SUY NIỆM CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 33, 7-9; Rm. 13, 8-10; Mt. 18, 15-20
MỤC LỤC
1. Lợi được người anh em 4
2. Sửa lỗi người anh em 7
3. Người anh em của anh 11
4. “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” 15
5. Ngôn sứ của niềm hy vọng 21
6. Sửa lỗi anh em – ViKiNi 26
7. Sửa lỗi 30
8. Sửa lỗi 32
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 34
10. Sửa lỗi nhau 42
11. Sửa lỗi cho nhau và vì nhau 45
12. Bài thi của bà giáo O’neill 49
13. Chúa Nhật 23 Thường Niên 53
14. Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm 57
15. Cảm thương người lầm lỗi 60
16. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 63
17. Sữa lỗi cho nhau 67
18. Sửa lỗi cho nhau 70
19. Làm đẹp cho nhau 73
20. Hào quang của tha thứ 76
21. Có Thầy ở giữa họ 78
22. Có Thầy ở giữa họ 82
23. Hoà giải 86
24. Giáo Hội Chúa Kitô: Một cộng đoàn cứu độ 89
25. Nợ tình thương 92
26. Sửa lỗi cho nhau 96
27. Trách nhiệm 103
28. Nghĩa vụ yêu thương 108
29. Có tha thứ được không? 111
30. Tế nhị sửa lỗi người anh em 115
31. Cộng đồng huynh đệ 119
32. Tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi 122
33. Chúa Nhật 23 Thường Niên 124
34. Nhắc nhở cách nào? 128
35. Chu toàn bổn phận 131
36. Khi anh em sửa lỗi nhau 134
37. Đạt đến người mới 139
38. Quan niệm đức ái theo Thánh Phaolô 142
39. Sửa lỗi cho nhau 145
40. Nghệ thuật sửa lỗi 147
41. Nghệ thuật nói 152
42. Trách nhiệm liên đới 157
43. Trừng phạt hay phục hồi? 159
44. Nợ yêu thương 161
45. Biết mình biết người 165
46. Nhắc bảo. 167
47. Dân ngoại 170
48. Sinh hoạt trong đạo 173
49. Chúa Nhật 23 Thường Niên 175
50. Tương trợ 179
51. Một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ 182
52. Sửa lỗi anh em 186
53. Sửa lỗi anh em 189
54. Nghệ thuật sửa lỗi 192
55. Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị! 196
56. Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn 201
57. Chúa Nhật 23 Thường Niên 204
58. Trách nhiệm về người anh em 207
59. Chúa Nhật 23 Thường Niên 211
60. Chúa Nhật 23 Thường Niên 216
61. Dám khiển trách 219
62. Giáo Hội 221
63. Làm đẹp. 223
64. Nhắc bảo 226
65. Nhân danh Thầy 228
66. Chúa Nhật 23 Thường Niên 230
67. Nhân danh Thầy 233
68. Vẽ chân dung 236
69. Cá nhân giữa cộng đồng 239
70. Suy niệm của JKN 241
71. Chúa Nhật 23 Thường Niên 247
72. “Hãy đi sửa dạy nó” 249
73. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó 252
74. Việc sửa lỗi trong cộng đoàn 256
75. Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa 267
76. Sửa lỗi nhau thế nào 271
77. Sửa lỗi nhau 274
78. Chúa Nhật 23 Thường Niên 277
79. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 285
80. Chú giải theo Fiches Dominicales 294
81. Suy niệm của Noel Quession 301
82. Cha Ta sẽ ban cho 308
83. Anh em sửa lỗi cho nhau. 313
84. Chúa Nhật 23 Thường Niên 316
85. Tế nhị – Huệ Minh 326
86. Khó nói – Huệ Minh 332
87. Sửa lỗi theo Lời Chúa dạy 336
1. Lợi được người anh em
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Trong cộng đoàn Hội Thánh, các Kitô hữu là anh chị em của nhau (Mt 23,8) và là anh chị em với Đức Kitô nhờ biết thi hành ý Cha trên trời (Mt 12, 48-50).
Thế nhưng Hội Thánh vẫn có người lỗi phạm. Đời sống của họ nghịch với đòi hỏi của đức tin.
Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã, bởi lẽ tất cả chúng ta làm nên một thân thể. Chúng ta mang vết thương của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho thấy thái độ ta phải có trước một người lầm lỗi.
Trước hết, phải mạnh dạn góp ý. Chỉ ai yêu thực sự mới dám góp ý thẳng thắn. Nhiều khi chúng ta chỉ dám nói sau lưng. Nhiều khi chúng ta không đủ can đảm góp ý. Vì sợ người khác giận mình, vì sợ mất một số quyền lợi hay vì sợ chính mình bị góp ý. Góp ý xây dựng là một dấu chỉ yêu thương, chứ không phải là đi tìm cọng rơm trong mắt người. Nhưng phải biết cách góp ý. Cần giữ sự kín đáo và tôn trọng nhau.
Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp, thì nên đem theo vài người nữa, không phải để gây áp lực, nhưng để cho thấy tính khách quan hơn.
Nếu họ vẫn không chịu nghe, thì phải đưa ra cộng đoàn.
Nếu họ cũng không chịu nghe cộng đoàn, thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ.
Như thế góp ý có nhiều giai đoạn.
Cần tế nhị, kiên nhẫn, yêu thương, vì Thiên Chúa không muốn một ai phải hư mất, tuy Ngài cũng không muốn có gương xấu xảy ra.
Góp ý là một bổn phận của yêu thương, nhưng bản thân tôi cũng cần được góp ý.
Một cộng đoàn trưởng thành là cộng đoàn có khả năng ngồi lại để góp ý cho nhau, trong giáo xứ, trong gia đình và từng nhóm nhỏ.
Chúng ta đang sống trong tinh thần Sám Hối – Canh Tân.
Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý, cần khiêm tốn để được góp ý.
Có khi chúng ta quen sống trong bầu khí chịu đựng nhau, giữ kẽ, dĩ hoà vi quý. Như thế là duy trì một sự trì trệ kéo dài.
Mong sao mau đến ngày các Kitô hữu trên thế giới ngồi lại với nhau để dàn xếp những bất đồng và trở nên hiệp nhất như ý Chúa muốn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Góy ý và được góp ý đều là những điều khó làm và khó chịu. Có khi nào bạn thành công về chuyện này chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm nếu có?
Có thể vào năm Hai Ngàn Lẻ?, một Công Đồng Chung sẽ được tổ chức, quy tụ mọi Kitô hữu thuộc Công Giáo, Chính Thống, Tin Lành? Bạn hy vọng gì nơi một Công Đồng như vậy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa có người bạn thân là La-da-rô.
Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu.
Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn để nâng đỡ con trên đường đời.
Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt, nhưng xin hiệp nhất chúng con trong tình yêu.
Xin cho chúng con biết yêu thương nhau thật tình, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, nâng nhau dậy khi vấp ngã, phấn khởi trước những thành công, khích lệ trước một cố gắng nhỏ, và nhất là thẳng thắn góp ý cho nhau, để cùng nhau tiến bộ.
Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con, để có thể đón nhận những người bạn mới.
Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn vì chỉ muốn làm bạn với ai giống con.
Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ.
Gặp gỡ không phải chỉ là quảng đại cho đi, mà còn là khiêm nhưởng nhận lãnh.
Gặp gỡ không phải chỉ là tâm sự về mình, mà còn là lắng nghe người khác.
Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu có của mình, mà còn là nhìn nhận và đón nhận sự phong phú của tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên bạn của Ngài, nhờ đó, chúng con mãi mãi là bạn thân của nhau. Amen.
2. Sửa lỗi người anh em
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.
Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn
thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).
Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,
vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,
thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ
mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.
Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).
Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.
Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.
Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.
Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,
nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.
Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.
Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.
Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,
thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).
Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,
không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,
nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,
thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.
Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,
nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:
coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,
kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,
kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.
Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,
thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.
Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô
được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)
khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).
Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.
Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,
thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).
Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,
thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).
Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).
Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).
Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng
Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.
Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Cuộc đời chúng con
Diễn ra quanh những chiếc bàn,
Làm bằng những chất liệu khác nhau,
Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.
Nơi bàn học,
Ngài mở trí tuệ chúng con
Trước những chân trời mới,
Và dạy chúng con học đạo làm người.
Nơi bàn ăn,
Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con
Để chúng con có sức phục vụ tha nhân
Nơi bàn làm việc,
Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài
Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.
Nơi bàn thờ,
Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,
Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.
Lạy Chúa
Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,
Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,
Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.
Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng
Để tất cả trở nên con đường
Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen.
3. Người anh em của anh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm
Sống với nhau trong cộng đoàn Hội Thánh
thế nào cũng có chuyện này chuyện kia xảy ra.
Có những đụng chạm nhỏ có thể bỏ qua dễ dàng.
Đức Giêsu đòi Phêrô phải tha đến bảy mươi lần bảy (Mt 18,22).
Nhưng cũng có những lỗi, những tội gây tai hại rất lớn
cho một cá nhân, và từ đó ảnh hưởng xấu đến cả cộng đoàn.
Khi đó Đức Giêsu không khuyên các kitô hữu sống dĩ hòa vi quý,
cố chịu đựng cho qua, coi như không có chuyện gì.
Ngài khuyên chúng ta nên thẳng thắn góp ý xây dựng,
chẳng những vì lợi ích của người bị hại, và của cộng đoàn,
mà còn vì lợi ích của chính người phạm tội nữa.
Chúng ta không có quyền để cho người anh em của mình đi lạc.
Bỏ chín mươi chín con chiên để tìm con chiên lạc và đưa nó về:
đó là bổn phận của người mục tử, và của cả chúng ta (Mt 18,12).
Đức Chúa đã long trọng phán với ngôn sứ Êdêkien:
“Nếu ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ đường xấu,
…Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8).
Chúa Cha không muốn cho ai trong cộng đoàn phải hư mất.
Ngài quý từng con người, dù đó là một người bé mọn (Mt 18,14).
Như thế sửa lỗi cho người anh em là cùng làm việc với Thiên Chúa,
để giữ lại người anh em này cho cộng đoàn.
Sửa lỗi chỉ để thể hiện một điều, đó là tình yêu.
Tình yêu huynh đệ phải chi phối toàn bộ tiến trình sửa lỗi.
Câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng này dùng từ “anh em” hai lần.
Điều đó cho thấy người phạm tội nặng vẫn là anh em của tôi.
Đó không phải là kẻ thù, nhưng là người tôi không muốn mất.
Chính vì thế tôi phải kiên nhẫn bước vào một hành trình,
để giúp người anh em nhận lỗi, hoán cải và trở về nẻo chính.
Tôi phải đi nhiều bước trong hành trình này.
Từng bước một, bước nọ sau bước kia,
không vội vã dùng ngay những biện pháp mạnh mẽ.
Luôn luôn đợi chờ, luôn luôn hy vọng.
Luôn tạo cơ hội để có những cuộc gặp gỡ thân tình
và nâng niu những điểm sáng mong manh.
“Không bẻ gãy cây lau bị giập; không dập tắt tim đèn leo lét.”
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu mời chúng ta đi ba bước.
Bước một là gặp gỡ riêng tư với người anh em phạm lỗi.
Sự kín đáo cho thấy danh dự của người này được tôn trọng.
Nếu không thành công, ta mới qua bước hai.
Cuộc gặp gỡ lần này đông hơn vì có thêm một hai người nữa.
Hy vọng người phạm lỗi gặp được cái nhìn khách quan hơn.
Nhưng nếu người ấy vẫn khăng khăng không nghe,
lúc đó mới đưa ra trước cả cộng đoàn Hội Thánh địa phương.
Từ chối lắng nghe tiếng nói của Hội Thánh
là tự tách lìa, không còn coi mình thuộc về cộng đoàn nữa.
Lúc đó cộng đoàn sẽ coi người ấy như người ngoài, như dân ngoại.
Cộng đoàn Hội Thánh chẳng hề muốn mất một người anh em,
nhưng nếu người ấy cứ không nghe thì đành phải chịu (cc. 16.17).
Không nghe là khép lại với con người, cũng là khép lại với Thiên Chúa.
Bởi đó quyết định cầm buộc của Hội Thánh dưới đất
cũng là quyết định của Thiên Chúa trên trời (Mt 18,18).
Chỉ mong Hội Thánh làm mọi quyết định trong bầu khí cầu nguyện,
bình tâm phân định để tìm ý Chúa với rất nhiều tình yêu (Mt 18,20).
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rue nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
4. “Yêu thương là chu toàn Lề Luật”
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)
1. Lòng ham muốn và tình thương
Trong bài đọc 2, trích thư Roma, thánh Phao-lô nhắc lại một số điều răn căn bản liên quan cách chúng ta ứng xử với nhau: “Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp…” Và còn nhiều điều răn nữa, của Thiên Chúa và của Hội Thánh, mà chúng ta vẫn nhắc lại trước khi dâng Thánh Lễ vào ngày Chúa Nhật. Những điều răn thánh Phao-lô vừa kể, liên quan đến những hành vi ngoại tình, giết người và trộm cắp.
Tuy có lúc này lúc kia, nhưng tất cả chúng ta đều có thể giữ tốt ba giới răn này. Tuy nhiên, thánh Phao-lô còn kể ra một giới răn khác, mà ai trong chúng ta cũng “chịu thua”, đó là giới răn: “Không được ham muốn” (Rm 13, 9), bởi vì lòng ham muốn không phải là một hành vi bên ngoài, để chúng ta cố gắng xa tránh, nhưng là một khuynh hướng của nội tâm, của con tim, mà không ai trong chúng ta không có và và không ai trong chúng ta có thể làm chủ được.
* Chúng ta không có hành vi ngoại tình, nhưng lòng ham muốn, thì không thể không có. Thế mà Đức Giê-su nói trong bài giảng trên núi: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình.Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi (Mt 5, 27-28).
* Chúng ta không giết người, nhưng lòng chúng ta đầy ghen ghét muốn loại trừ người khác. Thế mà Đức Giê-su nói: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà” (c. 22) ; và thánh Gioan còn nói mạnh hơn: “Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân (x. 1Ga 3, 15) ; bởi vì, khi ghét người anh em, chúng ta loại trừ người anh em ra khỏi lòng chúng ta, chúng ta “giết” người anh em trong lòng chúng ta.
* Cũng vậy, chúng ta không trộm cắp, nhưng trong lòng chúng ta khó tránh được lòng ham muốn của cải của người khác, ham muốn điều người khác có. Chúng ta ham muốn điều người khác có, và khi chúng ta không có được, chúng ta muốn phá hủy. Bởi vì, điều chúng ta muốn có, nhưng không có được, thì người khác không được phép có.
***
Không ai giữ được, nhưng tại sao thánh Phao-lô nêu ra giới răn “không được ham muốn”? Bởi vì đó là căn nguyên của mọi hành vi vi phạm Lề Luật. Lòng ham muốn như một năng lực bị dồn nén và có thể bùng phát thành hành động vi phạm và bạo lực bất cứ lúc nào. Và những điều này vẫn xẩy ra chung quanh chúng ta, trong môi trường sống chúng ta và có khi nơi gia đình chúng ta và nơi chính chúng ta nữa. Vậy thì phải làm sao? Điều gì giúp chúng ta làm chủ lòng ham muốn, chiến thắng lòng ham muốn, loại bỏ lòng ham muốn.
Đây là một thứ bệnh của con tim, thì chỉ có phương thuốc của con tim mới chữa lành được thôi: Đó là tình thương ; và thánh Phao-lô, trong bài đọc 2, nhắc đi nhắc lại “phương thuốc tình thương”:
Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật.
Các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy (Rm 13, 8.9b-10).
Tình thương chiến thắng lòng ham muốn. Nhưng làm sao có thể yêu thương, nếu không phải chính bản thân chúng ta đã được yêu thương, đã được bao dung, đã được tha thứ, đã được thương xót. Cũng trong thư Roma, thánh Phao-lô xác tín:
Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,39 trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta (Rm 8, 38-39).
Chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên chúng ta con tim chúng ta được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng:
* Hết lòng kiên nhẫn và kiên nhẫn cho đến cùng đối với người anh em phạm tội.
* Được Đức Giê-su tin tưởng trao ban quyền bình ràng buộc và tháo cởi, nhưng không phải để kết án và giết chết, nhưng để cứu sống và tò bày tình thương và lòng thương xót của Đức Ki-tô cho mọi người.
* Và vì được Thiên Chúa yêu thương và bao dung, nên chúng ta có thể hiệp nhất với nhau trong cầu nguyện và có thể họp nhau nhân danh Đức Ki-tô. Điều làm đẹp lòng Thiên Chúa là bầu khí hiệp nhất, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một ; và Đức Ki-tô hiện diện ở giữa tương quan hiệp nhất yêu thương của gia đình và cộng đoàn của chúng ta.
Bài giảng của Đức Giê-su về Giáo Hội kết thúc, hay đúng hơn là hướng tới, với lời mời gọi tha thứ cho nhau đến “bảy mươi lần bảy” ; và sự tha thứ vô hạn chúng ta được mời gọi trao ban cho nhau đặt nền tảng và hướng tới chính ơn tha thứ vô hạn của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Như thế, chính Thiên Chúa yêu thương và bao dung chúng ta trước, nên con tim chúng ta mới được tái tạo để có thể yêu thương và bao dung nhau, và để có thể ứng xử với nhau như lời dạy của Đức Giê-su về Giáo Hội.
2. Quyền bính và hoán cải
Ngay trước đó, Đức Giê-su đã trao quyền “tháo cởi và cầm buộc” cho chính thánh Phê-rô, với tư cách là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16, 19). Nhưng ở đây, quyền bính này, được Người phát biểu với cùng những từ ngữ, lại được trao cho nhóm, nghĩa là cho Giáo Hội:
Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy (Mt 18, 18 ; x. Ga 20, 23).
Việc thi hành quyền bính được thực hiện vừa bởi một người và vừa bởi cả nhóm ; như thế, sự quân bình được hình thành. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi vượt qua bình diện tổ chức và quyền bính để nhận ra sự tin tưởng mà Đức Ki-tô đặt để nơi Giáo Hội, vì quyền ở trên trời, nhưng lại được trao hết cho những con người mỏng dòn ở dưới đất! Sự tin tưởng thật trọn vẹn, trọn vẹn đến độ trời và đất như trở nên một. Vấn đề là Giáo Hội thi hành quyền bính theo năng động nào, của trời cao được thể hiện nơi ngôi vị và nơi mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Ki-tô, để giáo huấn, làm cho lớn lên và cứu sống, hay theo năng động của đất thấp, nghĩa là thế gian, sự dữ, ma quỉ, để lên án, loại trừ và giết chết.
Một cách cụ thể khi phải đối diện với một thành viên phạm tội, là điều không thể tránh được trong đời sống đức tin của Giáo Hội: “Nếu người anh em trót phạm tội”. Nhưng thay vì dùng quyền để lên án và loại trừ, Đức Giê-su mời gọi sửa lỗi người anh em: “anh hãy đi sửa lỗi nó”. Và Đức Giê-su đề nghị cả một tiến trình rất sư phạm để giúp tội nhân hoán cải: ban đầu là cuộc gặp gỡ riêng tư và huynh đệ giữa hai người; tiếp đến, nếu tội nhân không nghe, thì thêm một hay hai người nữa; và cuối cùng, nếu tội nhân vẫn không nghe, thì Hội Thánh mới can thiệp. Và nếu tội nhân cũng chẳng nghe Hội Thánh, thì như Đức Giê-su nói: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”; bị coi là “người ngoại hay người thu thuế”, theo cách nói của Do thái giáo, điều này có nghĩa là, người này không còn thuộc về cộng đồng.
Nhưng thực ra, khi từ chối lắng nghe lời khuyên bảo đến ba lần, tội nhân đã quyết định tự loại mình ra khỏi Hội Thánh rồi. Như thế, quyền bính chỉ được dùng đến khi giải pháp đối thoại trong kiên nhẫn và đức mến đã đi tới cùng và bị từ chối.
3. Quyền bính và cầu nguyện
Trong bài Tin Mừng, khi nói về đời sống Giáo Hội, Đức Giê-su còn nói đến bầu khí hiệp nhất trong lời nguyện xin và lời đáp trả chắc chắn của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời:
Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.
Lời của Đức Giê-su vừa mang lại cho chúng ta niềm hi vọng khi nguyện xin, và vừa làm cho chúng ta nhận ra rằng, điều làm đẹp lòng Thiên Chúa, chính là bầu khí hiệp nhất trong cầu nguyện và nhờ cầu nguyện, vì chúng ta được dựng nên là một như Thiên Chúa là một ; và Đức Giê-su cũng cầu nguyện và làm tất cả mọi sự để cho chúng ta nên một: “Xin cho họ nên một, như chúng ta là một”. Xin Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta biết kiên nhẫn cùng nhau nguyện xin và hướng chúng ta tới những ơn xin làm đẹp lòng Chúa Cha, nhất là những ơn xin làm cho chúng ta nên một, như Người dạy chúng ta trong kinh Lạy Cha.
Tuy nhiên, vì lời giáo huấn của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay hướng tới việc cầu nguyện, chúng ta có thể hiểu lời của Đức Giê-su về “lời nguyện chung” còn phải là nền tảng của việc thi hành quyền bính, nhất là thi hành quyền bính trong việc sửa lỗi nhau cho nhau. Như thế, quyền bính không chỉ nhường bước cho đối thoại huynh đệ, nhưng còn phải được thực hiện, từ đầu đến cuối, trong cầu nguyện. Và cả khi tội nhân đã bị loại trừ khỏi cộng đồng, Giáo Hội vẫn được mời gọi kí thác người anh em cho lòng thương xót của Thiên Chúa và vẫn được mời gọi cầu nguyện cho người anh em ấy, tương tự như khi Người mời gọi chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù (x. Mt 5, 43-48).
***
Và trong mọi sự, nhất là trong việc thi hành quyền bính, để mời gọi hoán cải trong bầu khi cầu nguyện, Đức Giê-su mời gọi Giáo Hội “họp lại nhân danh Thầy”. “Nhân danh Thầy”, có nghĩa là, trong đời sống đức tin, Giáo Hội và từng người chúng ta được mời gọi, không chỉ nhân danh Đức Ki-tô bằng lời nói, nhưng còn mặc lấy tâm tình của Đức Ki-tô. Chính khi đó, như Đức Giê-su nói:
Thầy ở đấy, giữa họ.
Như thế, ở mức độ tận cùng và sâu xa nhất, Giáo Hội được mời gọi để cho Đức Ki-tô tiếp tục hiện hiện, lên tiếng và hành động ở giữa loài người chúng ta, để tha thứ, chữa lành, giải thoát và tỏ bày tình yêu đến cùng của Thiên Chúa Cha, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
5. Ngôn sứ của niềm hy vọng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu được trao ban ba chức năng quan trọng, đó là: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Chức năng ngôn sứ để rao giảng Lời Chúa; chức năng tư tế để thánh hoá bản thân và góp phần thánh hoá môi trường xã hội; chức năng vương đế để cộng tác trong việc quản trị và xây dựng cộng đoàn đức tin. Cả ba chức năng này làm thành vẻ đẹp của đời sống Kitô hữu. Nhờ ba chức năng này, người tín hữu giáo dân không chỉ là những thành viên thụ động, dửng dưng với những sinh hoạt chung, nhưng là những thành viên tích cực tham gia làm cho cộng đoàn Giáo Hội địa phương sinh động và phát triển.
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chức năng ngôn sứ. Như vừa nói ở trên, chức năng này giúp chúng ta loan báo Lời Chúa. Ngôn có nghĩa là Lời; Sứ là được sai đi. Người tín hữu được Chúa sai đi để nói Lời Ngài trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp khó khăn.
Lịch sử và truyền thống Do Thái giáo ghi đậm dấu ấn từ giáo huấn của các ngôn sứ. Trong Cựu ước, Chúa dùng các ngôn sứ để ngỏ lời với dân riêng được tuyển lựa. Thông điệp của các ngôn sứ mang nội dung rất phong phú: khiển trách, cảnh cáo, lên án, báo trước tai hoạ, khen ngợi, tuyên dương. Dù được sai đi để chuyển tải sứ điệp nào, các ngôn sứ đều phải trung thành với nhiệm vụ được trao. Bài đọc I hôm nay ghi lại lời Chúa căn dặn ngôn sứ Egiêkien. Ông sống và thi hành sứ vụ ở thế kỷ thứ VI trước công nguyên. Chúa nói rõ với ông: “Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel”. Chúa cũng cảnh báo: phải trung thành với sứ mạng, và phải chuyển tải thông điệp một cách trung thực, không sợ hãi. Nếu ngôn sứ tránh né không dám nói sự thật, thì chính ông phải gánh chịu những hậu quả và tai ương. Egiêkien là ngôn sứ của niềm hy vọng. Ông chuyển tải cho dân chúng giáo huấn của Chúa nói về những bộ xương khô sẽ trở lại thành những con người sống động, những nấm huyệt sẽ được mở ra và những trái tim khô cằn chai đá sẽ được thay thế bằng trái tim bằng thịt biết yêu thương. Giáo huấn của ông đã góp phần nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân Israel trong cảnh lưu đày, giúp dân chúng vững tin vào Chúa trong khi chờ đợi ngày trở về quê cha đất tổ (x.Ez chương 36 và 37).
Đối với chúng ta hôm nay là người Kitô hữu, đâu là nhiệm vụ của người ngôn sứ? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong Tin Mừng. Thánh Mátthêu đã tổng hợp trong một đoạn văn ngắn giáo huấn của Chúa ở ba lãnh vực: sửa lỗi anh em, bao dung tha thứ, và cầu nguyện cộng đoàn. Mặc dù phân chia ba nội dung, nhưng đều có chung một ý tưởng, đó là sống với tha nhân, sống cho tha nhân và cùng cầu nguyện với tha nhân. Đây chính là nhiệm vụ của người ngôn sứ: nhắc nhở người khác trong tình bác ái khi họ làm điều sai lỗi, với sự khiêm nhường và với trái tim chân thành. Cộng đoàn xã hội cũng như cộng đoàn Đức tin luôn bao gồm những người tốt và những người chưa tốt. Chẳng ai có thể tự nhận mình là đã hoàn hảo. Mỗi chúng ta còn mang nhiều khiếm khuyết, mặc dù có thể hoàn hảo ở một khía cạnh nào đó. Chính vì vậy mà mỗi khi cử hành Thánh lễ, điều đầu tiên là chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận những lỗi lầm của mình và thân thưa với Chúa: Xin Chúa thương xót chúng con!. Việc sửa lỗi anh em là một nghĩa cử của đức bác ái, nên phải được thực hiện trong tình yêu thương như Chúa đã dạy. Người tín hữu vừa có bổn phận sửa lỗi người khác, vừa phải khiêm tốn lắng nghe những lời góp ý để hoàn thiện bản thân.
Con người sống trên trần gian không như những ốc đảo riêng biệt và khép kín, theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”, nhưng liên đới với nhau và cùng chung chia hạnh phúc cũng như đau khổ. Một người sống vô trách nhiệm, hoặc không quan tâm đến ích chung sẽ làm cho những người xung quanh bị ảnh hưởng lây, giống như đại dịch Covid-19 đang hoành hành nhân loại, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn xã hội. Ngày nay người ta cũng nói nhiều đến ô nhiễm môi trường do các công ty xí nghiệp tự tiện xả rác thải hoặc do nhiều người dân không có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Xã hội không chỉ ô nhiễm môi trường trong không gian, mà còn trong lãnh vực luân lý do lối sống buông thả và coi thường đạo lý. Hậu quả là ngày càng có nhiều vụ giết người cướp của, bạo lực và thù hằn ngay giữa những thành viên trong cùng một gia đình. Những đứa trẻ vừa sinh ra đã bị chính mẹ ruột của mình giết chết hoặc bỏ rơi. Tình mẫu tử đã khô cạn và tình nhân loại cũng không còn.
“Dưới đất, anh em ràng buộc những điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Trong Tin Mừng Thánh Mátthêu, đây là lần thứ hai Chúa Giêsu nói đến “Cầm buộc” và “Tháo cởi”. Tuy vậy, dựa theo ngữ cảnh, thì hai lần Chúa nói mang ý nghĩa khác nhau. Lần trước Chúa trao quyền cho thánh Phêrô chìa khoá Nước Trời với lời tuyên bố: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,19). Qua lời này, Chúa trao cho thánh Phêrô và Giáo Hội quyền lãnh đạo đoàn chiên của Chúa, duy trì kỷ luật và giúp các tín hữu nên hoàn thiện. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nói đến sự tha thứ bao dung, như một nhân đức cần phải có nơi mỗi người tín hữu. Nếu họ cố chấp không tha thứ cho người khác, Chúa cũng sẽ không tha thứ cho họ. Lòng bao dung quảng đại đối với tha nhân là một điều kiện căn bản để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Đây cũng là ý nghĩa của lời cầu nguyện chúng ta vẫn đọc trong kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đó là nguyên tắc “gieo nhân nào gặt quả nấy” trong truyền thống Việt Nam, hoặc “đong đấu nào nhận đấu ấy” mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng. Nếu chúng ta khe khắt với anh chị em mình, thì Chúa cũng khe khắt với chúng ta.
“Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” – Thánh Phaolô quả quyết với chúng ta như thế. Vị tông đồ dân ngoại có lý, vì luật yêu thương bao trùm tất cả. Chính tình yêu nâng tâm hồn chúng ta lên với Chúa và giúp ta sống hài hòa với anh chị em mình. Thánh Augustinô cũng nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”: Cứ yêu đi rồi sẽ làm được mọi sự”. Ở nơi khác, ngài cũng viết: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo. Tình yêu có đôi mắt để thấy bất hạnh và thiếu thốn. Tình yêu có đôi tai để nghe được tiếng than thở của tha nhân”. Đó chính là hoa trái của Đức yêu thương. Tình yêu giúp chúng ta chiến thắng tất cả. Tình yêu là chu toàn Lề Luật.
Tình yêu đối với tha nhân còn là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa nhận lời chúng ta cầu xin. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thày, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”. Lời cầu nguyện chung giữa hai hoặc nhiều người là lời cầu nguyện đặt nền tảng trên tình yêu thương. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa Giêsu nhấn mạnh “Xin bất cứ điều gì” cũng được Chúa Cha nhận lời.
“Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác nhà Israen…”. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, Chúa đang đặt chúng ta làm “người canh gác”, tức là người có khả năng và có trách nhiệm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm đang rình rập: có thể đó là lối sống buông thả, coi thường luân thường đạo lý. Có thể đó là sự dửng dưng với Thiên Chúa và những giá trị tâm linh. Đó còn là những mâu thuẫn, hận thù, dối trá, lừa lọc, chỉ nhìn những lợi lộc nhất thời trước mắt mà không chú ý đến tiếng nói của lương tâm và những ích lợi lâu dài. Một cuộc sống ngay thẳng, tốt lành của người tín hữu sẽ giống như lời nhắc nhở và cảnh báo đối với những người xung quanh. Họ giống như những biển báo giao thông được đặt hai bên đường, giúp người giao thông tránh những chỗ nguy hiểm, tuân thủ những quy định, hầu đem lại an toàn và hạnh phúc cho mọi người. Như ngôn sứ Egiêkien, mỗi chúng ta hãy trở nên ngôn sứ của niềm hy vọng, chiếu rọi ánh sáng của Chúa vào những góc khuất của cuộc đời và đem niềm vui của Chúa đến cho đồng loại hôm nay.
6. Sửa lỗi anh em – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Tu thân” là nền tảng đạo đức của Nho giáo trong việc đào tạo con người hữu ích cho gia đình, đất nước và nhân loại. “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Tu thân là sửa mình, mình lại rất chủ quan dễ “thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt mình”. Đại đế Napoleon cũng nói: “Thắng mình còn khó hơn thắng vạn quân thù”. Bà Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết: “Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”. Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz. Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói: “Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai”. Capone đã tự tuyên bố: “Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”. Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả: “Ta là ân nhân của thiên hạ” (Đắc Nhân Tâm – trang 33, 35).
Phương pháp chủ quan: Tự mình sửa mình thì rất khó, cho nên cần thiết phải dùng phương pháp khách quan mới dễ dàng giúp tu thân.
Khách quan cũng có nhiều cách như người ta thường nói: “Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”.
– Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt pháp luật:
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đày biệt xứ, tử hình như thế quyền vẫn làm.
– Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả theo lối sống tự nhiên như chủ trương giáo dục của Rouseau.
Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo bản năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tâng bốc tính kiêu ngạo.
Đường lối giáo dục của Chúa là biểu lộ lòng thương yêu giúp đỡ tội nhân sửa lỗi, tôn trọng tội nhân như anh em, như bạn hữu, tôn trọng chủ quyền tự do quyết định của tội nhân; nhưng cũng rất chân thành và cương quyết loại trừ tội lỗi, không để tội lỗi lây lan ra cộng đồng. Loại trừ tội lỗi chứ không loại trừ tội nhân, vì vẫn luôn luôn cầu nguyện cho tội nhân.
Tin mừng cho chúng ta thấy vừa biết cách thức sửa lỗi anh em, vừa thấy trách nhiệm bác ái đòi buộc ta phải lo cải thiện anh em.
Để sửa lỗi anh em, trước nhất phải tế nhị, kín đáo, riêng tư khuyên bảo nhau sửa chữa lỗi lầm. Cố gắng hết sức mình mà không hữu hiệu, nhờ đến những người khôn ngoan, đạo đức, uy tín thân thuộc để khuyên bảo, hướng dẫn, chỉ rõ cái hay cái dở, cái tốt cái xấu, phải trái cho anh em theo con đường tốt lành thánh thiện và con đường cứu độ thương yêu của Đức Kitô.
Nếu nhiều người giúp đỡ hết cách, hết sức, cũng không lay chuyển được tội nhân, thì biện pháp sau cùng phải trình với Giáo hội, những vị đại diện cộng đoàn, bề trên trong Giáo hội tìm cách giáo dục bằng lời giảng dạy của Chúa, giáo lý của Chúa, luân lý của Chúa và sự thưởng phạt đời đời trong ngày phán xét.
Công đồng Vatican II đã đặc biệt đề ra con đường đối thoại trong Sắc Lệnh về Hiệp Nhất số 4 và Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay số 27 và 28 (Gaudium et Spes – Vui Mừng và Hy Vọng). Những tiêu chuẩn giúp ta biết đối thoại và tôn trọng nhân vị:
Thứ nhất là kính trọng yêu thương đối tác: dù là người tội lỗi thế nào, họ cũng được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu độ bằng giá máu Con Thiên Chúa.
Thứ đến là loại bỏ những lời nói, phán đoán và việc làm không đúng với hoàn cảnh anh em. Rồi đến trình bày rõ ràng minh bạch đúng sự thật, không úp mở, tránh né, giấu diếm hay mỵ dân.
Sau cùng là tín nhiệm: Tin lời mình nói và thiện chí người nghe. Biện pháp cực chẳng đã là kể họ như người ngoại đạo, để tránh gương xấu gương mù do tội lỗi họ gây ra. Tuy nhiên, không phải thế là hết, luật bác ái luôn luôn đòi buộc chúng ta mắc nợ họ, như lời thánh Phaolô đã nêu rõ trong Bài đọc I (Rm. 13, 8-10). Nợ thì phải trả, không trả thì mắc nợ. Luật bác ái đòi buộc chúng ta phải cầu nguyện cho họ, đòi buộc cộng đồng cầu nguyện để Chúa đến ngự giữa họ (Mt. 18, 15-20). “Chỉ nhờ Đức Kitô, Con Thiên Chúa, mới hòa giải họ với Người” (Allêluia).
“Hợp nhau cầu nguyện” đồng thời “mọi người hãy kiểm điểm mình có trung thành” với nhiệm vụ chu toàn luật Chúa chưa: Biết đâu vì lỗi nhiệm vụ ta đã làm cho anh em phạm tội như Chúa đã nhắc nhở tiên tri Êgiêkiel: “Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel …”. “Nếu ngươi không cảnh cáo nó bỏ đường gian ác, khi nó chết vì tội nó, thì máu nó sẽ đòi ngươi, như tuần canh thấy quân giặc kéo đến mà không thổi tù và, thì dân chết… Ta sẽ đòi máu nó nơi tuần canh. Nếu ngươi đã cảnh giác nó… nó chết vì tội nó, thì ngươi sẽ được thoát mạng” (Ej. 33, 6-9).
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải sửa lỗi anh em, nhưng chính con chưa sửa được lỗi mình, làm sao dám sửa lỗi người. Chỉ có Chúa là ánh sáng thế gian, xin soi sáng cho chúng con để chúng con biết cảm thông và soi sáng sửa lỗi cho nhau.
7. Sửa lỗi
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay làm nổi bật tình liên đới giữa các phần tử của một cộng đoàn. Thực vậy, một cộng đoàn du lớn hay nhỏ, không phải lúc nào cũng chỉ có những con người tốt lành và thánh thiện. Trái lại rất nhiều kẻ cũng đã sai lỗi, cũng đã đi ngược lại với đường lối và chủ trương. Vậy trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta sẽ phải xử trí ra làm sao?
Nhiều người, trong chúng ta chủ trương trong một khuynh hướng cực đoan, đó là phải loại trừ tức khắc những kẻ phạm lỗi ra khỏi cộng đoàn, với nhiều lý do xem ra chính đáng: Nào là để giữ uy tín cho cộng đoàn, nào là để duy trì sự thánh thiện của cộng đoàn, nào là để ngăn đe cho tội lỗi khỏi lây lan.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nghĩ và đã hành động một cách khác. Đối với Người vấn đề chính yếu đó là phải làm thế nào cho kẻ phạm tội biết ăn năn trở lại. Người đã từng tuyên bố Người đến vì những con chiên lạc, để họ biết tìm về đường ngay nẻo chính. Người đến để đem lại sự sống chứ không phải cái chết. Lần kia người ta dẫn đến trước mắt Người một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Chiếu theo luật lệ hiện hành, thì chị sẽ bị ném đá cho đến chết. Còn Chúa Giêsu thì khác, thay vì ném đá, Người đã nói lên những lời tha thứ: Con hãy về và đừng phạm tội nữa.
Tính cách lành mạnh của một cộng đoàn không dựa trên sự thánh thiện của mỗi người, nhưng dựa trên mối quan hệ giữa các người trong cộng đoàn có khả năng làm cho kẻ phạm tội chỗi dậy, dựa trên một tình liên đới huynh đệ.
Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là bao che, là xí xoá. Tin Mừng cho chúng ta thấy một cuộc đấu tranh bền bỉ trong tình huynh đệ, nhưng không khoan nhượng. Khởi đầu bằng sự sửa lỗi giữa hai người với nhau, để giữ uy tín cho kẻ phạm lỗi trước mặt cộng đoàn khi họ trở lại. Vấn đề không phải là phạt, mà là sửa. Nếu không có kết quả, thì việc sửa lỗi sẽ được thực hiện với sự chứng kiến của người thứ ba. Và nếu kẻ phạm lỗi vẫn tứ tiếp tục ngoan cố, thì vấn đề sẽ được đưa ra cộng đoàn và nếu cũng không có kết quả, thì bấy giờ kẻ phạm lỗi mới bị coi như không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những bước đi này cho thấy một sự kiên nhẫn, cũng như tính cách quyết liệt đối với những sai lỗi. Bằng sự sửa lỗi, chúng ta giúp nhau thăng tiến bản thân. Đồng thời đó cũng là cách thức chúng ta cộng tác với nhau để xây dựng Giáo Hội.
8. Sửa lỗi
Tại một góc phố nhộn nhịp của thành phố Nữu Ước, một chú cảnh sát gốc Việt Nam đang chỉ huy sự lưu thông. Dòng thác xe cộ và dân chúng xoay quanh chú. Bất thình lình chú phát hiện ra một người đi bộ cứ băng qua đường khi còn đèn đỏ. Chú liền thổi còi, giơ tay ngăn chặn và bước qua chỗ người vi phạm và nhận thấy đó là một người đồng hương. Chú bình tĩnh nhưng kiên quyết giải thích: Bạn hãy đợi một chút, khi đèn xanh bật sáng mới được đi. Với một nụ cười ngượng ngập, người vi phạm trở lại lề đường, nhìn đèn đỏ đổi sang vàng và rồi bước đi khi đèn xanh bật sáng. Tuy nhiên, thay vì đi thẳng qua, thì người đó lại nhún nhảy đi tới gần người cảnh sát gốc Việt Nam và thì thầm khi đi ngang qua viên cảnh sát: Chú hãy ý tứ, đừng cho những người da vàng này đi qua mặt.
Câu chuyện trên có thể giúp chúng ta áp dụng vào điều Chúa Giêsu nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Lỗi phạm ở đây không phải chỉ là những xúc phạm đến bản thân chúng ta mà còn là tất cả những hành vi sai trái, khả dĩ gây nên gương mù gương xấu. Sửa lỗi người khác là bổn phận của một số người như chú cảnh sát Việt Nam trong câu chuyện, như cha mẹ, thầy dạy, huấn luyện viên và những người có trách nhiệm. Nhưng vấn đề là làm thế nào để thi hành điều đó. Câu chuyện trên cho chúng ta một số gợi ý.
Trước hết là khía cạnh tích cực. Thực vậy, chú cảnh sát không nhấn mạnh đến điều lầm lỗi là qua đường khi đèn đỏ, nhưng nhấn mạnh đến điều cần thiết là chỉ đi qua đường khi đèn xanh bật sáng. Chú không la hét cho người khác nghe được, nhưng chỉ nói nhỏ nhẹ mà kiên quyết với người vi phạm. Chú bảo người ấy điều phải làm cũng như điều phải tránh.
Tiếp đến là lời nói của chú thật đúng lúc và tế nhị. Tất cả đều giúp ích cho việc sửa lỗi anh em. Vì như chúng ta thường bảo: Lời nói chẳng mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau. Nhiều khi chỉ vì những lời nói thiếu tế nhị, chúng ta chỉ tạo nên những bực bội và tức tối, khiến cho hành động thiện chí của chúng ta trở thành uổng công vô ích mà thôi. Đồng thời khi chỉ ra lầm lỗi của người khác, chúng ta nên lưu ý: Lầm lỗi đó không xúc phạm quá nhiều đến chúng ta; nhưng là lỗi nghịch với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. Lầm lỗi của họ có thể làm mất lòng chúng ta, nhưng quan trọng hơn, đó là làm mất lòng Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã nhắc nhỏ: Chúng ta có thể đem theo một hay hai người khác để sửa sai. Và cuối cùng, nếu người ấy vẫn không chịu nghe, thì cực chẳng đã, mới phải trình bày với Giáo Hội hay vị có thẩm quyền. Còn nếu như chúng ta được người khác nhắc bảo thì hãy có can đảm lắng nghe và chấp nhận nếu như những lời nhắc nhở đó là đúng, bằng không chúng ta sẵn sàng bỏ qua, không vì chút tự ái vụn vặt mà làm cho bầu khí trở nên căng thẳng, bởi vì: Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Anh em sửa lỗi cho nhau
“Nếu người anh em con trót phạm tội, con hãy đi sửa lỗi nó, một mình con với nó mà thôi…” (Mt 18,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
“Nhân vô thập toàn”, nghĩa là không ai trọn tốt trọn lành, nhưng ai cũng có lỗi lầm và khuyết điểm. Nếu đố kỵ nhau thì những lỗi lầm và khuyết điểm của những cá thể sẽ làm khổ cho cả tập thể. Nhưng nếu tập thể đó là một cộng đoàn huynh đệ, thì người này phải lấy tình thương mà sửa lỗi người kia, cộng đoàn sẽ ngày càng tốt hơn, cuộc sống cộng đoàn sẽ ngày càng hạnh phúc hơn.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy ta phải sửa lỗi cho nhau cách nào. Và chúng ta hãy tha thiết xin Chúa giúp mỗi người chúng ta can đảm lấy tình thương mà sửa lỗi cho những anh chị em của ta.
II. Gợi ý sám hối
Vì thiếu can đảm, chúng ta đã không dám sửa lỗi cho những anh chị em chúng ta.
Vì thiếu quan tâm, chúng ta bỏ mặc khi thấy một người trong cộng đoàn phạm lỗi.
Nhiều khi chúng ta không chú ý sửa lỗi, mà chỉ kết án anh chị em.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Êd 33,7-9)
Thiên Chúa đặt ngôn sứ Êdêkien như người lính canh, với nhiệm vụ vạch tội của kẻ gian ác. Nếu ngôn sứ nói mà nó không nghe, thì nó chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu ngôn sứ không vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì ngôn sứ phải chịu trách nhiệm về cái chết đó.
2. Ðáp ca (Tv 94)
Tác giả lên tiếng kêu gọi các anh em tín hữu của mình. Nhưng hình như tiếng của tác giả kêu vô ích trong sa mạc. Bởi thế tác giả mong rằng người anh em ý thức tiếng huynh đệ ấy cũng là tiếng nói của chính Chúa và đừng cứng lòng nữa.
3. Tin Mừng (Mt 18,15-20)
Vấn đề được đặt ra là sửa lỗi anh em.
Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp: Trường hợp của đoạn Tin Mừng này liên quan đến lỗi có hại cho cộng đoàn, khi đó vì tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải đi sửa lỗi; còn trường hợp thứ hai được Thánh Matthêu ghi tiếp theo sau đoạn này (Mt 18,21-35) là lỗi giữa những cá nhân với nhau. Khi đó, giải pháp là tha thứ, tha “không chỉ 7 lần mà là 70 lần 7”.
Vậy khi một người anh em làm điều gì đó sai lỗi có hại đến cộng đoàn thì Ðức Giêsu dạy ta phải sửa lỗi như thế nào?
Căn bản là vẫn đối xử như “anh em”. Chú ý trong đoạn Tin Mừng này, chữ “anh em” được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.
Diễn tiến từ kín đáo đến công khai: “riêng ngươi và nó” – “đem theo một hoặc hai người nữa” – “Trình với cộng đoàn” – “Kể nó như người ngoại và người thu thuế”.
Mục đích sự can thiệp sửa lỗi này không phải là để kết án người anh em mình, mà là để thu phục, làm cho người anh em trở lại với cộng đoàn. Nếu được như vậy thì kể như “đã lợi được một người anh em”.
4. Bài đọc II (Rm 13,8-10)
Thánh Phaolô chỉ cho tín hữu Rôma biết cốt lõi của mọi lề luật, đó là “yêu mến nhau”. Ngài dùng hai kiểu nói: “Vì ai yêu người thì đã giữ trọn Lề luật”; “Yêu thương là chu toàn cả lề luật”.
IV. Gợi ý giảng
1. Tế nhị, khó khăn, nhưng cần thiết
Lời Chúa hôm nay trong bài Tin Mừng nhắc lại một vấn đề quan trọng nhưng rất tế nhị trong cuộc sống chung giữa con người với nhau: đó là việc sửa lỗi người khác.
Phải nói ngay rằng đó là một việc vô cùng tế nhị và hết sức khó khăn:
tế nhị về phía người được sửa lỗi
khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Nói rằng đó là một việc tế nhị, vì thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng: muốn khỏi bệnh nhưng sợ uống thuốc vì thuốc đắng; muốn nói lên sự thật nhưng ngại không dám nói vì sợ mất lòng. Ðó là điều tế nhị thứ nhất. Ðiều tế nhị thứ hai ai cũng phải công nhận: Nhân vô thập toàn, người nào cũng có khuyết điểm, không ai vẹn toàn trăm phần trăm. Thế nhưng tâm lý tự nhiên người ta thường nói: đẹp đẽ khoe ra xấu xa che lại. Và không ai muốn vạch áo cho người xem lưng, vì ai cũng sợ người khác biết được khuyết điểm hay tính xấu của mình, tự nhiên ai cũng muốn người khác quên đi hay đừng nhắc tới quá khứ không đẹp của mình. Do đó việc sửa lỗi anh em gây khó khăn vì phía người sửa lỗi. Vì nếu không khéo hay vụng về cách nào đó thì anh em sẽ cho rằng chúng ta sửa lưng anh em chứ không phải sửa lỗi anh em, miệt thị, hạ giá anh em hơn là muốn anh em nên tốt. Và không khéo thì chúng ta sẽ bị anh em mắng lại: Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Thậm chí có khi lại bị anh em dùng chính Lời Chúa để “phang” lại: “Hãy lấy cái đà khỏi mắt anh đã”
Việc sửa lỗi anh em thật tế nhị và khó khăn. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Ðối với người có trách nhiệm hay bề trên sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là một bổn phận nữa.
Sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét bới móc, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều.
Sửa lỗi anh em không phải là kể ra lỗi lầm của anh em với bất cứ ai.
Sửa lỗi anh em trong đức ái là ý thức rằng tôi cũng có lỗi lầm, tôi cũng đầy khuyết điểm và tôi cũng cần người khác sửa lỗi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy tràn Thánh Thần tình yêu Thiên Chúa, vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là Ðấng duy nhất “sửa lại mọi sự trong ngoài chúng tôi”.
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để khiêm tốn chấp nhận những sửa sai, những chỉ bảo của người khác về những lỗi lầm, thiếu sót của ta.
Xin cho chúng ta được tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng ta có thể nói thẳng nói thật những lỗi lầm của nhau mà không làm thương tổn tình đoàn keết thân ái và mối dây thông cảm yêu thương.
Xin Chúa cho chúng ta hiểu được một lời kia của Tuân Tử nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta. Kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta. Còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại đời ta mà thôi.
Lạy Chúa, hình như chúng con chỉ thích những lời khen và hình như chúng con thích nhất những lời nịnh hót tâng bốc, và chúng con không thích mấy, hay rất sợ, thậm chí rất ghét những ai sửa lỗi chúng con.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết chọn lựa một thái độ đúng đắn qua Lời Chúa dạy hôm nay.
(Lm Ðoàn vĩnh Thịnh. Chánh xứ An Lạc, trong CgvDt số đặc biệt Giáng sinh ’95, trang 244-245)
2. Hai từ ngữ chói sáng
“Nếu người anh em của anh phạm lỗi…”
Từ sáng chói thứ nhất trong bài Tin Mừng hôm nay là từ “anh em”. Tại sao tôi phải đi gặp người vừa phạm lỗi nặng? Bởi vì người ấy là anh tôi, em tôi. Chúng tôi là con cùng một cha. Người anh em ấy đang mắc sai lầm. Nhưng tôi không đến để “vạch mặt chỉ tên” mà đến nói chuyện tay đôi trong tình anh em, chỉ cho anh ta biết đâu là phải đâu là quấy. Tôi đến với anh như người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm và chăm sóc con chiên lạc.
Nếu biện pháp nói chuyện tay đôi cũng không có kết quả, thì tôi sẽ nhờ đến cộng đoàn. Ðây là biện pháp mà chỉ Tin Mừng theo thánh Matthêu mới có. Tin Mừng của ngài viết cho những tín hữu là người Do Thái. Họ đã thuộc luật Do Thái. Theo sách Thứ luật, viết trước Ðức Giêsu cả 6 thế kỷ, thì khi luận tội một người phải có ít là hai ba nhân chứng. Biện pháp tiếp theo cũng chỉ có trong Tin Mừng Matthêu: “Nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì hãy kể như anh ta là một người dân ngoại, một người thu thuế”.
Biện pháp sau cùng xem ra khắc nghiệt. Phải chăng đây là biện pháp loại trừ? Chúa có loại trừ dân ngoại và người thu thuế bao giờ đâu. Vả lại hãy nhớ đến dụ ngôn người con hoang đàng, hãy nhớ đến thái độ của người cha đối với nữa con hoang đàng và hợp ý cầu nguyện cùng Cha cho người anh em được mau quay về đoàn tự trong nhà Cha.
Như vậy từ chói sáng thứ hai trong bài Tin Mừng hôm nay là từ “Cha”. Chúa nói: “Nếu hai người trong anh em họp nhau để cầu xin gì cùng Cha, thì họ sẽ được điều đó nhân danh Thầy”. Lời Chúa còn mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện âm thầm của Chúa: “Khi hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy, thì sẽ có Thầy ở đó”. Cùng với Chúa, cả cộng đoàn thiết tha cầu mong cho người anh em trở về, thì nhất định anh ta sẽ trở về, vì cảm được nỗi chờ mong đau đáu của Cha, giữa họ. (Trích báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’98, trang 258-259)
3. Dám sửa lỗi anh em là dấu hiệu của một tình thương cao độ
Thương ai thật là muốn điều tốt cho người đó. Muốn điều tốt cũng có nghĩa là không muốn điều xấu.
Vậy nếu ta thương người anh em mình thật thì khi thấy người anh em mình sai lỗi, ta phải tìm đủ cách để cứu người anh em ấy ra khỏi lỗi lầm.
Việc sửa lỗi cho anh em cũng khó khăn và thậm chí đau khổ, đau đớn. Cũng giống như nhảy vào lửa để cứu người.
Nếu không thương thì không nhảy vào lửa. Dám nhảy vào lửa là dấu hiệu của tình thương lớn lao.
4. Chuyện minh họa
a/ Sửa lỗi cách tế nhị
Ðức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
– Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo.
b/ Người anh em
Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: ” Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!”
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật”. Với quyết tâm sống bác ái yêu thương, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Ðời sống của Hội Thánh phải luôn phản ánh trung thực đới sống yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị Mục tử / luôn nhẫn nại và hiền hòa / nhưng cương quyết khi phải sửa chữa lầm lỗi của anh em mình.
2. Ngày nay / một số người / nhất là các thanh thiếu niên / do ảnh hưởng của những băng hình xấu / cổ võ bạo lực / thích dùng bạo lực để giải quyết những mâu thuẫn bất hòa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết lấy tình bác ái mà giải quyết những xích mích trong cuộc sống thường ngày.
3. Lòng bác ái thật không chỉ là giúp đỡ vật chất / hay an ủi người khác khi họ gặp hoạn nạn / nhưng còn là sửa dạy khi thấy họ lỗi lầm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / cũng như những người có trách nhiệm đối với cộng đoàn / biết can đảm và khôn khéo sửa dạy con cái / và những người dưới quyền khi thấy họ lỗi lầm.
4. Ðức Giêsu luôn chúc lành / và hiện diện giữa những ai có cùng một niềm tin / họp nhau để cầu nguyện / hay tham dự các nghi lễ phụng vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hiểu được điều đó và có những tâm tình xứng hợp.
CT: Lạy Chúa Cha nhân lành, sửa lỗi cho nhau để giúp nhau nên tốt là một trong những bổn phận quan trọng của từng người trong chúng con. Xin ban cho chúng con lòng khiêm tốn thật để chúng con có thể vui lòng đón nhận những lời góp ý xây dựng của anh chị em chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đều là những kẻ có tội. Trong Kinh Lạy Cha mà chúng ta sắp cùng nhau đọc, chúng ta hãy tha thiết xin Cha tha tội cho chúng ta và cho những người anh em của chúng ta nữa.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con can đảm và chân thành sửa lỗi cho nhau. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…”
VII. Giải tán
Trong tuần này, chúng ta hãy cố gắng sống tình anh em với mọi người, là anh em của nhau trong sự giúp nhau làm việc, mà cũng là anh em của nhau trong việc sửa lỗi cho nhau nữa.
10. Sửa lỗi nhau
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Tại một tu viện kia, có ông thầy ngang ngược, ban đêm trốn ra khỏi tu viện; có lẽ ông thầy đang gặp khủng hoảng gì đó. Nhiều người bảo người ta thấy ông thầy này về khuya lắm. Cha giáo bận tâm lo lắng không biết làm sao giúp người anh em mình vượt qua được tình trạng khủng hoảng này. Cha giáo lấy tràng hạt ra đọc kinh. Chục kinh thứ nhất không thấy ông thầy về; chục kinh thứ 2 cũng chẳng thấy ông thầy đâu; chục kinh thứ 3 còn dang dở thì nghe thấy tiếng mở cửa. Ông thầy về tới- đồng hồ cũng đã điểm 1h. Cha giáo lặng lẽ chỉ nói với người anh em: ngủ sớm đi em kẻo mai mất lễ. Nào ngờ, thời gian thấm thoát- ông thầy trơ thành một linh mục rất dễ thương – gần gũi, yêu thương, cảm thông với anh chị em giáo dân của mình.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay vì không ai trong chúng ta là người hoàn hảo; thánh thiện hết. Vì thế, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi cho nhau.
– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
– Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi xa hội đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn.
– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận như Lời Chúa Giêsu hôm nay nói: “Thầy bảo thật: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Như vậy, bác ái Kitô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Bác ái Kitô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn, như Ngôn sứ Ezekien đã đón nhận sứ điệp từ trời cao: “Hỡi con người, Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Itraen” ngươi hãy nói cho những kẻ lầm đường lạc lối biết đường trở về nẻo chính đường ngay để nó được sống. Đó cũng chính là sứ điệp mà Chúa cũng nói với cộng đoàn – nói với từng người chúng ta. Chúng ta không phải là những người hoàn toàn vô trách nhiệm với anh em chị em của mình; tất cả chúng ta sống liên đới với nhau trong ân nghĩa. Không ai là một hòn đảo giữa cuộc đời này, chúng ta có trách nhiệm trong cuộc đời của nhau; trong sự thành toàn của nhau trên con đường tiến về Vương quốc.
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, biết lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, để kiện toàn anh chị em chúng ta ngày càng nên trọn lành thánh thiện như lòng Chúa mong muốn. Amen.
11. Sửa lỗi cho nhau và vì nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Tại một học viện quân sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự. Thế nhưng, có một anh bộ đội vẽ chiếc cầu thơ mộng giữa hai ngọn núi, dưới cầu là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh. Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên cầu để câu cá. Huấn luyện viên không chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó. Với tâm hồn yêu thương tha thứ và vị tha, chàng sĩ quan quân đội quan niệm rằng chiếc cầu được xây là để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau. Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
Vâng, một triết gia nói rằng: “Con người sinh ra là sống với nhau, cho nhau và vì nhau”. Qủa thế, khi tạo dựng nên con người Thiên Chúa đã tạo dựng không phải là một người mà hai người, người nam và người nữ. Cho nên, theo ý định của Thiên Chúa từ thuở ban đầu không ai trong chúng ta có thể sống cô độc lẻ loi một mình lẻ bóng, trái lại chúng ta sống là sống với, sống cho và sống nhờ người khác nhất là trong gia đình của chúng ta. Và trong cuộc sống, đã sống chung, tức nhiên phải có đụng, có va chạm nên không thể nào tránh khỏi cho hết những va chạm, bực bội và buồn phiền hay tội cho nhau vì bá nhân bá tánh, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình cả.
