CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – C

Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Hc 3,19-21.30-31; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14
MỤC LỤC
1. Chỗ cuối 4
2. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên 7
3. Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ – Dã Quỳ 10
4. Hạ mình xuống – ViKiNi 14
5. Con là không, Chúa là tất cả – Thiên Phúc 18
6. Phú quý 21
7. Cây cao dễ gãy. 23
8. Khiêm nhường 25
9. Khiêm tốn là nhận ra chính mình – Lm. An Phong 27
10. Luận về chữ “ăn” 30
11. Tự hạ & yêu thương phục vụ – Am Trần Bình An 37
12. Nhận và cho nhưng không – Am Trần Bình An 42
13. Khiêm tốn và vô vị lợi – Lm. GB. Trần Văn Hào 46
14. Thứ nhất khiêm nhường 51
15. Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa 54
16. Những bàn tiệc – G. Nguyễn Cao Luật, OP 58
17. Khiêm tốn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 64
18. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 68
19. Hạ xuống & tôn lên 80
20. Khôn ngoan hay lịch duyệt trước mặt Thiên Chúa 84
21. Hạ mình xuống 88
22. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn 92
23. Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường 96
24. Khiêm nhường phục vụ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 98
25. Hãy sống như Thầy Giêsu 102
26. Sống cho người nghèo – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 105
27. Bệnh ‘muốn làm lớn’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 108
28. Khiêm nhường phục vụ 111
29. Kẹt! – Như Hạ, OP 115
30. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên 120
31. Tôi là người khiêm tốn nhất trần gian! 123
32. Khiêm tốn là cách sống của công dân Nước Trời 126
33. Con đường khiêm nhường 128
34. Khiêm nhường đích thực 132
35. Bài học từ nước – Lm Giuse Nguyễn Hữu An 135
36. Khiêm hạ 140
37. Khiêm nhường – Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh 143
38. Dự tiệc và đãi tiệc – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 146
39. Học sống khiêm nhường 150
40. Khiêm nhường, hiếu khách và luật lệ 153
41. Hãy ở khiêm nhường 157
42. Hãy ngồi chỗ cuối – Lm. Giuse Nguyễn An Khang 173
43. Khiêm hạ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 176
44. Chúa Nhật 22 Thường Niên 181
45. Danh dự được dành cho người khiêm nhường 189
46. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi 195
47. Một tình yêu mang kích thước nhân loại 200
48. Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn 202
49. Ghế Giám Mục 205
50. Ngồi trên ghế Giám mục 210
51. Chỗ ngồi nơi bàn tiệc – McCarthy 215
52. Con là không, Chúa là tất cả – Thiên Phúc 221
53. Ai mời gọi chúng ta – André Sève 224
54. “Hãy vào ngồi chỗ cuối” 227
55. Chọn chỗ nơi bàn tiệc – Veritas 229
56. Ăn 232
57. Ngồi vào chỗ cuối – Cao Huy Hoàng 235
58. Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống 239
59. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” 242
60. Ghế dành riêng – Lm. Vũ Đình Tường 245
61. Chọn chỗ 248
62. Khiêm nhường 250
63. Chan hòa niềm vui – Đỗ Lực, OP 253
64. Khiêm nhường 261
65. Khiêm tốn 265
66. Khiêm nhường – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ. 268
67. Khiêm nhường 271
68. Một phúc lành ngọt ngào 274
69. Suy niệm của Lm. Augustine 277
70. Con người khiêm tốn 282
71. Suy Niệm của JKN 284
72. Sự thật không nhìn thấy 289
73. Thái độ về “cái tôi” 293
74. Khuyến khích sống khiêm hạ- Lm. Hồ Bặc Xái 298
75. Khiêm tốn trước Chúa 306
76. Suy niệm của Lm. Trần Văn Trợ 308
77. Giảng về nhân đức khiêm nhượng 310
78. Chú giải của Noel Quesson 316
79. Chú giải của R. Gutzwiller 323
80. Chú giải của Fiches Dominicales 328
81. Suy niệm của William Barclay 334
82. Hãy khiêm nhường – Jos.Vinc. Ngọc Biển 338
83. Học sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu 342
84. Bài học khiêm hạ – Huệ Minh 349
85. Khiêm cung 354

1. Chỗ cuối
(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Phần lớn những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước.
Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi hai bên tả hữu Thầy Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội, vì ông sợ mất ghế.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy các khách dự tiệc cứ chọn ghế nhất mà ngồi.
Con người vẫn bị ám ảnh bởi những chiếc ghế.
Chiếu trên, chiếu dưới chẳng phải là chuyện xưa ở đình làng. Ngày nay vẫn có những bạn trẻ cố kiếm được mảnh bằng và chỗ làm lương cao để ung dung hưởng thụ một chỗ đứng trong xã hội.
“Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên.”
Đức Giêsu mời ta vượt qua thói háo danh, để sống khiêm tốn.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên.
Khiêm tốn không phải là coi thường mình hay sợ người khác.
Khiêm tốn không phải là rụt rè, không dám nhận trách nhiệm.
Khiêm tốn là biết mình đã nhận tất cả từ Chúa, và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân.
Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay ghế nhất.
Chiếc ghế không phải là mục đích họ cần chiếm được, nhưng là phương tiện để phục vụ mọi người.
Chức vụ cho họ cơ hội cúi xuống thật gần với nỗi đau của nhân loại đang chờ họ giúp đỡ.
Người khiêm tốn không tự tìm vinh quang cho mình, họ hồn nhiên vô tư để Thiên Chúa tự do định liệu.
Chúng ta dễ đánh giá người khác dựa trên ghế của họ. Nhưng một người quét đường có lương tâm còn giá trị hơn một giám đốc tham ô lãng phí.
Đức Giêsu nói đến việc chọn khách để mời ăn. Ngài khuyên nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Ngài đưa chúng ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh.
Chúng ta thường thích giao du với người có thế giá, có học thức, có của cải, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, kém cỏi về mọi mặt.
Hãy ra khỏi thế giới quen thuộc của mình, để đến với những người cần chúng ta hơn.
Bao trẻ em ở vùng xa cần giáo viên. Bao bệnh viện ở các huyện cần bác sĩ.
Ước gì chúng ta hạnh phúc khi cho không tính toán vì thấy mình đã nhận được gấp trăm điều mình cho.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những hình thức khiêm nhường giả tạo? Một người khiêm nhường thực sự phải là người như thế nào?
Trong môi trường bạn sống, bạn có thấy những người bất hạnh, ít được nâng đỡ quan tâm không? Bạn đã làm gì để giúp họ?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ, xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo, xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp, xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống, xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa: “Các con hãy cho họ ăn đi.”
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa, để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.

2. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Nếu cuộc đời là một bữa tiệc, hẳn có nhiều thực khách đã chọn chỗ nhất mà ngồi.
Tôi chọn ngồi chỗ nhất vì tôi thấy mình quan trọng, tôi xứng đáng được hưởng vinh dự đó…
Tiếc thay, không có nhiều chỗ nhất trong bữa tiệc cuộc đời, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình.
Những cuộc tranh giành như thế đâu phải là điều xa lạ. Chúng vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Nơi nào có hai người ở với nhau là có thể có đụng chạm, vì chỉ có một chỗ nhất.
Giữa một thế giới tự cao tự đại, rồi xâu xé nhau, Đức Giêsu mời gọi chúng ta sống tự khiêm, tự hạ.
Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường.
Khiêm nhường không phải là khinh rẻ bản thân, cũng không phải là thụ động, không dám nhận trách nhiệm, trách nhiệm làm người ở đời và làm con Thiên Chúa.
Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Abraham là một mẫu gương khiêm nhường. Ông ý thức mình chỉ là tro bụi (Kn 18,27), nhưng ông đã dám mạnh dạn mặc cả với Đức Chúa về số người công chính, đủ để cứu thành Sôđôma.
Giêrêmia đã từ chối làm ngôn sứ, lấy cớ mình còn trẻ người non dạ (Gr 1,6). Nhưng khi ông dám nhận trách nhiệm Chúa trao, thì ông trở thành khiêm tốn và can đảm.
Nhiều người định nghĩa khiêm nhường là chấp nhận sự thật. Nhưng chấp nhận sự thật là điều khó biết bao, vì sự thật đòi tôi xét lại cách sống.
Khiêm nhường là nhận biết thân phận thụ tạo của mình: những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa.
Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng.
Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, tôi có nhiều giới hạn, tôi cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý… Tha nhân ấy không phải chỉ là người trên tôi, mà còn có thể là người kém tôi hay chẳng ưa tôi.
Nơi lời chỉ trích, tôi gặp được khá nhiều sự thật.
Nếu tôi khiêm hạ trước người khác, tôi sẽ thấy được nhiều ưu điểm bất ngờ của họ. Những ưu điểm này không phải là mối đe dọa cho tôi nhưng là quà tặng làm tôi thêm phong phú.
“Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.”Càng biết, chúng ta càng khiêm nhường thẳm sâu.
Thánh Phanxicô Borgia viết: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Đức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.”
Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đối với bạn, thế nào là một người kiêu ngạo? Bạn nhận ra người đó qua những cử chỉ bên ngoài và thái độ bên trong nào?
Theo ý bạn, người khiêm nhường thực sự thi có những nét nào? Làm sao để tập được đức khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh, xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng chúng con, và trong lòng từng con người bé nhỏ.

3. Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ – Dã Quỳ
Chủ đề suy niệm từ Tin Mừng nói với chúng ta về một vật rất đỗi bình thường trong cuộc sống, đó là chiếc ghế. Tự bản chất, ghế chỉ để ngồi. Nhưng chỗ ngồi ở mỗi vị trí lại có giá trị khác nhau. Vì thế, người ta tranh nhau cái ghế và cố gắng bảo vệ chỗ ngồi của mình bằng mọi cách! Từ hình ảnh “Thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta bài học về lòng khiêm tốn và nhân đức khiêm nhường. Thế nhưng, giữa một thế giới mà trong đó con người đang giành nhau những vị trí cao nhất ở mọi lãnh vực, vậy bài học về đức khiêm nhường của Chúa có còn thích hợp với người thời nay nữa hay không?
Người Việt Nam chúng ta vốn quan niệm “Một miếng giữa đàng hơn một sàng xó bếp.” Quan niệm ấy cho ta hai suy nghĩ vừa tích cực lẫn tiêu cực. Chiều tích cực cho thấy sự trọng vọng của mọi người dành cho người có chức quyền và địa vị ở mọi thời. Sự vinh quang này cũng có thể là động lực giúp cho nhiều người cố gắng vươn lên trong khả năng của mình cho bằng người khác. Tuy nhiên, mặt trái của sự vinh quang thế gian ấy cũng làm cho chính đương sự nhiễm thói kiêu ngạo, vênh vang tự đắc, coi trời bằng vung và chẳng xem ai ra gì! Nhiều khi chính vì địa vị của họ mà người ta rơi vào vùng trời cô đơn, chỉ những kẻ nịnh bợ được lợi mới là bạn. Và đôi khi địa vị của họ cũng trở thành tầm ngắm của nhiều người muốn giành giật. Vì vậy cuộc sống của họ phải đối diện với trăm ngàn mưu mô, cạm bẫy, khó khăn ngay cả với những kẻ thuộc cấp. Khi còn đương chức thì dương dương tự đắc, vì “Miệng nhà quan có gang có thép.” Và bao người đón đưa, ca tụng.
Thế nhưng, sông có khúc, người có lúc. Khi có chức quyền thì phải sống sao để khi hết chức, hết quyền người ta vẫn còn lòng quí mến và kính trọng mình. Cách riêng đối với những người đang nắm giữ những chức vụ trong Giáo Hội, trong các đoàn thể…, chúng ta càng phải ý thức và sống cách triệt để lời Chúa căn dặn môn đệ khi thấy họ cãi nhau xem ai là người làm lớn: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9,35) Thực ra, chức vị và quyền hành không phải là một cái gì tội lỗi, đáng sợ hay xấu xa, vì những người khôn ngoan và có khả năng, nhiệt thành, được tập thể tín nhiệm trao phó trọng trách để phục vụ con người, công ích và phục vụ Giáo Hội. Vậy hãy nhớ lời sách Huấn Ca nhắc nhở: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế con sẽ được đẹp lòng Chúa.”(Hc 3,18)
Chức quyền chỉ là luân phiên để phục vụ “Quan chỉ nhất thời, dân mới vạn đại.” Thế nên, người khiêm tốn sẽ biết khả năng, chức vụ của họ chỉ là phương tiện phục vụ mọi người. Trong đời sống đức tin, chúng ta cần ý thức mình chỉ là một trong những dụng cụ Chúa dùng để phục vụ phần rỗi và ơn cứu độ nhân loại. Chúng ta như những chiếc ghế dùng để ngồi. Thiên Chúa muốn đặt ở đâu cũng không sao. Ai ngồi lên cũng không thành vấn đề. Nếu không còn được dùng nữa, chiếc ghế vui vẻ sẵn sàng nằm trong kho hoặc trở thành những thanh củi để cho đời một chút lửa, một cục than hay một nắm tro tàn.
Chúng ta cần ý thức “Khiêm tốn bao nhiêu cũng chẳng đủ. Kiêu căng một chút cũng bằng thừa.” Người khiêm tốn thì luôn kính trọng tha nhân, làm việc theo ý chung vì lợi ích tập thể.
Người khiêm tốn ý thức giới hạn của bản thân nên luôn nhận trách nhiệm khi công việc thất bại, còn thành quả là do tập thể.
Người khiêm tốn âm thầm làm việc mà không cần người khác khen ngợi, vì họ biết đó là bổn phận và trách nhiệm của họ.
Người khiêm tốn luôn bình tĩnh nghe sự góp ý của người khác về khuyết điểm của mình và sẵn sàng sửa đổi.
Người khiêm tốn không thích nói về mình, không đề cao mình, những gì họ đạt được là do ơn Chúa và nhờ sự trợ giúp của mọi người.
Người khiêm tốn nỗ lực và ý thức trách nhiệm trong mọi việc đã lãnh nhận, cố gắng với tất cả khả năng và phó thác thành công cùng thất bại trong bàn tay Chúa.
Người khiêm tốn luôn cư xử nhẹ nhàng, hòa nhã và tinh tế với mọi người, luôn đặt lợi ích và quyền lợi của người khác trên bản thân mình.
Người khiêm tốn biết giới hạn của mình và chỉ thực hiện những gì trong tầm tay và khả năng cho phép. Họ không đứng chỉ tay nhưng vén tay áo để cùng làm việc với mọi người.
Người khiêm tốn ý thức chức vụ và quyền hành là để phục vụ, vì thế họ sẵn sàng rút lui khi sức khỏe và khả năng giảm sút không còn đủ hay không phù hợp để phục vụ mọi người.
Người khiêm tốn là người biết nhận định chính xác về bản thân mình trong mọi sự.
Bài học khiêm tốn tuy đơn giản nhưng không phải dễ dàng học và thực hiện trong đời mình. Con công đẹp ở bộ lông, con chồn quí ở bộ da. Nhưng chúng chết hoặc bị săn lùng cũng chỉ vì những thứ mà chúng khoác trên mình! Xin cho chúng ta hôm nay thấm nhuần được bài học khiêm nhường của Chúa- Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Người đã chọn chỗ rốt hết trong thân phận làm người, nghèo hèn trong cuộc sống, đơn giản trong cách ăn nết ở, hòa nhã và thân thiện với tất cả mọi người. Cuối cùng, Người đã chấp nhận hủy mình ra không trong cái chết. Người đã chọn chỗ rốt hết trong bữa tiệc nhân sinh. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người. Qua cuộc sống, Người đã trở nên mẫu gương cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi lòng chúng con nên khiêm nhường giống như Chúa. Amen.

4. Hạ mình xuống – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mùa hè 1992, Đài Truyền hình Sài Gòn và Cần Thơ đều chiếu cuốn phim Tây Du Ký. Cuốn phim rất hấp dẫn, đến nỗi bé 5, 6 tuổi cũng nhận mình là Ngộ Không, hay Đường Tăng, Trư bát Giới, những vai trong phim.
Hấp dẫn về hình thức đầy những cảnh sắc kỳ lạ huyền ảo, với bao nhiêu lâu đài hào nhoáng rực rỡ, và những cử điệu nhảy múa, nhào lộn, bay biến, đánh nhau, biến hóa xuất quỷ nhập thần. Nhưng giá trị tuyệt diệu của cuốn phim chính là ý nghĩa sâu sắc này:
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống,
Ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh: bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ Vương, Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa đều bị lột mặt lạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, bọ cạp, heo bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về sống kiếp quái vật.
Những thứ tôn mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ người kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
May cho Ngộ Không, Sa Tăng, Trư bát Giới, đã biết từ bỏ tật kiêu ngạo để hạ mình xuống kịp thời theo Đường Tăng, nên không bị hóa kiếp quái vật.
600-700 năm trước Đường Tăng, Đức Giêsu đã thực hiện hạ mình xuống: “Từ ngôi vị Thiên Chúa cao cả, Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người …cả trên trời, dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mở miệng ra tuyên xưng rằng “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil. 2, 6-11).
Hôm nay, Người nói cho mọi người thấy rõ chân lý ấy: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Kinh cũng chứng tỏ chân lý ấy: Satan được vào hàng ngũ các Thiên thần thiêng liêng sáng láng hưởng tôn nhan Thiên Chúa, thế mà dám đòi bằng Thiên Chúa nên bị giáng xuống làm tướng dưới đáy hỏa ngục. Nó đã cám dỗ Adam Evà theo nó bất phục tùng Thiên Chúa. Adam Evà lại bị đuổi khỏi vườn địa đàng vinh phúc, đi làm chủ bùn đất, cho biết thân phận bùn đất hèn hạ của mình, đau thương và khóc lóc phải trở về bùn đất. Con cháu lại rủ nhau xây tháp Babel chọc trời, trời đã phạt phải phân tán khắp mặt đất, lưu lạc, chia rẽ nhau và hóa ra những kẻ thù luôn luôn xâm chiếm chém giết nhau. Thiên Chúa vẫn yêu thương chọn một số những kẻ làm dân riêng, lập nước riêng, xây thủ đô Giêrusalem riêng. Nhưng Giêrusalem muốn mình lên tận trời, thì lại bị hạ xuống vực thẳm điêu tàn, không có hòn đá nào trên hòn đá nào. Sống với con thành Giêrusalem, Đức Giêsu đã khóc thương họ, họ đã giành giựt nhau chỗ ngồi trong cỗ bàn, nơi tiệc cưới. Họ đã nhảy lên chỗ nhất, nhưng họ không biết xấu hổ khi bị mời xuống chỗ cuối.
Trên thế gian này, còn bao nhiêu bọn tôn mình lên như Hitler, Stalin, Polpot đều bị loài người lên án là bọn sát nhân ghê tởm.
Chỉ những người như Giuse tổ phụ, sẵn sàng hy sinh chịu trói vứt xuống giếng, bị bán làm nô lệ, bị tù tội oan uổng, mới được tôn lên làm Thủ tướng của một nước Ai cập văn minh nhất thời đó, và đã cứu được bao nhiêu dân tộc khỏi chết đói.
Chỉ những vị Vua như Đavid, biết nhận mình là đứa chăn chiên yếu đuối, chỉ trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa, nên với hòn đá nhỏ bé đã ném vỡ sọ tên hổ tướng Gôliat.
Chỉ có bác thợ mộc âm thầm khiêm tốn như Giuse mới được tôn lên làm cha nuôi Đấng Cứu thế. Chỉ có những thiếu nữ nhận mình là nô tỳ như Maria, mới được Thiên Chúa tôn vinh làm mẹ Thiên Chúa.
Ngày nay trên thế giới có một bà già sống tới 87 tuổi, qua đời 05/09/1997, chẳng có chức vị gì trong xã hội, thế mà được nhiều giải thưởng cao quý nhất thế giới, như giải Nobel Hòa Bình. Bà còn được các Tổng thống, Chủ tịch lớn nhất thế giới mời bà đến viếng thăm đất nước, như Tổng bí thư Gopbachop Liên Xô, tổng thống Mỹ Regan, Trung Quốc, Ấn Độ … Đó là mẹ Têrêxa Calcutta: Một nữ tu đã hạ mình xuống hầu hạ những người cùng khổ, bệnh tật, nằm nửa sống nửa chết ở hè phố.
Gia đình chúng ta chỉ được an vui, hòa thuận, khi ông bà, bố mẹ, con cái biết hạ mình xuống, nghe nhau, bảo nhau, nhịn nhau. Hàng xóm chỉ được yên ổn, vui vẻ, tay bắt mặt mừng, khi biết khiêm tốn, tử tế, giúp đỡ nhau.
Mỗi người chúng ta chỉ được thanh thản, an vui khi biết hạ mình xuống hết lòng mến Chúa và thương yêu phục vụ mọi người, như Đức Giêsu đã nói với chủ nhà rằng: “Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả ơn, như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày kẻ lành sống lại”.

5. Con là không, Chúa là tất cả – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.

6. Phú quý
Phú quý sinh lễ nghĩa, cha ông chúng ta vốn thường mỉa mai như vậy. Những kẻ có tiền bạc, có địa vị bao giờ cũng thích cho người khác biết đến mình và trọng vọng. Vì thế họ phải phô trương, phải chọn nơi, chọn chỗ để xuất hiện. Ăn nói cho có điệu bộ, có kiểu cách, đúng là trưởng giả học làm sang.
Trước kia thói ham danh vọng và địa vị còn xâm nhập vào cả nơi nhà Chúa mà đáng lý ra ở đó tất cả đều chỉ là anh em, bình đẳng. Không thiếu gì nhà thờ bên tây cũng như bên ta, có những ghế và bàn quỳ dành riêng cho các vị phú hào, chức sắc, có bảng đồng ghi tên đàng hoàng, dù họ không tới ngồi, thì cũng chẳng ai được phép thế chỗ. Cò ngày nay thì sao? Chưa hẳn là đã hết chuyện giai cấp trong xã hội cũng như trong Giáo Hội. Chúa thì dạy: Ai đứng đầu thì phải hầu thiên hạ, nhưng trong thực tế, kẻ làm đầu vẫn ở vị trí số một và kẻ hầu hạ vẫn luôn là những người thấp cổ bé miệng trong dân. Chúa Giêsu thì trái lại, tuy là Thiên Chúa nhưng Ngài đã hạ mình xuống làm người và ở giữa chúng ta như một người anh em, như một người tôi tớ. Và trong đêm bị nộp, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho từng môn đệ, để dạy cho các ông bài học yêu thương và phục vụ. Ngài nói với các ông rằng: Vua chúa trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần anh em, đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như kẻ nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải hầu thiên hạ. Bởi lẽ, giữa kẻ ngồi bàn và kẻ hầu bàn ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi bàn chứ? Thế mà Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người hầu hạ.
Chính vì đầu óc kỳ thị phong kiến mà người Pharisêu xa tránh những người dân ngoại và kẻ tội lỗi. Họ không muốn bị mang tiếng là bạn bè cùng người thu thuế và tội lỗi, nên họ không bao giờ chung đụng, gần gũi. Chúa Giêsu trái lại, Ngài thường đón tiếp những hạng người này. Không phải chỉ gặp gỡ qua loa đôi ba lần, nhưng là thường xuyên, hơn thế nữa, còn đồng bàn, ăn uống với họ nhiều lần. Thói đời là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, kẻ sang chơi với người sang. Kẻ thấp hèn mà mon men tới gần người sang trọng sẽ bị chê là thấy người sang bắt quàng làm họ. Trái lại, đi lại với những người mang tiếng xấu, sẽ bị thiên hạ đồng hoá với kẻ xấu và xa lánh, chê cười. Chúa Giêsu thì không thế, Ngài nói với bọn biệt phái: Người khoẻ mạnh thì không cần thầy thuốc, chỉ những kẻ đau yếu mới cần đến má thôi. Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi kẻ tội lỗi sám hối ăn năn. Vì yêu thương nhân loại tội lỗi và để cứu chuộc chúng ta, Ngài đã chẳng ngần ngại hy sinh danh dự, địa vị của mình. Ngài bỏ quên địa vị Thiên Chúa, nhưng không bỏ rơi con người tội lỗi. Hơn thế nữa, Ngài còn hy sinh cả tính mạng vì chúng ta: Con Người đến không để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được những gì để giúp đỡ những kẻ tội lỗi sám hối ăn năn và quy trở về cùng Thiên Chúa.

