sinh làm con một người đàn bà”, động từ “sinh” được dùng ở thể quá khứ để chỉ một “tình trạng hay một hành động đã xảy ra trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”, nhằm nhấn mạnh rằng Đức Giê-su đã đảm nhận trọn vẹn thân phận làm người cho sứ mạng của Ngài. Cách nói này bắt nguồn từ Cựu Ước (G 14: 1; 15: 14; 25: 4). Được sinh ra như vậy, Đức Giê-su chịu phục tùng lề luật “để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”.
2. Để con người trở thành con Thiên Chúa (Gl 4: 6-7)
Câu nói: “Để chứng thực anh em là con cái”, bắt đầu với giới từ “hoti” có thể được hiểu theo hai cách: “vì” (kết quả) hay “nên” (nguyên nhân). Nếu chúng ta hiểu “vì anh em là con cái”, điều này sẽ là nền tảng cho việc Thiên Chúa sai Thánh Thần đến với người Ki-tô hữu một cách nhưng không. Tuy nhiên, Rm 8: 14-17 xem ra gợi ý rằng ân ban Thánh Thần cấu thành chức năng làm con cái Thiên Chúa của người Ki-tô hữu; vì thế nhiều nhà chú giải thích hiểu giới từ này theo nghĩa “nên anh em là con cái” hơn.
Thánh Thần cũng là đối tượng sứ mạng từ Chúa Cha; ở nơi khác, Thánh Thần chính là ân ban của Chúa Con Phục Sinh. Thánh Thần của Chúa Con Phục Sinh là một nguyên lý năng động của chức năng làm con Thiên Chúa. Nhờ Ngài, người Ki-tô hữu mới có thể gọi Thiên Chúa “Áp-ba, Cha ơi!” với trọn niềm xác tín. Không có Thánh Thần người Ki-tô hữu sẽ không thể thốt lên tiếng kêu đầy trìu mến thân thương này. Vì thế, thánh Phao-lô kết luận: “Anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 1: 26-38)
Sự kiện Ngôi Lời nhập thể tạo nên mối liên hệ sâu thẳm nhất giữa Thiên Chúa và con người. Đây là một biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa trở thành phàm nhân và sẽ mãi mãi như vậy, đó là lòng tốt, nhân từ và yêu thương của Người trải rộng cho đến tất cả chúng ta. Tuy nhiên vào ngày Ngôi Hai Thiên Chúa đảm nhận nhân tính mỏng dòn trong cung lòng thanh sạch của Đức Nữ Trinh, tất cả đã xảy ra một cách nhanh chóng, không bất kỳ nghi lễ nào. Thánh Lu-ca kể câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a hết sức giản dị. Chúng ta nên trân trọng gìn giữ những lời Thiên Chúa này và thường hằng sử dụng chúng, chẳng hạn như đọc kinh Truyền Tin và suy niệm Năm Sự Vui.
1. Khung cảnh truyền tin (1: 26-27)
26.“Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng”: Câu này đóng chức năng nối kết hai bài trình thuật Truyền Tin vào với nhau: hoạt cảnh “truyền tin cho Đức Ma-ri-a” này (1: 26-38) hình thành nên một bức tranh bộ đôi với hoạt cảnh “truyền tin cho ông Da-ca-ri-a” trước đó (1: 5-25). Nhờ kỹ thuật đối xứng này, thánh Lu-ca nêu bật hai thời kỳ: Cựu Ước và Tân Ước, hai nhân vật tinh hoa của hai thời kỳ: ông Da-ca-ri-a, vị tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, và Đức Ma-ri-a, cô thôn nữ ở miền quê hẻo lánh làng Na-da-rét, và đặc biệt hai hài nhi của họ: Gioan Tẩy Giả và Đức Giê-su.
-“Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét”: Câu chuyện không diễn ra trong khung cảnh phụng vụ của Đền Thờ, nhưng tại một tư gia trong khung cảnh đời thường của một làng quê Na-da-rét thuộc miền Ga-li-lê, miền đất theo truyền thống được gọi là miền đất của dân ngoại.
27.“Gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se”: Sự kiện mặc khải được trao ban cho người mẹ tương lai chứ không cho người cha như câu chuyện truyền tin trước cốt là giúp độc giả dễ dàng nhận ra mối quan hệ hỗ tương và sự khác biệt tận căn về nguồn gốc, địa vị, sứ vụ giữa hai con trẻ được truyền tin này trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
– “Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a”: Đây mới thật sự là ý nghĩa cốt yếu mà bản văn muốn truyền đạt: đức đồng trinh của Đức Ma-ri-a. Nhờ ơn Chúa, bà Ê-li-sa-bét vừa thụ thai một con trai do bởi chồng bà; còn Ma-ri-a chỉ mới “đính hôn”, Mẹ chưa thể chung sống với vị hôn phu tương lai của mình là ông Giu-se, vì thế Đức Trinh Nữ sắp thụ thai mà không có bất kỳ sự kết hợp phái tính. Việc sinh hạ của Gioan đã là một kỳ tích, còn việc sinh hạ của Chúa Giê-su lại còn kỳ diệu hơn nhiều.
2. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Đức Trinh Nữ (1: 28-37)
a. Lời Chào của sứ thần (1: 28)
28. “Sứ thần vào nhà trinh nữ”: Với hoạt cảnh truyền tin cho Đức Ma-ri-a, chúng ta rời bỏ đền thờ Giê-ru-sa-lem, thành đô của Do thái giáo, thuộc miền Giu-đê được xem là thuần chủng và thấy mình ở trong một ngôi nhà dân giả, thuộc làng quê Na-da-rét nhỏ bé, khiêm hạ, của miền Ga-li-lê, được gọi “miền đất của dân ngoại”. Thay vì một đôi vợ chồng tư tế đã cao niên, biểu tượng của những truyền thống Ít-ra-en cổ kính và trung tín, bây giờ chúng ta gặp cô Ma-ri-a, đã đính hôn với chàng Giu-se, hướng đến cuộc sống hôn nhân của mình.
Hoạt cảnh truyền tin trước đó đã xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài. Chính ở nơi cực thánh này mà sứ thần đã truyền tin cho tư tế Da-ca-ri-a, nhưng cốt để hướng đến một nơi khác còn thánh thiêng hơn, nơi Thiên Chúa chọn để ở giữa dân Ngài, đó là cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a.
Vì thế, ngay từ khởi đầu Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca cho chúng ta thấy có một sự hoán chuyển vai trò: Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài sẽ được thay thế bởi cung lòng của Đức Trinh Nữ, nơi Thiên Chúa chọn cho Con của Ngài đến ở giữa dân Ngài.
– “Mừng vui lên”: Đây cách thức chào hỏi thông thường của người Hy lạp, tuy nhiên “mừng vui lên” cũng là lời mời gọi của các ngôn sứ, đặc biệt trong viễn cảnh thời Mê-si-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với Ngươi” (Dcr 9: 9; Xp 3: 14-15). Như vậy lời mời gọi “hãy vui lên” được ngỏ lời với Đức Ma-ri-a là nhằm hướng lòng Mẹ về thời đại Mê-si-a và chuẩn bị Mẹ đón nhận sứ điệp gây sửng sốt sau đó.
– “Hỡi bà đầy ân sủng”: Đức Ma-ri-a được gọi là người đầy ân sủng hay được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt không chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đức Giê-su, Con của Ngài. Suy tư thần học còn thấy ở đây lòng sủng ái đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ, “ơn vô nhiễm nguyên tội” (“được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, kể cả tội tông truyền”). Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Hội Thánh đã dạy rằng “Lời chào long trọng đặc biệt và chưa từng nghe này minh chứng rằng mọi thiên ân được đặt trên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ được ban cho tất cả ân ban của Chúa Thánh Thần, điều này muốn nói rằng Mẹ không bao giờ chịu quy phục vào lời nguyền, nghĩa là, được gìn giữ khỏi mọi tội lỗi. Những lời này của thiên sứ trong bản văn này hình thành nên một trong những nguồn mặc khải tín điều về Đức Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội”(x. Pius IX, ineffabilis Deus; Paul VI, Creed of the people of God).
– “Thiên Chúa ở cùng bà”: Lời nói này thường thường được gặp thấy trong Cựu Ước. Nó được ngỏ lời với những nhân vật run sợ và e ngại trước sứ mạng khó khăn mà Thiên Chúa giao phó cho họ để trấn an họ, như Thiên Chúa đã phán với ông Mô-sê như thế trong hoạt cảnh “bụi cây bốc cháy” (Xh 3: 12). Tổng quát hơn, xuyên suốt lịch sử, Đức Chúa lập lại lời này cho dân Ngài chọn. Lời này cũng chính là định nghĩa Giao Ước. Vào giây phút này, Đức Ma-ri-a cô động mười tám thế kỷ của việc Thiên Chúa tuyển chọn ở nơi mình. Mẹ đưa vận mệnh của dân Chúa chọn vào vận mệnh của riêng Mẹ. Mẹ là “Thiếu Nữ Xi-on” tuyệt vời. Thiên Chúa ở với Mẹ.
Trong lời chào này, lời này không đơn giản là một lời cầu chúc: “Nguyện xin Đức Chúa ở cùng bà”, nhưng một lời khẳng định: “Đức Chúa ở cùng bà”, được liên kết chặc chẽ với biến cố Nhập Thể. Thánh Âu-gút-ti-nô đã giải thích ý nghĩa của lời chào độc đáo này khi đặt những lời này trên môi miệng của sứ thần: “Thiên Chúa ở với bà hơn Ngài ở với tôi; Ngài ở trong trái tim bà, Ngài mặc lấy hình hài ở trong bà, Ngài làm đầy tâm hồn bà, Ngài ở trong cung lòng bà” (Sermo de Nativitate Domini, 4).
b. Nguồn gốc phàm nhân của Đức Giê-su (1: 29-33)
* Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 29)
29. “Nghe lời ấy, bà rất bối rối”: Đức Ma-ri-a bối rối vì sự hiện diện bất ngờ của sứ thần, một người thuộc thiên giới, và vì kinh nghiệm của những người thật sự khiêm hạ khi đón nhận lời khen ngợi về bản thân mình.
– “Và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”: Lời chào của sứ thần thì khác thường so với lời chào thông thường mà người Do thái thường ngày chào nhau: “Bình an” (“Salom”). Vì thế, Mẹ muốn hỏi cho biết lời chào ấy có ý nghĩa gì. Đó là dịp, là cơ hội sứ thần giúp cho cô biết nguồn gốc phàm nhân của Đấng Mê-si-a mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ của Đấng ấy.
* Câu trả lời của sứ thần (1: 30-33)
30. “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”: Sứ thần trấn an Đức Ma-ri-a để giúp cô vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu mà một phàm nhân thường kinh qua khi Thiên Chúa ban cho người ấy một ơn gọi đặc biệt. Sự kiện Đức Ma-ri-a cảm thấy nỗi sợ hãi này không hàm chứa một chút dấu vết bất toàn nào ở nơi Mẹ: nỗi sợ hãi của Mẹ là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên khi con người đối diện với thực tại thần linh. Sự bất toàn sẽ được nêu lên giả như người ta không vượt qua nỗi sợ hãi này hay bỏ ngoài tai lời khuyên của người trong vị thế giúp đỡ, ở đây đó là vai trò của sứ thần đối với Đức Ma-ri-a.
31-33. Sứ thần Gáp-ri-en nói cho Đức Trinh Nữ biết rằng Mẹ sẽ là Mẹ của Đấng Mê-si-a cao cả vì Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận. Lời loan báo của sứ thần gợi nhớ những sấm ngôn thời xưa báo trước những đặc ân dành cho Đấng Mê-si-a, hậu duệ của vua Đa-vít. Đức Ma-ri-a, rất thông thạo Kinh Thánh, rõ ràng nhận ra rằng Mẹ được tiền định làm Mẹ của Đấng Mê-si-a, Đấng mà dân tộc Mẹ đang mong đợi.
Trong lời giải đáp này, thánh Lu-ca diễn tả nguồn gốc, địa vị, sứ vụ tương lai của Chúa Giê-su bằng cách sử dụng những gì mà Cựu Ước tiên báo về Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Cuộc sinh hạ này ứng nghiệm hai sấm ngôn quan trọng đối với cộng đoàn của thánh Lu-ca cũng như cộng đồng của thánh Mát-thêu. Sấm ngôn thứ nhất là của Is 7: 14 trong đó chính người mẹ sẽ đặt tên cho con, ở đây chính Đức Ma-ri-a sẽ đặt tên cho con là Giê-su. Ở đây thánh Lu-ca không giải thích ý nghĩa của tên này cho độc giả biết, nhưng sẽ gán cho tên ấy tước hiệu “Đấng Cứu Thế” ở 2: 11. Sấm ngôn thứ hai là của ngôn sứ Na-than trong đó Thiên Chúa đã tuyên bố với vua Đa-vít: “Người sẽ là con của Ta…Ngai vàng của Người sẽ bên vững mãi mãi” (2Sm 7: 14-16).
c. Nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su (1: 34-37)
* Câu hỏi của Đức Ma-ri-a (1: 34)
34. “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến chuyện vợ chồng”: Lời thắc mắc này cho thấy rằng Mẹ ý thức rằng Lời Thiên Chúa mà sứ thần truyền đạt cho Mẹ được ứng nghiệm ngay từ bây giờ. Vì thế, Mẹ tin vào Lời Chúa nhưng Mẹ muốn niềm tin của mình được soi sáng. “Biết” là động từ Kinh Thánh được dùng để chỉ chuyện vợ chồng như “ông A-đam biết bà E-và. Bà đã thụ thai và sinh hạ…” (St 4: 1). Đức Ma-ri-a chưa chung sống với vị hôn phu của mình. Vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu lên trùng khớp với bản văn của thánh Mát-thêu: “Trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai…” (Mt 1: 18).
Việc Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn đồng trinh cũng được lưu ý về một sự khác biệt lớn lao trong sơ đồ truyền tin. Người thiếu nữ nêu vấn nạn trước sứ điệp từ trời cao, khi đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của vị tư tế. Thế mà lần này, sứ thần lại không hề xem đó là một dấu hiệu thiếu niềm tin nhưng như câu hỏi để xin được soi sáng thêm. Chính vì Đức Ma-ri-a đang đứng trước một tình huống hoàn toàn mới mẻ tận căn trong Kinh Thánh, trong đó không thấy bất cứ trường hợp nào nói đến chuyện thụ thai mà không có kết hợp phái tính; điều này hoàn toàn khác với trường hợp vị hôn phu của bà Ê-li-sa-bét, ông biết rõ lịch sử của tổ phụ Áp-ra-ham giống như trường hợp của ông, thế mà ông không tin, như lời xác nhận của sứ thần (1: 20). Để trả lời cho vấn nạn Đức Ma-ri-a nêu ra, sứ thần giải thích cặn kẻ trong ba câu (1: 35-37) ngỏ hầu Đức Ma-ri-a hiểu rõ nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su mà Mẹ được diễm phúc làm mẹ Đấng ấy.
* Câu trả lời của sứ thần (1: 35-37)
35. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Trước hết, sứ thần soi sáng cho Mẹ hiểu việc thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh như thế nào. Câu trả lời của sứ thần gồm ba vế, mỗi vế sứ thần sẽ mặc khải dần dần nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su.
– Vế thứ nhất: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà” gợi nhớ bài trình thuật của sách Sáng Thế, theo đó Thánh Thần bay lượn trên mặt nước đem lại sự sống cho muôn loài muôn vật (St 1: 2), bấy giờ Ngài ngự xuống trên Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và thổi hơi sự sống vào trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Sự sống này là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện này mà Đức Giê-su được thụ thai và tạo nên hình hài trong cung lòng trinh khiết của Mẹ. Vì thế, việc Đức Ma-ri-a thụ thai và sinh con là do quyền năng Chúa Thánh Thần chứ không do sự can dự của bất kỳ phàm nhân.
– Vế thứ hai “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” gợi nhớ hình ảnh “đám mây rợp bóng” trên Lều Hội Ngộ (Xh 40: 35) hay Hòm Bia Giao Ước (Ds 9: 18; 10: 34). Hình ảnh đám mây là dấu chỉ hữu hình về sự hiện diện hữu hiệu của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài, cũng là một trong những dấu chỉ khả giác của Chúa Thánh Thần. Qua kiểu nói này, sứ thần sánh ví Đức Ma-ri-a với Lều Hội Ngộ hay Hòm Bia Giao Ước, nơi Thiên Chúa sẽ ngự đến và hiện diện giữa dân Ngài nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là cung lòng của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
– Vế thứ ba “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” là câu kết luận được rút ra từ hai vế trên. Sứ thần khẳng định rằng người con mà Đức Trinh Nữ sinh ra không là Nghĩa Tử của Thiên Chúa, nghĩa là một hậu duệ của vua Đa-vít được Thiên Chúa chọn và ban cho vương quyền của vua Đa-vít, nhưng là “Đấng Thánh” như Chúa Thánh Thần. Đây là một trong những tước hiệu rất cổ kính mà Giáo Hội tiên khởi dùng để tuyên xưng Thần Tính của Đức Giê-su (Cv 3: 14; 4: 27, 30). Vì thế, Đấng Thánh được sinh ra làm người hoàn toàn do tác động của Chúa Thánh Thần, quyền năng Đấng Tối Cao. Người đích thực là Con Thiên Chúa nhập thể.
Qua hai lời giải đáp trên, sứ thần cung cấp một khoa Ki-tô học. Lời giải đáp thứ nhất cho Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Còn lời giải đáp thứ hai thì cho thấy rằng Chúa Thánh Thần tác động trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a làm cho Đức Giê-su trở thành một Đấng hoàn toàn mới lạ do mối quan hệ Phụ Tử độc nhất vô nhị giữa Người với Thiên Chúa là Cha của Người.
Khoa Ki-tô học này cũng bày tỏ ân ban độc nhất vô nhị được dành cho Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ. Đức Pi-ô IX đã giải thích đặc ân làm mẹ của Đức Trinh Nữ trong ánh sáng ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa: “Từ muôn thuở Thiên Chúa đã chọn một người mẹ thích hợp cho Người Con Một của Ngài, từ người mẹ này Người Con này, sau khi đã trở thành người, phải sinh ra khi thời gian đến hồi viên mãn: và Người Con này tiếp tục ngắm nhìn Mẹ hơn mọi thọ tạo khác, đến độ Người đã chỉ ngắm nhìn một mình Mẹ” (Pius IX, ineffabilis Deus, 2). Còn Đức Pi-ô V thì nhấn mạnh công trình của Chúa Thánh Thần, “Đấng vào lúc thụ thai và sinh Con đã nâng đỡ Đức Mẹ Đồng Trinh để đem lại sự thành công cho Mẹ trong khi vẫn không đụng chạm đến đức trinh khiết thường hằng của Mẹ” (St Pius V Catechism, I, 4, 8). Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI nhắc lại cho chúng ta chân lý đức tin này: “Chúng tôi tin rằng Đức Ma-ri-a, mãi mãi vui hưởng đức trinh khiết, đã là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Chúa và Đấng Cứu Độ chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô” (Creed of the people of God, 14).
36. “Kìa bà Ê-li-sa-bét người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai”: Dù Đức Ma-ri-a không xin một dấu chỉ như ông Da-ca-ri-a (1: 18), nhưng để bảo đảm tính xác thực sứ điệp của mình, sứ thần cho Đức Ma-ri-a một dấu chỉ, ngược hẳn với dấu chỉ mà ông Da-ca-ri-a nhận được, dấu chỉ ấy không là một hình phạt nhưng là một ân ban: người bà con của cô vốn là son sẻ và cao niên nay đã có thai. Việc bà Ê-li-sa-bét thụ thai Gioan Tẩy Giả tương tự như những gì Kinh Thánh nói về bà Xa-ra thụ thai I-xa-ác (St 18: 14).
– “Nay đã có thai được sáu tháng”: Thông tin này đóng chức năng kết nối hai hoạt cảnh truyền tin về Gioan và về Đức Giê-su. Thông tin này là một mặc khải từ trời cho Đức Ma-ri-a bởi vì bà Ê-li-sa-bét vẫn còn ẩn mình, không ai hay biết (1: 24).
37. “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”: Lời khẳng định này, lặp lại lời khẳng định cho tổ phụ Áp-ra-ham trong hoạt cảnh truyền tin Cựu Ước (St 18: 14), thật có ý nghĩa biết bao đối với Đức Ma-ri-a và đối với chúng ta hiện nay trong hoạt cảnh truyền tin Tân Ước. “Rất nhiều điều con người tưởng không thể làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Người đã làm cho bà Ê-li-sa-bét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Ma-ri-a đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta” (“Hạt Giống Nẩy Mầm”).
* Lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a (1: 38)
38. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: Dù rằng không có gì Thiên Chúa không làm được, nhưng Thiên Chúa không làm một mình, nhưng muốn con người cùng cộng tác với Ngài. Để cho Con Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ đến sự cộng tác của Đức Ma-ri-a. Một khi biết được chương trình của Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a hoàn toàn vâng phục ý muốn Thiên Chúa. Mẹ nhận ra sự bất tương xứng giữa điều Mẹ sẽ trở thành “Mẹ Thiên Chúa” và điều cô là một thôn nữ làng quê Na-da-rét vô danh tiểu tốt. Tuy nhiên, đây là điều Chúa muốn xảy ra. Vì thế, với tấm lòng khiêm hạ, Đức Ma-ri-a đáp trả một cách trọn hảo tiếng gọi của Thiên Chúa qua tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin của Mẹ.
Khi tự nhận mình là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Ma-ri-a cụ thể phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa qua việc cưu mang, sinh hạ, dưỡng dục và sau hết là ban tặng cho nhân loại một Đấng Cứu Độ vừa là Con của Thiên Chúa vừa là con của Đức Ma-ri-a: “Cuộc sống của Đức Ma-ri-a đã vĩnh viễn được ghi dấu, bởi vì cô chấp nhận vĩnh viễn trở thành nữ tỳ của Chúa. Nơi cô, Lời đã đi vào, Lời Hằng Sống ấy và cuộc phiêu lưu của Lời ấy giữa loài người trước tiên dựa vào niềm tin của chính cô. Kẻ nào chấp nhận đón tiếp Lời, thì nơi kẻ ấy Lời Thiên Chúa bám rễ, thành hình, biến đổi cuộc đời của kẻ tin vào Đức Giê-su, chứ không chỉ là lắng nghe những lời Người nói với chúng ta. Tin vào Đức Giê-su chính là đón tiếp chính Người, là Lời Hằng Sống đang đến trong chúng ta để phân cực, để tái định hướng toàn thể cuộc sống chúng ta” (Lucien Daloz, Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, 16).
– “Xin Chúa cứ làm cho tôi, như lời sứ thần nói”: Không có gì có thể ngăn cản ‎kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa; tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ trọn vẹn tình yêu của Ngài được gói trọn ở nơi Con Một của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu này với lời “Xin Vâng” tròn đầy: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.
Lời xin vâng của Đức Ma-ri-a là kết quả của một cuộc đối thoại chân thành trong đó Mẹ đã thẳng thắn nêu lên không một chút sợ hãi những gì Mẹ không hiểu, cho đến khi chạm đến quyền năng Thiên Chúa vượt quá khả năng hiểu biết của Mẹ, chỉ khi đó Mẹ mới đáp trả bằng tiếng xin vâng tròn đầy niềm tin tưởng và phó thác của mình. “Ở nơi Đức Ma-ri-a chúng ta không gặp thấy bất kỳ dấu vết của các trinh nữ khờ dại, họ vâng lời mà không suy nghĩ. Đức Ma-ri-a chăm chú lắng nghe những gì Thiên Chúa muốn, trăn trở với những gì Mẹ không hiểu và hỏi cho ra lẽ những gì Mẹ không biết. Sau đó Mẹ phó thác hoàn toàn vào ý muốn của Thiên Chúa: ‘Vâng, tôi đây là tôi tớ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’. Đó không là kỳ diệu sao? Lạy Đức Trinh Nữ, thầy dạy của chúng con trong tất cả những gì chúng con làm, xin hãy chỉ cho chúng con ở đây rằng vâng phục Thiên Chúa không là quỵ lụy, không tránh né tiếng nói lương tâm của mình. Chúng con phải đi vào trong lòng mình để khám phá ‘sự tự do của con cái Chúa’ (x. Rm 8: 21)” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 173).
Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa lời đáp trả xin vâng của Đức Ma-ri-a như sau: “Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để Mẹ tự do cộng tác vào công trình cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Mẹ” (LG, 56). Đức Gioan Phao-lô II ca ngợi sự tự do của Đức Ma-ri-a nhờ sự vâng phục của lòng tin: “Giáo Hội cũng không thể quên Đức Ma-ri-a ‘kẻ đã tin’ (Lc 1: 45). Mẹ Ma-ri-a đã đi vào lịch sử cứu độ thế giới nhờ vâng phục của lòng tin. Mà trong bản chất sâu xa nhất, tin chính là khai mở trái tim nhân loại trước ân ban, ân ban Thiên Chúa tự hiến trong Chúa Thánh Thần. Đâu có Thánh Thần, đó có tự do. Khi Thiên Chúa tự khai mở cho con người trong Chúa Thánh Thần, sự tự khai mở đó vừa mặc khải cho con người về Chúa, vừa ban cho con người sự tự do tròn đầy. Mẹ Ma-ri-a là người tự do trọn vẹn nhờ sự ‘vâng phục của lòng tin’” (“Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo Hội và thế giới”).

25. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
ĐẾN VỚI CHÚA GIÊSU NHỜ MẸ MARIA
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Dưới thời Hitler, Đức quốc xã đã bắt không biết bao nhiêu giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân tập trung vào các trại, mà người ta gọi là “lò sát sinh”. Linh mục Tito Brandsma, dòng Camêlô cũng bị bắt tập trung taị trại Dachau, gần Muechen, Tây Đức. Ngài đã bị án hành quyết ngày 26/7/1942. Biết mình sắp chết, do một cô y tá Đức quốc xã, chuyên môn làm cai nghề độc ác là chích thuốc độc cho tử tội. Cha đã chuẩn bị sẵn, lợi dụng lúc cô đang chích thuốc độc cho mình, thì ngài đưa cho cô xâu chuỗi Mân Côi, mà cha đã làm trong tù để kỷ niệm, hoặc sau này, nhờ cô là nhân chứng, để đem chuỗi hạt gửi lại cho người thân trong gia đình.. Cha nói với cô y tá: cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện. Cô ta đáp: “Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện.” Cha nói: “Cô cứ thử xem đi. Ít là cô hãy đọc câu: “Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.” Đó là những lời cuối cùng của Linh Mục Brandsma trước khi chết. Dù vậy, cô cũng cứ cầm lấy chuỗi hạt Mân Côi mà vị tử tù cho để làm kỷ niệm.
Sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ, cô ý tá phải đổi tên, đổi họ, đi sinh sống tại một vùng xa xôi hẻo lánh khác, để khỏi bị cảnh sát quốc tế lùng bắt, vì cô đã góp phần sát hại hàng ngàn tù nhân dưới chế độ Đức quốc xã. Chính nhờ xâu chuỗi Mân Côi của linh mục Brandsma, mà cô ý tá tìm lại được đức tin. Năm 1955, khi Tòa Thánh lập hồ sơ phong Chân Phước cho cha Brandsma, cô cảm thấy hối hận, và quá cảm động, cô đã tự ý ra trình diện với chính quyền sở tại, thuật lại tất cả những gì đã xảy ra 10 ngày cuối cùng của cha Bradsma, để bổ túc vào hồ sơ phong Chân Phước. (Thomas Trần Khắc Khoan, 100 truyện tích Mân Côi)
1) Nhờ Mẹ
Từ trên thập giá, Chúa Giêsu trăn trối với Đức Mẹ Maria và Thánh Gioan. “Thưa Bà, đây là con Bà!” và “Đây là Mẹ của anh.” (Ga 19, 26) Kể từ đó, Thánh Gioan rước Mẹ Maria về nhà, (Ga 19, 27) để cùng với các Tông Đồ tập trung thành tâm cầu nguyện. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu.” (Cv 1, 14)
Nhờ Mẹ an ủi, nâng đỡ, các Thánh Tông Đồ đã vượt qua cơn sốc cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, mới có thể bình tâm đón nhận đặc sủng của Đức Chúa Thánh Thần. Để rồi thành những chứng nhân nhiệt thành của Chúa Giêsu.
Qua hình ảnh rất nhân lành và thánh thiện của Mẹ Maria, Thánh Louis – Marie Grignion de Montfort đã sâu xa cảm nghiệm: “Chúa đã muốn đến với chúng ta nhờ Mẹ Maria, thì Người cũng muốn chúng ta đến với Người nhờ Mẹ Maria.” Ngài lập ra khẩu hiệu lừng danh: “Ad Jesum per Mariam.” (Đến với Chúa Giê su nhờ Mẹ Maria).
Nay chúng ta xướng lên kinh Mân Côi, để nhờ Mẹ, mà đến gần Chúa Giêsu, hầu đón nhận được hồng phúc từ sứ mạng Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ.
2) Với Mẹ
Qua Kinh Mân Côi, Mẹ dẫn chúng ta cùng đồng hành vào mầu nhiệm Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, từ khởi đầu cho đến hoàn thành. Từ Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương, đến Năm Sự Mừng, Mẹ dẫn dắt chúng ta hội nhập vào từng biên cố, từng mầu nhiệm Nhập Thể, để canh tân và thánh hóa đời sống.
Cùng với Mẹ, chúng ta được gắn bó, kết hiệp mật thiết với Người. Bởi vì Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi, đồng hành với Chúa ra sao, thì Mẹ cũng muốn chúng ta gắn bó với Người như vậy, để chúng ta được chung hưởng với Mẹ trên cõi phúc muôn đời.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Khi biết suy ngẫm đích thực, Kinh Mân côi dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa trong mầu nhiệm của Người, và vì thế, chúng ta không thể không quan tâm đến diện mạo Chúa Kitô nơi những người khác, nhất là những người đau khổ nhất. (Tông Thư Kinh Mân Côi Kính Đức Trinh Nữ Maria. “ROSARIUM VIRGINIS MARIAE”)
3) Trong Mẹ
Lập lại lời chào của sứ thần Gabriel, chúng ta cùng hiệp ý ca khen, ngợi danh Mẹ.: “Kính mừng Maria, đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ,” Đồng thời chúng ta cũng vinh danh Chúa Giêsu: “và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.” Để rồi chúng ta đặt hết niềm tín thác vào Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen.”
Những tấm gương sáng như Thánh Đa Minh, Thánh Louis – Marie Grignion de Montfort, Thánh Gioan Maria Vianney, Thánh Padre Pio 5 Dấu, ĐGH Gioan Phaolô II, ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận,… đã hoàn toàn tận hiến cuộc đời vào trong tay Mẹ. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta biết bao hồng phúc từ Kinh mân Côi.
Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bê lem, khắc khoải như Ai cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đển thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, Tông đồ bên Thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ. (ĐHV, 922)
Trước bối cảnh xã hội nhiễu nhương và văn minh sự chết đang lan tràn như vũ bão hiện nay, chúng ta cùng phó thác, nương tựa vào tình yêu nhân hậu của Mẹ qua Kinh Mân Côi, để được Mẹ che chở, chống đỡ và chiến đấu với ba thù.
Kính xin Nữ Vương Truyền Phép Rất Thánh Mân Côi
Cầu cho chúng con. Amen.