Vì vậy, tình liên đới trong gia đình, Giáo hội hay xã hội như một ngôi nhà của Thiên Chúa và mỗi người là một viên gạch, viên gạch ấy rất quan trọng để làm cho ngôi nhà vững chắc trong đức tin và đức ái. Cho nên, trong bài đọc một Thiên Chúa bảo một vị ngôn sứ rằng: Ta nói với ngươi phải đi cảnh cáo một anh em trong cộng đoàn mà kẻ có tội phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại, nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có trách nhiệm sửa lỗi cho nhau từ trong gia đình ra ngoài xã hội theo tinh thần tình huynh đệ với nhau:
Thứ nhất, “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Một mình với tội nhân, đây là cách sửa lỗi cho nhau dưới tác động của Chúa Thánh Thần, có nghĩa rằng việc sửa lỗi phải được thực hiện trong tình bác ái và hy vọng và như thế Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và giúp tội nhân tự ăn năn thống hối. Rồi, nếu hối nhân không nghe, “Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa”. Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân. Chỉ thị này đã đưa ra nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng trị của thẩm quyền. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội người ấy song là những người trợ lực kẻ có tội có nhiều cơ may trong việc sửa lỗi, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết. Cuối cùng, nếu họ không nghe, “Hãy thưa với Hội Thánh”. Việc đưa tội nhân ra trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Vì vậy, quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái.
Gia đình công giáo gọi là Hội thánh thu nhỏ, Hội thánh tại gia. Chính trong đó, chúng ta sống liên đới trước hết giữa vợ chồng, cha con, mẹ con, con cái với cha mẹ. Và cũng trên nền tảng đó, chuyện sửa lỗi huynh đệ phải trước hết để giúp cho mọi thành viên trong gia đình, cộng đoàn trưởng thành nhân cách và đức độ như Chúa Giêsu, đồng thời làm cho gia đình hạnh phúc và cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Cho nên trước hết, những người làm lớn, vợ chồng, anh chị muốn sửa lỗi người khác, mình phải là gương sáng như Chúa Giêsu. Cụ thể, ngày xưa Chúa Giêsu dạy không chỉ bằng lời nói bằng hành động mà chính các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cách sống hằng ngày của Chúa Giêsu, cách ứng xử của Ngài trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Tất cả những gì các ông chứng kiến đấy chính là cái Chúa Giêsu giáo dục các ông bằng gương sống của chính Ngài. Chúng ta là người làm lớn, là cha mẹ, anh chị, chúng ta giáo dục những người nhỏ, con cái hay các em cũng vừa bằng lời mà vừa bằng chính cách sống của mình. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô I khi nói chuyện với các bậc cha mẹ kể rằng có một người cha vào mùa chay nói với đứa con: hôm nay ở nhà thờ cha sở giải tội đó, con lo đi xưng tội đi. Thằng con nói lại, con không đi vì bố 10 năm nay đã đi xưng tội chưa?
Vì vậy, trong Tông huấn Niềm vui Yêu thương, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở các cặp vợ chồng rằng cuộc hôn nhân tốt là một ‘tiến trình sinh động’ và mỗi bên phải nỗ lực với những bất toàn (122, 113). Đức Giáo Hoàng nói tiếp: “Không chỉ các cặp vợ chồng, mà còn các cặp đính hôn, những bà mẹ mang thai, các bậc cha mẹ nhận con nuôi, cũng như những người dì, người chú, và ông bà đặc biệt lưu tâm, mong muốn không một ai cảm thấy mình không quan trọng hay bị loại trừ khỏi tình yêu Thiên Chúa. Giáo hội phải giúp đỡ mọi gia đình, và mọi người thuộc mọi hoàn cảnh sống, với nhận thức rằng, dù bất toàn, nhưng họ được Thiên Chúa yêu thương, và có thể giúp cho những người khác cảm nhận tình yêu đó.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nói rằng: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật”. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mọi người chúng ta nhớ rằng trước khi góp ý xây dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi sáng, hướng dẫn và xin Chúa nhắc ta nhớ rằng ta cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng hơn họ nữa. Nhưng vì bổn phận tương thân tương ái và liên đới với nhau, chúng ta phải sửa lỗi, khi sửa lỗi phải biết lấy tinh thần bác ái yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán, kết tội người khác, biết rộng lượng bao dung với người khác vì như Thiên Chúa đã tha thứ cho ta thì chúng ta phải tha thứ kẻ có lỗi với chúng ta. Amen.
12. Bài thi của bà giáo O’neill
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Các Kitô hữu có bổn phận giúp đỡ anh chị em mình làm điều thiện.”
Một phụ nữ làm việc ở nhà hàng tiếng tăm nọ từng tuyên bố không theo tôn giáo nào cả, có nói với một vị linh mục: “Thưa cha, tôi không muốn làm cha thất vọng, nhưng trong số kẻ bê bối nhất tôi từng gặp trong nghề nghiệp của tôi lại có những Kitô hữu rất siêng năng đi nhà thờ”.
Linh mục đáp lại: “Ðúng vậy, trong số các Kitô hữu không may vẫn có những người tồi tê, không khác gì trong số những người ngoài cũng có những người tồi tệ như vậy”.
Người phụ nữ liền đáp: “Thưa cha, thế thì không phải các Kitô hữu vẫn được xem là đặc biệt hơn sao?”.
Vị Linh mục bùôn bã nhìn bà ta nói: “Ðúng thế, đúng thế, họ được xem là phải sống tốt hơn!”
Cuộc đàm thoại trên hẳn khiến anh chị em ngạc nhiên. Các Kitô hữu thường xuyên đi nhà thờ hẳn khác hơn những kẻ không đi nhà thờ chứ? Chúng ta hãy xem xét ba trường hợp sau:
Một tay bán vé cho tuyến xe đưa đón ở phi trường nói với một ông bố: “Thưa ông, con trai ông có vẻ trẻ hơn tuổi của nó: ông nên mua nửa vé thôi. Nếu tài xế có hỏi, ông cứ nói là thằng bé dưới 12 tuổi. Như thế ông sẽ đỡ tốn vài đôla!” Giả sử anh chị em là ông bố ấy, anh chị em sẽ trả lời người bán vé thế nào?
Rồi một trường hợp khác. Một bà mẹ bắt gặp đứa con gái 5 tuổi của mình cầm một cây kẹo mà nó ăn cắp được sau khi từ siêu thị ra. Giả sử anh chị em là bà mẹ ấy, anh chị em sẽ làm gì?
Và đây trường hợp sau cùng. Giả sử nghe đứa bạn thân nhất của con bạn nói với nó: “Nếu mày cần hỏi bất cứ câu gì trong kỳ thi toán, mày cứ ra dấu cho tao”. Ðặt trường hợp thằng bé ấy là con của anh chị em, thì anh chị em sẽ cứ tiếp tục đọc báo hay sẽ đặt báo xuống và nói chuyện với cả hai cậu bé?
Tôi không biết anh chị em sẽ xử lý thế nào trong những trường hợp như thế, nhưng tôi biết rõ Chúa Giêsu sẽ xử lý thế nào. Câu trả lời ấy được tìm thấy trong các bài đọc hôm nay. Cả ba bài đều tập trung vào bổn phận hỗ tương của người Kitô hữu phải có đối với nhau. Các Kitô hữu không chỉ phải làm điều thiện mà còn phải giúp đỡ kẻ khác làm điều thiện nữa. Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con là muối đất… các con là ánh sáng thế gian… Ánh sáng các con phải chiếu tỏa trước mặt thiên hạ” (Mt 5, 13-16).
Chúng ta hãy trở lại với ba trường hợp trên. Câu trả lời của người Kitô hữu đối với từng trường hợp trên như thế nào? Một kẻ theo Chúa Giêsu sẽ nói gì với người bán vé xe là kẻ đã nói với ông bố nọ: “Ông cứ nói với tài xế xe là thằng bé con ông dưới 12 tuổi?” Trường hợp này thực sự đã xảy ra ở Chicago. Ông bố ấy đã trả lời làm sao? Ông ta bảo với người bán “Tôi rất trân trọng hảo ý của ông, nhưng tôi muốn con tôi chân thực dù điều đó gây bất lợi cho nó”. Còn bà mẹ bắt gặp đứa con gái của mình ăn cắp cây kẹo đã xử lý như thế nào? Ðây cũng là một câu chuyện có thực đã xảy ra. Cây bút của tờ báo Dallas Morning News (Tin tức Dallas buổi sáng) khi thuật lại câu chuyện trên đã nói rằng bà mẹ nọ đã bảo đứa bé trả lại cây kẹo cho vị quản đốc, và ông này nói: “Ôi đừng lo gì chuyện đó. Nó có đáng gì đâu. Ðám nhân viên mỗi ngày ăn cắp của tôi nhiều hơn thế nhiều!”.
Như tay viết báo kể lại, đây thực là một câu trả lời khó tin nổi. Viên quản đốc đã gây cho cháu bé ấn tượng ăn cắp chả quan trọng gì nếu đó chỉ là một vật nhỏ mọn. Thực sự dù là ăn cắp vật lớn hay nhỏ thế nào đi nữa thì ăn cắp vẫn luôn luôn là điều xấu.
Và cuối cùng hãy xét đến trường hợp thằng bạn của đứa con trai chúng ta đồng ý gian lận để giúp đỡ con trai ta trong bài thi toán. Jerome Weidman, tác giả cuốn “Hand of the Hunter” (Tay người thợ săn) khi còn bé từng can dự vào một trường hợp như trên. Ông kể lại cách đây 30 năm, ông vào học ở một trường công Nữu Ước. Bà giáo dạy toán lớp ba của ông tên là bà O’ Neill. Ngày nọ bà ra cho lớp một bài thi. Khi chấm bài bà nhân ra 12 cậu trai đã trả lời sai một cách giống y như nhau đối với cùng một câu hỏi. Qua ngày sau, bà yêu cầu 12 cậu bé ấy ở lại lớp sau khi tan học. Sau đó, không hề kết tội đứa nào, bà chỉ viết lên trên bảng câu này: “Tính chân thực của một người được thể hiện trong những điều kẻ ấy sẽ làm dù biết rằng không bao giờ bị ai bắt gặp”. Ðoạn bà ghi tên tác giả câu nói trên: Thomas Babington Macaulay. Weidman viết: “Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ có đứa một trong số đó là chính tôi, có thể nói rằng: Ðây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi”.
Như thế chúng ta đã thấy ba mẫu người Kitô giáo xử lý như thế nào trong ba trường hợp khác nhau trên. Ba Kitô hữu này đã lưu tâm đến lời giáo huấn của Chúa Giêsu dạy phải giúp đỡ anh chị em sống cuộc sống Kitô hữu. Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp nhận lời Chúa Phán với Êdekien trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Nếu… ngươi không răn dạy kẻ xấu thay dổi cách ăn ở của nó thì Ta sẽ qui trách nhiệm cho ngươi”. Ba Kitô hữu này đã nghiêm chỉnh chấp hành lời thánh Phaolô gởi tín hữu Roma trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Nếu anh em yếu mến kẻ nào, anh em sẽ không bao giờ làm hại kẻ ấy”. Và cuối cùng, ba Kitô hữu nầy cũng đã nghiêm chỉnh tuân theo lời Chúa Giêsu trong phúc âm hôm nay; “Nếu anh em ngươi phạm lỗi với ngươi, hãy đến gặp nó và chỉ cho nó biết lỗi lầm của nó. Tuy nhiên phải làm điều ấy một cách âm thầm giữa ngươi và nó thôi”.
Như thế ba Kitô hữu nêu trên đã gây ấn tượng như thế nào cho những người nghe họ nói? Tôi xin được lập lại điều Jerome Weidman đã nói: “Tôi không rõ về 11 cậu kia ra sao, chỉ biết một đứa trong số đó là chính tôi, thì tôi có thể nói rằng: Ðây là bài học đơn sơ nhưng quan trọng nhất trong đời tôi”.
Eđmun Burke có nói: “Chỉ cần những người tốt cứ giữ yên lặng, là điều xấu sẽ tăng triển ngay”
Trong những trường hợp trên, ba Kitô hữu nọ đã không giữ yên lặng. Họ mời gọi chúng ta noi gương họ.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi lòng tạc dạ những lời Chúa kêu gọi chúng con đi theo làm môn đệ Ngài:
“Các con là muối đất, nếu muối nhạt đi thì lấy gì ướp nó mặn lại được. Nó chẳng còn ích gì chỉ đáng quẳng ra ngoài cho người ta chà đạp lên đó. Các con là ánh sáng thế gian, một thành xây trên núi không thể giấu được. Không ai đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn để soi cho mọi người trong nhà. Cũng thế, ánh sáng các con phải toả chiếu trước mặt mọi người để họ trông thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha các con, là Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 13-16).
13. Chúa Nhật 23 Thường Niên
GIÚP NGƯỜI KHÁC NHẬN RA NHỮNG SAI LỖI CỦA MÌNH
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào nên việc nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ viết nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”
Chúng ta hãy nhìn lại trường hợp cụ thể về vua Đavít được thuật lại trong Kinh Thánh (Sách Samuen).
Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Khi biết chuyện, vua Đavít tìm cách ‘bán cái’ cho chồng của bà là Uria.
Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ta ăn uống thật no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà.
Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết U-ria ngoài chiến trường.
Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua. ( II Sam 11 và 12)
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Đúng là trong hàng trăm lần phạm lỗi, may ra chỉ có một lần người ta nhận ra mình có tội. Và một khi con người không tự thấy được tội lỗi của mình để ăn năn sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ.
Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải lựa lời, không khéo thì mất đầu như chơi. Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt”.
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm.”
Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta”.
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải. Tội của mình, mình chứa đựng trong cái gùi sau lưng nên không thấy được. Vì thế, giúp người khác nhận ra lỗi của họ là điều rất cần thiết và là một nghĩa vụ thiêng liêng.
Lời Chúa hôm nay thiết tha kêu mời chúng ta hãy ra công sửa lỗi cho anh em mình. Qua bài đọc I, Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Ê-dê-ki-en răn dạy chúng ta: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi” (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu truyền dạy: “Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó”.
Hãy nên tấm gương soi cho người khác và để người khác làm tấm gương soi cho ta.
Tấm gương soi tuyệt đối cần thiết cho mọi người. Không có tấm gương soi, người ta không biết mặt mũi mình ra sao, có ghèn đầy mắt cũng không biết, có cơm dính cằm cũng chẳng hay, râu tóc rối bù như tổ quạ cũng chẳng biết gì. Tấm gương soi tuy tầm thường nhưng rất cần thiết giúp con người nhận ra những vết nhơ trên khuôn mặt mình. Thế nên dù nghèo hèn túng thiếu, nhà nào cũng cố sắm cho mình một tấm gương.
Tuy nhiên, tấm gương thuỷ tinh tráng thuỷ chỉ phản chiếu khuôn mặt mà không thể phản chiếu tâm hồn, chỉ cho thấy những vết nhơ trên trán mà không cho thấy vết bẩn trong tim, thấy những xấu xa trên khuôn mặt mà không thấy những sa đoạ trong tâm hồn hay trong cuộc sống. Vì thế, người ta cần thêm một tấm gương soi khác, đó là lời nhắc bảo của những người chung quanh. Thiếu những lời nhắc bảo nầy là thiếu mất tấm gương tối cần thiết để soi hồn.
Tiên tri Natan ngày xưa là tấm gương soi giúp vua Đavít thấy được những vết bẩn khủng khiếp trong tâm hồn. Thiếu tấm gương soi quý báu như Natan, vua Đavít không thể thấy được lầm lỗi của mình và sẽ không hề biết ăn năn sám hối.
Trở thành tấm gương soi cho người khác là một lệnh truyền rất quyết liệt của Thiên Chúa.
“Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi”. (Edêkien 33, 7-9).
“Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì ngươi hãy đi sửa lỗi nó”… (Matthêu 18, 15)
Vì lòng bác ái với anh em và vì lời Chúa truyền dạy, chúng ta hãy là tấm gương soi giúp người khác thấy được tội lỗi và những sai lầm của họ; đồng thời vui lòng để cho người khác trở thành tấm gương soi cho mình để chúng ta có thể nhận ra lầm lỗi của ta.
14. Giúp nhau sửa chữa lỗi lầm
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sửa lỗi cho người khác là một việc rất khó làm.
Đôi khi với tinh thần xây dựng, ta chỉ cho người khác biết lầm lỗi của họ; thế rồi, thay vì được người khác biết ơn, bản thân ta lại bị họ oán hờn: Họ sẽ giận hờn ta, chửi mắng ta, xa lánh ta, ghét bỏ ta… Quả là “làm ơn mắc oán.”
Những lần sau, vì sợ hậu quả như thế xảy ra, ta tự nhủ lòng: “Thôi, ai lầm lỗi thì mặc người ta, hồn ai người đó giữ”; đôi khi ta cũng có chọn lựa như Ca-in khi trả lời với Thiên Chúa: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!”
Thế là vô tình, ta trở thành người dửng dưng, vô cảm, ngoảnh mặt làm ngơ trước những sai phạm của người khác.
Đây là cách hành xử tai hại, vì làm như thế sẽ tạo đà cho lầm lỗi và tội ác gia tăng. Thái độ nầy cũng đi ngược lại với lòng yêu thương bác ái và bổn phận xây dựng trần thế của người Ki-tô hữu.
Sửa lỗi cho người khác là một bổn phận không được thoái thác
Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào nên việc nhận ra lầm lỗi của mình là điều rất khó. Có người ví von rằng mỗi người đều mang một gùi đầy tội sau lưng và một gùi công đức trước ngực. Vì thế, người ta chỉ thấy công đức mà không thấy được lầm lỗi của mình.
Ông Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, quả quyết rằng: “Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi thì có tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội.”
Chính vì thế, giúp cho người lầm lỗi nhận biết được tội lỗi của bản thân để giúp họ sửa mình là một việc làm rất cần thiết.
Đối với các tín hữu của Chúa, thì đây không chỉ là việc cần làm mà còn là một bổn phận bắt buộc, không được thoái thác.
Lời Chúa trong sách ngôn sứ Ê-dê-kiên đòi buộc cách quyết liệt như sau: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi” (Edêkien 33, 7-9). Và qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy: “Nếu anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó …” không phải một lần mà nhiều lần, cách nầy không được thì phải vận dụng cách khác, cố sao giúp người anh em sửa được lỗi mới thôi. (Mát-thêu 18,15)
Cần sửa lỗi cách tế nhị và đầy lòng yêu thương
Hy vọng việc sửa lỗi sẽ không trở thành việc “làm ơn mắc oán” hay phát sinh nguy cơ “lời thật mất lòng”, nếu việc nầy được thực hiện với sự tế nhị và tấm lòng yêu thương.
Hôm nọ, khi thấy một thanh niên ngồi ngoài hành lang hút thuốc trong khi Thánh Lễ đang được cử hành bên trong nhà thờ, cha Phó tiến lại gần bên anh, thay vì quở trách, ngài mỉm cười, vỗ vai thân mật chàng thanh niên đó như một người bạn rất thân quen và đề nghị: “Nếu bạn hy sinh không hút thuốc giờ nầy thì bạn sẽ có một lễ tế cao đẹp dâng lên Thiên Chúa, chắc chắn Chúa sẽ rất hài lòng về bạn và sẽ ban cho bạn nhiều ơn phúc!”
Thế là chàng trai mỉm cười, giụi tắt điếu thuốc đang hút dở, rồi vui vẻ bước vào bên trong thánh đường.
Lạy Chúa Giêsu,
Vì muốn sửa chữa lỗi lầm cho nhân loại, Chúa phải trả giá rất cao: Chúa đã từ bỏ ngai trời, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm sống giữa các tội nhân, hoà mình với họ, yêu thương họ và chấp nhận hiến thân chịu chết thay cho họ.
Hôm nay, Chúa chưa đòi chúng con phải chết thay cho người lầm lỗi, mà chỉ mời gọi chúng con phải dùng việc làm, lời nói, cách cư xử… để giúp người khác khỏi đắm chìm trong tội mà thôi. Vậy mà chúng con chưa có đủ yêu thương và thiện chí để thực hiện sứ mạng cao đẹp nầy, trái lại còn viện đủ cách để thoái thác.
Xin ban cho chúng con thêm nghị lực và lòng yêu thương để chúng con mạnh dạn đến với bao người lầm lỗi hầu giúp họ cải thiện cuộc đời.
15. Cảm thương người lầm lỗi
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một người mù đang dò đường, cố đi vội để tìm chỗ trú, vì trời nổi cơn giông tố và sắp đổ mưa; ông vô tình xông vào hàng rào kẽm gai, gai móc rách quần áo và da thịt. Những người qua đường thấy vậy bày tỏ những thái độ khác nhau:
– Hạng người thứ nhất là những người không biết ông bị mù nên trách móc: “Người gì đâu mà bất cẩn, dại dột… đường thẳng không đi, lại cứ hàng rào kẽm gai mà xông vào, chắc là đang say xỉn!”
Tương tự như thế, có nhiều người hễ thấy người khác lầm lỗi thì lên án, chửi rủa, trách móc… dù chẳng biết nguyên nhân, chẳng tìm hiểu ngọn nguồn.
– Hạng thứ hai là những người vô cảm vô tâm, khi thấy người người mù lâm nạn như thế, chỉ ngoái cổ lại nhìn rồi thinh lặng bỏ đi.
Tương tự như thế, khi thấy người khác sa vào tội lỗi, nhiều người chọn thái độ im lặng, dửng dưng, không quan tâm hay cho lời khuyên bảo.
– Hạng người thứ ba là những người tốt bụng, tỏ lòng thương xót, chạy đến hỏi han, khử trùng vết thương, rồi dìu ông tránh khỏi hàng rào kẽm gai.
Tương tự như thế, có những người nhân đức, khi thấy người sa vào tội lỗi, họ tìm cách khuyên lơn, dạy dỗ người có tội ăn năn sửa mình.
Còn chúng ta, chúng ta thuộc hạng người nào trong ba thành phần trên đây?
Một là chỉ trích, phê bình, lên án, trách móc người có tội, mặc dù chưa biết rõ đầu đuôi sự việc thế nào mà cũng “ngứa miệng” phán xét, phê bình người khác.
Hai là thinh lặng làm ngơ trước những sai lỗi của người khác. Ứng xử cách này xem ra khỏe khoắn, nhẹ nhàng hơn cả.
Ba là cảm thương, khuyên lơn, dạy bảo cho người lầm lỗi trở về đàng lành. Việc này khó nhọc, tốn công tốn sức, ít ai muốn làm.
Qua bài Tin mừng Mát-thêu được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su truyền dạy chúng ta phải cảm thương, dạy bảo, sửa lỗi cho người khác, không phải chỉ một lần, mà nếu cần, thì phải kiên trì sửa dạy nhiều lần. Chúa nói: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội thánh” (Mt 18, 15-17).
Chúa truyền dạy như thế nhưng chúng ta thấy đây là việc khó làm, đòi hỏi nhiều hy sinh và nhẫn nại, nên đã bỏ qua. Cần có lòng cảm thương sâu xa mới làm được.
Cảm thương người tội lỗi vì họ mù quáng
Người sa vào tội lỗi cũng y như người mù vương vào hàng rào kẽm gai. Họ sa vào tội lỗi vì họ “không thấy đường.”
Nhà hiền triết Socrate cho rằng: “Không ai cố tình làm điều ác.” Đúng vậy. Sở dĩ người ta gây ra tội ác là vì không am hiểu, thiếu khôn ngoan, không đủ sáng suốt để nhận định điều đúng điều sai… Đó cũng là một thứ mù, thường được gọi là mù quáng. Mù quáng còn tai hại hơn mù mắt nhiều lần, vì thế, họ đáng thương hơn là đáng trách.
Trong cuộc thương khó, Chúa Giê-su chẳng những không lên án những người phỉ báng, xỉ nhục, hành hung Ngài cách dữ dằn thô bạo, rồi đóng đinh Ngài vào thập giá cách dã man… mà còn thương xót họ. Ngài thương xót họ vì họ mù quáng, không biết việc mình làm. Thế là Ngài tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Ngay cả Charlie Chaplin (được gọi là vua hề Charlot) cũng nhận ra sự thật này. Ông nói: “Sở dĩ người ta gây ra tội ác là do sự mù quáng của mình. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giê-su đầy khôn ngoan, Ngài thừa biết người ta phạm tội vì mù quáng, nên Ngài thương xót những người có tội, ngay cả những kẻ đóng đinh Ngài; còn chúng ta, chúng ta có đủ khôn ngoan để thương xót họ và cảm hóa họ hay không?
Lạy Chúa Giê-su,
Xin ban cho chúng con tấm lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc đối với tội nhân, nhờ đó chúng con có thể yêu mến họ chân thành và tìm cách cảm hóa họ như Chúa đã nêu gương. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Thánh Phaolô đã thú nhận: “Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11). Đúng như người ta thường nói: “nhân vô thập toàn”.
Thực tế là như vậy, nhưng để nhận ra sự bất toàn của mình, chấp nhận mình có tội không phải là chuyện dễ dàng. Câu chuyện Vua Đa-vít là một ví dụ. Ông đã phạm tội ngoại tình, gian dối, giết người. Vậy mà ông vẫn che dấu và không nhận ra tội lỗi của mình. Bằng chứng là sau khi nghe tiên tri Na-than kể câu chuyện “người giàu cướp chiên của người nghèo” (x. 2Sm 12,1-4), ông còn “bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: Có ĐỨC CHÚA hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót”(x. 2 Sm 12, 5-6). Cho đến khi Na-than nói thẳng: “kẻ đó chính là Ngài…”(x. 2 Sm 12, 7). Bấy giờ vua Đa-vít mới chấp nhận tội lỗi của mình và ăn năn thống hối.
Qua câu chuyện trên cho chúng ta thấy, vai trò của tiên tri Na-than hết sức quan trọng, đã giúp Đa-vít nhận ra tội lỗi của ông. Vì thế, trong cuộc sống chung, sửa lỗi cho nhau là một điều cần thiết và cũng là một trách nhiệm: Trách nhiệm của Cha mẹ đối với con cái; trách nhiệm của cha xứ đối với con chiên; trách nhiệm bề trên đối với bề dưới; trách nhiệm của thầy cô đối với học trò; trách nhiệm của mỗi người khi sống chung với nhau. Hơn nữa, là người kitô hữu, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta lãnh nhận sứ mạng tiên tri. Vai trò của tiên tri là phải rao giảng Lời Chúa, phải lên tiếng để kẻ tội lỗi thay đổi đời sống của họ. Nếu tiên tri mà không lên tiếng để cho kẻ tội lỗi phải chết thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Bài đọc I, tiên tri Ezêkiel đã nói rất rõ ràng rằng: “Nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi. Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi” (Ed 33,8-9). Qua bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “khi thấy anh em lỗi phạm thì hãy đi sửa dạy nó…” (x. Mt 18,15).
Nhưng phải sửa dạy như thế nào? Nhìn vào cuộc sống, người ta thường dùng nhiều phương cách khác nhau để sửa lỗi kẻ khác. Những nhà cầm quyền thường sửa lỗi kẻ khác theo khung hình phạt qua một tòa án: án treo, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Họ cũng có thể sử dụng hình phạt như tra tấn, phạt kinh tế hay tịch thu tài sản.
Còn trong sinh hoạt đời thường của các gia đình hay cộng đoàn, tùy vào hoàn cảnh và phong tục người ta có thể dùng những hình thức khác nhau để sửa lỗi: Chẳng hạn, cha mẹ có thể dùng lời nói để dạy con cái, nhưng cũng có khi phải dùng roi để dạy con cái với châm ngôn “yêu con cho roi cho vọt”. Cũng vậy, bề trên có thể sửa dạy bề dưới một cách âm thầm hay công khai tùy vào sự khôn ngoan và tùy vào từng trường hợp cụ thể. Nhưng không phải người nào cũng biết sửa dạy kẻ khác một cách khôn khéo. Với danh nghĩa sửa dạy, người ta có thể tố cáo nhau, phơi bày tội lỗi của nhau nhằm mục đích bêu xấu, trù dập, hạ uy tín…
Đối với chúng ta là những người kitô hữu, là môn đệ của Đức Giêsu thì sao? Chúng ta phải sửa dạy nhau theo phương cách mà Đức Giêsu đưa ra qua bài Tin mừng hôm nay. Phương cách đó mang tính tiệm tiến, đi từ kín đáo đến công khai. Cụ thể có ba bước sau: Bước thứ nhất, giữa ta với người sai lỗi (x. Mt 18,15). Bước này phải hết sức kín đáo và tế nhị. Phải lựa lời mà nói: “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Phải khôn khéo giúp người anh em nhận ra sai lỗi của mình. Bước thứ nhất này hết sức quan trọng, nếu thành công thì quá tốt, ta được lợi người anh em. Nếu người anh em không nghe, lúc đó chúng ta mới dùng bước thứ hai: “Đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng” (x. Mt 18,16). Thông thường để dễ thuyết phục, một hoặc hai nhân chứng này cần phải là người có uy tín trong cộng đoàn. Bởi vì, khi họ có uy tín thì tiếng nói, lời khuyên của họ mới dễ thuyết phục. Hy vọng bước thứ hai này, người sai lỗi sẽ chấp nhận sửa sai. Nhưng nếu người anh em không nghe thì chúng ta dùng bước thứ ba, tức là đưa ra cộng đoàn, nhằm mục đích gây áp lực cho người sai lỗi, để mong muốn người anh em chấp nhận sửa lỗi. Cuối cùng, nếu người anh em vẫn ngoan cố không chịu nghe thì hãy “kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế” (x. Mt 18, 17). Khi kể nó như người ngoại giáo hay như người thu thuế không có nghĩa là cắt đứt hay loại trừ nó một cách hoàn toàn. Nhưng còn một cách thế khác để chúng ta liên hệ và hy vọng nó sẽ thay đổi, đó chính là cầu nguyện. Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho người anh em đó, nhất là cầu nguyện chung trong cộng đoàn. Bởi vì, lời cầu nguyện chung của cộng đoàn dễ dàng được Chúa chấp nhận. Chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy” (Mt 18, 19-20).
Trong thực tế chúng ta thường mắc phải hai sai lầm này: Sai lầm thứ nhất, chúng ta “công khai hóa” lỗi lầm của anh em với cộng đoàn, bỏ qua bước thứ nhất và bước thứ hai. Vì thế, người sai lỗi cảm thấy bẽ mặt, hậu quả là có nhiều người con phải bỏ nhà ra đi, nhiều thành viên phải bỏ cộng đoàn, nhiều giáo dân không dám đến nhà thờ nữa. Sai lầm thứ hai, sau khi xong bước thứ ba, chúng ta thường không còn quan tâm gì đến người sai lỗi nữa: Có những bậc cha mẹ loại trừ con cái một cách dứt điểm; Có nhiều bề trên không còn liên lạc gì với người bề dưới. Vì thế, người sai lỗi không còn có cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tóm lại, sửa lỗi cho nhau đó là bổn phận của mỗi người chúng ta, và khi sửa lỗi cần theo sự chỉ dẫn của Đức Giêsu. Mặt khác, trong tất cả những bước sửa lỗi trên đây phải thực hiện trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Nghĩa là mong muốn cho người có lỗi sửa sai, thay đổi đời sống để trở thành con người tốt hơn. Người sửa lỗi không bao giờ được phép có những hình thức nào đó mang tính trù dập hay loại trừ người anh em sai lỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn có trách nhiệm sửa lỗi cho anh em theo phương cách của Chúa chỉ dạy. Đồng thời, xin cho chúng con luôn biết nhận ra sự sai lỗi của mình, nhờ đó mỗi người chúng con ngày càng trở nên tốt hơn. Amen.
17. Sữa lỗi cho nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thời đại hôm nay là thời đại kinh tế thị trường. Mọi quan hệ giữa người với người đều dựa trên lợi nhuận kinh tế. Tôi quan hệ với anh tôi có lợi điều gì? Tôi làm việc này tôi có hưởng được lợi lộc gì? Tôi đầu tư công sức vào việc này, tôi sẽ được lời lãi bao nhiêu? Thế nên, những việc không có lợi, người ta thường tìm cách tránh né. Người ta thường suy xét thiệt hơn. Không ai dại gì gánh nợ cho người khác. Không ai dại gì can thiệp vào chuyện của người khác. Con người hôm nay là vậy, nhưng bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng với đồng loại. Một tình yêu đích thực không thể làm ngơ trước nguy hiểm của người mình yêu. Đức ái đòi hỏi phải dấn thân và làm cho người anh em của mình được sống và sống ngập tràn hạnh phúc.
Một cuộc sống hạnh phúc đích thực không hệ tại ở tiền bạc, danh vọng, lạc thú mà quan yếu ở tâm hồn bình an. Bình an ở tại lòng người. Lòng người không chạy theo điều gian dối. Không chạy theo thói xa hoa trụy lạc. Không làm điều bất chính hay vương vấn lỗi lầm mới có bình an tâm hồn.
Như vậy đứng trước những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, tôi nên làm ngơ hay nói sự thật. Tôi nên giúp họ nhận ra điều sai lỗi hay tôi theo chủ nghĩa “mackeno”. Tôi có bổn phận giúp người anh em tìm lại bình an tâm hồn khi sống theo đạo lý làm người, và làm con Chúa hay tôi để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi và bóng đêm của gian tà.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi cho nhau là hành vi bác ái, là giúp anh em mình sống đúng phẩm giá làm người, là nỗ lực đưa anh em mình trở về nẻo chính đường ngay. Sửa lỗi cho nhau không chỉ là điều cần thiết mà còn là bổn phận của các bậc làm cha mẹ, anh chị, hay của những người có nghĩa vụ giáo dục và hướng dẫn người khác. Vì “nuôi con chẳng dạy chẳng răn – Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”.
Nhưng sửa lỗi khác với trừng phạt. Sửa lỗi cần kín đáo, tế nhị, còn trừng phạt thường mạt sát, hạ bệ và công khai. Người được sửa lỗi là người được yêu thương. Người bị trừng phạt là người bị loại ra khỏi xã hội và cộng đồng nhân loại.
Thế nên, sửa lỗi anh em trong đức ái không có nghĩa là dò xét, vạch lá tìm sâu, bé xé ra to, ít xít ra nhiều. Càng không được kể lỗi lầm của anh em ra bất cứ ai, mà cần ý thức rằng “nhân vô thập toàn”, là người ai cũng có lầm lỗi, là người ai cũng có khiếm khuyết, nên cần cảm thông hơn là kết án, nên giúp họ làm lại cuộc đời hơn là tẩy chay.
Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em.
– Bước thứ nhất là đối thoại. Đối thoại là giúp họ nhận ra việc họ làm, lời họ nói là sai. Đối thoại để họ nhận ra lầm lỗi, để họ ý thức được việc họ làm, lời họ nói là xấu, là sai với đạo lý làm người.
– Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là bạn bè thân hữu của người phạm lỗi, hay có thể là người có uy tín trong cộng đoàn. Người khác tác động là người có liên quan đến người phạm lỗi chứ không phải bạ ai cũng nói, gặp ai cũng chia sẻ, làm như thế người có lỗi chỉ thêm mặc cảm vì lỗi của mình, và oán ghét chúng ta hơn là biết ơn chúng ta.
– Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng. Người ta vẫn thường nói “xã có phép tắc của xã. Làng có khuôn phép của làng”. Mỗi một đơn vị đều có những lề thói giúp nhau sống kỷ cương và đảm bảo an ninh xã hội. Thế nên, cộng đồng sẽ giúp cho con người sống tốt hơn và cho môi trường sống được lành mạnh và an bình hơn
– Bước thứ tư: hãy cùng nhau hợp lời cầu nguyện cho họ. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta vì nhu cầu cộng đoàn và cho cộng đoàn sẽ được Chúa chấp nhận.
Như vậy, bác ái kytô giáo không cho phép chúng ta dửng dưng hay làm ngơ trước lầm lỗi của tha nhân, nhất là những lầm lỗi có thể gây ảnh hưởng xấu trong cộng đoàn, hay mất an ninh cho xã hội. Dửng dưng hay làm ngơ là chúng ta thiếu tình yêu liên đới với tha nhân và thiếu trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ sự trong sạch cũng như sự lành mạnh cho cộng đoàn.
Bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng ta cảm thông với yếu đuối của tha nhân, nhưng không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn. Chúng ta không được thanh trừng hay tẩy chay anh em nhưng phải thanh tẩy môi trường chúng ta đang sống khỏi những thói hư tật xấu, những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến đời sống chung của cộng đoàn.
Xin Chúa ban cho chúng ta một tấm lòng khiêm tốn để nhận ra sự yếu đuối tội lỗi của mình mà sẵn lòng đón nhận lời góp ý, sửa lỗi của anh em. Vì “kẻ dám chê ta mới thật là thầy và là bạn ta, còn kẻ nịnh hót, tâng bốc ta chỉ làm hại cuộc đời ta”.
Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng ta luôn dám nói sự thật với anh em, cho dẫu sự thật mất lòng nhưng là cách tốt nhất để kiện toàn anh em nên trọn hảo hơn. Amen.
18. Sửa lỗi cho nhau
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người luôn có lầm lỗi. Ai nên khôn mà không dại một lần. Và chắc chắn là không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Phạm lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Có điều là chẳng mấy ai trong chúng ta dám nhận mình có lỗi. Chẳng mấy ai dám thú nhận về những lầm lỗi của bản thân.
Đó là điều mà chúng ta cần phải được người khác sửa lỗi. Nếu không được người khác sửa sai thì mình sẽ không bao giờ đứng lên làm lại cuộc đời. Một đứa bé để có thể nói đúng, nói không sai chính tả cần được cha mẹ sửa giọng nhiều lần mới có thể nói không bị ngọng. Về nhân bản con người cũng phải được người khác dạy bảo, sửa lỗi thì mới hoàn thiện chính mình.
Như vậy, sửa lỗi là bổn phận của cha mẹ, của thầy cô, của bạn bè và nhận được sự chỉ dạy là của từng người chúng ta. Nếu chúng ta không sửa lỗi cho anh em là chúng ta đang có lỗi với chính mình vì chúng ta chưa sống tròn bổn phận của mình với tha nhân. Đôi khi còn bị người mà mình đã không dậy dỗ oán trách lại chúng ta.
Có một đứa trẻ từ nhỏ đã thích ăn trộm. Một hôm, nó đi học về, trong cặp có thêm một chiếc bảng học sinh. Mẹ nó hỏi:
– Sao con lại có tới hai chiếc bảng?
Đứa con đáp:
– Một cái là của bạn cùng lớp với con. Con đã lén lấy cho vào cặp đấy.
Bà mẹ vui mừng nói:
– Con của mẹ thật thông minh. Hai cái bảng chắc chắn là tốt hơn một cái rồi.
Ít lâu sau, đứa con lại mang về một cái áo da, trị giá 50 quan tiền. Đứa con đưa chiếc áo da cho mẹ, mẹ nó khen:
– Con trai của mẹ thật là giỏi, biết hiếu thảo với mẹ. Ra mẹ thơm một cái nào.
Đứa con trai ngày một lớn lên, càng ngày càng lấy trộm những thứ có giá trị hơn. Hôm nay ăn trộm bò, ngày mai ăn trộm ngựa, ngày hôm sau trộm vàng bạc châu báu. Bà mẹ luôn luôn khen ngợi con, trong nhà thiếu thứ gì, liền bảo với con trai để nó đi trộm về.
Có một lần, đứa con ăn trộm đồ bị người ta bắt quả tang, giải lên quan phủ. Vì hắn trộm quá nhiều thứ nên bị phạt tội chết. Tên trộm bị trói hai tay ra sau lưng, giải ra pháp trường. Mẹ hắn đi theo sau, khóc lóc thảm thiết. Tại pháp trường, tên trộm xin quan cho hắn được nói với mẹ vài lời. Khi bà mẹ bước tới gần, hắn liền cắn mạnh vào tai mẹ. Mẹ hắn đau quá kêu toáng lên, lớn tiếng mắng con:
– Mày thật là đồ bất hiếu, tự mình phạm tội chết còn chưa đủ hay sao mà còn muốn làm mẹ thành tật à?
Đứa con giận dữ nói với mẹ hắn:
– Lần đầu tiên tôi ăn trộm cái bảng về, nếu bà đánh tôi một trận và dạy bảo tôi thì tôi không đến nỗi như ngày hôm nay và đã không bị xử tội chết.
Hóa ra không dạy dỗ người khác có khi dẫn đến “gậy ông đập lưng ông”. Dạy người khác sửa sai là giúp mình được sống bình an hạnh phúc. Không dạy người khác sửa sai là mình đang “nuôi ong trong tay áo”, hậu quả sẽ là mình bị ong chích đầu tiên. Thế nên, khi làm điều sai trái, dù là cái sai rất nhỏ, thì cũng phải kịp thời sửa chữa. Nếu không, cứ để nó lớn dần lên thành cái sai nghiêm trọng thì có thể khiến mình phải hối hận cả đời.
Hôm nay Chúa nhắc chúng ta phải sửa lỗi cho nhau. Sửa lỗi không phải chỉ trích. Chỉ trích là công kích nhau, là rêu rao lỗi lầm của nhau. Chỉ trích thường thiếu bác ái, thiếu tinh thần xây dựng cho nhau. Sửa lỗi đòi tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Sửa lỗi là một bổn phận, là bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân. Sửa lỗi trái ngược với bỏ mặc, và thiếu trách nhiệm với tha nhân. Trong tinh thần bác ái và yêu thương chúng ta phải có bổn phận sửa lỗi cho nhau. Cha mẹ sửa lỗi cho con cái. Vợ chồng sửa lỗi cho nhau. Thầy cô sửa lỗi cho học trò. Bạn bè sửa lỗi cho nhau. Tất cả phải có bổn phận giúp nhau thăng tiến. Không bỏ mặc nhau nhưng luôn dìu nhau tiến bước.
Sửa lỗi cho nhau không chỉ với tội lớn mà ngay cả tội nhỏ cũng cần được nhắc nhở, được giúp cải thiện. Bởi vì “nhỏ ăn trộm dây cột bò, lớn sẽ ăn trộm cả con bò”. Vì phạm tội sẽ thành thói quen. Phạm tội một lần thì sợ hãi, nhưng nhiều lần thì lương tâm đã chai lì, đánh mất sự sợ hãi lo âu.
Chúa Giê-su dạy ta cách sửa lỗi tiệm tiến với tình yêu thật tế nhị. Sửa lỗi cách kín đáo bằng lời chân tình góp ý thẳng ngay với nhau. Nếu thất bại cần thêm lời của nhân chứng để người được sửa lỗi càng nhận biết lỗi lầm của mình hơn. Nếu vẫn thất bại thì cần đến cộng đoàn để nhờ sức mạnh của cộng đoàn giúp kẻ có lỗi ăn năn sửa đổi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm sửa lại những lỗi lầm. Biết bỏ đi tính tự ái, cố chấp để lắng nghe lời góp ý chân thành của tha nhân. Xin đừng vì cố chấp mà trở thành kẻ ngang bướng làm hại đến cộng đoàn. Amen.
19. Làm đẹp cho nhau
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 27/8/2000, có đăng một câu chuyện với tựa đề: ‘Chiếc Thùng Bị Thủng’. Chuyện ấy như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ:
– Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
– Nhưng người xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
– Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
– Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường.
Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
– Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
– Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên bệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
***
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bịt hủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến họ không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó” (Mt 18,15). Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn . Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình ba bước: Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự tôn trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị có trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do chính Chúa thiết lập. Giáo hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân. Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là “cái tôi” đầy kiêu hãnh.
Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu thương họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp long tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ, nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (Mt 18,19).
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết cách sửa lỗi cho anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương họ. Nếu anh em có thiện chí sửa lỗi chúng con, xin cho chúng con có đủ khiêm tốn và thành khẩn để hóan cải chính mình.
Xin khuyến khích chúng con giải hoà với nhau để Giáo hội sớm hiệp nhất và để Chúa luôn hiện diện giữa chúng con. Amen.
20. Hào quang của tha thứ
(Suy niệm của Thiên Phúc)
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
21. Có Thầy ở giữa họ
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu thiết lập Giáo hội Ngài và Giáo hội chính là gia đình của Chúa. Chúng ta là con cùng một Cha chung. Chúng ta không thể sống một mình. Có thể nói chúng ta là dòng giống tập thể. Chúng ta liên đới với nhau như các phần tử của một cơ thể duy nhất.
Chúa Giêsu dạy chúng ta yêu thương nhau và cố gắng giúp nhau đạt tới hạnh phúc Chúa đã dành cho chúng ta. Đó là cách yêu thương cao đẹp nhất. Lo cho nhau về phần vật chất cũng là một điều tốt, nhưng lo cho hạnh phúc đời đời của anh em là một điều quí báu hơn.
Chúng ta liên đới với nhau trong cuộc sống hôm nay, chúng ta càng liên đới mật thiết hơn trong Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúng ta chịu trách nhiệm lẫn nhau. Ngay từ thời tiên tri Êdêkien, Chúa đã cho thấy sự liên đới đó. Nếu người anh em lỗi phạm mà chúng ta không nhắc bảo để họ phải chết trong tội, chúng ta phải đền nợ máu của họ. Chúng ta không thể dửng dưng để cho người anh em chúng ta hư mất. Vậy thì, trong Chúa Giêsu, chúng ta càng phải cứu giúp những người anh em lỗi phạm vì chúng ta mắc nợ nhau vì tình tương thân tương ái, như thánh Phaolô đã nói. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương thì trách nhiệm của chúng ta đối với anh em thật nặng nề. Yêu thương nhau không phải chỉ lo cho phần xác mà phải lo phần hồn nhiều hơn.
Một trong những cách yêu thương linh hồn là sửa lỗi cho nhau. Chúa Giêsu dạy chúng ta cách thế phải làm để giúp anh em sửa lỗi. Phải đi từng giai đoạn, chứ không đường đột, vì đây là một vấn đề rất tế nhị và dễ gây phiền hà.
Giai đoạn thứ nhất là gặp riêng giữa một người với một người, trong thân tình và kín đáo.
Giai đoạn hai, nếu giai đoạn một không thành công: hãy mời thêm một vài nhân chứng, nhờ đó lời khích lệ sẽ có thể có hiệu quả hơn.
Nếu không thể thành công, giai đoạn ba là trình với Hội thánh. Và nếu tội nhân không nghe theo lời Hội thánh thì mới loại trừ, nghĩa là khi tội nhân đã hoàn toàn ngoan cố.
Chúng ta không nhẫn nại như Chúa. Chúng ta thường dễ loại trừ người tội lỗi, cho họ là hạng xấu xa. Đa số chúng ta giống như phái Pharisêu, xem những người tội lỗi như hạng người không còn cứu vãn. Và hình như trong các giáo xứ, tình trạng này gần như phổ biến. Một người bỏ đạo lâu năm, một hôm đã đi xưng tội và rước lễ đã nói rằng: “khi con vào nhà thờ, người ta nhìn con như quái vật và có tiếng xầm xì: “Hôm nay Satan đến nhà thờ, bây!” Đó chính là thái độ của Pharisêu. Dòng giống Pharisêu còn sống rất mạnh trong các cộng đoàn chúng ta. Một số cha sở, vì muốn cho giáo dân sống đạo tốt đã không hết lời quở trách thường xuyên làm cho một số giáo dân bất mãn.
Chúa Giêsu đã từng lên tiếng nặng lời với người Pharisêu, chỉ vì họ quá ngoan cố. Đang lúc Ngài rất nhẹ nhàng với những người tội lỗi, những dân thu thuế, những người sa ngã. Ngài không chê bỏ một ai vì Ngài đến là để cứu vớt những gì đã hư mất. Ngài cho thấy phải đối xử với người tội lỗi và yếu đuối như thế nào? Thánh Phaolô cũng cảnh báo những người lên án anh em: “Ngươi là ai mà dám đoán xét anh em?”
Vấn đề sửa lỗi cho nhau là một vấn đề tế nhị và rất khó. Ai cũng có tự ái, và những người lỗi phạm lại tự ái cao hơn. Họ không chấp nhận mình lỗi phạm. Khi cảnh báo cho người lỗi phạm thì chúng ta cũng không trọn lành. Khi chúng ta sửa lỗi cho người anh em, chúng ta dễ bị chất vấn: “Còn anh, anh tốt hơn ai mà anh lại làm sư dạy đời?” Ai trong chúng ta cũng lỗi phạm, nhưng những người tốt cũng có thể giúp người anh em lỗi phạm. Chúng ta phải làm mọi cách để cứu những người anh em yếu đuối, đó là đòi buộc của Chúa.
Chúng ta thường sống theo thói thế gian, xem người anh em như đối thủ. Chúng ta phải tôn trọng anh em, nhưng không vì thế mà chúng ta không dám yêu thương, giúp anh em mình nên tốt hơn. Nếu chúng ta may mắn là không lỗi phạm, thì đó là do ơn Chúa chứ không do công nghiệp gì của chúng ta. Chúng ta cũng không rỗi linh hồn một mình.
Nhiều người không biết Giáo hội là gì, không nghĩ rằng Giáo hội là một gia đình và mỗi phần tử đều liên đới với nhau trong sự lành cũng như sự dữ. Trong một giáo xứ, người tốt nhiều sẽ làm cho giáo xứ tốt lên, nếu nhiều người xấu sẽ làm cho giáo xứ càng bệ rạc và lộn xộn. Vì thế mọi người đều phải cố giúp nhau sống theo gương Chúa và yêu thương nhau càng ngày càng nhiều hơn.
Chúa Giêsu nhắc lại quyền tha bắt, nhưng lần này nói với các môn đệ chứng tỏ quyền tha tội là quyền dành cho Giáo hội chứ không chỉ riêng cho Phêrô. Chúa biết chúng ta yếu đuối, Ngài chỉ muốn tha thứ chứ không lên án: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Những người tốt có nhiệm vụ đưa những người anh em lỗi phạm đến với nguồn ơn tha thứ mà Chúa đã dọn sẵn để cứu vớt họ. Và mọi người chúng ta cũng luôn cần đến ơn tha thứ đó.
Và Chúa Giêsu lại cho chúng ta thấy tính cách cộng đồng của nếp sống Giáo hội, là khi cầu nguyện, chúng ta cần cầu nguyện với nhau: “Khi hai ba người họp nhau lại vì danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ”. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng nhưng lời cầu nguyện của chúng ta vẫn ở trong Giáo hội, trong Chúa Giêsu vì chính Thánh Thần vẫn cầu nguyện trong chúng ta và với chúng ta. Chúng ta nhớ rằng Giáo hội là một gia đình, vì thế nếu chúng ta cầu nguyện chung với nhau, lời cầu của chúng ta là lời cầu của Giáo hội. Những lúc gia đình cầu nguyện với nhau, Chúa Giêsu sẽ ở giữa gia đình chúng ta, và đó là một hạnh phúc lớn. Những giờ phút chúng ta hợp nhau dâng lễ, lời cầu nguyện của chúng ta càng được Chúa đón nhận biết bao! Nhưng chúng ta phải một lòng một ý mới thực sự là cộng đoàn. Lời cầu của chúng ta chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta thực sự yêu thương nhau, tha thứ cho nhau, nên một với nhau như Chúa Giêsu đã mong ước. Nếu chúng ta ca tụng Chúa, và sau đó lại cắn xé nhau, thì đó chỉ là một hình thức bên ngoài không đem lại kết quả nào. Thánh Phaolô luôn cảnh báo các giáo đoàn phải hiệp nhất trong lời cầu nguyện.
Chúa Giêsu hiệp nhất chúng ta trong Ngài bằng chính tình yêu của Ngài. Tình yêu đó thể hiện qua tấm bánh thần linh Ngài trao ban cho chúng ta. Chúng ta cùng ăn một tấm bánh, chúng ta được liên kết với Chúa Giêsu. Sự liên kết này sâu xa hơn bất cứ một sự liên kết nào. Ngài là một xương một thịt với chúng ta và nối kết chúng ta trong Ngài. Chúng ta nên một trong Ngài. Trong thực tế, chúng ta có thực hiện không? Chúng ta không giống như người thế gian, chúng ta được nên một trong Chúa Kitô, với bất cứ giá nào, chúng ta phải vượt qua mọi trở ngại để thực hiện cho bằng được ước mong của Chúa và như thế Chúa mới có thể nhậm lời chúng ta, mới ở giữa chúng ta. Tại sao chúng ta không truyền giáo được? Chỉ vì chúng ta là một đống gạch vụn chứ không là thân thể Chúa Kitô. Ngày nào chúng ta nên một, Tin Mừng mới có thể lan rộng ra trong thế giới.
22. Có Thầy ở giữa họ
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Thường chúng ta hay có thái độ kỳ thị với những người mà chúng ta xem như tội lỗi. Chúng ta dễ lên án và loại họ ra khỏi vòng thân mật của chúng ta, xem họ như thành phần không tốt hay nguy hại, phải tránh xa.
Chúa Giê-su không như thế. Đối với Ngài, người anh em tội lỗi là người anh em cần được nâng đỡ, cứu vớt. Chính Ngài đã nói: “Ta đến để cứu vớt những gì đã hư mất.”
Ngài quí mến mọi người, yêu thương mọi người và hình như Ngài lại thương những người tội lỗi nhiều hơn. Ngài lo lắng cho họ, dám bỏ chín mươi chín con chiên ngoan để đi tìm một con chiên lạc.
Chúng ta cũng phải như Ngài thôi, không thể làm khác được vì chúng ta phải theo cách sống của Ngài. Chúng ta không có quyền loại bỏ người anh em sai phạm, nhưng phải chinh phục họ, giúp họ trở về với cộng đoàn, nới rộng tình thương của Cha trên trời, Đấng yêu thương mọi người và muốn cho mọi người được cứu rỗi.
Sửa dạy nhau, giúp nhau sống cho đẹp ý Chúa, đó mới thực sự là yêu thương. Yêu thương không bao giờ kỳ thị. Yêu thương nhau không phải là làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em. Yêu thương nhau cũng không phải là sợ mích lòng, không dám nhắc nhở anh em. Yêu thương nhau không phải là nhắm mắt để cho anh em sa vào vực thẳm, rồi yên thân lo phần rỗi cho mình.
Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Ki-tô, chúng ta phải cảm thấy mình có trách nhiệm đối với mọi người anh em, lo cho anh em mình được hạnh phúc. Đó là một trách nhiệm mà chúng ta không thể thoái thác. Chúng ta không thể có thái độ như Ca-in xưa: “Tôi có giữ em tôi đâu!” Trong Giáo Hội, chúng ta không có quyền lo phần rỗi linh hồn một mình. Nhưng trên phương diện sửa dạy nhau như Chúa đã dạy chúng ta, chúng ta nên ghi nhớ lời Chúa căn dặn: “Hãy cất cái đà trong con mắt mình trước đã, rồi mới thấy rõ mà cất cái rác trong con mắt anh em.”
Như thế chúng ta cần canh tân con người chúng ta trước, sau đó chúng ta mới có khả năng giúp anh em; nhờ đó, chúng ta mới tạo được một cộng đoàn tình thương. Lúc đó Chúa mới “ở giữa chúng ta”, và lời cầu xin của chúng ta mới có hiệu lực. Nhưng sửa lỗi cho anh em là một vần đề gai góc và thật tế nhị, vì ai cũng có tự ái. Chạm tự ái là một điều đáng sợ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta, phải chậm rãi và kiên nhẫn, đi từng giai đoạn: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi với nó thôi.” Kín đáo và tế nhị, đó là con đường Chúa dạy “để được lợi một người anh em”.
Nhưng nếu người anh em không nghe, chúng ta cần có người anh em khác. Nhưng nếu họ không nghe, lúc ấy mới trình cho cộng đoàn. Và nếu không thể làm gì khác, thì mới dùng biện pháp cuối cùng là “xem họ như người ngoại giáo”, tức là không còn thuộc về cộng đoàn nữa.
Những biện pháp trên là những phương thế giúp cho cộng đoàn luôn được đoàn kết và liên đới với nhau. Chúng ta là “dân thánh”. Chúa nói: “Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh.” (Lv 19,2). Là gia đình của Thiên Chúa, Chúa không thể chấp nhận tội lỗi; vì thế, nếu trong cộng đoàn có ai phạm tội, hãy sửa dạy họ để mọi người được trở nên tinh sạch hầu xứng đáng với tình yêu Chúa.
Trong phụng vụ thánh lễ, chúng ta tung hô Chúa ba lần thánh. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã ra nhiều Luật về trong sạch, phải tẩy xóa mọi nhơ uế để được Thiên Chúa xót thương.
Thiên Chúa là Đấng Thánh, nhưng Ngài là Thiên Chúa nhân từ, đầy lòng xót thương, “Ngài chậm giận lại giàu tình thương”. Ngài không muốn kẻ dữ phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống. (Tiên tri Ê-dê-ki-en).
Trong cộng đoàn chúng ta không mấy ai thánh thiện, chúng ta cần cố gắng hết mình để nên thánh, và giúp anh em chúng ta đạt đến sự thánh thiện. Không ai rỗi linh hồn một mình, cũng không ai đến với Chúa một mình. Chúng ta liên đới với nhau trong cùng một đức tin, trong cùng một thân thể là Nhiệm Thể Chúa Ki-tô. Chúng ta đã được liên kết với nhau chặt chẽ mà có khi chúng ta ý thức. Chúng ta cùng ăn một Tấm Bánh, là Thịt Máu Chúa. Chúng ta phải là một trong Ngài. Vì thế, “ở đâu có hai ba người họp nhau cầu nguyện, thì Cha Thầy sẽ ban cho chúng con”.
Để giúp chúng ta được xứng đáng đến với Ngài, Chúa Giê-su trao cho Giáo Hội một quyền năng đặc biệt là quyền tha tội: “Những gì chúng con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, những gì chúng con tháo cởi dưới đất, trên trời cũng tháo cởi cho.” Đây chính là nguồn ơn tha thứ mà Chúa ban cho Giáo Hội, không phải chỉ để cầm buộc mà còn để tha thứ.
Mọi người chúng ta đều cần được tha thứ, được tinh luyện để trở thành dân thánh của Chúa trong trần gian, để chúng ta loan truyền ơn cứu độ cho mọi tạo vật.