7. Cây cao dễ gãy.
Sau một trận bão, người ta thường thây những câu cao bị đổ gãy, trái lại những cây nhỏ và thấp, thì vẫn đứng trơ trơ. Sau cuộc chính biến, những kẻ quyền cao chức trọng bị lật đổ, bị mất chức, bị tù tội còn những kẻ thấp cổ bé miệng thì trước sau vẫn vậy.
Tuy nhiên, trong bất kỳ xã hội, bất kỳ tổ chức nào cũng thế, người ta vẫn tranh nhau những chức vụ cao để hưởng nếu không phải là lợi lộc, thì ít ra cũng là danh vọng. Mâm cao cỗ đầy. Chức càng lớn thì bổng lộc càng nhiều, đi tới đâu cũng được trọng vọng. Ngày xưa thì võng cáng, lọng che còn ngày nay thì mô tô hộ tống, cảnh sát còi hụ dẹp đường, lính tráng dàn chào. Cái thói ham danh vọng này không tha cả những người lãnh đạo tôn giáo vì thế các chức sắc đạo Do Thái ngày xưa thích mặc áo thụng, may dài thẻ kinh tới đâu thì cũng chiếm hàng ghế đầu, còn ngồi ở bàn tiệc thì chọn chỗ nhất.
Vì thế Chúa Giêsu không ngần ngại lên tiếng chỉ trích họ, nhân dịp Ngài được mời dự tiệc trong nhà một ông biệt phái. Dĩ nhiên đa số khách mời đều là biệt phái cả. Họ không ưa gì Chúa Giêsu và hôm nay họ được dịp dò xét kỹ để bắt lỗi. Chẳng hạn họ để ý xem Người có rửa tay trước khi ăn hay không? Nhưng họ đâu ngờ rằng chính họ lại đang bị Chúa Giêsu dò xét, bởi vì Ngài thấy ông nào ông nấy cũng đều ham địa vị cao, thích ngồi vào chỗ danh dự nhất trong đam khách được mời.
Bài học của Ngài hôm nay là bài học khiêm nhường, có lẽ đã làm cho họ ăn mất ngon và hẳn nhiều ông đã mất mặt. Chúa Giêsu không chỉ nhận xét về khách dự tiệc mà còn thẳng thắn đưa ra một bài học khác cho chủ nhà, bởi vì ông này mở tiệc đãi khách, thực ra không hpải vì khách mà vì mình. Thực vậy, cái thói mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những ông to bà lớn. Cái thói này ở mọi nơi, mọi thời đều rất thịnh hành. Ông chủ nhà hôm nay cũng là một trong những kẻ thích khoe khoang. Ông ta mời Chúa Giêsu có lẽ chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình, bởi vì lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã là một nhân vật nổi tiếng.
Thế nhưng được ăn thì cũng phải được nói, nhân dịp này Chúa Giêsu nhắc nhở ông đừng tốn của cho những kẻ vốn đã giàu sang, nhưng hãy nghĩ đến những người nghèo khó, những người đang cần được ăn để sống chứ không sống để ăn như những kẻ giàu sang quyền quý.
Lòng khiêm tốn và nhân hậu chính là nền tảng của đạo đức, nên Ngài mời gọi chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thói thường, thì những kẻ làm lớn thì ăn trên ngồi trốc, thống trị mọi người. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài không đến để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Ngài đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống như vậy. Thế nhưng lòng khiêm tốn phải đi đôi với tình bác ái, với tinh thần phục vụ. Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học phục vụ. Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ, để nâng đỡ gánh nặng của người khác, còn chúng ta thì sao?

8. Khiêm nhường
Tối hôm ấy, ông nhà văn quyết định đem vợ và 4 đứa con của mình đi xem phim tại một rạp hát. Khi họ đến thì trong rạp mới chỉ có sáu người. Và khi họ bước vào thì cả sáu người trong rạp đều đứng lên vỗ tay. Ông nhà văn mỉm cười đáp lễ. Sau khi ngồi vào chỗ, ông nhà văn bèn quay sang bà vợ và nói: – Có lẽ họ đã nhận ra anh vì hình ảnh của anh được đăng trên báo và những tác phẩm của anh được quảng cáo một cách rộng rãi.
Ngay lúc đó, có một chàng thanh niên tiến đến bắt tay ông. Ông nhà văn bèn hỏi: – Làm sao anh nhận ra tôi.
Thế nhưng, chàng thanh niên đã trả lời:
– Tôi chẳng hề biết ông là ai cả. Sở dĩ chúng tôi vỗ tay khi ông và gia đình bước vào rạp là vì viên quản lý rạp hát đã bảo: Nếu không có thêm bốn khán giả cho đủ mười người thì ông ta không thể chiếu xuất phim này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ông nhà văn là một người nổi tiếng, cho nên cũng chỉ là điều thường tình, khi ông nghĩ rằng chàng thanh niên đến bắt tay ông đã nhận ra ông là ai. Và khi hay chàng thanh niên ấy cho hay chẳng hề biết ông là ai, thì tôi không hiểu phản ứng của ông nhà văn như thế nào? Hụt hẫng và chới với, hay là chấp nhận giới hạn nhỏ bé và khiêm tốn của mình.
Vậy sự khiêm tốn là gì? Chúng ta phải sống thế nào mới được gọi là người khiêm tốn? Phải chăng khiêm tốn là tự hạ mình xuống và cho rằng mình kém cỏi? Phủ nhận những giá trị đích thực của mình hay giảm thiểu nó đi?
Tôi xin thưa: Không phải là như thế. Đức khiêm tốn mang một chiều kích sâu xa và tốt đẹp hơn thế nhiều. Khiêm tốn không phải chỉ là ít nghĩ về mình, mà hơn thế nữa còn là không nghĩ gì về mình hết. Riêng với chúng ta, những người Kitô hữu, khiêm tốn cũng có nghĩa là trở nên giống hệt như Chúa, Đấng đã từng nói: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng… Và Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Như vậy khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.
Trong mối liên hệ với Chúa cũng như với người khác, chúng ta hãy sống khiêm tốn, từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm, nhờ đó mà chúng ta sẽ được người khác yêu mến và hơn nữa được chính Chúa chúc phúc. Bởi vì càng khiêm tốn, thì chúng ta cùng trở nên cao cả và càng được Chúa yêu thương.

9. Khiêm tốn là nhận ra chính mình – Lm. An Phong
Tin Mừng Chúa Nhật 22 Thường Niên C xoay quanh đề tài Đức Giêsu phê phán những người Pharisêu về thói đạo đức giả, thích phô trương, thích được người ta trọng vọng. Hôm nay, ngay tại bàn ăn trong nhà của chính họ, Người cũng phê phán sự cao ngạo của họ bằng một dụ ngôn.
Nội dung dụ ngôn đó là: Nếu các thực khách tự chọn chỗ ngồi rốt hết, thì ông chủ sẽ mời họ lên chỗ nhất và ngược lại.
Những người Pharisêu là những người thích chọn chỗ nhất. Họ luôn tự đánh giá mình là hạnh kiểm loại “A”. Trước mặt Thiên Chúa, họ kể lễ dài dòng những “thành tích” đạo đức của mình. Trước mặt người khác, họ coi thường và cho mình “quyền được hơn người khác”.
Nhưng trong vương quốc của Thiên Chúa thì khác: trật tự hiện nay sẽ bị đảo lộn; những chỗ tốt nhất là do Thiên Chúa ban như một quà tặng, chứ không do con người tự chọn cho mình. Như thế, con người có là chi trước mặt Thiên Chúa. Họ cần cúi mình xuống – khiêm tốn.
Khiêm tốn đích thực là nhìn nhận thực tế những gì mình hiện có và mình là. Khiêm tốn đích thực là dám chấp nhận những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa. Khiêm tốn đích thực sẽ mang lại niềm vui, bình an. “Tất cả là hồng ân” (thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).
Đức Giêsu còn đưa ra một lời khuyên nghịch lý: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối… hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Không thể hiểu câu này theo nghĩa đen, nhưng cần hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn, tức là về các mối tương quan xã hội khác nhau của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, mỗi người chúng ta thường được người khác đánh giá qua đẳng cấp xã hội, tiền tài, nghề nghiệp… Đó là “môi trường” bao chung quanh một người. Chính những “môi trường” này đã phân chia con người làm nhiều hạng, loại trong cùng một xã hội. Những người cùng một “môi trường” như nhau thường liên kết, giao du với nhau. Từ đó, sự phân cách trở nên ngày càng lớn. Chúng ta thường bị điều kiện hóa bởi “môi trường” của mình. Điều này thường ngăn cản chúng ta không mở rộng vòng tay, tấm lòng tới tất cả mọi người không phân biệt một ai. Đức Giêsu đến để phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. “Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do” (Gl 3,28), không còn người giàu hay người nghèo, thánh nhân hay người tội lỗi. Tất cả mọi người đều phải có chỗ trong con tim của chúng ta, nhất là những người yếu đuối, bất hạnh, tàn tật… Sự khiêm tốn đích thực là nhìn nhận mình chẳng là gì hết trước mặt Thiên Chúa, cho dù mình có thuộc về một “môi trường sống” cao hay thấp; đồng thời nhìn nhận mọi người là anh chị em cùng một Cha trên trời.
Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình.
Phải chăng chúng ta nhận ra chính mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta nhìn nhận mọi người là anh chị em, cùng một Cha trên trời?
Lạy Chúa,
Chúng con hiểu rằng
tự sức mình chúng con chẳng làm được gì.
Tất cả những gì chúng con có được chỉ là hồng ân.
Xin cho chúng con khiêm tốn đủ
để cho phép người khác giúp đỡ mình,
đồng thời cũng cởi mở đủ
để người khác có thể tìm thấy nơi chúng con
một sự tương trợ khi họ cần đến.

10. Luận về chữ “ăn”
(Suy niệm của Lm Anphong Nguyễn Công Minh, OFM.)
Hai tư cách được đề cập tới xoay quanh một bàn tiệc đã vang lên trong bài Tin Mừng hôm nay. Tư cách một, là khi bạn là “khách” đi dự tiệc, thì bạn phải làm sao. Tư cách hai, bạn là “chủ”: khi bạn đãi tiệc ai, bạn phải mời những người nào… Mỗi tư cách có một lời nhắn nhủ riêng của Chúa cho họ. Tôi không gặp thấy một điểm chung nào Chúa muốn nói với, cho cả chủ mời lẫn khách dự tiệc. Vì thế tôi không chọn lời, mà chọn một chữ chung cho cả khách lẫn chủ trong bữa tiệc, là chữ “ăn” để xây dựng cho bài giảng hôm nay.
1. Tầm quan trong của “ăn” trong hành vi và lời dạy của Chúa
2. Bên kia chữ ăn (Beyond eating).
***
1. Tầm quan trọng của “ăn” trong hành vi và lời dạy của Chúa
– Hành vi: Trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Ngài liên quan đến cái ăn: Ngài đi ăn cưới tại Cana. Ngài ăn tiệc do những người biệt phái khoản đãi, mà bài Tin Mừng hôm nay là bữa tiệc do chính thủ lãnh nhóm Pharisêu mời đến. Ngài chia sẻ thân mật với bữa cơm gia đình của ba chị em Mattha, Maria và Lazarô, mà ở đó Matta rối ríu với món gỏi này, món nộm kia, còn Maria khôn ranh ngồi nghe lời Ngài. Ngài lại ngồi ăn ngồi uống đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi. Rồi cả sau khi sống lại, Ngài cũng hiện ra trong lúc ăn uống. Luca ghi: “Đang khi các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: ‘Ở đây anh em có gì ăn không?’ Họ đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc 24, 41-43). Nhưng quan trọng hơn cả đó là Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ tại nhà Tiệc Ly. Và khi sống lại, 2 môn đồ trên đường Emmau nhận diện được Chúa cũng là qua bữa ăn: Khi đồng bàn với họ (chứ không phải khi cầu nguyện với họ), mắt họ mở ra (Lc 24,31) (làm như thấy đồ ăn thì sáng mắt ra!).
Chúa Giêsu thường bị những người biệt phái và luật sĩ bắt gặp trong các bữa ăn, đến độ những người biệt phái gọi Ngài là một tên “mê ăn uống,” nhậu nhẹt say sưa. Chúa Giêsu có lần nói “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: `Ông ta bị quỷ ám.’ Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: `Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi (Lc 7:34).
– Lời dạy: Nhưng bữa ăn quan trọng và ý nghĩa đến độ Chúa Giêsu đã lấy đó làm một trong những đề tài chủ yếu trong những lời rao giảng của Ngài. Có biết bao nhiêu lần Chúa Glêsu đã ví Nước Trời như một bữa tiệc, và như bữa tiệc cưới. Nước Trời là một tiệc cưới, trong đó Thiên Chúa mời gọi mọi người đến dự tiệc, không trừ một ai. Vậy trong hành vi và trong ngôn từ, Chúa Giêsu gắn bó với chữ ăn, với bữa tiệc khá đậm đà khiến ta phải suy nghĩ về tầm quan trọng của nó.
Nếu Đức Giêsu là người Việt-Nam, giảng bằng tiếng Việt, thì chắc hẳn Ngài còn sử dụng nhuần nhuyễn chữ “ăn” này trong nhiều lãnh vực khác nữa.
Có lẽ không có ngôn ngữ nào trên thế giới này mà chữ ăn xâm nhập vào đủ các góc cạnh của cuộc sống như ngôn ngữ Việt.
– Không có một động tác nhai nào mà vẫn cứ gọi là ăn: Nào là ăn gian, ăn bám, ăn quỵt, ăn đứt, ăn hiếp, ăn thua, rồi lại ăn cắp, ăn cướp, ăn trộm (trộm đồng hồ chứ đâu phải ổ bánh đâu, vậy mà cứ ăn thôi: ăn trộm).
– Hoà hợp với nhau thì có ăn khớp, ăn nhịp, ăn jeu và ăn ý. Động tác hoà hợp vợ chồng cũng không vắng được chữ ăn: ăn nằm, ăn ở, ăn đời ở kiếp.
– Cái không ăn được, vẫn cứ ăn: ăn ảnh, ăn khách, ăn tiền: “ông ấy ăn tiền dữ lắm”.
– Cái không được ăn, vẫn gọi là ăn: ăn chay. Chữ ăn chay này làm tôi nhớ lại thủa nhỏ khi nghe người lớn nói, hôm nay ăn chay đó, cũng đòi mẹ cho mình ăn chay nữa. Thấy ăn là đòi của con nít, chứ đâu hiểu ăn chay là không ăn. (Déjeuner. Breakfast: ăn sáng là phá chay).
– Chắc Chúa Giêsu người Việt sẽ dạy chúng ta một từ “ăn” hơi xưa một chút, nhưng vẫn còn hiểu được: ăn lời. Con cái không ăn lời cha mẹ, con cái hư; các ngươi không ăn lời Ta (nghe và giữ lời Ta) sẽ không được vào Nước Trời. “Không phải cứ nói lạy Chúa lạy Chúa là được vào nước Trời, nhưng…”
– Và dĩ nhiên, Chúa Giêsu người Việt sẽ luôn nhắc nhở chúng ta ăn… ăn-năn. Hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã gần.
Ta đang trong mục tìm hiểu về tầm quan trọng của chữ ăn trong hành vi và tư tưởng của Chúa Giêsu. Ta cũng tưởng tượng nếu Ngài giáng sinh trên đất Việt, con của đức nữ trinh Nguyễn thị Mít thì ắt hẳn Ngài sẽ dùng chữ “ăn” nhiều hơn nữa trong lời giảng với đầy đủ các góc cạnh ý nghĩa khác nhau của nó. Và Ngài, Đức Giêsu người Việt sẽ dự nhiều bữa ăn hơn nữa, như người ta vẫn thường đồn thổi: người Việt gặp nhau là mời nhau đi ăn cái đã.
Chúa Giêsu, tuy không là người Việt, nhưng rất coi trọng bữa ăn, như chúng ta đã kể sơ qua trên kia. Ngài rất nhiều lần ví nước Trời như bữa ăn, -mà bữa ăn lớn cơ- tức là bữa tiệc. Không phải tiệc trang trọng hội nghị khuôn phép, mà là tiệc hân hoan vui mừng: tiệc cưới. Nước Trời ví như nhà vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử… Nước Trời ví như 10 nàng trinh nữ đi đón chàng rể, chứ không phải đón chủ tịch, đón tổng thống. Đón chàng rể là có ăn, có tiệc…
Chính Ngài đã làm một hành vi để đời, là lập bí tích Thánh-Thể trong bữa ăn, chứ không phải trên núi cao khi cầu nguyện, trong đền thờ lúc dâng hương. Và chính bí tích Thánh Thể lại là một bữa ăn. “Hãy cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy mà uống.” “Ai ăn… sẽ được sống đời đời.”
Vì Chúa Giêsu đề cao bữa ăn trong hành vi và lời dạy của Ngài, nên chắc hẳn Ngài có ý gì đó chứ, chứ không phải Ngài chủ trương sống để ăn đâu. Ăn để sống thì có thể. Và thế là ta qua phần 2: Cái bên kia của bữa ăn (beyond eating).
2. Bên kia chữ ăn
Chúa muốn dạy gì khi Chúa đề cập nhiều đến chữ ăn, đến bữa tiệc. Bài Tin Mừng hôm nay hé cho ta một lời đáp: Chia sẻ. Ngài muốn dạy: hãy chia sẻ. Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14).
Chúa lập bí tích Thánh Thể không phải để cho ta thờ lạy đâu. Quỳ sốt sắng hát thờ lạy Chúa, thờ lạy Chúa… không phải là lý hiện hữu của Mình Thánh Chúa. Chúa lập bí tích này trong bữa ăn, và chính bản thân bí tích là một bữa ăn, là để “chia sẻ.” Ngôn ngữ phụng vụ thủa ban đầu thay vì gọi thánh lễ, là gọi đích danh tên thực của nó: lễ bẻ bánh. Không phải tấm bánh nguyên, mà là bẻ ra. Bẻ ra để chia, chứ không phải bẻ ra cho nhỏ để dễ nuốt. Đại Hội Thánh Thể Quốc tế tổ chức tại Lộ Đức năm nào có đề tài thật thích hợp: Tấm bánh Bẻ ra. Người cầm lấy bánh, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà nói: tất cả hãy cầm lấy mà ăn…Bẻ ra tức là chia sẻ, chứ không phải để nguyên giữ cho riêng mình. Có nhiều hình thức để bẻ ra chia sẻ và cũng có nhiều cái khác-cái-ăn để sẻ chia.
Tạm kết ở đây:
Chúa ăn nhiều và nói nhiều về ăn. Không phải là Chúa tham ăn hay là tay sành điệu về các món nhậu. Ngài muốn dạy một điều: ăn là cái dễ chia sẻ hơn cả. Quần áo, có thể vừa hoặc không. Điện thoại di động chia cho ai mà họ không biết dùng thì cũng như không. Riêng ăn, thì dễ chia sẻ nhất, nhất là khi người ta đói. Đói, ăn gì cũng ngon. Thánh lễ là một bữa ăn. Nếu ta không có tinh thàn chia sẻ, thì việc ăn Mình Thánh Chúa quả là một xúc phạm, vì Ngài không còn là tấm bánh bẻ ra chia cho mọi người. Thánh Phaolô cũng nói mạnh hơn thế trong thư 1Cr 11: Ăn mà không biết sẻ chia, là ăn lấy án phạt!
Hãy có tấm lòng biết chia sẻ.
—————————–
Đọc thêm:
1. Carlos là đứa trẻ đường phố thuộc khu ngoại ô vòng đai của Manila. Tuổi thơ đã để lại trên bé nhiều vết sẹo chìm, lắm vết thương lòng không sao chữa lành được. Nhưng linh mục coi xứ gần đó lại thường thấy cậu ở trong nhà thờ, nên ông rất thán phục đức tin can trường của cậu bé. Một ngày kia, trong khi ngồi toà giải tội –loại toà hộp, rất kín đáo- vị linh mục thấy cậu bé Carlos này rút một cọng cây lau nơi chổi quét nhà thờ. Cậu ép một miếng kẹo cao su đã dùng nơi một đầu của cọng lau và rồi nhét cọng lau với đầu có kẹo cao su dính đó vào khe thùng tiền của kẻ khó, gọi là poor box. Cậu vất vả kéo ra từng tờ giấy bạc, từng đồng tiền kẽm. Rồi cẩn thận, cậu trả cọng lau về với cái chổi và bước nhanh ra khỏi nhà thờ. Vị linh mục quyết định đi theo xa xa. Ông thấy cậu dừng chân tại quầy bán bánh, mua một bao to bánh mì nóng hổi và đi thẳng tới một nơi các trẻ em đường phố khác đang tụ họp tại đó. Các em cầu nguyện và ăn tất cả những chiếc bánh đó. Một buổi họp mặt thật hạnh phúc. Kết thúc câu chuyện là: vị linh mục đó, quyết định gia nhập vào nhóm trẻ bụi đời này.
2. Bữa ăn mang ý nghĩa chia sẻ. Nhưng nếu không sẻ chia được bữa ăn vì chưa đủ hoàn cảnh, thì ta cũng có thể sẻ chia những thứ khác. Các bạn trẻ đây có thể chia sẻ tri thức, chia sẻ học vấn, chỉ vẽ cho nhau, giúp đỡ giới thiệu nhau tìm việc làm… tất cả đều là ý nghĩa bên kia của bữa ăn. Riêng cái này, các bạn có thể và làm ngay được là chia sẻ niềm vui, chia sẻ nụ cười cho nhau. Ăn nơi cái miệng, và nụ cười cũng nơi cái miệng, cửa môi:
3. Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc. Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp kia hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống vui tươi, hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Vậy là bạn không thể thoái thác vì nói rằng mình không đẹp để cười, hoặc cười không được đẹp. Hãy cứ chia sẻ niềm vui, bạn sẽ có niềm vui.