26. Chuỗi Mân Côi
Ngày kia có một vị linh mục nói chuyện với đám tù nhân vừa mới được trả tự do. Sau khi đã thăm hỏi họ về chuỗi ngày cực khổ, thì một người trong đám họ đã nói: Chính những cực nhọc của kiếp sống đoạ đày đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng con. Vì nhờ đó chúng con mới hiểu được giá trị và yêu thích sự cầu nguyện. Rồi anh ta giơ ra cho vị linh mục xem một khúc tràng hạt, chỉ gồm có 10 hạt mà thôi. Vị linh mục ngỏ ý muốn tặng anh một chuỗi khác, nhưng anh đã cám ơn, đã từ chối và nói: Thưa cha đây là một kỷ niệm sâu xa nhất trong cuộc đời của con, con sẽ cẩn thận gìn giữ nó, vì nó gợi cho con nhớ đến chuỗi ngày bi thảm. Chúng con cả thảy gồm 3 người, bị thương nặng trên trận địa và nằm chờ chết. Bấy giờ trong thinh lặng giữa lúc màn đêm buông xuống, con khẽ lần hạt, và rồi hai người bạn kia lên tiếng xin một mẩu tràng hạt để cùng lần, thì ra họ cũng là người công giáo. Con bèn dứt chuỗi tràng hạt thành ba khúc, mỗi người một khúc, và chúng con cùng nhau lần hạt một cách sốt sắng như thể là lần cuối cùng trong cuộc sống.
Nghe xong câu chuyện này, có thể một số người trong chúng ta sẽ nói: Tôi sẽ không chờ cho đến những giây phút bi thảm và đen tối như vậy mới cầu nguyện. Tốt lắm. Phải cầu nguyện liên tục, nhất là những lúc gặp phải gian nguy thử thách. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta lại thờ ơ với chuỗi Mân côi, vì nó tẻ nhạt, vì nó buồn chán. Thật là đáng tiếc.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

27. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI, CẦU CHO CHÚNG CON
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào tháng Mười, tháng Mân Côi, hình ảnh Đức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
1. Đức Maria đầy ơn phúc
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Mẹ có phúc vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ có phúc vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Chúa Giêsu là Quả Phúc lòng Mẹ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại lời mừng chúc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Mẹ tìm mọi phương thế để chúng ta được hạnh phúc. Một trong những phương thế ấy là hiện ra dạy chúng ta đọc Kinh Kính Mừng, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn hầu đạt tới cõi trời vinh phúc.
Truyền khẩu rằng, trước thế kỷ XII, chưa có Kinh Kính Mừng. Các tín hữu với lòng mến Mẹ đã hái hoa hồng kết thành triều thiên dâng kính Mẹ, miệng ngâm nga mừng hát Thánh Thi. Có anh lái buôn vì lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn hái hoa dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù, thay vì hái hoa dâng Mẹ, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin vì nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ vậy. Sáng kiến ấy được nhiều người thực hành theo. Đó là gốc tích kinh Kính Mừng hay kinh Mân Côi.
Khởi đi từ lời của sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet: “Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”, Giáo hội đã dùng để chúc khen Mẹ. Đồng thời, thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
2. Chuỗi Ngọc Mân Côi
Tại sao tràng hạt lại gồm năm ngắm?
Không biết tràng hạt phát xuất từ tôn giáo nào, vì không chỉ có Công Giáo có, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
Tại sao lại có tràng hạt mười lăm ngắm?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở nấm mồ, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi diễn tả niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ.
Tại sao lại có ba mùa Vui – Thương – Mừng?
Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569. Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui); Tử Nạn (Thương); đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ngày 16/10/2002 II trong Tông Thư gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II thêm vào Năm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu chuộc loài người.
Tại sao đọc 150 kinh kính mừng?
Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Nên đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh. Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn cứu độ.
3. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Vì muốn con cái mình hạnh phúc, nên mỗi lần hiện ra là một lần nhắn nhủ: “Hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Vậy, hãy biến đời mình thánh chuỗi Mân Côi.
Thế thì, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng, bởi “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng” (St Bênađô).
Nhiều bạn trẻ cho rằng: Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không đâu, Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học cho chúng ta kinh nghiệm: động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro, nam sinh nữ tú chê ông quê mùa, mà không hay biết ông là người thầy của mình.
Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa. Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ” (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: “Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa quyết định mời gọi tất cả các tín hữu, trên toàn thế giới, lần hạt Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười là tháng Đức Mẹ, để hiệp thông và ăn năn đền tội cùng toàn thể dân Chúa, đồng thời cầu xin rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi quỷ dữ, là kẻ luôn tìm cách tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và chia rẽ với nhau.
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Mân Côi, xin cho mỗi người chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Amen.

28. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
KINH KÍNH MỪNG LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
1. Kinh Kính Mừng
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.
Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ”.
Còn thánh Bônaventura nói: “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng”.
Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi”.
Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày”. Và nhất là: “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình”.
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm 2014, và những năm tiếp theo Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trước tình thế hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời cao. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

29. Lời kinh của mỗi cá nhân
Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.
Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.

30. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
“KẾT NỐI” VỚI CHÚA GIÊSU QUA ĐỨC MẸ.
(Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh)
“KẾT NỐI” VỚI CHÚA
1. Đôi dòng lịch sử hình thành kinh Mân côi.
Kinh mân côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose, nghĩa là hoa hồng. Ý muốn nói rằng, những kinh Kính mừng mà chúng ta đọc và suy gẫm kết thành chuỗi Hoa Hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Xưa kia, khi tràn chuỗi chưa ra đời, người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Trong Hội Thánh, có thói quen cầu nguyện bằng Thánh vịnh, nhưng đối với đại đa số người, 150 Thánh vịnh dài quá không thể đọc được. Từ thế kỷ XII, người ta thay thế bằng việc đọc 150 kinh Lạy Cha. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó Thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ”.
Ban đầu, kinh Kính mừng chỉ có lời chào của thiên thần Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Sau đó, người ta thêm lời chào của bà Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42). Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh và dạy thánh nhân phổ biến tràn hạt này, như là phương thế cầu nguyện để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, Đức Urbanô IV thêm vào lời chào của bà Elizabeth Thánh Danh “Giêsu”. Từ đó, chúng ta đọc là “…Và Giêsu Con lòng Bà…”.
Thời đó, người ta đọc 150 kinh Kính mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do Thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính mừng thành từng chục 10 kinh, đầu mỗi chục kinh là một kinh Lạy Cha.
Thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính mừng thành 3 chỗi 50. Cũng trong thế kỷ này, Chân phước Alanô de la Roche thêm phần suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân côi gọi là “Vòng hoa hồng”.
Chân phước Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân côi mà Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Đaminh. Ngài cũng thành lập Hội Mân côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân côi.
Năm 1521, linh mục Albertô da Castello, sửa lại: trước mỗi kinh Lạy Cha và chục kinh Kính mừng được kết vào một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Cha Piô V cho thêm phần thứ hai của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” và kinh Sáng danh ở cuối mỗi chục.
Tháng 10.2002, thánh Gioan Phaolô II mở năm kinh Mân côi và thêm vào chuỗi Mân côi truyền thống năm mươi kinh Kính mừng đi liền với năm mầu nhiệm về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, gọi là năm mầu nhiệm sự Sáng.
Với việc thêm này, chuỗi Mân côi từ nay có đến 200 kinh Kính mừng. Kể từ đó, kinh Mân côi có hình thức như chúng ta đọc ngày nay.
2. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ.
Chuỗi Mân côi, chuỗi hoa hồng. Người tín hữu đọc kinh Mân côi với ý nghĩa là từng lời kinh mà họ đọc được ví như từng đóa hoa hồng dâng lên Đức Mẹ, và kết hợp với Đức Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu.
Vì thế, mỗi khi lần chuỗi, người tín hữu kết thành tràng hoa hồng thánh thiện, dâng tấm lòng, dâng tình mến, dâng tâm hồn, dâng quyết tâm sống đẹp lòng Chúa như Đức Mẹ. Do đó, khi lần chuỗi, là người tín hữu ấp ủ hoa hồng thiêng liêng, hoa hồng mầu nhiệm của lòng mình kính dâng Đức Mẹ và hợp với Đức Mẹ mà tôn thờ Chúa.
Đặc biệt, dù kinh Mân côi là lời kinh mà người tín hữu dùng để cầu nguyện, và tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, thì cũng là lời kinh mà chính Đức Mẹ cũng dùng để cầu nguyện. Bởi thật lạ lùng, trong những lần hiện ra ở Lộ Đức hay ở Phatima, người ta đều nhìn thấy Đức Mẹ cầm tràn chuỗi và lần chuỗi. Đức Mẹ cùng cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi với con cái của mình.
Đọc những kinh Kính mừng, vì là lời kinh trực tiếp hướng lên Đức Mẹ, do đó, cũng là lời kinh cho ta được kết nối với Đức Mẹ.
Nhưng quan trọng hơn, khi đọc kinh Mân côi, ta lại được cùng Đức Mẹ kết nối với Chúa Kitô. Điều đó được thấy rõ qua hai bằng chứng:
– Trong kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Đức Mẹ để được nối kết với Con của Người. Qua Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu.
– Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân côi: mùa Vui, mùa Sáng, mùa Thương, mùa Mừng. Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Chúa Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Sáng trong mầu nhiệm Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng, công bố ơn tha tội và ban Nước Trời cho mọi người tin; Thương trong mầu nhiệm Tử nạn, Chúa Giêsu chịu chết, chuộc tội cho cả nhân loại; Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu bước vào vinh quang mang ơn cứu độ đời đời cho mọi người.
Kết nối với Chúa Giêsu là kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu sự kết nối này, kết nối với Đức Maria sẽ còn lỏng lẻo, chưa lên đến đỉnh điểm, chưa mang lại sức sống cứu độ. Bởi Chỉ có Chúa Kitô, mới là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta. Vì thế, chỉ có kết nối với Người, ta mới đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo. Đức Maria chỉ là con đường dẫn ta đến cùng Chúa Kitô.
Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Để Đức Mẹ hướng dẫn, giáo dụ, đó chắc chắn là điều Chúa Giêsu muốn. Bởi Chúa ban cho Đức Mẹ được mẹ chúng ta, và chúng ta được làm con của Đức Mẹ, tất cả đều không ngoài mục đích: Chúa dạy chúng ta, muốn đi về vĩnh cửu, hãy học gương thánh thiện của Đức Mẹ, hãy để Đức Mẹ đồng hành, hãy “nối kết” liên lỉ với Chúa cùng Đức Mẹ và như Đức Mẹ.
Bằng tràng chuỗi Mân côi, chúng ta, con của Đức Mẹ, sẽ sống trong phúc lành của Chúa. Bởi Chúa đã yêu Đức Mẹ, thì chúng ta, những môn đệ của Chúa, chắc chắn cũng sẽ được Chúa tỏ lòng mến thương không kém.

31. Kinh Mân Côi
Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.
Thực vậy, kinh Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.