Chúng ta là cộng đoàn tình yêu.Chúng ta là thân thể của Chúa Ki-tô, vì thế, một phần tử bị tổn thương thì cả cộng đoàn cũng bị tổn thương. Nếu chúng ta giúp cho nhau nên hoàn hảo thì Chúa “sẽ ở giữa chúng ta”. Như thế, chúng ta thực hiện ước mong của chính Chúa Giê-su: “Xin cho chúng nên một như Chúng Ta (là một).”
23. Hoà giải
Yêu thương là ước mong và làm điều tốt cho người mình yêu. Một trong những điều tốt mà chúng ta nên làm và phải làm là giúp nhau nên trọn lành, nên tốt hơn trong từng ngày sống của chúng ta. Đã mang thân phận của con người thì không ai là không có những lần lỗi phạm. Chúng ta cần hình nhận sự thật đó để can đảm giúp người khác sửa sai và giúp chúng ta khiêm tốn đón nhận những góp ý và sửa lỗi của người khác dành cho mình. Chúng ta phải khiêm tốn nhìn nhận rằng: nếu mình còn có người giúp sửa sai và chỉ ra lỗi phạm của mình thì hãy lấy đó làm niềm vui vì biết rằng mình còn được người khác yêu thương.
Nhưng chúng ta phải nhớ rằng: sửa lỗi người khác và giúp người khác nhận ra lỗi lầm của mình không phải là chuyện dễ. Nó là một nghệ thuật. Nếu không khéo trong việc này, chúng ta sẽ mất cả chì lẫn chài. Bởi thế, Chúa Giêsu mới dạy chúng ta một phương thế để giúp những người sai lỗi mà chúng ta nên áp dụng cách triệt để trong sự khéo léo và khôn ngoan của ta.. vì giúp nhau nên lành thánh trở nên bổn phận bó buộc đối vớI người Kitô hữu chúng ta.
1. Mạnh dạn góp ý cho người sai lỗi:
Bản chất của Hội thánh là thánh thiện, nhưng Hội thánh đang cưu mang những con người chưa thánh và tội lỗi trong đó với ước mong giúp họ nên thánh và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em mình sa ngã, bởi lẽ, tất cả chúng ta làm nên một thân thể và thông hiệp với nhau, mang những vết thương của nhau.
Chỉ ai yêu thương thật sự mới góp ý chân thật và thẳng thắn. Nhiều lúc, chúng ta chỉ dám nói sau lưng và nói quá nhiều những lỗi lầm của người khác. Hành động như thế, không lợi gì cho anh em của ta mà cũng chẳng lợi gì cho ta vì ta mang tội nói xấu anh em mình. Chúng ta không dám góp ý thẳng với anh em mình có thể vì chúng ta sợ: người khác giận mình, sợ người khác không đón nhận, sợ mất quyền lợi của mình…góp ý xây dựng là một dấu chỉ của yêu thương, chứ không phải là vạch lá tìm sâu. Nếu không phải vì đức yêu thương, ta tránh sửa lỗI người khác mà ta không có nhiệm vụ.
2. Tế nhị và tôn trọng kẻ sai lỗi:
Góp ý và sửa lỗi cho người khác là một nghệ thuật. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta những bước tiến hành để sửa lỗi cho người anh em của mình. Trước hết là sự gặp gỡ của ta với đương sự một cách âm thầm và kín đáo trên nguyên tắc là tôn trọng nhau. Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp thì ta nên đem theo vài người nữa. Làm thế không phải là gây áp lực nhưng để vấn đề được sáng tỏ thêm và khách quan hơn. Nếu đương sự vẫn không nghe thì phảI đưa họ đến với cộng đoàn để cộng đoàn sửa sai họ. Nếu họ vẫn không chịu đón nhận thì có nghĩa là tự họ đã cô lập họ, tự họ tạo ra bóng đêm cho mình.
Như thế, việc góp ý nên tiến hành qua nhiều giai đọan. Thái độ và tâm tình cần có của người sửa lỗi là tế nhị, tôn trọng, yêu thương, kiên nhẫn với kẻ sai lỗi. Chúng ta cần có trái tim yêu thương của Chúa để luôn thao thức và quyết tâm đưa những kẻ lầm đường lạc lối về với Chúa: ” Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.”
Hội thánh là một gia đình yêu thương và là nơi hàn gắn những bất hoà chia rẽ. Vì thế, mọi người phải có trách nhiệm liên đới với nhau để tạo sự hiệp thông liên lỉ trong Giáo hội Chúa. Mỗi người chúng ta cần trở thành sợi dây liên kết tình anh em trong cộng đoàn nơi mình sống. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng ngồi lại với nhau để góp ý và giúp nhau sửa lỗi. Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý và cần khiêm tốn để được góp ý.
Ngày nay, khi đi trên đường ở nước Thụy sĩ, người ta nhìn thấy một tấm biển lớn, trên đó có trình bày hai chiếc xe hơi: một chiếc màu đỏ, một chiếc màu xanh. Cả hai xe đi cùng chiều với nhau, những người ngồi trong hai chiếc xe ấy đang chào nhau và tươi cười với nhau. Người lái xe xanh đang ra dấu cám ơn lại bằng cách giở mũ chào.
Ở phần dưới tấm biển có ghi một hàng chữ: “Hợp tác là an toàn”. Điều này muốn nói lên rằng: giúp đỡ lẫn nhau, đối xử tốt với nhau như người cộng sự bằng tình bằng hữu là một bảo đảm cho một cuộc hành trình không nguy hiểm.
Không ai là một hòn đảo. Cuộc sống của con người chỉ thực sự lớn lên và triển nở khi sống với người khác và sống cho người khác. Xin Chúa ban cho chúng ta biết nhìn ra sự thật nơi mình để luôn biết sống nương tựa nhau và giúp nhau nên hoàn thiện theo ý Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
24. Giáo Hội Chúa Kitô: Một cộng đoàn cứu độ
(Suy Niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho…
***
SUY NIỆM
Nhac sĩ Thông Vi Vu (tức Đức cha Giuse Vũ Duy Thống) đã dệt lên tâm tình về sự cần thiết của đời sống cộng đoàn:
Con chỉ là giọt nước , giữa lòng biển cả mênh mông.
Một mình sao có thể , tưới mát cho ruộng đồng.
Con chỉ là dấu trắng , nhẹ dìu câu hát ngân nga.
Một mình con không thể , dệt lên bài tình ca.
Con chỉ là hạt nắng , phiêu bạt miền trời xa xôi.
Một mình sao có thể , chiếu sáng muôn lẻo đời.
Con chỉ là cánh én , nhìn trời cao vút thênh thang.
Một mình con không thể , làm nên cả mùa xuân.
Vâng, một mình con không thể, Chúa biết điều đó, bởi con người bất toàn, khả năng giới hạn, thế mà Chúa lại mời gọi con người: hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa. Công việc quá trọng đại, đúng là một mình con không thể, cho nên Chúa đã thiết lập Hội Thánh, một cộng đoàn duy nhất trong đức tin, và chỉ có Hội Thánh này mới có thể chu tất sứ mạng được giao phó, mới có thể tiếp tục công trình cứu chuộc của Chúa trên trần gian cho tới ngày Chúa quang lâm.
Tập thể tính thuộc về bản chất của Giáo hội, bởi nền tảng của Giáo Hội là tập thể các tông đồ, đức tin mà Giáo hội tuyên xưng và loan truyền là đức tin tông truyền từ tập thể các tông đồ trong sự duy nhất. Chính nơi Giáo Hội Chúa đặt để kho tàng ơn cứu rỗi như Công Đồng Vaticanô II đã minh định: Chúa Kitô đã thiết lập và không ngừng nâng đỡ Giáo Hội thánh thiện của Người nơi trần gian, một cộng đoàn đầy niềm tin, cậy, mến, như một cơ cấu hữu hình, nhờ đó Người thông truyền chân lý và ân sủng cho mọi người.” (Hiến chế về Giáo Hội số 8), vì thế, ơn cứu độ được tuôn trào từ Giáo Hội, cho nên Giáo Hội như là nơi chốn để con người kín múc được sự sống đích thật, “mặc dù nhiều nhân tố của ơn thánh hoá và chân lý có thể tìm thấy bên ngoài Giáo Hội tại thế, nhưng những nhân tố ấy, như là ân huệ dành riêng cho Giáo Hội Đức Kitô, đang thúc bách tiến tới sự hợp nhất công giáo” (Hiến chế về Giáo Hội số 8).
Do đó, đừng có ai tưởng rằng, mình sẽ có thể được cứu độ khi tự tách ra khỏi đời sống Giáo Hội như khách bàng quang, bởi Chúa đã khẳng định: ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” Điều đó cho chúng ta thấy, cộng đoàn đóng vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Các buổi qui tụ lại để cử hành phụng vụ, hoặc để thực hiện việc tôn thờ Thiên Chúa là điều cốt yếu của đời sống đức tin. Công Đồng Vaticanô II đã nhấn mạnh: “Các nghi lễ theo bản chất phải được cử hành chung với sự tham dự đông đảo và tích cực của giáo dân, vì thế nên nhớ rằng, mỗi khi có thể, phải dành ưu tiên cho việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành một mình hoặc gần như riêng tư” (Hiến chế về Phụng vụ số 27).
Nhiều người vì thờ ơ, lãnh đạm với đời sống đức tin, nên thường biện minh là “đạo tại tâm” để trốn tránh việc cùng cử hành phụng vụ hoặc cử hành các việc đạo đức chung với người khác. Nên nhớ không có đạo tại tâm, bởi đạo là đường dẫn đưa con người đến gặp gỡ một Đấng làm cho con người đạt tới sự toàn thiện. Quan niệm “đạo tại tâm” chỉ là sự lừa bịp lương tâm, bởi “tự tâm’’ chúng ta không thể, và không có khả năng kiến tạo sự toàn thiện để có thể đạt tới hạnh phúc đích thật, vì tự thân chúng ta là kẻ bất toàn, yếu đuối và hay chết. Đức Kitô đến mạc khải con đường dẫn đến sự sống đời đời, con đường của sự gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ tha nhân, chính sự gặp gỡ này làm cho chúng ta khám phá ra giá trị của cuộc sống và hiểu được sự cần thiết của mối dây tương thân tương ái, và chúng ta cũng nhận ra rằng trên con đường dẫn tới sự gỡ không có một ai đơn độc một mình bước đí, nhưng luôn bao gồm nhiều người. Bởi thế, đạo dẫn tới sự sống được gọi là đạo của niềm vui, của sự hoan lạc, niềm vui được dệt lên bởi sự hiện diện của cộng đoàn, một mình đơn lẻ không thể làm nên niềm vui. Sự kết nối các tâm hồn cùng nhau hướng tới sự thiện hảo là điều kiện để Chúa hiện diện. Và chỉ có sự hiện diện của Chúa chúng ta mới có thể hiểu được đạo là gì, và tại sao chúng ta cần phải thuộc về Giáo Hội.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì Chúa đã qui tụ chúng con vào trong Giáo Hội và làm cho chúng con trở thành một cộng đoàn đức tin và đức ái, xin cho chúng con khám phá vẻ đẹp của đời sống cộng đoàn, để chúng con không thờ ơ với các công việc chung của đới sống Giáo Hội. Xin cho chúng con ý thức được rằng để được cứu độ chúng con cần phải nhờ đến cộng đoàn , và phải gắn bó với cộng đoàn mà chúng con thuộc về, tức giáo xứ nơi chúng con sinh sống. Amen.
25. Nợ tình thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài muốn tất cả mọi người nhận biết sự thật và sống hạnh phúc, đời sau và ngay cả ở đời này. Ngài muốn con người giúp nhau, sống hạnh phúc với nhau, dẫn đưa nhau chung hưởng sự sống vĩnh cửu.
1. Con người có trách nhiệm về anh em mình
Bài đọc trong sách tiên tri Êdêkiên cho thấy trách nhiệm của tiên tri như người canh giữ Israel. Trách nhiệm của người lính canh là loan báo, la lên cho những người có trách nhiệm và dân chúng biết những gì đang tới, đặc biệt những gì làm nguy hại tới nền an ninh của thành trì và dân chúng.
Trách nhiệm của tiên tri ở đây không là cảnh báo những nguy hại về an ninh chính trị, nhưng là về những sai lầm mà dân chúng cùng những nhà lãnh đạo mắc phải đối với Thiên Chúa và giữa họ với nhau. Trách vụ của tiên tri là giúp dân chúng nhận ra những sai lầm, để họ trở lại với Thiên Chúa. Trách nhiệm Thiên Chúa trao cho các tiên tri, các tiên tri phải hoàn tất; nếu không chính tiên tri phải chịu trách nhiệm.
Thời Cựu Ước, người ta thấy trách nhiệm của những người đặc biệt trong dân, chẳng hạn như trách nhiệm của các tiên tri và các vua chúa quan quyền. Người ta cũng liên đới trách nhiệm với nhau, giữa những người cùng máu huyết đồng bào, giữa vua và thần dân; chẳng hạn “cha ăn nho xanh, con cháu phải bị ghê răng,” vua Đavít phạm tội thì dân chúng cũng liên đới chịu phạt “bệnh dịch.” Qua thời Tân Ước, người ta thấy rõ mỗi người đều liên hệ với nhau, có trách nhiệm với nhau tuy dù mỗi người đều tự do và phải lãnh trách nhiệm về chính mình. Hôm nay trong Tin Mừng Đức Yêsu dạy, nếu một người anh em phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó; nếu nó không nghe, thì hãy đi với một vài người nữa, để giúp người anh em sửa đổi. Nếu phải dùng biện pháp mạnh, thì cũng chỉ nhằm giúp người anh em đó nhận ra sự thật để trở về với Thiên Chúa và với anh em mình thôi.
2. Nợ tình thương
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” Tuy nhiên, có nhiều người không bác ái và tế nhị đủ khi sửa lỗi người khác, và làm cho người có lỗi không sẵn sàng nhận lỗi và sửa lỗi. Những người này chủ trương rõ ràng: “nếu đúng thì phải nhận là đúng, nếu thấy mình sai thì phải sửa, đơn sơ chỉ có vậy.” Lý thuyết và nguyên tắc là như vậy, nhưng thực tế con người yếu đuối, cái tôi và tự ái vẫn chi phối đời sống hằng ngày của mỗi người. Nếu chấp nhận chính con người và giới hạn của nhau, sẽ dễ dàng giúp nhau sửa lỗi hơn. Câu “chân lý trong bác ái” (veritas in caritate) giúp người ta ý thức nhiệm vụ phải làm chứng cho chân lý, nhưng không được quên khía cạnh bác ái.
Con người, ai cũng tốt, cũng nghiêng về sự thiện. Vấn đề chính là người ta không biết, không nhận ra những sai lầm của mình. “Nhân chi sơ, tính bản thiên.” Quan niệm trên, dường như phản ánh lập trường của Socrate, một triết gia Hy-Lạp nổi tiếng hồi xưa, ông chủ trương “con người chỉ có mỗi một tội là ngu dốt.” Tuy nhiên, một điều khác người ta cũng không thể phủ nhận, có những người ác, những người cố tình làm điều ác, muốn làm cho người khác khổ, thích thú khi thấy người khác khổ. Có những người chọn điều ác. Dưới một khía cạnh nào mà nói, những người chọn sự ác tuyệt đối là điều không thể hiểu được; nhưng những người chọn điều ác cách tuyệt đối vẫn có đó. Theo niềm tin Kitô-hữu, quỷ là những thiên thần chọn sự ác, những người trong hoả ngục là những người chọn điều dữ cách tuyệt đối.
Trong cách đối xử giữa con người với nhau, chúng ta phải giả sử ai trong chúng ta cũng hướng thiện, cũng phục thiện. Nếu chúng ta không suy nghĩ và sống như vậy, chúng ta cũng đang ở trong sự dữ. Tin vào con người, như Thiên Chúa vẫn tin vào con người và vào mỗi người chúng ta, là một dấu chỉ chúng ta đang ở trong đường lối đúng đắn của Thiên Chúa. Khi không tin vào con người nữa, e rằng chúng ta cũng không tin vào Thiên Chúa, và tính “thiện” cũng rất mờ nhạt nơi chúng ta. Thiên Chúa vẫn tin vào con người, ngay cả vào những người làm ác, cho tới giây phút cuối đời của họ. Bình thường Thiên Chúa vẫn thắng, vì tình yêu mạnh hơn sự chết, vì tình thương lớn hơn sự dữ.
3. Yêu thương là chu toàn mọi lề luật
“Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến.” Nếu con người yêu thương nhau, con người đang hành xử giống Thiên Chúa; lúc đó, Thiên Chúa là Cha của họ, vì “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.” Yêu thương là cái gì thuộc bản chất con người mà con người đang thủ đắc mỗi ngày, càng yêu thương con người càng nên giống Thiên Chúa; càng yêu thương con người càng hạnh phúc.
Yêu thương, nên ai đó giúp người khác nhận ra sự thật. Và tin rằng, một khi nhận ra sự thật, người ta sẽ sửa đổi nếu người ta nhận thấy mình sai. Nếu người ta vẫn không sửa đổi được khi người ta nhận ra họ sai, nghĩa là, họ yếu đuối. Trong trường hợp này, người yêu thương thật tình là người thông cảm với những yếu đuối lỗi lầm của tha nhân, và chờ đợi họ sửa đổi; hơn nữa, họ tin tưởng Thiên Chúa là Đấng có thể làm cho con người kiên vững và biến đổi con người. “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.” Thiên Chúa trên nơi cao thẳm, Thiên Chúa ngự sâu thẳm nơi lòng mỗi người, sẽ ban cho điều con người xin Ngài. Thiên Chúa tạo dựng con người tốt lành; tuy nhiên, con người tự do để sống theo tiếng gọi “yêu thương” của Thiên Chúa hay không.
Một khi con người yêu thương, là con người sống theo ơn gọi của mình, con người cảm nghiệm hạnh phúc chính khi mình yêu thương. Mọi lề luật, là để bảo vệ con người; để người khác không dùng tự do của riêng mình mà xúc phạm đến quyền của người khác. Một khi con người sống yêu thương, con người luôn tôn trọng người khác và quyền lợi của họ, thì lúc đó lề luật không cần nữa. Thánh Augustinô nói: “hãy yêu, rồi muốn làm gì cũng được.” Câu này phải được hiểu đúng nghĩa của chữ “yêu;” nếu một người yêu chân thực, họ sẽ không làm gì hại cho người họ yêu, trái lại, họ luôn muốn và làm những gì giúp người họ yêu hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Có công bằng không, khi bạn phải có trách nhiệm với những người bên cạnh bạn?
2. Không có yêu thương nếu không có công bằng, bạn nghĩ sao về lời phát biểu này?
3. Thiên Chúa là Tình Yêu. Câu này diễn tả Thiên Chúa là Đấng nào? Xin bạn chia sẻ theo sự hiểu biết của bạn.
26. Sửa lỗi cho nhau
(Suy niệm, Chú giải của Lm. Ignatiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIII Thường Niên Năm A nêu bật một chủ đề: “yêu thương đồng loại”.
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh em đồng loại là Đức Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn những lời của Đức Giêsu mời gọi các Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị ngôn sứ cùng với một số người đồng hương sống trong cảnh lưu đày. Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
Diễn ngữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này, diễn ngữ “con người” quy chiếu đến chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường sử dụng đặc ngữ này để nhấn mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh, trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh gác:
“Ta đặt ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là “người canh gác nhà Israel”. Người canh gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những án phạt.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32). Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể ngỏ lời với từng người một những lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận đối với anh em mình:
Đối với dân Israel, chết không gì khác hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu Ước thường trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa (x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận của mỗi người không phải luôn luôn bất di bất dịch như đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi cũng có thể hoán cải trở thành người công chính.
Từ đó, ông nhấn mạnh trách nhiệm của người biết huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình biết biện phân tỏ tường, nếu không, đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người Kitô hữu phải phục tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn tất được.
1. Yêu người theo Cựu Ước:
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”. Thập giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh nhiên bổn phận yêu người. Yêu người được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người theo Tân Ước:
Theo Cựu Ước, “anh em đồng loại” trước hết là những người cùng chung một dân tộc, đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng huấn lệnh yêu người đến tất cả mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa, từ mến Chúa mà yêu người được khơi nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13, 8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18 nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35) bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em” và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong đức ái.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc Đức Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau đã được Luật Mô-sê đề cập đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ.
– Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác hay biết.
– Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý. Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
– Nếu lần nầy cũng thất bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể bị khai trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế, tức là một người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện, mà người ta tránh giao tiếp.
Với những lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu – tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức Giêsu định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu lực của lời cầu nguyện như thế vào trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa, ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa lỗi để cộng đoàn không phải mất bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ con chiên nào phải hư mất.
27. Trách nhiệm
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Truyện kể: Một du khách đang rảo qua khu danh lam thắng cảnh ở Thụy Sĩ, ông dừng lại trước hàng rào của một khu vườn hoa đẹp đẽ bao quanh một lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ và đón chào. Họ nói chuyện với nhau về các loài hoa. Ông du khách hỏi: Cụ ở đây bao lâu rồi? Thưa, được 24 năm. Cụ đã gặp chủ nhân được mấy lần rồi? Tôi đã gặp 4 lần và lần cuối cách đây ba năm. Vậy ông ta có thường liên lạc với cụ không? Thưa không. Vậy ai trả lương cho cụ? Viên quản gia của ông chủ. Người quản gia có năng tới đây không? Tôi chưa hề gặp ông ta, chúng tôi liên lạc bằng thơ từ thôi. Thế thì ai thưởng lãm cảnh đẹp này, mà cụ phải mất công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy? Ô, thưa ông, tôi chu toàn trách nhiệm của mình và tôi làm như chủ tôi sẽ đến ngày hôm nay, ngay bây giờ. Ngoài ra chính khi làm đẹp khu vườn của ông chủ, vợ chồng tôi cũng được vui hưởng cảnh đẹp.
Ông Adong và bà Evà có hai con trai đầu, Cain và Abel. Vào một ngày kia, Thiên Chúa đã hỏi Cain: Abel, em ngươi đâu rồi? Cain thưa: Con không biết, con là người giữ em con sao? (Stk 4, 9). Vì ghen tương, Cain đã giết em mình, nhưng Cain đã chối từ trách nhiệm. Thiên Chúa thấu tỏ mọi sự trong lòng. Cain và Abel là anh em ruột, đương nhiên anh em là có trách nhiệm nâng đỡ bao bọc lấy nhau. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội, phải có người chịu trách nhiệm. Người ta thường nói rằng: Tội qui vu trưởng. Thường là người đứng đầu một tổ chức sẽ chịu trách nhiệm trước. Chúng ta không thể đổ thừa quanh. Nhân loại là một loài thụ tạo cao quý có trí khôn, ý chí và tự do. Trách nhiệm của con người liên đới được mở rộng qua các tổ chức xã hội để giúp nhau thăng tiến.
Khi dân số tăng trưởng, con người đã tổ chức cơ cấu đời sống gia đình và xã hội. Gia đình là đơn vị nhỏ nhất để xây dựng một cộng đoàn xã hội. Chúng ta biết mỗi một cá nhân đều có căn tính riêng biệt. Trong gia đình xã hội có nhiều thành viên khác nhau hợp lại, bao gồm có người khôn kẻ dại, người tốt kẻ xấu, người rộng kẻ hẹp và người mạnh kẻ yếu. Mọi người cần tựa dựa vào nhau để sinh sống. Mỗi thành viên đều có trách nhiệm liên đới để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tiên tri Ezekiel đã rao giảng về sự giúp nhau sửa đổi: Còn khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đường lối nó, nếu nó không chịu bỏ đường lối nó, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống ngươi (Ez 33, 9). Chúng ta không thể nhắm mắt, bịt tai và làm ngơ trước những sự dữ hay sự xấu nơi những người anh chị em. Chúng ta có bổn phận nâng đỡ nhau nhận ra những sự sai trái và giúp nhau sửa đổi, đây là một món nợ của tình người.
Vì mang bản tính yếu đuối, hằng ngày mỗi người chúng ta đều phạm lỗi, kẻ ít người nhiều. Có những lỗi nhẹ, dễ dàng xí xóa bỏ qua. Nhưng đôi khi có những thói hư tật xấu đã trở thành thói quen thì cần được chỉ giáo và khuyên răn. Chúng ta biết sự xấu được ngụy trang dưới nhiều cách thế, chúng ta khó có thể lật tẩy để nhận diện ngay. Đôi khi những tật xấu núp dưới bóng của những cử chỉ và lời nói ngon ngọt, êm dịu và nhẹ nhàng. Có những phát biểu tưởng là góp ý tốt lành, nhưng ẩn ý là phê bình, chỉ trích, gièm pha, ăn không nói có… Tất cả cái xấu cũng do cái lưỡi không xương lắt léo nhiều đường. Lời nói như chiếc dao hai lưỡi rất nguy hiểm. Lời nói có thể xây dựng đoàn kết và cũng có thể gây hệ qủa xấu như chia rẽ, thù oán và hại người hại ta. Nếu không xét mình một cách thành thật, chúng ta rất khó nhận ra những lỗi lầm này.
Là anh chị em sinh hoạt chung trong một nhóm, hội đoàn hay cộng đoàn, chúng ta có trách nhiệm nhắc bảo và giúp đỡ nhau sửa sai. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta sống tình tương thân tương ái giúp nhau nhận lỗi và sửa lỗi: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em (Mt 18, 15). Biết rằng sửa lỗi anh chị em không phải dễ, vì chúng ta ai cũng phạm lỗi. Chúng ta biết người phạm lỗi là những người yếu đuối. Ít có ai muốn nghe những điều tiêu cực về chính mình. Vì chúng ta dễ tự ái, nên rất khó chấp nhận sự sửa sai của người khác. Thường thì việc người thì sáng, việc nhà thì đui. Chúa Giêsu mách nước cho chúng ta về sự sửa lỗi, trước hết hãy sửa dạy cách kín đáo và riêng tư. Chúng ta phải hết sức tế nhị gợi ý để người khác nhận ra lỗi của họ. Khi nói đến vết thương lòng thì rất dễ nhạy cảm. Những phản ứng tự nhiên của kẻ mắc lỗi thường thì gay gắt khó chịu. Nhưng với lòng từ bi và sự kiên nhẫn, chúng ta có thể thuyết phục người anh chị em chịu nhận sai lầm và trách nhiệm của việc sai trái.
Vì con người có ý chí tự do, nên mỗi người phải chịu trách nhiệm về việc mình đã làm trong cả tư tưởng, lời nói, chữ viết và hành động. Nơi cuộc sống chung, có những trách nhiệm cụ thể cá nhân và có những trách nhiệm liên đới tập thể. Trong đời sống gia đình, người cha, người mẹ và con cái có những bổn phận và trách nhiệm riêng biệt. Nơi cuộc sống xã hội, mỗi tổ chức đều có người chịu trách nhiệm trong lãnh vực của mình. Mỗi thành viên đều có bổn phận góp phần xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Có phước cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Người dám nhận lãnh trách nhiệm là người trưởng thành. Làm sai thì nhận lỗi sai. Công việc thành công hay thất bại là lẽ thường của đời sống. Khi chối tội, chạy tội, dấu tội hay đổ thừa lỗi lầm cho người khác là thiếu trách nhiệm. Sai thì sửa. Có lỗi thì xin lỗi. Làm tội thì chịu tội. Đối diện với sự xấu, sự dữ và sự thất bại, đôi khi chúng ta cảm thấy ngại ngùng, xấu hổ và chối từ, nhưng chỉ có sự thật sẽ giúp chúng ta tìm lại được sự bình an đích thực.
Chúng ta đang trên đường lữ thứ trần gian. Mỗi ngày chúng ta sống là một ngày hồng ân. Chúng ta không biết chắc chắn về tương lai. Mọi sự cố đều có thể xảy ra. Anh chị em đừng để mắc nợ nhau sự gì. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Rôma đã khuyên: Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai, ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật (Rm 13, 8). Sống giây phút hiện tại cho tròn đủ. Đức ái là yêu thương, tha thứ, nhường nhịn và quảng đại. Chúa Giêsu tóm kết các giới răn vào hai điều: Mến Chúa và yêu người. Yêu thương nhau là tôn trọng nhau. Yêu thì không gây sầu, oán giận, gây thiệt hại hay thù ghét làm khổ người khác. Yêu thương nhau là muốn điều tốt cho nhau và cùng nhau tiến bước trên con đường hoàn thiện: Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật (Rm 13, 10).
Nếu không có ơn Chúa phù trợ, chúng con không thể làm gì được. Cầu nguyện là hơi thở trong đời sống đạo. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện. Nhưng đẹp ý Chúa hơn, nếu nơi nào có hai ba người đồng lòng hợp ý cầu nguyện, thì ơn Chúa sẽ tuôn đổ dồi dào hơn: Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó (Mt 18, 19). Hai người cùng cầu nguyện nói lên sự hỗ tương, yêu thương, hòa thuận và chung lòng chung ý. Một hình ảnh rất thuyết phục, các dòng tu thường sai từng hai tu sĩ ra đi rao giảng và phục vụ, giống khi xưa, Chúa đã sai từng hai môn đệ ra đi loan báo Tin Mừng.
Lạy Chúa, chúng con là những Kitô hữu, mang danh của Chúa Kitô, xin cho chúng con biết yêu thương nhau và giúp nhau thăng tiến trên con đường trọn lành.
28. Nghĩa vụ yêu thương
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Yêu thương không làm hại đồng loại” (Rm 13,10)
Yêu thương tha nhân nghĩa là gì? Thánh Phaolô cắt nghĩa: “Yêu thương là không làm hại đồng loại” và “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Làm thế nào để cả 2 khía cạnh này tương tác với nhau, hình thành một phương cách thực hiện đức ái Kitô giáo cách cụ thể. Một bên xem ra có vẻ tiêu cực: không làm điều ác, và một bên lại rất tích cực: chu toàn lề luật. Khi nào và thế nào, chúng ta có thể nhận ra rằng chúng ta đang thực hiện những giáo huấn đó?
Không làm điều ác là một đòi hỏi xem ra có vẻ tiên quyết. Nó mời gọi chúng ta suy xét về thái độ sống của chúng ta mang âm hưởng đến cận nhận làm sao? Nó cũng tra vấn xem chúng ta đã hiện lộ lòng mến trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó như thế nào. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta thực hiện một trong những cách thái để diễn bày tình yêu đối với tha nhân là kêu mời họ quay trở về, khi họ lỗi phạm, hầu giúp họ thoát khỏi con đường tội lỗi. Có lẽ không có con đường nào gian nan cho bằng việc sửa lỗi cho cận nhân. Cận nhân đó có thể là một người bạn, một người thân trong gia đình. Cho dù chúng ta thực hiện việc này với lòng thương cảm đích thực, thì đó vẫn là hành vi thực hiện đức mến cao cả nhất.
Khi bạn bè hoặc gia đình báo cho ta biết có ai lỗi phạm điều gì đó, thường chúng ta tức giận ngay lập tức và chẳng quan tâm đến, ít nhất là lúc ban đầu, để lắng nghe xem họ phạm lỗi như thế nào. Nhưng Đức Giêsu khuyến mời chúng ta phải thực hành, bởi vì sửa lỗi cho nhau là hành vi thể hiện tình yêu thương. “ Nếu một người nào đó trong Hội Thánh phạm tội chống lại anh”, Ngài nói “ Anh hãy đi và chỉ cho người đó biết lầm lỗi của họ, khi chỉ có anh và người đó mà thôi”. Tuy nhiên Đức Giêsu cũng tiên liệu nguy cơ là người đó không chấp nhận. “Nếu người đó không nghe anh, hãy mời thêm một hoặc hai người khác cùng đi với anh để anh có thêm nhân chứng hỗ trợ”. Cách thái này cũng rất khó khăn vì nó sẽ chạm vào tự ái và khơi dậy nỗi đau do chính tội lỗi họ đã gây ra.
Phương cách này quả rất gian nan vì nhiều lý do khác nhau. Có khá nhiều trường hợp một người bị anh chị em của mình kết án chỉ dựa trên tiếng đồn hay dư luận, và điều này dễ làm gãy đổ mối tương liên, làm rạn nứt sự thông hiệp trong Giáo hội. Phần đa chúng ta không biết đầy đủ và chính xác về cuộc sống của người anh em chúng ta. Yêu thương tha nhân một cách trọn vẹn để có thể sửa chữa lỗi lầm cho nhau, đòi hỏi chúng ta phải sống với nhau thân tình một cách thật sự. Khởi đầu của lòng mến là không làm điều gì đó hại đến anh em mình. Vì thế, chính chúng ta phải tìm hiểu kỹ càng về tha nhân và phải dành nhiều thời gian để xây dựng mối tương giao huynh đệ cách sâu xa.
Chúng ta sẽ bắt đầu hiểu biết về người anh em khi chúng ta đối xử với họ trong mối tương giao thân hữu thực sự. Điều này đặt căn bản trên tình yêu, theo sự chỉ dạy qua giáo huấn của Hội Thánh và các giới răn. Thánh Phaolô nói rằng “Đây là điều chúng ta mắc nợ nhau”, mắc nợ lòng yêu thương. Quả thật, Thánh Phaolô đã xác quyết, ai yêu mến anh em mình người đó chu toàn lề luật. Ngài có ý nói rằng, tất cả lề luật “ chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian…” và những giới răn khác, được tóm kết trong một điều duy nhất “Hãy yêu thương cận nhân như chính mình”.
Nhưng ý niệm “tóm kết” ở đây được dịch bởi hạn từ “plêrioô” cũng có thể dịch là “chu toàn”. Theo Thánh Phaolô, chu toàn lề luật không có nghĩa là tổng tóm các lề luật lại. Ngài còn diễn tả sâu xa hơn, là tất cả những ai “chu toàn lề luật”, họ liên kết với Đức Kitô xuyên qua đời sống của họ, được biểu thị bằng đức tin, được diễn tả trong đức ái, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Lề luật không phải được giản lược trong một phạm trù duy nhất, như từ ngữ “tóm gọn” diễn tả, nhưng việc chu toàn lề luật chính là biết dàn trải tình yêu đến mọi ngõ ngách của cuộc sống, để lòng mến đối với tha nhân điều hướng cuộc sống chúng ta, ngay cả tại những nơi mà lề luật không nói tới một cách cụ thể.
Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, điều mà Thánh Phaolô nói ở đây và cả trong thơ Gal 5,14, khi đề cập tới việc tóm gọn lề luật mà sách Lêvi 14,18 nói tới, chính là “hãy yêu đồng loại như chính mình”. Song Ngài cũng gợi nhắc đến câu nói của Chúa Giêsu ở một chỗ khác “với hạn từ Shenma”. Sách Đệ nhị luật 6,4-5 có viết: Đức Chúa, Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ hết sức anh em. “Shenma” nói lên niềm tin của người Do Thái, quy tập vào tình yêu của một đấng, là chính Thiên Chúa.
Tại sao? Thánh Phaolô đã trải nghiệm sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa, nhưng Ngài còn có môt mục đích sâu xa hơn. Trong khi chúng ta dễ dàng nói “yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực ngươi” ( Đệ Nhị Luật 6,5), chúng ta rất dễ lẫn lộn và bối rối khi muốn thực hiện lòng mến đối với tha nhân cũng theo dạng thức này. Thánh Phaolô hiểu điều đó, nên Ngài đã xác quyết cách thế để chu toàn lề luật là đừng làm hại người khác. Đó cũng là phương cách để chúng ta diễn bày tình yêu cụ thể của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta có thể sờ chạm đến được.
29. Có tha thứ được không?
(Suy niệm của Đaminh Lê Văn Luận, SJ.)
Tục ngữ Việt Nam có câu: “nhất tội nhì nợ”. Có tội và mắc nợ là nỗi thống khổ lớn lao của con người. Tuy vậy, kỳ diệu và may mắn thay, con người có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ giải phóng con người khỏi gánh nặng của lầm lỗi. Tha thứ là chuyện khó khăn, nhưng đó không phải là điều bất khả đối với những người tin theo Chúa Giêsu.
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên A[1], ông Phêrô đã đặt câu hỏi với thầy Giêsu: “Lạy thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Một câu hỏi rất thật tình, đầy lòng thiện chí và cũng ẩn chứa căng thẳng khôn nguôi giữa việc sống cho mình và sống cho người. Theo luật Môsê, người ta nên tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình ba lần.[2] Ba lần đã là một con số đáng mong đợi theo lề luật. Khi Phêrô nâng việc tha thứ lên tới bảy lần, ông có thể nghĩ mình đã là một người hết mực nhân từ. Việc đặt ra một giới hạn để bảo vệ phẩm giá chính mình thật là chính đáng. Tuy vậy, khi đi theo Chúa Giêsu, có điều gì đó thẳm sâu trong lòng thôi thúc ông phải đặt lại giới hạn của tha thứ. Chúa Giêsu là người kiện toàn lề luật, Phêrô muốn hiểu sâu hơn về luật tha thứ, và cũng muốn tha thứ như Thầy của mình.
Chắc hẳn tha thứ không phải là điều dễ dàng. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng có quyền được người khác tôn trọng phẩm giá. Việc xúc phạm đến tự do, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích của một người cũng là xúc phạm đến hình ảnh Thiên Chúa nơi họ. Được trao ban cho trách nhiệm gìn giữ và phát triển phẩm giá của bản thân, người bị xúc phạm sẽ cảm thấy bị tổn thương, tủi hờn, giận giữ. Những cảm xúc phòng vệ này nổi lên cách tự nhiên nơi mỗi con người. Tuy vậy, cảm xúc ấy vẫn cần được nhận biết và gìn giữ để bản thân không bị kiểm soát và thúc đẩy đến mức cực đoan của những hành động trả thù, hoặc quay trở lại làm hại đến chính mình. Chúa Giêsu hiểu đau khổ của Phêrô khi bị người khác xúc phạm. Chúa không quở trách vì những cảm xúc khó chịu nơi ông, Chúa hướng ông đến sự tha thứ.
Sống với tha nhân, việc xúc phạm đến nhau là điều không thể tránh khỏi. Vì những giới hạn yếu đuối, và do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, con người ai cũng có tội. “Nếu chúng ta nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Xét trong sự liên đới với nhau trong một gia đình nhân loại, tội một người ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Thánh Phaolô đã ví mỗi cá nhân như một bộ phận của thân thể cộng đoàn. “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau, nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cùng vui chung” (1 Cr 12,24-26). Đối với người bên cạnh mình, ta lại càng dễ dàng xúc phạm đến họ. Một lời nói vô tình, một ánh nhìn phán xét, sự ích kỷ ghét ghen, thói kiêu ngạo khoe khoang, các đam mê dục vọng – tất cả đều là thứ vũ khí sắc nhọn và có sẵn mà ta có thể gây tổn thương cho họ bất cứ lúc nào.
Người ta có lý khi nói rằng người ở gần mình nhất, người mình tin tưởng nhất lại là người có thể gây cho mình sự tổn thương nặng nề nhất. Nếu không tha thứ, những xúc phạm ấy có thể đưa đến những rạn nứt đỗ vỡ không bao giờ có thể hàn gắn được. Đã có bao cuộc chia lìa xảy ra trong mối tương quan giữa những người đã từng rất thân thiết: vợ với chồng, cha mẹ với con cái, anh chị em trong gia đình, những người bạn tâm giao… Khi thiếu vắng sự tha thứ và được thứ tha, nhiều đau thương tàn khốc tích luỹ dần từ những xúc phạm nhỏ nhặt hằng ngày. Câu hỏi mà Phêrô đưa ra trong đoạn Tin Mừng nói trên chắc hẳn cũng là nỗi ray rứt và bối rối của những ai sống phận làm người giữa cuộc nhân sinh. Tha thứ không dễ, mà không tha lại chẳng đành. Tha mấy lần cho đủ!
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi của Phêrô bằng một câu trả lời vượt ra khỏi ý của người hỏi. Phêrô hỏi về mức giới hạn của tha thứ, Chúa dẫn Phêrô tới một sự tha thứ không giới hạn. Chúa diễn giải tinh thần tha thứ ấy bằng dụ ngôn tên đầy tớ không biết thương xót. Bảy lần so với bảy mươi lần bảy cũng nhỏ nhoi như một trăm đồng bạc so với mười ngàn nén bạc. Tiền công nhật của một người Do Thái thời Chúa Giêsu chỉ được một đồng bạc. Người ấy phải làm việc hai mươi năm mới kiếm được một nén bạc. Món nợ mười ngàn nén bạc là món nợ vô hạn không bao giờ có thể trả được.[3] Ấy vậy, khi đã được chủ tha cho món nợ khổng lồ, tên đầy tớ lại không thể tha món nợ nhỏ cho người bạn của mình. Giá như anh nhớ đến món nợ cuộc đời của mình, giá như anh biết ơn vì những gì đã nhận được, chắc anh sẽ chẳng hành xử như vậy đối với bạn bè mình. Tiêu chuẩn để tha thứ không còn là việc tha nhân đã xúc phạm đến mình như thế nào, nhưng là mình đã được tha thứ làm sao.
Điều cốt yếu trong tha thứ là khai thông những vướng mắc, hàn gắn những rạn nứt, xây dựng chiếc cầu nối tương quan giữa người với người. Nếu ai chỉ nghĩ đến mình, nếu ai loại người khác ra khỏi cuộc đời mình, chắc người đó không thấy mình cần phải tha thứ. Như vậy, tha thứ còn là điều cần thiết cho chính người bị xúc phạm. Người biết tha thứ tự giải phóng mình khỏi nhà tù vững chắc của một con tim khép kín trong cay đắng sầu hận. Tha thứ phá vỡ những bức tường ngăn cách, nối những nhịp cầu để toàn nhân loại giang rộng vòng tay yêu thương, cùng nhau ôm lấy và phủ lấp những giới hạn yếu đuối phận người. Vòng tay lớn rộng ấy chắc chắn có tâm điểm là một Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng đã tự huỷ chính mình để mang ơn tha thứ xuống cho thế trần.
Lạy Cha chúng con ở trên Trời… xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Amen.
—————————–
[1] Mt 18,21-35. Tin Mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên A, ngày 13.09.2020.
[2] John F Walvoord, Roy B Zuck, The Bible knowledge commentary: an exposition of the scriptures, vol III (USA: Victor Books, 1985), 62.
[3] John F Walvoord, Roy B Zuck, The Bible knowledge commentary: an exposition of the scriptures, vol III (USA: Victor Books, 1985), 63.
30. Tế nhị sửa lỗi người anh em
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta, khi sửa lỗi người anh chị em, chúng ta phải theo tiến trình ba bước…
***
Trong quyển sách nói về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện như sau:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ sự bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói: hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án aây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui ngay vào một cái thùng gỗ.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay sự tình. Ung dung, ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi ra hiệu cho dân làng vào và bảo:
– Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm ra người phụ nữ, Đức Giám Mục mới nói:
– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này.
Sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta, khi sửa lỗi người anh chị em, chúng ta phải theo tiến trình ba bước.
– Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để tạo niềm tin nơi họ.
– Nếu người anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình, đó là bước hai.
– Nếu họ cũng không nghe thì mới đưa ra cộng đoàn, đó là bước thứ ba.
Qua câu chuyện vị ẩn sĩ trên, dân làng và ngay cả chúng ta, có khuynh hướng dùng chính Lời Chúa hôm nay để sát phạt vị ẩn sĩ sai phạm, bằng cách lướt nhẹ bước một và bước hai để đi ngay vào bước thứ ba. Dân làng cũng như chúng ta hôm nay muốn đề nghị vị Giám Mục với quyền bính của ngài, đưa vị ẩn tu ra xét xử trước mặt cộng đoàn đang hiện diện. Nhưng chúng ta tự hỏi liệu cách này có mang đến kết quả không? Có thể có mà cũng có thể không, nhưng một điều chắc chắn là cách của Đức Giám Mục Amolas đã thắng ngay ở bước một.
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có quyền. Trái lại, ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, ngài đã không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu nhưng chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Qua cách cư xử của Đức Giám Mục Amolas, chúng ta thấy:
Muốn thành công trong việc sửa lỗi người khác, dù ở bước một, bước hai hay bước ba, chúng ta phải có những tâm tình như sau:
Trước hết, phải có một tâm tình yêu thương, đừng lên án, chỉ trích, nhưng luôn tế nhị dịu dàng.
Thứ đến, phải có lòng kính trọng chân tình, luôn giữ thể diện cho ngưới lầm lỗi, đừng chà đạp lên lòng tự ái của họ. Kính trọng vì người anh em tuy có lỡ sai phạm nhưng vẫn có khả năng sửa đổi. Khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ mang đến thất bại.
Sau cùng muốn sửa lỗi người anh em phải hết sức tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy chúng ta phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị, yêu thương chân thành sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn. Amen.
31. Cộng đồng huynh đệ
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Chúa Giêsu đã muốn thiết lập Giáo hội của Ngài như một cộng đồng Tình yêu, trong đó luật bác ái thương yêu là một giới răn mới, một dấu chỉ để biết ai là môn đệ của Chúa.
Nhưng Chúa cũng biết rằng đâu đâu cũng có những yếu đuối con người, đâu đâu cũng có những vấn đề giữa con người. Trong cộng đoàn bé nhỏ 12 môn đệ sống với Ngài, Chúa đã nghiệm thấy như vậy.
Giáo hội là một cộng đồng anh em, nhưng là một cộng đồng gồm người tội lỗi bên cạnh người lành.
Chúa phán: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Nhưng sửa dạy làm sao? Theo tinh thần Phúc Âm, việc sửa lỗi anh em là một việc rất tế nhị và gồm 3 công tác sau đây:
– “Hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu không kết quả thì hãy nhờ đến hai ba người làm nhân chứng. Và sau cùng mới trình với cộng đoàn”. Đây là một thủ tục tình thương và bác ái dạy làm hết mọi sự để giữ một người anh em đang muốn xa lìa cộng đoàn. Vì thế, việc sửa lỗi anh em là một việc tế nhị, đòi hỏi vừa sự can đảm vừa sự thanh nhã, đồng thời phải có sự khiêm nhường và thông cảm với anh em. Đừng khơi thêm hố chia rẽ, nhưng hãy cầu nguyện để thành công, để đưa người anh em về đường công chính.
Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chung sống trong tu viện với một chị bạn tên là Marthe. Chị này có một tật xấu là quá quyến luyến Bà Mẹ bề trên. Têrêxa, sau nhiều tháng chờ đợi và cầu nguyện, chị quyết định nói. Trước khi nói, chị đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy đúng sự thật”, Chị đã nói với người bạn “với tất cả tâm hồn và với tất cả kinh nghiệm đã có”. Chị Marthe như được giải tỏa tâm hồn và cũng nhìn nhận rằng “Vị chăn chiên đừng nghe theo những lời dua nịnh dối trá, vì không có gì tai hại cho bằng những lời ca tụng đầy nọc độc”.
– Giáo hội theo lối quảng diễn của Matthêô còn là một cộng đồng tha thứ và liên đới, trong đó mỗi người có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Nếu sau nhiều cố gắng để đưa người anh em lầm lỗi trở về mà không có kết quả thì hãy trông cậy vào tình thương xót của Đấng chăn chiên tối thượng.
Cái quyền “tuyệt thông” đối với một người anh em làm cho ta nhớ lại một lời khác của Chúa về quyền năng của Giáo hội: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo gỡ dưới đất trên trời cũng tháo gỡ”. Quyền năng tha thứ đó, Chúa đã hứa cho Phêrô thì nay Chúa cũng ban cho các môn đệ. Đó là tập đoàn 12 Tông đồ Chúa đã tuyển chọn và sai đi, trong đó Phêrô giữ một vai trò trọng yếu. Chúa trao cho họ sứ mạng hòa giải và cứu rỗi. Như vậy dần dần Chúa đã thiết lập các cơ cấu của Giáo hội.
– Sau cùng, Giáo hội là một cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin. Tám ngày sau phục sinh, một bầu khí chia rẽ cũng bao trùm các môn đệ. Tôma nằng nặc không muốn tin rằng Thầy đã sống lai. Chúa xuất hiện, sự hiện diện của Chúa đánh tan mối nghi ngờ, chia rẽ, đem lại sự hiệp nhất.
Khi viết đoạn Phúc Âm này, hẳn là Matthêô muốn nhắc nhở cho Giáo hội, đã lan rộng ra ngoài biên cương Do thái, đến Cận đông, đến cả Lamã rằng Chúa là sự hiệp nhất. Muốn có sự hiệp nhất, muốn tránh sự chia rẽ vì mầu sắc chủng tộc, văn hóa, thì Giáo hội phải cầu nguyện, phải tập họp “nhân danh Thầy” vì có Thầy ở giữa. “Thầy là trung tâm hội tụ mọi động lực” (Kinh của Teilhard de Chardin).
Lạy Chúa, xin dạy con biết khiêm tốn hòa nhã khi phải sửa lỗi anh em, xin dạy con biết cầu nguyện khi phải đương đầu với chia rẽ hiểu lầm, vì chỉ có Chúa là rường mối sự Hiệp nhất.
32. Tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi nhau nhằm mục đích tốt cho nhau. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu.
Sống dưới bầu trời này mọi người đều là anh em của nhau: “tứ hải giai huynh đệ”. Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia dình của Ngài.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”.
Chúa Giêsu nhắc chúng ta trách nhiệm đó. Vấn đề ở đây không có ý nói về việc tôi can thiệp vào đời tư của người khác, nhưng chúng ta phải ý thức hơn đó chính là trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em mình, giúp cho tha nhân sống tốt hơn, vì ích lợi cho chính người anh em đó, vì ích chung của Giáo Hội.
Tuy nhiên, việc sửa lỗi tha nhân, giúp đỡ anh em sửa đổi con người mình là một công việc tế nhị, khó khăn, không mấy dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng phải hy sinh và kiên nhẫn. Khi sửa lỗi tức là tôi đang can thiệp, đang đụng chạm trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: đầu tiên, cá nhân đối diện cá nhân.
Kế đến, nếu người phạm lỗi không chịu nghe những lời góp ý để sửa lỗi lầm, thì chúng ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý. Việc này sẽ thấu tình đạt lý và có sức hoán cải hơn.
Cuối cùng, nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo. Đây quả là một biện pháp khôn ngoan và hữu ích. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm lỗi. Mặt khác, biện pháp đó còn giúp cho người có lỗi có dịp hồi tâm, có cơ hội phản tỉnh để nhận ra sự thiếu sót, lỗi lầm của mình. Khi đó, không một tội nhân nào còn có lý do gì khác để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, của tình nghĩa huynh đệ. Phải thi hành bác ái với tình yêu anh em. Chúng ta giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành và hoàn thiện khi chủ ý đóng góp đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân lý và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá huỷ đồng thời có thể đẩy lui những điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ phải ý thức đáp trả cho được.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tha thứ, biết giúp cho nhau được thăng tiến hơn, được sửa chữa những lỗi lầm của mình, được hoàn thiện trong tình yêu của Chúa. Amen.
33. Chúa Nhật 23 Thường Niên
SỐNG BÁC ÁI, HIỆP THÔNG ĐỂ CÙNG NHAU THĂNG TIẾN
(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật XXIII, chủ để nổi bật hơn cả là “bác ái huynh đệ trong cộng đoàn tín hữu”.
Sống trong Giáo hội Chúa Kitô
“Hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu”, bác ái, tha thứ cho nhau và giúp nhau thăng tiến là điều ai cũng muốn và cần làm. Đây không đơn giản chỉ là tương quan xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Việc sửa lỗi huynh đệ đã có trong sách Lêvi: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó ” (Lv 19, 17). Vì bác ái với dân Israel, Chúa đã làm cho Êdêkiel “trở nên người lính canh nhà Israel”, và truyền ông phải nói cho “kẻ gian ác bỏ đường lối mình”, để được sống, nếu không “thì chính kẻ gian ác sẽ chết” (x. Ed 33, 7-9).
Thánh Phaolô nói: “Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau” (Rm 13, 8). Thì ra chúng ta phải mắc nợ nhau về tình mến. Cùng một thân thể mầu nhiệm Đức Kitô, thánh Phaolô mời gọi ta mặc lấy tâm tình của Đức Kitô, sống hiền lành, khiêm nhường và liên đới với nhau. Bởi tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc, chúng ta là anh em với nhau trong Chúa, nên hãy đối xử với nhau bằng tình yêu và lòng mến, vì toàn bộ luật của Thiên Chúa được nên trọn trong tình yêu, kể cả Mười Điều Răn “và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình” (x. Rm 13, 8-10).
Tình yêu và sự kiên nhẫn
Lời thánh Phaolô trong bài ca đức ái: ” Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác “(1Cr, 9), cho thấy Giáo hội được qui tụ làm thành Thân Thể Chúa Kitô, lãnh nhận sứ mạng bày tỏ Thân Thể này theo ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta là những chi thể của cùng một Thân Thể, tuy khác nhau, nhưng cùng qui về Giáo hội, liên đới với nhau như một bản giao hưởng tình bác ái. Nên ai phạm lỗi, người ấy thiếu tình bác ái không chỉ với một người, mà con đối với toàn thân thể.
Cứ sự thường ai xúc phạm đến ta, ta không can thiệp gì hết. Viện cớ: nó đã xúc phạm đến tôi! Tôi sẽ không nói gì hết, dứt khoát là không. Vậy làm gì bây giờ? Nó đã xúc phạm đến tôi: Mắt đền mắt, răng đền răng ư? Đây không phải là giải pháp, làm thế sự xấu sẽ xấu hơn. Tôi sẽ đi gặp anh em và nói: Anh đã làm tổn thương tôi, không được! Anh được Thiên Chúa tạo dựng, vì tình bác ái, tôi phải kéo anh về. Chúng ta không loại trừ vì lỗi cá nhân họ, nhưng giúp họ sửa mình để trở nên xứng đáng trong cộng đoàn mà họ là thành viên.
Chúa Giêsu đưa ra các cấp độ hành xử với anh em trong cộng đoàn, dựa trên sự tôn trọng và yêu thương lẫn nhau miễn sao lợi được người anh em. Tin Mừng (Mt 18, 15-20) cho thấy, tình yêu huynh đệ chất chứa trách nhiệm hỗ tương, nếu anh em có lỗi, tôi phải thể hiện tình yêu với họ, trước hết, nói chuyện riêng với anh về sai lầm mà anh đã nói hay làm là không tốt. Hành vi này được gọi là sửa lỗi huynh đệ: đây không phải là phản ứng đối với hành vi người phạm lỗi, nhưng là cử chỉ yêu thương dành cho người anh em. Thánh Augustinô nói: “Anh ấy đã xúc phạm bạn, và khi xúc phạm, anh ấy đã làm cho bạn tổn thương: bạn không quan tâm đến thương tích của người anh em bạn sao? (…) Vậy, hãy quên đi những sai lầm họ đã xử với bạn, chứ không phải là vết thương bạn phải chịu vì người anh em” (Discours 82, 7).
Và nếu nó không chịu nghe ngươi? Cấp tiếp theo, hãy nói chuyện về anh ta với hai hoặc ba người để giúp anh ý thức hơn về những gì anh đã làm; nếu anh ta vẫn bỏ ngoài tai, bất chấp điều này, phải nói cho cộng đoàn; và nếu anh ta không nghe cộng đoàn, thì phải làm cho anh ta nhận ra rằng chính anh tự tách biệt khỏi cộng đoàn Hội Thánh. Đặt ra khỏi cộng đoàn thành viên không chịu hối cải, không có nghĩa là lên án. Chúng ta cần phải giữ liên hệ với nhau, vì đây là mối liên hệ do Thánh Thần thêu dệt. Chúng ta bước vào trong cộng đoàn và xây đắp bình an để mang lại cho sức sống cho cộng đoàn. Dù giới hạn cũng như khuyết điểm cá nhân ta, chúng ta vẫn được mời gọi đón nhận sửa lỗi nhau trong tình huynh đệ và giúp đỡ người khác qua việc sự tế nhị này. Đây trách nhiệm sống của chúng ta với nhau.
Hoa quả của đức ái
Khi áp dụng hết mọi cách, vẫn không có hiệu quả, chúng ta hãy phó thác người anh em cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa: “Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật ” (Rm 13, 10).
Hoa quả của đức ái trong cộng đoàn là cầu nguyện: ” Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy “(Mt 18, 19-20). Chúng ta quả quyết: Ở đâu có tình yêu, ở đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ngự trị. Cầu nguyện cá nhân chắc chắn là quan trọng, cần thiết, nhưng Chúa bảo đảm sự hiện diện của mình trong cộng đoàn ngay cả cộng đoàn nhỏ, vì nó qui chiếu vào sự hiệp thông hoàn hảo của Thiên Chúa Ba Ngôi. Origen nói rằng “chúng ta phải thực hiện bản giao hưởng này” nghĩa là sự hòa hợp trong cộng đoàn tín hữu.
Có người sẽ nói: chúng tôi đang tụ họp với nhau trong cùng một khuôn viên nhà thờ, đang lắng nghe tiếng của mục tử chúng tôi, cùng hát thánh ca và hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng tôi chẳng đang nhân danh Chúa mà tụ họp với nhau đó sao? Làm gì có sự bất hòa?
Đúng, chúng ta là một gia đình đang được cùng một mục tử hướng dẫn, không có chia rẽ, nếu bình tĩnh lại, thinh lặng ra khỏi nhà thờ, những lời chỉ trích, xúc phạm người khác, kèm theo là ghen tị, đố kỵ và tham lam, hận thù, dối trá và gian lận… tình bác ái được đặt ra. Vì vậy, chúng ta hãy tôn trọng Bàn Tiệc Thánh, Chúa Kitô đã hy sinh vì chúng ta, chúng ta hãy thông hiệp với nhau.