11. Tự hạ & yêu thương phục vụ – Am Trần Bình An
Vào ngày Thứ Sáu, 28.11.2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến công du quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi máy bay hạ cánh tại phi trường Ankara-Esenboga, thay vì lên một chiếc xe limousine Mercedes bóng nhẫy, lộng lẫy, dành cho quốc khách, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại tự ý lên một chiếc xe Volkswagen Passat tầm thường, cùng ở trong đoàn xe đón ngài, khiến các quan chức Thổ bất ngờ, lúng túng không biết phải ứng xử ra sao.
Trước khi bắt đầu cuộc công du Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Giáo Hoàng đã ngỏ ý không muốn đi xe sang trọng, nhưng chính phủ Thổ làm ngơ. Nhưng rồi họ cũng đành chấp nhận, khi ngài lên chiêc xe Volkswagen Passat không bọc sắt chống khủng bố. Khi đến thăm bảo tàng Hagia-Sofia-Museum, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng dùng xe Renault Clio rất nhỏ thay vì xe Mercedes sang trọng.
Quan sát viên cho rằng đây là một tấm gương khiêm nhường. Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hiện thân của sự khiêm nhường đạm bạc, muốn bày tỏ với Tổng thống Thổ Recep Tayyip Erdogan vừa cho xây xong dinh thự tổng thống tốn đến hơn 500 triệu Euro. TT Erdogan là người chuộng sang trọng, xa xỉ, hệt như chính trị gia ở nhiều nước khác. (Duong Hong-An, Tấm Gương Khiêm Nhường)
Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đầy Tớ các đầy tớ của Chúa, đã dứt khoát từ chối sự ưu ái đặc biệt dành cho quốc khách, để hoà mình vào công chúng, theo như huấn dụ Tin Mừng. Trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay, Đức Giêsu được mời dự tiêc trong ngày Sabat tại nhà một thủ lãnh Biệt phái. Thấy thực khách tranh giành nhau chỗ ngồi trên, Người giảng huấn về lòng khiêm nhường và yêu thương phục vụ.
Tự hạ
– “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa; vì chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền năng cao cả, và mọi kẻ khiêm nhường phải tôn vinh Chúa.” (Hc 3, 18) Lời giáo huấn của kinh sư Ben Xira sau này được Đức Giêsu tóm tắt cụ thể và súc tích hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” (Mc 9, 35) Lời Chúa không chỉ dành cho những người lãnh đạo có chức có quyền, mà còn dành cho tất cả mọi người, đều cần khiêm tốn, tự hạ đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Khiêm hạ trước Thiên Chúa, vì con người chỉ là tạo vật đầy khiếm khuyết, bất toàn, hữu hạn trước Đấng Tạo Hoá chí tôn toàn năng, vĩnh cửu. Tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Chúa trao ban nhưng không, từ thân xác, tinh thần, linh hồn, sở trường, trí tuệ, tài năng.”Tất cả là hồng ân,” như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm sống, tuy đời ngài ngắn ngủi, đầy gian nan, thử thách.
Trong tâm tình khiêm hạ, biết ơn, cảm tạ, nhạc sĩ Phanxicô đã thành tâm cảm nhận phận hèn con người, chẳng biết lấy gì báo đáp Đấng Tạo Hoá: “Lạy Chúa con chỉ là tạo vật, Chúa thật (í a) sang giàu. Có gì mà dâng Chúa đâu, có gì mà dâng Chúa đâu. Vì trước mặt Chúa Thái Sơn cũng mọn hèn, dòng sông cả mấy sâu có là mấy đâu. Giữa đời con đây nhỏ bé, biết tìm chi dâng tiến Ngài.” (Ns Phanxicô, Con chỉ là tạo vật)
Tiếp đến, mỗi người còn cần khiêm tốn với đời, vì biết bao học thuật, nghệ thuật, kiến thức được chắt lọc, tích luỹ từ hàng bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu công sức sáng tạo, tìm tòi, thử nghiệm, của các nhà thông thái, học giả, khoa học gia, nghệ sĩ. Chẳng qua, ai đó biết làm mới lại, đào sâu thêm, hay dựa vào đó sáng chế. “Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra: Dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ?” (Gv 1, 9)
Cuối cùng, ai cũng thật cần khiêm nhường với tha nhân, vì chẳng ai tài sắc vẹn toàn. Người được cái này, thì mất cái nọ. Cũng chẳng ai nắm tay thâu đêm. Nên luôn phải hãm mình khiêm hạ, chớ tự cao, tự đắc, tự đại, kiêu căng, ngạo mạn, kinh rẻ, xúc phạm tha nhân, kẻo bị luận phạt. “Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Ðồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5, 22) Hơn nữa, có khiêm nhường mới có thể nhận ra cái sai, cái thiếu sót, lỗi phạm của mình, để học hỏi, canh tân, nhờ tha nhân giúp đỡ, chỉ dạy.
Tóm lại, khiêm nhường là đức tính thiết yếu của thân phận làm người, dám can đảm chấp nhận sự thật của chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh, dẫu có bẽ bàng, yếu đuối, khiếm khuyết, tội lỗi, xấu xa, để biết ứng xử đúng đắn, lễ độ, cung kính, với Chúa và tha nhân. Với người Kitô hữu, càng nhất thiết phải sống thật khiêm hạ, vì Đức Giêsu “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), vì Người đã hết sức chân tình khuyên nhủ và mời gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng.” (Mt 11, 29. Nếu không thì “kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28)
Trước nhan Thánh Chúa, dù đã làm tròn bổn phận và trách nhiệm cũng cần luôn khiêm nhường thân thưa:“Chúng con là những đầy tớ vô dụng, chúng con đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (Lc 17, 10) Đừng vênh váo, kiêu căng kể lể, khoe khoang công đức, như dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ:“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 19, 10-14)
Yêu thương phục vụ
Bữa tiệc của một thủ lãnh Biệt phái hôm nay phục vụ thật chu đáo, nhằm phô trương thanh thế, bánh ít đi bánh qui lại, vừa có tiếng lẫn có miếng. Nên ngoài Đức Giêsu và các môn đệ, thực khách còn lại toàn là các bậc vị vọng, đáng kính, đồng trang lứa, đồng vai vế, chức sắc, quyền cao chức trọng, “phe ta” cả. Chẳng hề thấy bóng dáng một người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù, sứt mẻ nào dám bén mảng đến. Nếu ông chủ tiệc hào phóng, tha thiết mời cả những kẻ bần cùng khốn khó ấy vào chung vui, thì chắc hẳn “ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại.” Nhưng sự khôn ngoan thế gian chẳng bao giờ dễ dàng chấp nhận như thế.
Tin Mừng luôn nghịch lý thế gian. Người thủ lãnh “không dùng quyền uy mà thống trị,” trái lại trở nên người phục vụ thân thương và chu đáo, như Đức Giêsu đã xác định công khai sứ vụ: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 24-27). Vì thế, Người khuyên nhủ các môn đệ, các tín hữu Kitô hãy noi gương phục vụ: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 1-15)
Theo Đức Giêsu, phục vụ tha nhân hoàn toàn vô vi lợi, thắm tình yêu thương, bác ái, nhân ái, không phân biệt hay loại trừ bất cứ ai. Dân Việt ta có câu: “Thương người như thể thương thân,” cũng giống với Tin Mừng: “Hãy yêu người thân cận như chính bản thân mình.” (Mt 22, 35-40) Người thân cận nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn cần được giúp đỡ, chính là Đức Giêsu ẩn mình: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; … (Mt 25, 35-36)
“Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật.” (Đường Hy Vọng, số 509)
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu và soi sáng chúng con nhận biết mình là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” trước Thiên Chúa chí thánh, để chúng con luôn biết khiêm hạ với Chúa và với tha nhân. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con luôn yêu thương phục vụ mọi người trong mọi nơi, mọi lúc. Amen.

12. Nhận và cho nhưng không – Am Trần Bình An
Sau khi được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức nước Pháp, chị Bênadêta đã xin vào tu viện một dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa nhật kia, vào năm 1876, một nữ tu đưa cho Bênadêta xem bức ảnh người ta đã chụp chị ở hang đá Lộ Đức trước đây để xem phản ứng chị thế nào.
Đang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên Bênadêta hỏi:
– Người ta dùng chổi để làm gì hả chị?
– Để quét nhà.
– Quét xong họ để chổi ở đâu?
– Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ “cư trú” thường lệ của nó.
– Đời em cũng thế chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi! (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng)
Hôm nay trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Đức Giêsu đến dự tiệc do một thủ lãnh Pharisiêu khoản đãi. Thấy thói đời bon chen, giành nhau ghế đầu, cũng như ưa phục vụ người cao sang, quyền quý, hay bạn bè, thân hữu, Người nhắn nhủ về thái độ nhận và cho. Chị Bênadêta nhận được ơn trọng đại, đã chia sẻ cho mọi người, rồi chị âm thầm ẩn mình vào Dòng Kín, noi gương Mẹ khiêm nhường.
Nhận
Nhận là lãnh, thâu lấy cái gì người khác trao, gửi, đem đến cho mình, từ vật chất đến tinh thần. Nhận quà cáp, nhận lời mời dự tiệc, nhận lời khen, tiếng chê. Trong quan hệ gia đình, cộng đoàn hay xã hội, nhận và cho thể hiện mối quan hệ hỗ tương giữa hai người, hay giữa cá nhân với tập thể, hoặc ngược lại.
Trong bản thân, mỗi người cũng tự nhận mình như thế này, thế nọ. Thường dễ cường điệu, chủ quan, tự trang điểm, nhuận sắc cho mình hay ho, tốt lành, đẹp đẽ. Thường tánh kiêu ngạo tiềm tàng khiến người ta luôn cảm thấy tự mãn, hợm hĩnh giỏi giang, khôn ngoan, thông minh, tài năng hơn tha nhân. Nhất là bao giờ cũng cho mình có giá trị hơn người khác, vượt trội hơn, cao trọng hơn. Mình luôn luôn number one! Dĩ nhiên, cũng không thiếu kẻ lại mặc cảm tự ty, luôn cảm thấy thua kém thiên hạ.
Đức Giêsu khuyên nhủ hãy khiêm tốn ngồi vào chỗ cuối, để nhìn lại kỹ bản thân. Biết sự thật về mình, vốn là tạo vật, đầy khiếm khuyết, đầy nết hư tật xấu. Hơn nữa, còn lấm lem tội lỗi kín đáo, chắc gì tốt lành hơn ai, mà cứ còn đòi chọn chỗ nhất mà ngồi.
“Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25: 6-7).
Quan trọng nhất là hiểu biết mình đang nhận hồng ân của Thiên Chúa ban cho mình, từ khi tượng thai cho đến khi quay về với cát bụi. “Tất cả đều là hồng ân!” như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thốt lên. Nhận được những ơn phúc tràn trề, chúng ta mới có điều kiện thăng tiến, phát triển thân xác cũng như tình cảm và trí tuệ, hơn người này kẻ kia. Nếu họ cũng có cơ hội như chúng ta, và khéo léo dùng vốn liếng Chúa ban cho, có khi còn kết quả, thành đạt hơn chúng ta.
Do vậy, luôn sống khiêm nhường, tự hạ, bé nhỏ, tầm thường, mới có thể nhận thức thân phận bọt bèo, mà cảm tạ tri ân, ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa, để không còn dám vênh váo, tự mãn kiêu ngạo, trước mặt thiên hạ.
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52)
Hiểu thấu thân phận vốn nghèo nàn, được nhận lãnh biết bao hồng ân, mà người đời quen coi là may mắn, mới trân trọng nhân đức khiêm nhu, tự hạ. Thánh Phanxicô Borgia thấm thía tấm gương khiêm nhường tuyệt hảo của Chúa Giêsu: “Tôi thực tâm muốn đặt mình ở dưới Giuđa, vì tôi đã thấy Ðức Giêsu ngồi dưới chân anh ấy.” Nếu chúng ta chọn ngồi ở chỗ cuối, thì chỉ vì đó là chỗ ngồi quen thuộc của Ðức Giêsu.”
Cho
Nếu đã nhận nhưng không những ơn huệ Chúa ban tặng, thì cũng biết cho đi nhưng không, biết phục vụ vô tư, không vụ lợi, không đặt điều kiện với người nhận, người được phục vụ, không màng đến chuyện trả ơn báo đáp. Vì tất cả việc tốt lành, hy sinh, bác ái chưa thể nào đền đáp, sánh nổi những gì đã nhận miễn phí từ Thiên Chúa.
Cho đi âm thầm, không khoa trương, không đánh trống, khua chiêng, thổi kèn, hầu kiếm chút danh thơm phù phiếm. Vì Đức Giêsu đã dăn dặn: “Còn anh em khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,1-4).
Cho đi cả thương yêu, không đắn đo tiếc rẻ. ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6,38)
Cho đi vô tư là phục vụ tận tình. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 45)
Cho đi cả cuộc đời, như, noi gương Đức Giêsu chịu khổ nạn để cứu độ nhân loại, thánh Maximilianô Kolbe chết đi thay người bạn tù.“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (Ga 15,13)
“Người khiêm nhường như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp!” (Đường Hy Vọng, số 517)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn thương yêu những tâm hồn bé bỏng, đơn sơ, khiêm nhu, bác ái. Xin dạy chúng con biết khiêm nhường mà dấn thân phục vụ vô vị lợi, để được Chúa yêu nhiều hơn.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã thấu hiểu tình yêu Chúa dành cho những ai khiêm tốn, nhỏ bé khi Mẹ ca tụng: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52). Xin Mẹ luôn luốn nhắc nhở và dạy chúng con biết khiêm nhường, để được Chúa đoái thượng phận hèn tôi tớ. Amen.

13. Khiêm tốn và vô vị lợi – Lm. GB. Trần Văn Hào
Trong xã hội ngày nay, người ta nói khá nhiều về sự khiêm tốn. Những khẩu hiệu như ‘Cán bộ là đầy tớ của nhân dân’ được treo dán khắp nơi, nhưng trong thực tế, nhiều khi những biểu thức đó chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch. Ngay cả nhiều anh em linh mục vẫn bị giáo dân than phiền vì thái độ hống hách và quan quyền trong cách ứng xử. Khiêm tốn là một đức tính căn bản và cần thiết trong mọi tương giao xã hội. Hơn thế nữa, đây lại chính là cốt lõi của linh đạo Thập giá mà Chúa nói đến trong Tin Mừng hôm nay. Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi khởi nguồn từ chính khuôn mẫu nội tâm mà Đức Giêsu đã diễn bày qua cái chết của Ngài.
Linh đạo Thập giá.
Ngày 19 tháng 05 năm 1997, ông Kofi Anal Tổng Thư ký Liên hiệp quốc phát đi một bản cáo phó gửi đến toàn thế giới với nội dung ‘Một người quyền lực nhất thế giới vừa mới vĩnh viễn rời bỏ chúng ta’. Người giàu quyền lực ấy là ai? Thưa, chỉ là một phụ nữ ốm yếu già nua, đã 87 tuổi, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ mình. Người giàu quyền lực ấy đã phải ngửa tay xin từng cái giường cũ để chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh, và khi chết vẫn không có một xu dính túi. Đó chính là Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta. Con người giầu quyền lực ấy là một phụ nữ yếu ớt đã sống khiêm tốn không phải với khẩu hiệu xuông, nhưng bằng lối sống rất cụ thể. Một con người đã can đảm đi đến mọi ngõ ngách của thế giới để chung chia cuộc sống vơi những người cùng khốn. Sự khiêm tốn mà Mẹ Têrêsa đã thể hiện khởi nguồn từ chính Thập giá. Trong cầu nguyện và suy niệm, Mẹ đã nghe văng vẳng lời Chúa Giêsu vang vọng trên Thánh giá: “Ta khát”. Suốt cuộc sống, Mẹ đã cố gắng sao chép lại hình ảnh của Đức Giêsu, đấng ‘vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hang với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài đã tự hạ vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá’ (Phil 2,6-8).
Thập giá Đức Giêsu là khung quy chiếu căn bản về sự khiêm nhường mà các bài đọc lời Chúa hôm nay trình bày. Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn ca viết: “Càng tự hạ, con càng làm đẹp lòng Đức Chúa. Người được tôn vinh nơi kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng vô phương cứu chữa”. Đương nhiên, các sách Cựu Ước chưa thể đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu, nhưng đã từ từ vén mở cho chúng ta con đường dẫn đến hoàn thiện. Đích đến của con đường này chính là Thập giá.
Trong bài Tin mừng với dụ ngôn về một ông chủ mời các thực khách đến ăn cưới, Chúa cũng đưa ra huấn dụ về sự khiêm tốn. Ngài kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Theo bản tính tự nhiên, ai cũng muốn được mọi người nể trọng, có được địa vị cao sang trong xã hội. Chẳng ai thích trở thành ‘kẻ rốt hết’ trước mặt các bá quan văn võ. Khiêm tốn để hạ mình xuống, điều đó mọi người chúng ta ai cũng biết, nhưng không phải dễ thực hành. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói với một chút cường điệu: “Ai cũng có cái tôi. Khi chúng ta chết rồi, 15 phút sau, cái tôi đó mới chết hẳn”.
Ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh, tác giả sách Sáng thế đã nói đến sự sa ngã của nguyên tổ. Tội đầu tiên du nhập vào trần gian chính là tội kiêu ngạo và người gây ra là Adam. Trong thư Rôma chương 5, Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy hình ảnh song đối giữa Adam cũ và Adam mới, là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã cho chúng ta được công chính hóa nhờ cái chết của Ngài. Ađam cũ gieo mầm sự chết do kiêu ngạo. Đối lại, Ađam mới làm cho chúng ta nên công chính nhờ khiêm tốn và vâng phục. Nói tóm lại, sự khiêm tốn mà Chúa Giêsu mời gọi, đặc biệt qua bài Tin Mừng hôm nay, chính là một nền linh đạo khởi phát từ mầu nhiệm Thập giá.
Tinh thần vô vị lợi.
Chúa Giêsu nói dụ ngôn hôm nay trong khung cảnh một bữa ăn. Một người Pharisiêu mời Ngài đến nhà dự tiệc. Đương nhiên, hiện diện trong bữa tiệc hôm đó còn có nhiều vị khách quý khác, có thể có những nhân vật ‘tai to mặt lớn’ trong xã hội thời bấy giờ. Người ta thường xếp chỗ ngồi theo thứ bậc. Đó là điều rất thường tình và ở đâu cũng thế. Giáo xứ có tiệc mừng, đương nhiên Đức Cha sẽ được ngồi vào chỗ trọng vọng nhất, rồi đến các Cha, các viên chức, rồi mới đến ‘quần chúng nhân dân’. Điều này không có gì đáng nói. Nhưng nhân cơ hội, Chúa dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn, hãy chịu khó ngồi vào chỗ rốt hết để được mời lên trên. Chúng ta không cần bàn đến những nghi tiết xã hội hay những tập tục theo phong hóa địa phương và những chuyện đó không quan trọng lắm. Song, tinh thần khiêm tốn biết hạ mình xuống mới là nội dung mà Chúa nhắm đến để khuyến mời. Tinh thần khiêm tốn này đi đôi với một tấm lòng vô vị lợi. Đây là điều rất thực tế mà chúng ta cần nghiền gẫm để đem ra thực hành.
Trong xã hội hiện nay, người ta vẫn thường áp dụng nguyên tắc ‘Có đi có lại mới toại lòng nhau’ hoặc ‘Ông đưa cái giò bà thò chai rượu’. Người ta thường hay nói: “Ở trên đời này, chẳng ai cho không một cái gì”. Không phải đây chỉ là lề thói xã hội, nhưng ngay cả trong Giáo hội, người ta vẫn hay thực hành theo lối suy nghĩ ấy. Đám cưới con gái tôi, ông đi phong bì 500 ngàn, mai mốt đến đám cưới con gái ông, tôi cũng phải ‘lại quả’ 500, không nhiều hơn cũng chẳng ít hơn. Đó là sự sòng phẳng theo lề thói xã hội. Ngay các Cha vẫn hay ứng xử như vậy. Ngày lễ bổn mạng giáo xứ tôi, Cha đến đồng tế, khi nào đến lễ bổn mạng giáo xứ của Cha tôi cũng sẽ ‘phải’ đến để đáp lễ hay để ‘trả nợ’. Còn Cha không đến, thì tôi, tôi cũng sẽ không đến. Ở một mức độ nào đó chúng ta thấy có vẻ hợp lý, nhưng trong trật tự nước trời thì không phải vậy. Trong trật tự mới này, Chúa có vẻ như thách đố chúng ta. “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt. Họ không có gì đáp lễ và như thế ông mới thật có phúc vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Điều Chúa thách đố xem ra có vẻ hơi khác thường và ‘dở hơi’. Nhưng đây lại chính là sự dở hơi thánh thiện phát nguyên từ Thập giá mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn sâu vào. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã cho đi tất cả, không so đo tính toán, không mong được đáp đền. Đó chính là một ‘Tình cho không biếu không’ cách tuyệt đối, một tình yêu vô vị lợi mà chúng ta phải nghiền ngẫm, phải đào sâu và phải cố gắng đem ra thực hành.
Kết luận:
Sự khiêm tốn nội tâm và tấm lòng quảng đại trao ban vô điều kiện là linh đạo Thập giá của tất cả mọi người chúng ta, từ các anh em linh mục, tu sĩ đến giáo dân. Trong lá thư thứ nhất, Thánh Phêrô tông đồ đã dạy: “Anh em hãy trang điểm bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho những ai khiêm nhường (1P 5,5). Cũng vậy, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Anh em hãy học với tôi, vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Học nơi ngôi trường này, chúng ta phải cần cù, phải siêng năng, phải học mãi, phải học cho đến suốt đời và chẳng bao giờ có thể tốt nghiệp.

14. Thứ nhất khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khiêm nhường là một đức tính đáng quý, cần phát huy của mỗi con người. Khiêm nhường sẽ giúp con người thành công một cách vững chắc nhất. Chẳng thế mà trong lịch sử nhân loại đã không có ít bậc danh nhân vì chán ghét cảnh tranh chấp quan trường mà cáo quan về ở ẩn. Họ luôn giữ cho lòng mình trong sáng, tinh thần khiêm tốn, thanh cao. Thực tế, khiêm nhường là đặc điểm chung của các nhà lãnh đạo tuyệt vời, các vị cao sang đều mến chuộng đức khiêm nhường. Người ăn ở khiêm nhường chẳng những được người đời kính trọng mà cả Thiên Chúa cũng yêu thích kẻ khiêm nhường. Lời Chúa trong sách Huấn Ca dạy: “Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa” (Hc 3, 19-21. 30-31).
Hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học quan trọng là ở khiêm nhường. Người mời gọi chúng ta vượt qua thói háo danh để sống tự hạ và khiêm nhường. Nhiều khi chúng ta hiểu sai về khiêm nhường. Khiêm nhường không có nghĩa là tự coi mình không có giá trị gì, không phải là khinh rể bản thân, hay thụ động, không dám nhận trách nhiệm. Khiêm nhường lại càng không phải là một mặt nạ để lôi kéo sự chú ý của người khác: tôi hạ mình xuống để được tôn lên.
Người khiêm nhường là người chấp nhận sự thật, nhận biết thân phận thụ tạo của mình, nhận mình là mình, có sao có vậy, những gì tôi có và cả con người tôi, đều bởi Chúa. Khiêm nhường là đón nhận đời mình như quà tặng Chúa ban, và dâng lại đời mình cho Chúa như một quà tặng. Khiêm nhường cũng là nhìn nhận sự thật về mình: tôi chưa hoàn hảo, có nhiều giới hạn, cần được tha nhân nâng đỡ, góp ý…
Giữa một thế giới tự cao tự đại, kiêu ngạo, giả hình, háo danh, đề cao quyền lực và lợi nhuận, say mê thống trị và chiếm đoạt, bè phái và chia rẽ, thái độ công kích, đối đầu vẫn thường bị nhầm lẫn là sức mạnh thì người khiêm nhường không được đánh giá cao; bởi người ta đánh đồng khiêm nhường với yếu đuối.
Bằng dụ ngôn khách được mời tới dự tiệc cưới, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy khiêm nhường dành chỗ nhất, chỗ trọng cho người khác: “Đừng tìm kiếm chỗ nhất “. Chúa biết chúng ta thường thích chỗ nhất ở nơi công cộng, trong nhà cũng như ngoài phố, nơi hội họp cũng như bàn ăn… Người biết ý định của chúng ta, nên Người khuyên chúng ta: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất” (Lc 14,8).
Chỗ nhất là chỗ quan trọng nhất. Ta chọn ngồi chỗ nhất là vì ta thấy mình quan trọng, xứng đáng được hưởng vinh dự đó… Tiếc thay, chỗ nhất chỉ có một chứ không có nhiều, nên người ta phải tranh giành nhau bằng mọi thủ đoạn để chiếm được và giữ được chỗ nhất cho mình. Những cuộc tranh giành như thế vẫn diễn ra nơi gia đình, trong cộng đoàn, trong nhóm, trong giáo xứ, giữa các quốc gia… Ở đâu có hai người trở lên là có đụng chạm, chỉ vì có một chỗ nhất. Vì thế Chúa Giêsu khuyên bảo ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Ai tôn mình lên, dù lộ liễu hay kín đáo, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống. Ai thực tâm hạ mình xuống qua việc phục vụ, sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, tuy có giá trị đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý và bền vững. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, còn ai tự hạ thì rồi được tôn.
Vì muốn chọn chỗ nhất, nên ngươi ta thường thích giao du với người có thế giá, có học, có của, để dễ nhờ vả khi cần. Chính vì thế mà xã hội vẫn còn nhiều người bị bỏ rơi, vì nghèo túng, vì kém cỏi về mọi mặt. Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ ta trong việc chọn khách để mời ăn, nên mời những kẻ nghèo khó, tật nguyền, hơn là mời những người ruột thịt, thân quen, giàu có. Người đưa ta vượt qua óc tính toán vụ lợi, để đi vào thế giới của những người bất hạnh, giảm bớt sự kiêu căng, nâng cao đức khiêm nhường.
Khiêm nhường sẽ giúp cho bản thân mình nhận ra rằng còn điều gì thiếu sót mà mình phải hoàn thiện, học hỏi được từ người khác nhiều điều mà mình không có. Kẻ ăn ở khiêm nhường sẽ khắc phục được rất nhiều khuyết điểm, và hoàn thiện được bản thân. Khiêm nhường luôn đi liền với sự hòa nhã, hòa đồng với mọi người, vì tinh thần không ngừng cố gắng học hỏi. Còn kẻ tự mãn thì luôn thấy người khác là thấp hơn mình, không đáng học hỏi. Bởi vậy đức khiêm nhường vô cùng quan trọng, giúp cho mỗi con người chúng ta có thể thấy được rằng không có điều gì là đủ, là thừa. Càng khiêm nhường, chúng ta càng học được nhiều điều.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết ăn ở khiêm nhường để xứng đáng được Chúa yêu thương. Amen.