32. Ave Maria, Lời con thảo
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Từ năm 1883, sau khi Vua Tự Ðức băng hà, nổi lên Phong Trào Cần Vương nhằm đánh đuổi quân Pháp và tàn sát người Công Giáo. Ngày 1 tháng 9 năm 1885, quân lính Văn Thân kéo đến vây làng Trà Kiệu, trong khi linh mục Bruyère (thuộc Hội Thừa Sai Paris) và giáo dân không kịp chuẩn bị.
Cuộc giao tranh giữa làng công giáo Trà Kiệu và quân lính Văn Thân kéo dài trong nhiều ngày. Tương quan lực lượng chênh lệch, phe Văn Thân mạnh hơn cả về nhân lực và vũ khí nên những người công giáo đã bày tượng Ðức Mẹ trên bàn thờ để cầu nguyện. Trong khi thanh niên lâm chiến, thì người già và trẻ con tập trung đọc kinh trước ảnh Đức Mẹ. Khi xong trận, họ lại quay về tạ ơn Mẹ. Khẩu hiệu tiến quân của giáo dân là 3 tên thánh: Giêsu, Maria, Giuse. Mỗi khi quân Văn thân tiến đến giáp lũy tre phòng thủ, thì đồng loạt tất cả giáo dân hô to khẩu hiệu và ào ra giao chiến.
Sau đó quân Văn Thân tăng viện thêm đại bác. Họ đặt đại bác trên Ðồi Kim Sơn và Bửu Châu để bắn vào nhà thờ, nơi được xem như là trung tâm xuất phát các trận phản công, đồng thời là biểu tượng của tinh thần kháng chiến của giáo hữu. Nhà thờ bị trúng đạn một lần nhưng tổn thất không đáng kể. Một khẩu đại bác đặt cách nhà thờ chừng 100 thước, nhưng không sao bắn trúng được nhà thờ. Theo truyền tục thì võ quan chỉ huy đã thú nhận rằng ông ta cố tình nhắm bắn thì thấy “một người đàn bà xinh đẹp, bận áo trắng, đứng trên nóc nhà thờ nên không thể nào nhắm trúng được”. Thông tin này đã khiến quân lính trong phe Văn Thân xôn xao. Vị Linh mục và giáo dân nghe vậy đều nghĩ rằng phép lạ Ðức Mẹ làm, cũng mong được nhìn thấy, nhưng không ai trông thấy ngoại trừ một người đàn bà, tên là Chỉnh. Ðồng thời phe Văn thân còn thấy nhiều trẻ nhỏ mặc áo đỏ áo trắng từ trên không trung bay xuống qua lũy tre xanh, tay cầm gươm bạc sáng ngời vả đánh giúp giáo dân.
Ngày 21 tháng 9 năm 1885, phe giáo dân chiếm lại bộ chỉ huy của Văn Thân đặt trên Ðồi Bửu Châu. Trà Kiệu được giải vây từ đó. Ðêm đến, mọi người họp nhau trong nhà thờ sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, nhất là Thánh Mẫu Maria. Năm 1898, giáo dân Trà Kiệu xây cất một đền Thờ trên ngọn Ðồi Bửu Châu để ghi nhớ công ơn Đức Mẹ. Từ ấy đến nay, Linh địa Đức Mẹ Trà Kiệu vốn nổi tiếng là linh thiêng, nhiều người đều đến cầu khẩn Mẹ lành và thường đều được ban ơn. Nhiều người tự cho rằng đã được khỏi bệnh bằng lá Non Trược trên Ðồi Bửu Châu.
Ngày 31 tháng 5 năm 1971, Giám mục Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo phận Đà Nẵng. Và theo thông lệ thì ba năm một lần, Giáo phận sẽ tổ chức ngày “Đại Hội Đức Mẹ Trà Kiệu” vào ngày 31 tháng 5. (Đức Mẹ Trà Kiệu, Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Mẹ Mân Côi với bài Tin Mừng của thánh Luca, thuật lại Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria. Từ câu chào của ngài, Hội Thánh hình thành dần Kinh Kính Mừng hôm nay. Ngày xưa Đức Mẹ Trà Kiệu đã cầu bầu cứu giúp giáo dân khỏi bị bách hại, nay Mẹ vẫn còn đang âm thầm chăm lo, săn sóc, giúp đỡ những ai chạy đến cùng Mẹ. Vậy trong tháng Mân Côi, chớ gì người tín hữu mỗi khi tay lần chuỗi, miệng đọc Kinh Kính Mừng đều dạt dào, tha thiết những tâm tình cung kính, mến yêu, xác tín và hoàn toàn đặt niềm hy vọng vào Mẹ.
Ave Maria, trân trọng kính chào Mẹ
Chẳng còn lời chào nào cao quý, trân trọng hơn lời Thiên sứ Gabriel chúc mừng Mẹ. “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà.” Vậy nay con cái Mẹ hân hạnh mượn lời Thiên sứ để chạy đến, kính cẩn cúi mình cung chúc Mẹ thì thật là hợp tình hợp lý và quá tốt lành.
Mỗi người đều có người mẹ thân thương, dễ gần gũi, dễ cởi mở tâm tình hơn người cha nghiêm nghị, xa cách. Nên thường đứa con mới hay đến xin xỏ, vòi vĩnh với mẹ, chứ không dám quấy rầy cha. Người mẹ lại càng vui mừng hơn, khi đứa con biết kính trọng, lễ phép, ngợi khen mẹ phúc hậu, rộng lượng và thương con. Cũng vậy, mỗi khi Mẹ Maria nghe lời cầu chúc thánh thiện của con chiên bổn đạo, sao đành lòng làm ngơ được.
“Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an.” (Đường Hy Vọng, số 912)
Ave Maria, thân thương xác tín Mẹ
“Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ” Còn hạnh phúc nào trọng đại hơn là vinh dự có Chúa – Ở – Cùng? Mẹ Maria được diễm phúc đó vì sống đẹp lòng Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Chúa.” Thiên sứ Gabriel vội trấn an, khi Mẹ đang bỡ ngỡ về lời chào quá trọng thể.
“Phúc đức tại mẫu.” Câu tục ngữ dân Việt đã khẳng định từ ngàn đời rằng con cái được thừa hưởng phúc lộc từ người mẹ hiền. Vậy Mẹ Maria được tràn đầy hồng phúc, nhất là được Chúa – Ở – Cùng, thì con cái Mẹ cũng hẳn cũng được thông phần. Người con nào thảo hiếu với Mẹ, chắc chắn được Mẹ rộng lượng ban phát. Cho nên, càng thân thương xác tín Mẹ tràn đầy ân phúc, thì Mẹ càng yêu thương cầu bầu cứu giúp.
Hơn nữa, “Mẹ có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu, Con lòng Mẹ gồm phúc lạ.” Mẹ là người nữ duy nhất trên đời, được cưu mang Đấng Cứu Thế, rồi cùng đồng hành với Người từ khi Mẹ thưa “Xin Vâng” cho đến khi được về trời. Vậy để được Chúa – Ở – Cùng, con cái cứ ghi nhớ lời Mẹ dặn, như với gia nhân tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5) Nghe và thực hành Lời Chúa thì con cái cũng được diễm phúc như Mẹ.
“Muốn biết Mẹ con tốt đẹp chừng nào, con hãy nhớ Mẹ Chúa Ngôi Hai, cao cả, toàn năng. Phúc cho con biết chừng nào, vì Ngài cũng là Mẹ của con. Nếu không phải Chúa Giêsu nói, con không thể hiểu được.” (Đường Hy Vọng, số 917)
Ave Maria, chân tình hy vọng
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.” Khi đứa con biết mình lỗi phạm, cứ đơn sơ, khiêm tốn chạy đến Mẹ khẩn cầu, nương tựa, cứu chữa, để Mẹ soi sáng, chỉ dạy, biết ăn năn, sám hối, giải hòa với Thiên Chúa. Chẳng bao giờ Mẹ nỡ ngoảnh mặt quay đi. Vì Mẹ chính là niềm hy vọng xán lạn của con cái đang trầm luân dưới thế.
“Đứa con có bệnh tật, xấu xí người mẹ vẫn thương yêu. Dù con nguội lạnh tội lỗi, phản bội, con hãy phó mình trên tay Mẹ. Chúa Giê su trối: “Đây là Mẹ con!” Nỡ nào Mẹ bỏ con.” (Đường Hy Vọng, số 914)
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sinh thì trên thập giá, Chúa đã trăn trối Mẹ cho chúng con, cũng như trao chúng con cho Mẹ săn sóc. Xin giúp chúng con trở nên người con hiếu thảo của Mẹ, để được luôn có Chúa Ở Cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hằng ngày cứ mãi tiếp tục nhắc nhủ chúng con: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo,”hầu chúng con được luôn thức tỉnh, mà sống trọn vẹn Lời Chúa. Amen.

33. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
MÂN CÔI, BẢN TÓM LƯỢC TIN MỪNG
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
– Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
– Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
– Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
– Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
– Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris”.
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn “Lòng sùng kính Đức Maria” (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh “Ave Maria” mà chúng ta đọc là “Kính Mừng Maria” thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Hãy vui lên, Maria!” khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: “Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc” là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh “Kính mừng Maria” là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: “Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc” (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác… Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình… được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời” (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: “Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.

34. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo “Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi”. Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ “phụng vụ dân gian” này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.

35. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
LỜI KINH HOÀ BÌNH VÀ LỜI KINH CỦA GIA ĐÌNH
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong phần kết thúc Tông Thư về Kinh mân côi năm 2003, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi mọi thành phần trong Giáo hội như sau: “Tôi hướng về tất cả anh chị em, thuộc mọi bậc sống, hướng tới tất cả anh chị em trong các gia đình Kitô hữu, đến anh chị em là những người đau yếu và cao niên, đến các con là những người trẻ: Xin tất cả một lần nữa hãy cầm lại Chuỗi mân côi với lòng tin tưởng. Hãy khám phá lại Kinh mân côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà của Phụng Vụ, và trong bối cảnh hằng ngày của anh chị em”.
Tại sao Đức Giáo Hoàng tha thiết kêu mời chúng ta đọc Kinh cân côi như vậy? Có nhiều lý do, nhân ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, tôi xin nêu lên hai lý do quan trọng sau đây:
1. Kinh mân côi là lời kinh hoà bình
Ngày 13 tháng 05 năm 1917, Đức Mẹ nói với ba trẻ ở Fatima rằng: “Hãy ăn năn đền tội, cải thiện đời sống. Hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày để đem hòa bình cho nhân loại và để chấm dứt chiến tranh (…). Nếu các con thi hành các điều Ta phán dạy thì rất nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. (…) Nếu các điều Mẹ mong ước được thực thi, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có Hòa Bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc các tà thuyết trên khắp thế giới, chiến tranh sẽ xảy ra, Giáo Hội sẽ bị bách hại, người lành sẽ bị tử đạo…” (x. Tiếp tục thực hiện sứ điệp Fatima cho Hòa bình và Công lý của UBCL và HB). Sau đó, nhờ cha ông chúng ta vâng nghe lời Mẹ dạy, chăm chỉ đọc Kinh mân côi mà nước Nga và toàn bộ Khối Đông Âu đã trở lại.
Thật vậy, Kinh mân côi chính là lời kinh hoà bình. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “Tự bản chất, Kinh mân côi là lời kinh cầu cho hoà bình”. Ngài giải thích: Thứ nhất, vì nó hệ tại ở việc chiêm ngưỡng Đức Kitô, Hoàng tử Hoà bình, là sự bình an của chúng ta(x. Ep 2,14). Bất cứ ai đồng hoá với mầu nhiệm Đức Kitô và rõ ràng đó là mục tiêu của Kinh mân côi thì sẽ học được bí quyết của hoà bình và biến nó thành dự phóng của đời sống mình. Thứ hai, nhờ tính chất suy niệm của nó, với sự tiếp nối thanh thản các Kinh kính mừng, Kinh mân côi đem lại sự an bình nơi người cầu nguyện, tạo điều kiện cho họ đón nhận và cảm nghiệm tận đáy lòng, và gieo vãi ra chung quanh, hoà bình đích thật vốn là quà tặng đặc biệt của Chúa Phục Sinh (x. Ga 14,27; 20,21). Thứ ba, vì những hoa trái bác ái mà nó sản sinh. Khi được thực hiện tốt theo một thể thức suy ngắm đích thực, Kinh mân côi dẫn ta đến gặp gỡ Đức Kitô trong các Mầu nhiệm của Người, và vì thế, ta không thể không quan tâm tới dung nhan Đức Kitô nơi những người khác, nhất là nơi những người đau khổ nhất. Và Ngài kết luận: Kinh mân côi cho phép chúng ta hy vọng rằng, cả ngày hôm nay nữa, trận chiến cam go vì hoà bình có thể dành thắng lợi. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).
Như vậy, muốn có hoà bình thực sự trong tâm hồn, trong gia đình, trong tổ quốc và trên thế giới, chúng ta hãy lẫn hạt mân côi.
2. Kinh mân côi là lời kinh của gia đình
Kinh Mân côi không những là lời kinh cầu cho hoà bình mà còn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Các gia đình truyền thống Việt Nam thường lần chuỗi chung với nhau trong gia đình vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng khi vừa mới thức dậy. Nhiều giáo dân có thói quen lần chuỗi trên đường đến nhà thờ, trên đường đến nơi làm việc, khi rảnh rỗi… Đó là những thói quen tốt. Nhờ thế, Đức Mẹ đã gìn giữ họ được bình an, nhiều gia đình đã vượt qua được những sóng gió trong cuộc đời. Cho nên, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhắc nhở những người làm công tác mục vụ các gia đình phải có trách nhiệm khuyên nhủ họ duy trì thói quen đọc Mân côi trong gia đình. Ngài nói: “Kinh mân côi cũng là và vẫn luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình”.
Ngài đưa ra một số các lợi ích khi các gia đình đọc Kinh mân côi: Làm cho các gia đình gần gũi nhau hơn. Lôi kéo các gia đình xích lại gần nhau. Thông hiệp với nhau. Tỏ tình liên đới. Tha thứ cho nhau, và nhìn thấy giao ước tình yêu của họ được đổi mới trong thần khí của Thiên Chúa.
Đặc biệt, trước những thách đố của xã hội, các gia đình lại cần trở về với Kinh mân côi hơn. Đức Thánh Giáo Hoàng nói tiếp: “Nhiều vấn đề đang thách thức các gia đình hiện nay, đặc biệt trong xã hội có nền kinh tế phát triển, xuất phát từ việc càng ngày người ta càng khó hiệp thông với nhau. Các gia đình ít khi thu xếp để gặp gỡ nhau, và những cơ hội hiếm hoi để gặp gỡ được nhau lại bị những hình ảnh truyền hình xen vào phá hỏng. Trở về với việc đọc kinh Mân côi trong gia đình có nghĩa là lấp đầy cuộc sống hằng ngày những hình ảnh hoàn toàn khác, những hình ảnh trình bày Mầu nhiệm cứu độ: hình ảnh Đấng Cứu chuộc, hình ảnh Mẹ Rất Thánh của Người. Gia đình cùng đọc Kinh mân côi là làm sống lại phần nào bầu khí của gia đình Nagiarét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm để họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.
Khi nói về con cái, Đức Thánh Giáo Hoàng cũng mời gọi các bậc cha mẹ hãy cầu nguyện bằng Kinh mân côi với con cái và cho con cái, vì đó là một trợ lực thiêng liêng mà chúng ta không thể coi thường. Ngài nói: “Việc cầu nguyện bằng Kinh mân côi cho con cái mình, khi và hơn nữa, với con cái mình, dạy dỗ chúng ngay từ những năm đầu đời, biết ngừng lại mỗi ngày để cầu nguyện với gia đình, phải thú nhận rằng đó không phải là một giải pháp cho mọi vấn đề, nhưng đó là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể coi thường”. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).
Để thêm lòng tin tưởng vào Kinh mân côi, chúng ta hãy nghe câu chuyện sau đây:
Cha Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
Lúc gần chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói .. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không ban cho chúng ta nhiều ơn!
Nghe vị Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Giờ đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh thật.
Năm 1941 – 32 tuổi – Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa đàng. (x. Phép lạ của Tràng chuỗi Mân Côi, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
Vì những lý do trên đây, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm siêng năng đọc Kinh mân côi theo lời Mẹ dạy, để cầu cho bản thân, gia đình và cầu cho hoà bình thế giới. Amen.

36. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Lần Chuỗi Mân Côi – một việc đạo đức đang bị giới trẻ “xếp xó”
Trong đời sống của Giáo Hội, có hai việc tôn thờ Thiên Chúa: thứ nhất là Phụng Vụ, thứ hai là các việc đạo đức bình dân. Việc Phụng Vụ là việc thờ phượng Thiên Chúa một cách chính thức của Giáo Hội, gồm Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể và Giờ Kinh Thần Vụ. Còn các việc đạo đức bình dân gồm có viếng Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, đi Đàng Thánh Giá, rước kiệu… Gọi là “bình dân” vì ai cũng có thể làm được, và có thể làm được mọi nơi mọi lúc.
Trong các việc đạo đức bình dân, thiết nghĩ lần chuỗi Mân Côi là việc có giá trị nhất. Vì sao? Vì khi lần chuỗi Mân Côi là ta lặp đi lặp lại những lời kinh trọng nhất, đẹp nhất trong đạo. Bắt đầu là Kinh Lạy Cha, lời kinh do chính Chúa Giêsu dạy, lời kinh trọng nhất. Và tiếp đến là 10 kinh Kính Mừng, vốn là lời kinh cũng có nguồn gốc từ Tin Mừng. Đi kèm là việc luân phiên suy gẫm 20 mầu nhiệm Tin Mừng gắn liền với công trình nhập thể và cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, trong đó Đức Mẹ luôn luôn góp phần một cách trực tiếp.
Đó là lý do tại sao Mẹ Maria rất yêu thích chuỗi Mân Côi. Và đó cũng là lý do tại sao, ta thấy rằng, mỗi lần hiện ra nơi này nơi nọ, Mẹ Maria đều cầm tràng chuỗi Mân Côi trên tay, và luôn nhắc nhở con cái của Mẹ lần chuỗi Mân Côi: ở Fatima, ở Lộ Đức, hay ở La Vang đều như thế!
Tuy nhiên, thực tế ngày hôm nay giới trẻ và cả giới trung niên rất lười lần Chuỗi Mân Côi, đặc biệt nam giới. Tất cả đều có chung một “họ” là họ “lười”. Nguyên nhân tại sao? Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng thiết tưởng có ba nguyên nhân chính.
– Thứ nhất là do não trạng chung, người ta vốn xem thường các việc đạo đức bình dân.
Vì là bình dân, nên nhiều người cho là bình thường, thậm chí là tầm thường, là việc của mấy bà già. Cơm bình dân thì giới bình dân ăn; việc đạo đức bình dân thì người bình dân làm. Đọc kinh, viếng Chúa, đi Đàng Thánh Giá đã mệt, lại còn mất công, tốn thời gian. Lần hạt thì toàn lặp đi lặp lại những kinh nhàm chán và buồn ngủ; trong khi đó cuộc sống hôm nay có những thứ khác hấp dẫn hơn, lý thú hơn nhiều. Rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ vẫn thường suy nghĩ như thế!
– Thứ hai là do cuộc sống ngày hôm nay vốn nhiều bận bịu lo toan, nhất là việc học hành, làm ăn.
Người lớn thì căng thẳng vì chuyện cơm áo gạo tiền, hay vì chuyện công ăn việc làm, có khi phải tăng ca tăng kíp, có khi làm ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm. Người trẻ thì bù đầu vào chuyện học hành: học chính khóa, học thêm, học tăng cường, học phụ đạo, học nâng cao… Tất cả những thứ đó đã khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi sau một ngày làm việc, hay học hành; vì thế mà họ không còn hứng thú, hay sốt sắng để làm các việc đạo đức nữa.
– Thứ ba là do các thú vui giải trí từ ngành công nghệ truyền thông.
Đây là lý do chính. Rảnh rang được giờ nào là xem Tivi, chat chit, lướt web, hay chơi game. Tivi thì nhiều chương trình, nhiều kênh đài phong phú và hấp dẫn, phát sóng 24/24. Đặc biệt những chương trình nóng, “hot” lại rơi vào những giờ vàng, giờ Kinh Lễ, khiến cho người ta không sao rời khỏi cái màn hình Tivi – con quái vật một mắt. Nếu rời được cái Tivi thì quay sang ôm cái điện thoại, là thứ mà lúc nào cũng kè kè bên mình: hết gọi điện lại nhắn tin, hết nhắn tin lại chơi game, hết chơi game lại nghe nhạc, hết nghe nhạc lại selfie. Chưa hết, dứt được cái điện thoại, lại chụp ngay cái máy vi tính: lướt web, chat chit, xem phim, chơi game thỏa thích, v.v…
Ngày hôm nay không ai phủ nhận những tiện ích lớn lao từ cuộc cách mạng công nghệ thông tin mà Apple, Microsoft… mang lại cho con người. Thế nhưng, có thể nói Apple, Microsoft đang là những “nhà vô địch” trong việc “đánh cắp” các linh hồn. Dĩ nhiên, chính những người sử dụng các phương tiện, cũng có phần trách nhiệm vì đã “thỏa hiệp” với những “kẻ đánh cắp” ấy.
Viện cớ cuộc sống có nhiều áp lực và căng thẳng, nên cần giải trí, cần thứ giãn, và dần dà người ta sa đà và bị cuốn vào những thứ giải trí thường vô bổ. Hậu quả là gì? Hậu quả là các thứ này sẽ lấy hết những khoảng thời gian rảnh rỗi ít oi, và cũng xâm chiếm hết tâm trí của con người, khiến cho người ta không còn trí lòng nào, khoảng trống nào cho Chúa Mẹ và cho các việc đạo đức. Cầm điện thoại thích thú hơn cầm sách Lời Chúa, lướt web lý thú hơn lần hạt, chat chit chí thú hơn đọc kinh, v.v… Đây là một thực tế đối với nhiều bạn trẻ ngày nay.
Có thể nói chính vì những nguyên nhân trên mà lớp trẻ ngày nay đang bắt đầu rơi vào một cuộc “đại khủng hoảng” về các việc đạo đức, xa hơn sẽ là một “thảm họa” về đời sống thiêng liêng. Cứ thử xem trong giáo xứ có bao nhiêu bạn trẻ còn lần chuỗi Mân Côi mỗi tối, bao nhiêu thanh thiếu niên còn viếng Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày thì sẽ thấy thảm họa về đời sống thiêng liêng là không còn xa. Ai phải chịu trách nhiệm?
Người đầu tiên phải chịu trách nhiệm chính là các bậc làm cha mẹ. Vậy cần chấn hưng thế nào đây?
– Trước hết, các bậc cha mẹ hãy quản lý con cái của mình, quản lý cái Tivi và cái máy vi tính. Đừng cho con cái mua sắm những cái điện thoại đắt tiền, nhiều chức năng…. Chúng sẽ tiêu tốn hết thời gian rảnh rỗi của nó vào những chuyện vô bổ, tả pí lù. Bởi vì chúng chưa biết làm chủ bản thân, chưa biết sử dụng đúng đắn. Thay vì những phương tiện đó đem lại những cái hay cái được, thì lại đem đến những cái dở cái mất: mất giờ, mất tiền, mất sức và mất nết.
– Sau nữa, chính cha mẹ hãy nêu gương sáng cho con cái mình. Đây là điều quan trọng nhất. Mai sau ra trước tòa phán xét, Chúa sẽ hỏi các bậc cha mẹ về trách nhiệm này, trách nhiệm răn dạy và làm gương sáng cho con cái của mình. Cha mẹ mà không có lòng yêu mến Chúa, không đọc kinh lần chuỗi thì khó mà mong con cái có được lòng yêu mến Chúa và yêu mến Chuỗi kinh Mân Côi.
Vậy nếu ta chưa có thói quen làm các việc đạo đức bình dân, hoặc đã đánh mất thói quen tốt lành là lần chuỗi Mân Côi, do lười biếng, hay do xem nhẹ, thì tháng Mân Côi là dịp rất thuận tiện để bắt đầu tập thói quen, hoặc bắt đầu lại thói quen tốt lành ấy.
Xin Chúa giúp chúng ta có quyết tâm cụ thể trong tháng Mân Côi này và nỗ lực để thực hành, hầu kéo ơn Chúa, ơn Mẹ xuống trên gia đình và gia tộc mình; đồng thời giúp con cái mình tìm lại nguồn sức sống thiêng liêng.

37. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ…, những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi – không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn – nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa – nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.

38. Phương thuốc thần diệu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau… là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân…” (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi…
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ…
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
“Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự…” (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.

39. Tháng Mân Côi: Nghĩ về Mẹ
(Suy niệm của JB. Lê Đình Nam)
Đối với mọi người, những ai đã lớn lên trong vòng tay của mẹ đều thấy rằng, ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất và cao quý nhất. Nếu không nhận ra được điều đó, có lẽ chúng khó có thể cảm nghiệm được thế nào mà một tình yêu tinh ròng và bao dung, một tình yêu thanh khiết và tinh tuyền, một tình yêu hy sinh và luôn hết mình vì con.
Nhưng cũng không ít những người con đã làm tổn thương đến tình mẹ đó. Bị lôi cuốn bởi những xu thế xã hội, chạy theo những đam mê danh vọng, nhiều đứa con đã không những quên đi tình mẹ mà còn đối xử tệ bạc lên tình mẹ đó. Thật quặn đau thì nghe lời người mẹ nói với con mình trong câu chuyện “Lá sầu riêng”: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?” Đây là câu hỏi được đặt ra cho mỗi người trong chúng ta trong tư cách làm con.
Thực tế, tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Và đối với thời đại hôm nay, tình trạng đó đang ngày một phổ biến và lan rộng đến nhiều gia đình thuộc mọi nền văn hóa trên thế giới. Tình yêu của người mẹ không những không được đáp trả mà còn bị xúc phạm một cách thiếu nhân văn nơi những đứa con mới lớn.
Đối với người kitô hữu, tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi chứng kiến con mình đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con hững hờ, kiêu căng khi không nhìn ra sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của những đứa con Mẹ hằng săn sóc. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang khóc khi thấy những đứa con của mình sa vào những thú vui tội lỗi và đánh mất đức tin.
Tháng Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của mỗi chúng ta. Năm xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ giây phút đó, Mẹ là mẹ của mỗi người chúng ta. Từ giây phút đó, Mẹ sẽ che chở, bao bọc chúng ta như mẹ đã từng làm với hài nhi Giêsu. Từ giây phút đó, Mẹ Maria sẽ nuôi dưỡng và chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay, Mẹ Maria sẽ luôn bên cạnh cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Từ nay, cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ.
Vì tình mẹ mãi mãi là thế, luôn hết mình vì con. Mẹ luôn chấp nhận khổ để con được hạnh phúc. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con.

40. Lá sầu riêng
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
“Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn”.
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
“Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện “Lá sầu riêng” của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: “Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?”.
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: “Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ – Năm canh dài thức trọn năm canh”.
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản “lá sầu riêng” đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: “Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.

41. Lễ Mẹ Mân Côi
“Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu” (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên”.
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: “Hỡi Maria, hãy vui lên”, vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
“Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước”, vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng” (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”. Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà”. Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: “Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
“Hỡi Maria đừng sợ”. Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: “Vui và Sợ”. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng “Đầy Ơn Phước”, Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.

42. Lễ Mẹ Mân Côi
BÀI HỌC QUAN TRỌNG CỦA KINH MÂN CÔI.
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà – Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân…” (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là “đầu tàu” nầy: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính”. (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất… (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: “Xin cho ý Cha thể hiện”.
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: “Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha”.
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

43. Mẹ Đầy Ơn Phước
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – R. Veritas)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: “Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria”. Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng “Kính Mừng Maria đầy ơn phước” chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: “Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa”. Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông”.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”, Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”, giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
“Hỡi Maria, đừng sợ”, kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con”.
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.

44. Lễ Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
HỌC SỐNG KHIÊM NHƯỜNG VỚI CHÚA QUA KINH MÂN CÔI.
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
– Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
– Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa.
– Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác.
– Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
– Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng.
– Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức.
– Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ.
– Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.

45. Kinh Mân Côi và Giáo Hội
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định:
– Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta:
– Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
– Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ:
– Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
– Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi.
Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi. Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống. Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằngcách thành lập một tu hội với lời dốc quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.

46. Kinh Mân Côi
LỜI KINH CỦA QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn trình bày về ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với quê hương đất nước. Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sư.
Biến cố thứ nhất đó là cuộc chiến thắng tại Lépante.
Vào năm 1571 dưới thời Đức Thánh Cha Piô V, vua Sélim nước Thổ nhĩ kỳ đem quân thôn tính Âu châu, trước tai họa thảm khốc này, Đức Thánh Cha một mặt liên kết các quốc gia Âu châu, một mặt kêu gọi mọi người ăn chay cầu nguyện và nhất là lần hạt Mân côi.
Chính nhờ kinh Mân côi, đoàn quân ô hợp của các nước công giáo đã chiến thắng đoàn quân tinh nhuệ của Thổ nhĩ kỳ tại Lépante.
Và để tạ ơn Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã thiết lập ngày lễ Mân côi hôm nay.
Biến cố thứ hai là trường hợp của Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha là một quốc gia đạo đức và sùng kính Đức Mẹ. Thế nhưng đã rơi vào tay bọn Tam điểm từ năm 1910.
Trong suốt 16 năm nắm chính quyền, họ đã gây nên biết bao cảnh xáo trộn lầm than. Nào là giết chết các linh mục tu sĩ., phá hủy các dòng tu, cướp bóc các cơ sở từ thiện của Giáo hội.
Cũng trong thời gian ấy đã xảy ra tất cả 16 lần đảo chánh, 45 lần thay đổi chính phủ và tiền nợ nước ngoài lên tới hai tỷ mỷ kim.
Thế nhưng, vào năm 1917, Đức mẹ đã hiện ra tại Fatima và đã hứa với ba em nhỏ:
– Bồ Đào Nha sẽ giữ vững được đức tin.
Và sự thật đã xảy ra như thế. Dân công giáo Bồ Đào Nha đã vùng lên, đập tan xiềng xích của bọn Tam điểm, lòng đạo đức được phục hồi và ngày 12. 6. 1925 chính phủ và toàn thể nhân dân Bồ Đào Nha đã long trọng dâng kính đất nước mình cho Mẹ Fatima.
Sau cùng là trường hợp của Tây Ban Nha.
Cũng vậy, Tây Ban Nha là một quốc gia đạo đức nhưng đã bị rơi vào tay những kẻ chống đối tôn giáo. Dưới sự hướng dẫn của tướng Franco một mặt trận giải phóng được thành lập và mãi tới năm1939 mới lật đổ được chính quyền.
Ông đã tiết lộ như sau:
– Chúng ta đã nắm được những tài liệu của kẻ thù cho hay: họ định triệt hạ các thánh đường, biến đất nước chúng ta trở thành một quốc gia không còn tôn thờ Thiên Chúa nữa.
Qua những sự kiện lịch sử ấy, chúng ta thấy Mẹ Maria luôn sẵn sàng can thiệp để giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp phải khó khăn và thử thách. Phương thế mẹ muốn chúng ta sử dụng đó là kinh Mân côi, như lời mẹ tỏ lộ tại Fatima:
– Thế chiến lần thứ nhất sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không lo cải thiện đời sống, tôn sùng trái tim Mẹ và lần hạt Mân côi thì rồi chiến tranh sẽ lại bùng nổ một cách tàn khốc hơn.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi bi quan khi nhận thấy rằng:
– Bất công và bạo động, hận thù và đàn áp đang xảy ra khắp nơi, những chiếc ngòi của một cuộc chiến tranh thảm khốc vẫn sẵn sàng bùng nổ. Rồi nghèo đói, bệnh tật và những tệ nạn xã hội luôn liên tục phát triển, không một phần đất nào mà lại không có.
Riêng tại Việt Nam, mặc dù hòa bình đã trở về trên quê hương chúng ta gần ba chục năm rồi, thế nhưng vẫn còn biết bao nhiêu khó khăn cần phải tháo gỡ, biết bao nhiêu vấn đề cần phải giải quyết nhất là về phương diện kinh tế và đạo đức.
Chiến tranh như một cơn ác mộng đã qua đi, nhưng hậu quả đắng cay và nghiệt ngã của nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Bởi đó, là người dân Việt Nam, chúng ta phải cố gắng góp phần vào việc phát triển đất nước bằng chính công sức lao động sản xuất của mình.
Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta còn có những phương thế siêu nhiên. Và một trong những phương thế siêu nhiên đó là sự cầu nguyện.
Đồng thời, một trong những cách thức cầu nguyện đắc lực và hiệu nghiệm hơn hết, đó chính là kinh Mân côi.
Bởi vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin mẹ nâng đỡ và phù trợ cho đất nước Việt Nam, quê hương yêu dấu của chúng ta.

47. Thánh Mẫu Mân Côi
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan… Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh Mân Côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.

48. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
“Hãy xin thì sẽ được”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.

49. Lễ Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Trọng Hương)
* LỊCH SỬ
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh và sau đó Dòng Tên truyền bà từ thế kỷ XV. Lễ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân Thổ nhĩ Kỳ (Hồi giáo) ở Vịnh Lepanto ngày 7.10.1571.
Sau cuộc chiến thắng quân Thổ nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày 5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho phép mừng lễ này trong toàn Hội Thánh (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống…
Thánh sử Luca trình bày Đức Maria trong hai bức tranh khác hẳn nhau:
1. Maria tầm thường:
– Một thiếu nữ mang tên Maria, một tên bình dân nhiều người có. Trong Tân Ước có ít ra 4 phụ nữ mang tên này: Mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
– Sinh sống tại Nadarét, một thị trấn hầu như vô danh nên Cựu Ước không lần nào nhắc tới.
2. Maria cao sang:
– Thiên sứ gọi Maria bằng những tước hiệu cao sang: Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa.
– Con của Người là Cao cả, Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận…
3. Do đâu một thiếu nữ tầm thường bỗng trở nên cao sang như thế?
Do sự khiêm tốn của Maria. Người đã thưa “Tôi là nữ tì của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”. Nghĩa là Maria ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi Người, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm theo ý riêng Người.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, “Đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
B…. nẩy mầm.
1. Trong những người biết khiêm tốn để cho ơn Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ”: Ta đừng sợ những sứ mạng Chúa giao, miễn là ta chịu để cho quyền năng Chúa hoạt động nơi mình.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày trong suốt một năm.
4. “Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”)
5. Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
– Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy?
– Đó là sự ngã lòng.
– Tại sao nó cao giá thế?
– Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”. (Gospel Herald)
6. Về tiếng “xin vâng” của Đức Mẹ:
a/ Vì Thiên Chúa là chủ của vũ trụ và của lịch sử, nên mọi việc trên đời, không việc gì có thể đi ngoài ý Chúa và kế hoạch của Chúa mà êm xuôi được (“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”; gương ngôn sứ Giôna). Cho nên biết “xin vâng” tức là biết lái con thuyền đời mình thuận theo dòng nước.
b/ Thực ra chữ “fiat” còn có thể dịch đúng hơn, là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Hiểu như vậy, phía chủ động là chính Thiên Chúa. Con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Nói cách khác, con người chỉ việc “buông theo ân sủng”
7. “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm choi tôi” (Lc 1,38)
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
– Chào Bà. Bà đã từng làm người. Vậy, theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
– … Là sống cho Chúa.
– Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo Hội?
– … Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ.
– Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu thì càng bị đối xử bất công. làm sao tìm được sự bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
– … Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
– Vậy sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
– … Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất, đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa…
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu, với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”.
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tuỳ thuộc vào sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây của cuộc sống như Mẹ Maria (Hosanna)

50. Cầu nguyện và cải thiện đời sống
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau…
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc… Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
– Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
– Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
– Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.