Giờ đây chúng ta hướng lòng lên Chúa và dâng lên Ngài lời tha thiết nguyện xin cho cộng đoàn tín hữu khắp nơi được hiệp nhất trong Chúa Kitô, nhờ sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
34. Nhắc nhở cách nào?
Anh chị em thân mến,
Bà Coritanbul, người Ba lan gốc Do thái. Thời đệ nhị thế chiến, bà đã bị giam trong trại tập trung Đức quốc xã. Sau chiến tranh, may mắn bà vẫn còn sống. Bà đi khắp châu Âu kêu gọi lòng tha thứ cho Đức quốc xã, dù trên thân thể bà đầy những tàn tích của Đức quốc xã để lại. Một hôm, một người lính Đức, trước kia đã làm nhục bà, đang đứng trước mặt bà. Nhìn thấy người đã hành khổ mình trước đây, bà như chết lặng; sự câm thù lại bùng lên. Lúc đó, bà thầm thì với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể thực sự tha thứ cho người hành khổ con. Xin ban cho con tâm tình của Chúa, để con có thể tha thứ như Chúa…” Câu chuyện của bài Tin mừng chúa nhật hôm nay cũng cùng một chủ đề như câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ý chính: là sửa dạy anh em; nhưng căn bản của việc sửa dạy chính là sự kiên nhẫn, bác ái và thứ tha nơi người sửa dạy, và tinh thần phục thiện nơi người được sửa… Kính mời anh chị em cùng suy niệm…
a/. Mỗi người trong cộng đoàn, trong Hội thánh đều có trách nhiệm với việc sửa lỗi anh em mình. Vì mỗi Kitô hữu đều là chi thể trong Thân thể mầu nhiệm, mà Chúa Kitô là đầu, nên có mối quan hệ hỗ tương chặt chẽ; lại vừa là con cái Thiên Chúa, vừa là anh em với nhau, nên trách nhiệm sửa lỗi cho nhau càng thêm tế nhị và cần thiết. Lỗi ở đây thường là lỗi nặng và công khai, có tính cách gây gương xấu và làm tổn thương đến cộng đoàn.
Trách nhiệm sửa lỗi là trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức của anh em, để giúp anh em nên tốt; dĩ nhiên trước tiên bằng lời cầu nguyện, sau là bằng tình bác ái, khôn ngoan.
Cách sửa lỗi, ở đây chú trọng tới người sửa lỗi hơn là tội nhân. Thiên Chúa đòi mọi người có trách nhiệm về sự hoàn thiện của anh em. Nhưng để việc sửa lỗi có kết quả tốt, cần phải kiên nhẫn, khôn ngoan, bác ái và tha thứ…Mạch văn ở đây muốn nói về chuyện sửa lỗi, hơn là bắt lỗi. Tất cả đều được thực hiện trong tình yêu thương và kiên trì của Hội thánh. Nếu người được sửa lỗi không nghe, đó là điều bất đắc dĩ, là do chính họ…
b/. Trong việc sửa lỗi, chúng ta cần phân biệt: người sửa lỗi và người có lỗi:
Phía người thiện chí giúp sửa lỗi: cần kiên nhẫn, từ từ, bác ái và khôn ngoan: không phải thấy anh em mình có lỗi là đã vội lên án. Vì thế, việc sửa lỗi được thực hiện trong tình bác ái, không phải là một sự khiển trách đầy khinh miệt hay la mắng kiêu căng, nhưng với niềm hi vọng tạo điều kiện cho tội nhân có cơ hội hối lỗi và sửa mình. Cách sửa dạy này vừa có tính cách liên đới trách nhiệm, vừa có tính cách bác ái và phục vụ…
Phía người có lỗi: cần có tinh thần phục thiện. Người sửa lỗi cần gây ý thức, để họ biết nhận thiếu sót của mình, biết phục thiện khi bị vấp ngã. Sẽ giúp họ không cố chấp chống lại cộng đoàn, cũng không sống trong thảm nảo “gậm nhấm tội lỗi của mình”, nhưng biết nhìn nhận thiếu sót, yếu đuối, đồng thời mạnh mẽ vươn lên trong niềm tin yêu và an bình…
Câu chuyện: Trong sách tu hành xưa có kể: Có hai anh thanh niên sống không tốt lắm, họ muốn ăn năn sửa lỗi. Họ đi vào nơi thanh vắng quyết tâm ăn chay đền tội. Sau một năm trời, họ trở về. Một người thì vui vẻ, mặt mày sáng láng; người kia trái lại có vẻ ốm yếu, tâm trạng lại bi quan nữa. Khi được hỏi: người vui vẻ trả lời: cả thời gian qua, tôi nhận ra mình tội lỗi thật; nhưng tôi cũng nhận ra Thiên Chúa yêu thương tôi quá chừng, vậy chính tôi phải sống tốt, phải vui vẻ để đền bù lại tình thương của Chúa…Còn người bi quan đã trả lời: tôi thấy mình tội lỗi vô vàn, đáng bị Chúa phạt. Tôi luôn bị tội lỗi dày vò, không phúc giây nào được yên tâm, khi nghĩ mình không làm sao thoát khỏi án phạt đời đời… Qua câu chuyện này, có người sẽ hỏi: đâu là kiểu ăn năn thật sự? Thưa đó chính là sự phục thiện, tin cậy nơi Chúa của nguời vui vẻ, luôn tin vào Thiên Chúa. Dĩ nhiên người thanh niên kia không phải không có lòng ăn năn, nhưng thực tế ăn năn kiểu đó chưa đủ…
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Sửa lỗi nhau để giúp nhau nên tốt là điều cần, nhưng nếu việc làm đó vì phô trương, khoe khoang, sẽ không đem lại lợi ích cho ai cả; trái lại hậu quả tai hại sẽ lớn hơn nhiều. Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta hiểu được rằng muốn sửa lỗi anh em, cần thiết phải thành tâm, yêu thương họ như Chúa, nhất là ý thức để Chúa hoán cải họ hơn là chính mình hoán cải…
35. Chu toàn bổn phận
Anh chị em thân mến.
Tham gia giao thông trên đường bộ, chúng ta thấy nhiều biển báo được dựng trên đường. Những biển báo đó nhắc nhở cho những ai tham gia giao thông tuân hành luật lệ quy định để bảo đảm an toàn cho mình và cho người khác. Thỉnh thoảng còn có những người làm nhiệm vụ nhắc nhở trực tiếp: những người công an giao thông, họ có trách nhiệm nhắc nhở cho những người điều khiển các phương tiện giao thông tuân hành luật lệ để an toàn tính mạng. Thế mà hằng ngày đều có những tai nạn giao thông, làm cho biết bao người rơi vào hoàn cảnh mà không ai muốn bao giờ. Chúng ta thử nhìn xem tại sao có sự kiện như thế: trước tiên là những người tham gia giao thông; được nhắc nhở cách này hay cách khác, nhưng họ không lắng nghe, nhìn thấy những biển báo, nhưng họ không thi hành, họ cứ làm theo những gì mình muốn, nên tai nạn xảy ra. Còn những người có trách nhiệm nhắc nhở thì sao? Họ không hoàn thành trách nhiệm của mình, nhưng họ lợi dụng tình hình, để tìm mối lợi riêng tư, khiến cho mọi việc trở nên khó khăn hơn. Những người được nhắc nhở không thể nào lắng nghe họ được, họ tìm cách trốn tránh và cứ làm theo những gì mình muốn. Thế là tai nạn càng trầm trọng hơn. Nếu mỗi người ý thức được công việc của mình và thi hành cho tốt thì mọi việc sẽ trở nên tốt hơn nhiều.
Chúa Giêsu nói đến trách nhiệm và bổn phận để giúp cho anh em được tốt qua bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe. Hãy nhắc nhở anh em trong tình bạn chân thành, để ngươi lợi được người anh em. Sự chân thành sẽ làm cho mọi người dể chấp nhận. Với sự chân thành sẽ dễ làm cho người khác nhận được những gì mình cần phải làm. Nếu vì một lý do nào khác mà không có sự chân thành thì người nghe sẽ khó chấp nhận hơn, nếu sự chân thành càng ít thì kết quả sẽ càng kém đi. Nếu với tất cả sự chân thành, bằng mọi phương pháp có thể thực hiện mà vẫn không kết quả, thì một tai nạn xảy ra ngoài ý muốn, vì khi đó người nghe nhưng như không nghe gì, thấy cũng như không thấy gì, họ chỉ biết hành động mà không biết mình đang làm gì.
Thật khó chịu khi có người nào đó dám chỉ ngay vào vào những khuyết điểm hay tật xấu của mình. Càng khó chịu hơn nữa, khi việc làm của một người không muốn cho ai biết, lại có người dám đến chỉ ngay vào việc bí mật đó và bảo hãy thay đổi. Câu nói: nhân vô thập toàn, mỗi người đều biết. nhưng cái biết và đi đến chấp nhận thì thật là xa vời.
Có lúc nào trong cuộc sống, chúng ta chợt suy nghĩ và nhìn lại con người của mình, xem hiện tại của ngày hôm nay như thế nào, để nhìn lại quá khứ mà so sánh xem chúng ta có dám tự hào về hôm nay của mình không? Ngày hôm nay có tốt hơn ngày hôm qua? Có tốt hơn một năm về trước? Nếu so sánh nhiều hơn nữa thì niềm tự hào về tưổi đời của một người đối với chúng ta như thế nào? Nếu ngày hôm nay chúng ta thấy mình nhẹ nhàn hơn, vui vẽ hơn, dễ chấp nhận người khác hơn và biết giúp đỡ mọi người nhiều hơn thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó, trong cuộc sống chúng ta biết lắng nghe, biết chấp nhận và biết thay đổi những gì cần thiết. Còn nếu chúng ta chỉ biết tự hào về tuổi đời của mình, để quá bảo vệ bản thân mà không muốn ai chạm tới cho dù là lời nói, thì khi đó, chúng ta đã già rồi:
Già vì đôi mắt chúng ta mờ nên không còn nhìn thấy gì nữa, không còn nhìn thấy điều tốt để thực hiên cũng không còn nhìn thấy điều không tốt để tránh xa. Kể cả bản thân cũng không thể nhìn thấy để biết phải sống thế nào cho đúng.
Chúng ta già vì đôi tai chúng ta không còn khả năng lắng nghe, kể cả những lời hay, đẹp chúng ta cũng không thể nghe. Những lời dạy bảo chúng ta cũng không để lọt tai được, thì làm sao chúng ta có thể nghe được những lời kêu than chỉ trích những việc làm sai trái của chính mình được. Như thế thì những hành động, những việc làm tốt làm sao chúng ta có thể thực hiện được?
Nếu chúng ta biết lắng nghe, biết nói những điều hữu ích và thực hành những việc làm tốt thì thật là hạnh phúc.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta để biết sống theo thánh ý Chúa.
36. Khi anh em sửa lỗi nhau
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Chập tối, tôi trèo tường, lẻn ra Ciné Nha Trang coi ‘Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang’. Mãi đến 23: 30 tôi mới trở về chủng viện. Tới góc đường Võ Tánh – Duy Tân (Trần Phú bây giờ), phía bên trong là dãy nhà tắm lộ thiên, tôi nhẹ nhàng trèo vào. Núp cạnh phòng học lớp 12, (nay đã dỡ bỏ, xây mới) phóng tầm nhìn vào trong sân Tòa Giám Mục, hoàn toàn trống vắng! Tất cả im lặng như tờ, chắc mọi người đều đã yên giấc. Dẫu vậy, tôi vẫn cẩn thận đi nhón móng cò, lom khom bước qua khoảng sân rộng. Bỗng ai đó hắng giọng, rồi sang sảng cất giọng: “Ai đấy?” Tôi giật nảy mình. Thì ra Ông Nội, vận một bộ đồ thung đen, đang tập thể dục, kề bên khóm cây cảnh tối hù, ngay bên ngoài căn phòng của ngài còn sáng đèn. “Dạ thưa, con tên là…” Như thế Nội đã nhìn thấy tôi ngay khi tôi leo trường trở về, vì ngài đứng trong bóng tối, nhìn ra phía ngoài sáng trưng ánh đèn. Nhưng nét mặt ngài vẫn bình thản, trìu mến, như chẳng có điều gì bất thường. Tôi lại càng lo sợ hơn nữa. Sáng mai Ông Nội sẽ trao áo chùng thâm cho 21 Anh Em chúng tôi. “Con đi đâu về khuya vậy?” “Dạ, con đi…đi dạo ngoài bãi biển!” “Giờ này khuya khoắt, mà con còn đi dạo nữa sao? Vậy có ghé ăn chè Võ Tánh không? Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” Tôi không thể nói dối được nữa, vì Ông Nội còn biết chúng tôi hay tranh thủ ăn chè, mỗi khi có dịp ra bên ngoài. Chắc ngài biết hết trơn rồi, nên đành phải thú thật. “Dạ, con đi xem phim.” “Con cứ kể rõ cha nghe. Đừng có ngại!” “Dạ, con đi xem phim.” “Phim gì hở con?” “Dạ. Phim Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang.” “Hay không? Con kể cho cha nghe xem.” “Bộ phim kể về…” Thu hết can đảm, tôi tóm tắt thuật chuyện phim. Ông Nội có vẻ vui vui, khuyến khích tôi kể tiếp. Vừa dứt chuyện, Nội hỏi tôi có nhớ đến viêc ngày mai chăng? Tôi lý nhí đáp, cúi đầu ăn năn sám hối lỗi lầm. Một lát sau, Nội liền ban vỉệc đền tội: Một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng và kinh Sáng Danh, rồi còn dịu dàng dặn dò: “Con đã tỏ ra biết hối lỗi, vậy hãy về ngủ và nhớ đừng tái phạm nữa. Ngày mai cha vẫn cho phép con lên lãnh nhận áo dòng.” “Con xin cám ơn cha.” Tôi thoát nạn nhẹ cả người, vội chạy lên lầu về phòng ngủ, tuy vẫn còn thình thịch con tim… Sáng hôm sau, trong nhà nguyện Tòa Gíam Mục Nha Trang, người ta vẫn thấy đầy đủ 21 Anh Em lớp Đi Gieo IV, hân hoan xếp hàng, lên nhận lãnh áo soutane từ chính bàn tay Đức Cha FX Nguyễn Văn Thuận trao ban. Tôi thầm tạ ơn Chúa và nhớ mãi tấm lòng bao dung thánh thiện của Ông Nội. (Một vụ cá độ, Kể chuyện Nội, LâmBich.net)
Trích thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu giảng dạy làm thế nào để sửa lỗi anh em. Với ba bước ứng xử với người lỗi lầm, Người muốn chiêu hồi con chiên lạc quay trở về với đàn.
Mỗi khi phạm tội là tự tách mình ra khỏi cộng đoàn, ra khỏi tình yêu thương, hồng ân của Thiên Chúa. Vậy các thành viên cộng đoàn đều có bổn phận và trách nhiệm quan trọng giúp người vấp phạm sám hối, tin cậy vào Lòng Thương Xót Chúa. Bởi vì “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14) Kẻ bé mọn ám chỉ những người bình dân, nghèo nàn, yếu đuối, bị bỏ rơi, bị xua đuổi, hư hỏng, tội lỗi, những con chiên lạc loài, đi hoang đáng thương.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.” (Mt 18, 15) Như thế giúp tha nhận sửa lỗi là mệnh lệnh, một đòi hỏi cấp bách của Đức Giêsu dành cho những ai chấp nhận đi theo Người. Không thể vô cảm, bình chân như vại, mặc kệ anh em. Tuy vậy, để thực hành việc tế nhị, khó khăn và thách đố này, cần đến tình huynh đệ, lòng khoan dung và tâm tình cầu nguyện, mà Đức Giêsu vạch ra cho người thiện tâm.
Tình huynh đệ
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái. Vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật.”(Rm 13, 8) Thánh Phaolô còn khuyên nhủ mọi người sống bác ái huynh đệ, thực tình giúp đỡ nhau, không vờ vịt, đóng kịch với nhau, cũng như không vênh váo rẻ rúng, khinh miệt, chế giễu, mà trái lại, chân thành hỗ tương nhau mọi lúc. “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.”(Rm 12, 9-11) Với thái độ yêu thương, khiêm nhường, kính trọng, Kitô hữu mới có thể chân tình ngỏ lời khuyên nhủ, giác ngộ hữu hiệu kẻ lỗi phạm.
“Nếu Ta bảo đứa gian ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. (Ed 33, 8-9) Việc sửa lỗi cho nhau không chỉ là trách nhiệm huynh đệ liên đới, mà còn nghĩa vụ của Kitô hữu đối với chính Thiên Chúa. “Tất cả những gì anh em làm cho những kẻ bé mọn nhất của Ta là anh em làm cho chính Ta.” (Mt 25, 40)
Lòng khoan dung
Thiên Chúa đầy lòng khoan dung, nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi con người để cải hóa, Ngài lần hồi sửa trị họ, nhắc nhở và cho biết đã phạm lỗi ở chỗ nào, để họ tin tưởng vào Ngài mà được cứu rỗi. “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11, 23)
Kitô hữu cũng noi theo lòng khoan dung của Thiên Chúa, mà cư xử với tha nhân, bởi chưng ai mà không phạm tội. Đức Giêsu đã từng công khai thách đố mọi người: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8, 7) Sau này Thánh Gioan cũng xác quyết vô cùng mạnh mẽ về thân phận yếu đuối của con người: ”Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta.” (1Ga 1, 8)
Như thế, với sự soi sáng khôn ngoan của Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu cần chân thành khiêm tốn, khoan dung, hiền hòa, dịu dàng, thông cảm, khuyên nhủ, sửa dạy tha nhân. “Thưa anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính mình cũng bị cám dỗ. Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô.” (Gl 6, 1-2)
Tâm tình cầu nguyện
“Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18, 19-20)
Khi hai người đối thoại, thuyết phục nhau, gặp nhau vì Thánh Danh Chúa, thì đương nhiên có Chúa hiện diện. Hãy nhớ cầu xin Người giúp đỡ cảm hóa người vấp phạm biết phục thiện. Chắc chắn Chúa không nỡ từ chối nguyện vọng chánh đáng này.
“Người hy sinh biết rộng lượng trước khuyết điểm người khác và nghiêm khắc trước khuyết điểm của mình.” (Đường Hy Vọng, số 169)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban chúng con ơn can đảm nhắc nhở nhau, cũng như biết nghe lời khuyên răn, chỉ dẫn khi lỗi lầm, để chúng con luôn thương yêu, khắng khít, đoàn kết trong đàn chiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Đấng vô nhiễm tinh tuyền, xin giúp chúng con nhận biết tội lỗi vấp phạm, mà ăn năn sám hối, cũng như khiêm tốn lắng nghe người khác nhắc nhở, hướng dẫn, sửa sai, để luôn được sống mãi trong Lòng Thương Xót vô hạn của Chúa. Amen.
37. Đạt đến người mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Tin Mừng Mt 18: 15-20: Lời Chúa trong các bài đọc của Chúa nhật hôm nay nhắc cho chúng ta điều rất tế nhị trong việc sửa lỗi cho anh em. Đây cũng là trách nhiệm để chúng ta cùng xây đắp tình bác ái trong cộng đoàn. Nhờ đó sẽ giúp cho mỗi người trong cộng đoàn được thăng tiến hơn trong việc góp phần xây dựng xã hội thêm hòa bình và hạnh phúc….
***
Lời Chúa trong các bài đọc của Chúa nhật hôm nay nhắc cho chúng ta điều rất tế nhị trong việc sửa lỗi cho anh em. Đây cũng là trách nhiệm để chúng ta cùng xây đắp tình bác ái trong cộng đoàn. Nhờ đó sẽ giúp cho mỗi người trong cộng đoàn được thăng tiến hơn trong việc góp phần xây dựng xã hội thêm hòa bình và hạnh phúc.
1. Ơn gọi của Tiên tri Êdêkiel:
Bài đọc một nói đến trách nhiệm của Tiên tri Êdêkiel: Là người được Thiên Chúa tuyển chọn nên Êdêkiel được Chúa giao cho sứ mạng trở nên người lính canh trong nhà Israel. Công việc của người lính canh Êdêkiel là thay mặt Chúa để vạch trần những điều xấu trong cộng đoàn. Nếu trong cộng đoàn có người biết đón nhận lời sửa dạy của Tiên tri và từ bỏ đường gian ác, thì họ sẽ được sống trong đường công chính. Ngược lại nếu vì cố chấp mà có những người không từ bỏ đường gian ác, thì họ sẽ chết trong sự gian ác. Cũng như nếu người của Chúa không chu toàn trách nhiệm của mình, không can đảm kêu gọi người gian ác từ bỏ con đường tội lỗi, thì chính vị Tiên tri sẽ gánh lấy hậu quả của cái chết nơi người gian ác. Ngược lại nếu trong mọi hoàn cảnh, vì không sợ hãi mà vị Tiên tri luôn chu toàn trách nhiệm của mình, thì ngài sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ và ban phần thưởng được sống trong tình thương Chúa.
2. Món nợ tình thương:
Bài đọc hai, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta về món nợ mà mình phải trả cho anh chị em chúng ta. Món nợ ấy chính là tình thương. Theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta phải xem việc yêu thương tha nhân như là bổn phận của mình. Hơn nữa vì yêu thương tha nhân còn là đòi buộc của lề luật, nên chúng ta phải cùng giúp nhau chu toàn lề luật. Sống chu toàn những gì luật dạy đó là chúng ta cùng can đảm động viên nhau sống đời sống gương mẫu là: “chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham” (Rm 13, 9). Khi chúng ta biết can đảm nhắc nhở và sống theo lời Chúa dạy như thế, khi ấy chúng ta cũng trả xong món nợ của mình. Như thế thì chúng ta sẽ được bình an trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.
3. Xây dựng con người mới:
Trang Tin mừng hôm nay là lời kêu gọi của Chúa Giêsu mong muốn chúng ta xây dựng một cộng đoàn hoàn thiện như Chúa. Vì sống hoàn thiện là ước mơ và niềm vui của Chúa, nên trong cộng đoàn Chúa cũng muốn chúng ta cùng nhau khắc phục những khuyết điểm của anh chị em, mục đích là để giúp nhau thi hành lề luật mà Chúa đã dạy chúng ta.
Cách cụ thể để xây dựng đời sống hoàn hảo trong cộng đoàn đó là việc sửa lỗi cho nhau: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó ” (Mt 18,15). Sửa lỗi cho anh chị em là điều khó. Vì thế để cho việc sửa lỗi đạt hiệu quả, điều quan trọng là phải chọn cách sống của Chúa là gương mẫu cho mọi hành động của con người.
Hơn bao giờ hết phải qui chiếu đời sống của anh chị em về đời sống của Chúa Giêsu. Không bao giờ tự xem mình là mẫu mực để buộc người khác sống theo mình. Không sử dụng quyền lực hay kỷ luật trong việc sửa lỗi. Tệ hơn nữa là dùng bạo lực trong việc góp ý với anh chị em, bởi vì bạo lực là con đường đưa đến thù hận và sự chết. Nếu trong việc sửa lỗi mà hình ảnh và cách sống của Chúa Giêsu được tỏ hiện, lúc đó tự chúng ta cảm thấy việc sửa lỗi không có gì là khó, nhưng trong hành động đó chúng ta cảm thấy vì tình yêu, vì đức ái thôi thúc chúng ta, để chúng ta ra sức xây dựng một cộng đoàn huynh đệ hoàn thiện như Chúa mong muốn.
Vì là con người nên ai trong chúng ta cũng có lỗi. Thánh Gioan tông đồ còn nói: “Ai nói rằng mình không có lỗi, thì người ấy nói láo” (1Ga 1, 10). Như vậy trước khi chúng ta thi hành trách nhiệm bác ái với người khác, điều cần thiết chúng ta phải thi hành trách nhiệm đối với mình. Bởi vì gia đình, giáo xứ, xã hội sẽ bình an khi mọi người chúng ta tự ý thức nhìn lại cách sống của mình, nhìn lại thái độ ứng xử của mình với người khác, nhìn lại bổn phận của mình. Phải khiêm tốn nhìn lại cách sống của mình có phù hợp với thánh ý Chúa chưa? Nếu chưa phù hợp với thánh ý Chúa, chúng ta tự khắc phục và quyết tâm sống tốt hơn. Và nếu có những lời góp ý của người khác, chúng ta hãy vui vẻ khiêm nhường đón nhận, hãy xem lời góp ý đó là tiếng Chúa, là cơ hội để giúp chúng ta thăng tiến đạt đến con người mới bằng cuộc sống thánh thiện như Chúa là Đấng Thánh.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn hăng say chu toàn trách nhiệm của mình, trong việc cùng giúp nhau đạt đến con người mới, nhờ vậy chúng ta mới có thể trả được hết món nợ tình thương cho anh chị em của chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cứu giúp chúng con. Amen.
38. Quan niệm đức ái theo Thánh Phaolô
(Suy niệm của Lm Phêrô Nguyễn Hương)
Chúng ta đang sống trong năm Thánh Phaolô, năm đặc biệt chú ý tới vị Tông Đồ Dân Ngoại, ngài nổi bật như một ngôi sao sáng trong lịch sử Giáo hội. Và rất thích hợp để nói về giáo huấn của Ngài trong thánh lễ hôm nay. Sự nghiệp và giáo huấn của Ngài thật là phong phú và sâu sắc, chúng ta chỉ dừng lại ở đây quan niệm về Tình yêu hay Đức Ái theo Thánh Phaolô.
Danh từ tình yêu (love, amore, caritas) được dùng rất nhiều từ môi miệng chúng ta, từ báo chí, phim ảnh. Nhưng ngày hôm nay khái niệm về tình yêu đã bị nhiều người hiểu sai và làm dụng.
Tôi đọc trên báo điện tử của Hội Đồng Giáo Mục Việt Nam, tác giả Nguyễn Lan Hải đã tóm tắt những ngộ nhận đáng tiếc về tình yêu nơi nhiều bạn trẻ hôm nay: – Tình yêu là sự cuốn hút. – Tình yêu là chiếm hữu. – Tình yêu là tiền tài. – Tình yêu là sự thương hại. – Tình yêu là tình dục.
Chính vì quan niệm méo mó này, nên nhiều người suốt cả đời đi tìm tình yêu mà không gặp. Nhiều bạn trẻ thay người yêu như thay áo vậy. Nhiều cặp vợ chồng trẻ tháng trước đám cưới linh đình vui vẻ, anh nói em nghe, nhưng tháng sau thì anh em nói, cả làng cùng nghe. Tuần đầu trăng mật, tuần sau giập mật!!! Nhiều gia đình đang êm ấm, nhưng chỉ một cú điện thoại, một lá thư của người thứ ba, thế là mọi sự đổ vỡ, mọi sự được giải quyết bằng tờ giấy li dị và chia tài sản.
Vậy thì theo Thánh Phaolô, Tình Yêu là gì, phải yêu người khác như thế nào?
Bài đọc II mà chúng ta vừa nghe là những lời thật tuyệt vời: «Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau». Nghĩa là chúng ta đừng mắc nợ nhau về tiền bạc, vật chất, ai mắc nợ thì phải trả. Nhưng hãy mắc nợ nhau về tình thương, về đức ái. Chúng ta hãy yêu thương nhau. Tình yêu là cốt lõi của Kitô giáo. Chính Phaolô nói: «Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật». Tình yêu làm cho chúng ta được hạnh phúc đích thực. Sống không có tình yêu, không có lòng nhân ái, thì dù chúng ta có nhà lầu, xe hơi, tiện nghi vật chất dư dã, vẫn cũng cảm thấy không hạnh phúc và vui vẻ. Các nhà khoa học Mỹ đã nghiên cứu và cho thấy điều đó: 12 % dân Mỹ bị stress và bị tâm thần, không phải vì họ nghèo đói về vật chất và vị họ bị cô đơn và không được yêu thương chia sẽ.
Đối với thánh Phaolô tình yêu không phải là một sự trao đổi kinh tế tiền bạc, không phải là một sự chiếm hữu ích kỷ, không phải là một sự tìm kiếm mình trong người khác. Nhưng là một tình yêu vô vị lợi, có trách nhiệm và hoàn toàn vì người khác, kể cả hiến mạng vì người mình yêu. Tình yêu đó bắt nguồn và luôn dựa trên chính tình yêu Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thể hiện trên Thập giá.
Tình Yêu, Đức Ái gắn liền với việc tuân giữ lề luật, là sống có trách nhiệm và biết tôn trọng hạnh phúc của người khác: «Đó là chớ có ngoại tình»: vợ của người ta chớ có được lớ rớ tới, không được quan hệ tình dục bừa bãi. Vì hậu quả của nó là phá hoại phúc người khác và mang bệnh tật cho mình. Quan hệ tình dục bừa bãi dễ sinh ra tội phá thai, tức là giết người. Đó là trọng tội và còn có vạ kèm theo cho ai làm điều đó. Nên Thánh Phaolô nói tiếp: «Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn lề luật». Những lời chúng ta phải suy gẫm nhiều lần. Lỗi những điều răn này là chúng ta lỗi Đức Ái cách nghiêm trọng. Thấy người khác thành công mình phải mừng cho họ chứ đừng có ghen tỵ và tìm cách đạp đổ. Thấy người khác gặp đau khổ thì không lấy làm vui mừng nhưng là nâng đỡ ủi an họ. Vẽ đẹp của người kitô hữu là ở đó.
Đối với Phaolô, Đức ái là căn bản, là chính yếu của đời sống kitô hữu. Trong một lá thư khác, thánh Phaolô quả quyết: «Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các Thiên thần đi nữa, mà không có đức mến (Caritas) thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi có được ơn nói tiên tri và biết hết được mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả tài đức đến chuyển núi rời non, mà không có đức mến (Caritas), thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu chết, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,1-13).
Tất cả chúng ta đều được mời gọi để sống Đức ái đó theo gương thánh Phaolô, như Ngài đã theo Đức Kitô, Người đã yêu chúng ta đến cùng và đã hiến mạng vì chúng ta trên Thập giá. Xin Thánh nhân cầu xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta thực hành những giáo huấn này vào trong đời sống chúng ta. Amen.
39. Sửa lỗi cho nhau
(Suy niệm của Lm Phêrô Nguyễn Hương)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói tới một trách nhiệm của người kitô hữu về việc sửa lỗi cho người anh em mình. Một công việc rất tế nhị nhưng là cần thiết.
Người Lamã nói rằng: errare umanum est! Làm người là sai lỗi. Người Việt Nam cũng có câu tương tự: Nhân vô thập toàn, không ai hoàn hảo cả. Sinh ra trên đời này mỗi người đều có xã hội tính, nên ai có liên hệ và có trách nhiệm đối với người khác, ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác để hoàn thiện mình, để sống tốt hơn, nhất là khi sai lỗi, lầm lạc, ai cũng cần đến sự hướng dẫn, lời khuyên và lời cầu nguyện của người khác.
Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi. Vì thế không được phép nói cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.
Trong thực tế, nhiều lúc chúng ta làm ngược lại với hướng dẫn trên của Chúa. Thay vì chúng ta phải giữ kín sự thật và thuyết phục người anh em sai lỗi trước khi nói người thứ ba cùng giúp, thì chúng ta lại nói toạc móng heo lầm lỗi của họ ra, làm ai cũng biết. Như thế sẽ làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Cần phân biệt việc sửa lỗi hoàn toàn khác với việc nói xấu người khác. Sữa lỗi là một việc nên làm, còn nói xấu là một trọng tội. Vì thế chúng ta cần tế nhị, khôn ngoan và đúng lúc.
Câu chuyện sau đây nói lên thái độ tế nhị cần có khi sửa lỗi cho nhau:
Đức Hồng y Roncalli (sau là Giáo hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh một nữ công tước mặc chiếc váy cực kì ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
– Tôi không biết phải cám ơn ngài thế nào. Nhờ đâu tôi được ngài ưu ái như thế? Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
– Sau khi Evà ăn quả táo, bà ta mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (hy vọng trong cộng đoàn chúng ta không có cô nào được người khác cho ăn táo trong nhà thờ nhé!).
Người Ái nhĩ lan có một lời nguyện rất hay mà tôi rất thích: God grant me the Serenity to accept the things I cannot change, Courage to change the things I can, and Wisdom to know the difference.
Chúng ta có thể thưa với Chúa là: Lạy Chúa xin cho con sự thanh thản để chấp nhận những điều con không thể thay đổi, sự Can đảm để thay đổi những điều con có thể và sự Khôn ngoan để phân biệt sự khác biệt. Amen.
40. Nghệ thuật sửa lỗi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện…
***
Tuân Tử, một hiền triết Trung hoa đã nói rằng: Kẻ khen ta mà khen thật mới chỉ là bạn ta, kẻ chê ta mà chê thật là thầy ta, còn kẻ nịnh hót tâng bốc ta là những kẻ chỉ làm hại ta mà thôi.
Chê mà chê thật là sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Là con người ai mà chẳng lầm lỗi. Không ai trên trần thế có thể tự hào mình vô tội. Chính Thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Thú nhận mình tội lỗi không có nghĩa là chấp nhận thất vọng. Ngược lại ý thức được sự yếu đuối của mình sẽ giúp con người mạnh tin hơn. Thánh Gioan cũng viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,1b). Sửa lỗi huynh đệ là cần thiết để giúp nhau thăng tiến và trưởng thành. Vì thế sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật đòi hỏi người ta phải tuân theo một số kỹ thuật.
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy nghệ thuật từng bước sửa lỗi cho anh em và mời gọi hãy cùng nhau cầu nguyện.
1. Sửa lỗi cho nhau:
– Bước 1: “Nếu anh em ngươi phạm tội hãy đi sửa lỗi một mình ngươi với nó”. Một mình với anh em là rất kín đáo. Sửa lỗi cá nhân, tôn trọng và giữ thể diện, biểu lộ sự tin tưởng giữa hai người không để người thứ ba đựoc biết. Đây là cuộc nói chuyện riêng tư, không phải hạ nhục người có lỗi nhưng là giúp người ấy nhận ra lỗi lầm của mình. Phải nói sự thật, nhưng có những sự thật không nên nói hết.
Sự góp ý huynh đệ này đòi hỏi phải tế nhị, xây dựng:
+ Người góp ý: Nhẹ nhàng, nói đúng lúc, đúng chỗ, khôn khéo, thiện chí, nếu không sẽ phản tác dụng, khi đó góp ý chỉ là chỉ trích, phê phán.
+ Người được góp ý: Khiêm nhường nhận lời khuyên, không nóng nảy tự ái, sẵn sàng đón nhận, nhận ra sai lầm, không cố chấp cứng đầu, can đảm sửa đổi. Có như thế việc sửa đổi cho nhau mới có kết quả.
– Bước 2: “Nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba nhân chứng”. Như thế, nếu bước một không đem lại kết quả mong đợi, sẽ đến bước hai là gặp gỡ có hai hoặc ba nhân chứng. Đây không phải là gây áp lực. Sự hiện diện của các chứng nhân bảo đảm cho tính khách quan và cộng đoàn. Luật Môsê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào, phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên chỉ thị của Chúa Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội nhưng là những người trợ lực có uy tín để giúp tội nhân dễ dàng sữa lỗi. Cần kiên nhẫn đối vơi người cố chấp.
+ Người sửa lỗi chú ý hình thức xây dựng và bác ái. Có nhiều khuyết điểm có thể tự nhiên được sửa chữa qua tính trung gian, nhất là những khuyết điểm nhỏ.
+ Người được sửa lỗi chú ý nội dung được góp ý.
– Bước 3: “Nếu nó không chịu nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh”. Hai bước không đạt kết quả, đưa ra trước cộng đoàn Hội Thánh địa phương vì Hội Thánh được Chúa ban cho quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không chịu sữa lỗi thì tự loại mình ra khỏi Hội Thánh không còn thuộc về cộng đoàn.
– Bước 4: “Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại”. Cộng đoàn mà không chịu nghe thì phải chấp nhận thái độ tự cô lập của họ. Họ cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh thì họ sống trong lầm lạc về đức tin và luân lý. Hội Thánh không còn trách nhiệm trực tiếp phải lo cho họ nữa, chỉ còn phó thác họ cho lòng nhân từ của Chúa mà thôi.
2. Hiệp lời cầu nguyện:
Nếu nhìn cách sửa lỗi anh em của Chúa Giêsu là một cách diễn tả tình yêu thì hiệp thông trong lời cầu nguyện lại là một diễn tả khác của tình yêu “Khi hai hoặc ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”.
Khi yêu ai, chúng ta không dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, nhắc nhở, khuyên bảo, không “makeno”, không “đèn nhà ai nấy sáng”. Tương quan bác ái huynh đệ này rất cần trong cộng đoàn, trong Giáo xứ. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của việc sửa lỗi. Đó là chinh phục, cứu lấy anh em để nó đừng hư mất, liên đới trách nhiệm sữa lỗi cho nhau để nhờ đó cộng đoàn “lợi thêm một người anh em”. Thánh Giacôbê nhấn mạnh tới tình bác ái đáng khen của việc sửa sai huynh đệ “Ai đưa một người tội lỗi ra khỏi sai lầm của họ là đã cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và đã bù đắp được vô số tội lỗi”.
Chúa Giêsu còn xác định rằng: “Thầy bảo thật các con: nếu ở dưới đất hai người trong anh em hiệp ý cầu xin bất cứ sự gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho họ”. Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa. Sự hiện diện của Chúa sẽ xóa giải mọi bất hòa giữa anh em. Chúng ta tin và can đảm sống điều đó “Vì ở đâu có có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”.
Trong Đạo Phật người ta thường nói “Phật tại tâm”. Trong Đạo Thiền, người ta sống cuộc sống con người cách đơn sơ thanh thản, không chấp mê, sống tự nhiên như bông hoa nở, như dòng suối chảy, như áng mây bay, như làn gió thổi. Sống an bình với chính mình an hoà với tha nhân, là “phá chấp ngã” nghĩa là không chấp, không chấp cả cái không chấp.
Đạo lý Chúa Kitô tự bản chất sâu xa là Đạo nhân, Đạo của lòng nhân ái, Đạo của tình thương. Tình thương không phải là một tư tưởng, cũng chẳng phải là một học thuyết. Tình thương là con đường ta phải đi, một tình yêu để ta sống, để chia sẻ với người khác.
Đức Kitô đã làm người để chia sẻ tình yêu của Chúa Cha cho chúng ta. Người mời gọi chúng ta chia sẻ lại tình yêu ấy cho anh em. Tất cả đạo lý Chúa Kitô nằm gọn trong chân lý đó. Trong điều mà Người gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm để con nhận sự sửa lỗi của anh em, và ban cho con ơn khôn ngoan để con biết chân thành sửa lỗi cho nhau, nhờ đó con xứng đáng nhận được lòng nhân từ Chúa xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sửa lỗi ai, xin Chúa nhắc con nhớ rằng con cũng là tội nhân, cũng yếu đuối và hay lầm lỗi, có khi còn nặng nề hơn họ. Nếu vì bổn phận, con phải sưả lỗi cho người khác, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái và tôn trọng nhân vị mà cư xử, nâng đỡ hơn là chỉ trích thoá mạ anh em. Xin cho cúng con luôn biết rộng lượng, bao dung với người khác vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con từng ngày. Amen.
41. Nghệ thuật nói
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về người sửa lỗi. Chúa dạy, khi sửa bảo nhau cần có một trình tự theo bác ái qua bốn bước. Bước thứ nhất là “một mình anh với nó thôi”; “nếu nó không chịu nghe” thì qua bước thứ hai là “hãy đem theo một hay hai người nữa”; “nếu nó không nghe họ” thì bước thứ ba là “hãy đi thưa Hội Thánh”. Bước cuối cùng “Nếu Hội Thánh mà nó cũng không nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Nhưng nên nhớ Chúa luôn coi trọng người ngoại và thu thuế ! Vì thế ta có thể nói, chỉ còn cách phó thác người đó cho Chúa mà thôi !
Trong những bước ấy, phải ưu tiên bước một: giữa hai người với nhau. Thông thường, chẳng ai thích bị “sửa lưng” hay “sờ gáy”. Thư gởi tín hữu Do thái nhận định như sau: “đã hẳn bị sửa dạy ngay tại trận thì hình như vui chẳng có, chỉ có buồn; nhưng về sau (mới thấy) nó sinh lợi cho những ai nhờ đó mà được luyện tập: tức là hoa quả bình an công chính” (Dt 12,11). Để việc sửa lỗi có kết quả, cần phải cho người ấy thấy là mình yêu thương họ, muốn họ nên tốt. Chính Chúa cũng làm như vậy: “vì Chúa thương ai, Người mới sửa dạy, con nào Người nhận, Người mới cho đòn” (Dt 12,6).
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót nên Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống (x.Ed 18,23).
Sách Samuel 1 kể rằng: vì ghen tương, vua Saolô quyết tâm giết Đavit, nhưng hoàng từ Gionathan đã tìm cơ hội thuận tiện, rồi khôn khéo và chân thành trình bày với vua cha: “Thưa cha, con trộm nghĩ: Đavit không làm gì chống lại cha. Tất cả những điều anh ta làm đều tốt đẹp và hữu ích cho cha cũng như cho dân Israel… Chính cha đã thấy những việc anh ấy làm và cha đã vui mừng…”. Những lời nói chân thành và hợp tình hợp lý của Gionathan, khiến nhà vua suy nghĩ. Sau đó, nhà vua trả lời: “Vậy, nhân danh Thiên Chúa hằng sống, cha hứa sẽ không tìm giết Đavit nữa”.
Sách Samuel 2 kể câu chuyện hấp dẫn. Một buổi chiều nọ, vua Đavít tản bộ trên sân thượng và chợt thấy một phụ nữ xinh đẹp đang tắm, đó là bà Bat-shêba, vợ của tướng Uria. Vua sai người đưa bà đến với vua. Ít lâu sau, Bat-shêba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua. Đavít tìm cách ‘bán cái’ cho Uria. Vua cho triệu Uria từ mặt trận trở về, cho ông ăn uống no say rồi truyền cho Uria về nhà thăm vợ. Hai đêm liền, Uria nằm ngủ trong đền vua với những tên lính canh mà không chịu về nhà. Thấy kế hoạch ‘bán cái’ không xong, vua Đavít ra lệnh cho tướng Yôab mượn tay quân giặc giết chết Uria ngoài chiến trường.Sau đó, khi đã mãn tang chồng, Bat-shêba được vua Đavít đón vào cung làm vợ chính thức của nhà vua.(x.2 Sam 11 và 12).
Vua Đavít đã phạm tội đoạt vợ giết chồng, thế mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra. Khi người ta không tự thấy được tội lỗi của mình để sám hối thì cần phải có ai đó đến nhắc bảo họ. Thế là Thiên Chúa sai tiên tri Natan đến cảnh tỉnh vua. Khuyên vua thì phải khôn ngoan lựa lời. Natan trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông tiếc của không dám bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt”. Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Nó đáng chết, tên ác nhân đó! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm”. Tiên tri Natan thưa: “Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp vợ của ông ta”. Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.Nếu không được tiên tri Natan cảnh tỉnh, vua Đavít đã không nhận ra tội lỗi của mình và không thể hối cải (Lm Ignatiô Trần Ngà).
Tiên tri Natan đã thành công khi sửa lỗi cho vua Đavit. Đó là cả một nghệ thuật nói năng khôn ngoan.
Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, Đức cha Bùi Tuần viết: tôi nhận thấy Chúa Giêsu dạy tôi về sự nói năng.
Chúa dạy tôi phải biết nghệ thuật nói với:
Để nói với tha nhân, Chúa dạy tôi phải nói lời xây dựng. Chúa dạy thật rõ ràng: “nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó”. Sửa dạy chứ không lên án, xây dựng chứ không loại trừ. Điều này đòi phải có lòng yêu thương và coi mọi người là anh chị em thân thiết của mình.
Để nói với tha nhân, Chúa cũng dạy tôi phải nói lời tế nhị. Khi góp ý với ai đó thì cần phải kín đáo “riêng ngươi và nó thôi”, bởi nếu không thì chuyện bé cũng sẽ xé ra to. Điều này cần sự tôn trọng, và tin tưởng lẫn nhau. Tôn trọng cái tốt vẫn luôn còn nơi mỗi người. Tin tưởng rằng ai, dù lỗi lầm đến đâu vẫn có khả năng hoán cải nên tốt hơn.
Để nói với tha nhân, Chúa còn dạy tôi phải nói lời đối thoại. Chỉ nói khi có “riêng ngươi và nó thôi” còn có nghĩa là biết trao đổi, biết đối thoại với nhau. Điều này cần có thái độ kiên nhẫn và biết sẵn sàng lắng nghe, biết chấp nhận khác biệt của nhau.
Chúa cũng dạy tôi phải biết nghệ thuật nói cùng, đúng hơn là phải cùng nhau nói với Chúa.
Khi nói cùng nhau tức là hiệp thông với nhau trong tình huynh đệ. Hiệp thông luôn là một lời mời gọi trong Giáo Hội, là dấu chỉ của Nước Trời. Càng hiệp thông với nhau, chúng ta gắn bó với Chúa và Giáo Hội.
Khi nói cùng nhau trong Chúa tức là cùng nhau cầu nguyện. Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên Trời sẽ ban cho họ điều đó”.
Lời Chúa ngày hôm nay thật thiết thực với cuộc sống con người. Lời Chúa mời gọi tất cả chúng ta biết hoán cải, biết đổi mới trong cung cách nói năng hằng ngày: nếu như xưa kia chúng ta thường nói lời chỉ trích, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời xây dựng; nếu như xưa kia chúng ta thích nói lời gắt gỏng, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời tế nhị; nếu như xưa kia chúng ta chỉ muốn nói lời ra lệnh, thì nay Chúa mời chúng ta hãy nói lời đối thoại; và nếu ngày xưa chúng ta thường sống khép kín, thì hôm nay Chúa mời chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để có thể cùng nhau dâng lên Người những lời nguyện cầu.
Sửa lỗi cho anh em là một hành vi tích cực của đức Bác Ái, mục đích là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Lời nói góp ý xây dựng phải có nội dung, ý hướng và cung cách.
Nội dung lời nói phải là sự thực. Đã nói thì phải nói sự thực. Nhưng không phải sự thực nào cũng nên nói. Gán cho người điều xấu không có, đó là vu khống. Tiết lộ hay phổ biến điều xấu người ta có, đó là nói hành. Gièm pha, thêm bớt xuyên tạc, đó là những hình thức và mức độ khác nhau của vu khống và nói xấu.
Ý hướng lời nói phải là sự thiện.Nói để thông tri. Nói để xây dựng. Nhưng có khi nói sự thực với chủ ý phô trương, có khi nói đạo đức với thêm ý quảng cáo chính mình, có khi chỉ trích sự tội kẻ khác với thâm ý hại họ và đề cao bản thân, có khi bênh vực chân lý với hậu ý bênh vực tự ái.
Cung cách lời nói phải là lịch sự.Nói là truyền thông tư tưởng, nhưng cũng đã diễn tả chính mình.Có nhiều kiểu nói cộc cằn, biểu lộ tâm hồn thiếu tế nhị. Có những giọng nói hách dịch, tố cáo một khuynh hướng kiêu căng. Có những lời nói cứng cỏi phơi bày một tính tình nghèo thiện cảm.
Chọn lời mà nói. Chọn chữ mà dùng. Ăn phải nhai, nói phải nghĩ. Nói hợp với người nghe. Việc đó không dễ. Chắc không phải vô cớ mà thánh Giacôbê đã quả quyết: “Ai không lỗi trong lời nói, người đó là người hoàn toàn” (Gc 3,2). (x. Nói với chính mình, Đức cha Bùi Tuần)
Lạy Chúa, xin giúp chúng con học bài học sửa lỗi cho nhau thật tốt đẹp trong mọi mối tương quan. Xin cho chúng con ơn phân định khôn ngoan để biết suy xét, nói năng và hành động khi sửa lỗi cho nhau. Amen.
42. Trách nhiệm liên đới
Sống trong xã hội, con người có sự liên đới với người khác. Họ sống cùng và sống với người khác. Họ có trách nhiệm sửa lỗi để xây dựng cho nhau. Khi đọc bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho chúng ta về bài học sửa lỗi cho nhau.
Do tội nguyên tổ nên con người mang thân phận yếu đuối, lỗi lầm…Khuynh hướng xấu cùng với những việc làm bất chính, đã đi sâu vào trong bản ngã của con người. Nó không chỉ hiện diện mà còn hoành hành, thao túng và gây nên biết bao tai hoạ cho con người. Trong thư Roma, Thánh Phaolô cho ta thấy cái ác quả tai hại: “Vì một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và bởi tội mà có sự chết”. Tuy nhiên, Thiên Chúa yêu thương muốn con người phải biết tha thứ, sửa lỗi cho nhau theo tinh thần bác ái, tinh thần của Chúa Giêsu, đưa dẫn người khác về cùng Chúa: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó…”(Mt 15,18). Chúa dạy chúng ta hãy biết lấy tình thương, tình người để cư xử với người khác, coi họ là anh em, nhất là khi họ có lỗi lầm thiếu sót. Một cách tế nhị, kín đáo, chúng ta làm sao để giúp cho anh em nhìn ra những sai sót của mình. Trường hợp chúng ta là người có lỗi thì hãy khiêm tốn, ý thức lỗi lầm, thiếu sót của chính mình, để nhờ đó cũng biết quay về cùng Chúa, theo Lời Ngài mời gọi, để được cứu sống.
Nếu việc làm một mình sửa lỗi cho anh em chưa có hiệu quả, hãy kêu gọi sự cộng tác, góp phần của người thân hay những người có uy tín: “Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa…(Mt 18, 16).
Còn nếu như có những lúc chúng ta cảm thấy bó tay, bất lực trước những sự dữ, điều xấu của người này, kẻ khác..thì chúng ta hãy cầu nguyện với Chúa, chạy đến cùng Chúa cầu xin Chúa ra tay giúp họ sửa lỗi chính mình: “..Còn nếu nó không nghe, thì hãy kể nó như người ngoại hay người thu thuế”…(Mt 18, 17).Khi lời nói của ta hay của nhiều người chưa được chấp nhận thì chúng ta hãy tiếp tục giúp họ bằng lời cầu nguyện, bằng gương lành là sự hy sinh, lòng quảng đại, tinh thần hiệp nhất,…Họ đang cần nhiều thật nhiều sự trợ giúp của chúng ta, hãy sẳn sàng cho cách thức mới đầy tình người, giàu lòng đạo đức,..
Trong thư Roma Thánh Phao nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13, 10). Chúa mời gọi chúng ta hôm nay, yêu người không những là không làm thiệt hại cho người khác mà còn biết giúp người khác khắc phục, sửa đổi bản thân, để họ luôn đi trong đường nẻo của Thiên Chúa. Đây là trách nhiệm liên đới, là bổn phận của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa không muốn chúng con dửng dưng trước những lỗi lầm của người khác, gương xấu của anh em, phần rỗi của họ…mà là dạy cho chúng con có trách nhiệm với người anh em, sửa lỗi cho họ. Không những thế Chúa còn muốn chúng con biết khéo léo, tế nhị, khi sửa lỗi cho nhau. Đàng khác chúng con còn nhận ra rằng chúng con nên biết khiêm tốn để đón nhận ý Chúa, lời Giáo Hội dạy bảo để chúng con sẳn sàng sửa chữa những lỗi lầm của mình, siêng năng cầu nguyện để biết rõ và thi hành ý muốn của Thiên Chúa, để ngày sau nhiều người được vào hưởng niềm vui Nước Trời.
43. Trừng phạt hay phục hồi?
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Nếu ai đó am hiểu và theo dõi nội tình chính trị tại tiểu bang New South Wales ở Úc Châu tuần qua, rồi lồng những bài đọc Chúa Nhật 23 thường niên tuần này, chắc hẳn người ấy sẽ tìm được một vài điểm trùng hợp thật ngẫu nhiên. Và một bài học đời vô cùng ý nghĩa…
Chuyện là một buổi chiều cuối tuần chỉ vài ngày sau khi Thủ Hiến Bob Carr đột ngột từ chức, Thủ Lãnh Đối Lập John Brogden đã không ngờ ‘vận đỏ’ đến với mình sớm đến thế. Cùng một vài nhân viên phụ tá, John đã ‘chén thù chén tạc’ tại khách sạn năm sao Hilton ở Sydney vừa mới tân trang.
Theo nhiều quan sát viên thời cuộc, với tình hình hiện tại và với tình trạng kinh tế có chiều hướng đi xuống, ai cũng chắc rằng chiếc ghế Thủ Hiến của tiểu bang đông dân nhất Úc Châu này sẽ lọt vào tay một thanh niên một vợ một con mà tuổi đời chưa quá 40 này. Cả một tương lai chính trị sáng tươi đang chờ đợi…
Nhưng sáng thứ hai tuần qua, hình như sau một cuối tuần vật vã với luơng tâm, và có lẽ nhất là khi báo chí địa phương đã đánh hơi được một vài lời nói và cử chỉ khiếm nhã với một vài phụ nữ buổi chiều định mệnh ấy, John Brogden đột ngột từ chức. Đến chiều thứ ba, khi nhật báo The Daily Telegraph quyết định phanh phui thêm một vài hành vi lem nhem khác trong quá khứ, Brogden lặng lẽ rời nhà không một lời từ biệt cùng vợ Lucy và đứa con trai đầu chưa tròn hai tuổi Flinders, tạt vào nhà thờ giáo xứ Thánh Tâm ở Mona Vale rồi sau đó đến văn phòng riêng. Và bằng vài liều độc dược, Brodgen cắt gân máu kết liễu đời mình.
Dư luận liền chia làm hai phía khi đuợc hung tin. Một bên tố cáo báo chí đã đi quá trớn, xâm phạm thô bạo vào đời sống tư riêng. Bên kia phản pháo cho rằng nhiệm vụ của báo chí là thông tin cho đại chúng biết những gì cần biết nhất là từ những đại diện dân cử. Nói một cách khác, theo lời ký giả Damien Murphy, John Brogden là nạn nhân của công lý trừng phạt (punitive justice) chứ không phải công lý phục hồi (restorative justice).
Công lý phục hồi nhắm đến một sự cân bằng giữa người gây ra sự cố, nạn nhân và gia đình cùng xã hội chung quanh. Vì thế, mục đích tối hậu của công lý phục hồi không phải là trừng phạt những là hoán cải người gây ra lầm lỗi. Hoán cải không phải là bưng bít che đậy mà là khôn khéo nhẹ nhàng tế nhị nhưng dứt khoát cứng rắn giúp cho kẻ lỡ bước sa chân kia thấy sự việc sai trái của mình đồng thời tạo mọi điều kiện để người ấy có cơ hội trở về đuờng ngay nẻo chánh.
Bài Phúc Âm hôm nay là một biểu chứng hùng hồn là nền công lý phục hồi cần đuợc triển khai trong mọi khía cạnh của đời sống từng cá nhân, từng gia đình, từng cộng đoàn và từng xã hội. Bước đầu tiên là phục hồi danh dự và nhân phẩm của nạn nhân và của cả người gây ra tội phạm. “Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi dạy sửa nó, riêng ngươi và nó thôi.” Chỉ riêng ngươi và nó thôi vì tiến trình hoán cải con nguời đòi buộc khá nhiều nhạy bén tế nhị và rất nhiều tha thứ cảm thông.
Càng thiếu tế nhị cảm thông tha thứ bao nhiêu thì càng dẫn đưa người lầm lỗi vào ngõ cùng hụt hẫng. Họ mất niềm tin. Và chẳng còn hy vọng. Và khi không còn ai để cấy niềm tin và khi không còn nơi nào để bấu hy vọng vào, cái chết là một kết luận đã rồi!
44. Nợ yêu thương
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Thông thường, người ta mắc nợ tiền bạc, vật chất, hiện kim, hiện vật, nợ tình nghĩa, nợ lòng biết ơn…chứ chẳng ai nói như Thánh Phao-lô “anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau”, hoặc “tương thân tương ái” (x. Rm 13, 8) cả. Nhất là trong xã hội đang quay cuồng với biết bao chủ thuyết độc hại, tiêm nhiễm hằng ngày vào suy nghĩ, tâm tư, lối sống con người, kể cả người Công Giáo chúng ta. Nào là xu hướng sống độc thân vì ích kỷ, sợ liên luỵ, sợ ảnh hưởng đến lối sống cá nhân sung sướng, thu mình trong tiện nghi, trong ‘chăn ấm nệm êm’ của đời mình! Chủ trương tương đối trong mọi thứ, kể cả chân lý đức tin, niềm tin, giá trị luân lý, v.v…Thế thì, tại sao tôi lại mắc nợ ai việc phải yêu mến cơ chứ?
Văn hoá trần tục của xã hội giản lược các giá trị thành vật phẩm, kể cả tình yêu thương, sự tương thân tương ái như thể cuộc trao đổi, hay chúng ta thường nghe từ ngữ mỹ miều ‘hợp đồng thương mại siêu lợi nhuận” hoặc nói đơn giản như ông bà ta đã từng đúc kết ‘có qua có lại mới toại lòng nhau’. Như thế, chúng ta những người Công giáo cũng không thể tránh khỏi lối suy nghĩ ấy, mà cho rằng: tôi chẳng mắc nợ ai ngoài những gì đã vay mượn, chứ không nợ ai yêu thương cả!
Nói cho cùng, chúng ta không những nợ, mà còn nợ nhiều nữa là đàng khác. Nợ Thiên Chúa! nợ bố mẹ ta! nợ gia đình ta! nợ hết thảy những ai dạy dỗ, nâng đỡ, giúp sức cho ta! nợ giáo xứ, nợ cộng đoàn, nợ bạn bè! Chẳng phải khi vay mượn, chúng ta mới nợ đâu! Thật sự, điều này hoàn toàn đúng, vì khi mượn vay thì đã mắc nợ, và đã nợ phải trả là điều hiển nhiên. Nhưng hơn thế, là người Công Giáo, nếu chúng chưa sống giới răn yêu thương: mến Chúa (x. Đnl 6, 5) và yêu người như chính mình (x. Lv 19, 18) thì chúng ta còn mắc nợ dài dài. “Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật” (x. Rm 13, 8) và “ yêu thương là chu toàn cả lề luật” (x. Rm 13, 10).
Khi nghe nhiều người không Công Giáo, kể cả những người theo chủ thuyết vô thần nói: nơi nào có nhiều cộng đoàn giáo xứ, dòng tu và tín hữu Công Giáo, nơi ấy rất bình yên, và tệ nạn xã hội rất thấp, đến độ không có. Nếu thật sự như vậy, chắc hẳn người Công Giáo chúng ta đang nỗ lực sống giới yêu răn thương, làm việc bái ái và trở nên ‘muối men’ cho đời, cho mọi người hàng xóm, làng giếng và xã hội. Nói như Thánh Phao-lô đã quả quyết: khi chúng ta thực thi bác ái, sống giới răn yêu thương như Chúa dạy thì sẽ không làm hại tha nhân (x. Rm 13, 10).