15. Con hãy hạ mình, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
“Nhằm một ngày sabbat”: xem ra chi tiết quan trọng này hé mở ra chân trời của Vương Quốc, nơi ấy Đức Giêsu chuẩn bị bữa tiệc dành cho chúng ta là những người được mời. Đây không phải là bữa tiệc bình thường, vì được diễn ra “trên núi Sion, là thành trì của Thiên Chúa hằng sống là Giêrusalem trên trời”, có sự hiện diện của “muôn ngày thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời” (Bài đọc 2). Là nơi chúng ta có quyền lợi ở đấy. Đó là điều Đức Giêsu muốn dẫn chúng ta trong Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn ám chỉ chỗ nhất trong bữa tiệc. Một vấn đề thương gây tranh luận trong các trường học Do thái thời Ngài. Thực ra, chủ nhà không có qui định chỗ ngồi cho các vị khác, nên mỗi người phải chọn lấy cho mình một chỗ sao phù hợp với địa vị của mình so với thực khách khác. Có thể có nhiều khách sang trọng hơn ta đến vào giây phút cuối, lúc ấy, cần phải thận trọng nhường chỗ cho những thượng khác đó. Họ có thể được mời vào chỗ vinh dự hơn, khi mà Chủ nhà ra dấu hiệu trong bữa ăn, vẫn còn nhiều chỗ trống, cũng có thế sớm muộn người ấy phải nhường chỗ cho người quyền chức đến vào giờ áp chót.
Lời khuyên của Đức Giêsu không có gì là cách mạng, vì sách Châm ngôn đã từng dạy: “Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng. Điều mắt con nhìn thấy” (Cn 25, 6-7). Thoáng nhìn, người ta có thể nghĩ, đơn giản chỉ là cách ứng xử thận trọng trong cuộc sống, nhưng quả thật, không dễ chịu chút nào khi thấy mình bị hạ xuống trước mặt mọi người. Hoặc là lịch sự so với các thực khách khác, vì họ xứng đáng vào chỗ nhất trong đám tiệc. Hoặc là chịu đựng có tính toán, hơi chút kiêu căng: tôi chọn chỗ dốt hết, với nụ cười trên môi thể hiện sự khiêm nhường, nhưng ẩn tàng hy vọng được mời bước qua trước mặt mọi người để lên ngồi chỗ nhất…
Đây không phải điều mà Đức Giêsu mong đợi chúng ta. Khi nói về Nước Trời; đôi lúc Ngài cũng thêm vào “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, người hạ bệ không ai khác ngoài Thiên Chúa, Ngài hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo là “người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), khi “sự thiện không có ở trong người ấy” (x. Rm 7, 18). Họ “tự cao tự đại, nên chẳng thấy tội mình mà chê ghét” (Tv 36, 3). Như người pharisiêu trong dụ ngôn, ông tự phụ khoe khoang trước mặt Thiên Chúa và người đời: “Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con không như những người khác” (Lc 18, 11). Ông ngửa mặt lên trời và xét đoán nghiêm khắc về tha nhân.
Trái lại, người khiêm nhường, trước Mạc khải tình thương của Thiên Chúa, họ ý thức về thân phận bụi đất của mình, nên “khiêm nhường”. Như người thu thuế (Lc 18, 13), hay như vịnh gia, than vãn: “Xin rủ lòng thương con, lạy Chúa: con kêu con gọi Chúa suốt ngày. Lạy Chúa, xin làm cho con được vui thoả, vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa. Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu tình thương với mọi kẻ kêu xin” (Tv 85, 3.5). Ý thức về thân phận tội lỗi của mình trước nhan Chúa, tin tưởng nài van và xưng thú tội lỗi cùng Ngài, là những điều căn bản của sự khiêm nhường.
“Những kẻ khiêm nhường” thực sự mới có thể nói lời “tạ ơn” đối với Thiên Chúa (Bài đọc 1) vì vinh quang từ đâu đến để chúng ta có thể “tạ ơn” Đấng Tối Cao, nếu không phải đến từ Thiên Chúa? Chúng ta đón nhận vinh quang ấy thế nào nếu không phải là nhận lãnh Tin Mừng với lòng thống hối ăn năn? Vì thế “ý tưởng của người khôn ngoan là lắng tai nghe” (Ibid.), họ nghe tiếng Chúa gọi, và “hướng về Đức Giêsu, trung gian của Giao ước mới” (Bài đọc 2), để đón nhận ơn cứu độ tự nơi Người.
Thật ý nghĩa trong kính Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi, vì Người đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ” (Lc 1, 46-48). Đức Maria “đầy ơn phúc”, vì Mẹ đã khiêm nhường tự hạ trước Đấng đổ tràn ơn phúc xuống cho Mẹ: “Ai tự hạ sẽ được tôn lên”. Triết gia Nietzsche trách Kitô giáo là tôn của những người yếu thế; thấp cổ bé họng; khi tán dương kẻ khiêm nhường ở dưới đất trong khi mong đợi tiến về trời cao. Một quan niệm về khiêm nhường như vậy thực sự mà nói quá thụ động với đòi hỏi của Tin Mừng. Tuy Đức Giêsu chịu đựng những điều lăng nhục trong cuộc Thương khó, nhưng Ngài đã chọn lựa con đường này có suy nghĩ: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Ph 2, 6-8), vì Ngài muốn “qui tu con cái Thiên Chúa tản mát khắp nơi về một mối”. Đức Giêsu hoàn toàn tự nguyện hạ mình xuống, để nâng chúng ta lên: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.” (Ga 17, 24). Sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Con biểu lộ đức ái cáo cả, Người ấp ủ trong lòng ơn cứu rỗi các linh hồn và tôn vinh Thiên Chúa Cha trong họ. Khiêm nhường thật để duy trì hạnh phúc phục vụ anh em, “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (x. Ph 2, 3). Đối với người yêu mến, thì phục vụ vô vị lợi là phần thưởng của họ: “Khi anh dọn tiệc mời khách, thì hãy mời những người nghèo; và anh sẽ hạnh phúc, vì họ không có gì để trả lại anh.” Anh có thể có bác ái trong sự khiêm nhường, vì người khiêm nhường không qui chiếu về mình nhưng làm phúc vô vị lợi đối với tha nhân trong tình yêu. Thế nên, Tình Yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa là khiêm nhường hoàn hảo nhất.
Lạy Chúa, xin đẩy xa tính ích kỷ, kiêu ngạo xa con, dẫn con đi trên đường chân lý là khiêm nhường, để con coi người khác trọng hơn mình, và tìm thấy niềm vui khi phục vụ người khác. Xin đừng để sự tự cao, tự đại làm con thỏa mãn; nhưng ban cho con ơn nhận ra Chúa luôn khiêm nhường, ẩn mình trong Bí tích Thánh Thể, là Thiên Chúa toàng năng, trao ban chúng con tình yêu và sự sống. Amen.

16. Những bàn tiệc – G. Nguyễn Cao Luật, OP
Từ bàn tiệc trần gian
Ðức Giêsu được mời đi dự một bữa tiệc. Tại đó, Người đưa mắt quan sát những sự việc đang xảy ra: những người hầu bàn chạy đi chạy lại, các quan khách trò chuyện trao đỗi, mời chào nhau, người này chọn chỗ nọ, người khác tìm chỗ thuận tiện cho mình. Không có gì thoát khỏi tầm quan sát của Ðức Giêsu. Trong một bữa tiệc như thế, tính cách và tâm trạng của con người được bộc lộ một cách rõ ràng. Trước mắt Ðức Giêsu, tất cả như tạo nên một bức biếm hoạ với cả những nét đáng yêu lẫn đáng ghét. Tất cả như một trò ngu xuẩn, một chuyện ngớ ngẩn.
Nhưng không phải chỉ có thế. Nếu Ðức Giêsu chỉ đến dự tiệc và đứng quan sát thì Người cũng giống như mọi người, hay vượt lên trên một chút mà thôi. Trái lại, Nggười đến với tư cách là Ðấng thiên sai đến tham dự bữa tiệc trần gian để mở ra một bữa tiệc khác, rộng lớn hơn, sang trọng hơn và đích thực hơn. Ðó là bàn tiệc Nước Trời. Người không mất giờ để nghĩ hay nói xấu bất cứ ai, Người có mặt trong bữa tiệc, cũng như trong trần gian này với mục đích khác.
Trước mắt Ðức Giêsu, bữa tiệc hôm nay là một thế giới thu nhỏ, trong đó con người sống, làm việc. Ðó là khuôn mặt của nhân loại với những tranh giành, những mưu toan, những niềm vui và nỗi buổn. Bữa tiệc không phải chỉ là ăn uống, đó là một nghi lễ có tính cách xã hội, trong đó có những nghi thức, có lễ nghi. Bữa tiệc cho thấy khuôn mặt của xã hội với những quy tắc, những giá trị của nó. Như thế, có thể nói rằng, bữa tiệc là một thứ “cơ cấu” được tỗ chức, được quy định cách rõ ràng. Kẻ nào muốn đụng chạm, muốn thay đỗi những nghi thức ấy, quả là liều lĩnh.
Vậy mà Ðức Giêsu muốn thay đỗi tất cả cái “cơ cấu” đó, bởi vì Người muốn hướng xã hội đến một tầm nhìn khác, cao hơn, đúng đắn hơn. Người đã đến trần gian trong thân phận của người tôi tớ, người phục vụ, và Người muốn cho nhân loại thấy đó chính là con đường đúng đắn nhất, con đường dẫn tới Nước Trời. Người đã nhiều lần cho thấy người ta phải sống với nhau trong một tinh thần mới, khác với những điều trước đây, đó là tinh thần khiêm tốn và yêu thương. Do đó, từ một bữa tiệc trần gian, Người đã bày tỏ tinh thần của Nước Trời, Người đã đưa ra một cách ứng xử khác với những thói quen xưa nay.
Còn có bàn tiệc khác
Trong mối quan tâm đến con người và trong tinh thần hiệp thông với Chúa Cha, Ðức Giêsu coi bữa tiệc hôm nay như một hình ảnh của Nước Trời. Nhưng để bữa tiệc trần gian này trở thành dấu chỉ đích thực cho vương quốc Thiên Chúa, cần phải có hai điều kiện:
– Trước hết: “Khi anh được mời đi dự tiệc… thì hãy vào ngổi chỗ cuối.” Ðây là cách thế hoạt động của Chúa Cha và cũng là của Ðức Giêsu. Thiên Chúa đã không bắt con người phải hầu hạ, nhưng đã sai Con của Người đến để phục vụ. Con Thiên Chúa đã đến trần gian không phải để áp đặt, nhưng là để bày tỏ Nước Thiên Chúa. Thay vì đến xét xử trần gian, Con Thiên Chúa đã hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc. Trong suốt quãng đời sống trên trần thế, Ðức Giêsu luôn sống như một người nghèo. Người đã chia sẻ thân phận của những người bị loại bỏ, bị đẩy ra bên lề xã hội. Không ít lần Tin Mừng đã thuật lại mối quan hệ của Ðức Giêsu với những người, mà trước mắt con người thời xưa cũng như thời nay, được gọi là những kẻ tội lỗi. Ngay cả những người bị xã hội lãng quên vì bệnh tật, vì hoàn cảnh, Ðức Giêsu cũng đến bên họ để nâng đỡ, để chữa lành. Người đã không từ chối bất cứ ai đến với Người, và cũng chẳng từ chối bất cứ ai cần đến Người.
Bởi đó, chẳng lạ lùng gì khi Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã sống đến tột cùng của ý tưởng phục vụ, để rổi sau đó, còn đi xa hơn nữa qua việc chịu treo trên cây thập giá.
Chính ở chỗ rốt cùng ấy, Ðức Giêsu đã thông cảm, đã chia sẻ trọn vẹn với tất cả những gì là yếu đuối, là khỗ đau, ngoại trừ tội lỗi của con người. Và từ chỗ rốt cùng ấy, Người đưa con người lên đỉnh cao tuyệt vời, đỉnh cao của những người được chọn, những người được tham gia vào đời sống thần linh. Chính ở chỗ rốt cùng của bàn tiệc trần gian, Ðức Giêsu đưa con người vào dự bữa tiệc Thiên Quốc, trong đó mọi người đều được no thoả.
Phải nói thêm rằng, lời khuyên của Ðức Giêsu, tuy nhắm đến Nước Trời, nhưng cũng cho thấy một cách ứng xử mới trong xã hội; không tranh giành, không kiêu căng, nhưng khiêm tốn… Có lẽ đây cũng là điều cần phải có trong xã hội, nhưng không vì thế mà áp dụng theo nghĩa đen, gây khó khăn cho người khác.
– Thứ nữa, Ðức Giêsu còn đi xa hơn; Người đặt vấn đề về chuyện mời khách: “Khi đãi tiệc… hãy mời những người không có gì đáp lễ.” Tại sao vậy?
Ðây cũng là cách thức hành động của Chúa Cha và của Ðức Giêsu. Thiên Chúa mời tất cả nhân loại, dù họ có yếu đau tật bệnh, dù họ có thế nào chăng nữa, đến dự tiệc do Người khoản đãi. Mời mà không đòi hỏi gì, mời cách nhưng không.
Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều được cứu độ, đều được quy tụ trong Nước Trời. Tin Mừng được loan báo cho hết mọi người, và mọi người đều có thể đón nhận không cần có một ưu tiên, một đặc quyền nào. Ai cũng được, miễn là họ đón nhận lời mời và sẵn sàng đáp trả.
Như vậy, cái vòng luẩn quẩn của xã hội thông thường bị phá đổ hoàn toàn, người ta không còn đối xử với nhau theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, nay tôi mời anh, mai anh mời tôi, nhưng đặt trên tương giao mới là tình yêu, là kính trọng. Sự thay đỗi này thật lớn lao: bởi vì mời dự tiệc không chỉ có nghĩa là phân phát lương thực cho những người khốn cùng, nhưng còn là công nhận, còn thăng tiến phẩm giá của họ.
Ðây chính là điều làm cho Nước Thiên Chúa có được chiều kích lớn rộng bởi vì chẳng có giới hạn nào cả. Bất cứ ai cũng được mời tham dự và được mời cách nhưng không. Người được mời tức là được Thiên Chúa công nhận có quyền tham dự vào vương quốc của Người. Ðó là hồng ân vô thường của Thiên Chúa: Người muốn đưa họ vượt qua những yếu đuối, những lầm lỗi của mình để bước vào đời sống mới. Và dự tiệc cũng có nghĩa là được công nhận, được đổng bàn với Thiên Chúa. Thật là điều cao quý.
Thánh lễ, bàn tiệc của Thiên Chúa
Cho đến ngày nay, thánh lễ của Giáo Hội vẫn tôn trọng hai điều kiện này. Thánh lễ là bàn tiệc do Thiên Chúa khoản đãi và mọi người đều có quyền tham dự, bất kể tuỗi tác, màu da, trình độ văn hoá. Ðức Giêsu đã chịu chết để cứu độ mọi người, và hy lễ đó vẫn được dâng lên để quy tụ về một mối những con người ở các thời đại khác nhau. Thánh lễ là một sự hạ mình của Thiên Chúa để đưa con người lên, là một hiến lễ dưới hình thức một bữa ăn mở rộng cho tất cả. Thánh lễ không còn là bữa tiệc trần gian, nhưng cũng chưa phải là bàn tiệc thiên quốc. Ðây mới chỉ là khai mào, là bước khởi đầu. Tuy thế, ai từ chối tham dự vào bàn tiệc này cũng là từ khước lời mời của Thiên Chúa và như vậy, khó có thể được tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu.
Mỗi ngày Chúa nhật, tín hữu chúng ta đến nhà thờ để tham dự thánh lễ là sống lại hy lễ của Ðức Ki-tô. Bàn tiệc này không chỉ đóng khung trong số những người quen biết, những bạn hữu, nhưng phải mở rộng cho mọi người. Ðiều này đòi chúng ta phải khiêm tốn, phải nhẫn nại: người giàu kẻ nghèo đều bình đẳng trước Thiên Chúa, cùng cử hành hy lễ của Ðức Ki-tô, cùng đón nhận lương thực như nhau là Mình và Máu Người. Những người được mời có thể từ chối, nhưng phần chúng ta, chúng ta không được quyền không mời họ. Ngày xưa, vào thời gian đầu, Thánh Thể được lưu trữ trong Nhà Tạm là để dành cho các anh chị em vắng mặt.
Như vậy, ngay từ hôm nay, Thiên Chúa đã mở tiệc Thánh Thể. Người mời mọi người đến tham dự mỗi ngày, và sau này để tham dự vào bàn tiệc vĩnh cửu. Trong bàn tiệc của Thiên Chúa, mọi người đều có chỗ, không còn kể chỗ đầu hay chỗ cuối, nhưng tất cả đều được no thoả.
* * *
Lạy Chúa,
xin ngự đến trong con,
để chỉ còn là Chúa,
chứ không phải con nữa.
Ước chi con được nên trong sáng
nhờ sự hiện diện và tình yêu của Chúa,
và con trở thành chứng nhân.
Xin thứ tha
biết bao tính toán, bao ngại ngần, bao lười biếng
và khước từ yêu thương.
Xin giúp con
biết đem mọi khả năng
làm tất cả những gì Chúa muốn,
nhờ biết sử dụng mọi điều Chúa ban,
mọi điều Chúa làm trong con.
Xin cho con luôn biết cảm tạ
vì bao ân sủng và thương mến Chúa dành cho.
(theo Claude)

17. Khiêm tốn – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
1) Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có nhóm Saduce tư tế. Nhóm Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn tỏ mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ. Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót.
Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2) Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước Tống vào một trọ nhà kia. Chủ nhà có hai nàng hầu, một đẹp, một xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng nàng hầu xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé trong nhà. Chú bé nói: Người thiếu đẹp tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu tự biết mình xấu mà quên xấu. Không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa. Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta yêu quý tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật xấu hổ.
3) Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm gương. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự phải như thế nào?
2) Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3) Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4) Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?

18. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Khuyến khích sống khiêm hạ
“Xin ông hãy nhường chỗ” (Lc 14, 9)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ba khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là “danh, lợi và thú”. Lời Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính kiêu căng.
Chúng ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 3, 17-18. 20. 28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14, 1. 7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: bài học phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc:
“Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (2Sm 5, 8; Lv 21, 18).
“Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12, 18-19. 22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác giả thư Do Thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc:
Chúa Giêsu thấy người Do Thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng “chủ tịch” nghĩa là làm chủ chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi” là danh dự.
Những người Do Thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
– Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống” ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v. v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc:
Người Do Thái làm theo óc tính toán. Cái lợi là được người ta đền đáp
Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả (Lc 14,1. 7-14)
Một hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
***
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11). Chúa Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Chúa Giêsu tự hạ mình xuống như thế: không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiệc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3, 16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
***
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp: trong cơ quan, trong trường học, trong hội đoàn v. v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là Phó, rồi Thư ký, quản lý v. v.
Ngay trong Giáo Hội cũng thế: có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn có quyền phát biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp cổ bé miệng của mình.
Lời Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót”. Làm thế nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức khác?
Sau đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ:
Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người “tội lỗi” v. v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu Do Thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc Do Thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v. v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé.
5. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!” Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
– Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
– Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
– Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
– Sao vậy?
– Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
– Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
– Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
– Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
– Tin vui gì?
– Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
– Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
– Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, lý tưởng người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu nói: / Anh em hãy học với tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
2. Con người vốn có rất nhiều tham vọng: / muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính mau qua của mọi thực tại trần gian.
3. Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
4. Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã dạy.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta là anh em với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
– Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi… Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
VII. Giải tán
Xin Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.