51. Lễ Mẹ Mân Côi.
LỜI KINH CỦA TUỔI THƠ
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
Qua hai sự kiện trên, chúng ta nhận thấy Mẹ Maria rất yêu thương trẻ thơ và đã chọn các em làm sứ giả để chuyển đạt cho thế giới những sứ điệp của Mẹ. Mẹ đã dùng các em để làm nên những việc trọng đại.
Bởi vì kể từ đó cho đến ngày hôm nay, Lộ Đức và Phatima đã trở nên những nơi hành hương sầm uất nhất của Giáo hội và cũng tại hai nơi này, Mẹ đã ban xuống biết bao nhiêu ơn lành hồn xác.
Với kết luận trên, chúng ta liên tưởng tới lời kinh Magnificat của Mẹ ngày xưa, trong đó Mẹ đã xác quyết:
– Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Thực vậy, nếu ngày xưa Chúa đã chọn Mẹ từ một nữ tì nhỏ bé tầm thường để trở nên Mẹ của Đấng Cứu thế, Mẹ của Thiên Chúa, thì giờ đây Mẹ cũng chọn những em bé đơn sơ để làm nên những việc trọng đại.
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo:
– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và Phanxicô đã thưa lên:
– Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
– Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
– Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ bảo:
– Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
– Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
Chúng ta cũng vậy, như các em nhỏ, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời kêu mời của Mẹ bằng cách siêng năng đọc kinh Mân Côi và cố gắng thực thi tinh thần kinh Mân Côi trong cuộc sống, để chúng ta xứng đáng với tình yêu thương của Mẹ.

52. Mân Côi: Khỉ cứu mặt trăng.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng sâu, đến dưới một gốc cây ni-câu. Dưới cây có một cái giếng, nước trong giếng phản chiếu lại mặt trăng, con khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền gấp gáp nói với đồng bạn: “Mặt trăng bị rơi xuống giếng rồi kia, chúng ta nên cùng nhau kéo nó ra khỏi giếng. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người, từng người một bám vào đuôi nhau trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng”. Bầy khỉ mặt đỏ từng con, từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì xuống mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt qúa lực chịu của cành cây, chỉ nghe “rắc” một tiếng, cành cây gãy, bầy khỉ mặt đỏ rớt xuống trong giếng giãy giụa mãi không thôi, mặt trăng trong giếng cũng “mất tích” luôn.
Khỉ là loài được gọi là thông minh trong các loài vật, nhưng cũng có những lúc ngu đần hết chổ nói, nhưng cái ngu của loài khỉ không đáng trách, vì nó là…khỉ. Mặt trăng rơi xuống giếng thì không có, nhưng linh hồn đắm trong tội và sẽ rơi vào trong hỏa ngục thì có thật, chuổi Mân Côi là sợi dây liên kết tâm tình của người Kitô hữu với Mẹ Maria, bám vào sợi dây này để cứu linh hồn mình và linh hồn của anh chị em, chính là việc làm thông minh và hiệu qủa hơn là bám vào ô dù của những kẻ quyền qúy ở thế gian. Bầy khỉ mặt đỏ đã chết oan uổng vì đã làm chuyện không có -cứu mặt trăng rơi xuống giếng- nên bị coi là ngu. Cũng vậy, chúng ta cũng sẽ bị coi là ngu, nếu chúng ta không dùng chuỗi Mân Côi như một phương thế đơn sơ mà hữu hiệu để cứu linh hồn mình. Mẹ Maria -Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại- đã rất “thông minh” khi nghĩ đến phương thế nhẹ nhàng mà hiệu qủa này cho con cái của Mẹ, để không một đứa con nào phải hư mất đời đời khi suy tư, chia sẻ mầu nhiệm xuống thế làm người và cứu chuộc của Con Mẹ -Đức Giêsu Kitô- trong chuổi Mân Côi.
Khắp mọi nơi và mọi lúc (trừ đang khi dâng thánh lễ) chúng ta đều có thể lần hạt Mân Côi, kết hợp với Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria, để chúng ta ngày càng trở nên hoàn hảo hơn trong đời sống thiêng liêng, và tốt đẹp hơn trong cuộc sống đời thường.

53. Lễ Đức Mẹ Mân Côi
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên ‘chiều kích Thánh Mẫu’ của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng”. Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
“CÁC CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN”(Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: ” Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế “(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: ” Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng”. Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “ phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi “. Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần.”Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…”
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: ” Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con”.
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
“Lạy Chúa,…xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).

54. Lễ Mẹ Mân Côi
MAI KHÔI: BÔNG HỒNG ĐẸP, VIÊN NGỌC QUÍ.
(Suy niệm của Lm. Anrê Đỗ xuân Quế)
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.
Nguồn gốc lễ Mai khôi
Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi
Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.

55. Lễ Mẹ Mân Côi
Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi.
“HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY”
* Câu hỏi gợi ý
1. Đức Ma-ri-a có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Ma-ri-a cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Ma-ri-a đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Ma-ri-a giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Ma-ri-a, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “XIN VÂNG = FIAT!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày.” (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi”.
Còn cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân.” Và “Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Ma-ri-a. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Ma-ri-a, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.

56. Vị Thánh Của Kinh Mân Côi
Đaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Đaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Đaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.
Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Đaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Đức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Đaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Đaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.
Vào năm 1216, Đức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Đaminh sámg lập mang tên “Dòng anh em giảng thuyết” thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Đaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Đaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.
Trong suốt cuộc sống, Đaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Đức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha Đaminh qua đời tại Bologna bên Italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Đức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Đaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Đức Maria. Đức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Đaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Đaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Đaminh và nói: “Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta”. Nhìn kỹ, Đaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.
Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Đaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý tưởng mà dòng Đaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Đó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.

57. Kinh Mân Côi
Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt điêu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trởvề cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?
Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.
Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?
Cha Lacordaire nói:
– Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
– Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.
Rồi anh ta kể tiếp:
– Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.

58. Lễ Mẹ Mân Côi
(Suy niệm của Lm Nguyễn Quang Duy)
CHUỖI MAI KHÔI TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
1. Tâm điểm của Phụng Vụ hôm nay
Hôm nay là ngày Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Ý Hội Thánh mừng lễ được gợi lên trong ba bài đọc. Lướt qua một lần đọc, ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh Chúa Giêsu.
Bài đọc 1 viết về hoàn cảnh khai sinh Hội Thánh: Chúa Giêsu về trời, dặn dò kỹ lưỡng các Tông Đồ và Môn Đệ phải ở lại Giê-ru-sa-lem đợi chờ Thánh Thần được ban xuống. Cộng đoàn tiên khởi đang sốt sắng cầu nguyện cùng với Đức Ma-ri-a. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu”. (Cv 1, 14)
Qua bài đọc 2, Thánh Phaolô kể về Ơn Cứu Độ được ban xuống, ơn làm con cái Chúa được xác định qua việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ sinh hạ Đấng Cứu Độ, cách nào đó ta có thể hiểu Thiên Chúa mở cửa Trời bước xuống cứu độ trần gian. Cửa đó là Đức Ma-ri-a. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4–5).
Bài Tin Mừng lộ rõ thái độ Thiên Chúa chúc phúc cho người Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng cứu độ, một cách quá đại độ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28); “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà…” (Lc 1, 35), nhưng cũng rất tôn trọng. Và cuối cùng, người phụ nữ ấy là Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn vâng phục ý Chúa, không phải vì bị bắt buộc mà Mẹ tự do ưng thuận, vì Mẹ quá kính trọng Chúa, buông mình trong tay Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói (Lc 1, 38).
Như vậy ta có thể đi đến ý tưởng này là Phụng Vụ hôm nay mừng Đấng Cứu độ chúng ta, trong chương trình yêu thương của Chúa Cha hiệp với Chúa Thánh Thần, đã tuyển chọn Đức Ma-ri-a để làm mẹ Người. Vì thế Hội Thánh hướng lòng chúng ta ngưỡng mộ Đức Ma-ri-a, để cám ơn Thiên Chúa, và nhắc nhở cho chúng ta con đường đón nhận ơn Cứu độ hữu hiệu.
2. Lễ Đức Mẹ Mai Khôi.
Giữa muôn loài hoa khoe sắc của Vườn Hoa Thiên Chúa, nổi bật Hoa Hồng Mai Khôi chính là Mẹ Ma-ri-a. Bước vào vườn hoa, khách tham quan cứ xúm xít tắc lưỡi trầm trồ bên hoa khôi, Chủ Vườn chúm chím cười! Trong lịch sử Hội Thánh, việc lần chuỗi Mai Khôi cũng tương tợ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Chúa đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!”
Điệp khúc vui mừng kính chào Mẹ của tín hữu là tràng chuỗi Mai Khôi. Suốt dòng truyền thống, lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét đã được kéo dài và lặp đi lặp lại nơi miệng tín hữu, như lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Rồi từ đó chuỗi Mai Khôi hình thành, được cổ võ và truyền bá, từ thế kỷ 15. Khi Kitô giáo bị lâm nguy, Lòng Tin bình dân gán cho Kinh Mai Khôi sức mạnh giải thoát nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Nên trong lúc có xung đột giữa Hồi Giáo và Kitô giáo, thì việc lần chuỗi Mai Khôi càng được thực hành sốt sắng để xin Mẹ Ma-ri-a cầu bầu cho chấm dứt chiến tranh. Và để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Thánh Giá trên quân Thổ-nhĩ-kỳ ở vịnh Lepanto ngày 7.10.1971, lễ Đức Mẹ Mai Khôi được thiết lập do Đức Giáo Hoàng Pi-ô 5 năm 1572 bởi Sắc Chỉ Salvatoris Domini. Lễ này sau Công Đồng vẫn còn giữ cho đến nay.
3. Kinh Mai Khôi, bản toát yếu sách Tin Mừng
Kinh Mai Khôi dẫn đưa chúng ta đến việc chiêm niệm Mầu Nhiệm Cứu Độ trong đó Mẹ Ma-ri-a đã gắn bó chặt chẽ với công trình của Chúa. Như ta biết, trung tâm chiêm ngắm của Chuỗi Mai Khôi là Chúa Giêsu, dầu chúng ta lặp đi lặp lại những lời nói cùng Mẹ… thì cũng như Mẹ, những kỷ niệm về Con Mẹ làm thành chuỗi suy niệm liên tục trong đời Mẹ. Nhưng việc nhắc đến Danh Giêsu cũng liên tục trong lời kinh trở thành trọng tâm cho việc chiêm niệm. Khẩn cầu với danh thánh Giêsu là đường lối cầu nguyện đơn sơ nhất và phổ biến nhất có thể xử dụng ở mọi nơi mọi lúc.
Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương xuyên suốt lịch sử hằng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi”. Tên gọi ấy chứa đựng cả Thiên Chúa, cùng với tất cả chương trình tạo dựng, cứu độ của Thiên Chúa. “Kinh Mai Khôi thuộc về truyền thống tốt đẹp và đáng ca ngợi nhất của chiêm ngưỡng Kitô giáo. Được phát triển bên Tây Phương, đó là một hình thức cầu nguyện suy tư điển hình, tương ứng cách nào đó với lời kinh của con tim hay lời kinh kêu tên Chúa Giêsu của tín hữu. Đức Phaolô 6 trong Tông Huấn Recurrens Mensis October đã viết: “Chuỗi Mai Khôi hầu như là một bản tóm lược Phúc Âm và là hình thức đạo đức của Hội Thánh”.
4. Thông hiệp với Đức Ma-ri-a chiêm ngắm Đấng Cứu Độ
Mẹ Ma-ri-a không ngừng đặt chúng ta trước các Mầu Nhiệm của Con Mẹ và dạy chúng ta chiêm ngưỡng bằng tâm trí của Mẹ. Không ai biết Đức Kitô bằng Mẹ Ma-ri-a. Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong sự thông hiệp với Mẹ là cách thế học hỏi từ Ngài để hiểu Đức Kitô. Khi chiêm ngưỡng mỗi mầu nhiệm, Mẹ mời gọi chúng ta hành động như Mẹ: “Xin vâng” (Fiat). Lý do ta cần suy niệm ơn cứu độ hiệp thông với Mẹ, là vì mục đích đời sống theo Chúa là muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
Việc này đòi hỏi ta phải luôn chiêm ngắm Chúa Giêsu, mà tốt hơn hết là ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, như Mẹ Ma-ri-a suốt đời chiêm ngắm Con mình. Những lời nói việc làm của Chúa đã làm cho Mẹ giữ lấy và suy đi gẫm lại trong một tiến trình của Đức Tin, nên ta không lấy đâu làm mẫu mực đời sống Đức Tin cho bằng chọn Mẹ Ma-ri-a. Trong đời sống chiêm ngắm việc Cứu Độ, Mẹ cũng luôn vui mừng khiêm tốn mà chúc tụng ngợi khen Chúa vì những kỳ công người đã làm cho Mẹ và qua Mẹ, cho nhân loại. Có tâm tình nào bằng tâm tình Magnificat và Fiat của Mẹ.
Ngày qua ngày trong cuộc đời tại thế này, ta chiêm ngắm Chúa cùng với Mẹ, nhìn Chúa bằng con tim của Mẹ, và nhìn Mẹ, yêu mến Mẹ để ngày càng trở nên giống Mẹ. Giống Mẹ về đời sống vâng phục Đức Tin, giống Mẹ về tinh sạch trong lòng, giống Mẹ về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, giống Mẹ hằng là con thảo của Chúa Cha, giống Mẹ luôn ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần.
Nói tắt một lời, đến cùng Mẹ chiêm ngắm Mẹ là ta được ngâp lặn trong sự hiệp thông với Chúa Ba ngôi, là bước chân vào Thiên Đàng; vì thế cho nên ai đọc và suy niệm kinh Mai Khôi thường cảm thấy sự an vui của tâm hồn, vì từ đó Đức Tin mình luôn đuợc toi luyện nhờ hình ảnh của Chúa mình chiêm ngắm. Có Chúa ở cùng như Mẹ thật là có phúc, có Chúa là có quyền năng của Chúa, làm gì ta còn sợ hãi bị bắt nạt bởi quyền lực sự dữ, từ bây giờ và cho đến sinh thì.
Lần chuỗi Mai Khôi, ta đi từ hột này sang hột khác thành một tràng. Trường đời là cả một tràng chuỗi biến cố và sự việc tiếp nối liên tục, cần có Mẹ cùng đi, cần có Mẹ nâng đỡ tiếp sức. Đối với ơn cứu độ Chúa đã thương ban dư tràn nơi Đức Giêsu Kitô, cũng từng bước từng bước suốt cuộc đời ta theo gương Mẹ mà đón nhận.
5. Thực hành trong Năm Mai Khôi
Việc đọc kinh Mai Khôi được Đức Giáo Hoàng đương kim xác nhận là việc đạo đức xuyên suốt cuộc đời của ngài. Và cho tới giờ này, trong địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn là Totus tuus: Tất cả cho Mẹ. Trong dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, ngài đã ra một Tông Thư nói về Kinh Mai Khôi, trình bày một cách chi li, và đầy xác tín về công việc đạo đức này và Ngài kêu gọi toàn thể Giáo Hội hãy yêu thích đọc kinh Mai Khôi, ngài còn đề nghị cả một năm từ 7.10.2202 đến 7.10.2003 là một Năm Mai Khôi, để cám ơn Chúa với Ngài và Ngài lưu ý chúng ta quan tâm hai ý cầu nguyện xét thấy là cần thiết hàng đầu, đó là cầu nguyện cho thế giới hòa bình và cầu nguyện cho các gia đình. Quả vậy, bước sang thiên niên kỷ thứ 3, đã xảy ra nhiều cuộc chiến đe dọa toàn cầu. Cũng thế, hiện nay gia đình bị xói mòn bởi khủng hoảng của xã hội, làm cho căn bản gia đình đang bị lung lay.
Còn ít ngày nữa thôi là hết Năm Mai Khôi mà Đức Thánh Cha mời gọi. Không biết suốt 11 tháng qua chúng ta có rục rịch gì cho lời mời gọi này không. Vậy hôm nay mừng Lễ Mẹ Mai Khôi, tôi gợi lại ý thức của mọi ngưỡi về hiệp thông Hội Thánh và vâng phục ý Cha chung, để toàn thể tín hữu rập một tiếng đồng thanh kêu khấn trước tòa Chúa cùng với Mẹ và nhờ Me, cho hòa bình thế giới, cho gia đình sống theo ý định Thiên Chúa từ đầu tạo dựng, mà Đức Giêsu đã dùng ân sủng Cứu Độ của Người để phục hồi.
Gia đình ngày nay coi như qúa bận rộn với nhiều công việc, cha mẹ con cái khó có thời gian đoàn tụ. Có lẻ chỉ có giờ đoàn tụ được là chiều tối ngồi trước Tivi. Và lúc đó mọi người trong gia đình như chỉ đối thoại hay tiếp xúc với những gì xuất hiện trên màn hình. Chớ gì trong thời gian ấy, gia đình tắt Tivi khoảnh khắc, ngồi chung trước bàn thờ, lần hạt chung với nhau y như coi Tivi, nhưng ở đây mọi người sẽ nhìn xem thấy Chúa, với những kỳ công của Người đối với Mẹ và đối với nhân loại.
Và tôi xin kết thúc bằng lời của Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô 2: “Gia đình mà đọc chung Kinh Mai Khôi tạo nên được điều gì đó của bầu khí gia đình Na-da-rét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm, họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, họ đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, họ kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.