Hơn nữa, nhờ tình yêu, sự tương thân tương ái, và việc thực thi bác ái mỗi ngày, chúng ta mới có thể xét mình thay vì xét đoán, đổ lỗi, phàn nàn, lên án, chụp mũ…anh chị em. Với lòng yêu thương ấy, với niềm hân hoan sống bác ái ấy, chúng ta mới có thể ‘trở nên người canh gác cẩn trọng’ (x. Ez 33, 7), không phải canh gác như ‘giám thị’ chỉ để ý đến những gì không tốt, xấu xa nơi người khác; trái lại, canh giữ tâm hồn bản thân, canh giữ lối sống đoan chính, canh phòng suy nghĩ, cách nhìn ngay thẳng của chính mình, để can đảm thực thi Lời Chúa, và khuyến dụ anh chị em trở về chính lộ mỗi lần lạc lối hay lầm lạc “khi ngươi loan báo cho kẻ gian ác bỏ đàng tội lỗi, cho dẫu nó không chịu bỏ đi chăng nữa, thì nó sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng ngươi cứu được mạng sống mình” (x. Ez 33, 9).
Lòng yêu thương, việc thực thi bác ái này được Chúa Giê-su nâng lên một tầm cao mới, đó là sửa đổi cho nhau trong tình huynh đệ. Và điều này cần phải thực hiện một cách cẩn trọng và theo ‘tiến trình’ tiệm tiến như Chúa Giê-su chỉ dẫn. Tuy nhiên, trong thực tế, ‘tiến trình’ này dường như bị đảo ngược, tệ hơn là bị bỏ qua, nên ‘tiến trình’ biến thành ‘trình tiến’ theo thói quen, tập quán bản thân. Ngoài ra, phần lớn cách thức mà người Á Đông chúng ta hay làm và luôn cho rằng không sai, đó là thay vì nói riêng, trực tiếp, đối diện với người anh chị em mắc lỗi với mình, thì lại rêu ra, lôi kéo đồng minh bằng cách nói với người thứ ba (mà người này chẳng biết rõ gì về sự thể đang diễn ra giữa mình với người anh chị em mắc lỗi!). Vì thế, Chúa Giê-su hướng dẫn chúng ta nên hành xử ra sao khi anh chị em lỗi phạm, hay trót phạm tội (x. Mt 18, 15) một cách cụ thể từng bước một: (1) đi sửa dạy riêng giữa ngươi và nó thôi, (2) nếu nó không nghe, đem theo một hoặc hai người nữa để làm nhân chứng, (3) nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Sau đó, nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, thì hãy kể nó như người ngoại và như người thu thuế (x. Mt 18, 15-17). Tiến trình sửa lỗi, góp ý cho anh chị em thế này luôn luôn phải đặt trong lòng mến, tình đệ huynh và nhất là trong tâm tình cầu nguyện giúp biện phân, tìm Thánh ý Chúa trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn, giáo xứ, hội dòng…Nếu chúng ta không cẩn trọng thực hiện từng bước một như Lời Chúa dạy, và với tâm thế yêu thương, hiểu biết, cảm thông, thì việc hữu ích này sẽ có nguy cơ biến thành cuộc thanh trừng, vạch mặt, tố cáo nhau như đã và đang xảy ra trong văn hoá trần tục giữa một xã hội thực dụng ngoài kia.
Giờ đây, chúng ta cùng trở về với lòng mình, đi sâu vào trong tâm hồn bản thần hầu chúng ta đủ lắng đọng, đủ tĩnh lặng, để cùng lắng nghe tiếng Chúa và tâm sự với Người:
Lạy Chúa, giữa chốn trần gian
Nhiều người đánh đổi bình an tâm hồn
Bằng sự xa hoa thượng tôn
Vật chất trở thành luỹ đồn chở che
Lạc vào hư vô đê mê
Từ thiện giả tạo chắn che lỗi lầm
Xin cho con biết âm thầm
Thực thi bác ái ân cần đệ huynh. Amen!
45. Biết mình biết người
(Suy niệm của Lm. Fx. Trần Phương)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay cùng nói đến vấn đề cứu độ, nhắm đến trách nhiệm của chúng ta đối với nhau trong cộng đoàn. Không ai là một hòn đảo, vì trong Đức Kitô, chúng ta đều là anh chị em, những phần tử của chung một gia đình.
Cuộc đời con người thật ngắn ngủi, do đó tất cả chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để làm những việc lành phúc đức khi chúng ta còn có cơ hội, bằng cách quan tâm tới những kẻ yếu đuối và hèn kém, khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Điều đó không có nghĩa làm cho chúng ta trở thành những kẻ tò mò, thích xen vào chuyện của người khác hay can thiệp vào cuộc sống riêng của họ. Tình yêu dành cho tha nhân phài được xử lý một cách lịch thiệp và khôn ngoan và phải luôn nhớ rằng khía cạnh quan trọng nhất của một đời sống tốt đẹp chính là quên đi tất cả những việc mình đã làm cho người khác.
Thật vậy, không có cuộc sống chung nào mà con người không phải đau khổ vì đồng loại mình. Bài Phúc Âm hôm nay gợi ý cho chúng ta một phương pháp hữu hiệu để khuyên giải cho những kẻ lầm đường lạc lối. Tuy nhiên, việc sửa lỗi cho nhau rất khó thực hiện trong đời sống thường ngày. Vì thế, khi phải can thiệp vào chuyện khó xử này, chúng ta phải thật sự tế nhị, khéo léo và khôn ngoan. Bởi vì, thực tế đã chứng minh rằng, một lời nói bất cẩn hoặc khuyên giải một cách thái quá có thể gây nên sự đổ vỡ lớn lao hơn.
Xét trên một khía cạnh nào đó, việc sửa lỗi cho nhau giống như một “con dao hai lưỡi”, vì rất dễ dàng gây nên sự đụng chạm, thậm chí có thể cướp mất đi tình bạn thân thiết mà ta đã có trước đây. Cha ông ta thường nói, ‘im lặng là vàng’ nhưng cũng có lúc thì ‘im lặng là đồng lõa’. Trong một số trường hợp, chúng ta cần có một quyết định dứt khoát vì nếu không hành động kịp thời thì những việc làm sai trái đó tiếp tục có cơ hội hoành hành. Hơn nữa, nếu chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước những lỗi lầm của anh em mình thì chúng ta nên xét lại ý nghĩa và đòi hỏi của giới luật yêu thương mà chúng ta hằng tuân giữ. Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, những gì chúng ta làm phải được phát xuất từ lòng bác ái, chứ không phải là thái độ ‘bới lông tìm vết’ hoặc lên lớp dạy bảo người khác.
Chúng ta không thể gây nên đau khổ cho những người chung quanh, nếu chúng ta nói mình yêu thương họ. Thật vậy, một chút tâm tình kèm theo những lời nói chân thành có thể làm cho bầu khí trở nên nhẹ nhàng và làm cho vấn đề trở nên tốt đẹp hơn. Nên nhớ rằng, không một ai trong chúng ta là người hoàn hảo, nên khi nói lên điều sai lỗi của người khác, chúng ta cũng cần chuẩn bị để lắng nghe họ nhận định về những thiếu sót của mình.
Nếu mỗi người có thể chấp nhận sửa lỗi cho nhau và nếu chúng ta nhận thấy mình có sự khác biệt so với người khác, hãy sẵn sàng chấp nhận thiếu sót của mình và mở rộng lòng mình để giao hòa với nhau. Những ngôn từ nặng nề và thái độ hung hãn không phải là lối xử sự của những người được mệnh danh là Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến việc giao hoà với anh chi em đồng loại khi Ngài nói: “Khi các con đến bàn thờ để dâng của lễ, nếu nhớ ra rằng mình đang có đìều bất hoà với anh chị em, hãy để của lễ đó, quay về làm hoà với anh chị em mình trước, rồi hãy đến dâng của lễ.” (Mt 5, 23-24).
Thử hỏi ai trong chúng ta là người chấp nhận Lời Ngài và đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình?
46. Nhắc bảo.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay tôi muốn chia sẻ về bổn phận nhắc bảo lẫn nhau.
Trước hết, điều chúng ta nhắc bảo phải là những sai lỗi. Không phải chỉ những sai lỗi đến chúng ta hoặc gây thiệt hại cho chúng ta, mà còn là những sai lỗi nói chung, những tội phạm bề ngoài, gây nên gương mù gương xấu. Mục đích chúng ta nhằm tới không phải là để phê bình chỉ trích, mà là để cứu thoát người anh em, trình bày cho họ biết những sai lỗi để uốn nắn sửa đổi mà thăng tiến bản thân như lời Chúa phán:
– Nếu nó nghe con thì con sẽ cứu được nó… và con được lợi thêm một người anh em.
Thực vậy, tội lỗi là sự ác to lớn và nặng nề nhất, là sự lầm lạc tai hại nhất, vì thế nhắc bảo người anh em cũng là một công việc bác ái cao thượng nhất. Hơn thế nữa, nếu không nhắc bảo, nhiều khi còn có hại cho chúng ta và chính chúng ta cũng phải liên đới phần nào trách nhiệm đối với linh hồn người khác mà một ngày kia chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tôn nhan Chúa.
Thế nhưng phải nhắc bảo như thế nào? Chúa Giêsu đã phân chia thành ba giai đoạn. Trước hết là phải nhắc bảo riêng tư giữa họ và ta. Nếu giải pháp đó không xong, thì dùng giải pháp thứ hai, đó là hãy giải quyết với hai hay ba nhân chứng, chứ không phải là tố cáo và đưa nhau ra tòa. Nếu giải pháp thứ hai cũng không xong, thì phải đem đến cho Giáo Hội. Giáo Hội ở đây có thể là Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội nói chung. Cụ thể là nhờ đến quyền bính phần đạo, chứ không phải là quyền bính phần đời, vì đây không phải là trường hợp để trừng phạt, mà là trường hợp để cải hóa. Đến lúc đó, mà họ còn không nghe nữa thì phải coi như người ngoại giáo và bị loại ra khỏi Giáo Hội.
Để xác quyết cho quyền bính của Giáo Hội, Chúa Giêsu đã nói thêm:
– Sự gì các con cầm buộc, thì trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo cởi thì trên trời cũng tháo cởi.
Như chúng ta cũng vừa nói: Nhắc bảo anh em là một nghĩa vụ bác ái đòi buộc chúng ta phải thực hành, nhưng phải thực hành với tinh thần siêu nhiên, và với cách thức phù hợp với tâm lý.
Trong việc phân rẽ đông tây của gia đình Kitô giáo, những người con của Giáo Hội đã có những lầm lẫn đáng tiếc trải dài nhiều thế kỷ chưa thể hàn gắn. Về lý, Giáo Hội có đủ lý nhưng về cách thức thi hành thì đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc, chính vì thế mà Đức Phaolô VI đã xin lỗi anh em Chính Thống cũng như Tin lành về những điều đáng tiếc ấy. Đây là một hành động đáng chúng ta suy nghĩ.
Trong việc nhắc bảo cũng vậy, nếu không khéo léo và tế nhị thì có thể đi đến chỗ đổ vỡ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bảo chúng ta tiên vàn hãy nhắc bảo riêng tư để tìm lấy một sự cảm thông chân tình.
Với chúng ta ngày hôm nay chúng ta thường nghe nói nhiều đến từ ngữ đối thoại, tuy nhiên người ta đã lạm dụng hành động này. Bởi vậy trong bức thông điệp “Ecclesiam Suam” Giáo Hội của Ngài. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã định nghĩa đối thoại là một nghệ thuật thông cảm siêu nhiên. Sự đối thoại đòi cả hai bên những điều kiện sau đây:
Đó là phải rõ ràng và minh bạch, không úp mở, không dấu diếm cũng như không thủ đoạn.Tiếp đến là phải hiền dịu, xuất phát từ tình yêu và lòng kính trọng lẫn nhau và sau cùng là tín nhiệm, tin ở lời mình nói và thiện chí chấp nhận của người nghe.
Hãy áp dụng những điều kiện ấy trong việc nhắc bảo lẫn nhau, để chúng ta thực hiện được một hành vi bác ái cao thượng, đẹp lòng Chúa.
47. Dân ngoại
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Người Thiên Chúa giáo Việt Nam có thói quen gọi người không cùng tôn giáo với mình là ‘người ngoại’. Kiểu gọi vắn tắt này gây hiểu lầm cho các tôn giáo bạn. Khi dùng từ ‘người ngoại’ người nói ngụ ý chỉ người đó là người ngoài Thiên Chúa Giáo. Trong khi người nghe lại hiểu từ ‘người ngoại’ là người ngoại giáo, không có đạo. Cách hiểu thông thường, bình dân này gây tai hại trong tôn giáo. Có người đặt vấn đề không lẽ chỉ có Thiên Chúa giáo mới là đạo còn các tôn giáo khác đều không phải là đạo. Thực ra từ nguyên thuỷ ‘người ngoại’ không có ý nói người khác vô đạo hay coi thường các tôn giáo khác mà chỉ muốn nói người đó ngoài tôn giáo với mình. Kinh Thánh dùng từ ‘người ngoại’ khác với cách hiểu thông thường chung trong đại chúng.
Kinh Thánh dùng từ ‘người ngoại’ với hai ý. Ý thứ nhất chỉ những người không cùng tôn giáo Kitô. Ý thứ hai chỉ những Kitô hữu không sống theo tinh thần Phúc Âm, thiếu yêu thương và tha thứ. Họ sống trong cộng đoàn nhưng hành xử như người ngoài cộng đoàn. Đức Kitô còn dùng hình ảnh khác nói đến các Kitô người ngoại, đó là hình ảnh sói đội lốt chiên làm công việc cắn phá, âm thầm giết hại chiên. Bởi vì chúng mặc áo chiên nên khó nhận ra tính lang sói ẩn núp sau dáng điệu hiền từ của chiên. Chỉ sau khi trở thành nạn nhân lúc đó chiên mới nhận ra tính lang sói. Khi đã là nạn nhân thì không còn tư thế để phanh phui tính lang sói. Cũng có thể chiên bị chết còn đâu cơ hội để báo cho cộng đoàn biết sói đang sống giữa bầy chiên.
Như vậy trong đoàn chiên luôn có sói trá hình, đội lốt. Trong cộng đoàn Kitô hữu luôn có ‘người ngoại’ sống chung. Kitô hữu trở thành ‘người ngoại’ khi Kitô hữu chọn lối sống theo ý riêng mình. Bề ngoài thì họ là Kitô hữu như những người khác nhưng bên trong họ không có chất Kitô hữu trong mình. Chính vì thế mà khó phân biệt ai là Kitô hữu chân chính; ai là Kitô hữu ngoại lai. Kitô hữu ngoại lai sống chung với các Kitô hữu chân chính, ăn nói như những Kitô hữu chân chính. Họ cũng nhân danh cộng đoàn nói về Chúa, cũng nói về yêu thương, bác ái, cũng đôi khi, thỉnh thoảng tham dự thánh lễ, sinh hoạt chung trong cộng đoàn, đôi khi họ còn hăng say tranh đấu dành quyền lợi cho cộng đoàn. Những sinh hoạt trên có thể qua mặt, làm cho một số người hiểu lầm họ là Kitô hữu chân chính. Thực ra họ là Kitô hữu ngoại lai. Họ qua mặt loài người mà không thể qua mặt Đức Kitô, Đấng không nhìn bề ngoài mà thấu suốt bên trong tâm hồn con người. Đại đa số chúng ta đánh giá người khác qua việc đạo đức mà quên phần thánh thiện. Đức Kitô không nhìn người khác bằng hành động đạo đức bên ngoài. Ngài nhìn phần đạo đức xuất phát từ trong tâm hồn. Đạo đức đến từ tâm hồn được gọi một từ riêng là thánh thiện. Đạo đức bề ngoài không giúp cho người đó nên thánh. Chỉ có phần đạo đức thực sự đến từ trong tâm hồn, phần thánh thiện mới giúp cho Kitô hữu nên thánh. Đạo đức thánh thiện thực sự được thánh Phaolô nhắc lại điều Chúa dậy tóm gọn trong giới luật yêu thương.
Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật. Đó là: Chớ ngoại tình; chớ giết người; chớ trộm cắp; chớ làm chứng gian; chớ mê tham… Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác Rm13,8-10
Câu đáp ca trong thánh lễ hôm nay cho biết dấu chỉ của Kitô hữu chân chính là Kitô hữu có lối sống khiêm nhường.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
Kitô hữu ngoại lai là Kitô hữu nghe tiếng Chúa nhưng vẫn cứng lòng. Như thế nào là cứng lòng, biến hoá, thoái hoá thành Kitô hữu dân ngoại. Phúc âm đưa ra thí dụ sau.
Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, thì ngươi đã lợi được người anh em. Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa, để mọi việc được giải quyết nhờ lời hai hoặc ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Và nếu nó cũng không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế.Mt 18,15tt.
Kitô hữu không nghe lời giáo huấn của người lãnh đạo cộng đoàn trở thành Kitô hữu ngoại lai, chọn sống theo lối sống riêng, thích đấu tranh. Kitô hữu phạm lỗi mà từ chối nghe sửa dậy thì không thể là Kitô hữu chân chính. Bởi Kitô hữu chân chính khi lỗi phạm họ nghe theo lời chỉ dậy, sửa sai. Kitô hữu dân ngoại thiếu tinh thần khiêm nhường. Từ chối nghe theo hướng dẫn của người lãnh đạo cộng đoàn. Coi mình quan trọng hơn cả mọi người. Sống trong cộng đoàn để lợi dụng cộng đoàn làm bàn đạp gây thanh thế cho mình thì không thể coi là thành tâm phục vụ cộng đoàn.
Chúng ta hãy xin ơn chớ cứng lòng khi nghe tiếng Chúa.
Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: Đừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta. Tv 94,9.
48. Sinh hoạt trong đạo
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Sinh hoạt chung trong cộng đoàn dân Chúa là một nghệ thuật. Nghệ thuật sinh hoạt chung trong cộng đoàn đòi chấp nhận khác biệt và cảm thông. Cảm thông bao gồm cả việc chấp nhận thay đổi, quan tâm đến khó khăn của người và thực thi tình bác ái. Những điều này mang lại bình an và hài hoà trong đời sống mỗi thành viên và chung cho cả cộng đoàn. Mỗi người có cách sông riêng của cá nhân mình và những thành viên khác cần tôn trọng, với điều kiện cách sống riêng đó không ngược lại với tinh thần yêu thương, tha thứ trong Kinh Thánh. Bất đồng, tranh cấp, bất hoà xảy ra trong sinh hoạt chung là điều không thể tránh khỏi. Khi điều đó xảy ra tốt hơn hết là nên giải quyết càng sớm càng tốt. Mong rằng cứ làm lơ đi một thời gian bất hoà, tranh chấp sẽ chết theo thời gian là trốn tránh trách nhiệm của người lãnh đạo trong cộng đoàn. Bất hoà có thể không chết nhưng trở thành điều tai tiếng chung cho cả cộng đoàn và chia rẽ, bè phái là điều không thể tránh khỏi. Một khi đã có bè, phái, rạn nứt thì việc hàn gắn trở nên khó hơn và vấn đề giao hoà trở nên khó hơn gấp bội. Cá nhân và cộng đoàn thiệt thòi chỉ có kẻ ‘lợi dụng cơ hội’ là lợi hơn cả. Bất đồng dù lớn hay nhỏ đều gây nên rạn nứt và người lãnh đạo cộng đoàn cần tìm cách kiến tạo bình an cho cộng đoàn cũng như giúp các thành viên học khôn từ bất đồng và mục đích quan trọng nhất là giúp thành viên trung thành với đời sống đức tin. Danh Chúa không thể nào cả sáng nơi cộng đoàn có tranh chấp, bất hoà.
Cộng đoàn giải quyết bất hoà trong tâm tình yêu thương và công chính, không phải giải quyết theo phe phái hay thiên vị phe nhóm nhưng công tâm trong bác ái, yêu thương. Khi gặp vấn nạn phức tạp tiếng nói chung của người có trách nhiệm cần thể hiện tiếng nói của cả nhóm, không phải tiếng nói của người có uy tín nhất trong nhóm mà là tiếng nói chung cả nhóm đồng tâm như thế mới thể hiện được tiếng nói chung của cộng đoàn. Một khi tiếng nói chung bị từ chối người đó coi như tự tách mình ra khỏi cộng đoàn vì không công nhận quyền lãnh đạo chung của cộng đoàn. Từ chối như thế là tự chọn sống ngoài cộng đoàn, dù vẫn đang sống trong cộng đoàn nhưng cách xử thế là ngoài cộng đoàn. Trong truờng hợp này cộng đoàn không còn cách nào khác bằng cách thừa nhận tính cách chọn lựa của cá nhân đó. Chọn sống ngoài cộng đoàn chính là chọn đời sống của kẻ không tin Chúa hay đời sống của dân thu thuế. Người thu thuế thời Đức Kitô là người không tôn thờ Thiên Chúa nhưng là người cộng tác với thế lực ngoại bang để làm hại chính dân mình.
Tiếng nói chung của ban lãnh đạo là tiếng nói của con người nhưng tiếng nói đó được chính Đức Kitô xác nhận là cần thiết. Khi họ hội họp bàn về công việc chung trong tinh thần cầu nguyện chân thành, cởi mở và tinh thần bác ái thì họ nhận được ân sủng Chúa. Đức Kitô hiện diện trong các buổi sinh hoạt cầu nguyện thành tâm như thế. Cộng đoàn đức tin là nơi giúp giải quyết những bất đồng, chia rẽ nhưng cũng là nơi phát sinh bất đồng, chia rẽ. Cộng đoàn nâng đỡ, ủi an và chia sẻ khó khăn của mọi thành viên nhưng thành viên cũng có trách nhiệm chu toàn bổn phận cộng đoàn.
49. Chúa Nhật 23 Thường Niên
GIÊSU: NGƯỜI CẢNH BÁO TRONG CHÂN LÝ VÀ TÌNH THƯƠNG
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Quan sát các nhóm vật sống trên trái đất, người ta dễ nhận thấy có những cá thể làm nhiệm vụ cảnh báo. Cá thể cảnh báo đứng ở những nơi cao hơn, thoáng đãng hơn, giúp quan sát dễ hơn. Khi có dấu hiệu khả nghi, đe dọa, chúng phát tín hiệu để cả nhóm di chuyển đến nơi an toàn.
Cảnh báo được hình thành từ kinh nghiệm, nhằm duy trì, bảo vệ sự sống. Không ai phủ nhận giá trị khách quan của nhiệm vụ cảnh báo.
Đối với con người có trí khôn, cảnh báo trở thành một ngành khoa học công nghệ cao phục vụ chất lượng cuộc sống.
Tuy nhiên, con người toàn diện còn cần sự cảnh báo thiêng liêng để sống xứng đáng phẩm giá Chúa ban, được hạnh phúc và sự sống muôn đời.
Lời Chúa hôm nay trình bày kế hoạch cứu độ được thực hiện trong Chúa Kitô: công trình cảnh báo trong chân lý và tình thương.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Ézékiel, nói về việc Chúa gởi các vị ngôn sứ làm nhiệm vụ cảnh báo, canh chừng cho nhà Israel.
Trước hết, họ phải là người được Thiên Chúa tuyển chọn, cắt đặt, mới đủ tư cách trở thành người phát ngôn: “Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel” (Ez 33, 7).
Kế đến phải là người trung tín và trung thực:
* Trung thành trong ơn gọi và sứ vụ đã lãnh nhận, không thối lui, nản chí trước những thử thách, gian truân. Trong mọi hoàn cảnh vẫn giữ được lòng trung thành cho đến chết, mới xứng đáng lãnh nhận triều thiên sự sống. Thánh tử đạo Phao-lô Phạm Khắc Khoan (chịu chém tại Ninh Bình) trả lời quan tổng đốc: “Cả đời tôi thuyết giảng đạo thập giá, không lẽ gì tôi chối bỏ và chà đạp thánh giá” (cf. Hạnh các thánh tử đạo Việt Nam). Lòng trung tín là điều kiện tiên quyết của người được chọn và được sai đi.
* Trung thực: chuyển tải đúng nội dung sứ điệp ủy thác, không thêm, bớt, cắt nghĩa theo cảm quan loài người, phải cảnh báo khi thuận, cũng như nghịch cảnh. Chúa nói với vị ngôn sứ: “Ngươi nghe lời miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết” (Ez 33, 7). Sự trung thực với Lời làm cho ngôn sứ bị thiêu đốt, sống trong mòn mỏi, bách hại mọi lúc, mọi nơi, nhưng đó lại là phần thưởng Chúa hứa cho những ai hết lòng trung tín: “Ngươi hãy giữ lòng trung thành cho đến chết, Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2, 10c).
Đòi hỏi đối với vị ngôn sứ trong bài sách thánh, cũng là đòi hỏi đối với tất cả thừa tách viên Lời Chúa trong Giáo Hội. Các linh mục phục vụ Lời, phải rao giảng Lời Chúa, không quảng diễn sự hiểu biết cá nhân, lại càng không được lợi dụng giảng đài để công kích, thóa mạ, trút giận lên đoàn chiên. Các ngài phải noi gương Chúa Giê-su lấy lời hiền lành, khiêm tốn và nhất là gương sáng đời sống, khích lệ dân Chúa để khao khát nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành, chuyên chăm lắng nghe, thực hành Lời Chúa.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, đặt những nguyên tắc nền tảng trong việc sửa lỗi. Không chỉ nêu nguyên tắc, những trên tất cả, Ngài thực hành các nguyên tắc, làm mô phạm cho tất cả chúng ta.
Giê-su là mục tử nhân lành, hiểu biết nhu cầu đoàn chiên. Người lấy lời hằng sống và chính thịt máu mình làm lương thực nuôi chiên. Sẵn sàng đối đầu với muông sói để bảo vệ chiên. Chữa lành mọi thương tích, bệnh tật, để chiên được sống và sống dồi dào.
Rõ ràng, Giê-su là người cảnh báo có thẩm quyền, thực thi sứ vụ trong chân lý và tình thương. Nơi Người, mọi ý muốn của Thiên Chúa đều được thực hiện: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó cho kẻ bị thương tích, giải phóng cho kẻ bị tù đày…, loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4, 18 – 19).
Ngài cảnh báo bằng những bước phù hợp tâm trạng mỗi đối tượng: sửa lỗi rất quyết liệt, dứt khoát, không nhục mạ, chà đạp nhân phẩm người phạm lỗi, trái lại, tạo niềm vui mừng, hy vọng cho kẻ trỗi dậy trở về.
Bước 1: Sửa lỗi kín đáo, gặp gỡ cá nhân. Không làm cho người sai lỗi phải xấu hổ trước đám đông. Mục đích nhắm tới là sự hoán cải, không biến họ thành đề tài đàm tiếu, nạn nhân của kỳ thị khinh khi.
Bước 2: Nếu bước 1 bất thành, mới cần đến nhân chứng, ép người phạm lỗi chấp nhận sự thật. Cuối cùng, mới đưa ra cộng đoàn, không nhằm trừng phạt, nhưng đặt họ trong tình trạng lưu đày. Tình trạng sau cùng này cũng là cơ may giúp họ nhận ra ý Chúa, quyết tâm trỗi dậy trở về nhà Cha, như người con hoang đàng đã làm.
Trên tất cả, người được chọn làm nhiệm vụ cảnh báo phải mặc lấy tâm tư của Chúa, giầu lòng xót thương. Cảnh báo trong chân lý và tình thương, mới có thể đưa họ về với Chúa.
Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, xác định linh hồn của mọi hoạt động tông đồ là “tình yêu” và là mối dây ràng buộc mọi điều toàn thiện. Nếu con người chỉ mắc nợ nhau bằng tình yêu tương thân tương ái, họ sẽ giúp nhau nên hoàn hảo.
Dạy dỗ, cảnh báo trong chân lý và tình thương là chu toàn lề luật mến Chúa, yêu người và cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương.
Đối với Phao-lô, tình yêu là ngôn ngữ của trời, vì nó phát xuất từ Thiên Chúa, cội nguồn tình yêu tuyệt đối. Đức ái là con đường siêu vời dạy chúng ta biết sống kiên tâm, nhẫn nại, chịu đựng, tha thứ, cảm thông, biết chia vui cùng lòng chân thật.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách sửa lỗi cho nhau. Đây là nhiệm vụ quan trọng và tế nhị. Làm thế nào sửa lỗi, cảnh báo để người sai lỗi có thể chấp nhận thực trạng tâm hồn mình? Trước hết cần đến ơn Chúa và sự khôn ngoan để có thể cảnh báo họ đúng nơi, đúng lúc. Ơn Chúa đến với chúng ta qua cầu nguyện. Tôi có cầu nguyện nhiều cho họ không? Phải cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, ban ơn khôn ngoan, ban lòng thương xót Chúa, để việc chúng ta làm có sức lay động tâm hồn người nghe, giúp họ tự vấn lương tâm: “tôi phải làm gì?” như dân chúng từng xin thánh Gio-an Tiền Hô chỉ dạy.
Cần ý thức mình cũng là tội nhân. Phải luôn hoán cải, canh tân. Chỉ khi mắt tâm hồn mình sáng, mới có thể làm người dẫn đường cho tha nhân.
Trên tất cả, cảnh báo bằng gương sáng đời sống đạo đức có sức lôi kéo và thuyết phục hơn rất nhiều: “lời nói như gió lung lay, gương lành như tay lôi kéo”. Kitô hữu phải là ánh sáng, là men, là muối cho trần gian, có như thế, nhiệm vụ cảnh báo và sửa lỗi của chúng ta mới đem lại kết quả mong muốn, vì luôn được đặt trên nền tảng: chân lý và tình thương.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong ngày chủa nhật hôm nay. Amen.
50. Tương trợ
Mọi người là anh em con cùng một Cha, do đó chúng ta phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Khi anh em lỗi phạm, chúng ta có bổn phận sửa lỗi và trợ lực cho họ bằng nhiều cách khác nhau như: cầu nguyện, nhắc nhở, sửa dạy… theo từng bước: sửa dạy riêng, nhờ thêm vài người, nếu không được thì trình với cộng đoàn giải quyết.
Để một phạm nhân sám hối, trước hết phải cầu nguyện hết lòng cho người đó. Cần có ơn trợ giúp của Chúa thì phạm nhân mới mau nhận thức rõ những sai lầm và ăn năn sám hối đúng mức. Khi đã cầu nguyện cho họ, thì lời khuyên của chúng ta mới dễ đạt kết quả. Tôi biết một người bỏ đi nhà thờ nhiều năm, không ai khuyên được ông ấy. Nhưng vì thương cho hoàn cảnh ông nên nhiều hội đoàn cùng họp nhau lại cầu nguyện, làm việc hy sinh… kết quả là ông đã xin đi xưng tội và trở lại giữ đạo đàng hoàng trong tháng đó. Nếu chúng ta biết cầu nguyện cho mọi người trong sự khiêm nhường thì Chúa sẽ ban ơn dồi dào cho họ và cho chúng ta được ý thức sống trong tình mến Chúa luôn.
Việc sửa lỗi có thể được thực hiện cách nhẹ nhàng bằng lời khuyên của bạn bè, của người thân trong gia đình, của việc nêu gương sáng về tình yêu thương và niềm tin mạnh mẽ vào Chúa. Thường thì tội nhân dễ có ý nghĩ tiêu cực sau khi phạm lỗi, do đó cần có người giúp cho họ vượt qua sự ngại ngùng, sự cố chấp do tự ái hoặc sự sợ hãi, thất vọng…
Việc sửa lỗi cho anh em là điều cần thiết nhưng cũng hết sức tế nhị để bảo toàn thanh danh cho anh em đó. Chính Chúa Giêsu đã nói rõ ràng từng bước sửa dạy cho các môn đệ và các ngài truyền lại cho chúng ta. Nếu anh em trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi, nên cầu nguyện trước, sau đó đến gặp gỡ, khuyên răn… Vấn đề là giúp người anh em hoán cải, nên người tốt chứ không có ý chỉ trích hay bêu xấu họ. Tuy nhiên, nếu người đó không chịu nghe thì phải gọi thêm vài người có uy tín để giúp họ nhận thức về tội của mình. Nếu người đó vẫn cố chấp, không hối lỗi thì còn giải pháp cuối cùng là trình với người có trách nhiệm trong Giáo hội để giúp cho tội nhân có thái độ dứt khoát sửa mình. Nếu họ vẫn khăng khăng không hối lỗi thì họ phải tự gánh lấy hậu quả.
Chúa Giêsu có quyền tha bắt tội nhưng Ngài đến trần gian không nhằm để trừng phạt hay dùng quyền bắt mọi người tùng phục mình, Ngài có cách sửa dạy rất hay bằng lời giảng dạy, bằng dụ ngôn và bằng chính đời sống thánh thiện của Ngài. Ngài đối xử nhân từ với mọi người, dù họ là người tội lỗi hay đạo đức, người đơn sơ khiêm tốn hay kẻ cứng lòng không tin. Chúa Giêsu tỏ ra kiên nhẫn đối với nhân loại. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho Hội thánh quyền tha bắt tội dưới đất: “dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (Mt 18,18). Tuy nhiên, Hội thánh cũng đang noi theo gương Chúa kitô đối xử nhân từ với tội nhân và sẵn sàng ban ơn tha tội cho những ai thật lòng thống hối. Hội thánh dùng quyền để phục vụ, để cứu chữa, không nhằm để trừng phạt. Chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu và Hội thánh là Thân thể mầu nhiệm của Người để sống trung thành với lời Chúa dạy, sống đúng theo huấn quyền của Hội thánh và tỏ lòng quý mến mọi anh em.
Nếu mọi người biết yêu thương nhau và quyết một lòng một ý xin Chúa điều gì, chắc Chúa không nỡ từ chối chúng ta. Chúa Giêsu tuy đã lên trời vinh hiển nhưng Ngài không bỏ chúng ta mồ côi. Ngài đang ở giữa chúng ta, ban các Bí tích cho chúng ta, ở trong chúng ta để hướng dẫn, gìn giữ và giúp sức cho những ai thành tâm kêu cầu Người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con là những con người yếu đuối, còn kém lòng tin cậy mến Chúa và lơ là bổn phận sửa dạy lẫn nhau, xin cho chúng con luôn biết nhận ra tình yêu Chúa đối với bản thân mình, để yêu mến Chúa và khiêm tốn đón nhận những lời khuyên răn, góp ý của những người xung quanh cũng như dám khuyên bảo anh em khi cần thiết. Từ nay, chúng con quyết tâm sống tương trợ, yêu thương, hiệp nhất với mọi người để công việc truyền bá Phúc Âm được lan rộng và thấm sâu vào lòng mọi người.
51. Một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Kính thưa Anh Chị em,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đặt chúng ta trên một con đường khá gay gắt, một con đường có tên là yêu thương, con đường có tên là kiếm tìm nhưng cũng là một con đường có tên là cứu độ. Thiên Chúa đặt Êzêkiel làm người tìm kiếm dân Chúa, đưa những người lầm lạc trở về; với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ ra tuần tự các bước trên con đường ấy: bước yêu thương, bước khiêm hạ, bước gặp gỡ và quan trọng nhất, nhìn nhận kẻ lầm lạc là người anh em. Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Hội Thánh Chúa Kitô là một Hội Thánh lữ hành; ở đó, không phải tất cả con cái Hội Thánh là thiên thần, là cá lớn, là lúa tốt; nhưng ở đó, khi mọi người đang trên đường nên thánh, còn có cả những con người yếu đuối như chúng ta và nhiều khi, đáng thương hơn chúng ta về phần linh hồn. Thiên Chúa muốn chúng ta đi tìm kiếm họ. Đó cũng là những con người đang được Thiên Chúa xót thương, Người muốn chúng ta thương xót nhau; đó có thể là những tội nhân, những cỏ lùng và dù gì đi nữa, thì trước hết đó vẫn là người anh em, chị em của tôi; những người đáng được tôi yêu thương như chính bản thân như giới răn thứ hai đòi hỏi.
Trong bài đọc thứ nhất, Thiên Chúa nói với Êzêkiel, “Khi nghe lời miệng Ta nói, ngươi hãy loan báo cho chúng thay Ta. Khi Ta phán cùng kẻ gian ác rằng, ‘Hỡi kẻ gian ác, mi sẽ phải chết’; nếu ngươi không chịu nói để kẻ gian ác bỏ đường lối mình, thì chính kẻ gian ác sẽ chết trong sự gian ác của nó, nhưng Ta đòi máu nó bởi tay ngươi”. Êzêkiel không thể thoái thác lời Thiên Chúa, ông phải đến với dân, cũng như chúng ta không thể không cất bước đi tìm kiếm người anh em đang trên đường hư mất. Như việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người mang ý nghĩa cứu độ thế nào, thì cuộc tìm kiếm người anh em lầm lỗi của chúng ta cũng mang tính cứu độ như thế; yêu thương ai, trước hết là muốn cho người ấy được cứu độ. Vì thế, tìm kiếm người anh em là một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ.
Thánh Vịnh đáp ca hôm nay là một lời van xin của những ai được sai đi trong yêu thương ngỏ với người anh em lầm lạc của mình, “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người, ‘Các ngươi đừng cứng lòng’”. Đó phải là một lời van xin thực sự chứ không phải là một mệnh lệnh; một lời van xin như Thánh Ambrôsiô đã van xin Augustinô quay trở về, “Với chúng ta, Đức Kitô là tất cả! Nếu con có một vết thương cần phải chữa lành, Đức Kitô chính là vị lương y; nếu con khát khô vì cơn sốt, Đức Kitô chính là dòng suối mát; nếu con cảm thấy chán nản vì những bất công trong cuộc đời, Đức Kitô chính là Đấng công bình và rất mực công minh; nếu con cần giúp đỡ, Đức Kitô là sức mạnh; nếu con sợ chết, Đức Kitô là sự sống; nếu con khát mong nước thiên đàng, Đức Kitô là con đường dẫn về thiên quốc; nếu con ở trong bóng tối, Đức Kitô chính là ánh sáng… Hãy nếm thử và hãy nhìn xem, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc cho những ai cậy trông nơi Người!”.
Đặc biệt với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu phác hoạ một trình tự tiệm tiến của một lộ trình yêu thương và tìm kiếm vốn đòi hỏi sự bền chí khi chúng ta đi tìm người anh em đáng thương của mình. Con đường này được đặt nền móng trên lòng thương xót và sự khiêm hạ, một con đường mà Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai thành tâm cầu xin. Thông thường, khi một ai đó sai lỗi, chúng ta phê phán, lên án và quên mất người ấy là anh em, chị em; hậu quả là chúng ta dễ dàng loại trừ; đó là dấu hiệu của việc thiếu thương xót. Thương xót thật sự sẽ giúp chúng ta nhận thức sai lỗi của người anh em như là cơ hội cho một tình yêu lớn lên và đó phải là khởi đầu cho bước kiếm tìm. Bởi thế, việc công khai tội của người anh em không bao giờ là bước đầu tiên, thay vào đó là âm thầm cầu nguyện, tìm kiếm, ước ao gặp gỡ và hoà giải.
Vậy làm sao để tiếp cận người anh em, nhất là khi họ chống lại chúng ta? Đây là một công việc vô cùng khó khăn vốn đòi hỏi nhiều lời cầu nguyện, hy sinh, nỗ lực và sáng tạo. Trước hết, trong yêu thương, tìm kiếm đối thoại chỉ giữa hai người; tiếp đến, nếu cần, mời những người đáng tin trợ giúp; và sau cùng là đưa đến Hội Thánh. Mục đích cuối cùng là Thiên Chúa, là sự thật, để sự thật đó có thể phục hồi sớm nhất mối tương quan hiệp nhất của người anh em với Chúa và Hội Thánh. Chỉ sau khi đã cố gắng hết sức mà vẫn hoài công, chúng ta mới nghĩ đến việc rũ bụi chân và phó thác người anh em cho lòng thương xót của Thiên Chúa và đừng quên cầu nguyện và hy sinh cho họ gấp bội; cả khi điều xấu nhất xảy ra, hành vi rũ bụi chân vẫn là một hành vi yêu thương vốn vẫn hy vọng một ngày nào đó, người anh em sẽ nhận ra hệ trọng của những lầm lỗi họ gây nên để quay trở về. Qua thư Rôma hôm nay, chúng ta được Thánh Phaolô nhắc nhở, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương”.
Một lần nọ, khi một nhóm 50 người trong cùng một công ty đang tham dự một cuộc hội thảo thì bất ngờ, vị diễn giả dừng lại và quyết định làm một hoạt động nhóm. Mỗi người được trao một quả bóng để viết tên mình lên đó bằng một bút lông. Toàn bộ số bóng được thu lại và để vào một căn phòng. Những người tham gia sau đó, được yêu cầu trong vòng năm phút, tìm lại quả bóng có tên mình. Tất cả nháo nhào đi tìm; họ xô xát, húc đẩy nhau, tạo thành một mớ hỗn độn người và bóng trong căn phòng. Năm phút trôi qua trong hỗn loạn, không ai tìm được quả bóng đang bay lên rơi xuống của mình. Vị diễn giả tiếp tục yêu cầu những người tham gia chọn ngẫu nhiên một quả bóng trong phòng và tìm kiếm người có tên được ghi trên quả bóng. Thật đáng kinh ngạc, trong không khí thân thiện, chưa tới năm phút ai nấy đã cầm trên tay quả bóng ghi tên mình.
Anh Chị em,
Đẹp thay bước chân người đi loan báo Tin Mừng, loan tin bình an; và cũng đẹp thay bước chân ai đi tìm kiếm người anh em, chị em đang hư mất của mình. Mỗi chiếc bóng trong câu chuyện tượng trưng cho tình yêu, phẩm giá, sự tha thứ và lòng xót thương của chúng ta dành cho người anh em đáng thương mà chúng ta đang kiếm tìm. Hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta; trái tim của chúng ta chỉ được lấp đầy khi trái tim ai đó cũng được lấp đầy và thương tích ở đó được chữa lành. Thánh Phaolô thật chí lý, “Anh em chớ mắc nợ ai điều gì, ngoài món nợ yêu thương; vì yêu thương là chu toàn lề luật”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, ai cũng được Chúa thương, và xem ra, ai cũng nói, Chúa thương họ nhất và con cũng thế. Xin cho con biết thương người anh em lầm lỗi của con, cho con biết cất bước đi tìm họ, một cuộc tìm kiếm có tên là cứu độ”, Amen.
52. Sửa lỗi anh em
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1/ Sửa lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2/ Khi biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3/ Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp ý tốt đẹp chưa?
53. Sửa lỗi anh em
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Hội Thánh là một cộng đoàn những con người. Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống cộng đoàn. Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: “Khi anh em ngươi sai lỗi”. Vâng, người sai lỗi đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng. Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì đó là người anh em ta, là đáng quí trọng đối với ta. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy ta phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn. Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy tế nhị của Chúa.
54. Nghệ thuật sửa lỗi
(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)
Ngạn ngữ Tây phương có câu: “Con người là tội lỗi”. Chính vì vậy, ngay cả trong cộng đoàn Giáo Hội thánh thiện cũng có những người tốt và có cả những người chưa tốt, thậm chí còn có cả những người xấu nữa.
Cũng vì thế Chúa Giêsu muốn nêu lên tinh thần trách nhiệm của mỗi người là phải ân cần săn sóc cho nhau, giúp sửa lỗi cho nhau.
Tuy nhiên sửa lỗi cho nhau là một chuyện rất khó khăn. Đây là một nghệ thuật rất khó; khó đạt đến thành công mỹ mãn.
Theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, điều đầu tiên là gặp gỡ riêng anh em. Tại sao lại phải gặp gỡ riêng trước? Ở đây chúng ta thấy hai điểm then chốt. Đó là tôn trọng danh dự anh em và có một mối dây liên đới thân tình.
Trong thế gian, người ta thường không tôn trọng danh dự người khác. Họ tố cáo những chuyện xấu, chuyện tội lỗi của kẻ khác; họ thường phê bình chỉ trích người khác; muốn hạ phẩm giá người khác. Ở đây, ngược lại, Chúa dạy chúng ta hãy giữ bí mật những tính hư nết xấu, những tội lỗi của kẻ khác. Khi ta nói ra điều xấu của kẻ khác thì ta đã xúc phạm đến danh dự người đó; khi đó ta đã phạm tội nói xấu kẻ khác. Có thể tật xấu hay tội đó là có thật, nhưng ta vẫn phải có bổn phận giữ kín và bảo vệ danh dự cho người khác; cũng như ta muốn bảo vệ danh dự cho mình. Trừ khi vì công ích nghiêm trọng đòi buộc, ta mới có thể tiết lộ những tbí mật xấu hay tội lỗi của kẻ khác.
Bên cạnh việc tôn trọng danh dự người khác, để có thể gặp gỡ riêng tư sửa lỗi thì ta cần có một mối liên hệ thân tình. Trong lời dạy của Chúa Giêsu, Ngài nói đến “người anh em” chứ không nói đến người dưng xa lạ. Vậy nếu chưa có đủ mối liên hệ thân tình, thì cần phải tạo mối liên hệ này trước khi gặp gỡ anh em. Mội đối xử tốt, nhận ra những điều tốt điều tích cực nơi người anh em là điều cần thiết để xây dựng mối thân tình và lòng nhiệt thành vô vị lợi của chúng ta.
Giai đoạn của việc sửa lỗi này nếu như không có kết quả, vì người anh em không chịu nhận lỗi và vâng phục, thì công việc sửa lỗi trong một cộng đoàn một tổ chức cần được tiến hành một cách từ từ, với sự góp ý của một vài người nữa để cho thấy sự việc mang tính khách quan hơn. Người lỗi phạm dễ chấp nhận phần lỗi hơn.
Sau đó, nếu vẫn không có kết quả, thì mới đưa lên cấp cao hơn để xét xử.
Trong tổ chức của Giáo Hội, đôi khi chúng ta thấy có sự việc phạt vạ người này người kia. Đó cũng là làm theo lời chỉ dạy của Chúa Giêsu.
Về phần người tín hữu của chúng ta, giai đoạn đầu tiên của việc sửa lỗi là đáng lưu ý hơn cả, vì nó thường xảy ra hơn, trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm. Bổn phận giữ kín chuyện xấu của người khác và gặp gỡ thân tình với sự tôn trọng danh dự người anh em là điều cần thiết.
Trong quyển sách về truyện các vị ẩn tu có ghi lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia, khi giám mục Ambôtnat đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng bày tỏ nỗi bất bình của họ đối với vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng cho dân làng đàm tiếu và lên án.
Đức Giám mục Ambônat vừa đến, họ xúm lại vây quanh ngài và nói: Hôm nay ngài đã đến, thì ngài phải chấm dứt ngay tình trạng sa đọa, bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu và dân làng nối gót theo sau.
Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến thì hoảng sợ và hấp tấp bảo người phụ nữ hãy chui vào một chiếc thùng gỗ trống. Giám mục là người duy nhất đến trước túp lều, và là người đầu tiên bước chân vào. Ông đưa mắt nhìn chung quanh, và hiểu ngay tức thì. Ngài ung dung đi thẳng đến cái thùng gỗ và ngồi lên trên, và bình thản ra hiệu và bảo dân làng: “Anh chị em hãy lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”.
Khi họ không tìm ra bóng dáng người đàn bà, Giám mục nói; “Anh chị em hãy xin lỗi Chúa, vì đã nói xấu vị ẩn tu này cách vô cớ.”
Nhưng sau đó, chờ đến lúc mọi người đã xuống dưỡi chân núi, Giám mục Ambônat mới tiến đên gần vị ẩn tu, nắm chặt tay ông, đưa đôi mắt nhân từ nhưng cương nghị, nhìn sâu vào đôi mắt vị ẩn tu và chậm rãi nói: Hỡi người anh em. Hãy cẩn thận giữ mình, kẻo phải mất linh hồn.”
Trong câu truyện trên, phản ứng của dân làng trước lỗi lầm của vị ẩn tu thì trái nghịch với giáo huấn của Chúa Giêsu. Họ đã vội vã đồn thổi, lên án và phao tin về tội lỗi của vị ẩn tu. Dân làng đã quyết định làm nhục và khai trừ ông ta. Ngược lại, vị giám mục Ambônat đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân, riêng tư. Ngài đã dùng thẩm quyền mình để bảo vệ vị ẩn tu. Sau đó, ngài khuyên nhủ ông như một người anh em.
Trong vấn đề khó khăn để sửa lỗi, chúng ta cần cảm nghiệm được Chúa Giêsu ở giữa cộng đoàn chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Ở đâu có hai hay ba người tụ họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy.” (Mt 18,20). Nhờ sức mạnh tình yêu của Ngài, Ngài giúp chúng ta sửa lỗi trong tinh thần xây dựng, và nhất là trong niềm kính trọng và thương yêu chân tình. Những người đang lầm lỗi có thể so sánh như những bệnh nhân về tâm hồn, cần đến sự cảm thông và tình thương nhiều hơn để được nâng đở và khuyến khích trên con đường hoán cải đời sống.
55. Sửa lỗi anh em: hành vi tế nhị!
(Suy niệm của Anmai)
“Nhân vô thập toàn”: một câu nói như gói ghém phận người. Là người, có ai dám tự cho mình, tự nhận mình là hoàn hảo.
Lỗi: sống trên cái cõi trần này ai là người không mắc lỗi!
Nhớ lại thời đệ tử. Một lần đi chợ với cha giáo. Người bán mới nói giá này, bỗng nhiên vài phút sau chị ta tăng giá. Thấy khó chịu nên tôi nói là sao hồi nảy chị nói giá khác sao giờ chị nói khác!? Lát sau về đến nhà dòng, cha phụ trách mới kéo tôi ra riêng và dặn dò cách cư xử của tôi như thế không được. Chị ta nói thế kệ chị ta, mình không nên nói thế vì nói như thế sẽ làm bẽ mặt người ta!
Ngẫm nghĩ thấy cha giáo quá tế nhị để sửa cho tôi những điều nho nhỏ trong cuộc sống mà không để cho ai biết. Sau này cũng thế, sống với ngài một thời gian khá dài của thời đệ tử và tôi đều được ngài
Kéo riêng ra để mà chỉnh sửa mỗi khi cần chứ chưa bao giờ ngài nói đi nói lại cho người khác hay là chỉnh tôi trước mặt người khác.
Trải qua thời gian Đệ Tử tử rồi đến Tập Viện rồi đến Học Viện. Thời Học Viện thì khác, có lỗi gì thì tôi thấy cha giáo không sửa trực tiếp cho mình mà thường ngài sửa theo kiểu trung gian. Nghĩa là mỗi lần phạm lỗi gì, Ngài không gọi tôi vào nhưng ngài mang tôi ra bàn cơm “mổ”. Khi Ngài đem ra bàn cơm “mổ” rồi thì hình như cả Học Viện đều biết vì thời đại này công nghệ thông tin quá ư là hiện đại.
Trên đây là 2 cách sửa lỗi của 2 cha giáo. Với tôi thì cách sửa lỗi của cha giáo thời Đệ Tử vẫn là cách sửa lỗi tế nhị nhất, nhẹ nhàng nhất và cũng đỡ làm tổn thương tôi hơn cách của cha giáo thời Học Viện.
Lỗi thì dĩ nhiên lúc nào cũng có nhưng cách sửa lỗi rất khác nhau. Với cái nhìn và cái suy nghĩ hết sức bình thường của mình, tôi thiển nghĩ rằng ai cũng muốn được hành xử với nhau, được người khác sửa lỗi như Cha giáo thời đệ tử của tôi chứ chẳng ai muốn cách hành xử như Cha giáo thời Học Viện. Vì lẽ là con người, ai cũng có danh dự, cũng có lòng tự trọng cả và vì thế, chuyện sửa lỗi là một vấn đề không phải là nhỏ trong cuộc sống nhưng là vấn đề lớn mà chúng ta thường gặp trong đời thường.
Trang tin mừng theo Thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe thuật lại cho chúng ta cách sửa lỗi hết sức tế nhị của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhạy cảm và phải nói là hết sức nhạy cảm trước những người phạm lỗi. Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu là một nhà giáo dục tài ba, khéo léo, thu phục lòng người. Ngài chinh phục con người bằng cái tâm, bằng tấm lòng chứ không phải bằng luật lệ, bằng lý trí. Chúa Giêsu là thầy dạy nhân bản vì lẽ cách cư xử của Ngài với những con người tội lỗi, yếu đuối hết sức là nhân bản.
Ngày hôm nay, giữa cái xã hội phát triển hết sức chóng mặt, thành tựu khoa học đạt mức này tầm kia nhưng bên dưới đó toát lên một lối sống nhân bản, lối sống chỉ biết mình mình. Không biết nói có quá hay không nhưng hình như ngày hôm nay người ta sống thiếu nhân bản, sống thiếu tình con người với nhau.
Trở lại với sách ngôn sứ Edêkien mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy Đức Chúa – Thiên Chúa của Israel – về sự quảng đại, về lòng bao dung, về lòng tha thứ của Đức Chúa: “Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Israel. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết… nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại…”. Chúng ta thấy đó, từ Cựu Ước đến Tân Ước Thiên Chúa tỏ cho con người, cho chúng ta biết Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, đầy lòng mến với con người, cách riêng là những con người tội lỗi. Thiên Chúa sẵn sàng chờ đợi sự cải hoá của con người. Dù con người có lầm lỗi đến đâu đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa vẫn chờ và vẫn đợi.
Nhìn lại cuộc sống của mỗi người chúng ta qua trang Tin mừng theo Thánh Matthêu và sách Êdêkien xong chúng ta cảm thấy quá xấu hổ. Xấu hổ vì lẽ lúc nào chúng ta cũng hăm hăm bêu xấu người khác hơn là hơn là sửa lỗi chân tình. Điều nghịch lý vẫn diễn ra trong chính con người chúng ta. Vẫn oang oang và thật to tiếng để đọc mỗi ngày: “Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có nợ chúng con”. Mình muốn Chúa tha cho con người tội lỗi của mình còn anh chị em mình xúc phạm đến mình mình lại không chịu.
Thử đặt mình trước mặt Chúa chúng ta thấy buồn cười cái con người của mình. Mình thì phạm biết bao nhiêu tội mà toàn là những tội tầy đình. Tội mình phạm mình rất khéo bưng bít nhưng nào bưng bít trước mặt Chúa. Thế nhưng chúng ta thấy đó, Chúa vẫn lặng yên và chờ đợi sự hoán cải của chúng ta còn chúng ta thì sao trước con người yếu đuối. Cái bệnh, cái tật xấu của người Việt Nam đó là buôn dưa lê. Hễ ngồi đâu là bươi móc và nói xấu anh chị em đồng loại mình. Hễ cứ tụm năm tụm ba lại là đem anh chị em mình lên bàn mổ. Rất buồn cười, trong tập thể, trong cộng đoàn, trong sở làm hay trong các hội đoàn, các ca đoàn khi người ta tụ tập với nhau một nhóm người thì bỗng chốc những câu chuyện qua lại trao đổi của họ khó có thể tránh được cái chuyện là đem một người trong cộng đoàn, trong nhóm, trong hội đoàn lên bàn mổ. Khi ấy thì mạnh ai nấy nói và nói một cách hết sức vô tư không hề để ý đến danh dự của người mà mình đang đem lên bàn mổ. Tại sao mình không tìm dịp, tìm cách để mà sửa lỗi những người mình muốn sửa mà phải làm như thế. Thử đặt trường hợp ta là người bị đem lên bàn mổ thì ta sẽ nghĩ thế nào? Ta thấy khó chịu, bực mình mà tại sao ta lại đối xử với người khác như vậy? Ta sống sao thiếu bác ái, sống bất công vậy?
Lý do tại sao ai cũng biết, đó chính là do lòng bác ái nơi con người ngày càng hẹp lại. Con người người ngày hôm nay đã đi vào lối sống mackeno, lối sống chủ nghĩa cá nhân để rồi chỉ biết mình chứ ngoài ra không biết ai khác nữa. Vì không biết ai khác ngoài ta nên ta mới hành xử với anh chị em đồng loại như thế.
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta mang luật đời, luật Giáo hội, luật hội dòng, luật tu hội ra để mà hành xử với anh chị em đồng loại. Chúng ta quên đi trên luật hay giữ luật không gì đẹp hơn là chu toàn lề luật như Thánh Phaolô tông đồ gửi cho giáo đoàn Rôma mà chúng ta vừa nghe: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… Đã yêu thương người thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8.10). Chúng ta cứ chăm chăm vào luật lệ và quên đi tình bác ái, lòng mến nên chúng ta cứ đi làm hại đồng loại bằng cách nói hành nói xấu ném đá anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại phạm lỗi thay vì phải hết sức tế nhị đi sửa cho họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy, đã nhắc lại cho chúng ta bài học hết sức là tuyệt vời về sửa lỗi cho nhau. Muốn hành xử như Ngài, không khác gì hơn là chúng ta phải có lòng mến. Lòng mến đấy không tự nhiên mà có nhưng lòng mến đó phát xuất từ đời sống chiêm niệm, đời sống cầu nguyện và lòng biết ơn. Nếu chúng ta chiêm niệm chúng ta sẽ thấy được Chúa yêu ta thế nào và khi nhận ra Chúa yêu thương ta thì ta sẽ sống yêu anh chị em đồng loại như vậy. Khi yêu anh chị em đồng loại thì chúng ta sẽ sửa lỗi, sẽ hành xử với những con người yêu đuối khác lối hành xử của con người ích kỷ, độc ác.
Nguyện xin Thiên Chúa là Vua của tình yêu đến, ở lại và đổ tràn đầy tình yêu của Ngài xuống trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta biết yêu thương anh chị em đồng loại và hành xử bác, ái tế nhị với anh chị em đồng loại hơn. Amen.
56. Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Ba đoạn trong bài Tin Mừng mà Giáo Hội đem ra làm bài học có vẻ khác nhau xa, như thể Chúa đã lần lượt nói về những vấn đề riêng biệt. Cứ sự thực thì những lời nói của Chúa Giêsu đều gặp nhau trong cái thực tại là cộng đoàn Kitô giáo. Trong cộng đoàn thường có những luật lệ sống chung, và hơn nữa, giáo quyền có phép ban hành những luật sống đó và cuối cùng tất cả đều được thực hiện nhân danh Đức Kitô và chính vì thế mà có Chúa Kitô hiện diện trong đó.