19. Hạ xuống & tôn lên
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Chúa Giêsu là một thầy dạy rất bén nhạy. Ngài nắm lấy một cơ hội, một thắc mắc, một biến cố và biến nó thành một bài học.
Hôm nay, Ngài dạy chúng ta một bài học khiêm nhượng khi vào nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu dự tiệc.
Đây là một chuyện thực tế đã trở thành một bài học quí báu. Ngài thấy những khách mời tranh nhau tìm ngồi vào chỗ nhất, từ đó Ngài đưa ra một bài học thực tế là đừng tìm chỗ nhất kẻo rủi ro bị mời vào chỗ rốt hết. Tìm chỗ rốt hết, không phải là tìm cách để được mời vào chỗ nhất, như thế là một thứ giả hình, nhưng là ẩn mình trong sự nhỏ bé của mình.
Trong sách Tin Mừng, chỉ một lần duy nhất, Chúa Giêsu bảo chúng ta học với Ngài: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Hiền lành và khiêm nhượng là hai chị em sinh đôi, không bao giờ rời nhau. Con người hiền lành mới khiêm tốn và con người khiêm tốn mới hiền lành.
Đức khiêm nhường là một bông hoa nhỏ nhưng quí hiếm vì rất khó tìm thấy nó trong xã hội loài người. Trong xã hội nào cũng vậy, người ta thường tìm thấy những thói kiêu căng, tự mãn, ý muốn thống trị, khoe khoang… và không mấy khi tìm thấy sự khiêm tốn. Người đời luôn tìm cách đè đầu thiên hạ, đòi ưu tiên cho bản thân mình, đè bẹp những người chung quanh. Không có mấy người âm thầm phục vụ.
Chúa Giêsu bảo chúng ta học với Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhượng”, vì chính Ngài là sự khiêm nhượng tự bản thể. Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng đã từ bỏ mọi vinh quang, “hạ mình, mang lấy thân phận tôi hèn, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”. Thánh Phaolô đã vẽ ra khuôn mặt của Ngài trong mấy câu ngắn ngủi đó, và chúng ta, nếu là môn đệ Ngài sẽ không thôi nhìn ngắm và học với Ngài.
Nếp sống của Ngài cho chúng ta thấy rằng, Ngài là sự khiêm nhường đích thực. Ngài là Tình Yêu, và tình yêu luôn là khiêm tốn. Những người đã kinh nghiệm tình yêu thực sự hiểu được điều này, “Yêu là nghèo nàn, lệ thuộc và khiêm tốn”. Người yêu nói với người yêu: “Em là niềm vui của anh” phải chăng là thú nhận sự nghèo nàn của mình, vì không có em anh không thể nào vui được trọn vẹn”. Hay nói: “Em là tất cả của anh”, phải chăng anh không là gì cả, nếu không có em”. (Cha Varillon)
Chúa Giêsu là tình yêu, vì thế Ngài tìm thấy ý nghĩa của đời Ngài nơi chúng ta, những tạo vật hèn mọn của Ngài. Ngài là Tình Yêu trọn vẹn, vì thế Ngài khiêm tốn đến mức độ tối đa. Nếu chúng ta không hiểu được tình yêu, chúng ta cũng không thể hiểu sự khiêm nhường là gì. Nhiều người không biết yêu thương là gì, vì họ không bao giờ biết mình nghèo nàn và lệ thuộc. Họ sẽ thất bại trong tình yêu. Tình yêu của họ chỉ là ngoài môi miệng.
Bài học khiêm nhường của Chúa Giêsu, xem ra không khó nhưng lại là một bài học khó nuốt hơn hết. Vì thế chúng ta không mấy khi thấy sự khiêm nhường nơi những người sống quanh ta. Ngay cả trong Giáo hội, khiêm nhường cũng rất hiếm. Sự kiêu căng thì đầy dẫy khắp nơi. Nó luồn lách trong tất cả mọi sinh hoạt của Giáo hội, nó ngụy trang dưới những hình thức đạo đức và khi nó bùng phát thì như một căn bệnh nan y. Chính những người kiêu căng lại không bao giờ nhìn nhận mình kiêu căng và cũng không biết mình kiêu căng, và ngược lại tưởng mình khiêm nhường, nhất là nơi những người nắm quyền lãnh đạo.
Chúng ta cần nhìn ngắm Chúa Giêsu khiêm nhường, lắng nghe lời Ngài, là mẫu gương tuyệt đối cho chúng ta, để học với Ngài, sống như Ngài. Chính nhờ sự khiêm tốn của Ngài, chúng ta mới được cứu thoát. Ngài nói rõ mà không sợ nói dối: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Nếu lời nói và cuộc sống của Ngài không đi đôi với nhau thì Ngài chính là một tên lừa bịp. Nhưng chúng ta thấy, nơi Ngài, lời nói và hành động là một. Nơi khác Ngài nói với các môn đệ: “Ở giữa chúng con Thầy là người tôi tớ”. Nếu Ngài nói mà không làm thì các môn đệ làm sao tin Ngài? Ngài làm tôi tớ không những cho các môn đệ mà cho mọi người. Ngài chữa bệnh cho biết bao nhiêu người bệnh hoạn tật nguyền. Phải chăng đó chính là một hành động phục vụ trong khiêm tốn? Chữa bệnh như Ngài là một điều khiến mọi người sửng sốt kinh ngạc, thế nhưng Ngài không để ý đến những lời ca tụng người ta dành cho Ngài. Ngài chỉ biết phục vụ. Hành động khiêm tốn nổi bậc nhất của Ngài là khi Ngài quì gối rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly: “Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em hãy rửa chân cho nhau”. Một bài học đáng giá cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta! Một bài học khiêm nhượng thẩm sâu. Bài học thâm thúy hơn nữa chính là cái chết tự nguyện cho con người, chết một cách nhục nhã không thể nói được, đau thương đến tột cùng, trần trụi, xấu hổ. Cha Huvelin đã nói về Ngài bằng một câu rất chính xác: “Chúa Giêsu đã chọn chỗ rốt hết đến nỗi không ai dành được chỗ đó của Ngài”.
Khiêm tốn là một trạng thái của tâm hồn, nhìn nhận thân phận nhỏ bé bọt bèo của mình và chỉ tin cậy vào một mình Chúa thôi. “Anh em có gì mà anh em không nhận lãnh?” Thánh Phaolô đã nói như thế. Người khiêm tốn tự nhận mình hoàn toàn là hư không, nếu có được gì là do hồng ân của Chúa thôi.
Một tác giả đã nói: “Phải thật nhiều nhục nhã mới có được một chút khiêm nhượng”. Con người luôn mang trong mình một mầm mống kiêu căng, và cũng vì kiêu căng, con người trở thành tàn ác man rợ. Những môn đệ của Chúa Giêsu phải đi con đường tự hạ của Thầy Chí Thánh. Chỉ có khiêm nhường mới tạo được hạnh phúc. Chúa Giêsu đã mang lại cho chúng ta hy vọng và bình an vì chính Ngài đã khiêm nhượng thẳm sâu, bỏ mình triệt để. Chúng ta, dù yếu đuối, cũng hãy cố gắng theo Ngài.
Các thánh đã đi con đường khiêm tốn đó và đã thành công. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, vẫn xem mình như một nữ tỳ của Thiên Chúa. Ngài luôn xin vâng. Nhờ khiêm tốn Mẹ đã vâng phục ý Chúa trọn hảo trong mọi tình huống, đến đỉnh đồi Canvê. Tất cả các thánh đều có một khuôn mặt duy nhất là khiêm tốn. Chúng ta hãy nhìn những đấng thánh quen thuộc nhất của chúng ta,chúng ta không thấy có đấng thánh nào kiêu căng, độc tài, mà chỉ thấy những con người khiêm nhu nghèo khó, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống cho Chúa và cho anh em.
Chúa Giêsu đã chọn chỗ rốt hết, chúng ta chọn chỗ nào?
Chúa Giêsu sẽ có mặt nơi bàn thờ hiến tế này, Ngài đến không dưới hình thức oai phong uy hùng mà trong một tấm bánh nhỏ, khiêm nhu. Đến để cho không tất cả. Hãy nhận lấy quà tặng vô giá đó của Ngài và đi theo Ngài suốt cuộc đời chúng ta, trong một cuộc sống hiến dâng và vâng phục. Hạnh phúc của chúng ta không phải là thế gian đầy tội ác này mà là Ngài. Chỉ có Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Theo Ngài trên con đường khiêm nhu, chúng ta mới có sự sống sung mãn và hạnh phúc.

20. Khôn ngoan hay lịch duyệt trước mặt Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Mới đọc đoạn Tin Mừng Lu-ca hôm nay, tôi có cảm tưởng Đức Giêsu quả là một nhà mô phạm đang say sưa giảng dạy một bài học về cách xử thế, điều mà các loại sách ‘học làm người’, bắt đầu từ cuốn ‘Giáo Khoa Thư’ mà tôi đã học từ tấm bé, vẫn thường dạy. Thế nhưng, điều tôi phải xác tín là: đây đích thực là một bài Tin Mừng mà nội dung Đức Giêsu đang đề cập tới là xác định mối tương quan mỗi người chúng ta cần có đối với Thiên Chúa là Cha; phải chăng bài học đó mới chính là điều mà Đức Kitô Giêsu đã phải cất công xuống thế làm người để có thể dạy dỗ loài người chúng ta?
Hình ảnh bàn tiệc hay được Đức Giêsu dùng để chỉ Nước Trời hay Nước Thiên Chúa; bàn tiệc này được bày biện sao cho mọi người có thể tham dự, từ những kẻ được mời (là dân Do Thái), cho đến bàn dân thiên hạ: “Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc”. Nếu bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước đã cho chúng ta thấy chỉ những người đi qua được cửa hẹp của lòng khiêm cung mới được vào dự tiệc, thì bài Tin Mừng tuần này cũng đề cập tới điều tương tự: trong bàn tiệc đó, chỗ cao nhất sẽ dành cho ai nhận mình là kẻ khiêm hạ nhất.
Ngoài nghi vấn: ai sẽ được cứu rỗi, ta cũng thường nghe thấy nhiều người ưu tư về chỗ của họ trên thiên đàng. Để giải đáp vấn nạn sau này, câu trả lời hợp lý và lô-gích nhất sẽ là: phải làm nhiều việc lành phúc đức để có công trước mặt Chúa; ai càng giầu công nghiệp thì trên thiên đàng chỗ càng cao. Điều này từ lâu đã từng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người công giáo trung thành giữ đạo, đọc kinh tối sớm, ăn chay hãm mình, tập tành các nhân đức… và làm nhiều việc thiện. Họ mong thu tích cho được thật nhiều công nghiệp, hầu chiếm được chỗ cao chỗ trọng trên thiên đàng mai ngày.
Tôi không biết tư tưởng đó đúng đến đâu trong suy nghĩ của Đức Giêsu, nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã tuyên bố chắc nịch: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!” Như vậy Người khảng định: cho dầu lập công đức có cần thiết tới mấy đi nữa thì điều quan trọng nhất vẫn phải là sở đắc được một lòng khiêm cung chân thành: ai không có lòng khiêm tốn thì không thể vào dự bàn tiệc Nước Trời, còn nếu có vào được đi nữa thì cũng sẽ bị giáng xuống chỗ thấp nhất mà thôi; tại sao lại thế nhỉ?
Đơn giản là vì: Nước Trời tự bản chất, chính là lòng thương xót cứu độ được Thiên Chúa từ nhân ban nhưng không cho hết thảy mọi người. Tự mình con người không ai xứng đáng vào vương quốc đó, kể cả những người được thiên hạ coi là lành thánh, là hoàn hảo nhất. Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng không phải là cái gì có thể mua tậu được bằng tiền bạc cũng như bằng các việc lành việc thiện, hay bằng bất cứ nhân đức nào do con người nỗ lực luyện tập mà có. Giá cả duy nhất để có thể mua Nước Trời chính là: khiêm cung đón nhận; chính vì thế mà, ai càng hạ mình khiêm tốn đón nhận bao nhiêu, thì càng lãnh hội trọn vẹn Nước Trời bấy nhiêu.
Hình ảnh mà thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã sử dụng thật chính xác lắm thay: thiên đàng là hồng ân tình yêu của Thiên Chúa được đổ đầy vào những cái ly cái cốc là tâm hồn mỗi người; ly của ai càng sâu bao nhiêu (khiêm hạ bao nhiêu) thì càng đón nhận được nhiều bấy nhiêu. Hình ảnh này giải thích ngay cả trường hợp của Đức Maria: dù nhận được muôn điều cao cả trọng đại, nhưng Mẹ vẫn luôn xưng mình là tôi tớ thấp hèn nhất của Thiên Chúa. Nói đúng ra, Ma-ri-a được nên cao trọng vô song cũng chỉ ‘vì’ Ma-ri-a đã có lòng khiêm hạ thẳm sâu hơn hết thảy mọi người: Ma-ri-a trở nên cao trọng trước hết trong ánh sáng chói lọi của Tin Mừng mà thôi.
Đúng vậy, chỉ có lòng khiêm hạ mới làm ta hiểu và thâm nhập được vào lòng thương xót Thiên Chúa ban cho nhưng không, để rồi từ đó nẩy sinh ra thứ phục vụ bác ái thuần khiết nhất. Nhiều người vẫn nghĩ rằng: qui luật ngàn đời ‘Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại’ cũng sẽ được áp dụng cho phần thưởng trên thiên quốc, thế nhưng theo Đức Giêsu thì qui luật này không áp dụng cho Tin Mừng cứu độ. Chỉ những ai đã từng khiêm tốn đi thật sâu vào trong lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa từ nhân, người đó mới có khả năng “đãi tiệc… mà mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù… Họ không có gì đáp lễ”. Và chỉ có ai làm được như thế, tức là thực hành bác ái phục vụ phản ảnh lòng thương xót nhưng không của Thiên Chúa, thì mới xứng đáng được nghe lời khen thưởng của ông chủ từ nhân: Anh mới thật có phúc: vì anh sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”.
Như vậy thì khiêm hạ không những là nhân đức nền tảng của đời sống thiên liêng tu đức trên đó ta xây dựng mọi nhân đức khác, như đã từng được khảng định trong tu đức học; khiêm hạ trong Tin Mừng, khi được diễn tả bằng lòng thống hối chân thành, sẽ là điều kiện và thái độ thiết yếu cho tất cả những ai đón nhận ơn cứu độ. Phải chăng đây mới đích thực là một TIN MỪNG lớn lao hơn hết cho toàn nhân loại, đặc biệt cho những con người tội lỗi và yếu đuối như chúng ta: “ơn cứu độ chỉ được ban cho những tâm hồn khiêm cung mà thôi!”
Lạy Chúa, xin hãy dạy con: ‘tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu’. Tuy nhiên để có thể làm được các điều ấy, con cần nhận được lòng thương xót vô biên mà Chúa đã ban tặng khi cứu độ con cách nhưng không, bất chấp những yếu đuối và bất xứng của con. Xin cho con hằng biết chiêm ngắm Thập Giá, để nhờ đó con có được lòng khiêm hạ chân thành; để rồi trong thấp hèn nhỏ bé của mình, con sẽ cất tiếng ca ngợi tình yêu thương xót của Chúa đến muôn đời. Amen.

21. Hạ mình xuống
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có một hạng người hay bị Chúa Giêsu chiếu cố, có khi khiển trách nặng lời, đó là những người Pha-ri-sêu. Phải công bằng nhìn nhận rằng: những người Pha-ri-sêu có nhiều cái hay, nhưng đồng thời cũng có nhiều cái dở. Một trong những cái dở đó là giả hình và kiêu ngạo. Họ tự cho mình là hơn người, nên hay tìm chỗ nhất và ghế danh dự trong hội đường hoặc nơi phòng tiệc, và thích được bái chào nơi phố xá. Chúa Giêsu thấy đó là một thái độ cần sửa chữa nên Ngài đưa ra một lời khuyên: khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào chỗ nhất, vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thật ra, trong Cựu Ước cũng đã có những lời khuyên tương tự: “Trước mặt vua, con chớ vênh váo và đừng ngồi chỗ của kẻ quyền cao”, “Hãy ngồi dưới hai hoặc ba chỗ, để thà người ta mời mình lên hơn là bị mời xuống”, và các kinh sư cũng thường dạy: “Tôi nâng mình lên là tôi tự hạ mình xuống, và hạ mình xuống là nâng lên”. Những lời trên đây chúng ta thấy rất gần với lời Chúa dạy hôm nay.
Như vậy, có phải Chúa Giêsu dạy chúng ta một tiểu xảo, một mánh lới không? giả vờ hạ mình xuống để được nâng lên, giả vờ ngồi chỗ cuối, chỗ dưới để được mời lên trên? Chúng ta có thể trả lời ngay: chắc chắn là không. Chúa không dạy chúng ta một tiểu xảo, bởi vì nếu Chúa có ý như vậy thì Ngài đã làm ngược lại chính chủ trương của Ngài. Ngài không dạy chúng ta hạ mình xuống với hậu ý là để được cất nhắc lên, và ai có dụng tâm hay ý đồ như vậy, thì là kẻ háo danh chứ không còn phải là người khiêm nhường nữa.
Hạ mình xuống không phải là một tiểu xảo, một mánh lới mà là chân thành nhìn nhận giá trị thực sự của mình. Nói rõ hơn, hạ mình xuống là khiêm nhường, mà khiêm nhường thực sự là biết mình, biết sự thật về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Chúng ta có biết mình thực sự không? Khó lắm, bởi vì tự ái, kiêu căng, ích kỷ dễ làm chúng ta phán đoán, suy nghĩ, nhận định lệch lạc. Chúng ta hay có khuynh hướng phóng đại: phóng đại những cái tốt, cái hay của mình và phóng đại những cái xấu, cái dở của người khác. Vì thế, hạ mình xuống là sửa lại những phóng đại lệch lạc cho đúng sự thật, đúng với chân giá trị của mình.
Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mẽ cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình, đó là kiêu ngạo hạng nặng.
Kinh nghiệm cũng dạy: khước từ một lời khen thì rất dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê lại rất khó; phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì rất dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán lại rất khó. Giả sử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta hỉnh mũi và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? rõ ràng “cái tôi” của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ “cái tôi” của mình. “Cái tôi” có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.
Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Tập luyện bằng cách nào và thế nào? Trước hết là phải cầu nguyện, bởi vì trong những giây phút thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta sẽ suy nghĩ lại, và nhất là sẽ được ơn Chúa soi sáng để biết rõ chính mình và biết mình làm việc, hành động, đối xử vì tình yêu Chúa hay vì những lý do gì khác như ích kỷ, danh vọng, khoe khoang. Rồi trong thực tế quan hệ với nhau, chúng ta phải tránh đừng bao giờ nói về mình hay so sánh mình với người khác, cũng đừng bao giờ khinh thường, chê bai, nói hành, nói xấu người khác… Tất cả những điều đó đều là “sản phẩm” của khoe khoang và kiêu ngạo. Vì thế, khi cảm thấy bị cám dỗ so sánh mình với người khác hoặc muốn chê bai, nói hành người khác, thì chúng ta hãy làm ngược lại, là chân thành cố gắng tìm hiểu họ, thông cảm với họ, đánh giá cao những tài năng hay những thành quả của họ. Chúng ta hãy tập nói những lời khen và chia vui với những thành công của người khác.
Tóm lại, thái độ kiêu xa, cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu, xa tránh. Trái lại, ai cũng mến yêu những người khiêm nhu, từ tốn. Vậy chúng ta hãy cố gắng loại bỏ tất cả những gì là kiêu xa, cao ngạo và phát triển những gì khiêm nhu, từ tốn.

22. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
THƯƠNG XÓT LÀ PHỤC VỤ NHỮNG NGƯỜI HÈN YẾU
Thói thường ở đời, ai cũng muốn mình hơn người khác: mình phải nổi hơn, giỏi hơn, giàu có hơn, thế lực hơn… để được người hầu kẻ hạ, ăn trên ngồi trốc. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác, người khác ở đây là người ngang hàng với họ, chưa nói đến người thấp kém, nghèo khổ, bệnh tật. Cho nên, chuyện thương người phục vụ như Chúa Giêsu dạy hôm nay, chắc nhiều người nói với rằng Chúa ơi, con không thể làm theo Lời Chúa được. Nhưng, thử hỏi những người như thế có mấy người thương mến, mấy ai cảm phục. Cho nên, nhạc sĩ Vũ Thành An khẳng định rằng: “Mai về sau nước mắt khô cạn, khi xa đời, thương cho đàn con. Triệu người quen có mấy người thân. Khi lìa trần có mấy người đưa”. Vì thế, Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, tấm lòng đó là lòng thương xót biết phục vụ nhau, vì ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau huống chi là bây giờ.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải có tấm lòng thương xót phục vụ không phải là chuyện phục vụ có qua có lại mới toại lòng nhau nhưng mà phải phục vụ cho không, phục vụ không đòi đền đáp như thế mới đẹp lòng Thiên Chúa. Qủa thế, Lời Chúa trong bài đọc 1 Sách Huấn Ca dạy “Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng. Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”. Thêm nữa, Chúa Giêsu dạy: “Khi nào chúng ta đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, khuyết tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại”. Vì vậy, thư Do thái trong bài đọc hai khẳng định rằng nếu phục vụ những người nghèo khổ là có phúc cho chúng ta vì chúng ta là những kẻ đã được ghi tên trên trời.
Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành lòng thương xót của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua cái chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Qủa thế, Chúa Giêsu đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiarét. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các Tông đồ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây, nghèo hèn, khuyết tật, ốm đau, tội lỗi.. đều được Chúa thương xót phục vụ, cứu độ hết mọi người.
Để thương xót phục vụ mọi người như Chúa Giêsu, chúng ta cần xóa mình, xoá những chức vụ, địa vị, sang giàu hay đặc quyền mình có. Chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu thương xót để phục vụ nhau, đặc biệt với những người nghèo vì họ là thịt máu Chúa Kitô. Cho nên, Chúa Giêsu dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà chủ yếu là tình người với nhau. Tình người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn, mất Chúa và mất tha nhân nào có ích gì. Cụ thể, Chân Phước Teresa Calcutta mà Hội Thánh sắp phong thánh Ngài kể rằng Năm 1962, Mẹ được giải thưởng đầu tiên về công việc Nhân Ðạo của Mẹ. Năm 1979, được giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1985, được trao Huy Chương Tự Do, huy chương dân sự cao quý nhất của Hoa Kỳ. Mẹ đã dùng tất cả những số tiền giải thưởng này để thiết lập thêm nhiều trung tâm chắm sóc những người khuyết tật, bệnh hoạn và sắp chết.
Vì vậy, trong buổi tiếp kiến hơn 20 ngàn khác hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô tại Rôma ngày 22-6-2016 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng: “Các người nghèo, người bị loại trừ và bệnh tật là thịt xác của Chúa Kitô. Có biết bao lần chúng ta găp gỡ một người nghèo đến gặp chúng ta! Chúng ta cũng có thể quảng đại, có thể cảm thương, nhưng không đụng tới tay họ. Chúng ta cho họ một đồng bạc, nhưng tránh đụng tới tay họ, chúng ta vứt đồng bạc ở đó. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng sợ hãi đụng tới người nghèo và người bị loại trừ, bởi vì Ngài ở trong họ. Họ là anh em của chúng ta! Kitô hữu không loại trừ ai hết, nhưng cho họ chỗ và để cho tất cả mọi người đến”.
Ước gì qua Lời Chúa và Thánh Thể Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước Ngài vào trong cung lòng, ban cho chúng ta tình yêu thương xót để rồi sau Thánh lễ này, cùng hiệp thông với Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành lòng thương xót phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không, phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì chưng, trong cuộc sống, nếu chúng ta không thương xót người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa Kitô có lòng thương xót như Ngài không? Nói như lời những lời của Thánh Giacôbê Tông Đồ có thể nói rằng lòng thương xót mà không có việc làm là lòng thương xót chết”. Xin Chúa cho chúng ta biết thương xót nhau như Chúa đã thương xót chúng ta. Amen.

23. Chúa nâng cao kẻ khiêm nhường
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Chính Chuá Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: Chúa thích những ai có lòng khiêm nhường. Tại sao vậy? Chúng ta hãy xem khiêm nhường là gì. Theo Tự Điển Công Giáo phổ thông, khiêm nhường là không vượt quá chính mình. Đây là nhơn đức giúp yêu thương mình đúng đắn, dựa trên việc đánh giá đúng vị thế của mình trước mặt Chúa và tha nhân. Khiêm nhường trong tôn giáo là nhận biết mình hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Khiêm nhường trong luân lý là nhìn nhận mình bình đẳng với người khác, không tự ti, không tự hạ quá đáng nhưng biết nhận ra những ân huệ Chúa ban mà cảm tạ Chúa.
Nhiều người Biệt phái được Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng hôm nay không có lòng khiêm tốn, không biết vị trí của mình, nghĩ rằng mình là đáng kính hơn người khác. Họ vào phòng tiệc thì lo kiếm chỗ nhất. Họ không cần biết ai là quan trọng. Họ cho mình là số 1, không ai hơn họ nữa! Họ thiếu khiêm nhường nên không biết chỗ của mình. Chúa Giêsu là Thiên Chúa đến dự tiệc họ cũng không biết. Trong thực tế, họ muốn chiếm luôn chỗ của chúa. Đó cũng là một hình thức giống tội của nguyên tổ chúng ta: Muốn giành lấy vị trí của Thiên Chúa, mặc dù không có tài cán gì bao nhiêu. Họ không nhớ rằng, nếu Chúa rút ân huệ lại thì con người chỉ là cát bụi hư vô.
Hễ ai nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống. Vua Saolê xưa kia tự phụ, không biết vâng lời, cãi lại mệnh lệnh Chúa nên bị truất phế. Chúa nâng cao những người phận nhỏ: Chúa chọn Đavít là con út trong gia đình Giêsê. Đavit vóc người thấp bé, không có công trạng gì hơn các anh mình trong gia đình hay xã hội lúc đó. Khi Samuel tới thì Giessê giới thiệu các anh của Đavid cho Samuel. Nhưng chúa lại không chọn ai trong số đó. Chúa chọn Đavid, vóc người bé nhỏ, khiêm nhường… Đến thời viên mãn, Chúa để cho Con Chúa xuống thế làm người. Chúa chọn một thôn nữ ở làng Nazarét, một ngôi làng nhỏ bé không mấy ai biết đến. Chính con Thiên Chúa cũng sinh ra trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn, lớn lên trong cảnh nghèo cơ cực. Chúa đã sẵn sàng trở nên bé nhỏ nghèo hèn để cho chúng ta được lớn lên, được giàu sang, được dồi dào ơn phúc. Và đến lượt chúng ta cũng hãy cứu giúp anh chị em mình. Điều này không phải dễ làm. Người ta có xu hướng nhìn lên, ít ai nhìn xuống. Người ta bỏ ra cái gì thì mong gặt hái ngay một lợi lộc tương tự. Người ta sẵn sàng tốn vài triệu để đãi người có chức tước để nhờ vả chứ ít ai tính lỗ cho mình. Vì vậy, để thực hiện lời Chúa Giêsu, quan tâm đến người nghèo thì phải có lòng kính sợ Chúa, có lòng bác ái theo gương Chúa Giêsu, nhận biết Chúa là Cha, quãng đại khiêm tốn, tôn trọng mọi người và cũng là tự trọng nữa. Vì yêu mến Chúa nên không muốn làm Chúa phải nổi giận, vì anh em thiếu tình tương thân tương ái. Những người nghèo khổ, tàn tật không ai đoái hoài tới, Chúa muốn giúp đỡ cách gián tiếp nhờ lòng bác ái của chúng ta là môn đệ Chúa và cũng là con cái Chúa, thay mặt Chúa ở trần gian. Nếu chúng ta tin có đời sau, tin Chúa là Cha chung của mọi người thì chúng ta sẵn sàng giúp đỡ người nghèo, để mai sau chính họ sẽ rước chúng ta vào thiên đàng vinh phúc.

24. Khiêm nhường phục vụ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người “ăn trên ngồi trốc” mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi”mân cao cỗ đầy”. Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.
Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.