59. Lễ Mẹ Mân Côi
SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA KINH MÂN CÔI
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Câu chuyện Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a giúp chúng ta nhận biết tình thương và sự trung tín của Thiên Chúa trong việc thực hiện lời hứa cứu độ loài người. Thiên Chúa luôn đi bước trước bằng việc ban ơn cứu độ và muốn cho loài người đón nhận ơn ấy. Qua câu chuyện truyền tin hôm nay, thái độ lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn “Xin vâng” của Đức Ma-ri-a chính là thái độ mà các tín hữu phải làm khi đọc kinh lần hạt trong tháng Mân Côi này
CHÚ THÍCH:
– C 26-27: + Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng: Cách đây sáu tháng, ông Da-ca-ri-a đã được Sứ thần Gáp-ri-en hiện đến truyền tin khi ông đang thi hành chức vụ tư tế trong Đền thờ. Sứ thần hứa với ông rằng bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một con trai. Sứ mệnh của nó là dọn đường cho Đấng Thiên Sai.. Quả vậy, bà Ê-li-sa-bét đã có thai trong lúc tuổi già. Bà đã ở trong nhà không tiếp xúc với ai suốt 5 tháng trời (x. Lc 1,5-25). Đến tháng thứ sáu thì Sứ thần Gáp-ri-en tiếp tục được sai đến truyền tin cho Trinh nữ Ma-ri-a. + Gáp-ri-en: Là một trong bảy Tổng lãnh thiên thần (x. Tb 12,15), trong đó ba vị được nêu rõ tên trong Cựu ước là: Mi-ka-en, Ra-pha-en, và Gáp-ri-en. Tên của các vị này có ý nghĩa phù hợp với sứ mệnh của mỗi vị như sau: Mi-ka-en nghĩa là “Ai bằng Thiên Chúa?” (Đn 10,13-21;12,1), Ra-pha-en nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” (Tb 3,17) và Gáp-ri-en nghĩa là “Anh hùng của Thiên Chúa” (x. Đn 8,16). + Trinh nữ: hay thiếu nữ, là một cô gái chưa lấy chồng. Riêng về đức trinh khiết của Đức Ma-ri-a đã được gián tiếp đề cập đến qua câu ngài thưa với Sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Theo lời tuyên sấm của Ngôn sứ I-sai-a thì: Việc một hài nhi do một bà mẹ đồng trinh thụ thai là dấu chỉ của Đấng Thiên Sai (x. Is 7,14). + đã đính hôn: khi đính hôn, Giu-se và Ma-ri-a đã được luật pháp công nhận là vợ chồng, và con cái sinh ra trong thời kỳ này là con chính thức. Tuy nhiên, theo phong tục Do thái thì việc kết hôn chỉ hoàn tất khi bên họ đàng trai tổ chức lễ cưới để đón rước cô dâu về nhà chồng (x. Mt 1,18). + thuộc nhà Đa-vít: chi tiết này thêm vào nhằm chứng minh Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế thuộc hoàng tộc Đa-vít, để ứng nghiệm lời các Ngôn sứ đã tiên báo như: Người phát xuất từ gốc tổ phụ Giêsê là cha của vua Đa-vít (x.1 Sm 16,3.12); Người sẽ sinh ra tại Bê-lem là quê hương của vua Đa-vít (x. mk 5,1). + Ma-ri-a: hay my-ri-am là tên gọi của nhiều thiếu nữ Do thái đương thời. Để phân biệt khi trùng tên, người ta thường thêm một biệt danh sau tên gọi. Chẳng hạn: Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Lc 8,2-3); Ma-ri-a Bê-ta-ni-a (x. Lc 10,39); Ma-ri-a mẹ Gia-cô-bê và Giô-xép (x. Mt 27,56); Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Ga 19,25); Ma-ri-a mẹ Gio-an (x. Cv 12,12) và Trinh nữ Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu (x. Ga 19,25).
– C 28-29: + “mừng vui lên”: Đây không phải là kiểu chào thông thường của người Do thái, nhưng là lời chào trong những trường hợp đặc biệt, dành riêng cho những người được gặp Thiên Chúa (x Dcr 9,9). + “đầy ân sủng”: một tước hiệu dành riêng cho Ma-ri-a, một người trong sạch vẹn toàn. Ngài đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội và được Chúa luôn ở cùng. + “Bà bối rối và tự hỏi”: khác với thái độ “bối rối sợ hãi” của Dacaria (x. Lc 1,12), Ma-ri-a chỉ ngạc nhiên và băn khoăn về ý nghĩa của Lời Chúa vừa được Sứ thần mặc khải (x. Lc 1,34 và 2,19).
– C 30-33: + Này đây Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu: Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a biết về sứ mệnh làm mẹ của Hài nhi Giêsu. Giêsu nghĩa là “Cứu Chúa” (x. Mt 1,21) hay là “Đấng Cứu Thế” (x. Lc 2,11). + “Con Đấng Tối Cao”: Đây là tước hiệu thường được áp dụng cho các vị vua dòng tộc Đa-vít. Sứ thần ám chỉ Đức Giêsu là Vua thuộc nhà Đa-vít. Người sẽ lên ngôi cai trị dân Ít-ra-en, và triều đại của Người sẽ vững bền mãi mãi.
– C 34: + so sánh thắc mắc của Ma-ri-a với thắc mắc của Dacaria (x. Lc 1,18): Tuy cả hai cùng đưa ra câu hỏi, nhưng phát xuất từ hai tâm trạng khác nhau: câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự hoài nghi về quyền năng Thiên Chúa, nên ông đã bị phạt câm, không nói được. sự cấm khẩu này là dấu chỉ cho ông thấy việc bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh con là điều chắc chắn sẽ xảy ra (x. Lc 1,20). còn lời thắc mắc của Ma-ri-a thì biểu lộ lòng tin: Ma-ri-a muốn tìm biết rõ thánh ý Chúa thế nào để xin vâng. do đó, Ma-ri-a đã được Sứ thần ca tụng là đấng “đầy ân phúc hằng làm đẹp lòng Thiên Chúa” (x. Lc 1,30) và bà Ê-li-sa-bét cũng khen ngợi Ma-ri-a là người “diễm phúc” vì đã tin Lời Chúa phán sẽ được thực hiện (x. Lc 1,45).+ “Việc ấy xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến người nam!”: “biết” theo nghĩa Thánh Kinh có nghĩa là “sự giao hợp vợ chồng”. Thắc mắc của Ma-ri-a ở đây không chứng minh Ma-ri-a đã khấn hay có ý khấn giữ mình đồng trinh, vì động từ “biết” ở đây thì hiện tại. Qua câu này, Ma-ri-a chỉ thắc mắc là: làm sao thực hiện được việc thụ thai ngay bây giờ được, khi mà Ma-ri-a mới chỉ đính hôn với Giu-se để nên vợ chồng về luật đời, chứ chưa được Giu-se tổ chức lễ cưới đón rước về nhà chồng như phong tục Do thái?
– C 35: + Sứ thần giải thích cho Ma-ri-a hiểu rằng: Vì được Chúa tuyển chọn để làm mẹ Đấng Thiên Sai, nên Ma-ri-a sẽ được thụ thai cách đặc biệt nhờ quyền năng Thánh Thần, đúng như I-sai-a đã tuyên sấm về việc Đấng Cứu Thế sẽ do một trinh nữ thụ thai và sinh hạ (x. Is 7,14). + “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”: Kiểu nói “rợp bóng” nhắc lại sự kiện xảy ra vào thời Xuất hành, khi dân Do thái đi trong hoang địa trên đường về Đất Hứa. Bấy giơ Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người, qua hình ảnh của một cột mây rợp bóng che phủ nhà tạm và lều hội ngộ (x. Xh 40,34-38). Rợp bóng cũng ám chỉ sự bang trợ của Đức Chúa. Như chim phượng hoàng giang rộng đôi cánh để bao phủ che chở đàn chim con, thì Thiên Chúa cũng giang rộng tay hùng mạnh để bang trợ Ít-ra-en là con dân của Người (x. Tv 17,8). + “Đấng thánh” sắp sinh ra sẽ là “thánh”: “Thánh” nghĩa là thuộc về Thiên Chúa. Hài nhi sắp sinh sẽ được hiến “thánh”, được dâng cho Thiên Chúa để chu toàn sứ mệnh cứu thế.
– C 36-37: + kìa Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Bà, tuy đã già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Để cho Ma-ri-a thấy quyền năng cao cả của Thiên Chúa, Sứ thần đã báo cho Ma-ri-a biết tin về bà chị họ Ê-li-sa-bét: tuy đã cao niên và hiếm hoi, thế mà cũng đã được Thiên Chúa cho thụ thai con trai, đến nay thai nhi đã được sáu tháng rồi.
– C 38: + “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa”: khi tự nhận là “nữ tỳ của Chúa”, Ma-ri-a đã biểu lộ một nhân đức khiêm nhường và một lòng tin yêu sâu xa đối với Thiên Chúa. + “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói”: Qua câu này, Ma-ri-a đại diện nhân loại để đón nhận ơn cứu độ do Thiên Chúa ban. Thực vậy, ngay sau lời thưa “xin vâng” này, Thánh Thần đã tác động làm cho Trinh nữ Ma-ri-a thụ thai mà không cần phải tri giao vợ chồng (x. Lc 1,34). Rồi Ngôi Lời “đã xuống thế làm người”, nhập vào bào thai ấy để thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23). Như vậy, Đức Giêsu chỉ có một Ngôi là “Ngôi Con” hay “Ngôi Lời” Thiên Chúa, nhưng lại có hai bản tính là Thiên Chúa và người phàm.
CÂU HỎI:
1) Gio-an Tẩy Giả hơn Đức Giêsu bao nhiêu tuổi?
2) Thánh kinh kể tên 3 vị Tổng lãnh thiên thần là những vị nào? Tên gọi của mỗi vị có nghĩa thế nào?
3) Câu nói nào của Đức Ma-ri-a cho thấy ngài là thiếu nữ đồng trinh? Tại sao phải nhấn mạnh đến sự kiện đồng trinh trong việc Đức Ma-ri-a thụ thai Hài Nhi Cứu Thế Giêsu?
4) Việc kết hôn giữa thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a làm cho hai người nên vợ chồng thật hay chỉ là vợ chồng giả để che mắt người đời?
5) Tin Mừng muốn ám chỉ gì khi viết Giu-se “thuộc nhà Đa-vít”?
6) Hãy kể ra một số tên gọi Ma-ri-a trong Tin Mừng kèm theo tên phụ. Thêm tên phụ sau tên gọi như vậy nhằm mục đích gì?
7) Khi chào kèm tước hiệu “đầy ân sủng” của Sứ thần nhằm ám chỉ đặc ân nào trong 4 đặc ân Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a?
8) Tên gọi Giêsu mà Sứ thần ra lệnh cho Ma-ri-a đặt cho con trẻ mang ý nghĩa thế nào?
9) Tước hiệu “Con Đấng Tối Cao” được gán cho Hài nhi Giêsu có ý nghĩa thế nào?
10) Thắc mắc của ông Da-ca-ri-a trong Đền thờ (x Lc 1,18) và thắc mắc của Ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay có giống nhau không? Ông Da-ca-ri-a và Đức Ma-ri-a đã gặp sự cố gì sau lời thắc mắc?
11) Khi nói “quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà”, Sứ thần muốn ám chỉ điều gì?
12) Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể xảy ra vào lúc nào trong biến cố Truyền tin?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Bấy giờ Bà Ma-ri-a nói: ”Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả. Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,46.49).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh chữa lành của chuỗi kinh Mân Côi:
Cách đây ít lâu, tạp chí Reader’s Digest có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ TÊRÊXA CALCUTTA và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến máy bay từ CHRITIAMY về THANASITY, thương gia trẻ tên là JIM CAISO ngồi kề bên Mẹ TÊRÊSA và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:
– Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:
– Thưa không.
Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:
– Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Tôi có cảm tưởng như mình đã được gặp một người nữ tu đích thực của Chúa”.
Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn và nói:
– Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.
Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và đã được khỏi bệnh. Giờ đây chị trả lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ được cho người nào khác. Trong thời gian đó, bà chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng tinh thần sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể lại rằng:
– Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.
Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy và đều được ơn lành như ý.
Jim suy nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, tràng chuỗi có sức mạnh giúp tất cả những ai mang tràng chuỗi ấy canh tân tâm hồn và đã nhận được ơn do việc canh tân mang lại. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh đều vui vẻ cho mượn, và luôn căn dặn họ: “Khi nào không cần dùng nữa thì vui lòng cho tôi xin lại, vì có thể sẽ có người khác cần đến tràng chuỗi ấy”.
Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa Calcutta, và Jim hay chia sẻ với bạn bè như sau: “Mẹ Têrêsa đã mang tất cả hành lý của Mẹ chỉ trong một cái xách tay nhỏ, Tôi cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của mình được đơn giản hơn. Tôi luôn nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác”.
2) Đức tin của Phun-tơn Ao-dơ-lơ (fulton oursler) nhờ Mẹ Maria:
vào một buổi chiều đông lạnh giá, Phun-tơn, một người đã mất đức tin và bỏ không đến nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn nan giải. khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ trước tượng Đức Mẹ. Sau một hồi im lặng, tự nhiên Phun-tơn cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin Mẹ giúp con thêm đức tin”. Ngay lúc đó Phun-tơn cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác ái.
3. THẢO LUẬN:
1) Hai câu chuyện trên cho thấy chuỗi kinh mân côi có vai trò nào trong việc chữa lành bệnh tật và việc trở lại với Chúa của ông Phun-tơn?
2) Ngày nay, các tín hữu chúng ta sẽ làm gì để thánh hóa bản thân và xây dựng Hội Thánh, nhờ ơn Chúa giúp và sự phù trợ đắc lực của Mẹ Ma-ri-a?
4. SUY NIỆM:
1) Vai trò của Mẹ Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa:
Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta một Đấng Cứu Độ duy nhất là Chúa Giêsu. Nhưng bên cạnh Đức Giêsu, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta một bà mẹ hiền đầy tình thương và tích cực cộng tác với Đức Giêsu trong công cuộc cứu độ loài người là Thánh Mẫu Ma-ri-a.
Thực vậy, Mẹ Ma-ri-a luôn yêu thương và cầu bầu cho những ai đang gặp khốn khó như Mẹ đã dạy các người giúp việc hãy làm theo lời Đức Giêsu tại tiệc cưới thành Ca-na (x Ga 2,1-11). Mẹ đã được chính Chúa Giêsu trăn trối làm Mẹ của Hội Thánh mà tông đồ Gio-an là đại diện, trước khi Chúa tắt thở trên thập giá (x Ga 19,26-27);
Mẹ cũng thi hành nhiệm vụ của một bà mẹ hiền khi hiệp cùng Hội Thánh sơ khai cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống sau khi Chúa Giêsu lên trời (x Cv 1,14).
2) Sức mạnh của Kinh Mân Côi trong các biến cố lịch sử của Hội Thánh:
Trong lịch sử Hội Thánh, mỗi khi con thuyền Hội Thánh gặp cơn phong ba có nguy cơ bị chìm đắm, chúng ta lại thấy có bàn tay trợ giúp của Mẹ Ma-ri-a.
Vào thế kỷ 12, thánh Đa-minh đã được Đức Mẹ hiện ra ban cho phép lần hạt Mân Côi, như một thứ vũ khí thiêng liêng nên đã chặn đứng được làn sóng lạc giáo An-bi-doa ở Miền Nam nước Pháp đang đe dọa tiêu diệt Hội Thánh.
Rồi dưới triều đại Đức Thánh Cha Piô V, cũng nhờ phép lần hạt Mân Côi mà Hội Thánh một lần nữa lại tránh được làn sóng xâm lược của đạo quân Hồi Hồi tại vịnh Lê-păng vào đầu thế kỷ 16.
Ngày nay, Đức Ma-ri-a trở thành sứ giả được Thiên Chúa sai đến đã hiện ra tại nhiều nơi trên thế giới vào nhiều thời điểm khác nhau, để nhắc nhở Hội Thánh đi đúng đường lối của Chúa Giêsu và giúp các tín hữu cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến. Ta có thể kể ra một số địa danh Mẹ đã hiện ra như: Lộ Đức (Pháp), Pha-ti-ma (Bồ Đào Nha), La Vang (Việt Nam), Mễ du (Nam Tư)…
3) Việc tông đồ truyền giáo hữu hiệu nhờ dựa vào kinh Mân Côi:
Thực ra, việc biến đổi lòng những kẻ tội lỗi và vô tín để họ quay về nhận biết tôn thờ Thiên Chúa, và việc xóa bỏ các tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, đĩ điếm, cướp giật…trong đời sống mỗi người sẽ khó lòng thực hiện thành công nếu chỉ dựa vào khả năng giới hạn của chúng ta. Tuy nhiên điều tưởng chừng không thể thực hiện ấy lại không khó chút nào đối với Thiên Chúa, vì: “Không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37).
Vậy để việc tông đồ truyền giáo đạt được kết quả, các tín hữu chúng ta cần noi gương Mẹ Ma-ri-a kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu (x Ga 15,5). Rồi cùng với Mẹ, chúng ta sống đức Tin bằng việc thực thi đức Cậy và đức Mến trong cuộc sống đời thường như Mẹ khi xưa. Kinh Mân Côi chính là phương cách hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu và Đức Mẹ để chiến thắng ba thù là ma quỷ thế gian và tính xác thịt của mỗi người.
4) Canh tân kinh Mân Côi bằng Lời Chúa với lời cầu kèm theo việc lành:
Tuy nhiên, việc đọc kinh Mân Côi chỉ mang lại hiệu quả tích cực nếu chúng ta biết suy niệm 20 biến cố Vui Sáng Thương Mừng trong cuộc đời Chúa Giêsu kèm theo lời cầu nguyên quyết tâm sống theo gương Chúa làm và lời Người dạy, như Mẹ đã làm xưa: “Còn Maria thì ghi nhớ những sự kiện đó và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19). Mỗi ngày chúng ta hãy thực hành các việc tốt cụ thể kèm theo đọc một chục kinh Mân Côi theo một trong 20 mầu nhiệm. Nhờ đó chúng ta sẽ ngày một nên tốt hơn và có thể chu toàn được sứ vụ loan báo Tin Mừng đã được Chúa Phục Sinh trao cho Hội Thánh trước khi lên trời.
TÓM LẠI: Nhờ quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy noi theo gương mẫu và lời dạy của Người như Mẹ Ma-ri-a, chắc chắn chúng ta sẽ làm được những việc lạ lùng kỳ diệu vượt quá khả năng giới hạn của mình. Vì bấy giờ chúng ta làm không bằng sức riêng, nhưng bằng sức mạnh của ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu đắc lực của Mẹ, như lời thánh Phao-lô dã dạy: ”Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Chúng ta cũng sẽ noi gương Mẹ Maria ca tụng ngợi khen tình thương cứu độ của Thiên Chúa trong bài kinh Ma-nhi-phi-cát: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1,46).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa. Mỗi lần gặp phải những khó khăn hoạn nạn xảy tới, chúng con thường chỉ biết kêu trời trách đất, hoặc tệ hơn lại tìm đến với mê tín dị đoan như coi bói toán, cầu cơ, tin đồng cốt… để tìm sự giúp đỡ an ủi, đang khi lẽ ra chúng con phải cậy vào ơn Chúa trợ giúp và sự phù trợ của Mẹ Ma-ri-a, như Mẹ đã cầu bầu cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa. Xin Chúa giúp chúng con biết nghe lời Mẹ dạy là hãy lắng nghe Lời Chúa Giêsu, tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn xin vâng như các người giúp việc trong tiệc cưới xưa đã làm.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