1) Những luật sống chung trong Giáo Hội –trong cộng đoàn Kitô giáo đều nhắm đến đối tượng chính là làm cho Đức Ái được mọi người tôn trọng. Chúa chỉ dẫn cho chúng ta cách thức phải giữ trong trường hợp có tranh chấp. Công việc đầu tiên phải làm là tạo sự gặp gỡ, giữa cá nhân và cá nhân trong ước muốn tìm hiểu nhau hơn. Có hai trường hợp có thể xảy ra, dựa trên ý nghĩa của câu nói: “Nếu người anh em của con phạm tội”. Theo nghĩa đầu tiên thì hễ người nào phạm đến Thiên Chúa cách tỏ tường, trong trường hợp này, phải bắt đầu bằng cách giữ kín điều lầm lỗi mà mình biết được, rồi với thái độ thông cảm, tìm cách đưa người anh em ra khỏi chỗ lầm lạc. Theo nghĩa thứ hai, hễ người nào đó có lỗi với chúng ta, tức là làm hại đến chúng ta, lúc đó phải tìm cách giúp người anh em có lỗi hiểu rõ sự thiệt hại đã gây ra cho chúng ta, rồi không làm nữa. Nếu công việc đầu tiên ấy tỏ ra không có kết quả, lúc đó người ta mới chạy tới cộng đoàn để xin sửa trị kẻ lầm lỗi. Và nếu lúc đó kẻ ấy cũng không sửa mình, ta vẫn không có quyền khai trừ, không cầu nguyện và không tha thứ cho kẻ ấy, nhưng ta có cớ để cắt đứt ít nhiều mối tương quan thuộc phạm vi xã hội.
2) Điều mà chúng con ràng buộc ở dưới đất… Ta vừa thấy Chúa ban cho “Giáo Hội”, cho cộng đoàn Kitô giáo, quyền xét xử cách ăn ở của một trong các thành phần của Giáo Hội. Giáo Hội chỉ có thể làm được điều này nhờ những kẻ cứng đầu, những người có trách nhiệm. Người ta có quyền đi từ Giáo Hội, quan niệm dưới khía cạnh quyền bính, đến con người của các vị thủ lãnh. Trong Giáo Hội toàn thể các tín hữu sống Đức tin, nhưng do ý muốn của Chúa Kitô, cũng có những người mang trách nhiệm giáo dục đức tin và giúp kẻ khác thực hành đức tin cách trung thành. Đó là các tông đồ với vị thủ lãnh là Phêrô. Ngày nay ta có các giám mục và vị thủ lãnh là Đức Giáo Hoàng. Ở điểm này, một đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu có nói rõ về vai trò nổi bật của Phêrô và qua đó vai trò của Đức Giáo Hoàng (Mt 16, 19). Xin xác định điểm này là Phêrô xưa vốn là Giám mục của giáo phận La mã. Đức Giám mục của La mã đích thân là người kế vị của Phêrô. Người tiếp tục giữ quyền hành và chức vụ của Phêrô. Các vị tông đồ khác lập thành Giám mục đoàn đầu tiên, mặc dầu không được cơ cấu hóa nhưng là có thực. Ngày nay các vị Giám mục là những người kế vị tập thể các tông đồ với các quyền hạn và chức vụ của các ngài. Do ý muốn của Chúa Kitô, Phêrô có quyền trên toàn thể các tông đồ. Cũng thế, Đức Giáo Hoàng ngày nay cũng có quyền trên đoàn thể các Giám mục. Cái quyền ấy nằm trong địa vị nổi bật đối với cá nhân Người và cũng là quyền quyết định trong việc chia sẽ một công việc chính yếu là cai quản Cộng đoàn của Giáo Hội.
3) Cộng đoàn sống trung thành với đức tin và đức ái lôi kéo sự hiện diện của Chúa Kitô. Khi các Kitô hữu, dầu là ít ỏi và nếu chỉ có hai người đi nữa, mà tụ họp với nhau nhân danh Đức Giêsu thì Người ở giữa họ. Điều ấy có nghĩa là, khi chỉ có hai người công giáo với nhau, và nếu họ biết thông cảm trong đức tin và đức ái, họ làm thành một tế bào của giáo hội. Không biết người ta có thấy được tầm quan trọng của điều này trong đời sống gia đình, lúc hội họp anh chị em trong khu phố hay trong những hoạt động chung để mở rộng Nước Chúa? Một nhận xét quan trọng: lẽ dĩ nhiên là một tế bào của Giáo Hội chỉ có giá trị khi giữ được liên lạc và đoàn kết với Giáo Hội phổ quát cách mật thiết.
57. Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Sống trên trần gian này, chúng ta không sao trả hết những “món nợ” cho những người thân yêu và cho anh chị em đồng loại và lại càng không thể trả hết cho Thiên Chúa là Đấng dựng nên, yêu thương và cứu chuộc chúng ta. Dù cho chúng ta giàu có đến mức nào, chúng ta cũng phải cần đến sự giúp đỡ, sẻ chia của người khác. Dù chúng ta nghèo đến mức nào, chúng ta cũng đều có những cái để trao ban và cho đi. Vì con người là sống cho và sống với anh chị em mình. Vậy thì, chúng ta hãy sống, cư xử và hành động thế nào để rồi cuối cùng chúng ta không còn “mắc nợ” ai ngoài “món nợ của tình yêu thương”, “món nợ tương thân, tương ái”.
Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã dạy và nhắc nhở chúng ta “anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau”. Tại sao khi chúng ta yêu mến nhau thì chúng ta sẽ không còn mắc nợ nhau gì nữa? Vì thật ra, “yêu thương là chu toàn cả lề luật”. Mà lề luật là gì mà chúng ta phải chu toàn? Lề luật không gì khác hơn đó là: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực và yêu thương anh chị em như chính bản thân mình. Thật vậy, qua kinh nghiệm và lời chỉ dạy của Thánh Phaolo, chúng ta sẽ không bao giờ trả hết những “món nợ” cho đến khi chúng ta sống bác ái, yêu thương.
Trong muôn vàn cách sống và lựa chọn, thật để sống bác ái, yêu thương thì thật là khó, tại sao vậy? Vì với bản tính con người, như Thánh Phaolo đã nói:“Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Chính vì lẽ đó, như trong bài đọc một, Tiên tri Êzekiel đã đưa ra lời khuyến cáo cho những ai đang theo đường xấu, gian xảo và tội lỗi. Nếu chúng ta không ăn năn hối lỗi mà từ bỏ những tính hư tật xấu, và ngay cả nếu như chúng ta không giúp đỡ để cho những người làm điều xấu biết ăn năn mà quay trở về, thì tất cả chúng ta cũng sẽ chung số phận với những kẻ gian ác, và án phạt của chúng ta chắc chắn là sự chết.
Thiên Chúa trong thánh ý nhiệm mầu đã luôn có những sáng kiến để cho con người có thể nắm lấy cơ hội mà ăn năn hối cải, quay về nẻo chính đường ngay. Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta ba sáng kiến độc đáo. Thứ nhất, đó là sự đồng hành, cảm thông, chia sẻ và tìm ra những phương cách hữu ích nhất để giúp đỡ cho anh chị em mình, đặc biệt cho những ai đang bị lầm đường, lạc lối hay đang rơi vào những ngõ cụt của cám dỗ và tội lỗi. Không ai trong chúng ta là người hoàn hảo. Do đó, khi đối diện với những điều xấu và tội lỗi, chúng ta không lên án hay loại trừ nhau, nhưng cố gắng tìm ra những phương cách để giúp đỡ và sửa dạy nhau trong tinh thần xây dựng và thăng tiến. Sáng kiến thứ hai chính là “sự tháo gỡ và cầm buộc”. Tháo gỡ bằng cách tha thứ, đây chính là đỉnh cao của tất cả mọi phương cách và sáng kiến. Bởi vì ai trong chúng ta cũng đều là tội nhân, chính chúng ta đã biết bao nhiêu lần vấp ngã mà phạm tội. Thế nhưng, với lòng thương xót, Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có thể làm hòa lại với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính bản thân mình. Cách mà chúng ta tha thứ cho anh chị em mình, cũng chính là chúng ta cảm tạ Chúa, hay nói khác hơn như cách mà chúng ta cần trả lại món nợ ân tình mà Chúa đã vì yêu thương mà tha thứ cho chúng ta. Nếu không thể tháo gỡ, mà vì lý do gì đó để rồi cầm buộc đối với anh chị em mình thì việc cầm buộc hay chúng ta gọi là kỷ luật, thì khi dùng đến kỷ luật để ràng buộc, thì cũng phải là phương cách để giúp cho anh chị em nhận ra chính lầm lỗi mà ăn năn hoán cải. Sáng kiến cuối cùng đó chính là việc cầu nguyện. “Thầy lại bảo các con, nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện và qua cầu nguyện, chúng ta mới có thể tìm ra và phần nào hiểu được thánh ý, cũng như sáng kiến mà Thiên Chúa muốn để chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau. Dẫu biết rằng, giúp đỡ anh chị em mình là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn cho con người để chúng ta được hoán cải và chữa lành.
“Yêu thương là chu toàn cả lề luật”, nhưng yêu thương bằng phương cách nào? Để có thể diễn tả tình yêu thương cách trọn vẹn nhất, không gì cao quý và đẹp hơn đó là sự hy sinh, tha thứ và cầu nguyện cho người mình yêu thương. Thật là khó với sức của con người để có thể sống và thực thi điều này. Chính vì lẽ đó, Chúa Giêsu đã vì chúng ta mà hy sinh, chết thay và tha thứ cho chúng ta. Ngài cũng cầu xin với Chúa Cha, để nhờ công cuộc cứu độ của Ngài, mà Chúa Cha tha thứ tất cả cho chúng ta, để cho chúng ta được trở nên những người con yêu quý của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nhận biết tình yêu thương sự hy sinh và tha thứ của Chúa dành cho chúng con; Thật vậy, nhờ ơn thánh và sức mạnh của ân sủng này, chúng con mới có thể sống cảm thông, chia sẻ, hy sinh và tha thứ cho nhau và như thế thì “món nợ ân tình” mới được trao trả và đong đầy trong tâm hồn và cuộc sống của chúng con. Amen.
58. Trách nhiệm về người anh em
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:
– Vào đây, các người hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:
– Bây giờ các ngươi phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Nhưng sau đó, khi mọi người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói:
– Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em. Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung của Giáo Hội.
Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân. Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo.
Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó, không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái của Chúa và Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất, đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.
59. Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin Mừng Mt 18: 15-20: Sửa lỗi đòi sự tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Đây là một bổn phận và bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân.
Suy niệm
Có lần có người hỏi chứ trên đời này, đố biết sợi dây gì dài nhất? Thưa đó là sợi dây kinh nghiệm. Cho nên chúng ta cứ phải rút kinh nghiệm hoài hết lần này đến lần khác. Vâng, sống trong trần gian này, đã là con người chắc chắn có những lúc chúng ta lầm lỗi, sai sót, và có câu danh ngôn rằng “Ai nên khôn mà chẳng dại một lần”. Và thực tế mà nói, không chỉ dại một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Và với trẻ nhỏ mà phạm lỗi thì bị cho là non dại, lớn mắc lỗi thì bị cho là thiếu trưởng thành, trung niên mà mắc lỗi thì bị cho là chưa chín chắn, người già mắc lỗi thì gọi là bảy mươi chưa gọi là lành. Vậy mới nói, người mắc sai lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Chính vì thế mà cuộc sống chúng ta như sỏi đá cần có nhau để giúp sửa lỗi cho nhau.
Qua bài đọc thứ I, Thiên Chúa dùng miệng tiên tri Êdêkiel răn dạy chúng ta: “Nếu ngươi không cảnh cáo kẻ gian ác, giúp nó từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó phải chết vì sự gian ác của nó, nhưng còn máu nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Đối diện với những hành vi xấu xa tội lỗi của anh em, chúng ta không được phép làm ngơ theo chủ nghĩa “mackeno” nghĩa là mặc kệ nó, hoặc “Ui, khôn thì nhờ, dại thì chịu”. Đời sống con người mang tính xã hội, cho nên có tính liên đới với nhau và có nghĩa vụ giúp nhau hoàn thiện. Tôi có bổn phận giúp người anh em quay trở lại đường ngay nẻo chính theo đạo lý làm người, và làm con Chúa, không được dửng dưng để họ mãi sa lầy trong vũng bùn tội lỗi.
Hành vi bác ái Kitô giáo không phải chỉ là giúp đỡ vật chất hay tiền của mà thôi, nhưng còn là giúp nhau hoàn thiện. Chúng ta phải can đảm và kiên nhẫn sửa lỗi cho nhau trong tình bác ái. Đúng như thế, sửa lỗi không phải chỉ trích, công kích, rêu rao lỗi lầm của nhau. Chỉ trích thường thiếu bác ái, thiếu tinh thần xây dựng cho nhau. Sửa lỗi đòi sự tế nhị, kín đáo, thông cảm với yếu đuối lỗi lầm của nhau. Đây là một bổn phận và bác ái mà chúng ta phải thực thi cho tha nhân.
Chúa Giêsu đưa ra những bước sửa lỗi anh em mình đầy tình bác ái Kitô giáo.
– Bước thứ nhất là đối thoại để giúp người anh em nhận ra điều sai trái từ hành động hay lời nói của họ. Việc này cần phải hết sức tế nhị để tránh gây tổn thương cho người anh em. Vâng, “khen thưởng công khai, sửa sai thầm kín”, cho nên bước đầu tiên chỉ riêng mình với người mình muốn góp ý để giữ thanh danh, thể diện cho họ.
– Sau khi đã thực hiện bước thứ nhất mà không thành công thì mới tiến tới. Bước thứ hai cần thêm người khác tác động. Có thể là người thân hoặc bạn hữu của người mình cần góp ý hoặc người uy tín được mọi người nể trọng nhằm giúp họ nhận ra lời góp ý đó mang tính khách quan, không phải vì sự ghét bỏ loại trừ nhau.
– Nếu vẫn không thể lay chuyển được sự ươn ngạnh của người phạm lỗi, Chúa Giêsu dạy chúng ta mới đi đến Bước thứ ba là đưa ra cộng đồng vì “quốc có quốc pháp, gia có gia qui. Con người ta sống bên cạnh luật còn có lệ để giúp người trong cộng đoàn giữ kỷ cương. Chính môi trường cộng đồng cũng có ảnh hưởng hình thành và uốn nắn đời sống tâm tính một người.
– Nếu người phạm lỗi vẫn cứng lòng, Chúa chỉ cho chúng ta bước thứ tư: kể nó như người ngoại giáo và như người thu thuế. Và chúng ta biết, đây là những hạng người cần đến lòng xót thương hơn là sự loại trừ. Chẳng phải chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói với chúng ta trong Tin mừng theo thánh Luca (Lc 5,31-32) đó sao: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Điều này cho thấy khả năng thuyết phục của con người không phải lúc nào cũng thành công, vì thế hãy chạy đến với Chúa và nhờ Người giúp sức. Trên hết mọi sự là hãy cầu nguyện cho người anh em chúng ta được ơn hoán cải. Chúa Giêsu không bao giờ cho phép chúng ta bỏ cuộc ngay cả khi với sức lực con người không thể nào lay chuyển nổi.
Đã có nhiều trường hợp, như mẹ Têrêsa Calcutta giúp cho người vô gia cư được tìm lại niềm vui cuộc sống, thánh Monica đã nhờ lời cầu nguyện hoán cải được chồng con….
Chuyện kể về nhà tù Challapalca, trại giam có độ cao 4800 mét so với mực nước biển. Nét đặc trưng của nhà tù này là nằm trong một khu vực khắc nghiệt, trên các dãy núi không thể tiếp cận được, cách xa khỏi các khu dân cư, hầu như không có bất kỳ thông tin liên lạc nào nơi đây bị xem như “hỏa ngục trần gian”, nơi giam giữ những tù nhân khét tiếng. Người ta sợ đến đó, lính canh phải hết sức để ý. Nhưng cha Gigi Ginami, một linh mục làm việc tại Roma, đã đến thăm và giúp cho nhiều tù nhân hoán cải, thay đổi cuộc sống. Đức cha Ciro Quispe Lopez, Giám mục địa phương, nghe biết rằng có một linh mục từ Roma đã đến trại tù này và muốn tiếp tục trở lại đó để gặp gỡ các tù nhân, ngài đã không tin vào tai của mình. Đức cha tự hỏi: Nhưng mà một nhân viên giáo triều Roma làm gì ở đây, ở độ cao 4600 mét như thế? Hoạt động nguy hiểm này đã được đức cha Quispe Lopez và chính cha Gigi Ginami thuật lại trong cuốn sách “Angel” được đặt theo tên của một trong những tù nhân nguy hiểm nhất bị giam tại đó: Angel, và cũng là nhân vật chính của cuộc hoán cải gây sốc. Cuốn sách “Angel” kể lại những cuộc hồi sinh thầm lặng nhưng cũng hêt sức kỳ diệu, nhờ sứ vụ của cha Ginami.
Tại Challapaca, nơi mà một Thánh lễ đã được cử hành trong nhà tù, tại hành lang của trại cải huấn, nơi các lính canh và tù nhân đã sống hòa bình với nhau trong 60 phút. Đó là một kỷ lục. Đức cha Quispe Lopez cho biết giây phút chúc bình an cũng thật an bình, như đang diễn ra tại một giáo xứ. Đức cha nói: “Nó khiến tôi can đảm và cả tôi cũng đi đến ôm chào mỗi tù nhân và chúc bình an cho họ. Cha Gigi đã đến ngồi giữa các tù nhân mà không chút lo lắng bất an hay sợ hãi. Tôi tự hỏi: Điều gì đã khiến vị linh mục từ Vatican đến nơi này, với những tù nhân nguy hiểm nhất, những con người bị bỏ rơi? Tôi không thể tin vào mắt mình”. Cha Gigi nói với các tù nhân bằng tiếng Tây Ban Nha: “Anh em đừng ngoái nhìn lại đàng sau; hãy nhìn về phía trước”. Angel cũng ở trong số tù nhân này, một trong những tù nhân đáng sợ nhất ở nhà tù. Anh đã xin cha Gigi giải tội cho anh. Người lính gác không rời mắt khỏi Angel, theo lệnh chống bạo động, không bao giờ hết lo sợ rằng anh ta có thể làm hại vị linh mục.
Khi nhìn thấy Angel xưng tội, cả người lính gác cũng quỳ gối xuống ở một góc phòng giam và cởi bỏ mặt nạ xuống. Cha Gigi nhìn thấy những giọt nước mắt của kẻ sát nhân. Cha nói với anh ta: “Angel, nếu anh thật sự muốn trở thành một con người mới và và đền bù tội ác mà anh đã gây ra, nếu anh có tiền, hãy sử dụng nó cho những người là nạn nhân của anh, xin lỗi họ, sống những năm ở trong nhà tù này và dâng những khó khăn vất vả cho những người anh đã giết và hành hạ. Sau đó, chúng ta hãy ôm chào nhau và cùng đọc kinh Kính Mừng Maria”.
Lạy Chúa, bác ái kytô giáo đòi hỏi chúng con không dung dưỡng sự xấu trong cộng đoàn, nhưng cảm thông với yếu đuối của tha nhân. Cần loại trừ tội lỗi nhưng nhưng không được tẩy chay anh chị em mà phải vực họ dậy từ vũng bùn đen tối để giúp họ làm lại cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tình bác ái khi sửa lỗi và giúp nhau trên con đường hoàn thiện làm con cái Chúa. Amen.
60. Chúa Nhật 23 Thường Niên
CHÚNG TA LÀ NGƯỜI CANH CHỪNG MỘT NGƯỜI KHÁC
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Bộ phận dự báo thời tiết bị buộc phải báo trước những cảnh báo cho mọi người về những hoàn cảnh nguy hiểm có thể xảy ra, ví dụ như bão tố, lụt lội. Những nhân viên trong bộ phận dự báo thời tiết không bị tố cáo bởi bổn phận của họ phải đưa ra những giả định mà dân chúng lại không muốn nghe cảnh báo theo cách đó, hoặc cảnh báo áp đặt trên họ và làm cho họ giận dữ hay mang các tin tức xấu đến làm làm cho dân chúng cảm thấy bất an.
Phụng vụ trong Chúa Nhật này làm cho chúng ta ý thức rằng, chúng ta có trách nhiệm đối với những người khác. Những cơn bão đã nổ lên trong đời sống của nhiều người, những người mà các bạn quen biết và yêu thương. Bộ phận dự báo thời tiết không thể ngăn cản được lũ lụt hay bão tố, nó chỉ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm bao nhiêu có thể, để cho mọi người chuẩn bị đón nhận hay tránh xa tai hoạ. Không giống như những nhân viên dự báo thời tiết, chúng ta có thể thật sự xoay chuyển được những cơn bão cá nhân ra chỗ khác, đặc biệt là khi chúng ta cảnh báo kịp lúc.
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện là Thiên Chúa chỉ định chúng ta là người canh chừng người khác như Người đã chỉ định tiên tri Êzêkiel. Chúng ta phải nhận ra rằng món nợ trói buộc chúng ta với tình yêu tha nhân, bao gồm trong việc can đảm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm hoặc những tai hoạ sắp xảy ra.
Nhiều thiếu niên đã bực tức với vha mẹ và thầy cô giáo của chúng vì các ngài đã cảnh báo chúng về những điếu thuốc, những chai rượu, say xỉn và chuyện phái tính. Bọn chúng nghĩ rằng mình đã đủ lớn “để thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa”, rằng bọn chúng không còn “khờ” đâu. Bọn chúng ước ao được đối xử giống như những người trưởng thành và nói về những chuyện khác. Áp lực trên những người có trách nhệm với lũ trẻ thật lớn lao, nhưng chúng ta chỉ hối tiếc khi chuyện đã xảy ra mà chúng ta không cảnh báo trước.
Những người trưởng thành biết rõ hơn những bạn trẻ, nhưng họ vẫn mắc sai lầm. Thường thường chuyện đó xảy ra khi một cuộc hôn nhân tan vỡ, một người bạn nói: “Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, tôi thấy trước chuyện này sẽ đến thôi”.
Một số người sẽ lắc vai người bạn và hỏi: “Vì sao anh không báo hay nói trước với tôi về chuyện ấy?”
Một người đàn ông hay một phụ nữ mất việc vì ông hay bà ấy quá say xỉn do uống nhiều bia rượu. Đó là điều xảy ra mà không hề bất ngờ, thường thường người ta không chú ý đến vị hôn phu, bạn bè hoặc người cộng tác. Thật là xấu hổ nếu không có người can đảm đứng lên và nói: “Bạn cần sự giúp đỡ. Hãy đến với tôi trong một buổi họp mặt của nhóm AA”.
Dân chúng của những thời đại khác nhau có thể dần dần lạc xa khỏi Giáo Hội. Họ trở nên bất thường trong việc đi tham dự thánh lễ. Chẳng mấy lúc, họ chỉ còn đi hai lễ là Giáng sinh và Phục sinh, rồi sau đó là chẳng đi một lễ nào hết. Họ mất đi cảm thức về sự định hướng và mục đích của đời sống. Có thể là bởi không có người nào nồng nhiệt mời họ lưu lại Giáo Hội, hoặc khẩn nài họ trở lại với việc thực hành đức tin công giáo của họ?
Thật không dễ dàng chút nào khi phải cảnh báo người khác. Họ có thể ra đi và mất luôn. Nhưng giống như tiên tri Êzekiel, chúng ta phải làm một người canh chừng những người khác. Món nợ mà chúng ta nợ trói buộc chúng ta vào tình yêu dành cho người khác, bao gồm việc buộc phải cảnh báo người khác về những nguy hiểm thiêng liêng trong đời sống của họ, hay tha lỗi cho những người không tin chúng ta hay bổn phận của chúng ta. Chúng ta không thể lạm dụng khi cho rằng người hay thắc mắc sẽ không muốn lắng nghe chúng ta, hoặc ông (bà) ấy sẽ bỏ đi và giận dữ, hoặc là vì chúng ta không thích hợp với loại công việc như vậy.
Trong Thánh lễ chúng ta hợp giọng cùng mọi người để cầu nguyện cho tha nhân. Sự cầu nguyện này sẽ dẫn chúng ta tới lẽ phải. Chúng ta biết rằng lẽ phải là chấp nhận trách nhiệm đối với những người khác.
61. Dám khiển trách
Tôi biết có ít người có thể thành công làm điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa bảo anh em và chỉ ra lỗi lầm của người đó khi chỉ có mình ngươi với người đó mà thôi”. Chúng ta có nói, phải, chúng ta có nói nhưng nói sau lưng người khác. “Cô bé tóc nâu ấy, bạn có biết không? Nó chẳng đáng thương chút nào cả!” Hoặc chúng ta xem họ có sạn trong đầu, chúng ta la lên, hung dữ, vụng về, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khéo léo và đầy yêu thương: “Bạn hãy chỉ cho người đó biết lỗi lầm của họ, nhẹ nhàng khuyên bảo họ khi chỉ có hai người mà thôi. Nếu người đó lắng nghe bạn thì bạn đã chinh phục được người đó rồi”. Chinh phục họ. Để hiểu rõ thiếng này, cần phải nghĩ đến tiếng la lên của người cha có đứa con hoang đàng: “Con ta đã mất và nay đã tìm lại được!”. Khi nói về một tội phạm với những tình cảm này, chúng ta có cơ may chinh phục họ. Chinh phục họ! Chứ không phải giao chiến với họ. Chúng ta thường khiển trách, nhưng có lẽ chúng ta không tin rằng đó là một hành vi Tin Mừng, do đó điều này đòi buộc có một con tim của Tin Mừng.
Cái gì nổi lên trong tim tôi lúc tôi sắp sửa chửi mắng? Người bị chất vấn sẽ nhanh chóng phát hiện ra ý thích dễ sợ đó là làm nhục mà ít người sửa phạt tránh được. Hoặc nêú chúng ta đặt mệnh lệnh và danh dự lên trên tất cả, thì chúng ta khó mà chủ được cơn giận của chúng ta: “Bạn có biết bạn đặt chúng tôi vào hoàn cảnh nào hay không?” Nói chung, họ bất cần: “Đây là vấn đề của tôi!”.
Chúng ta có tìm ra được giọng nói để bảo họ: “Đây cũng là vấn đề của tôi!”. Tôi không thể tỏ ra dửng dưng. Bạn hãy bỏ qua những vụng về của tôi, có điều bạn hãy nghe tôi nói điều tôi âu lo về bạn, tôi yêu thương bạn”.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta luôn yêu thương ngay cả khi đó là điều rất khó, nếu không thì “yêu thương” có nghĩa là gì? Chúng ta có lẽ sẽ phải đóng khung những điều rất khó khăn gay go. Tất cả các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm đều nói điều đó. Giờ đây, khi chúng có nguy cơ bị lưu ý, chúng ta băát đầu tấn công: “Bạn rao giảng, nhưng bạn có thực hành đạo đức của bạn hay không?” Hãy thử nói vui (nếu có thể được!): “Bạn có lý, tôi thấy cọng rơm của bạn chứ không phải cái xà nhà của tôi. Nhưng dầu sao thì chúng ta cũng hãy nói về cọng rơm của bạn”. Những lời khiển trách thì khó mà được tiếp nhận và chúng ta cần đến an bình đến nỗi chúng ta sẽ cố gắng tránh né bổn phận khó nhọc này. Ít ra chúng ta không phải là một kẻ hay la rầy bẳm sinh, và thế là ở đây phải xem xét kỹ vấn đề! Thường thì chúng ta cho qua, nhưng ý muốn yên lành bằng bất cứ giá nào chắc chắn không phải theo tinh thần Tin Mừng. Biết bao lần một lời nói thông minh, yên lành và yêu thương đã cứu được một kẻ nào đó? Có chung quanh họ những người bạn là những người thấy rõ ràng và than vãn mà không dám tiến bước: “Phải nói với họ…”. Thế thì bạn hãy nói đi. Bạn hãy để cho Chúa Giêsu thúc đẩy. Đấng đã nói với bạn: “Hãy cố gắng chinh phục”.
62. Giáo Hội
1) Giáo huấn của Giáo Hội
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp cá nhân, người Công giáo không nại đến quyền bính ngay, nhưng haỹ cùng nhau giải quyết công việc, ở đây phải tuyệt đối dè dặt. Tuy nhiên, nếu thấy thực hiện như thế không ích gì, bởi vì vấn đề khá quan trọng, phải tìm đến nhân chứng; nhờ đó, cuộc tranh luận tuy còn tính cách cá nhân, những mỗi bên sẽ có nhiều lý do thuận lợi hơn để xác định lập trường. Tuy vậy, nếu bên nào cố chấp làm cho cuộc tranh luận bế tắc, phải cần đến quyền bính Giáo Hội phân xử. Quyền bính Giáo Hội là toà án luân lý và tôn giáo tối cao, không chịu một kháng án nào nữa: Phán quyết do quyền bính Giáo Hội cũng có giá trị ở dưới thế như ở trên trời. nhưng ngày nay, ta còn có thể chấp nhận giá trị bất khả kháng của phán quyết Giáo Hội nữa không?
Giáo Hội vẫn có chức vụ chính thức và quyền bính đích thực. Giáo Hội có quyền xử án và tuyên án. Ai bất tuân Giáo Hội, không còn là chi thể của Giáo Hội, họ bị coi như lương dân hay một tội nhân công khai. Quả thực, trước hết, Giáo Hội chuyên lo về lãnh vực thiêng liêng, nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chỉ chú trọng đến nội giới, linh ứng, ơn sủng. Giáo Hội còn là một cộng đoàn có quyền lợi, nhiệm vụ và thẩm quyền. Giáo Hội vô thể chế, vô quyền bính, không phải là Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Kitô vô cùng sáng suốt đã lưu ý đến những yếu đuối khốn nạn của nhân loại để giúp chúng ta vượt qua, nhờ tinh thần nội tâm biết hoan hỉ dễ dàng tuân phục quyền bính. Khi tình yêu càng mãnh liệt, việc tuân phục càng dễ dàng, và lúc đó, có quyền bính cũng không mấy cần thiết. Nhưng hiện nay, tình yêu chưa ngự trị mọi nơi, nên còn phải lo củng cố quyền bính và công lý. Vậy nên Giáo Hội Đức Kitô mới vừa quan tâm đến tinh thần bên trong và phận vụ bên ngoài.
2) Cộng đồng cầu nguyện
Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức do quyền bính và những người nắm giữ quyền bính tạo thành, nhưng mỗi lần các tín hữu họp nhau nhân danh Đức Kitô, là một Giáo Hội nhỏ bé hiện hình. Kinh nguyện liên kết nhân loại với nhau và với Đức Kitô, để làm thành một cộng đoàn của Đức Kitô. Ngoài lối cầu nguyện riêng tư trong phòng kín, còn có loại kinh nguyện cộng đoàn có tầm quan trọng và hiệu quả đặc biệt, vì loại kinh nguyện này không những chỉ liên hệ đến các cá nhân, nhưng đến cả cộng đoàn. Đức Kitô ngự giữa các tín hữu đang tụ họp. Đó là Đức Kitô mầu nhiệm, cầu nguyện để bảo đảm lời xin sẽ được chấp nhận. Vậy ngoài yếu tố chế định pháp lý và yếu tố thiêng liêng nội tâm, Giáo Hội còn ẩn chứa yếu tố mầu nhiệm của Đức Kitô. Mầu nhiệm kỳ diệu là chính sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Kitô giữa chúng ta. Đó là dữ kiện tiên quyết giúp ta nhìn nhận quyền bính chế định và tuân theo đòi hỏi luân lý siêu nhiên, đồng thời tin tưởng vào lời hứa nhận lời ta cầu nguyện. Giáo Hội không có Đức Kitô chỉ là một tập hợp nhân loại. Đức Kitô không có Giáo Hội chỉ là một cá nhân đơn độc. Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội đó là chân lý thấy trong Tin Mừng. Cũng như cành nho kết hợp với đầu mình, người tín hữu phải kết hợp với Đức Kitô. Chỉ khi nào hiểu biết như thế ta mới nắm trọn chân lý.
63. Làm đẹp.
Có một câu chuyện kể với tựa đề ‘Chiếc thùng bị thủng’ như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc thùng bị thủng mới thưa với ông chủ: – Tôi thật sự xấu hổ về mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên hỏi lại:
– Nhưng ngươi xấu hổ về chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả lời:
– Chỉ vì cái lỗ thủng trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông!
Đến đây thì ông chủ ôn tồn bảo:
– Không đâu, ngươi cứ yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa bên vệ đường. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
– Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
– Ơ hay, thế ngươi không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa khuyết điểm của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ, vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại, càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Như vậy, đây là một bổn phận, một trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho người lỗi phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình ba bước. Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự tin trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị có trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do chính Chúa thiết lập. Giáo Hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân. Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là cái tôi đầy kiêu hãnh. Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu thương họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ, nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”.
64. Nhắc bảo
Như nhiều lần chúng ta đã xác quyết: chúng ta không sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng, trong một xã hội. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta phải nương tựa vào nhau rất nhiều.
Chẳng hạn: về phương diện xã hội, chúng ta lao động sản xuất ra lúa gạo hầu người khác có cơm ăn, thì đồng thời người khác cũng có bổn phận lao động đem lại cho chúng ta vải vóc và những vật dụng cần thiết khác.
Về phương diện con người. Mỗi lời nói, mỗi hành động của chúng ta, đều tạo nên một ảnh hưởng trên người khác, đồng thời, mỗi lời nói mỗi hành động của người khác cũng ảnh hưởng trên chúng ta. Bởi vậy, chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Một trong bổn phận về mặt tinh thần đó là hãy nhắc bảo những lầm lỗi cho nhau, để nhờ đó mà uốn nắn, sửa đổi hầu thăng tiến bản thân, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi khuyết điểm của mình. Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến qua bài Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu không bao giờ khuyến khích chúng ta dò xét kẻ khác, nhất là những người ở trong cùng một xứ đạo với mình. Tất cả những lời khuyên của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể được hiểu như là một biểu lộ của tình bác ái. Vì chính Chúa đã nói: Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời không muốn cho một người nào bị hư đi.
Như thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho chúng ta bổn phận phải ân cần chăm sóc đến anh em về mặt tinh thần và thiêng liêng. Giúp người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay nâng đỡ người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu.
Nếu có một vài Kitô hữu chuyên môn xía vào chuyện thiên hạ, theo kiểu bới bèo ra bọ, vạch áo cho người xem lưng thì ngược lại, có một số giáo dân khác lại kém dấn thân, chỉ biết có mình với Chúa, theo kiểu an phận, mũ ni che tai.
Thế nhưng, ở đây Chúa Giêsu đưa ra một quan điểm khác, Ngài dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hờ hững trước tình trạng thiêng liêng của anh em tôi. Hơn nữa, chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ, hay yếu đuối, nên rất có thể một ngày kia người khác cũng có dịp thi hành cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy đối với tôi. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ thay chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết.
Nói tóm lại, trước những sai lỗi của kẻ khác, chúng ta hãy có can đảm nói cho họ biết trong tình thương và tế nhị. Đồng thời, khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm lắng nghe. Nếu sai thì chúng ta sẵn sàng bỏ qua, còn nếu đúng, thì chúng ta hãy coi đó như một tiếng chuông báo động Chúa gửi đến để cảnh tỉnh chúng ta. Vì như tục ngữ Tây phương đã bảo: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta còn ai chê ta mà chê phải ấy là thầy ta.
65. Nhân danh Thầy
Một vị linh mục chánh xứ nọ nghe tin có một giáo dân sắp bỏ nhà thờ, không chịu tham dự thánh lễ nữa. Người giáo dân phản kháng này trước đây đã thường lập luận rằng ông có thể liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa một cách dễ dàng giống như đi ra ngoài cánh đồng tiếp xúc với thiên nhiên. Vào một tối mùa đông, linh mục chánh xứ đã đến thăm người con miễn cưỡng này trong tình thân hữu. Hai người ngồi nói chuyện hàn thuyên với nhau trước lò sưởi, cố ý tránh né đề cập đến vấn đề đi nhà thờ. Sau một lúc, vị linh mục chánh xứ cầm lấy cái kẹp than trên kệ kế bên lò sưởi, lôi kéo một cục than lớn ra khỏi ngọn lửa. Ngài đặt cục than hồng đang cháy giở ra ngoài lò sưởi. Cả hai đều chăm chú nhìn cục than trong im lặng. Cục than bị rút ra khỏi ngọn lửa liền ngưng cháy thật nhanh, và biến thành màu xám tro, trong khi các cục than khác trong lò cứ tiếp tục cháy sáng. Lời nhắn nhủ lặng lẽ của linh mục chánh xứ đối với người giáo dân ương ngạnh đã được đón nhận. Sau một hồi lâu thinh lặng, ông quay sang cha xứ và nói: “Chúa nhật tới con sẽ đi lễ”.
Bài Phúc âm hôm nay có ba phần: phần thứ nhất nói về việc sửa sai lỗi lầm của người anh chị em, phần thứ hai nói về sự tha thứ, và phần thứ ba là hiệu quả của lời cầu nguyện. Yếu tố chung nối kết tất cả các phần lại với nhau chính là cộng đoàn, hay Giáo Hội. Đức tin, cậy, mến của chúng ta không thể bị cô lập, nhưng phải sống trong sự liên hệ với những người khác. Không có cộng đoàn, đời sống tinh thần của chúng ta sẽ chết giống như cục than hồng đưa ra khỏi ngọn lửa.
Cộng đoàn của Matthêu đa số là người gốc Do Thái, nhưng cũng pha trộn những tín hữu ngoại kiều. Vì thế, nên có những bất hoà, đụng chạm, tranh chấp. Để phân giải những chia rẽ xảy ra trong cộng đoàn, thánh sử nhìn vào lời Chúa khuyên dạy, dựa trên uy tín và sức mạnh của thần khí hiện diện trong cộng đoàn hay Giáo Hội để sửa dạy những sai lầm, kêu gọi sự hoà giải, tha thứ và cùng đồng tâm nhất trí với nhau trong lời cầu nguyện.
Phúc âm hôm nay cũng được công bố trong bối cảnh phân rẽ hiện tại của thế giới và đặc biệt của nước Hoa Kỳ tưởng niệm những nạn nhân của vụ khủng bố xảy ra ngày 11.9.2001 ở thành phố New York, Washington D.C., và Pennsylvania. Biến cố đã qua đi, nhưng điều làm tôi lưu ý nhất là những thánh lễ Chúa nhật sau ngày khủng bố 11.9, nhà thờ đầy nghẹt giáo dân tham dự. Tại sao thế? Tôi tin rằng vì tất cả mọi người đang cố gắng đi tìm cho mình một ý nghĩa giữa những thảm kịch giết người tàn bạo vô nghĩa. Chúng ta cần đến sức mạnh, sự nâng đỡ và hướng dẫn của cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng ta cần đến nhau để tìm về với Thiên Chúa.
66. Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
TIN MỪNG MỜI GỌI CHÚNG TA CỔ VÕ CHO TÌNH THƯƠNG VÀ CÔNG LÝ
Nếu bạn thường tập trung vào hành vi và hạnh phúc của riêng mình mà không quan tâm đến hành động của người khác, các bài đọc của Chúa nhật XXIII Thường niên hôm nay đặc biệt dành cho bạn. Bài đọc thứ hai là lời nhắc nhở yêu thương tha nhân, bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng mời gọi chống lại việc đồng lõa với sự hư hỏng.
Trong Thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô trích một phần của Mười điều răn vốn mời gọi hành vi cư xử đạo đức (Xh 20,13-17; Đnl 5,17-21). Ngài nói rằng các tín hữu chu toàn lề luật khi “yêu mến người khác như chính mình”, một lệnh truyền trong sách Lêvi mà trong Tin mừng Chúa Giêsu cũng trích lại. Thông thường, ở đây từ sử dụng cho tình yêu (Agape) được nhấn mạnh như một hành động quên mình, mô phỏng theo tình yêu Thiên Chúa dành cho các thụ tạo. Lời mời gọi yêu thương “như chính mình” cũng rất quan trọng. Nó thêm sự tương tác qua lại cho “phương trình tình yêu”, đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh phương cách đối xử với người khác theo cách chúng ta muốn được đối xử. Điều này nhắc nhớ chúng ta suy nghĩ đến cách thức những hành động của mình ảnh hưởng đến người khác. Như các sự kiện trong thời gian vừa qua cho thấy nhiều người đã bị đối xử với sự khinh miệt và coi thường hơn là với tình yêu. Nếu chúng ta không muốn bị đối xử như vậy, chúng ta cũng không nên cư xử với người khác theo cách đó; hơn nữa, chúng ta không nên chọn lựa những người lãnh đạo công khai cổ võ sự thù ghét hơn là yêu thương.
Trong bài đọc thứ nhất trích từ sách ngôn sứ Êdêkien, vị ngôn sứ được nhắc bảo để cảnh báo mọi người về cuộc sống giữa như hư hỏng. Thiên Chúa hướng dẫn Êdêkien nói cho những kẻ gian ác phải lo sửa chữa hành vi của họ. Nếu ông đã cảnh báo, mà họ vẫn không chịu thay đổi, thì người gian ác sẽ phải chịu kết tội do hành động của họ. Nhưng nếu Êdêkien từ chối lên tiếng chống lại kẻ ác, thì Thiên Chúa khiển trách cả ông và những người gian ác.
Bài đọc này nắm giữ một vật quý báu quan trọng: sự thất bại khi chống lại sự hư nát khiến bạn trở thành người thụ động tham gia vào sự hư nát. Nếu bạn thấy các nhà lãnh đạo hư hỏng về mặt đạo đức mà bạn vẫn chọn lựa họ vì lợi lộc ích kỷ cá nhân, vì thiển cận hoặc ngây ngô có chủ ý, thì bạn đã góp phần vào sự hư hỏng trong xã hội. Chúa Giêsu cũng khẳng định một sứ điệp tương tự trong Tin mừng.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về cách họ nên phản ứng trước hành vi tội lỗi của những người trong cộng đoàn. Thay vì phớt lờ, họ phải đề cập và cố gắng sửa chữa sự hư hỏng. Nếu gặp phải một người phạm lỗi chống lại họ, thì các môn đệ Chúa Giêsu phải đối diện với những kẻ phạm tội ấy. Nếu người đó từ chối thay đổi, Chúa Giêsu khuyên nên có một nhóm hai hoặc ba người để đối chất với người đó, một biện pháp pháp lý kêu gọi các nhân chứng tham gia và giúp tạo áp lực cho hành vi đạo đức. Nếu người đó vẫn không có động lực để thay đổi, thì Chúa dạy cần có cộng đoàn nhiều người hơn để lên tiếng về sự hư hỏng này. Sau đó, Chúa Giêsu trao quyền cho cộng đoàn, khi nói rằng “những gì con cầm buộc dưới đất,thì trên trời cũng cầm buộc; và những gì con tháo gỡ dưới đất, thì trên trời cũng tháo gỡ”.
Trong bài Tin mừng của Chúa nhật XXI Thường niên, quyền năng này được trao cho Phêrô khi ông lãnh nhận chìa khóa Nước Trời, điều này được hiểu là trao quyền lãnh đạo cho Phêrô. Trong bài đọc Chúa nhật hôm nay, toàn bộ cộng đoàn được trao quyền để các thành viên nắm vấn đề và sửa chữa những hành vi sai trái. Tin mừng cho chúng ta biết rằng chúng ta có bổn phận đối với những sai lỗi đạo đức của người khác: kêu gọi họ hoán cải và tránh thông đồng với tội lỗi của họ. Điều đó thôi thúc chúng ta lên tiếng cổ võ tình thương và công lý trong xã hội, đồng thời yêu cầu những nhà lãnh đạo cũng làmnhư vậy.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/08/21/gospel-calls-us-promote-love-and-justice
67. Nhân danh Thầy
Theo bản tính yếu đuối của con người, sự tha thứ không phải là việc dễ làm, và không phải ai cũng có thể dễ dàng tha thứ được. Nhất là tha thứ cho kẻ thù giết hại chính mạng sống của mình. Phải là những người có tâm hồn cao cả, noi gương Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm khi Ngài chết trên cây Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Tám mươi chín người thân thuộc họ hàng của Simon Wiesenthal đã bị giết chết bởi những người lính Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Simon đã trở thành một con người đi săn bọn Đức Quốc xã để trả thù. Ông bắt đầu cuốn sách bằng một kinh nghiệm của chính ông, một tù nhân trong trại tập trung. Một ngày nọ ông bị lôi kéo ra khỏi hàng lao động và được đưa lên cầu thang phía sau đi tới một căn phòng tối om trong bệnh viện. Một người y tá dẫn ông vào phòng, rồi bỏ ông ở đó một mình với một khuôn mặt được băng bó trắng xoá đang nằm trên giường. Một người lính Đức đã bị thương rất nặng, toàn thể khuôn mặt được băng kín. Với một giọng nói run rẩy, người lính Đức đã tự thú tất cả tội lỗi với Wiesenthal. Anh nói về những phương pháp tàn bạo mà đơn vị của anh đã sử dụng để giết người Do Thái. Rồi anh tự thú nhận những tội ác do chính anh đã làm.
Một vài lần Wiesenthal đã cố gắng rời bỏ căn phòng, nhưng mỗi lần như thế cái hình hài giống như bóng ma đã vươn tới và van xin anh ở lại. Cuối cùng, sau 2 giờ đồng hồ, người lính đã nói với Wiesenthal lý do tại sao anh được mời đến đây. Anh nói: “Tôi biết rằng điều tôi đang xin hầu như quá lớn đối với anh. Nhưng không có câu trả lời của anh, tôi không thể chết bình an được”. Anh van xin sự tha thứ vì tất cả những người Do Thái anh đã giết. Wiesenthal ngồi im lặng một lúc. Ông nhìn vào khuôn mặt băng bó của người lính Đức. Sau cùng, ông đứng dậy bỏ căn phòng ra đi không nói lời nào. Ông đã bỏ lại người lính trong nỗi thống khổ không được tha thứ!
Đây là câu chuyện thật về Wiesenthal. Nó được coi như một trường hợp cực đoan, tuy nhiên, tôi tin rằng trường hợp như vậy không phải là không thường xảy ra đối với chúng ta. Tha thứ cho một người đã gây ra đau khổ cho chúng ta là một trong những điều khó khăn nhất mà một người Kitô hữu được kêu gọi để làm.
Vào ngày 11.9.2001. Alfred Braca là một trong số hàng ngàn người đã chết trong những cuộc tấn công vào toà nhà Thương Mại Thế Giới. Bà quả phụ Jean, và bốn người con đã mất đi một người chồng, người cha trong buồn sầu. Một tháng sau, Jean Braca đã nhận được một cú điện thoại từ tổng đài điện thoại hãng MCI. Người tổng đài đã chuyển cho bà một tin quan trọng: những lời cuối cùng của Alfred Braca, chồng bà.
Trước khi toà nhà tháp đôi sụp đổ, Alfred Braca đã gọi điện thoại cho nhân viên tổng đài của hãng điện thoại MCI và yêu cầu bà chuyển lời cuối cùng của ông cho gia đình. Ông đã nói với họ rằng ông rất yêu thương mọi người trong gia đình. Ông biết rằng ông đang ở trong một tình thế rất nghiêm trọng. Và muốn cho gia đình biết ông và 50 người khác đã quy tụ lại với nhau để cầu nguyện trong giây phút nguy kịch này. Và đây là hành động cuối cùng của họ trước khi chết.
Căn nguyên của khủng bố có thể là sự hiểu lầm, hận thù và bạo động. Sức mạnh quân sự không thể bứng rễ được nó. Bom đạn và tên lửa không thể bay tới phá huỷ sự hận thù trong lòng con người được. Trái lại, sự hận thù càng gia tăng hơn nữa. Nó chỉ có thể được cải hoá bằng sự cảm thông, lòng yêu thương và cầu nguyện.
Đây chính là lời kêu gọi tha thứ, hoà giải, yêu thương và cùng nhau cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay: “Ở đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
68. Vẽ chân dung
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu (x. Mt 18,15-20).
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con cháu trong đạo xử thế: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em ngươi”. Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo nguyên tắc: “Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái mình không có bao giờ”. Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí thánh.
Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin Mừng.
Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích, thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư tưởng của người khác.
Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay phải là hai chữ “Anh Em”. Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.
Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe, đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ” (Mt 5,23-24).
Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp hơn.
69. Cá nhân giữa cộng đồng
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Cộng đồng được xây dựng trên sự liên đới của nhiều cá nhân. Các cá nhân sẽ ảnh hưởng trên cộng đồng, để rồi cộng đồng lại ảnh hưởng trên từng cá nhân. Đó là một liên đới có tính cách hỗ tương. Như vậy, trước cộng đồng, mọi cá nhân đều có trách nhiệm liên đới đối với nhau. Tôi làm xấu là xấu cho chính tôi, và cũng xấu cho cộng đoàn. Bạn làm tốt là tốt cho chính bạn, và cũng là tốt cho cộng đoàn.
Một xứ đạo, một đoàn thể Công Giáo hay một tu viện cũng vậy – và còn hơn thế nữa, vì chúng ta được kêu gọi trở nên một thân thể, một cây nho; do đó, trách nhiệm liên đới càng quan trọng hơn. Bài đọc 1, và nhất là bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến trách nhiệm này. Chúa Giêsu nói: “Nếu anh chị em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó…” Thực ra, không ai hoàn hảo, cũng không ai nhìn rõ tất cả những điều mình làm, nhất là những điều xấu; đó, tôi cần đến bạn, bạn cần đến tôi. Chúng ta cần đến nhau để sửa lỗi cho nhau, cùng xây dựng cho nhau, giúp nhau trở nên tốt hơn. Khi mỗi cá nhân không chấp nhận và thi hành trách nhiệm liên đới nầy, vì những lý do như: quá nể nang, quá sợ sệt, sợ bị liên lụy, sợ bị thiệt thòi, hay vì nhu nhược, tất nhiên nhiều điều đáng tiếc sẽ xảy ra cho cộng đồng và cá nhân. Trái lại, nếu các phần tử biết quan tâm đến nhau và đến ích lợi của cộng đồng, qua các sáng kiến tích cực và xây dựng, trong việc nhắc nhở anh chị em mình khi họ sai lỗi, thì chắc chắn cộng đồng và cá nhân trong cộng đồng sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, để công việc mang lại ích lợi, chúng ta cần lưu ý:
– Người sửa lỗi: luôn thực tâm muốn cho tha nhân trở nên tốt, đồng thời phải khiêm nhượng và khôn ngoan trong cách thức sửa lỗi, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy.
– Người sửa lỗi: luôn khiêm nhượng, nhận ra những sai trái của mình, chấp nhận sự nhắc nhở của tha nhân và cố gắng sửa đổi.
Sách Samuel 1 kể rằng: vì ghen tương, vua Saolo quyết tâm giết Davit, nhưng hoàng từ Gionathan đã lợi dụng cơ hội thuận tiện, khôn khéo và chân thành trình bày với vua cha: “Thưa Cha, con trộm nghĩ: Davit không làm gì chống lại Cha. Tất cả những điều anh ta làm đều tốt đẹp và hữu ích cho Cha cũng như cho dân Israel… Chính Cha đã thấy những việc anh ấy làm và Cha đã vui mừng…” Những lời nói chân thành và hợp tình hợp lý của Gionathan, khiến nhà vua suy nghĩ. Sau đó, nhà vua trả lời: “Vậy, nhân danh Thiên Chúa hằng sống, cha hứa sẽ không tìm giết Davit nữa.”
Được Chúa Kitô quy tụ qua bí tích Rửa Tội, thành một dân thánh, một đoàn chiên, một gia đình, chúng ta phải chân thành và tích cực giúp đỡ nhau, bằng việc sửa sai cho nhau. Biết rằng đây là công việc khó khăn và là một thứ thuốc đắng, nhưng rất cần thiết và hiệu nghiệm, nên chúng ta phải nhẫn nại, khôn khéo và can đảm. Ngoài ra, còn cần sự trợ lực của Thiên Chúa, qua lời cầu nguyện và hy sinh. Chính khi chúng ta cầu nguyện và hy sinh, Chúa sẽ biến đổi chúng ta thành những dụng cụ tốt, để biến đổi con tim của tha nhân.
70. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Giữa lầm lỗi của mình và của người khác, giữa việc sửa sai lỗi của mình và sửa sai lỗi người khác, cái nào quan trọng hơn? Có cần phải sửa lỗi cho anh em mình không? Tại sao?
2. Cộng đoàn, xã hội hay Giáo Hội trong đó mình đang sống có thể có những sai lỗi không? Mình có trách nhiệm sửa sai tập thể không?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, ai cũng có lỗi. Bản thân ta cũng có lỗi
Trên đời này, ngoại trừ Đức Giêsu mà ta tin tưởng là hoàn toàn vô tội và không hề lầm lỗi, thì chẳng ai là người hoàn hảo: «nhân vô thập toàn». Ai cũng có lầm lỗi, và ai cũng đều được mời gọi «nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Vì thế, ai cũng cần được sửa lỗi.
Tự nhận ra lầm lỗi hay sai trái của mình, rồi tự sửa đổi, là điều tốt nhất, lý tưởng nhất, nhưng quả rất khó. Tâm lý chung của mọi người là «thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới» (Mt 7,3). Vì thế, mình dễ thấy lỗi của người khác hơn lỗi của mình; ngược lại, người khác dễ thấy lỗi của mình hơn thấy lỗi của họ. Vì thế, để trở nên hoàn thiện, chúng ta hãy giúp nhau nhìn thấy lỗi của mình, bằng cách người này chỉ lỗi cho người kia. Chẳng hạn trong gia đình thì vợ chồng chỉ lỗi cho nhau, cha mẹ con cái chỉ lỗi cho nhau. Trong các cộng đoàn, trong giáo xứ hay trong Giáo Hội cũng vậy.
Điều ấy nói thì dễ, nhưng trong thực tế, không ai thích người khác chỉ lỗi cho mình. Khi có ai chỉ lỗi cho ta, dù có nhận ra người ấy nói đúng, ta vẫn cảm thấy bị xúc phạm khiến ta nóng mặt, nổi quạu, huống gì trường hợp người ấy nói không đúng, hoặc ta không nhận ra người ấy nói đúng. Vì ai cũng coi «cái tôi» của mình quá lớn! Người chỉ lỗi cho ta, dù thiện chí, nhiều khi cũng phải hứng chịu những «trận lôi đình», sự giận hờn, ác cảm, thậm chí sự trả đũa của ta. Nhưng nếu ta ý thức mình chỉ là con người bất toàn, có những lầm lỗi mà mình không hề biết, và nếu ta thật sự mong muốn mình trở nên hoàn thiện, ta sẽ cảm thấy vui mừng và biết ơn khi có người cho ta biết sự sai trái hay thiếu sót của ta. Sự vui mừng và biết ơn khi được sửa lỗi là một điểm thực tế để biết mình có thật sự khiêm nhường và thánh thiện không.
2. Ai cũng phải sửa lỗi. Bản thân ta cũng phải sửa lỗi
Một khi đã nhận ra lỗi của mình, vấn đề kế tiếp là quyết tâm sửa lỗi. Điều này cũng không luôn luôn dễ dàng, vì những sai lỗi nhiều khi là những thói quen cố hữu, lâu năm, hoặc phát xuất từ một quan niệm hay một thành kiến. Bỏ đi một quan niệm hay thành kiến quả rất khó khăn. Ngoài ra, những sai lỗi có thể gắn liền với một quyền lợi hay một thú vui nào đó ” đôi khi rất lớn” của ta. Từ bỏ sai lỗi nhiều khi đồng nghĩa với từ bỏ một quyền lợi, một thú vui, một chứng ghiền. Nhưng dẫu thế nào, hễ là điều xấu, là sai trái, thì ta phải sửa sai, nhất là khi nó tai hại cho tha nhân, xã hội, hoặc cho chính bản thân ta. Có chịu sửa lỗi, ta mới trở nên hoàn thiện hơn.
3. Sửa lỗi cho người khác là một việc bác ái
Tự sửa lỗi mình là điều quan trọng nhất trước khi sửa lỗi người khác. Nhiều người chỉ quan tâm sửa lỗi người khác, còn mình thì … chẳng bao giờ chịu sửa:
«Chân mình những lấm mê mê,
lại cầm bó đuốc mà rê chân người» (Ca dao).
Điều đó thật đáng mỉa mai! Tuy nhiên, nếu chỉ sửa lỗi mình mà không hề quan tâm giúp tha nhân sửa lỗi, thì một cách nào đó ta chưa đủ tình thương chân thành đối với họ. Chính Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng khuyên ta phải sửa lỗi cho anh em.
Nhưng hãy xét xem động lực nào thúc đẩy ta sửa lỗi cho anh em? Động lực vị kỷ hay vị tha? Ta muốn sửa lỗi anh em vì yêu thương họ và muốn họ nên hoàn thiện hơn? Hay ta muốn lên mặt chứng tỏ họ kém ta và ta hơn họ? Hay ta chỉ muốn giải quyết ổn thỏa sự thiệt thòi khó chịu họ gây ra cho ta? Cùng là việc sửa lỗi anh em, nhưng một đằng có giá trị yêu thương, được Thiên Chúa chúc phúc, và người được sửa lỗi đón nhận vui vẻ; một đằng chỉ là một hành vi ích kỷ, chẳng mấy giá trị trước mặt Thiên Chúa, và thường gây bực tức nơi người bị sửa lỗi.
4. Phương cách sửa lỗi người khác
Tình thương, tính vị tha là điều hết sức cần thiết khi ta muốn sửa lỗi anh em. Nhưng không đủ, cần khéo léo, có nghệ thuật, nhất là thể hiện được tình thương hay đức ái. Đức Giêsu có đưa ra một tiến trình sửa lỗi anh em.
a) Một mình mình với người anh em có lỗi: «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi». Khi ta có lỗi, ta không muốn lỗi của ta được quảng cáo để ai cũng biết ta có lỗi. Nếu có ai muốn sửa lỗi cho ta, ta muốn người ấy kín đáo nói với ta, và chỉ nói với ta thôi, để sau khi sửa lỗi xong, ta như người không hề phạm lỗi ấy. Tại sao ta không làm như thế khi sửa lỗi người khác? Làm như thế, ta chứng tỏ mình tôn trọng danh dự và uy tín của người kia, đó là điều tối thiểu của lòng bác ái.