25. Hãy sống như Thầy Giêsu
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Hôm qua tôi mới nói chuyện với một chị rất đạo đức. Chị nói rằng cha xứ của chị rất tuyệt vời. Giá mà các cha giống được như cha ấy thì người bên lương theo đạo hết! Chẳng có ai làm được như cha ấy! Tôi nói: Oh rất tốt! Vậy cha xứ chị dạy giáo lý và rửa tội được bao nhiêu người trong một năm? Chị nói: cha xứ con không có thời gian dạy giáo lý, nhưng người bên lương đến đông lắm? Tôi nói rằng: con số đông không quan trọng, quan trọng là họ đã đến để gặp Chúa hay chỉ muốn tìm phép lạ? Ngày xưa tôi ở Nam Cát Tiên mỗi lần phát gạo thì người bên lương vẫn đông gấp đôi bên đạo, nhưng họ đến để lấy lương thực chứ không phải để theo đạo, mà Chúa cũng không muốn người ta theo đạo vì phép lạ hay vì lương thực! Và tôi nói tiếp: thưa chị, các linh mục chúng tôi chỉ cố gắng trở nên giống như Chúa Giêsu thôi, và chúng tôi để Chúa dùng chúng tôi theo ý Chúa miễn sao danh Chúa được vinh hiển. Vì mỗi người Chúa ban một cách sống để mình tôn vinh Chúa trong khả năng của mình. Mỗi cha có một khả năng. Mỗi cha có một cách để truyền giáo. Điểm chung của họ là trở nên giống Thầy Chí Thánh Giêsu yêu thương và phục vụ.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy trở nên giống Chúa trong khiêm nhu và bác ái. Khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giêsu không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giêsu từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào… Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lạibỏ rơingười nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than…Nhìn lại cách sống đôi khi mình lại chẳng bằng người bên lương. Tôi đã từng đến chữa bệnh thầy Tư Ngoan tại An Giang. Bệnh nhân rất đông, đa số người nghèo. Điều lạ là bếp ăn của thầy luôn có đồ ăn miễn phí cho người nghèo. Hàng trăm người tự lấy đồ ăn theo ý thích của mình. Thật ấm áp tình người. Thầy chữa bệnh cũng chẳng lấy tiền, chủ yếu là sống vì người nghèo và cho người nghèo.
Chúa Giêsu luôn sống nghèo và vì người nghèo. Liệu rằng người môn đệ Chúa có dám sống cho người nghèo hay không? Các điểm hành hương của chúng ta đã có phòng ăn nhân ái cho người nghèo chưa? Rất tiếc là chưa, nhưng lại nhan nhản dịch vụ ăn ngủ, buôn bán tranh ảnh để kiếm tiền cho trung tâm. Rấtmong các điểm hành hương nên có những xuất ăn miễn phí không nhiều nhưng ít là vài trăm xuất cho những ngày cao điểm cũng là điều nên làm.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen.

26. Sống cho người nghèo – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập”, nghĩa là khi có mùi hương thì tự nó thơm, không cần phải ra đứng ở đầu ngọn gió. Khi một người thực sự là một người tài giỏi, đạo đức, thánh thiện thì hãy để mọi người nhìn nhận chứ đừng tự mình nói ra. Và Người xưa cũng đã từng dạy: “Tự khiêm thì người ta càng phục, tự khoe thì người ta càng khinh”.
Có người kể rằng: Một ngày trong năm 11 tuổi, tôi trở về nhà khóc vì chỉ được giao một việc nhỏ của chương trình Thiếu nhi tại nhà thờ, trong khi các bạn khác được phân công vai chính. Thản nhiên, mẹ tôi lấy chiếc đồng hồ của bà và đặt vào tay tôi.
– Con có thấy gì không?
– Một hộp vàng, mặt và những cây kim.
Rồi bà mở phía sau hộp và nhắc lại câu hỏi. Tôi nhìn thấy những bánh xe nhỏ và những đinh vít. Bà nói: “Chiếc đồng hồ này sẽ vô dụng nếu thiếu đi mỗi phần, ngay cả những phần con không thể nhìn thấy”.
Bài học của bà làm tôi vui sướng hơn tất cả. Tôi đã không còn mặc cảm vì mình đóng vai phụ. Tôi không còn lệ thuộc bởi vai này vai nọ mà quan yếu ở việc mình hết lòng với việc được giao.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giêsu không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giêsu từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào… Ngài mong muốn các môn sinh đừng tìm đến những nhà cao cửa rộng, những đại gia sang trọng mà bỏ rơi người nghèo hay coi khinh người nghèo. Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lại không sống cho người nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than…
Chúa Giêsu luôn sống nghèo và vì người nghèo. Ngài đã chọn mái nhà nghèo để cư ngụ. Ngài đã chọn công việc tầm thường để kiếm kế sinh nhai. Ngài đã sống chung với dân nghèo làng Nagiaret. Cuộc đời công khai, Ngài luôn đi cùng người nghèo và đi đến người nghèo để thi ân, để phục vụ. Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen.

27. Bệnh ‘muốn làm lớn’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người luôn thích làm lớn, muốn làm lớn để thỏa mãn lòng tự cao tự đại của mình. Lịch sử đã ghi lại đày dẫy những con người mang bệnh ‘muốn làm lớn’, muốn trở thành ‘mặt trời’ để kẻ khác xoay chung quanh:
1/ Vua Babyon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao Phùng, nơi bồng lai cực bắc. Ta sẽ lên chót vót tầng mây, ta sẽ đồng hàng với Thượng Đế” (Is 14:13-14)
2/ César, khi chưa lên ngôi hoàng đế La-mã, đã nói 1 câu trở thành phần nào kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số 1 ở 1 làng nhỏ hẻo lánh bên xứ Gaule, còn hơn làm số 11 ở kinh đô La-mã!”. Cha ông Việt Nam xưa thì nói: “thà làm đầu chuột hơn là đuôi voi”.
3/ Và hiện nay, hàng năm trên thế giới có xuất bản cuốn “Guiness”, sách ghi các kỷ lục thế giới, chẳng hạn: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất…, nghĩa là chỉ những ai số 1 ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn Guiness này, nhiều người đã cố gắng lập những kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Ví dụ: có người đã ra sức phá 1 hơi 2 cái đàn pianô trong vòng 5 phút! Dhanajay Kurksai, người Ấn, được mệnh danh là nhà quán quân của những kỷ lục kỳ cục như sau: năm 1981, anh đứng một chân liền một mạch 35 giờ đồng hồ; năm 1981: đi giật lùi một mạch 65 cây số; năm 1982: nhảy lò cò được 10 giờ 10 phút và nói liền 1 mạch không nghỉ 15 tiếng đồng hồ; tháng 10/1987: nuốt hết 2 kg 600 thủy tinh…
Tham vọng ở trên muôn người đã đẩy nhân loại vào biết bao những thị phi đắng cay. Một ông vua tham vọng bành trướng sẽ phát động chiến tranh. Một thương gia tham vọng giầu có sẽ tìm cách loại trừ người khác. Một ca sĩ, một nghệ sĩ… muốn mình nổi trội thường nói xấu, chê bai lẫn nhau. Một người đàn ông tính gia trưởng luôn nạt nộ vợ con để được “ăn trên ngồi trốc” mọi người. Một người phụ nữ lấn quyền thường hay “mắng con chửi chó suốt ngày”…
Xem ra ở đâu còn có người đầy tham vọng quyền bính thì ở đó vẫn còn những thị phi đắng cay. Ở đâu còn có người thích trưởng giả ở đó còn đó những bất công. Ở đâu còn có người thích “ăn trên ngồi trốc” ở đó vẫn còn những người thích đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Chúa Giêsu khi đến trần gian đã không ngần ngại sống một cuộc sống nghèo nàn như bao người. Ngài đến không để phục vụ mà tìm đến mọi người để phục vụ họ trong yêu thương. Ngài không tìm chốn cung điện nguy nga để dùng tiệc mà đi đến những mảnh đời bất hạnh để chia sẻ cho họ cái bánh, con cá mộc mạc nhưng đầy tình người. Ngài đã cúi mình thẳm sâu để phục vụ như người tôi tớ rửa chân cho ông chủ. Ngài đã hy sinh kể cả tính mạng để mạng lại niềm vui hạnh phúc cho nhân gian.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Xin cho chúng ta biết học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu cùng nhau góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.

28. Khiêm nhường phục vụ
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Là người được sinh ra và lớn lên trong cùng một quê hương, ai cũng mong cho quê hương mình được bình an, cho mọi người được no ấm. Ai cũng mong cho quê hương mỗi ngày được giầu đẹp hơn. Ai cũng khát khao niềm an hoà trên quê hương đất nước. Thế nhưng ước mơ đó không thể từ trời rơi xuống. Ước mơ đó cần phải có những con người dựng xây, biết kiến tạo bằng cả cuộc sống dấn thân vì lợi ích của dân tộc. Một đất nước muốn an vui thịnh vượng, không thể có những con người “ăn trên ngồi trốc” mọi người, càng không thể có những loại người dùng địa vị của mình để vun quén cho bản thân, để hưởng thụ đến mức độ tha hoá đạo đức, những loại người như thế chỉ làm nghèo đất nước và khổ người dân. Một đất nước muốn được yên vui đầm ấm không thể có sự chia rẽ nội bộ hay phân biệt giai cấp và chủng tộc. Cần phải có sự đoàn kết yêu thương, và biết tôn trọng quyền lợi chung của mọi người. Mỗi người bất luận là ai, già hay trẻ, khoẻ mạnh hay tật nguyện đều phải được đối xử trong tôn trọng và yêu thương. Có như vậy cuộc sống mới yên vui, tình người mới đầm ấm.
Lời Chúa hôm nay cũng nhắc nhở mỗi người chúng ta cần phải biết sống khiêm tốn với mọi người và sống hoà hợp với nhau trong yêu thương chân thành. Người làm lớn phải biết cúi mình phục vụ. Biết khiêm tốn khi sống giữa anh em, biết lấy tình yêu để đối xử với nhau một cách vô vị lợi. Chúa đã kết án thói trưởng giả của những người biệt phái. Thích dệnh dạng trong đám tiệc. Thích ngồi”mân cao cỗ đầy”. Họ dùng quyền bính để được người khác cúi mình phục vụ. Lối sống của họ chẳng có ích cho cộng đoàn mà còn làm khổ anh em. Chúa còn dạy chúng ta khi đãi tiệc, hãy thiết đãi cả những kẻ không có khả năng mời lại chúng ta một ly rượu. Đừng mời nhau theo kiểu “có qua có lại”, mà quan yếu là tình người với nhau. Con người cao qúy hơn tiền bạc, hơn mọi thứ vật chất trần gian, thế nên, phải biết đặt tình người hơn những tính toán lợi nhuận. Đừng vì những lợi nhuận vật chất mà loại trừ anh em, nhưng hãy dùng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Đó cũng chính là cách sống mà Chúa đã thực thi trong suốt cuộc đời dương gian. Ngài đã chọn sinh ra trong cảnh cơ hàn. Ngài đã sống khiêm tốn ẩn dật giữa làng quê Nagiaret. Ngài đã đến trần gian không phải để được phục vụ mà là để phục vụ. Chính trong bữa tiệc ly, Ngài đã làm bổn phận của người tôi tớ khi cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng chẳng màng đến địa vị cao qúy của mình, chỉ biết một điều là tự hủy chính mình để trở nên tôi tớ cho mọi người. Chúa cũng không chọn một đối tượng nào để phục vụ. Chúa cũng không loại trừ một giai cấp nào trong bàn tiệc mà chính Chúa thiết đãi. Tất cả mọi người từ đông chí tây đều được mời gọi tham dự yến tiệc mà Chúa đã dọn sẵn.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, giữa dòng đời này vẫn còn đó những kẻ lấy quyền bề trên để ức hiếp kẻ dưới, vẫn còn đó những người cha người mẹ sinh con ra chỉ mong con lớn khôn để có kẻ hầu người hạ, vẫn còn đó những người chồng đang hành hạ vợ mình như những tôi tớ trong nhà. Giữa dòng đời này vẫn còn đó những giọt nước mắt của những kẻ nghèo khó, tật nguyền, những kẻ bất hạnh, già nua không tìm được sự ủi an nâng đỡ của đồng loại. Thế giới sẽ không có an vui thịnh vượng, nếu con người không biết sống khiêm tốn, nhường nhịn và nâng đỡ nhau. Thế giới sẽ chỉ có tiếng khóc than, oan ức nếu trên mặt địa cầu này vẫn còn đó những kẻ kiêu căng, ngạo mạn và sống thiếu tình người. Thế giới sẽ đổ vỡ nếu không còn ai biết cúi mình để phục vụ anh em.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: trên còn đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên hai con dê qúa bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực thẳm và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã qùy mọp xuống đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng ta tiếp tục con đường của mình.
Vâng, thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương. Amen.

29. Kẹt! – Như Hạ, OP
Ðức khiêm nhường giúp chúng ta nhận biết mình yếu đuối và bất xứng trước nhan Thiên Chúa toàn hảo và nhân lành. Người khiêm nhường nhận thức rằng người nghèo nhất tại bàn tiệc cũng xứng đáng, có lẽ xứng đáng hơn họ, vì người nghèo gần Ðức Giêsu và sứ vụ của Người nhất (x. Fahey 1994:577, 579).
HAI THÁI ÐỘ SỐNG.
Ðức Giêsu đã đưa ra những hình ảnh thật sống động để diễn tả đức tính vô cùng cần thiết trong Nước Chúa: khiêm nhường. Nói khác, sống trong Nước Chúa cũng giống như trường hợp “anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất. Trái lại, hãy ngồi vào chỗ cuối.” (Lc 14:8, 10) Ðó là thái độ của người được mời vào dự hôn lễ Con Chiên (Kh 19:7) Chỉ có thái độ đó mới thực sự làm cho người dự tiệc cưới Con Chiên được hạnh phúc. Thái độ khiêm cung là thái độ của người nghèo Giavê, người được hưỡng mối phúc đầu tiên và được mời vào chung vui trong Nước Chúa. Chỉ những người nghèo như thế mới được mời mà thôi. Trên đời, họ bị thiệt thòi đủ mặt, nhưng lại được Chúa chúc phúc: “Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới của Con Chiên!” (Kh 19:9)
Khi đón nhận được hạnh phúc đó, họ sẵn sàng lên đường. Hành trình của họ rất đơn giản. Họ chỉ cần một chiếc áo cưới là lòng khiêm cung. Áo đó rất đơn sơ. Lối phục sức và thái độ của họ không lôi kéo nổi ai, ngoài Chúa. Chính khi tìm đến chỗ cuối, họ đã biết rõ thân phận và địa vị của mình. Cuộc sống đã đẩy họ vào đường cùng. Nhưng Thiên Chúa luôn xuất hiện ở đường cùng để giải cứu những ai hết lòng tin tưởng nơi quyền năng vô biên của Người. Cách xử sự đó khác hẳn với người đời. Người đời chỉ chú trọng đến những ai ăn trên ngồi trốc và tranh giành miếng đỉnh chung. Bởi đó mới có những cảnh vinh nhục. Vinh nhục đó có khi diễn ra ngay trong bàn ăn. Người tự kiếm vinh hoa không tương xứng với mình có thể trải qua những giây phút bàng hoàng, “phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14:9) Ngược lại, có những cảnh vinh thăng bất ngờ. Giá trị được nâng cao khi chủ tiệc phát hiện: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” (Lc 14:10)
Cảnh vinh nhục đó chỉ diễn ra tại một xó góc nào trong bữa tiệc, nhưng cũng trở thành một bài học khôn ngoan cho hậu thế: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14:11; Ed 22:32) Sự thật vẫn là sự thật. Ðánh giá quá mức về mình nhiều lúc không phù hợp với thực tế. Thái độ khôn ngoan đòi phải kiên nhẫn chờ đợi Thiên Chúa. Tính chủ quan dễ mê hoặc lòng người. Ðức Giêsu muốn tránh cho môn đệ khỏi mắc tính chủ quan đó. Nên Người dặn dò kỹ lưỡng.
Tuy nhiên Ðức Giêsu chỉ mượn khung cảnh tiệc cưới để dạy một bài học cao siêu hơn. Thiên Chúa chính là chủ tiệc cưới Con Chiên. Tiệc cưới chính là Nước Trời. Chính Người sắp xếp mọi thứ bậc trong bữa tiệc. Con người không có quyền định đoạt cho chính mình. Bởi vậy thái độ tự tôn không thể chấp nhận được. Nếu biết mình, con người sẽ thấy ngay vị thế của mình trong bữa tiệc. Ai chẳng muốn tìm chỗ “ngon”? Nhưng chỉ có những người đánh giá mình thấp hơn những người khác, mới được vinh dự nghe lời chủ tiệc: “Xin mời ông bạn lên trên cho.” (Lc 14:10) Chỗ vinh dự này không ai tự dành cho mình. Nhưng Chúa cho ai, nấy được. Không phải vì tài năng hay đức độ, con người có thể đạt đến công trạng xứng đáng hưởng vị thế đó. Nhưng con mắt Chúa để ý đến những ai hèn mọn. Chính Ðức Maria đã phải thốt lên: “Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1:48) khi cảm nhận hồng ân Chúa vượt ngoài mọi dự tính. Chính vì hạ mình quá sâu thẳm, nên Mẹ đã được Chúa cất nhắc lên trên các thiên thần và loài người. Không còn vinh dự nào lớn hơn! Mẹ là người khách đã ngồi chỗ thấp nhất trong bữa tiệc. Mẹ đã hoàn toàn từ bỏ chính mình, bởi thế Mẹ đã có thể hòa mình với mọi người và có thể trải rộng tình thương trên toàn thể nhân loại. Bởi đó đã được vào dự hội vui với Chúa. Mẹ đã được mời lên cao hơn chín phẩm thiên thần!
Chính vì thế Mẹ đã trở thành gương mẫu cho những ai muốn vào dự tiệc cưới Con Chiên. Thái độ khiêm cung đã khiến Mẹ gần gũi những người khó nghèo và đau khổ. Nếu đứng vai chủ tiệc, chắc chắn Mẹ đã mời “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.” (Lc 14:13) Họ là những người bị gạt ra ngoài xã hội chỉ vì “không có gì đáp lễ” (Lc 14:14) theo lối sống “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” hay “bánh ích đi, bánh qui lại” ngoài xã hội. Nhưng chính khi mời những người như thế, mới thấy tính cách vô tư và quảng đại của người chủ tiệc. Phải có một tấm lòng, một lối sống và một cái nhìn khác thường mới có thể thái độ như vậy. Một tấm lòng vô vị lợi. Một lối sống khiêm cung, hòa mình với những người nghèo khổ. Một cái nhìn vượt khỏi những tính toán trần tục và vươn cao trên những biên giới đời này. Có thế “ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14:14) Chính niềm hi vọng đó đã khiến ông coi tất cả chỉ là phương tiện phục vụ con người. Càng phục vụ những người nghèo khổ, càng nắm chắc niềm hi vọng. “Vì quyền năng Ðức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.” (Hc 3:20) Trước mặt ông, con người không được đánh giá qua của cải trần thế. Chỉ có niềm tin mới có thể xác định giá trị con người mà thôi. Niềm tin đó mạc khải cho ông thấy mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và là đối tượng cứu độ của Ðức Giêsu. Ðó chính là giá trị đích thực khiến Thiên Chúa mời mọi người vào dự tiệc Nước Trời.
TÌM MỘT CHỖ TRONG TIỆC CƯỚI.
Thiên Chúa chính là chủ tiệc đích thực. Khi sai Con Chúa đến trần gian, Người muốn chuyển thiệp hồng đến từng người trong cộng đồng nhân loại. Bữa tiệc khoản đãi mọi người không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo v.v. Con Chúa đã hạ mình xuống làm người tôi tớ chuyển thiệp hồng khắp ngang cùng ngõ hẻm. Nhưng hỏi mấy người đến dự tiệc? (Mt 22:1-10) Cuối cùng chỉ có “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” nhập tiệc mà thôi. Vâng lời Chúa, Giáo hội đã xả thân giúp đỡ những người nghèo khổ, xấu số. Giáo hội mong đợi gì? Phải chăng mong chiêu dụ tín đồ? Thực ra, Giáo hội chỉ biết phục vụ. Nếu người ta đọc được ý nghĩa chứng từ, Giáo hội hân hoan cảm tạ Chúa. Nếu họ muốn giải thích sai chứng từ, Giáo hội cũng chỉ biết cầu nguyện và kiên nhẫn làm chứng. Muốn hay không muốn trở thành tín đồ, việc hoàn toàn tùy thuộc quyết định cá nhân.
Trước ông chủ tối cao là Thiên Chúa, chúng ta đều là “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” cả. Thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn cứ tưởng mình đáng chiếm chỗ tốt hơn, ngon hơn những người khác. Nhất là khi có chức có quyền, chúng ta lại càng tưởng mình xứng đáng hơn. Nhưng thật ra “càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Ðức Chúa” (Hc 3:18) và chiếm được lòng người nữa. Chức vị không làm con người cách xa anh em đồng loại, nhưng chỉ là một phương tiện đưa mọi người “tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời.” (Dt 12:22-23) Ðại hội đó phải diễn ra ngay tại thế, giữa các cộng đồng dân Chúa. Thế nhưng, nhiều cộng đồng vẫn chưa chấp nhận sự có mặt của những người anh em khác màu da, phong tục, văn hóa. Trong Ðại Hội Liên Dòng Toàn Quốc Hoa Kỳ mới đây, nữ tu Mary Mollison cho biết trong lịch sử phần đông các dòng tu tại Hoa Kỳ đã không thâu nhận các thành viên thuộc các sắc tộc khác. Ngày nay nhiều dòng “đang thực hiện tìm đường lối để xóa bỏ sự kỳ thị chủng tộc trong các cộng đoàn chúng ta.” (VietCatholic 29/8/2001) Như thế, chính những người hiến trọn đời cho Tin Mừng vẫn chưa thực hiện được một đòi hỏi căn bản của Tin Mừng. Có những cấp độ mâu thuẫn ngay trong Giáo hội Hoa Kỳ. Ví dụ giáo phận cho phép thành lập các giáo xứ Việt Nam biệt lập, trong khi Hội Dòng Hoa Kỳ vẫn bắt buộc anh em Việt Nam lệ thuộc. Hi vọng chính sách toàn cầu hóa sẽ ảnh hưởng lớn tới các cộng đồng dòng tu tại đây. Vấn đề kỳ thị phải chấm dứt, Tin Mừng mới có thể rao giảng cho mọi người.

30. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Hôm nay, Đức Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa. Một sự việc bình thường trong xã hội Do Thái: người ta thường mời bạn hữu về nhà, sau buổi cầu nguyện ở Hội Đường ngày Sabbat. Người ta không chú trọng đến việc ăn uống, vì chỉ là những món ăn bình dị, nhưng là cơ hội để trao đổi và thảo luận về cuộc sống. Chúng ta cũng đã có dịp thấy Chúa Giêsu đến dùng bữa ở nhà Simon biệt phái.
Đời thường trong những cái bình dị nhất của nó vẫn là nơi Thiên Chúa hiện diện, viếng thăm và mang lại cho nó một ý nghĩa mới, một định hướng, một sức mạnh. Và người ta phải biết đón nhận những dấu chỉ của nó. Đấy chính là điều sách Đức Huấn Ca nhắc nhở.
Chả cần phải là một người thông minh, tài trí, cũng có thể thấy ở những bữa ăn ngày Sabbat ấy không có những hạng người nghèo khổ, bọn cùng đinh, bọn tội lỗi, bọn thu thuế hay đĩ điếm.. Một người Do Thái chân chính không thể hòa mình với bọn người ti tiện này. Đó là sự phân chia giai cấp hết sức rõ ràng trong xã hội Do Thái, sự phân chia mang tính “tôn giáo”. Từ sự phân chia ấy, hình thành một lối suy nghĩ, một lối sống mặc nhiên, thầm kín nhưng hết sức mãnh liệt: “phải được xã hội thừa nhận địa vị ưu tuyển,thế giá đạo hạnh trước mọi người”, lối sống mà Đức Giêsu luôn phải đối diện: “sống giả hình”, “những kẻ được mời, chọn chỗ nhất”. Cách sống và suy nghĩ ấy đã đẩy xô đại đa số những người nghèo khổ vào nỗi tủi nhục “không danh phận”, trong đời thường của những bữa ăn, và cả trong kinh nguyện và thờ phượng nữa.
Xã hội chúng ta tự hào về nếp sống văn minh, nhưng vấn đề cũng không kém phần gay gắt. Cứ nhìn vào những tổ chức cưới hỏi, ma chay người ta có thể hiểu được cái não trạng giả hình ấy đã chồng chất thêm mâu thuẫn và bất ổn: có những đám cưới thuê bao cả 30 xe đời mới trong đám rước dâu chỉ để đưa rước 50 người khách mời..
Sự có mặt của Đức Giêsu trong bữa ăn hôm nay, hay ở nhà Simon biệt phái, cũng như trong mọi hiện diện khác mau chóng bộc lộ tính chất TIN MỪNG. Nếu như khi đồng bàn với những người nghèo, với bọn thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu bộc lộ thái độ trân trọng, yêu thương, tha thứ, để bất kể là ai trong số họ cũng nhận ra được tấm lòng bằng hữu của Người, được giải phóng khỏi tâm trạng bị khinh miệt, bị kết án, bị loại trừ, thì ở đây Người tố giác tính chất “giả hình”, “tính ưa chuộng địa vị, tìm kiếm thế giá”, để đòi hỏi phải mở rộng bữa ăn cho những người nghèo.
Có một sự thật trong đời sống Đức Giêsu mà chúng ta phải làm sáng tỏ để hiểu con người và sứ điệp của Người: Không những người nhận vào ăn trong nhà những người tội lỗi, mà chính nhà của Ngài, hay những nơi Ngài cư ngụ, người ta thường thấy bọn cùng đinh tội lỗi đồng bàn với Ngài và các môn đệ, thế nên có dư luận kết án Ngài “là kẻ mê ăn uống và say sưa với bọn đàng điếm và tội lỗi”. Bữa Tiệc Ly chỉ là bữa cuối cùng Ngài thết đãi họ. Bữa ăn là một sinh hoạt đời thường, nhưng bữa ăn của Đức Giêsu lại luôn mang tính LOAN BÁO TIN MỪNG. Bữa ăn giải phóng cho con người. Những gì được nói tới trong dụ ngôn hôm nay, thực chất chỉ là phản chiếu SỰ THẬT ĐỜI SỐNG của Đức Giêsu.
Qua đó chúng ta có cảm nghiệm chắc chắn là “Bữa Tiệc Nước Trời” đã hiện diện ngay giữa những bữa tiệc đời thường khi nó được mở ra cho những người nghèo khổ. Khi người nghèo được kính trọng, được yêu thương, được tha thứ, được là bạn hữu. Rõ ràng điều ấy không thể đi đôi với thái độ “ưa tìm chỗ nhất”, thái độ “vinh vang trong kiếm tìm địa vị, kiếm tìm thế giá, dù là thế giá đạo đức”. Thái độ “lắng nghe”, thái độ “hiền lành và khiêm nhường”, thái độ “bao dung và tha thứ” phải là thái độ cơ bản trong mọi “bữa ăn Nước Trời”. Đây chính là sự lớn lao và kỳ diệu của Mạc Khải Giao Ước mới mà thánh Phaolô nói tới trong đoạn thư của Người. Mạc Khải về “cộng đoàn các thánh”, một cộng đoàn trong đó sự bao dung, quảng đại, hiệp nhất và thứ tha trở thành nếp sống thường hằng trong mọi sinh hoạt, một cộng đoàn, ở đó, người nghèo tìm lại được nhân phẩm cao cả của mình.

31. Tôi là người khiêm tốn nhất trần gian!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28).
Bài tin mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật chuyện Chúa Giêsu nhân thấy nhiều người thích chọn chỗ nhất trong bữa tiệc nên đã lên tiếng dạy về đức khiêm nhường. Chắc hẳn Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta sống khiêm nhượng kiểu “ống điếu”, tức là cố tình hạ mình xuống để được người ta nâng lên. Với kiểu nói ngoa ngữ như ngụ ngôn, Chúa Giêsu đã làm nổi rõ cái hậu quả rất khác biệt giữa người khiêm tốn và kẻ kiêu ngạo. Vậy thế nào là khiêm tốn đích thực đây? Không gì hơn hãy nhìn vào cuộc đời, thái độ sống của Giêsu Kitô, Đấng đã minh nhiên mời gọi hãy học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng (x.Mt 11,28-30). Qua cuộc đời của Đấng Cứu Độ, chúng ta có thể nói rằng khiêm tốn là nhìn nhận sự thật, sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).
Sự thật thứ nhất: Nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (x.Ga 7,29; 16,28; 17,1-26). Vì sao có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Xin thưa rằng trên hết, trước hết là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Sự thật thứ hai: Nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (x.Ga 6,38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”(Ga 4,34). Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).
Khi truyền bảo những người dọn tiệc đãi khách thì đừng mời những người thân quen, chức cao quyền lớn, mà hãy mời những người tàn tật, đui mù, nghèo hèn.. chắc chắn Chúa Giêsu muốn dạy người đương thời và chúng ta mọi thời rằng những gì chúng ta đang có như của cải, quyền uy đều do đã lãnh nhận và phải sử dụng chúng theo thánh ý Cha trên trời, Đấng muốn chúng ta phải yêu thương nhau một cách vô vị lợi, không chút tính toán thiệt hơn. Thể hiện tình yêu với những người nghèo hèn, bé mọn là một cách thế sống tình yêu vô vị lợi cách rõ nét.
Trong một dịp tỉnh tâm, một linh mục bạn thân dí dỏm: “Thưa các cha, con đây học hành kém cỏi, khả năng thì hạn chế. Tóm lại, tài thì mọn và đức cũng kém, cái gì cũng xin thua các cha, may ra có đức khiêm tốn thì trỗi vượt tất cả. Con thành thật thú nhận mình khiêm tốn nhất trần gian”. Quả thật, dù là giám mục hay linh mục, dù là tu sĩ hay giáo dân trong bậc hôn nhân, đang độc thân hay góa bụa, dù có chút địa vị hay chỉ là hạng “phó thường dân”, thảy chúng ta đều vướng phải cái tội của tổ tiên đó là sự kiêu ngạo. Sự kiêu căng ở đây chủ yếu không phải là thái độ cao ngạo, hống hách cách hịch hỡm đáng ghét, nhưng chính là tình trạng xa rời sự thật. Tên cám dỗ của vườn địa đàng thưở nào đã khiến tiên tổ và cả chúng ta mọi thời quên mất sự thật là chúng ta vốn là loài thụ tạo (x.St 3,1-7). Hữu ý hay vô tình lãng quên sự thật này thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng những gì tốt đẹp chúng ta đang là, đang có là do chính bàn tay chúng ta làm nên. Đây chính là căn nguyên của sự kiêu ngạo đáng trách và cũng đáng phạt.
Trong hỏa ngục rất có thể có những người rộng rãi bố thí cho người nghèo. Cũng rất có thể có nhiều người đã từng làm nhiều phép lạ, những người giảng dạy các chân lý cao sâu…nhưng chắc chắn sẽ không hề có bóng dáng một người sống khiêm nhu, biết nhìn nhận và sống trong sự thật. “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm…Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”(Lc 23,41-42). Khi biết nhìn nhận sự thật, người gian chịu treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã nhận được thành quả của sự khiêm nhu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).

32. Khiêm tốn là cách sống của công dân Nước Trời
Với cái nhìn của người đời, ai được ăn trên ngồi trước là người đó cao sang và quyền thế. Người cao sang và quyền thế sẽ được kẻ hầu người hạ, cơm bưng nước rót… Do đó, người ta sẽ làm tất cả hầu đạt được điều đó. Thậm chí, vì thế người ta có thể bất chấp cả. Thế nhưng, cách suy nghĩ và cách sống ấy lại không phù hợp với cách suy nghĩ và cách sống của một công dân trong nước trời.
Ngày nọ, Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc trong nhà kia. Quan sát thấy có nhiều người tranh giành nhau chỗ nhất trong tiệc cưới nên Người nhắc nhở họ: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn ” (Lc 14, 8 – 10). Cuối cùng, Chúa Giêsu khẳng định: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc 14, 11).
“Vỏ quít dày có móng tay nhọn” hay “Núi này cao còn có núi khác cao h ơn “. Cho nên, trong cuộc sống nếu chúng ta cứ mãi theo đuổi những danh vọng và quyền thế ở trần gian này có thể sẽ đến lúc chúng ta sẽ cảm thấy thất vọng tràn trề. Một người sống khiêm tốn sẽ luôn cảm thấy bình an. Bình an vì mình không phải tranh đua để tìm kiếm những thứ mau hư nát đời này.
Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta chọn cách sống phù hợp với Nước Trời là hãy đi con đường hẹp. Tiếp theo lời mời gọi ấy hôm nay Người mời gọi chúng ta sống khiêm tốn. Vì sống khiêm tốn là cách sống rất phù hợp với Nước Trời.
Khiêm tốn là nhìn nhận thân phận thụ tạo mỏng dòn yếu đuối để biết tin tưởng và phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tuần qua với gương sáng của Thánh Mônica và con là thánh Augustinô, chúng ta học được cách sống thật khiêm tốn trước Chúa.
Khiêm tốn là biết sống nhường nhịn và tha thứ cho anh chị em. Nhường nhịn và tha thứ có thể sẽ làm cho ta mất một số quyền lợi ở đời này. Nhưng chúng ta xác tín rằng quyền lợi đời này rồi cũng sẽ tan biến.
Khiêm tốn trước Chúa và với anh chị em thật là thái độ sống khôn ngoan của người tín hữu. Biết sống khiêm tốn như thế thì vị thế của chúng ta trong Nước Trời sẽ có phần bảo đảm hơn.

33. Con đường khiêm nhường
(Trích dẫn từ ‘Logos C’)
Họa sỹ cũng là nhà điêu khắc thiên tài Leonardo da Vinci đã vẽ bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly trong vòng 7 năm. Đó là bức tranh vẽ Chúa Giêsu và 12 Tông đồ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị bắt và bị giết chết.
Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được một chàng trai có gương mặt thánh thiện và thanh khiết tuyệt vời làm mẫu vẽ Chúa Giêsu.
Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 Tông đồ, chỉ còn có Giuđa người môn đồ phản Thầy là chưa vẽ. Họa sỹ bỏ nhiều công sức để tìm một người đàn ông có khuôn mặt cực kỳ gian ác để vẽ Giuđa. Cuối cùng ông đã tìm được tên tử tội ở Rôma có khuôn mặt thích hợp để vẽ kẻ phản bội. Người tử tù này đã từng giết người và cướp của. Được phép của Hoàng đế, tên tử tội được đưa tới Milan nơi bức tranh đang vẽ dở dang.
Khi nét vẽ cuối cùng được hoàn thành, Leonardo bảo người lính gác mang người tử tù đi, nhưng bỗng nhiên hắn vùng vẫy và quỳ xuống bên người họa sỹ khóc nức nở: “Ôi, ngài Da Vinci, ngài không nhận ra tôi sao? tôi chính là người mà 7 năm trước ngài đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Giêsu!”
Quả thật, chỉ có 7 năm thôi mà cuộc sống tội lỗi đã làm biến đổi một người có khuôn mặt thánh thiện của Chúa Giêsu trở thành người mang gương mặt xấu xa của Giuđa! Đó là sự đảo ngược kỳ lạ xảy ra ở bức tranh “Bữa Tiệc Ly”. Nhưng trong chính bữa tiệc ly có một sự đảo ngược còn kỳ lạ hơn nữa: Chúa Giêsu, “người chủ tiệc” đã trở thành “người phục vu” khi quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Phải chăng đó chính là định luật của Nước Trời: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên”. Đó cũng là bài học khiêm tốn Chúa Giêsu dạy mọi người trong bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay.
Chúa Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Trước bao con mắt đang dò xét, Chúa Giêsu nhận thấy khách mời thích chọn những chỗ ngồi quan trọng trong bàn tiệc, Ngài dạy họ bài học khiêm nhường: Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn. Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon, nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Nhưng Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Con đường tự hạ của Chúa Giêsu
Mặc dù là một Thiên Chúa cao cả, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình xuống đến tận cùng, mang lấy kiếp phàm nhân, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chính cuộc đời của Chúa Giêsu là bài ca của người Tôi Tớ khiêm hạ: “Ngài vốn là một Thiên Chúa, nhưng không nghĩ đến việc giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống người phàm, Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Phil 2, 1-9).
Chúa Giêsu đã hạ mình xuống như một người nô lệ thấp hèn để dạy cho các môn đệ một bài học của sự tự hạ. Chúa là Chúa, là Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ của mình. Từ “chỗ nhất” trên trời cao, Ngài đã chọn “chỗ cuối” dưới chân con người để phục vụ con người. Đó là bài học Chúa dạy chúng ta hôm nay: “Các con hãy biết rửa chân cho nhau” (Ga 13, 1-15).
Đi theo con đường tự hạ của Chúa Giêsu.
Chúng ta được mời gọi để đi theo Chúa, đi vào con đường khiêm nhường thẳm sâu, con đường hy sinh đến tận cùng, con đường phục vụ quên mình.
Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy chọn cho mình vị trí cuối cùng trong bữa tiệc cuộc đời để chúng ta sẽ được Thiên Chúa mời lên chỗ cao trọng trong bữa tiệc Nước Trời mai sau.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, bài trích sách Huấn Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta thấy con đường khiêm tốn là con đường đẹp đẽ được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu. Còn sự kiêu ngạo là con đường dẫn đến tai họa và diệt vong.
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Chúa muốn dạy chúng ta tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ mà không mong được đền đáp, phục vụ trong âm thầm và khiêm tốn.
Những “chiếc ghế” trong cuộc sống
Ai cũng mong tìm cho mình một “chiếc ghế” vững vàng trong cuộc đời. “Chiếc ghế” tượng trưng cho địa vị hay chức vụ trong cuộc sống xã hội. “Chiếc ghế” còn là biểu tượng của quyền lực và sự giàu có trong cuộc sống con người. Người ta sẵn sàng hãm hại nhau để tranh giành “chiếc ghế” trong xã hội. Người ta cũng sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn và mưu đồ đen tối để củng cố “chiếc ghế” của mình thêm vững chắc. Người ta cũng sẵn sàng bán rẻ lương tâm để giữ vững “chiếc ghế” của chức quyền và tham vọng.
Nhưng Chúa Giêsu đã dạy cho mọi người bài học của tinh thần khiêm nhường khi Ngài rời bỏ “chiếc ghế” của người thầy trong bữa tiệc ly để đi làm công việc của một người nô lệ. Ngài đã từ “ngai tòa” của một Thiên Chúa cao sang đến với nhân loại qua con đường nhập thể khiêm hạ để cứu chuộc con người. Hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi chúng ta đi tiếp con đường khiêm nhường ấy để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Qua con đường “tự huỷ”, Ngài đã được Thiên Chúa Cha siêu tôn trong vinh quang. Cũng vậy, qua con đường phục vụ khiêm nhường, chúng ta cũng được nâng lên trong vinh quang muôn thuở.
Trên con đường nhỏ hẹp sát sườn núi, một bên là vách núi cheo leo, một bên là vực sâu thăm thẳm, hai con dê núi đi ngược chiều nhau. Vì con đường quá nhỏ hẹp, chỉ đủ cho một con vật đi qua, nên 2 con dê quá bối rối không biết tính toán thế nào để vượt qua nhau. Nếu chen lấn, chúng có thể rơi xuống vực sâu và tan xương nát thịt. Chúng chợt nghĩ ra một cách: một con đã quỳ mọp xuống sát đất để con kia bước qua mình. Thế là chúng lại có thể tiếp tục con đường của mình.
Trên những “lối mòn” của cuộc sống, nếu chúng ta biết cúi xuống để phục vụ anh em trong tinh thần khiêm tốn chính là chúng ta đang đi trên con đường đẹp nhất, con đường dẫn đến hạnh phúc muôn đời.

34. Khiêm nhường đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Chúa Giêsu đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Một người đang tuyệt vọng vượt ngàn dặm đến cửa Phật, nói với sư trụ trì: “tôi thực lòng muốn học hội họa, nhưng không sao tìm ra được một người thầy mà tôi khả dĩ hài lòng”.
Vị sư trụ trì hỏi: “anh đã bôn ba lặn lội khắp nơi như vậy mà vẫn không tìm được một người thầy nào sao?”
Người thanh niên kia nói: “hầu như toàn là hữu danh vô thực, tôi chẳng những gặp mà còn xem tranh của họ nữa, thấy tranh họ vẽ còn chả bằng tranh của tôi”.
Sư trụ trì nghe vậy cười nói: “lão tăng tuy không hiểu gì về hội họa nhưng cũng có thú sưu tập những kiệt tác của các bậc danh tiếng. Tài nghệ của thí chủ đã không thua kém gì họ, mong thí chủ hạ cố vẽ cho lão tăng một bức”. Nói rồi bèn sai một sadi mang bút giấy ra.
Sư trụ trì nói tiếp: “lão tăng vô cùng yêu thích thú uống trà, vì thế cũng thích ngắm nhìn những họa tiết uốn lượn trên những bộ ấm trà cổ. Thí chủ có thể vẽ cho lão tăng một ấm trà và một tách trà không?”
Người thanh niên không chút ngần ngại: “điều đó thì có gì khó”.
Anh ta chấm mực, điêu luyện đưa bút lướt trên giấy. Chẳng mấy chốc, dần dần hiện ra một ấm trà, nghiêng nghiêng, từ vòi ấm tuôn ra một dòng nước, rót vào miệng một chiếc tách có hoa văn tinh xảo. Đặt bút xuống, anh ta hỏi: “tôi vẽ như vậy, lão hòa thượng đã hài lòng chưa?”
Sư trụ trì vừa cười vừa lắc đầu: “thí chủ vẽ quả thực rất đẹp, có điều đã vẽ sai vị trí của chúng, lẽ ra cái tách trà phải ở bên trên còn ấm trà ở bên dưới”.
Người thanh niên cười lớn: “sao lão hòa thượng lại có thể nhầm lẫn như vậy nhỉ? Trước giờ chỉ có trà được rót ra từ ấm vào tách chứ có thấy từ tách đổ lại ấm bao giờ đâu?”
Lão trụ trì cười đáp: “té ra là thí chủ cũng hiểu điều này sao? Thí chủ luôn khao khát được học hỏi kinh nghiệm từ những bậc cao nhân mà thí chủ lại luôn đặt cái tách của mình cao hơn so với những ấm trà, thử hỏi làm sao thí chủ có thể thu nhận được những kinh nghiệm cũng như trí tuệ từ người khác đây?”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói “mời ông lên trên cho” thì không phải Ngài chỉ dạy chúng ta sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Nhưng Chúa Giêsu đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Cũng như chàng thanh niên kiêu căng trong câu chuyện, luôn cho mình là tài giỏi hơn người, nên chẳng bao giờ thấy được cái hay nơi người khác để học hỏi thêm. Khi rót nước, ấm luôn phải để cao hơn tách, nhưng chàng thanh niên này lại luôn muốn để tách cao hơn ấm thì làm sao có thể nhận được nước trà từ ấm đổ ra.
Cũng như một thanh niên kia tìm được việc làm trong một cửa hàng lớn. Ngay ngày đầu tiên đi làm, người chủ đưa cho anh ta một cây chổi và nói: “anh quét nhà đi nhé!”
Quá ngạc nhiên, anh chàng thanh niên trả lời: “nhưng tôi là người có bằng đại học mà!”
“Ồ, xin lỗi!”, ông chủ nói: “rất tiếc là trường đại học không dạy anh việc đó. Đưa chổi đây, tôi sẽ chỉ cho anh”.
Cuộc sống luôn rộng lòng ban phát cho ta những bài học quý giá. Những món quà lớn nhất lại nằm ở thấp nhất, món quà càng quý thì càng ẩn sâu hơn. Ta phải để mắt quan sát và phải mở rộng lòng mình ra đôi khi mới thấy được chúng. Vì thế ta phải khiêm nhường, phải cúi đầu xuống thấp từ tầm cao mới, ta có thể sẽ tìm kiếm được rất nhiều món quà quí giá và ý nghĩa như dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

35. Bài học từ nước – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.
Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.
Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước.
Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nươc vẫn len lõi chảy không gây xích mích hay hận thù với ai.Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.
Nước là biểu tượng cho đức khiêm nhường. Nước luôn tìm chỗ thấp mà chảy xuống. Dù hạ mình thấp hèn nhưng nước thật cao cả vì đem lại sự sống cho mọi loài.
Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận dùng hình ảnh nước để huấn dụ cho các chủng sinh về đức khiêm nhường: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên…Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông”.
Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất đai. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu làm đất đai ở đó thêm màu mỡ và phì nhiêu.
Bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy rằng: “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, con sẽ được đẹp lòng Chúa”. Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường Thiên Chúa đến với nhân loại. Qua sự khiêm hạ, con người đến với nhau và đến mọi nơi.
Bài Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đi dự bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhường nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Và cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Ông biệt phái mở tiệc đãi khách, thực ra không phải vì khách mà vì mình. Ông mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những người tai to mặt lớn. Ông biệt phái thích khoe khoang nên có lẽ mời Chúa Giêsu chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình. Chúa nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Hãy biết nghĩ đến những người nghèo khó bất hạnh.
Bài học Chúa dạy là đức khiêm nhường và đức bác ái. Hai nhân đức này là nền tảng của đạo đức.
1. Bài học khiêm nhường
Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn.
Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Còn Chúa dạy nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Khiêm tốn là ít nghĩ về mình, và nhiều lúc không nghĩ gì về bản thân. Đối với Kitô hữu, khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”; “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Khiêm tốn sống như Chúa Giêsu là không sống cho riêng mình mà sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nhu nhược hèn nhát, nhưng chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, mà là một hành vi yêu thương, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý.
Khiêm nhường còn là khuôn mặt của tình yêu. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không kết thân với người giàu có quyền thế nhưng luôn quan tâm những người nghèo, người bị ruồng bỏ, người ốm yếu tật nguyền, Ngài an ủi và chữa lành cho họ.
Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, Sách Huấn Ca cũng chỉ cho thấy con đường khiêm tốn là con đường tuyệt đẹp được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu.
2. Bài học bác ái
Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy rằng, khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi, không mong đền đáp, làm việc âm thầm.
Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà, hãy mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp trả, và như thế, ông mới thật có phúc vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại.
Người ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi người ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và từ chối giúp đỡ.Chúa Giêsu dạy các môn đệ, hãy sống gần gũi hòa đồng với người nghèo, người bất hạnh. Sống và cư xử tốt với họ dù rằng họ chẳng có gì đáp lại. Lý do là vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là anh em con một Cha nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Con đường bác ái yêu thương là lối vào Nước Trời. Chúa Giêsu chính là hiện thân nơi những người bất hạnh, nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa.
3. Tình yêu như dòng nước.
Bác ái và khiêm nhường là hai nhân đức căn bản. Bác ái là bản chất, khiêm nhu là vóc dáng. Vóc dáng giúp chủ thể thon gọn thuận tiện ở mọi sinh hoạt trong mọi lãnh vực. Bác ái là nền tảng làm nên phẩm giá và tư cách hấp dẫn con người ở mọi nơi mọi thời. Người sống bác ái chính là biết khiêm nhường phục vụ, làm nên vóc dáng xứng hợp với cửa hẹp Nước Trời.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.
Nước biểu tượng đức khiêm nhường và đặc tính của nước cũng giống như tình yêu. Nước còn là biểu tượng cho mọi phúc lộc của Thiên Chúa. Trong thuật ngữ Kitô giáo, nước được sử dụng như như biểu hiệu của một diễn trình biến đổi và trở về nội tâm. Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Được làm con cái Thiên Chúa qua phép Rửa là hồng ân với đời sống mới, luôn khiêm tốn và bác ái hướng tới trọn lạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.