60. Hoa quả lòng lời kinh Mân Côi
(Suy niệm của Huệ Minh)
Ta dừng lại một chút để nhìn lại lịch sử, ý nghĩa của Kinh Mân Côi
Ngày 07-10-1571, sau kỷ niệm ghi dấu cuộc chiến thắng quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tại vịnh Lépante nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Chính vì vậy, Đức Thánh Piô V dạy cộng đoàn dân Chúa rước kiệu Mẹ trọng thể. Không chỉ thế, Đức Thánh Piô V thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.
Và rồi đến đời Đức Grêgôriô XIII, theo lời dòng Đaminh đệ trình xin đổi lại ngày lễ. Ngài ra sắc lệnh ngày 1-4-1573 đổi là lễ Mẹ Mân Côi được mừng vào Chúa nhật 1 tháng 10 tại các nhà thờ tôn kính Mẹ Mân Côi.
Năm 1671, lễ này cũng được Đức Clementê X ban phép mừng khắp Giáo hội Tây ban nha. Năm 1716, sau những chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Temeswar và Corfu ở ven biển Hylạp, các giáo hữu gọi Mẹ là Mẹ chiến thắng và Đức Clêmentê XI truyền cho khắp Giáo hội đặc biệt mừng lễ Mẹ Mân Côi hàng năm. Ngày 11-9-1887, Đức Lêô XIII nâng lễ Mẹ Mân Côi lên bậc nhì với kinh lễ và kinh Phụng vụ theo phụng vụ dòng Đaminh.
Sau cùng, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Kinh Mân Côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose là hoa hồng tượng trương kinh Kính Mừng kết thành vòng hoa thiêng dâng kính Đức Mẹ như cổ thời Hylạp, và một số nước hiện nay, người ta làm vòng hoa tươi treo vào cổ trao tặng nhau. Trước kia người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Thế kỷ XII, 150 Thánh vịnh David dài quá đối với nhiều người không thể đọc được, nên người ta đọc 150 kinh Lạy Cha thay thế. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ.” Sau này Đức Sixtô IV gọi tắt là “Thánh vịnh.” Bắt đầu kinh Kính Mừng chỉ gồm có lời chào của thiên sứ Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28), rồi được thêm lời chào của bà Thánh Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42).
Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao truyền tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, đời Đức Urbanô IV, Thánh Danh “Giêsu” được thêm vào.
Lúc đó, người ta đọc 150 kinh Kính Mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính Mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính Mừng thành từng chục (10) mỗi chục một kinh Lạy Cha.
Mãi đến thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính Mừng thành 3 chỗi 50.
Cũng trong thế kỷ này, Chân phúc Alanô de la Roche hay là De Rupe thêm phần suy niệm các mầu nhiệm trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân Côi gọi là “Vòng hoa hồng”. Chân phúc Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân Côi mà Đức Mẹ đã trao truyền cho Thánh Đaminh. Chân phúc Alanô thành lập Hội Mân Côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân Côi.
Năm 1521, Cha Albertô da Castello, O.P., sửa lại mỗi kinh Lạy Cha với một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Piô V với bửu sắc “Consueverent Romani Pontifices” thêm phần thứ hai kinh Kính Mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” với kinh Sáng Danh, và ấn định kinh Mân Côi như chúng ta đọc ngày nay.
Dừng một chút để nhìn lại ý nghĩa, gốc tích của việc sùng kính Đức Mẹ, đặc biệt qua tràng chuỗi Mân Côi.
Với tràng chuỗi Mân Côi, ta bắt gặp lời của sứ thần gửi đến Đức Mẹ trong ngày sứ thần truyền tin cho Đức Mẹ như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Và, hành động của Mẹ Maria như chúng ta thấy đó là tin. Mẹ diễn tả niềm tin đó hết sức giản đơn: xin vâng!
Quả thật lời xin vâng của Mẹ quá tuyệt vời. Lời xin vâng của Mẹ như là đỉnh điểm cuộc đời, đỉnh điểm niềm tin vào Thiên Chúa.
Và, ta cũng được thấy niềm tin đó nơi cuộc đời của Abraham qua bài đọc sách Sáng Thế. Sách Sáng Thế kể như thế này: Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: “Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Hôm nay ngươi đã chọn Chúa làm Thiên Chúa, thì hãy bước đi trong đường lối Người, tuân giữ các lề luật, giới răn và huấn lệnh của Người; hãy vâng lệnh Người. Hôm nay Chúa đã chọn ngươi làm dân riêng Chúa, như Người đã phán với ngươi, thì ngươi hãy tuân giữ mọi giới răn của Người. Người sẽ làm cho ngươi được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi, như Người đã phán”.
Nghe lời của Thiên Chúa, Abram đã ra đi như những gì Chúa đã truyền dạy. Trong chuyến đi đó, có cả ông Lót đi theo.
Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai vợ ông và Lót là cháu cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ, cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.
Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: “Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi”. Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Đấng đã hiện ra với ông.
Quá tuyệt vời, chính vì tin nên Abaraham được Chúa công bố rằng ông là cha của những kẻ tin.
Tin là như vậy, tin là như thế đó, tin là để cuộc đời mình hoàn toàn trống rỗng để cho Thiên Chúa lấp đầy.
Nói thì dễ nhưng khi đáp trả niềm tin vào Chúa không phải là chuyện dễ dàng. Nhìn vào thực tại của cuộc sống ta cảm thấy niềm tin đó vẫn cứ mãi được thử thách, không chỉ mỗi ngày mà mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời.
Nhìn vào ngay như trong Giáo Hội, nhất là thời gian gần đây, ta lại thấy, lại chứng kiến, lại đau lòng để tiễn đưa những linh mục tuổi còn quá trẻ đi về lòng đất mẹ. Những con người ấy, những linh mục ấy đang phơi phới trong mình sức sống của tuổi trẻ, của năng lực thế nhưng rồi Chúa đã dừng lại cuộc đời của những vị đó lại. Qua những biến cố đó, niềm tin của chúng ta lại được mời gọi, được thử thách. Ta lại được mời gọi nếu đó là ta, ta sẽ phản ứng gì, ta phản ứng như thế nào?
Dĩ nhiên ta cũng sẽ cảm thấy sốc, cảm thấy khó chịu và có khi là cứng tin và mất lòng tin nữa. Nhưng, trong sâu thẳm những biến cố của cuộc đời, ta lại được mời gọi sống, diễn tả niềm tin như cụ già Abraham, Mẹ Maria.
Lời Kinh Mân Côi mà ta được mời gọi siêng năng đọc, ít là những lần hiện ra mà Mẹ nhắc nhở củng chính là lời mời gọi của Mẹ xin thưa với Mẹ hai tiếng xin vâng với Chúa cuộc đời của ta.
Kinh nghiệm về Kinh Mân Côi, ta bắt gặp nơi cảm nghiệm cũng như các Thánh:
Thánh Gioan Kim Khẩu: Thiên Chúa cai trị thế gian, nhưng kinh nguyện điều khiển Thiên Chúa.
Thánh Augustinô: Bất cứ lúc nào chúng ta sốt sắng đọc kinh Lạy Cha, tội mọn của chúng ta sẽ được thứ tha.
Thánh Bênađô: Kinh Kính Mừng làm cho quỷ dữ trốn chạy, hỏa ngục run sợ.
Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân Côi.
Thánh Bônaventura: Ai lơ là với Mẹ sẽ chết trong tội lỗi. Mẹ Maria chào chúc chúng ta với ơn lành, nếu chúng ta kính chào Mẹ bằng kinh Kính Mừng.
Đức Mẹ phán với thánh Mechtildê: Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa.
Thánh Giêtrudê xem thấy Chúa Giêsu đếm tiền vàng. Chúa nói: Cha đếm kinh Kính Mừng mà con đọc. Đó là tiền mà con có thể mua đường lên thiên đàng.
Thánh Tôma Kempi: Bạn hãy ân cần kính chào Mẹ bằng lời thiên sứ đã chào Mẹ, Mẹ rất hoan hỉ khi nghe lời chào ấy.
Chân phúc Alanô: Kinh Kính Mừng là một cầu vồng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân Côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ trong cuộc sống và trong giờ họ chết.
Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
Thánh Bôrômêô: Kinh Mân Côi là kinh linh thánh nhất sau thánh lễ hy tế. Các bạn hãy đọc kinh Mân Côi siêng năng bao nhiêu có thể.
Thánh Montfort: Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị kinh Kính Mừng và kinh Mân Côi, là những người có dấu bị trầm luân hỏa ngục. Không có gì có hiệu lực được lên nước Thiên Chúa bằng đọc kinh Mân Côi và suy ngắm 15 mầu nhiệm.
Thánh Phanxicô Salêsiô: Đọc kinh Mân Côi là việc thích thú nhất và là niềm vui thứ nhất của lòng tôi.
Thánh Anphongsô: Nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
Thánh Vianney: Tôi biết điều có mãnh lực hơn Thiên Chúa là người cầu nguyện làm cho Thiên Chúa nói “được”, khi Người đã nói “không được”.
Và rồi, với tâm tình của các Thánh, niềm tin của chúng ta được mời gọi và lời đáp trả do mỗi người chúng ta.