Nếu lầm lỗi ấy chỉ mang tính cá nhân, không gây tại hại hay tổn thất cho người khác hoặc cộng đoàn, thì ta nên dừng lại ở đây. Bổn phận bác ái của ta tới đây kể như xong. Hãy để cho đương sự quyền tự do, sửa lỗi hay không là tùy họ. Ta phải công nhận điều này: ai cũng có một số tật xấu, sai lỗi, và ai cũng có quyền có một số tật xấu hay sai lỗi nào đó, miễn là không làm hại đến người khác hay xã hội. Nếu con người trong xã hội không có quyền này thì xã hội ấy rõ ràng là thiếu tự do, thiếu nhân quyền. Ta cần tôn trọng tự do của người khác. Chỉ trừ trong gia đình hay trong tu viện: khi con cái hay tu sinh cần được giáo dục, thì tất cả mọi tật xấu đều cần được sửa sai cho dù không đến nỗi có hại cho tha nhân hay xã hội.
b) Dùng biện pháp mạnh hơn: «Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân». Để sửa lỗi, không phải lúc nào nhỏ nhẹ riêng tư cũng thành công, nhất là khi người được sửa lỗi không đủ thiện chí, hoặc người sửa lỗi chưa đủ uy tín hay tiếng nói chưa đủ mạnh. Nếu lầm lỗi này có hại cho nhiều người hoặc cho xã hội, thì người sửa lỗi có bổn phận phải áp dụng một phương pháp mạnh hơn, nhưng cần tiệm tiến, không nên đốt giai đoạn.
– Trước hết nên tìm một hai người khác có uy tín và tình thương đối với người sai lỗi để cùng họ sửa lỗi cho người ấy. Như thế sẽ có một tiếng nói mạnh hơn khiến người kia phải suy nghĩ và sửa lỗi.
– Nếu vẫn không được thì sao? Đức Giêsu nói: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh», nghĩa là nên báo cho những người có trách nhiệm đối với người ấy. Chẳng hạn trong gia đình thì có cha mẹ, trong giáo xứ thì có cha sở, trong tu viện thì có cha bề trên, trong giáo phận thì có giám mục, ngoài xã hội thì có chính quyền hay tòa án các cấp… Nếu là người trong Giáo Hội thì nên xử lý nội bộ trước, chừng nào không được thì mới nên đưa ra ngoài đời. Nói chung, sửa lỗi cần phải theo một tiến trình tiệm tiến, từ riêng tư đến công khai, từ nội bộ ra ngoại bộ, từ nhỏ thành lớn, từ đề nghị thành ép buộc… Không nên đốt giai đoạn.
c) Biện pháp cuối cùng khi tất cả mọi biện pháp đều thất bại: Đức Giêsu nói: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế». Nếu đã tìm đủ mọi cách để sửa lỗi mà đương sự không nghe, vẫn tiếp tục con đường sai lầm có hại cho tha nhân và cộng đoàn, thì phải dùng một biện pháp thật mạnh, là loại trừ họ khỏi cộng đoàn, coi họ như người ngoại hoặc người thiếu thiện chí. Nên nhớ, cho dù có dùng đến biện pháp này, thì biện pháp này vẫn chỉ là một phương tiện bất đắc dĩ của tình thương, nghĩa là vẫn phải duy trì họ trong tình thương của mình.
5. Can đảm sửa lỗi cho Giáo Hội và xã hội
Không chỉ trên bình diện cá nhân mà một tập thể, một cộng đoàn, một xã hội hay một Giáo Hội cũng có thể sai lỗi và cũng cần được sửa lỗi.
Nếu cộng đoàn của mình có những khiếm khuyết phương hại tới trật tự hay sự phát triển chung của chính cộng đoàn, của xã hội hoặc Giáo Hội, thì các thành viên, nhất là những người lãnh đạo trong cộng đoàn ấy, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai. Sống trong một xã hội có cơ chế bất công, đàn áp, chỉ phục vụ cho một đảng phái hay một thiểu số, bất chấp quyền lợi của đa số dân chúng, thì người trong xã hội ấy, nhất là Kitô hữu, có nhiệm vụ tìm cách cải thiện, đem lại sự công bằng, hợp lý và ổn định cho xã hội.
Nếu trong Giáo Hội mình đang sống có những sai trái, thì tất cả các thành viên, nhất là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai để Giáo Hội nên hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn hiện nay Giáo Hội đang quá quan tâm tới những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà thiếu chiều kích sống đạo nội tâm: rất cần điều chỉnh lại. Hoặc trong ba chức năng quan trọng ngang nhau của người Kitô hữu, Giáo Hội đang có chiều hướng chỉ quan trọng hóa chức năng tư tế (thờ phượng) mà coi nhẹ hoặc bỏ lửng chức năng vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội, ngoại cảnh) và ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương). Vì thế, trong một xã hội đầy bất công và đàn áp, lối sống đạo què quặt như thế có thể trở thành một thứ thuốc phiện tinh thần làm tê liệt sức đấu tranh cần phải có của quần chúng để chống lại những bất công hay tệ nạn của xã hội.
Thiết tưởng Giáo Hội cần có những nỗ lực sửa sai hơn tất cả mọi tổ chức hay thế lực khác, để Giáo Hội trở nên hoàn thiện, vì chính Giáo Hội luôn luôn rao giảng và cổ võ sự thánh thiện, hoàn hảo như một lệnh truyền của Đức Kitô. Giáo Hội cần phải làm gương trong lãnh vực này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin giúp con ý thức bổn phận trước tiên và trọng đại nhất của con là trở nên hoàn thiện. Nhưng con không thể nên hoàn thiện một mình, con cũng có bổn phận giúp người khác, trong đó có những người chung quanh con, và hơn nữa, cộng đoàn của con, xã hội và Giáo Hội con đang sống. Tất cả đều được Cha mời gọi nên hoàn thiện. Xin cho con biết khéo léo trong việc làm cho tha nhân nên hoàn thiện. Amen.
71. Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trần Văn Luận)
NẾU NÓ NGHE NGƯƠI, THÌ NGƯƠI ĐÃ LỢI ĐƯỢC NGƯỜI ANH EM
Chúng ta đã nghe nhiều lần về câu chuyện người đàn bà ngoại tình trong Phúc âm. Chúa Giêsu đã đối xử với bà như thế nào? Chúa đã không xét đoán hành động của bà; Ngài đã nói: Ta cũng không lên án bà, về đi và đừng phạm tội nữa (Gn 8,11).
Qua bài Phúc Âm hôm nay, một lần nữa Chúa muốn dạy chúng ta đừng xét đoán kẻ khác, nhưng hãy giúp đỡ, sửa dạy người anh em.
Việc sửa dạy người anh em không phải là chuyện dễ dàng, vì mình không thể lường được phản ứng của người kia như thế nào, không biết họ có chấp nhận thiện chí của mình hay lại cho là mình nhiều chuyện, vì đèn nhà ai người ấy sáng, mắc mớ gì tới mình. Hơn nữa mình cũng chưa hoàn hảo thì làm sao dám sửa chữa người khác, mình cần sửa mình trước đã.
Thái độ của người sửa dạy: Người sửa dạy hãy dùng tình yêu để chia sẻ những nhận định, ý kiến của mình, lời nói thành thật, khiêm nhường, nêu lên những cái lợi, cái hại của sự việc hơn là nói những lời ép buộc bắt người khác nghe theo ý mình. Sửa dạy khác với xét đoán, vì khi xét đoán, có thể vì ác cảm hoặc chỉ biết có một khía cạnh mà xét đoán sai lầm. Còn sửa dạy là muốn cho người đó được trở nên tốt đẹp, trở nên hoàn hảo hơn, hoặc giúp sửa lại một việc vì vô tình đã có những hành vi sai lầm.
Thái độ của người được sửa dạy: Khi có người sửa dạy mình thì hãy bình tĩnh, mỡ rộng tâm hồn để lắng nghe, sáng suốt nhận ra sai lầm, khiêm nhường nhận những lời khuyên và cố gắng sửa chữa càng sớm càng tốt. Không nên cố chấp, cứng đầu, thiếu tinh thần cảnh giác.
Những ai có thể sửa chữa người khác? Tất cả mọi người đều có thể dùng lời lẽ tốt đẹp để sửa chữa người khác. Vì tình thương sẽ hoán đổi được con người. Cha mẹ sửa chữa cho con cái, ngược lại con cái cũng giúp cho cha mẹ sửa chữa các lỗi lầm. Thầy sửa chữa trò, vợ chồng sửa chữa cho nhau để tình yêu thêm đằm thắm hơn. Bề trên sửa chữa cho người dưới, hoặc ngược lại người dưới giúp bề trên sửa lỗi mình.
Ngoài ra những vị có quyền rao giảng Lời Chúa cần phải nói thằng, nói thật để người khác sửa chữa lối sống cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Nếu ta nuôi con chó giữ nhà, khi có người lạ hoặc kẻ gian đến mà chó không biết sủa thì nào có ích gì? Cũng vậy, người có nhiệm vụ giảng dạy mà vì lý do nào đó không dám nói sự thật thì cũng chẳng có ích gì, thà rằng không có còn hơn.
Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con sống tốt lành như Chúa, và Chúa cũng muốn chúng con giúp những anh em khác sống tốt lành. Xin cho con lòng yêu mến Chúa hết lòng, yêu mến tha nhân, vì yêu thương là chu toàn lề luật. Xin cho chúng con biết kết hợp với nhau trong việc cầu nguyện, để Chúa ở giữa chúng con nơi trần gian này và ngày sau vô cùng.
72. “Hãy đi sửa dạy nó”
(Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
“Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”
Sửa dạy anh em, sửa sai những lầm lỗi hay nắn lại những lệch lạc thường là những công việc “tế nhị nhạy cảm” và ai cũng muốn tránh; trừ một số người sinh ra để kết án anh em: kẻ độc tài và gian ác!
Trách người cũng chính là trách mình. Nhận xét người cũng chính là vạch trần những cái xấu của mình. Sửa sai người cũng làm cho chính mình bị nhột nhạt và khó chịu. Một điều thật đơn giản là ai trong chúng ta cũng thật nhiều lầm lỗi, lắm khi còn nhiều thiếu sót hơn anh em mình. Tệ hơn, nó còn là bình phong, là tấm lá chắn cho những lầm lỗi của mình.
* Chúa yêu thương và đặc biệt quan tâm đến từng người chúng ta. Chúa luôn luôn muốn chúng ta thuộc về Người và không muốn ai trong chúng ta phải hư đi. Nhắc nhở anh em, tạo điều kiện giúp anh em trở lại con đường ngay, là Chúa muốn từng người chúng ta, cùng với Ngài, giúp cho người anh em mình trở về chính lộ, tránh đi những sai lầm đáng tiếc để trở thành một con người tốt. Trong cách xử thế, Chúa dạy chúng ta trước hết phải biết tôn trọng anh em “riêng ngươi và nó thôi”. Tình thương của Thiên Chúa luôn tạo điều kiện, dịp may, cơ hội để mỗi người chúng ta sống tốt hơn. Ngừơi đời vẫn thường dạy “chị ngã em nâng”.
* Phải có lòng tự trọng. Việc sửa sai phải đặt nền tảng trên đức bác ái Kitô giáo, chứ chẳng phải là sự bố thí của kẻ trên với kẻ dưới, càng không phải là sự kết án độc tài, độc ác như là một quan tòa đối với một tội nhân. Thái độ đặt anh em như là đối thủ để lên án, mà không hề biết tôn trọng, hỏi han lý lẽ, tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân, chỉ làm cho anh em ngày càng đi sâu vào sự hận thù, mất niềm tin và thất vọng. “Hãy đi sửa dạy nó” Chúa muốn mỗi người khi sống bên cạnh nhau, luôn là những người bạn chân thành, quảng đại và có trách nhiệm với nhau trước những lầm lỗi của anh em mình. Ai trong chúng ta mà chẳng có lần lầm lỗi và yếu đuối. Chính vì thế, việc bảo ban, nhắc nhở cho anh em mình, cũng chính là cơ hội để mỗi người “tự thức tỉnh mình”. Hãy hết sức tránh thái độ kẻ cả với anh em, với cộng sự của mình.
* Nền tảng của luân lý rất rõ ràng “Phương tiện xấu không thể biện minh cho mục đích tốt”. Vì thế, việc sửa dạy nhau không dựa trên “những lời đồn đóan”, càng không thể dựa trên những lời vu khống, bịa đặt, bêu giễu của những kẻ ác tâm. Chuyện không đơn giản là sửa sai, trách móc hay trừng phạt anh em bằng mọi thủ đọan; mà chính là tính minh bạch, công tâm và nhất là vì lợi ích cho cộng đòan chứ không phải nhằm vào việc thi hành quyền lực.
Việc sửa dạy anh em không phải là chuyện dễ, càng không được tùy tiện! Mỗi người trong chúng ta đều có cái hay cái dở, vì chẳng ai trong chúng ta là hòan hảo. Phải biết đặt mình vào chính hòan cảnh cụ thể của anh em, bởi chính chúng ta khi sống trong hòan cảnh đó, nhiều khi tình trạng của chúng ta coi chừng lại còn tệ hại hơn. Cũng đừng đem bụng ta để suy đóan bụng người, vì nhiều khi chúng ta suốt đời chỉ sống trong nhung lụa, môi trường “đi nâng về hứng”, còn anh em luôn phải đối diện với bao khó khăn, nhục nhằn. Mục đích của việc sửa dạy là “Phải được lợi cho người anh em”, chứ không phải lợi dụng cơ hội để đạp anh em tận xuống đáy bùn đen!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, con người chúng con thật yếu đuối lầm lỡ, bởi chúng con mãi mãi là một thụ tạo bất toàn và hay sa ngã. Xin Chúa cho mỗi người chúng con luôn ý thức về sự bất tòan của mình để có đủ thiện chí tiếp nhận những lời nhắc nhủ của anh em và luôn sẵn lòng tha thứ cho anh em. Xin hãy uốn nắn chúng con thành những người con ngoan hiền, dễ dạy để mãi mãi là những người con yêu dấu của tình thương Chúa. Amen.
73. Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tin Mừng Thánh Matthêu chương 18 tập chú vào chủ đề đời sống đoàn. Thoặt nghe bài Tin Mừng Mt 18,15-20 với những lời căn dặn của Đấng Cứu Thế về việc sửa bảo anh em, chúng ta dễ liên tưởng đến việc cần có thái độ tế nhị tôn trọng anh em trong khi sửa bảo nhau. Điều này thì không ai chối cãi. Yêu thương và tôn trọng là hai động thái tất yếu phải đi sóng đôi. Tuy nhiên, qua những lời dạy của Thầy Chí Thánh, chúng ta còn phải lưu ý đến tính triệt để của việc sửa sai, dạy bảo nhau. Nghĩa là khi thấy anh em, thấy tha nhân sai lỗi thì cần phải tích cực sửa bảo nhau cách triệt để, tức là cho đến cùng.
Số phận của tha nhân cũng là số phận của chính ta:
Ngôn sứ Êdêkiel đã minh nhiên lời dạy của Thiên Chúa: “Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta nói cho chúng biết. Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của nó, thì Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” (Ed 33,8). Không ai được phép vào Nước Trời một mình. Thiên Chúa không phải là Cha của mình tôi. Người là Cha của “chúng ta”, của mọi người (x.Kinh Lạy Cha). Thái độ dửng dưng, kiểu sống mặc kệ nó, là kiểu sống, là thái độ không xứng với người con cái Chúa.
Người ta có thể không ghét bỏ tha nhân, không tìm cách mưu hại tha nhân, thế nhưng chính khi không màng đến số phận của tha nhân cũng là khi ta góp phần hãm hại tha nhân cách gián tiếp. Đã nhiều lần Chúa Kitô nhấn mạnh chân lý này khi Người trách cứ tấm lòng dửng dưng của những luật sĩ biệt phái trước bao nổi khổ của đồng loại. Thấy anh em đang sai lỗi cũng như thấy anh em đang đứng bên bờ vực thẳm mà ta không lên tiếng cảnh báo hay sửa sai thì chính ta đã vô tình, đúng hơn là đã vô tâm để người anh em rơi xuống vực. Không cứu người theo khả năng và hoàn cảnh của mình là đã giết người. Dưới cái nhìn này chúng ta mới hiểu những lời đanh thép của Thiên Chúa qua miệng Ngôn sứ Êdêkiel ở trên: “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó”.
Khi vạch rõ lộ trình sửa bảo anh em, bắt đầu từ hình thức cá nhân đến cộng đoàn, thì ngoài việc tôn trọng phẩm giá, danh dự người có lỗi, Chúa Kitô đã minh nhiên dạy ta tích cực sửa bảo người anh em cho đến cùng. Khi người anh em lỗi phạm không nghe cộng đoàn thì hãy xem họ như người ngoại giáo hay người thu thuế thì vẫn không là buông xuôi mà là trao phó cho Chúa, Đấng không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26). Ngay cả khi trao phó người anh em lỗi phạm cho Chúa thì ta vẫn còn đó bổn phận góp phần bằng lời cầu nguyện. Để làm rõ hiệu quả của lời cầu, thì liền sau đó Chúa Kitô đã khẳng định: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
Chúng ta cần phân biệt các hành vi sai trái mang tính cá nhân và hậu quả của hành vi lỗi phạm thì hạn chế với những sai lầm mang tính tập thể và hậu quả di hại cho xã hội là rộng lớn hoặc hành vi lỗi phạm của cá nhân trở thành gương xấu gương mù cho xã hội, cho những kẻ bé mọn. Cung cách hành xử của Chúa Kitô thật rõ ràng. Nguời từ tâm, nhân hậu với những trường hợp đầu mà trái lại rất thẳng thắn và cương quyết với những trường hợp sau. Người tỏ lòng nhân hậu với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Người thật khoan dung với sự yếu hèn của Phêrô khi chối Người, nhưng Người lại nghiêm khắc trước sự sai trái cũng của chính Phêrô khi ông ngăn cản Người lên Giêrusalem để thực thi công trình cứu độ bằng sự khổ nạn. Và với nhiều vị lãnh đạo Do Thái giáo hay các bậc vị vọng thời bấy giờ là Biệt Phái, Luật sĩ…thì thái độ của Chúa Kitô là rất thẳng thừng và cương quyết. Tuy nhiên dù cương quyết hay nhân hậu, dù nghiêm khắc hay dịu dàng thì các hành vi của Chúa Kitô đều ắp đầy lòng xót thương. Đến trần gian, một sứ mạng của Đức Kitô là mạc khải cho nhân trần chân dung của Thiên Chúa, Đấng từ bi và hay thương xót, Đấng không muốn bất cứ một ai phải hư mất.
Đức ái là động lực, là hình thức và là mục đích của việc sửa sai nhau:
Chúng ta dễ dàng chân nhận sự cần thiết của việc sửa bảo nhau. Tuy nhiên cần biết sửa bảo nhau vì yêu thương nhau, muốn cho nhau đổi thay và nên tốt lành, thánh thiện hơn, bằng những hình thức, những phương thế chính đáng và phải đạo. Làm sao minh chứng được động cơ và mục đích của việc ta sửa bảo nhau là vì yêu thương nhau? Quả là khó khi thẩm định những gì thuộc chiều sâu của tâm hồn. Với lời mạc khải, qua tấm gương của các ngôn sứ, đặc biệt của Chúa Kitô chúng ta có thể xác định rằng đức ái chính là động cơ và mục đích của việc sửa bảo nhau dựa vào một vài dấu chỉ sau:
– Có nhổ thì có trồng; có phá thì có xây: Ta không chỉ nói lên cái sai trái, sự lầm lỗi của nhau mà ta còn vạch ra cách thế sửa đổi, còn đề xuất phương hướng khắc phục cho nhau.
– Sẵn sàng đón nhận những sự hiểu lầm, những nghịch cảnh và cả những ngược đãi khi ta chân thành sửa bảo nhau bằng lòng khoan dung, tha thứ.
“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tình yêu” (Rm 13,8). Đã mắc nợ là phải trả. Một trong những món nợ tình yêu chúng ta cần phải trả liên lĩ đó là món nợ liên đới trong lỗi phạm của nhau. Để trả món nợ này, chúng ta không chỉ can đảm đón nhận các hậu quả do tội lỗi của nhau mà còn phải tích cực sửa bảo nhau trong đức ái. Nếu ngươi không sửa bảo kẻ có tội thì “Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó” là một lời cảnh báo thật đáng sợ. Tuy nhiên để cho việc sửa bảo nhau đạt kết quả thì chúng ta đừng quên rằng ngoài việc cầu xin ơn Chúa soi sáng, nâng đỡ, thì bản thân chúng ta trước hết cần làm thanh sạch bản thân mình một cách nào đó. Vì khi đã lấy cái xà ra khỏi mắt mình thì mình mới thấy rõ và biết cách lấy cái rác ra khỏi mắt anh em (x.Mt 7,1-5). Xin đừng viện cớ rằng tôi chưa hoàn thiện, nghĩa là vẫn còn vương nhiều lầm lỗi, nên tôi không được phép sửa bảo ai. Ngoại trừ Mẹ Maria, chúng ta thảy đều là tội nhân, mức này, mức kia. Hãy nhớ lời dạy của thánh Giacôbê: “Thưa anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở về, thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn người ấy khỏi chết và che lấp được muôn vàn tội lỗi của mình.” (Gc 5,19-20)
74. Việc sửa lỗi trong cộng đoàn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Có ai trong chúng ta dám cho mình là người thập tòan không? Những người có lương tri chắc không ai dám khẳng định như thế vì đặc tính này chỉ dành riêng cho Thiên Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối. Ý thức về thân phận thực tế của con người, Elbert Hubbard đã phát biểu rất xác đáng: ”Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh hiền là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”. Như vậy, sai lỗi và lầm lỗi là một thực trạng của con người trong xã hội, trong cộng đòan. Và nếu đã sai lỗi thì cần phải được sửa lỗi để trở nên tốt hơn.
Thực ra, sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỗi người trong cộng đòan, chứ không phải là một công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lỗi lầm của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đòan kết giữa các thành phần. Hơn nữa, một cộng đòan không bao giờ gồm tòan những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại, vẫn còn những phần tử bất hảo, cố chấp, lầm lạc. Vậy phải đối xử thế nào đối với những người có lỗi?
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói lên nhu cầu phải sửa lỗi cho nhau theo ba bước: từ sửa lỗi giữa hai người, tới việc cần có 2, 3 người làm chứng, và sau cùng đưa người ấy ra trước mặt Hội thánh. Tuy nhiên, trong bất cứ hòan cảnh nào, người ta phải giữ tinh thần bác ái huynh đệ, mục đích giúp người có lỗi ý thức về sai lầm của mình mà sửa đổi. Thái độ trong khi sửa lỗi là luôn phải yêu thương, kính trọng và cầu nguyện cho họ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ez 33,7-9.
Ezéchiel được chọn làm tiên tri. Vai trò của tiên tri là phải tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri có trách nhiệm mang đến cho loài người sứ điệp của Chúa và để báo cho con người sự nguy hiểm nếu họ không tuân lệnh Chúa. Nếu tiên tri nói với kẻ gian ác mà nó không nghe, thì nó phải chịu trách nhiệm về tội của nó. Còn nếu tiên tri không chịu vạch tội và kẻ gian ác phải chết, thì tiên tri phải chịu trách nhiệm về cái chết đó. Như vậy, tiên tri được coi như người lính gác phải luôn thức tỉnh để nhắc nhở kẻ có tội để họ khỏi phải hư đi.
+ Bài đọc 2: Rm 43,8-10.
Thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma nhắc lại lời Chúa Giêsu trả lời cho người biệt phái muốn biết điều răn nào trọng nhất: điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là mến Chúa trên hết và điều răn thứ hai cũng giống như vậy là thương yêu anh em như chính mình. Tất cả những giới răn chỉ gồm lại trong một điều là: thương yêu người anh em. Thánh Phaolô tóm tắt lại: Yêu thương là chu toàn cả lề luật.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,15-20.
Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến mối tương quan giữa mọi người trong cộng đoàn. Một trong những mối tương quan đó là sửa lỗi cho nhau. Khi một người phạm lỗi thì đều liên quan đến cộng đoàn. Vì vậy, với tinh thần anh em trong cộng đoàn ta phải sửa lỗi cho họ trong tinh thần yêu thương và kính trọng. Diễn tiến việc sửa lỗi này là tiệm tiến, phải đi từ kín đáo đến công khai:
– Riêng ngươi với nó: giữa hai người.
– Đem theo một hay hai người làm chứng.
– Kể nó như người ngoại hay thu thuế.
Tuy nhiên, thánh Matthêu ghi tiếp sau đoạn này (Mt 18,21-35) là có lỗi giữa hai cá nhân với nhau. Trong trường hợp này thì giải pháp hay nhất là tha thứ.
Mục đích của việc sửa lỗi này không phải nhằm lên án người có tội mà là thức tỉnh họ, giúp họ trở về với cộng đoàn. Cả hai trường hợp cần có sự cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, nhất là việc cầu nguyện chung trong cộng đoàn.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy sửa lỗi cho nhau
I. Mọi người đều sai lỗi.
1. Lời khẳng định.
Người ta thường nói:”Nhân vô thập toàn”: Không ai dám bảo mình là không có lỗi, không có những sai phạm trong đời sống thường ngày. Thánh nhân cũng phải nhận là người có lỗi. Chính vì vậy mà ông Elbert Hubbard đã nói:” Người nào cũng là kẻ chí ngu ít ra trong năm phút mỗi ngày. Bậc thánh nhân là kẻ cố gắng và thành công trong sự không để cái ngu của mình vượt qua thời hạn ấy”.
Thánh Gioan tông đồ khẳng định:”Ai nói mình không có tội, đó là kẻ nói dối và sự thật không ở trong họ” (Ga 1Ga 1,10). Thánh Phaolô tông đồ cũng nói tương tự:”Tôi ăn ở như một người ngu, còn sự lầm lạc của tôi thì vô kể” (Ep 4,11).
2. Từ chối nhận lỗi.
Tuy biết mình có nhiều lỗi lầm nhưng không mấy khi thành thật nhận lỗi bởi vì tính tư ái dâng cao khiến người ta chối bỏ lầm lỗi của mình, nhất là khi người ta nhắc đến những lỗi lầm ấy. Đây chính là chứng bệnh gia truyền, từ đời Nguyên Tổ. Ông bà Nguyên Tổ đã phản bội Chúa. Nhưng khi Ngài ngự đến hỏi ông, thì ông nói:
– Lỗi là do bà ấy.
Hỏi bà, bà nói:
– Lỗi là do con rắn ấy.
Ông cũng như bà, bà cũng như ông, không ai chịu nhận trách nhiệm cả.
Phải chi ngay lúc bấy giờ, hai ông bà biết uốn đầu gối xuống đất, có lẽ Thiên Chúa chưa hất đổ vườn địa đàng đi và nhân loại sẽ được thoát cảnh lầm than điêu đứng.
Truyện: Không nhận lỗi
Dale Carnegie nổi tiếng về những sách học làm người, đã viết:”Tôi đã phải phấn đấu gần một phần ba thế kỷ mới thấy được ánh sáng chân lý này: dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần tới 99 lần người ta tự cho mình là vô tội”.
Bà đã kể trường hợp về ba tên đầu đảng bọn cướp nổi tiếng nhất nước Mỹ: Crowley, Capone và Schultz.
Crowley giết người như ngóe mà vẫn nói:”Dưới lớp áo này, trái tim ta đập chán ngán, nhưng thương người không muốn làm hại ai“.
Capone đã tự tuyên bố:”Ta dùng những năm tươi đẹp nhất trong đời để mua vui cho thiên hạ. Vậy mà phần thưởng chỉ là bị chửi, bị săn bắt như thú dữ”.
Schultz đã tự mãn khoe mình với ký giả:”Ta là ân nhân của thiên hạ”
(Dale Carnegie, Đắc nhân tâm, tr 33-3).
II. Nhu cầu phải sửa lỗi.
Trước hết sự sửa lỗi cho nhau là một trách nhiệm của mỡi người trong cộng doàn, chứ không phải là công việc tùy ý hay chỉ dành cho những ai có thẩm quyền. Bởi vì lầm lỗi của cá nhân ảnh hưởng tai hại đến đời sống chung và gây sứt mẻ tình đoàn kết liên đới giữa các thành phần . Hơn nữa, một cộng đoàn không bao giờ gồm toàn những người tốt lành thánh thiện cả, trái lại vẫn còn những phần tử bất hảo cố chấp, lầm lạc.
Trong cách sửa lỗi người ta hay nói:”Yêu con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”(Tục ngữ). Chúng ta nghĩ thế nào trong việc sửa lỗi theo câu tục ngữ này?
* Cho roi: nghĩa là dùng hình phạt theo pháp luật.
Trước những lỗi phạm, những tội ác, có nhiều hình phạt khác nhau như: phạt tiền, phạt lao động, cải tạo, khổ sai, bắt tù, tra tấn, tịch thu của cải, lưu đầy biệt xứ hoặc tử hình như pháp luật vẫn làm.
* Cho ngọt: nghĩa là dùng những biện pháp êm nhẹ, dụ dỗ, dẫn bảo, khen thưởng, ca tụng ngọt ngào hay nuông chiều buông thả như chủ trươhg của nhà giáo dục của J.J. Rousseau.
Cả hai cách giáo dục đó: một đàng thái quá vì hạ nhục phẩm giá con người, một đàng bất cập vì buông xuôi theo khả năng dục vọng biến thành thứ vô giáo dục và nguy hơn nữa tăng bốc tính kiêu ngạo.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm A, tr 154-155)
Việc sửa lỗi cho anh em là cần thiết nhưng lại là một vấn đề rất khó khăn và tế nhị:
– Tế nhị về phía người được sửa lỗi.
– Khó khăn về phía người sửa lỗi, muốn giúp người khác nên hoàn thiện.
Người ta thường nói:”Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng”(Tục ngữ). Không ai muốn người khác nhắc đến lỗi lầm của mình nhưng dù sao cũng phải uống thuốc đắng cho đã tật, cho mình biết sửa lỗi lầm của mình. Kinh nghiệm cho hay: người đứng ra sửa lỗi rất ngại ngùng, một đàng vì người có lỗi không muốn nghe, một đàng chính người sửa lỗi người khác cũng cảm thấy e ngại vì nhớ đến lời Chúa phán:”Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt anh đã”.
Nhưng dù sao, Lời Chúa hôm nay xác định cách rõ ràng: sửa lỗi anh em là hành vi tích cực của đức Bác ái, vì sửa lỗi anh em là để cho anh em được nên hoàn thiện hơn. Đối với người có trách nhiệm hay bề trên thì sửa lỗi bề dưới còn là một điều cần thiết và là bổn phận nữa.
Chúa khuyên chúng ta phãi sửa lỗi cho nhau vì đó là điều cần thiết cho đời sống cộng đoàn, nhưng chúng ta phải đề phòng, tránh thái quá cũng như bất cập. Trong việc sửa lỗi đó, chúng ta có hai thái độ trái ngược nhau:
* Giây mình vào hết mọi công việc của người khác, tự phong mình làm cảnh sát, kiểm soát mọi công việc của người ta, làm cho người ta mất tự do.
* Không quan tâm đến ai cả, một mình mình biết, một mình mình hay, sống chết mặc bay. Đây là thái độ lãnh đạm đối với mọi người, thái độ này cũng hàm chứa tính ich kỷ.
III. Phải sửa lỗi như thế nào?
Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn việc sửa lỗi anh em phải trở thành một cuộc vận động tiệm tiến gồm có ba bước:
* Bước 1: Giữa ngươi với nó (Mt 18,15). Bước một là nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhìn ra lỗi lầm.
Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân.
* Bước 2: Nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi, sẽ sang bước 2. Trong bước 2 này sẽ có 2 hoặc 3 nhân chứng, theo đề nghị của sách Đệ nhị luật (St 19,1) như đã được thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,1).
Sự hiện diện của các nhân chứng bảo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó một yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo.
* Bước 3: Nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo hội: trình bầy sự việc trước cộng đoàn Giáo hội.
Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo hội, thì, theo như bài Tin mừng, “Ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế” kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này, và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng (Fiches dominicales, năm A, tr 281-282).
IV. Thái độ khi sửa lỗi.
Henry Ford nói:”Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách chữa trị”. Nói cách khác, sửa lỗi là một việc rất tế nhị và rất khó, làm sao cho người được sửa lỗi dễ dàng đón nhận sự sửa lỗi ấy? Chúng ta tạm đưa ra ba thái độ căn bản này:
1. Yêu thương:
Hãy bầy tỏ lòng thương yêu họ. Hãy nghĩ rằng đây là một cách giúp đỡ anh em nên tốt hơn: đừng lên án, chỉ trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị, dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Truyện: Đức Giám mục đi kinh lý.
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám mục A-mo-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bầy tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án:”Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối này gây nhiều gương xấu của vị ẩn sĩ trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám mục là người đầu tiên đến túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản gọi dân làng vào và bảo:”Vào đây, anh chị em hãy vào và lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám mục mới nói:”Bây giờ anh chị em phải qùy xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rải nói:”Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
2. Kính trọng:
Hãy kính trọng cách chân tình, luôn giữ thể diện cho họ, đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người khác, nên khiêm tốn nhận mình cũng lỗi lầm. Hãy đặt câu hỏi cho họ, và kiên nhẫn lắng nghe, khích lệ họ sửa lỗi. Người đời xưa có những cách sửa lỗi rất tế nhị và sâu sắc.
Truyện: Án Tử căn ngăn vua.
Vua Cảnh Công nuớc Tề, có một con ngựa qúi, giao cho một người chăn nuôi. Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết. Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa. Án Tử ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi nhà vua:
– Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh người thì bắt đầu từ đâu trước?
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói:
– Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để rồi trị tội.
Án Tử nói rằng:
– Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan. Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy bỏ ngục.
Vua nói:
– Phải.
Án Tử kể tội rằng:”Nhà ngươi có ba tội đáng chết. Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là tội đáng chết. Lại để chết con ngựa rất qúi của vua, là hai tội đáng chết. Để vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ (ngấp nghé xem nguời ta hở cơ là làm hại), là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục…”.
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng:
– Thôi, tha cho nó! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ học tinh hoa, tập 1, tr 28-29)
3. Cầu nguyện:
Lời cầu nguyện của riêng một người đã là tốt rồi, song lời cầu nguyện của hai người hay nhiều người chung lại càng tốt và hiệu nghiệm hơn vì họ cùng hiệp lời cầu xin.
Tụ họp nhân danh Chúa không phải là tụ họp theo ý riêng mình, hoặc tụ họp theo tinh thần thế tục. Nhưng tụ họp theo tinh thần khiêm tốn như trẻ nhỏ (Mt 18,4-5) tự nhận biết mình hèn yếu và đặt niềm tin cậy nơi Chúa. Không phải tụ họp thành những cộng đoàn biệt lập, nhưng là trong sự hiệp thông với Giáo hội. Giáo hội là cộng đồng cầu nguyện. Nếu tội lỗi làm chia rẽ thì sự cầu nguyện nối kết và hiệp nhất chúng ta lại với nhau. Vì thế, cả những lúc có sự bất bình không đồng ý kiến, nếu có “hai ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”. Chúa ở đó như gạch nối niềm tin.
Không phải chỉ khi cầu nguyện, mà cả những khi họp mặt nhân danh Chúa thì Chúa cũng hứa sẽ hiện diện để khuyến khích sự hòa giải giữa anh em trong cộng đồng Giáo hội. Ở đây muốn nhấn mạnh về khuyến khích mọi cố gắng sửa lỗi và hòa giải giữa anh em trong lòng Giáo hội. Vì được như vậy thì chắc chắn Chúa sẽ hiện diện để giúp đỡ.
Lạy Chúa, biết nhìn nhận mình sai là một điều rất khó, nhất là nhìn nhận với lòng thành thật, không tìm cách chữa mình, không tìm cách để vứt đi trách nhiệm của việc đã làm, cũng không tìm cách để đổ lỗi cho người này người khác, cũng không vịn lẽ để chứng minh cho kẻ khác rằng: sự vật đã sai lệch và thế gian được dựng nên cách không đàng hoàng.
Ôi! Lạy Chúa, xin chữa chúng con khỏi run sợ khi phạm lỗi, dẫu lỗi ấy do hiểu lầm, tính sai, hoặc do yếu đuối cũng vậy.
Để thực hành điều ấy, con cần phải sống nên người mạnh mẽ, chứ không như một thằng bé mặt mày úp mở trong một sự sợ hãi nữa (L. Terphagnon).
75. Sửa lỗi cho anh em theo tinh thần của Chúa
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Khi đảm nhận vài trò sửa lỗi cho anh chị em, hẳn chúng ta đều cảm thấy quá khó! Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó lòng chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Tại sao vậy? Thưa! Đơn giản là vì tâm lý chung của mọi người đa phần là bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của ta hơn là lỗi của họ.
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy cho các môn đệ của mình hãy sửa lỗi cho anh em. Tuy nhiên, theo lẽ thường, muốn thành công, người môn đệ phải có được tâm tình như: yêu thương chân thành, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Bỏ một trong các bước trên, thành công là điều khó có thể xảy ra!
1. Sửa lỗi nhau trong yêu thương chân tình:
Trước tiên, khi muốn sửa lỗi cho người khác, chúng ta phải luôn tâm niệm rằng: “Nhân vô thập toàn” và lỗi của người anh em đôi khi cũng là lỗi của mình. Chính thánh Gioan đã quả quyết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1Ga 1,8). Khiêm tốn nhận ra mình tội lỗi, yếu đuối và bất toàn sẽ mang lại cho ta bài học về sự thông cảm, nhẹ nhàng và bao dung. Ngược lại, nếu không khiêm tốn, ta dễ rơi vào tình trạng vô cảm, dửng dưng với người tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hẳn chúng ta không những không được Thiên Chúa tha thứ cho chính mình, nhưng Người sẽ đòi nợ ta theo lẽ công bằng. Lúc ấy, chúng ta cũng là những người sẽ bị kết án vì sự bất nhân của mình với anh chị em đồng loại.
Điều này được quảng diễn qua dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, ông chủ đã lên án con người “cạn tình ráo máng” này khi nói: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông” (Mt 18,32-34).
Như vậy, khi sửa lỗi cho nhau dựa trên tình yêu nhờ động lực của đức ái, chúng ta mới có thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa để đón nhận sự tha thứ cho chính mình và diễn tả tình yêu đó cho người khác trong khi sửa lỗi cho họ.
2. Sửa lỗi trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng:
Thứ đến, là sửa lỗi cho anh chị em mình trong tâm sự nhẹ nhàng, kín đáo, tế nhị và tôn trọng: Đức Giêsu đã nói rất rõ: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18, 15).
Thường thì con người dễ nghe những lời tâm sự, kín đáo, tế nhị, chân tình hơn là những sự nạt nộ, kết tội… hơn nữa, một mình ta với người được sửa lỗi nói lên tính riêng tư và mang lại cảm giác an toàn, kính trọng vì họ đang được yêu thương.
Thật vậy, nếu không có sự tôn trọng, nhẹ nhàng, tế nhị và kín đáo, chúng ta không thể hiểu được tâm trạng của người tội lỗi!!! Bởi vì, thường những người phạm tội luôn mang hai trạng thái, một là tự ái, hai là mặc cảm, xấu hổ. Mặt khác, người sai lỗi thường rơi vào tình trạng bất ổn về lương tâm, nên tinh thần, thái độ của họ rất mỏng dòn, yếu đuối và dễ buông xuôi. Chỉ cần một lời nói thiếu tế nhị là có thể đổ bể mọi vấn đề… và vô tình, chúng ta lại đào thêm hố ngăn cách cho anh chị em, làm cho sự việc trở nên trầm trọng hơn. Thiếu đi sự tôn trọng thì chỉ còn những lời chỉ trích, nguyền rủa. Có được sự tôn trọng, chúng ta sẽ nhẹ nhàng, khiêm tốn khi sửa lỗi.
Như vậy, cần phải có thái độ trân trọng với người mà tôi đang muốn giúp đỡ họ. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em, là bạn, và trên hết là hình ảnh Thiên Chúa. Trân trọng nữa là vì nơi họ vẫn còn đó những suy tưởng tích cực và lương tâm chân chính thủa ban đầu mà Thiên Chúa đã phú bẩm nơi tâm hồn họ, vì thế, tận sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn được tiếng nói lương tâm thúc đẩy để “làm lành lánh dữ” và cách nào đó họ vẫn khao khát tìm về Chân, Thiện, Mỹ.
Mặt khác, khi chúng ta nhẹ nhàng để chỉ cho người anh chị em của mình thấy được lỗi của họ mà sửa, ấy là lúc biểu hiện của tâm hồn một người thánh thiện, chân thành chứ không phải nhân cơ hội này, mình hạ thấp nhân phẩm và nhấn chìm họ xuống để mình được vươn lên trong sự huênh hoang, tự mãn… hãy mặc lấy tâm tình của một người bạn hơn là người chỉ giáo; có tâm tình của một người cha hơn là một quan tòa…
Làm được điều đó, chúng ta sẽ loại bỏ điều oán ghét, giận hờn… để chỉ vì một động lực duy nhất là tình yêu, một mục đích nguyên tuyền là muốn cho người anh chị em chúng ta được trở nên tốt hơn mà thôi.
3. Sửa lỗi trong kiên trì và cầu nguyện:
Cuối cùng, khi thi hành việc sửa lỗi là cả một quá trình. Chuyện liên quan đến toàn thể con người, nó đụng đến tận gốc rễ của cái “tôi”, vì thế, không phải là chuyện làm một lần là xong. Cần phải có nhiều phương án. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta những phương án như sau: gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra cộng đoàn (x. Mt 18,15-17). Hãy nhớ lại sự kiên trì của thánh nữ Mônica với thánh Âu tinh!
Tuy nhiên, kiên trì là điều cần, nhưng không thể đóng vai trò quyết định. Thật vậy, mọi chuyện sẽ không thể thành công và sẽ trở thành “công dã tràng” nếu phủ nhận ơn Chúa và cậy dựa vào khả năng thuần túy của ta.
Như thế, đời sống cầu nguyện, kết hợp với hy sinh là điều quan trọng để quyết định thành công hay thất bại. Chúng ta nên nhớ rằng sửa lỗi là việc của chúng ta, nhưng kết quả là việc của Chúa. Chúng ta không có khả năng để thay đổi người khác. Bởi vì: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
Bên cạnh đó, người sửa lỗi phải có sự can đảm chấp nhận sự thiệt thòi về mình khi dám nói lên sự thật, bởi vì đôi khi bị hiểu lầm, ghen ghét, ganh tỵ và bị trả thù ngang qua những sự thật mà ta đã nâng đỡ…
Mong sao, khi đứng trước lỗi lầm của người khác, chúng ta đừng rơi vào tình trạng: khắt khe hoặc vô cảm. Bởi vì khắt khe, chúng ta sẽ hướng chiều về sự loại trừ khi can thiệp cách thô bạo nhằm đẩy lui người anh chị em vào bóng tối. Còn thờ ơ, chúng ta lại rơi vào tình trạng lãnh cảm, tức là không cần quan tâm, bỏ rơi. Tất cả những điều đó hoàn toàn là một “tấm vải đen”, “một bầu trời u ám” cho cả người sửa lỗi và người được sửa lỗi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết ý thức mình cũng là con người bất toàn nên cần đến ơn Chúa trợ giúp. Đồng thời, xin cho chúng con biết sửa lỗi anh chị em trong tinh thần khiêm tốn và thánh thiện. Xin Chúa cũng ban cho chúng con ơn can đảm, trung thành trong sự thật khi thi hành công việc khó khăn này. Amen.
76. Sửa lỗi nhau thế nào
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Trong quyển sách về truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây: Một hôm, khi Đức Giám Mục A-mô-la đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với ngài lòng bất mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ để chung sống. Vị ẩn tu này đã không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án: “Hôm nay ngài đã đến đây thì ngài phải giải quyết dứt khoát tình trạng bê bối gây nhiều gương mù gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia”. Sau khi nghe những lời kết án gay gắt của dân làng, Đức Giám Mục quyết định leo lên núi. Ngài đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp lều của mình thì hoảng sợ và bảo người phụ nữ chui vào trốn trong một chiếc thùng rỗng.
Đức Giám Mục là người đầu tiên đến trước túp lều và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình hình. Ngài ung dung đi thẳng đến chiếc thùng gỗ và ngồi trên đó để nghỉ chân, rồi bình thản ra hiệu gọi dân làng vào và bảo: “Vào đây, anh chị em hãy vào mà lục soát túp lều để tìm người phụ nữ”. Họ lăng xăng lục lọi, nhưng không tìm đâu ra bóng dáng người đàn bà. Khi ấy, Đức Giám Mục mới nói: “Bây giờ anh chị em phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ”. Nhưng sau đó, khi mọi người đã kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục tiến lại gần vị ẩn tu, nắm chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt của ông và chậm rãi nói: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy”.
Hai thái độ khác nhau đối với một người lầm lỗi giữa dân làng và Đức Giám Mục A-mô-la có thể giúp chúng ta hiểu giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay về việc sửa chữa lỗi lầm của nhau. Chúng ta thấy, ngược với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục A-mô-la đã cố gắng áp dụng lời khuyên của Chúa Giêsu. Trong một tình trạng khó xử, chúng ta thấy, trước hết, ngài đã tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân, để có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, ngài đã không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền, trái lại, ngài đã dùng thẩm quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một người anh em. Sau cùng, dầu không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên án vị ẩn tu đang vấp phạm, nhưng cũng không im lặng làm ngơ, ngài đã nêu bật mối nguy hiểm của lỗi lầm này đối với phần rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Sửa chữa anh em là một điều rất hợp thánh ý Chúa. Ngài không muốn cho tội nhân phải hư mất mà được hối cải và được sống. Sửa chữa nhau là điều luật của bác ái: yêu tha nhân như Chúa yêu thương chúng ta. Mà yêu người là muốn sự lành cho người, là lo lắng kéo người ta ra khỏi tình trạng tội lỗi, đưa đến chỗ thánh thiện.
Nhưng để việc sửa chữa anh em đem lại kết quả mong muốn, thì ngoài sự cầu nguyện là việc rất cần thiết cho mọi cuộc trở lại, chúng ta phải thực hiện theo phương pháp và thứ tự như Chúa Giêsu dạy. Trước hết là gặp gỡ riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi, nếu chưa kết quả, nhờ một hay hai người khác cùng góp ý, nếu không kết quả mới đưa ra cộng đoàn hay trình lên những vị có thẩm quyền để giải quyết, hoặc tiếp tục cầu nguyện. Nếu làm hết cách theo khả năng mà chưa kết quả, hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Chúa.
Như vậy, giúp nhau sửa chữa lỗi lầm, thiếu sót là một việc rất tốt và rất cần, nhưng khi làm việc này chúng ta phải nhớ là chỉ nên gặp gỡ trực tiếp cá nhân mà thôi, cùng lắm chúng ta mới nên nói qua trung gian, vì như vậy tránh được một người khác biết lỗi lầm đó, và càng tránh được nhiều bao nhiêu càng tốt. Đồng thời chúng ta hãy tự hỏi: “Nếu tôi là người được sửa sai đó, tôi sẽ phản ứng thế nào?”. Tự hỏi mình như thế chúng ta sẽ biết mình phải nói gì và phải cư xử ra sao, bởi vì mỗi người đều có lòng tự ái.
Tóm lại, cầu nguyện cho nhau, cầu nguyện với nhau và sửa chữa lẫn nhau, đó là ba đặc tính của các cộng đoàn Ki-tô hữu hoặc trong các đoàn thể, các gia đình, các giáo xứ. Cầu nguyện cho nhau thì dễ, cầu nguyện với nhau khó hơn một chút, vì phải đồng tâm nhất trí, nhưng sửa chữa nhau là điều khó hơn cả. Việc sửa chữa nhau đòi hỏi một tình yêu thương cao độ, thứ tình yêu mà thánh Phaolô nói là chu toàn được tất cả mọi điều luật, nghĩa là gồm tất cả các đức tính khác, thứ tình yêu thành thật, thiết tha, thông cảm, cởi mở, đến nỗi người sửa lỗi có thể nói được tất cả và người được sửa lỗi có thể đón nhận tất cả. Tình yêu nơi người sửa lỗi nhiệt thành, muốn cho anh em nên tốt thật, và sẵn sàng hy sinh thời giờ, sức khỏe, nhẫn nại, chịu đựng, cũng như đem tất cả tài năng để tìm ra những biện pháp cần thiết, không kém tế nhị, để đưa người anh em tới chỗ tốt lành thánh thiện. Tình yêu nơi người được sửa lỗi phải thiết tha với sự trọn lành, tỏ ra biết ơn người sửa chữa mình, khiêm tốn và vui vẻ đón nhận, cũng như cương quyết thi hành những điều sửa bảo để nên tốt.
77. Sửa lỗi nhau
Đã là con người, khi đã biết sử dụng trí khôn, hay khi còn sử dụng được trí khôn bình thường, thì còn lầm lỗi, và còn lầm lỗi là còn cần được sửa chữa, như ca dao tục ngữ đã nhìn nhận: “Tha thứ là bệnh của trời, lỗi lầm là bệnh con người chúng ta”. Quả thực, Thiên Chúa sinh ra chúng ta, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người mỗi tính, không ai giống ai: người thì nhanh nhẹn, người thì chậm chạp, người thì hăng say năng nổ, nhiệt tình, người thì tiêu cực, ơ hờ, lười biếng, người thì mau miệng, người thì chậm nói, người thì mạnh bạo, người thì nhút nhát: “Bá nhân bá tánh”, trăm người thì có trăm tính cách khác nhau. Vì thế, mỗi người phải phát huy ưu thế của mình, và tận dụng nó trong việc giúp đỡ anh em mình cái mặt yếu kém của họ, không được ỷ vào ưu điểm Chúa ban mà lên mặt tự phụ khinh thường người khác.
Hơn nữa nhân vô thập toàn, không ai là hoàn hảo, tuyệt đối không bao giờ sai lầm hay thiếu sót. Trái lại, còn thường xuyên lầm lỗi và thiếu sót nữa, nên chỉ bảo cho nhau, góp ý xây dựng cho nhau, sửa lỗi lẫn nhau là một điều cần thiết. Đây là một cách cư xử rất khó khăn, rất phức tạp, đòi hỏi phải hết sức tế nhị và phải làm.
Chúa Giêsu hiểu biết tâm lý con người, Ngài biết rõ chúng ta yếu đuối, hay lầm lỗi, thiếu sót và cần sửa chữa, nên Ngài đã chỉ dạy chúng ta một cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị. Đó là khi chúng ta muốn sửa lỗi ai, chúng ta phải ý tứ làm từng bước như Chúa chỉ dạy trong bài Tin Mừng hôm nay, thì mới kết quả và thành công.
Bước thứ nhất hay việc đầu tiên là gặp gỡ riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi. Gặp gỡ và nói chuyện với nhau trong tình thân ái, kín đáo và chân thành. Gặp gỡ như vậy, một đàng sẽ giúp chúng ta hiểu nhau, thông cảm nhau và biết đúng sự thật hơn. Đàng khác, sẽ giúp cho người sai lỗi thấy được lỗi lầm của họ để sửa chữa và phục thiện.
Sau khi đã gặp gỡ riêng rồi mà vẫn không kết quả, người sai lỗi vẫn cứng lòng, tự ái, cố chấp, thì mời một hoặc hai người làm nhân chứng và cùng góp ý. Nhiều người nhiều bộ óc, tất nhiên sẽ uy thế hơn, cao kiến hơn, vừa minh chứng cho lòng thành thật của chúng ta, vừa cho người sai lỗi thấy rõ và phải nhìn nhận điều sai trái của họ.
Nếu vẫn không kết quả, khi ấy mới đưa ra cộng đoàn hay đưa đến người có thẩm quyền để giải quyết. Chúng ta hãy nhớ đưa ra người có thẩm quyền trong Giáo Hội chứ không phải người có thẩm quyền ngoài xã hội. Tức là chúng ta không bao giờ kiện cáo nhau để đem nhau ra tòa án phần đời. Chẳng hay ho gì mà còn mang tiếng cho đạo nữa. Chúng ta cũng phải nhớ là chỉ sau khi đã gặp gỡ riêng và nhờ người khác góp ý rồi mới đưa tới người có thẩm quyền. Có những người đưa ngay vụ việc tới người có quyền, hoặc là để ton hót, lấy điểm hoặc là vì lòng ghen ghét, ganh tị, tức giận, như thế sẽ làm tổn thương tự ái và hậu quả sẽ tệ hại hơn.
Nếu đã làm hết cách theo khả năng mà vẫn không kết quả, thì hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho lòng nhân từ của Thiên Chúa là cầu nguyện cho họ. Chúng ta cầu nguyện và cộng đoàn cầu nguyện, chắc chắn lời cầu nguyện ấy sẽ được Chúa nhận lời. Chúng ta hãy nhớ: việc góp ý xây dựng hay sửa lỗi nhau phải nhằm mục đích là để giúp họ trở nên tốt hơn. Chúng ta phải sửa lỗi anh em trong tình mến chứ không phải vì lòng tự ái, không phải vì ganh tị, lại càng không phải vì tức giận, thù ghét.
Đàng khác, chúng ta cũng phải để ý đến vấn đề tâm lý nữa, tức là để ý đến thời gian, không gian và cách cư xử nữa. Có việc chúng ta góp ý lúc này thì không kết quả, nhưng lúc khác lại có kết quả, hoặc chỗ này thì được việc, nhưng chỗ khác lại thất bại. Nhất là cách hành sử: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “Lời ngọt thì lọt đến xương”. Như thế sẽ không làm tổn thương lòng tự ái hay danh dự của người sai lỗi và họ dễ dàng phục thiện hơn.
Vì vậy, về phía người góp ý hay sửa lỗi phải ý tứ: đừng bao giờ đứng vai trò quan tòa xét đoán anh em. Có khi một điều không đáng gì, nhưng chúng ta lại quan trọng hóa hay phóng đại to ra, khiến vấn đề trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Như thế, người sai lỗi sẽ rút lui về chính mình, căm hờn và tức giận, rồi phản ứng mạnh hơn.
Còn về phía người được góp hay sửa lỗi, thì phải bình tĩnh và khiêm tốn. Đây là một dịp ơn Chúa đến với mình, đây là một lần Thiên Chúa quan phòng gửi sứ giả của Ngài đến với mình, nên hãy khiêm tốn đón nhận. Bởi vì ai phản đối ta, ai chê trách ta, mà chê phải, trách đúng, thì đó là ông thày dạy ta mà ta không phải trả tiền, như những câu danh ngôn mà các nhà giáo dục thường nói: “Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta. Ai chê ta mà chê đúng, đó là thầy ta. Ai nịnh hót ta, nịnh hót cả điều sai lỗi của ta, đó là thù địch của ta. Ai phản đối ta, mà phản đối đúng, đó là thày dạy ta mà không lấy tiền”.
Sau hết chúng ta nhớ, trước khi góp ý xây dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi sáng và hướng dẫn: “Lạy Chúa, trước khi con sửa lỗi anh em, xin Chúa nhắc con hãy nhớ rằng: con cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng hơn họ nữa. Xin Chúa, nếu vì bổn phận, con phải sửa lỗi, xin cho con biết lấy tinh thần bác ái yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán anh em. Xin cho con luôn biết rộng lượng bao dung với người khác, vì con biết chắc rằng Chúa vẫn tha thứ cho con”.
78. Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Suy niệm, Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
KỶ LUẬT CỦA GIÁO HỘI VÀ SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC KITÔ
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của Tin Mừng Mátthêu, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến “người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
3.- Vài điểm chú giải
– Người anh em (15): Từ ngữ adelphos này nói về những người có liên hệ huyết thống trong một gia đình, nhưng cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong một cộng đoàn thiêng liêng. Cũng như các “con cái Israel” thuộc về cùng một “nhà”, các môn đệ Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng” (x. 1 Pr 2,5).
– phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ “làm cớ cho sa ngã” (skandalizô; cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của “người anh em”.
– sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là một lời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi 19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự (“Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: “Không ai được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).
– chinh phục (15): Động từ kerdainô có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì. Thường các bản văn Hy Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh phục một con người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
– không nghe (17): Động từ parakouô có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ; nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe; không vâng lời”.
– một người ngoại… một người thu thuế (17): Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh thần phục thiện.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như một hiệp hội các cá nhân, trong đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
Đi trước các lời dạy về cách chăm sóc một người anh em có lỗi là một đoạn cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi một tín hữu, cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có một giá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không một ai bị Thiên Chúa quên lãng một lúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê). “Tội” là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của người anh em (“đối với anh; chống lại anh”, eis se). Tuy thế, “tội” mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng đến toàn thể Hội Thánh.
Về mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv 19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: “chinh phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã ban cho cộng đoàn.
Tính cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia). Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt, nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lạp trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu, nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố một phán đoán dứt điểm, nhằm nói rằng một hành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc về một cộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm một quy tắc, mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu (x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi (18)
Rất có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có trước Mt. Nếu Hội Thánh có thể công bố một phán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t; 10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội Thánh.
* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin) tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở cuối lênh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiẹn diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ không bị bỏ mặc một mình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là “danh Đức Giêsu”. “Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; “nhân danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là một cuộc quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người. Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm một con chiên lạc, Thiên Chúa cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó của Thiên Chúa, không một ai được phép nói về một người anh em: Tôi không quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2. Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành một cộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt 4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu (x. 18,15). Đàng khác, một nhóm lo lắng săn sóc một anh em có tội (c. 16) thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt 18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất”. Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ một người anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho một người anh em chị em đang rơi vào tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu, một sự trung thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
4. Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên một trong Thân Mình Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
79. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ANH EM SỬA LỖI NHAU
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Chữ “anh em” có một nghĩa đặc biệt trong Giáo Hội sơ khai không?
2. Làm sao giải thích lời nói nặng nề của Chúa Giêsu: “Hãy kể như ngươi ngoại và ngươi thu thuế” (c. 17)?
3. Đoạn văn này nói về các lỗi công khai hay riêng tư? Nặng hay là nhẹ?
4. Việc nại đến “hai hay ba nhân chứng” (c. 16) có đưa đến hậu quả biến việc sửa bảo riêng tư thành một phiên tòa xử kín không?
5. Đâu là ý nghĩa của câu “ngươi đã lợi được anh em ngươi”?
6. Phải chăng đoạn văn này có thể dùng làm nền tảng Thánh Kinh cho Tôn giáo Pháp đình?
7. Đâu là ý nghĩa tổng quát của việc anh em sửa lỗi nhau, nếu được đặt lại trong toàn bộ văn mạch của chương 18?
8. Hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Giêsu cho ta thấy trong các câu này phải chăng có tính pháp lý?
1. Chủ đề chính yếu của đoạn văn trước (18, 1- 14) là ý niệm “kẻ nhỏ”, bây giờ ý niệm “anh em” lại nằm hàng đầu trong lời giảng huấn của Chúa Giêsu.
Chữ “anh em”, cũng như chữ “kẻ nhỏ” và “kẻ nghèo”, phải được hiểu theo hai nghĩa. Nó không những chỉ tình họ hàng liên kết các người con của cùng một cha theo máu huyết, nhưng còn biểu thị các mối tương quan nối kết mọi phần tử của cùng một cộng đoàn thiêng liêng. Như “con cái Israel” đều thuộc về một “nhà”, thì các môn đồ Chúa Kitô, được qui tụ “nhân danh Người”, cùng lập thành một “nhà thiêng liêng” (1Pr 2, 5). “Chúng con hết thảy đều là anh em”, Chúa Giêsu sẽ nói với họ như thế (23,8). Tình huynh đệ này đặt cơ sở trên mối liên hệ siêu nhiên mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập, trong bản thân Người, giữa Chúa Cha và mọi kẻ thuộc về Người (12,48; 28, 10). Và bạn từ trên sẽ trở thành danh xưng thông dụng nhất để chỉ các Kitô hữu trong Giáo Hội sơ khai (Cv 9, 17; 15, 23; 16, 40; v.v…;Rm 14, 10; 1Cr 15, 6; Cl 1, 2 v.v…). Vì tình huynh đệ vốn tạo nên mối giây nối kết các phần tử của cộng đoàn họ được phát xuất từ việc họ cùng tái sinh và cùng được làm con cái Thiên Chúa (Rm 12, 19; 1 Pr 1, 22; 1 Ga 4, 20- 21).
2. Vì đến từ một người anh em nên việc trách cứ không phát xuất từ ý thức cá nhân của kẻ khác, nhưng từ người, với tư cách là anh em, đại diện cho thực thể Giáo Hội, được qui tụ nhân danh Chúa Giê-su và quanh Người. Bởi thế, điều thoạt tiên có vẻ như một thủ tục nghiêm trị và tuyệt thông, nếu đọc các câu 15- 18 độc lập với văn mạch của chúng, thực ra chỉ là canh thức của một thủ tục tố tụng nhân ái; quả vậy, ba lần vận động ấy phải được hiểu, dưới ánh sáng của dụ ngôn đi trước, như là một cố gắng phục hồi lại trong mối hiệp nhất với cộng đoàn kẻ đã tách lìa ra. Đây là cách thể hiện lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa theo thủ tục nhân loại.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả, đó là kiểu nói hãy kể như người ngoại và người thu thuế” (c. 17) mà mới thoạt nghe vẻ đầy khinh miệt. Làm sao giải thích việc thay đổi ngôn từ này nơi Đấng đã từng ngây ngất trước niềm tin của các người ngoại đạo (8, 10 ; 15, 26), hay đúng hơn của “chư dân” (othnikos : x. 5, 47 ; 6, 7), nơi Đấng mà thiên hạ tố cáo là đã ăn uống với những thu thuế và quân tội lỗi (9 ; 11) ? Kỳ thực, ở đây Chúa Giêsu gọi “người ngoại và người thu thuế” những kẻ mà các tín hữu đều bó tay bất lực không tài nào nhủ bảo khuyên răn. Đối với người anh em “chẳng màng nghe” ấy (parakouein: c.17), Kitô hữu không có trách nhiệm trực tiếp nữa, chỉ còn việc giao họ lại cho bàn tay Chúa Cha, vì thấy mình chẳng có cách nào để giúp họ hơn được. Thành thử ở đây Giáo Hội xuất hiện như một thực thể khác biệt với trần gian, theo kiểu dân Do thái khác với chư quốc, với dân ngoại là những kẻ không chia sẻ niềm tin của họ, và khác với hạng thu thuế, những kẻ bất lương nổi tiếng từng làm hoen ố trước mặt dân ngoại cái đức tin này.
Vì thế Giáo Hội (hạn từ trở lại ở đây như đã xuất hiện ở 16, 18) trước tiên là một cộng đoàn trong đó ai nấy đều có trách nhiệm về đức tin của anh em mình. Riêng đối với những kẻ tách lìa ra khỏi, bất chấp mọi cố gắng khuyên nhủ của anh em, người ta chỉ còn biết phó dâng cho lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì chẳng phải là sau cùng vị Mục tử lên đường tìrn kiếm con chiên lạc đó sao (c. 12). Cho nên rốt cuộc, cộng đoàn này không luỹ thuộc máy vào các nỗ lực nhân loại, vốn có thể kết thúc bằng một thất bại, cho bằng vào Chúa Cha trên trời.
3. Nhưng trong đoạn văn này, người ta đề cập đến các lỗi công khai (chú giải của BJ, chú thích) hay riêng tư thầm kín? Thưa hình như thủ tục Chúa Giêsu ấn định liên hệ tới các lối ghi nhận trong đời sống riêng tư; điều này phù hợp với Gl 6, 1 và Gc 5, 19. Dù sao, rõ ràng là bản văn đang nghiên cứu không nhắm đến trường hợp làm gương xấu công khai, là những trường hợp mà, theo 1Cr 5, 1- 5 và 1Tm 5, 20, thuộc về kỷ luật Giáo Hội. Đây là những “tội thầm kín” mà một người anh em chẳng may biết đến. Đàng khác, chính sự tiệm tiến của thủ tục, bắt đầu bằng việc hội kiến đơn giản giữa hai người, hình như nhắm làm sao giữ kín điều xấu chừng nào có thể và bảo toàn danh dự của người anh em. Sau cùng đây là những tội nặng mà tự bản chất, đứa đến việc loại ra khỏi cộng đoàn, như quyết định tạm thời của Giáo Hội cho thấy.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nếu anh em ngươi trót phạm tội”: câu giả thiết này từ môi miệng Chúa Giêsu thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giêsu khuyên kẻ chứng kiến lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi về “cọng rác và cái xà” (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) – cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian” – cho thấy rõ một công việc như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối. Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của Chúa Thánh Thần? “Ngươi đã lợi được anh em người”. Không phải “lợi được” một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.
“Hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa”: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.
“Hãy thưa với cộng đoàn (Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng “Giáo Hội”. Câu này, với 16, 18, là hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18). Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ “chẳng màng nghe Giáo Hội”, nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự không còn là “anh em” nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.
“Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc”: Việc chuyển đột ngột từ số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ “các ngươi”. Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2. 10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.
“Nếu hai người trong các ngươi “: Thoạt nhìn, giây liên lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em, thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa Giêsu”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ”, trong việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.
“Ta ở giữa họ”: Trong sách “Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ” (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah (tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở”) thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40, 34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.
KẾT LUẬN
Đoạn văn này cho ta thấy rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.
Ngoài ra đoạn này còn cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không ngừng hân hoan trên cõi thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác ái.
Vì ta thấy chúng đi tiếp sau câu: “Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi một người nào trong những kẻ nhỏ này”. Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng. Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công việc của Chúa.
2. Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ, thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa. Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. “Không ai là một hòn đảo”….
3. Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận lời vì Người đã long trọng tuyên bố: “Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời con” (Ga 11, 42)?
80. Chú giải theo Fiches Dominicales
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.
Sau lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền “Cêsarée Phiìipphê” đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc âm Matthêu “diễn từ về đời sống Giáo Hội”. Những hướng dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của “Cha trên trời”.
J. Potin báo trước: “Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội “của ông”, nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ “bé nhỏ” tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những “con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người “anh em” đã “phạm tội”.. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.
2….Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau.
Sửa đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người “anh em” đã “phạm tội” này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để “chinh phục”người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: “trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội”. Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, “ta hãy coi họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: “Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: “Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành việc “sửa lỗi anh em” là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động “nhân danh” Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: “Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người đó “vấn đề của nó” và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị khi nói sau lưng họ…
Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội… Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.
2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong chương 18 mà ta quen gọi là “diễn từ về cộng đoàn các môn đệ”, là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó…” (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn – Chính Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó – nhưng không phải vì thế bỏ cuộc: “nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi… nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội…” (Mt 18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc như người thu thuế…. Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ “ngoại đạo” chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về “những người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như “kẻ ngoại đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa “không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: “Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm: “… Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau” và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.
81. Suy niệm của Noel Quession
Đức Giêsu bảo các môn đệ:”Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình”.
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là những giáo huấn về đời sống “cộng đoàn”.
“Cộng đoàn” mà chắc chắn Matthêu nghĩ đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất thực tế của Đức Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội không phải là một cộng đoàn gồm những “người thanh khiết các thánh”, nhưng những “người tội lỗi”. Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu rằng “các Kitô hữu không tốt hơn những người khác”, như thỉnh thoảng người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình, nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội lỗi, sự khốn khổ của con người… kể cả Giáo Hội!”Nếu anh em của anh trót phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình…
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những “vị quản giáo mắc khuyết điểm” lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng “buộc tội” và “đè nặng” lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô “tha thứ bảy mươi lần bảy” (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em nếu người ta ” yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
“Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó…” “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo, để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được tiếng- tăm và danh dự của mình… và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn. Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ, người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là lại do Đấng là người ta đã gọi “bạn của những người thu thuế và những người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội lỗi ấy… bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8). Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” một món nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:”Dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh “thần học”. Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong toan tính cứu vớt anh em mình… Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa (trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi” mà Đức Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa. Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa “đất” và “trời” có sự tương giao?
Giữa “thời gian” và “vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này… được “cầm buộc” hoặc “tháo gỡ” nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời sự nóng bỏng… Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở về chủ đề về sự tương quan giữa “đất” và “trời”.
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không “nhìn thấy” kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như’ thế? Đức Giêsu đáp lại “không” với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn – Giáo Hội không phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu quả… ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được… “Nếu ở dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời”…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những người quy tụ nhân danh Người. ” ‘
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm được, Thiên Chúa làm được” (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
“Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc…”. Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
82. Cha Ta sẽ ban cho
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 18:15-20 nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được bàn đến là các trẻ nhỏ và những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ (18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn (18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ (18:21-35).
Trong đoạn nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện nhiều lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin. Có thể phân chia đoạn nầy như sau: – Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); – Quyền bính buộc tội và tha tội (c. 18); – Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20).
Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra vấn đề là phải đối xử như thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến mình. Ở đây tất cả mọi chuyện được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố cục các câu nầy như sau: – Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), – Các cách sửa lỗi (cc. 15b-17a), – Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh sử nói đến việc “phạm lỗi”, hamartano. Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizò, cho một trong những người bé mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanò + eis + một người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp ngã” là tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp đến một cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi cần đến cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn “người anh em” được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người phạm lỗi và người bị xúc phạm. Động từ elenchò là hapax trong Matthêô. Trong tin mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển trách”, elenchò, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elencho trong ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là “mở ra, trải ra, chỉ cho một người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc sửa lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouo, mang ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”, mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn là “hoán cải” (7:24; 10:14; 13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdaino, “kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26; 25:16tt). Giúp hoán cải một người anh em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc ấy cũng được kể là thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em của ngươi”.
Kết quả có thể là tiêu cực, “Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều cố gắng hơn. Phải cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc ba người, như thấy điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga 8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklèsia ở đây chỉ cộng đoàn kitô hữu địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.
Nếu cách sửa lỗi cuối cùng vẫn không đạt kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c. 15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”, nghĩa là như người chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người nầy.
Việc Matthêô kể ra đến ba giai đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết của việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết sức và bằng mọi cách đưa người anh em trở về.
Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ đối với người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu 16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình thuật trước, chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luò, “tháo” đểu ở ngôi thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu 18:18, các động từ được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15), việc sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết về tội.
Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc. 19-20)
Hai câu 19 và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”, “ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói đến “hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm” (c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm lời” (c. 19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu thêm một nguyên tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta, Đấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở trên. Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến việc một người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công (cc. 16-17) và quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói đến sự hoà hợp của các môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được Chúa Cha nhậm lời về “những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ” (c. 20). Động từ symphòneo, nghĩa đen của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý” (x. 20:3.13), aiteò ở đây có nghĩa là “cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện “gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách sửa lỗi họ mà không thành công.
Câu 20 khai triển ý tưởng việc cầu nguyện trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa giải thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô” là tụ họp để cầu nguyện, là tụ họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20 bởi Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.
Sửa lỗi người anh em phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động. Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn cứu độ.
83. Anh em sửa lỗi cho nhau.
I. Giải thích bản văn
c.15 + “Anh em”: Bài diễn từ về nếp sống cộng đoàn (chương 18) đặt cơ sở trên sự kiện là các Kitô hữu phải coi nhau là “anh em”. Thật vậy “anh em” không phải chỉ là những người cùng cha cùng mẹ với nhau, mà còn là những người cùng thuộc một cộng đoàn tín ngưỡng với nhau. Đức Giêsu sẽ nói về sau rằng “tất cả chúng con là anh em nhau” (23,8). Bởi đó trong Giáo hội khởi thủy, các Kitô hữu quen gọi nhau là “anh em” (x. TđCv 9,17 15,23 16,40 Rm 14,10 1Cor 15,6 Col 1,2).
+ Lỗi phạm: chi tiết này chứng tỏ Đức Giêsu không ảo tưởng về nếp sống cộng đoàn của Giáo hội Ngài:không phải là luôn hoàn hảo đâu, vẫn còn có lỗi phạm. Vấn đề là: bản chất của lỗi phạm ấy thế nào: lỗi kín hay lỗi công khai? lỗi trực tiếp đến ta hay lỗi không trực tiếp hại ta? TOB cho rằng đây là lỗi công khai và lỗi nặng, lỗi này không nhất thiết phải đụng chạm trực tiếp tới ta (nếu Kitô hữu chỉ can thiệp khi người khác lỗi phạm trực tiếp tới mình thì không có tinh thần cộng đoàn. Ở đây đang bàn về tinh thần cộng đoàn). Bởi vậy lối dịch “Phạm đến con” là không đúng.
+ Hãy đi sửa bảo: không nên hiểu là “đi xét đoán” vì ở Mt 7,1-5 Đức Giêsu đã khuyên môn đệ đừng xét đoán ai. Động từ ở đây là “sửa bảo” elegcho có nghĩa là cố gắng sữa chữa trong tình bác ái để thu phục 1 người có lỗi. Nói cách khác, mục đích không phải để kết án mà là để thu phục.
+ “Được lợi” (tiếng Pháp: gagner): không có nghĩa là đã thắng được 1 kẻ thù, cũng không có nghĩa là giữ được 1 người ban cho ta, mà có nghĩa giáo hội:giữ được 1 phần tử giáo hội khỏi tách rời xa giáo hội.
c 16- Đnl 19,15 “Theo miệng 2,3 nhân chứng thì việc mới vững”. Đức Giêsu trích dẫn câu này nhằm dạy ta kiên nhẫn và khôn ngoan:chớ vội 1 mình kết luận về lỗi người khác; nhờ có 2,3 người nữa thì cũng tránh được ý kiến chủ quan nhiều khi độc đoán.
c 17 – “Trình với giáo hội”:không phải cho Giáo hội lên án, mà cho GH long trọng khuyên bảo một lần nữa kẻ có lỗi hãy hối lỗi.
– “Kẻ ngoại hay người thu thuế”: Đức Giêsu không hề khinh chê 2 hạng người này. Ngài đã từng khen đức tin của 1 người ngoại (Mt 8,10 15,28), đã từng ăn chung với những người thu thuế (9,11). Vậy những chữ “kẻ ngoại và thu thuế” Đức Giêsu dùng ở đây chỉ có nghĩa là những người mà Kitô hữu bất lực không hoán cải được, không còn trách nhiệm đối với họ nữa. Một người phạm lỗi mà ngoan cố không nghe lời thân tình của 1 người bạn, của 1 nhóm bạn, và của cả tập thể Giáo hội, thì không phải GH khai trừ người đó, nhưng chính người đó do tội và do sự ngoan cố của mình, đã tự lìa khỏi Giáo hội.
c 18- Lý do giáo hội có tiếng nói sau cùng mang tính quyết định là vì GH đã được Đức Giêsu ban quyền “chìa khóa”. Vấn đề là quyền này được ban cho ai? Có người hiểu chữ “chúng con” ở đây là từng người trong GH. Lối giải thích này đã bị công đồng Triđentinô lên án. Ở Mt 16,19 quyền chìa khóa được trao cho một mình Phêrô với tư cách thủ lãnh GH. Ở đây không phải Đức Giêsu lấy lại quyền ấy từ tay Phêrô để trao cho từng phần tử GH, nhưng là trao cho tập thể GH trong tinh thần liên kết với vị thủ lãnh là người duy nhất nắm quyền chìa khóa.
– Những câu 19,20 xem ra bàn về 1 chuyện khác không ăn nhập gì với chuyện ở những câu trên. Nhưng thực ra có liên quan vì đều cùng chung tinh thần cộng đoàn:sửa lỗi nhau cùng trong tinh thần cộng đoàn, cầu nguyện cũng phải trong tinh thần cộng đoàn. Vì thế không nên hiểu chữ “hai người” theo nghĩa 1 nhóm nhỏ tách ra khỏi nhóm lớn mà được Chúa chúc lành.
II. Nhận định.
Đoạn này soi sáng ý nghĩa của tội:tội không chỉ là 1 việc cá nhân ai làm nấy chịu, mà là việc của cộng đoàn:mọi phần tử trong cộng đoàn đều có trách nhiệm về tội của 1 người trong cộng đoàn, do đó đều phải cố gắng hoán cải để người có tội không vì tội đó mà bị xa cách khỏi cộng đoàn.
Đoạn này cũng cho ta 1 hình ảnh đẹp về Giáo hội:GH là 1 cộng đoàn “anh em” trong đó mọi phần tử đều liên kết nhau trong việc sửa lỗi nhau và trong lời cầu nguyện.
84. Chúa Nhật 23 Thường Niên
PHƯƠNG CÁCH SỬA LỖI CHO NHAU TRONG CỘNG ĐOÀN
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN TÍN HỮU.
Các thành viên trong cộng đoàn Hội thánh phải tế nhị sửa lỗi cho nhau và cầu nguyện chung với nhau: Khi có ai sai lỗi, thì cần sửa lỗi lần lượt qua 4 bước như sau: Bước một là đi gặp riêng để nhắc nhở kẻ có lỗi. Nếu họ không chịu nghe thì sang bước thứ hai là đưa thêm một hay hai nhân chứng. Nếu họ vẫn cố chấp thì sang bước thứ ba la đưa họ ra trước cộng đoàn nhờ xem xét. Nếu họ vẫn cố chấp không muốn nghe cộng đoàn thì sang bước thư tư là kể họ như người ngoại đạo và phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. Lời cầu nguyện nếu muốn được Chúa chấp nhận thì cần cầu nguyện chung với cộng đoàn, vì Chúa Giêsu hứa sẽ hiện diện và ban ơn khi hai ba người hiệp nhau lời cầu xin nhân danh Người.
CHÚ THÍCH:
– C 15-16: + Người anh em: Anh em nói đây là anh em cùng một cộng đoàn đức tin (x. Mt 23,8; 28,10). + Phạm tội: Không nhất thiết phải là tội xúc phạm đến người sửa lỗi, nhưng là những lỗi nặng nề, công khai, gây gương mù gương xấu và làm tổn thương cho sự hiệp nhất cộng đoàn. Qua đó cho thấy Hội thánh không chỉ gồm những người tốt lành hoàn hảo, mà còn có cả những tội nhân xen lẫn như dụ ngôn cỏ lùng đã cho thấy. + Hãy đi sửa lỗi nó: Ở đây Đức Giêsu dạy phải đi sửa lỗi cho kẻ có tội do đức bác ái đòi hỏi. Vì mỗi thành viên trong cộng đoàn đều có trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức của anh em mình. Sự sửa lỗi này không mâu thuẫn với lời dạy tránh xét đoán anh em và đừng đòi lấy cái rác ra khỏi con mắt anh em, đang khi có cái xà trong con mắt mình (x. Mt 7,1-5). Như vậy sửa dạy không phải là khiển trách miệt thị kẻ có tội, nhưng để giúp tội nhân nhận ra lỗi của mình và thành tâm sám hối. + Một mình anh với nó mà thôi: Đây là sửa lỗi của một cá nhân, nhằm tôn trọng và giữ thể diện cho kẻ có lỗi. Nếu cách này không hiệu quả thì mới tiếp tục các cách tiếp theo. + Được món lợi là người anh em mình: Món lợi không có nghĩa là “lời” thêm được một người bạn hay chiến thắng được một đối thủ. Nhưng là giúp cho Hội thánh khỏi bị mất một thành viên. + Còn nếu nó không chịu nghe thì hãy đem theo một hay hai người nữa: Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải có của người đi sửa lỗi khi đối diện các tội nhân cứng lòng cố chấp. Việc đem theo một hay hai người nữa là để giúp tội nhân ý thức hơn về tội của mình, như luật Mô-sê dạy: “Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi nào. Phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét” (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Đức Giêsu nói đây không phải là nhân chứng buộc tội, nhưng là những người có uy tín, để giúp tội nhân sám hối sửa lỗi.
– C 17-18: + Đi thưa Hội thánh: vì Hội thánh đã được Chúa ban cho quyền cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 18,18). Đưa ra Hội thánh không phải để xét xử, nhưng để tội nhân có dịp hoán cải hầu xứng đáng được ơn giao hòa. + Kể nó như một người ngoại: Nếu kẻ có tội có thái độ cố chấp không muốn sửa lỗi, thì sẽ bị coi là “người ngoại đạo hay kẻ thu thuế”, nghĩa là người lạc giáo. Từ nay Hội thánh không có trách nhiệm trực tiếp đối với họ và chỉ còn biết phó thác họ cho lòng Chúa thương xót. + Dưới đất anh em cầm buộc những điều gì: Đức Giêsu trao cho Nhóm Mười Hai cũng một thứ quyền cầm buộc và tháo cởi trao cho tông đồ Phê-rô (x. Mt 16,19). Qua đó cho thấy Hội thánh có quyền thiết lập luật lệ cho các tín hữu. Khi trao quyền cầm buộc tháo cởi cho Nhóm Mười Hai, Đức Giêsu không bãi bỏ quyền đã trao cho tông đồ Phê-rô. Nhưng Người chỉ muốn các môn đệ phải liên kết với Phê-rô là đầu khi ra các phán quyết về đức tin và luân lý. + Dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì…: Mọi phán quyết của Hội thánh ở trần gian về đức tin và luân lý mà được công đồng bàn thảo biểu quyết và được Đấng kế vị thánh Phê-rô công bố, thì sẽ Chúa ban cho ơn bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm, và được Thiên Chúa trên trời phê chuẩn.
– C 19-20: + Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em họp lời cầu xin bất cứ điều gì: Lời cầu nguyện riêng của mỗi người trong phòng kín là cách cầu nguyện khiêm tốn đẹp lòng Chúa (x. Mt 6,6). Nhưng lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại đẹp lòng Chúa hơn và dễ được Chúa chấp nhận hơn. Cầu nguyện chung là một phương thức duy trì đức ái và sự hiệp nhất cộng đoàn. Khi hội họp, các tín hữu cần lưu ý hai điều quan trọng: một là phải hội họp nhau trong tình bác ái và sự hiệp nhất. Hai là phải nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là nhằm xây dựng Hội thánh của Chúa và làm cho Tin mừng ngày một lan rộng. + Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy: Đây không phải là họp nhau mang tính thế tục, nhưng họp nhau nhân danh Đức Giêsu, để được Người dạy dỗ với ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. + Có Thầy ở đấy với họ: Trong thời Cựu ước, Đức Chúa luôn hiện diện giữa dân Người qua hình cột mây đậu trên Nhà Tạm che nắng ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (x. Xh 40,34-38). Người cũng hứa sẽ hiện ra nói chuyện với dân Ít-ra-en trên nắp Hòm bia Giao ước (x. Lv 16,2). Đến thời Tân ước, không những Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện mỗi khi cộng đoàn họp nhau cầu nguyện, mà cả những khi họ họp nhau nhân danh Người. Người hiện diện để giúp họ xây dựng tình yêu thương hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau, hòa giải những mối bất hòa chia rẽ và duy trì sự hiệp thông giữa cộng đoàn.
CÂU HỎI:
1) Phải chăng Nước Trời hay Hội thánh ở trần gian chỉ gồm những thành phần tốt lành thánh thiện? 2) Các tín hữu cần đối xử thế nào đối với những thành viên mắc phải lỗi lầm nghiêm trọng? 3) Cần phải sửa lỗi cho nhau qua mấy bước? 4) Tại sao phải thưa kẻ có tội với Hội thánh? 5) Hội thánh ra vạ tuyệt thông cho những loại tội nhân nào và nhằm mục đích gì? 6) Phải chăng ở đây khi cũng trao cho Nhóm Mưới Hai quyền cầm buộc và tháo cời (x Mt 18,18), Đức Giêsu gián tiếp truất quyền đã trao cho Tông đồ Phê-rô trước đó (x Mt 16,19)? 7) Tại sao lời cầu nguyện chung của cộng đoàn lại có giá trị hơn lời cầu nguyện riêng của cá nhân ở nơi kín đáo? 8) Đức Giêsu hứa sẽ hiện diện giữa cộng đoàn trong những trường hợp nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời Chúa: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình” (Mt 18,15).
2. Câu chuyện: Ngôn sứ Nathan sửa lỗi cho vua Đavít
Ngày nọ Đức Chúa đã sai ngôn sứ Na-than đến với vua Đa-vít. Ông vào gặp vua và nói với nhà vua: “Có hai người trong cùng một thành, một người giàu và một người nghèo. Người giàu thì có rất nhiều chiên dê và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó và nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông, ông coi nó như một đứa con gái của ông. Một hôm người giàu có khách đến thăm. Ông ta không bắt chiên dê hay bò của mình mà lại sai gia nhân đi bắt con chiên cái của người nghèo kia mang về làm thịt đãi khách”. Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với lối hành xử của kẻ giàu có ấy và nói với Na-than rằng: “Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và vì đã không có lòng thương xót”. Bấy giờ Na-than mới nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en. Chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời Ta mà làm điều dữ trái mắt Ta? Ngươi đã dùng gươm đâm chết U-ri-gia người Khết. Vợ của y thì ngươi đã cướp lấy làm vợ ngươi. Còn chính y thì ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của U-ri-gia người Khết làm vợ ngươi”. Đức Chúa phán thế này: “Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật”. Bấy giờ vua Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi thật đã đắc tội với Đức Chúa” (x 2 Sm 12,1-13).
3. Suy niệm:
Hội thánh gồm các tín hữu có đức tin và đã được thánh hóa nhờ các bí tích. Nhưng bao lâu còn ở trần gian, các tín hữu cũng vẫn bị sai lỗi như bao người khác. Họ có thể sai lầm và phạm phải nhiều tội lỗi, gây gương mù gương xấu và nên cớ vấp phạm cho anh em lương dân. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy các bước sửa lỗi cho anh em, để vừa giữ được đức bác ái, lại vừa giúp tội nhân tu sửa ngày một hoàn thiện hơn.
1. Sửa lỗi là một hành vi yêu thương:
Đức Giêsu dạy các tín hữu không được im lặng khi thấy anh chị em mình có lỗi, nhưng phải mạnh dạn và thẳng thắn góp ý, giúp họ nhận ra lỗi lầm để sửa đổi (x. Mt 18,15). Vì “Thiên Chúa không muốn cho những kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống”.
– Nhiều khi chúng ta không dám thẳng thắn sửa lỗi tha nhân vì sợ chạm tự ái khiến họ tức giận, sợ bị mất quyền lợi hay sợ bị trả thù nên đành giữ thái độ im lặng. Im lặng như thế là đồng lõa với tội ác và kẻ xấu sẽ “được đằng chân lân đằng đầu”.
– Cũng cần phân biệt giữa khiêm tốn sửa lỗi với thái độ tọc mạch “vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết”, hay thái độ lên mặt “thầy đời” khi mình chưa đủ tư cách sửa lỗi tha nhân, như người Việt có câu: “Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Chính Đức Giêsu đã quở trách các Biệt phái và luật sĩ về thái độ đạo đức giả này: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (Mt 7,3-5).
– Ngoài ra, sửa lỗi còn là một việc làm thể hiện tình yêu thương, giống như bổn phận của cha mẹ là phải răn dạy con cái: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”; hoặc: “Sinh con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn”. Thấy một người đi vào con đường dẫn đến đầm lầy nguy cơ bị sụt lún mà im lặng không cảnh báo để họ phòng tránh thì đó chính là một tội ác. Thấy một người làm một điều sai lỗi, có thể gây thiệt hại lớn cho bản thân, gia đình và xã hội mà ta không chịu can ngăn thì cũng là một trọng tội như luật pháp đã qui định: “Tội lỗi bổn phận gây hậu quả nghiêm trọng”!
2. Sửa lỗi lẫn nhau là tích cực xây dựng hiệp nhất cộng đoàn:
Góp ý sửa lỗi anh em phải do tình thương thôi thúc. Nhưng bản thân mỗi người chúng ta cũng cần được người khác sửa lỗi mới có hy vọng nên hoàn thiện. Một cộng đoàn trưởng thành là khi phát hiện có điều gì sai trái thì các thành viên sẽ liệu cách sửa lỗi cho nhau. Lời góp ý phải phát xuất do động lực yêu thương, chứ không do lòng ganh ghét thù hằn cá nhân. Mỗi người cần biết khiêm tốn lắng nghe các góp ý của anh em, thậm chí còn phải nghe cả những lời phê bình chỉ trích của những kẻ đang thù ghét chống lại mình nữa.
Nhiều người nghĩ rằng: Hãy “cố chịu đấm ăn xôi”, ráng chịu đựng những lời phê bình mà không thực tâm muốn hoán cải. Từ đó sẽ dẫn đến tình trạng đối xử với nhau “Bằng mặt chứ không bằng lòng” và bầu khí cộng đoàn bị ô nhiễm. Trái lại, nếu mọi người đều ý thức nhân vô thập toàn, để khiêm tốn nhận lối và giúp nhau sửa lỗi, thì sẽ tr ánh được gương mù gương xấu… Cộng đoàn sẽ ngày một an vui, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa do có Chúa hiện diện như Người đã nói: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. (Mt 18,20).
3. Phải sửa lỗi cho nhau như thế nào?
Giống như bác sĩ giải phẫu một khối u ác tính. Nếu thiếu kinh nghiệm hay thao tác nhanh ẩu không đúng kỹ thật thì không những không chữa lành được khối u mà còn có nguy cơ làm cho khối u bị “di căn” gây thiệt hại lớn hơn cho bệnh nhân. Cũng vậy, sửa lỗi cho anh em đòi chúng ta phải theo một số nguyên tắc như Đức Giêsu đã đề ra trong Tin mừng hôm nay là phải tế nhị, kín đáo và kiên nhẫn.
+ Tế nhị: Phải đặt mình vào hoàn cảnh của người bị sửa lỗi, để biết khi nào nên nói và nói như thế nào để người bị sửa lỗi không bị chạm tự ái và sẵn sàng hợp tác tu sửa.
+ Kín đáo: Là phải góp ý riêng, không để cho người khác biết, hầu tránh cho kẻ có lỗi khỏi mặc cảm xấu hổ và bị người khác khinh thường xa lánh.
+ Kiên nhẫn: Là không nóng vội và đừng đòi phải có kết quả trước mắt, nhưng biết kiên nhẫn chờ đợi để kẻ có lỗi có thêm thời gian suy nghĩ như người ta thường nói: “Mưa dầm thấm lâu!” hoặc “Dục tốc bất đạt!”.
4. Cụ thể các bước sửa lỗi cho anh em theo lời Chúa dạy:
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã dạy các môn đệ về bốn bước khi sửa lỗi cho anh em như sau:
Một là đi gặp riêng giữa ta và người có lỗi.
Hai là nếu họ không nhận lỗi thì sẽ đi chung với một hoặc hai nhân chứng, không phải để làm áp lực mà để mọi việc được sáng tỏ và khách quan hơn, nhờ lời phân giải của các nhân chứng. Bước này gọi là “ba mặt một lời”.
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe, thì tiến tới bước thứ ba là đưa kẻ có lỗi ra trước cộng đoàn. Không phải để xét xử kết án, nhưng để nhờ thế giá của cộng đoàn mà kẻ có lỗi sẽ dễ hồi tâm tu sửa (x. Mt 18,20).
Nếu họ vẫn cố chấp không nghe cộng đoàn, thì sang bước cuối cùng là tách họ ra khỏi cộng đòan Hội thánh, để họ không có điều kiện tác hại đến cộng đoàn. Tương tự như trường hợp một bàn chân bị hoại tử, nếu không kịp thời xử lý thì tình trạng họai tử sẽ ngày càng nặng hơn lan sang các bộ phận khác. Vì thế nếu sau một thời gian không khỏi, bác sĩ điều trị sẽ quyết định “đọan chi”, nghĩa là loại bỏ phần bị hoại tử tới khớp cổ chân cổ tay hay đầu gối… để tránh tình trạng hoại tử ngày một lây lan. Những tội nhân cố chấp trong sự sai trái về đức tin và luân lý sẽ bị coi như “dân ngoại hay người thu thuế”, nghĩa là không còn thuộc về Hội thánh nữa. Từ đây Hội thánh không chịu trách nhiệm đối với họ, mà chỉ còn biết phó thác họ cho lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa.
4. Thảo luận:
1) Bạn nên phản ứng thế nào khi bị người khác phê bình về các hành vi sai lỗi của bạn? 2) Cụ thể khi làm việc trong một công sở hay công ty xí nghiệp mà cấp trên tham nhũng, chúng ta nên làm gì để vừa tránh bị họ cô lập đào thải, đồng thời cũng giữ được sự công minh chính trực của người tín hữu môn đệ Đức Giêsu?
5. Nguyện cầu:
– Lạy Chúa Giêsu. Xưa Chúa đã từng có các người bạn thân là 3 chị em gia đình ở Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,5.11). Chúa cũng không coi các môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn nghĩa thiết, để tâm sự vui buồn với các ông (x. Ga 15,15). Hôm nay, chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con có những người bạn thân, để nâng đỡ chúng con trên bước đường đời.
– LẠY Chúa. Dù giữa chúng con có những khác biệt, nhưng xin Chúa ban cho chúng con hiệp nhất nên một trong tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết thật tình yêu thương nhau, biết nâng đỡ an ủi nhau mỗi khi bị thất bại, biết động viên khen ngợi nhau trong những thành công, và nhất là sẵn sàng góp ý xây dựng để cùng nhau thăng tiến. Xin cho chúng con trở nên những môn đệ đích thực của Chúa, nhờ việc năng học hỏi suy niệm Lời Chúa, nhờ đó, chúng con có thể trở thành bạn hữu của anh em.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
85. Tế nhị – Huệ Minh
Kính thưa Cộng Đoàn
Con người thì làm rất nhiều việc. Và người ta vẫn thường nói là: Bàn tay ta làm nên tất cả, với sức người sỏi đá cũng thành cơm.
Đúng cái khả năng con người, nó đối diện với tất cả cái khó khăn cuộc sống, và đặc biệt đấu tranh sinh tồn. Con người có cái bản năng sinh tồn rất cao, nhưng mà một trong những điều khó, con người khó làm và có thể nói thẳng là: kết cuộc không làm được. Đó là để cho người khác đi sửa lỗi của mình. Bởi vì, đơn giản mỗi người sinh ra ai cũng có một cái tôi rất lớn. Không chịu thua ai và không chịu chấp nhận mình có lỗi bao giờ. Và tìm đủ mọi cách để mình biện luận, và mình cho mình rằng tốt hơn người khác, để mình có thể kết án người khác một cách rất nhẹ nhàng.
Có một người ví von cái hình ảnh rất hay: Mỗi một người có hai cái ba lô, một cái đằng trước, một cái đằng sau. Một cái đằng trước là chứa đựng những công đức, những việc lành, những việc tốt của người đó. Còn ba lô phía sau là những tội lỗi những yếu đuối của phận người. Và trên con đường xếp hàng đi về thiên đàng, người trước kẻ sau, và không ai thấy được cái lỗi của mình, và chỉ thấy toàn là những nhân đức, những việc tốt đẹp của mình. Và buồn cười rằng, người ta lại thấy cái thiếu sót của người khác rất rõ ràng. Bởi vì, cái túi xấu, cái tội lỗi chình ình ngay trước mắt. Và không ai có thể sửa lỗi mình được. Bởi vì mình đâu có lỗi! Mình là thắng mà, mình là nhất mà!
Thế nhưng rồi, ngày hôm nay, Chúa Giêsu rất gần gũi với cuộc đời con người. Chúa Giêsu rất bình dị với con người. Chúa Giêsu rất nhẹ nhàng và Chúa Giêsu rất tinh tế. Chúa Giêsu gợi lên cho các môn đệ cái cung cách hành xử, cái cung cách tế nhị: Nếu anh em ngươi lỗi phạm, thì hãy sửa dạy riêng nó mà thôi!
Nếu mà nó nghe ngươi rồi thì tốt rồi! Còn nếu mà nó không nghe nữa, thì kêu thêm một vài nhân chứng nữa! Và nếu mà nó không nghe nữa hãy trình với cộng đoàn.Và nếu mà nó không nghe nữa thì coi như người ngoại giáo hay là người thu thuế. Chúa Giêsu gợi lên cho con người ta cách hành xử ở từng cấp bậc nhẹ nhàng.
Giữa mình với người bạn, giữa mình với đối phương, rồi giữa mình với vài ba người, giữa mình với cộng đoàn. Nhưng mà dường như: Lời Chúa Giêsu dạy, chúng ta thấy, chúng ta thi hành ngược lại.
Chính bao giờ, chúng ta can đảm để đi sửa lỗi người anh em với riêng ta. Nhưng mà, chưa chi hết người ta vẫn nói là, chuyện trong nhà chưa tỏ, ngoài ngỏ đã hay. Trong một cộng đoàn, trong một gia đình nhỏ hay bị cái bệnh này. Ai cũng muốn đi khoe lỗi của người khác cho người ngoài nghe. Chính vì vậy gia đình và cộng đoàn nó xáo trộn. Bởi vì, người trong nhà đi mét tội người trong nhà với người khác, chứ làm gì người ngoài biết được tội của người trong nhà.
Ví dụ: Trong một gia đình có 4, 5 người anh chị em với nhau, họ hàng với nhau, có cái gì đó lục đục với nhau thì chỉ có trong nhà biết thôi! Nhưng được một cái ơn rất là hàng xóm biết, công ty biết, bạn bè biết. Mà lẽ ra cái chuyện nó tế nhị vô cùng.
Trong nhà tu cũng vậy! Năm ba người đang ở chung với nhau. Có chuyện gì người ta vẫn thường nói: ông bà đóng cửa dạy nhau. Nhưng mà nó buồn cười, trong nhà chưa dạy nhau, cả nước ngoài có thể biết được cơ. Người đó là xấu, bởi vì mình là tốt. Và đem đủ thứ chuyện người khác, kể cho người ngoài nghe. Còn mình lúc nào cũng là người thành công. Mình là người tuyệt vời. Mình là người hoàn hảo, và có thể tạm gọi là như thế đi! cho là mình hoàn hảo đi,! Nhưng mà Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất, ta vừa nghe đó.
Nếu mà mình thấy được người khác làm lỗi mà mình không bảo người khác sửa lỗi, thì mình cũng phải đáng tội chết. Bởi vì lúc đó, mình trở thành một con người gian ác, vì mình đã không đón nhận sự trở lại của anh em đồng lọai của mình và mình muốn loại trừ người đó ra khỏi Cộng Đoàn. Và lúc đó, mình đâu có được bình an, bởi vì mình đã vô cảm. Thái độ vô cảm của mình, mình đã không cho người đó hối lỗi và mình muốn dìm người đó cho đến chết.
Cuộc đời người ta vẫn thường nói với nhau: 70 chưa gọi là lành. Có thể ngày hôm nay ta thánh thiện đó, nhưng mà cũng có thể ngày mai ta là một người khác. Bởi vì, ta vô cảm trước sự yếu đuối của anh chị em đồng loạt. Ta không can đảm, cũng như ta không đủ tế nhị, tinh tế để sửa lỗi cho người khác Có khi là phản ứng ngược lòng chúng ta chúng ta à. Muốn cho người anh em sửa lỗi nhưng rồi chúng ta lại đi mét tội người anh em đó cho cả giáo xứ biết, cho cả Cộng đoàn biết. Để giáo xứ và cộng đoàn khinh người đó, và tâng bốc mình lên. Để rồi sự thật vẫn là sự thật, con người mình như thế nào, thì mọi người vẫn nhìn vào mình và họ tự đánh giá mình.
Ngày hôm nay giáo dân rất là tinh tế. Họ có thể chỉ có thể nhìn nhận và họ nhận định tất cả các giáo sĩ, tất cả những vị mục tử, không cần đến nói xấu nhau. Và ngay như trong gia đình cũng vậy, cũng chẳng cần nói xấu nhau đâu! Chỉ cần những cái hành xử, những cái lời ăn tiếng nói thì mình thấy được rằng mình là ai và người khác là anh không cần phải đi nói xấu người khác.
Và điều quan trọng Chúa mời gọi chúng ta là: Anh em có lỗi phạm, mình cũng phải hết sức tinh tế.
Và thực sự ra, công tâm mà nói thử đi, mình đặt mình trước mặt Chúa: «Ai là người vô tội», để rồi mình đi nén đá người khác. Có lúc mình hăng say mình ném đá người khác, mình chà đạp người khác. Nhưng thật sự ra mình đầy tội đấy chứ!
Có hơn nhau ở cái chỗ mình khéo, mình lấp liếm cái tội của mình, để người khác không thấy. Nhưng từ trong đáy lòng, từ trong lương tâm, thì Thiên Chúa, lương tâm của chúng ta biết rõ chúng ta hơn ai hết.
Và rồi, thánh Phaolô trong thư của ngài Gửi tín hữu Roma nhắc nhở cho chúng ta một điều rất hay Anh em thân mến, anh em đừng mắc nợ ai điều gì, ngoài lòng yêu mến. Vì ai yêu người thì giữ trọn lề luật. Đó là, đó là gì? Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp chớ làm chứng gian, chớ mê tham. Nhưng Thánh Phaolô nói:
Tất cả đều tóm lại lời này: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình lòng yêu thương không làm hại kẻ khác và yêu thương là chu toàn lề luật.
Không ai là một hòn đảo cả. Sống là một chuỗi ngày tương quan: “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Ngày sau mỗi người chúng ta cũng sẽ được lên thiên đàng, nếu chúng ta sống trọn vẹn tình nghĩa mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta sống ích kỷ chúng ta làm hại người khác chúng ta không sửa lỗi người khác để người khác không được lên thiên đàng chắc chắn gì chúng ta được lên thiên đàng đâu.
Bởi vì chúng ta sống là sống cộng đoàn. Chúng ta sống là sống tập thể một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ. Dẫu rằng ông bà ta không phải là người có đạo Công Giáo, nhưng ông bà ta vẫn thường dạy: Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
Chẳng lẽ trên thiên đàng: 99 người người hân hoan, để nhìn thấy một con người rơi xuống hỏa ngục hay sao?
Chính vì một con người tội lỗi, chính vì một con chiên hoang đàn đó, mà Chúa Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Để chữa lành, để băng bó vết thương, để tha thứ, để âu yếm, để chở che con người tội lỗi đó. Và như con chiên lạc, con chiên bệnh hoạn CHÚA Giêsu đã ôm trên vai và vác về với cộng đồng. Nhìn lại cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta là ai? mà chúng ta lại phê phán! Chúng ta lại xét đoán anh em.
Cách đây ít lâu, buổi tối giật mình thức dậy, bỗng nhiên thấy có một cái chương trình văn nghệ gọi là live stream, à thì một số ca sĩ nổi tiếng đi về cái vùng đâu Bà Rịa hát cho đêm cuối cùng, cho bố chồng của cô Thúy Nga nghe có nhiều giọng ca rất nổi tiếng như Quang Lê, Lệ Quyên, Đàm Vĩnh Hưng và Dương Triệu Vũ.
Thì vô tình nghe được, bản thân con cảm thấy hay! Là nếu mà mình đi vào phòng trà thì người ta vẫn hát nhép và những chương trình hay của họ, họ vẫn hát nhép. Nhưng hôm đó, họ thật sự là họ hát live, họ hát live là sao? Nghe theo tiếng trống tiếng đàn mà họ hát. Hát như thế họ mới bộc lộ được cái giọng ca thật của người nghệ sĩ thế!
Nhưng đáng tiếc thay, một số người chạy vào Comment bảo rằng là hát dở, Lệ Quyên xấu. Xin lỗi, xấu, nhưng mà mình có hát hay được như Lệ Quyên đâu! Xấu nhưng mà mình có hát hay được như Đàm Vĩnh Hưng đâu? mình hát như thế nào, mà mình chê người ta. Mình hát như thế nào? mình đẹp như thế nào? mà nhục mạ người khác trong khi đó mình chẳng là gì cả! Mà thưc sự ra rất là vô duyên không chịu đi ngủ người ta đâu có bắt mình coi mình tự chạy vào coi xong rồi dìm hàng người ta, rồi chê trách người ta. Con cảm thấy rất là buồn cười, rất là vô duyên.
Thì nói đến đây, trong câu ca dao tục ngữ của người Việt Nam mình: Chuồn chuồn chê khỉ rằng hôi, khỉ quay lại bảo: cả họ mày thơm.
Nhiều khi mình chỉ thấy cái xấu của người khác, mình thấy cái tội của người khác thôi, mà không bao giờ thấy cái tội của mình. Để bất cứ ai nào đó, sửa lỗi cho mình là mình phùng mang, trợn má, xù lông nhím. Mà mình lấy cái lông nhím đó, bắn vào người khác khi họ sửa lỗi cho mình.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta. Để chúng ta mặt lấy cái tâm tình yêu thương, như Thánh Phaolô mời gọi: «yêu thương là chu toàn lề luật». Để chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại, sửa lỗi và tha thứ cho họ. Cũng như, Chúa vẫn thường thương xót, sửa lỗi và tha thứ cho mỗi người chúng ta. Amen.
86. Khó nói – Huệ Minh
Tin Mừng Mt 18, 15-20: Tin Mừng hôm nay là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm…
***
Tình huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Chúa Giêsu không được bỏ mặc một người anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau. Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Chúa Giêsu thì đều có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ góp phần vào việc kiến tạo Giáo Hội.
Không gì khó nói hơn việc đi sửa lỗi người khác. Vì nhiều lý do. Trước hết, lý do bản thân: tôi cũng chẳng hay ho gì mà dám lên mặt dạy đời. Và bao nhiêu lý do khác. Nếu cùng là người trong nhà với tôi: bụt nhà không thiêng. Nếu không phải là người nhà với mình: thôi thì đèn nhà ai nhà nấy rạng. Bao giờ người ta cũng có lý do để né tránh vấn đề gai góc này. Chắc phải “uống mật gấu” mới đủ dũng khí để “sửa lỗi cho người khác” bởi chưng cục tự ái của mỗi người chẳng khác nào trái bom hẹn giờ không biết lúc nào sẽ nổ tung lên.
Ta thấy chương 18 Tin Mừng Mátthêu gồm những giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của người môn đệ trong cộng đoàn. Ở đây ta đọc thấy điểm căn bản cho giáo lý về Giáo Hội như một sự hiệp thông, một cộng đoàn, một thân thể của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”. Ðây là yếu tố quyết định cho lời cầu xin của chúng ta, vì chính Chúa Giêsu mới là Ðấng làm cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.
Tin Mừng hôm nay là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm.
Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, sự nâng đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn.
Lời Chúa cho ta phương thức về cách sửa lỗi anh em mình. Sửa lỗi cho người khác quả là điều không dễ, vì, hoặc ta viện lý “tôi là ai mà dám làm điều đó?”, hoặc thái độ lạnh cảm “đâu can gì đến tôi”, hoặc sợ “làm ơn mắc oán”, hoặc lên mặt sửa lỗi một cách quá đáng để rồi nhấn chìm người anh em của mình!
Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta, những người theo Ngài, phải và biết sửa lỗi cho anh em của mình khi biết họ đang đi lạc hướng. Nhưng phải sửa như thế nào? Quả là một vấn đề!
“Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi”. (18, 15) Đây là phương thức đầu tiên mà Chúa Giêsu dạy. Khi sửa lỗi cho anh em, ta phải có tâm tình đơn sơ, nhẹ nhàng, tế nhị và phải tâm niệm rằng: “nhân vô thập toàn”. Trước tiên hãy nói chuyện với người anh em của mình như một người bạn. Không gì dễ nghe hơn là những lời tâm sự nhẹ nhàng, tế nhị và đầy tôn trọng. Đó cũng là điều dễ hiểu thôi, vì con người có lòng tự ái và thích được cảm thông, tôn trọng, hơn là phải lắng nghe những lời chỉ trích cay cú. Nếu không tế nhị trong chuyện này, thay vì mang một người tội lỗi trở lại với cộng đoàn, ta lại vô tình đánh mất người anh em của mình trong giây lát. Thiết nghĩ trong việc này cần có cả một nghệ thuật lẫn một tình yêu cao thượng!
Nếu không có tấm lòng yêu thương, chúng ta khó mà làm được bất cứ điều gì, huống chi khi chúng ta muốn đưa người anh em của mình trở về với yêu thương và sống trong sự thật. Thánh giáo phụ Augustinô khuyên dạy: “Hãy yêu và làm những gì bạn muốn ; nếu bạn thinh lặng, hãy thinh lặng vì yêu ; nếu bạn nói, hãy nói vì yêu ; nếu bạn sửa lỗi, hãy sửa lỗi vì yêu ; nếu bạn tha thứ, hãy tha thứ vì yêu ; hãy nắm giữ trong sâu thẳm con tim bạn gốc rễ của tình yêu …” (Suy niệm Thư thứ nhất của thánh Gioan, bài VII, 8). Vâng, tình yêu là cội nguồn, là chìa khóa của tất cả và có thể chắp cánh cho những thứ khác vươn xa!
Và ta thấy Chúa Giêsu đưa ra qui tắc vàng: muốn sửa lỗi cho nhau, phải được thúc đẩy bởi tình bác ái, phải tôn trọng danh dự của nhau và nhắm đến lợi ích đích thực của người anh em. Việc đi gặp riêng “một mình anh với nó thôi” tạo điều kiện cho một cuộc đối thoại ôn hoà, tôn trọng lẫn nhau và giúp nhau nhận ra ý Chúa.
Nếu ta có tình yêu thật sự, nếu ta ta vẫn chưa sửa được lỗi của người anh em mình, đừng buông xuôi và chán nản! Hãy thêm lời cầu nguyện! Với ơn Chúa và với tình mến thương của cộng đoàn, người anh em của chúng ta sẽ dần dần hồi tâm tu sửa, vì chúng ta biết rằng, trong sâu thẳm, con người luôn luôn đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.
Lời Đức Giêsu dạy về cầu nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan trọng của hành động chung. Ý tưởng ở đây không phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi người đều được liên kết vào các quy tắc chung và mọi người phải cảm thấy mình có trách nhiệm về việc không được để một ai bị hư mất. Khởi đi từ mối quan tâm huynh đệ này, là một hình thái cốt yếu của tình yêu đối với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải nhắc đến đòi buộc quan tâm đến một người anh em lầm lạc và mời người ấy hoán cải.
87. Sửa lỗi theo Lời Chúa dạy
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Muốn tìm điểm nổi bật nơi cộng đồng đức tin Kitô giáo, người ta phải tìm những giá trị tinh thần và thiêng liêng. Cộng đồng đức tin không cổ võ phe phái cũng không nhắm đến việc tranh chấp hay thắng bại. Cộng đồng đức tin chú tâm đến việc chữa trị cá nhân đã lỗi phạm cũng như chữa trị cộng đồng bị sứt mẻ vì lỗi phạm của cá nhân. Người Do Thái cổ xưa coi việc sửa trị như là phương thế giáo dục luân lý. Họ tin việc cha mẹ đưa con cái vào kỷ luật là cần thiết. Vì thế trong Sách Êdêkien, Thiên Chúa truyền cho vị ngôn sứ cảnh giác và sửa dạy dân chúng. Còn lời Chúa trong Phúc âm hôm nay dạy ta đi theo ba giai đoạn trong việc sửa lỗi khi người anh em phạm tội. Giai đoạn một là sửa riêng người súc phạm nhằm tránh làm mất mặt đương sự. Giai đoạn hai là gọi hai người làm chứng để thuyết phục phạm nhân. Giai đoạn ba là đưa vấn đề ra trình bày trước cộng đồng tín hữu để bảo toàn sức khoẻ tâm thần của cá nhân cũng như cộng đoàn (Mt 18:15-16).
Động lực khiến người tín hữu sửa bảo người khác như Chúa dạy trong Phúc âm là động lực yêu thương. Có yêu thương và quan tâm, người ta mới sửa bảo. Sửa bảo người khác là bổn phận và trách nhiệm của người dân được chọn trong đạo cũ như sách ngôn sứ Êdêkien dạy: Nếu… ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết, vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó (Ed 33:8). Lời Thánh kinh đây có nghĩa là người ta phải chịu trách nhiệm một phần vì đã làm thinh. Tình yêu Kitô giáo đòi người ta nhắc nhở cho người khác nhất là những người duới quyền giáo huấn của mình như con cái, học sinh nếu chúng đi vào đường lầm lỗi.
Nếu thời đại mà người ta đang sống là thời đại buông thả thì người ta coi nhẹ việc sửa bảo. Sống trong một văn hoá đề cao chủ nghĩa cá nhân, thì người ta thường không muốn sửa bào, để mặc kệ người khác, ai có thân nấy lo. Sống trong một xã hội mà văn hoá của xã hội đó nhậy cảm, hoặc sống vào thời đại mà văn hoá của thời đại đó trở nên nhậy cảm, thì việc sửa bảo khó được chấp nhận. Gặp người có tự ái cao, thì người muốn sửa bảo, phải dè dặt khi nói động đến chân lông kẽ tóc của họ, vì sợ họ nổi da gà hay rợn tóc gáy. Và nếu như vậy thì xét về phương diện thiêng liêng và luân lý sẽ không mang lại lợi ích thiêng liêng cho người phạm lỗi vì đương sự không được ai nhắc bảo. Người phạm lỗi không có cơ hội trở nên hoàn thiện như Chúa muốn người môn đệ trở nên hoàn thiện (Mt 5:48). Việc sửa sai là cần thiết nên người tín hữu không thể đợi tới khi mình trở nên hoàn thiện mới sửa người khác. Người được sửa lỗi phải hiểu rằng người sửa lỗi cũng có những khuyết điểm của họ, nhưng về phương diện nào đó, họ cũng có bổn phận nhắc nhở người làm lỗi. Chỉ khi người ta chịu để cho người khác sát sà bông thì mới tẩy rửa đươc những ghét gúa ra khỏi thân mình.
Một trong những điều khó khăn mà người ta gặp trong việc giao tế hàng ngày là khi phải nói ra cho ai điều mà họ không muốn nghe. Nếu trong gia đình mà từ nhỏ lúc nào cha mẹ cũng bênh con, thì sau này con cái thường có khuynh hướng không muốn chấp nhận lỗi lầm, nhưng tìm cách biện hộ. Nếu còn nhỏ mà đứa con hay được khen thay vì khuyên răn không nên làm, chẳng hạn như lấy của người khác đem về nhà dùng, thì sau này đứa con có thể mắc vào tật xấu đó. Theo lối suy nghĩ thông thường của loài người thì người hay biện hộ lỗi lầm được coi là khôn. Tuy nhiên xét trên bình diện giữa người với người thì người hay biện hộ thường là người ít có bạn thân. Người hay biện hộ cho mình trước mặt người khác cũng thường hay biện hộ cho mình trước mặt Chúa. Và khi người ta biện hộ cho mình trước mặt Chúa thì ơn Chúa khó thấm nhập vào tâm hồn được. Đó là trường hợp của người Pharisêu đã biện hộ cho mình khi cầu nguyện trước mặt Chúa. Chúa bảo người này về nhà không được nên công chính (Lc 8:14).
Ta thường nghe nói yên lặng là vàng. Tuy nhiên có những trường hợp mà không nói ra có nghĩa là dung thứ việc làm sai trái. Sửa bảo không phải là chuyện dễ làm vì có thể làm cho người được sửa bảo phải mất mặt và làm mất tình bạn hữu. Vì thế mà người làm việc sửa bảo cần làm trong tinh thần tế nhị và bác ái. Người làm việc sửa bảo cần cầu nguyện để xin ơn khôn ngoan trong việc sửa bảo.
Trong Phúc Âm hôm nay Chúa dạy, để có thể nhận ra lỗi lầm, người ta cần phải biết lắng nghe. Khi mà người ta không muốn nghe hay không muốn hiểu thì người khác có cố gắng cắt nghĩa, giải thích thế nào đi nữa cũng vô hiệu. Vậy ước gì hôm nay ta biết lắng nghe và suy gẫm lời Đáp Ca trong thánh lễ: Ước chi hôm nay anh em nghe tiếng Chúa! anh em đừng cứng lòng (Tv 94:8).
Lời cầu nguyện xin được chấp nhận sửa sai:
Lạy Chúa là Đấng hoàn thiện hoàn hảo.
Con xin cảm tạ Chúa đã dạy bảo con
về đường lối thiện hảo của Chúa.
Chúa còn dạy loài người phải sửa lỗi cho nhau.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn,
biết chấp nhận những yếu hèn và tội lỗi của mình
để con biết mở rộng tâm hồn khi được sửa lỗi.
Cũng xin cho con dược nhận thức rằng
việc trở nên hoàn thiện là lệnh truyền của Chúa. Amen.