36. Khiêm hạ
Trong quan hệ xã hội, thái độ cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu. ai ai cũng yêu mến những con người khiêm nhu, từ tốn. trong đời sống tôn giáo, người tín đồ nào cũng được nhắn nhủ phải biết thân,biết phận mà giác ngộ, mà hối cải tội lỗi, vấp phạm không phải là vật cản nhưng là giúp ta tới gần Chúa. Biết mình tội lỗi, nhìn nhận những lỗi lầm của mình mà sám hối ăn năn, người tín hữu vẫn có thể trở thành thánh thiện, khiêm hạ, đơn sơ trước mặt Chúa, và trước mặt anh em là điều rất quan trọng cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta
Khi tường thuật dụ ngôn “chọn chỗ thấp nhất” Luca không chỉ nhắc lại lời khuyên xử thế của Đức Giêsu, nhưng đối tượng mà Đức Giêsu nhắm tới trước hết là bọn biệt phái Pharisêu cùng đến dự tiệc với người trong nhà ông thủ lãnh nhóm biệt phái. Họ tỏ ra là những con người ham hố chức quyền, địa vị hơn ai hết. Họ muốn tỏ ra cho người khác biết họ quan trọng, đáng kính, đáng nể như thế nào. Thái độ đó đã làm cho Đức Giêsu và những người khác khó chịu, và Ngài đã lên tiếng.
Nhưng đoạn Tin Mừng muốn dẫn chúng ta đi xa hơn như thế. Từ thái độ tham lam, ham hố địa vị, chức quyền. Qua đó muốn dạy chúng ta cũng phải có thái độ khiêm hạ, và biết sống vô vị lợi với anh em. Thật ra, trước mặt Chúa hay trong vương quốc Nước Trời chúng ta có gì mà vênh vang tự đắc, để mà lên mặt dằn đời. tất cả những gì chúng ta có được là do ơn ban của Thiên Chúa mà thôi: Từ sự sống, khả năng cho đến thời gian, của cải sở đắc… chúng ta đều được nhận từ Chúa và tha nhân. Thái độ biết ơn trân trọng là thái độ của kẻ sĩ, của bậc hiền triết Đông Phương. Đức Giêsu còn khuyên chúng ta hãy biết nhìn xa hơn một chút: trong cuộc sống thường thì “mã tầm mã, ngưu tầm ngưu”, nghĩa là chúng ta thường nghĩ tới, và thường chỉ quan hệ với những người giống mình, ngang mình… Thế nhưng đức ái Kitô giáo đòi buộc và chỉ dạy chúng ta phải làm hơn như thế nữa, đi xa hơn thế. Chúng ta phải biết nghĩ đến những người cần đến mình hơn là nghĩ đến những người giống mình. Làm ơn, làm điều tốt là giúp cho kẻ thiếu thốn, nghèo hèn tật nguyền… vì chính họ không có khả năng lo cho số phận hẩm hiu của họ, họ cũng không có khả năng đền ơn đáp nghĩa cho những hành động vị tha bác ái của chúng ta. Làm ơn cho kẻ không thể đền ơn thì công lao của chúng ta lại càng được nhân lên vì tính vô vị lợi của nó, tính vị tha trong hành động ấy được nâng cao rất nhiều. Thiên Chúa là Đấng sẽ nâng những con người khiêm hạ lên, thì cũng chính Thiên Chúa sẽ làm cho phúc cũa người ban ơn tràn đầy hơn. Thiên Chúa đứng về phía người nghèo, người khiêm hạ là thế.
Bài học khiêm hạ và vô vị lợi luôn mang tính thời sự, nóng bỏng đối với đời sống cá nhân cũng như đối với tập thể của người có lòng tin. Ai lại dám tin chắc rằng mình luôn sống được với mọi người với thái độ từ tốn, khiêm nhu trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại. Tuy rằng cũng có những người như thế thế, những hiếm lắm. Vì thỉnh thoảng trong ngõ ngách tâm tư có thể làm sống lại và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Lúc đó tinh thần trục lợi, tính toán hơn thiệt dễ dàng luồn lách vào trong tâm trí mỗi người. Thậm chí trong đời sống các linh mục tu sĩ cũng không dễ dàng gì nhận định minh bạch đâu là cầu lợi, cầu vinh, đâu là phục vụ chân chính. Đời sống con người vô cùng tinh vi phức tạp, có rất nhiều “cớ” lành thánh, cũng có nhiều ảo tưởng khiến con người không biết đâu là thật, đâu là giả. Nhưng nếu có che dấu thì chúng ta cũng chỉ có thể che dấu được với con người, với vài người, chứ làm sao chúng ta có thể che dấu được với hết mọi người, với Thiên Chúa.
Đời sống tôn giáo càng được biểu hiện ra ngoài bằng nhiều hình thái tôn giáo dễ coi, dễ nổi…. thì trong tâm hồn chúng ta cần phải đầy tràn tinh thần, khiêm nhu và vô vị lợi. Đức Giêsu chính là mẫu gương của sự thấp hèn, Ngài là Đấng cao cả hơn ai hết nhưng lại chọn chỗ thấp hèn nhất, tăm tối nhất. Ngài cũng là Đấng vô vị lợi nhất, ban phát rộng rãi và nhưng không. Vì thề còn gì mà chúng ta lại không theo gương Ngài sống đúng tư cách là công dân Nước Trời.
Kinh Magnificat là lời kinh bất hữu, ca ngợi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa, Đấng làm những kỳ công nơi những con người bé mọn, khiêm nhu. Đức Maria là người đã đi đầu cho chúng ta noi theo, vì người sống đúng vai trò nữ tì của Chúa. Bài học khiêm hạ của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và của các thánh là cơm bánh giúp chúng ta sống và lớn lên hằng ngày. Chúa yêu thương người nhỏ bé và chúc phúc cho kẻ làm mà không kể công. Amen.

37. Khiêm nhường – Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh
1/ Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa sẽ không theo tiêu chuẩn dựa trên bình diện xã hội. Vì Chúa không đánh giá con theo địa vị, giàu có, sang trong, tài năng, nhan sắc… Vậy Chúa dựa theo tiêu chuẩn nào để đón nhận một người thuộc Vương Quốc của Ngài? Trang Tin mừng hôm nay là câu trả lời cho những ai muốn thuộc về Chúa thì phải sống khiêm nhường.
2/ Khiêm nhường là bản chất của Chúa Giêsu. Vì Chúa đã khẳng định: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x,Mt11,29). Về điều này, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê đã cảm nghiệm rất thấu đáo về thái độ khiêm nhường của Đức Giêsu, khi ngài đã thốt lên: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).
3/ Chúa là Đấng khiêm nhường, nên những ai sống kiêu căng là đi ngược với bản chất của Chúa. Vì vậy Chúa luôn dạy mọi người trong cuộc sống phải có những tâm tình như Chúa.
Lời dạy của Chúa về đức khiêm nhường đã được Chúa nói đến bằng hình ảnh bữa tiệc cưới trong trang Tin mừng hôm nay. Chúng ta nên nhớ Chúa luôn dõi mắt nhìn từng người chúng ta: Ai khiêm nhường ai kiêu căng Chúa đều biết cả. Vì trong bữa tiệc Chúa nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã dạy khi dự tiệc điều tốt nhất hãy ngồi vào chỗ cuối. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (x,Lc14,7-12).
4/ Theo tự nhiên, khi ngồi chỗ cuối trong bữa tiệc có vẻ mình cảm thấy bị rớt giá, bị hạ thấp. Từ cảm nghĩ tự nhiên này cũng cho chúng ta thấy rằng: Kiêu căng thật dễ để làm nên nó, còn khiêm nhường thật khó để cho riêng mình. Nhưng làm gì thì cuối cùng khiêm nhường vẫn là con đường để chúng ta được an vui, được nâng cao, được mọi người yêu mến cảm phục, được gia nhập vào những người thuộc về Chúa trong bữa tiệc Nước trời.
Nói như thế cũng để chúng ta thấy muốn sống khiêm nhường, đó cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nhưng mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng, nếu chúng ta thực hành những điều kiện để thực sự là người sống khiêm nhường như Chúa.
5/ Điều kiên để sống khiêm nhường, trước hết đòi hỏi chúng ta phải cảm nghiệm thật sự về cả cuộc đời của Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, và trong thân phận con người Ngài mang lấy thân nô lệ, trong thân kiếp nô lệ Ngài đã tự hạ để phục vụ, để vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Trong cuộc sống chúng ta hãy lấy Đức Kitô là lẽ sống cho riêng mình, hãy theo con đường Chúa đi và hãy sống theo lời Chúa dạy. Nhờ vậy mỗi ngày chúng ta sẽ được nên hoàn thiện, được diễm phúc mặc lấy tâm tình khiêm nhường như Chúa.
Thứ đến điều kiện để sống khiêm nhường là phải biết từ bỏ cái tôi của mình. Khi quá đề cao cái tôi thì tự nhiên nó sẽ xuất hiên muôn vàn hình thức dối trá như: Tham vọng chức quyền, triệt hạ người khác, đề cao bản thân, sống ích kỷ hẹp hòi, cạnh tranh về mọi phương diện… Từ chỗ thích sống phô trương như thế, cuối cùng sẽ dẫn đến tại hại không ngờ là mối tương quan với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Vì Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc14,11). Còn mối tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ không còn, cùng lắm chỉ còn một chút hình thức là bằng mặt chứ không bằng lòng.
6/ Chúa Giêsu rất quý trọng lòng khiêm nhường. Chúa luôn ưu tiên cho những ai chọn khiêm nhường là lẽ sống, Chúa sẵn sàng trao ban cho họ hạnh phúc viên mãn là được sống trong nhà Chúa suốt cuộc đời.
Đức Maria, trên hết Mẹ là người đã đáp lại trước tiên những điều kiện để được sống hạnh phúc bên Chúa. Cuộc sống của Mẹ đã rập theo khuôn mẫu của Đức Giêsu Con Mẹ là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hơn nữa trước ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã tự nguyện xoá mờ đi cái tôi của mình để sẵng sàng vâng phục ý Chúa cách tuyệt đối trong những lúc túng quẫn nhất, cay đắng nhất, đau khổ nhất. Vì Mẹ đã chọn sống khiêm nhường để trở nên giống Chúa, để hoàn toàn được thuộc về Chúa. Vì vậy Mẹ đã hiểu rất rõ cách Thiên Chúa sẽ đối sử với những người quyền thế, những người khiêm tốn như thế nào, khi Mẹ nói: ” Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52).
Chúng ta khiêm tốn xin Mẹ giúp chúng ta luôn can đảm sống như Mẹ. Nhờ đó mỗi ngày hình ảnh của Đức Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường sẽ sáng tỏ trong cuộc sống chúng ta. Và đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc của Chúa mai sau. Amen.

38. Dự tiệc và đãi tiệc – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu được thủ lãnh nhóm Pharisiêu mời dùng tiệc. Nhân bối cảnh bữa tiệc Chúa Giêsu dạy hai bài học: khi được mời dự tiệc và khi đứng ra đãi tiệc.
1. Khi được mời dự tiệc.
Được mời dùng bữa, Đức Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn ngồi chỗ nhất. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn mà vì chỗ đó danh dự hơn. Chỗ ngồi là danh dự. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự. Điều đó cho thấy, thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ.
Chỗ ngồi và người ngồi cái nào quan trọng hơn? Có câu chuyện kể về một người chủ nhà mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách đến dự có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối và nói rằng ông muốn ngồi chung với những người bình dân nghèo hèn. Sau Daniel còn có nhiều khách lần lượt đến. Ai cũng giành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Chỉ có cái bàn tận cuối cùng, bàn của Daniel đang ngồi là còn trống chỗ. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất kỳ bàn nào khác nên chủ nhà buộc lòng mời ông thị trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với bàn của Daniel. Vị thị trưởng thắc mắc: nhưng đây là bàn cuối cùng mà! Chủ nhà nhanh trí đáp: thưa không, đây là bàn danh dự vì là bàn có ông Daniel đang ngồi. Vị thị trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ. Ý nghĩa câu chuyện là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự, ngược lại, chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
Phần lớn, những cuộc tranh chấp ở đời thường xoay quanh những chiếc ghế. Lúc đầu, ghế tượng trưng cho chức vụ, chức năng. Dần dần, nó tượng trưng cho chức quyền, chức tước. Ai cũng thích ghế cao và bảo vệ ghế của mình. Người Pharisiêu thích ngồi ghế danh dự trong hội đường. Giacôbê và Gioan thích ngồi ghế bên tả, bên hữu Đức Giêsu. Philatô cho đóng đinh Đức Giêsu vô tội vì ông sợ mất ghế.
Bài Phúc Âm cho thấy, ai cũng muốn ngồi chỗ nhất nên chỗ nhất thiếu chỗ, có những bậc vị vọng đành phải ngồi xuống chỗ dưới. Có lẽ Đức Giêsu không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm nên đã tự động ngồi vào ghế chót.Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những vị khách không mấy quan trọng xuống khỏi chỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên chỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói. Nhân hoàn cảnh đó, Đức Giêsu dạy bài học cách sống khiêm tốn: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường.
Đi ăn tiệc cứ chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống thì thật là xấu hổ.
Khiêm tốn không phải là giả vờ tự hạ để được nâng lên, coi thường mình hay sợ người khác, rụt rè không dám nhận trách nhiệm. Khiêm tốn là biết mình đã nhận được tất cả từ Chúa và lớn lên mỗi ngày nhờ tha nhân. Bài đọc 1 ca ngợi đức khiêm tốn. Sự hiền hoà và khiêm tốn là nhân đức căn bản và quý giá của con người. Nhờ khiêm tốn, con người khám phá được sự cao trọng của Thiên Chúa và mở ngõ cho con người đi vào sự khôn ngoan. Lời dạy này là kết tinh của kinh nghiệm biết bao bậc hiền triết khôn ngoan từ thuở xưa. Chính Chúa Giêsu cũng lấy đức khiêm tốn làm một trong các mối phúc của bài giảng trên núi và mời gọi mọi người hãy học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm tốn trong lòng. Ai sống hiền lành và khiêm tốn thì được nghĩa trước mặt Chúa và được mọi người yêu mến.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị người đời coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược. Trái lại Thiên Chúa nâng cao những ai khiên nhường. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
2. Khi đứng ra đãi tiệc
Người ta dễ đánh giá người khác dựa trên chiếc ghế của họ. Thật ra, một người quét đường có lương tâm lại có giá trị gấp nhiều lần một giám đốc tham ô lãng phí. Người ta thường thích giao lưu với những người có thế giá, có học thức, có của cải để dễ nhờ vả khi cần. Nhưng Đức Giêsu khuyên rằng: khi mời tiệc nên mời những người nghèo khó, tật nguyền. Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Ngài dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp. Như thế Đức Giêsu mong muốn người tín hữu vượt qua óc tính toán vụ lợi để yêu thương phục vụ những người bất hạnh.
Đức Giêsu muốn minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Đức Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54). Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn. Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Chúa Giêsu dạy bài học khiêm nhường và bác ái, bài học về cách dự tiệc và cách đãi tiệc. Đó là bài học về những cách sống trong cuộc đời. Lời Chúa dạy xem ra đảo lộn mọi trật tự xã hội trần thế. Nhưng sống Tin mừng luôn là lội ngược dòng và Thiên Chúa luôn đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công. Sống khiêm nhường và yêu thương người nghèo là con đường đi đến Nước Trời. Người tín hữu đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để kín múc tận nguồn sự khiêm hạ trong tình yêu.

39. Học sống khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Khi đề cập về Chúa Giêsu, người ta thường giới thiệu Ngài là Thiên Chúa Ngôi Hai cao cả, là Vua hoàn vũ, là Thẩm phán tối cao, là Đấng quyền năng phép tắc… nhưng Chúa Giêsu còn có một phẩm chất cao đẹp khác ít được đề cập đến: Ngài là Đấng rất khiêm nhường!
Trong thư Phi-lip (2, 6-11), thánh Phao-lô trình bày sự khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu như sau:
Mặc dù Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa quyền năng, đồng hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã hủy mình ra không! Từ tột đỉnh danh dự và vinh quang, Ngài đã gieo mình xuống cõi đời ô trọc, hoá thân thành một trẻ sơ sinh yếu đuối, được sinh ra trong nơi rốt hèn; khi lớn khôn thì sống bằng nghề mộc ngày ngày đổ mồ hôi đổi lấy áo cơm; rồi cuối cùng, Ngài đón nhận cái chết thấp hèn và đau thương trên thập giá cùng với hai kẻ bất lương.
Chúa Giêsu là Đấng rất khiêm nhường nên Ngài cũng muốn cho chúng ta trở nên khiêm nhường như Chúa. Chúa Giêsu không kêu mời chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài thông thái, vì Ngài có tài hùng biện thu phục quần chúng, vì Ngài khôn ngoan… nhưng trước hết, Ngài kêu gọi chúng ta hãy học với Ngài, vì Ngài có lòng “dịu hiền và khiêm nhường” (Mt 11, 29).
Vì khiêm nhường là một phẩm chất cao đẹp nên Chúa Giêsu thuyết phục chúng ta sống khiêm nhường bằng một dụ ngôn rất cụ thể và thực tế như sau: “Khi anh em được mời dự tiệc, đừng chọn chỗ nhất, kẻo khi có người khách khác quan trọng hơn đến sau, chủ nhà sẽ đến nói với anh em: Mời anh xuống ngồi chỗ dưới nầy cho… Trái lại, khi được mời dự tiệc, anh em hãy chọn chỗ cuối…. Vì hễ ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên” (Lc 14, 8-11).
Cây cao, tàng lớn, đứng trên đỉnh cao thì nguy cơ bật gốc hay gãy đổ càng cao. Cây nhỏ, thân mềm như lau sậy, dù đứng ở vị trí nào cũng được an toàn trước cuồng phong bão tố.
Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng, mọi sông suối đều chảy về biển sâu. Chính thế người ta thường nói: “Biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.”
Ai hiền lành khiêm nhượng, biết hạ mình xuống thì tình trạng tâm hồn của họ như là chỗ trũng, là lũng sâu. Ơn phúc của Thiên Chúa cũng như tình yêu của bạn bè sẽ chảy tuôn vào những con người ấy.
Khiêm nhường không phải là thua kém
Có một số người không thích khiêm nhường vì cho rằng khiêm nhường là thua kém. Nghĩ như vậy không đúng.
Ta hãy nhìn xem nước. Nước tuy rất mềm mại, rất dịu dàng, có thể nói là rất khiêm nhường nhưng đồng thời cũng rất hùng mạnh.
Nước luôn luôn tìm chỗ thấp nhất mà đến. Nước luôn mềm mại dịu dàng.
Nước không hề kháng cự với bạo lực, nhưng nước vẫn chiến thắng bạo lực nhờ sự mềm mại của mình. Búa tạ giáng vào tường, tường đổ; búa đập vào đá, đá tan; nhưng nếu có ai quai búa đập mạnh vào vũng nước, nước không cần kháng cự, nước dùng sự mềm mại của mình để nuốt lấy búa; búa sẽ phải cắm xuống đáy bùn! Đúng là “nhu thắng cương, nhược thắng cường.”
Nước luôn tìm chỗ rốt hết, tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao nên mới tạo ra thủy năng, thuỷ điện, một nguồn năng lượng tuyệt vời!
Khi bị hỏa thần tấn công, nước nhẹ nhàng bốc mình lên cao thành những lớp mây trời và khi hỏa thần hừng hực thiêu rụi những cánh rừng tươi tốt, nước có thể gieo mình xuống dập tắt hỏa thần.
Tuy mềm mại nhưng nước có sức xói mòn tất cả; dù rắn như đá thì “nước chảy đá cũng phải mòn”.
Nhờ mềm mại, nước rửa sạch tất cả, cuốn trôi tất cả.
Nhờ biết hóa mình thành muôn hạt li ti, nước có thể len lỏi vào mọi ngõ ngách của các địa tầng, thấm nhập khắp muôn nơi.
Tuy hạ mình thấp hèn, nước đem lại sự sống cho mọi loài. Nơi đâu thiếu nước, ở đó chỉ còn là sa mạc, khô cằn. Nơi đâu nước ngấm đến, ở đó sự sống sẽ trở nên trù phú tốt tươi.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng hiền lành khiêm nhượng, xin cho chúng con, những người môn đệ Chúa, biết chọn chỗ rốt hèn như nước, biết sống khiêm hạ như Chúa đã nêu gương.

40. Khiêm nhường, hiếu khách và luật lệ
(Suy niệm của Lm. Đào Quang Chính)
Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản như đôi khi chúng ta nghĩ. Nếu đọc trọn đoạn thánh kinh của Luca (Lc 14 1; 7-14), chúng ta thấy trước khi dậy dỗ về sự khiêm hạ, Chúa đã chữa lành một bệnh nhân bị phù thũng ngay tại nhà đó (Lc 14: 2-6).
Một cách đơn sơ, chúng ta đồng ý với sự can đảm của Chúa khi Người, tuy được mời đến dự bữa ăn nơi nhà của người Pharisêu, can đảm lên tiếng chỉ trích thói quen của các vị “vọng tộc” giầu có -trong đó có người Pharisêu- thường thích ngồi chỗ quan trọng nhất nơi bữa ăn hoặc bàn tiệc. Chúng ta nhấn mạnh đến lời dậy dỗ của Chúa về hai nhân đức: khiêm tốn và hiếu khách.
Tuy nhiên, nơi đây, Chúa không chỉ nhằm đến hai nhân đức trên mà còn thách đố cả lề luật và lối sống Do thái thời đó.
Như nhiều tôn giáo khác, Do thái giáo không hẳn chỉ là một chuỗi những luật lệ về Yahweh – Chúa, nhưng còn là một tổng hợp những tập quán, cách thực hành, liên quan và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống con người.
Luật điều Torah
Năm cuốn sách đầu trong cựu ước gọi là sách luật hoặc sách Torah. Tổng cộng có 613 điều luật. Sách đề cập đến những gì người Do thái phải tuân theo khi thức dậy buổi sáng, những gì được ăn và không được ăn, những gì phải làm để tuân giữ ngày Sa-bat và lễ trọng, những điều phải theo khi liên hệ với Chúa và với tha nhân..Tiếng Do thái gọi những điều luật này là Halakhah. Mục đích của Halakhah là để tăng thêm chiều kích tinh thần của đời sống, tránh đi các việc làm quá vật chất, nhờ đó, họ dễ giao tiếp với Chúa hơn. Thí dụ như sau khi ăn, hãy nhớ tạ ơn. Tạ ơn sau khi ăn (birkat ha-mazon) là một trong những lời kinh quan trọng nhất của người Do thái. Sách Đê nhị Luật đoạn 8:10 dậy rằng “Khi con đã ăn xong, nhớ tạ ơn Chúa, Chúa của con, vì Ngài đã ban cho con quốc gia đẹp tốt này”. Tạ ơn Chúa sau bữa ăn gồm 4 loại:
1. Birkat Hazan: tạ ơn Chúa đã ban thức ăn cho thế giới
2. Birkat Ha-Aretz: tạ ơn Chúa đã mang dân Do thái ra khỏi Ai cập, thiết lập giao ước và ban cho dân Do thái đất làm gia nghiệp.
3. Birkat Yerushalayim: tạ ơn Chúa đã tái lập Giêrusalem và hứa ban đấng Me-si-a
4. Birkat Ha-Tov v’Ha-Maytiv: tạ ơn Chúa cho sống đẹp và làm việc thiện.
Trong số 613 luật điều Torah, có những luật điều ghi chép rõ ràng và minh bạch, như chớ giết người. Có luật điều nửa minh bạch nửa không, như giữ ngày Sa-bát, không làm việc xác ngày Sa-bát, mà không nói rõ phải giữ như thế nào.
Luật điều từ các tư tế.
Để giải thích luật, nhất là những luật không minh bạch, các thầy Rabbi đưa ra điều luật gọi là Rabbanan. Luật Rabbanan cũng mang tính cách ràng buộc như luật Torah. Thí dụ luật Rabbi giải thích điều luật chớ làm việc xác ngày Sa-bát bằng cách nói rằng trong ngày Sa-bát, không được nhấc búa, nhấc bút, nhấc tiền, vì những động tác này chứng tỏ rằng người đó đang làm việc. Điều luật Rabbanan giúp người Do thái khỏi vô tình mắc lỗi gọi là gezeirah. (Do đó, khi Chúa thách đố các người Pharisêu có nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát hay không, họ đã không thể và không dám trả lời.)
Còn loại điều luật khác nhằm giúp dân sống và nhớ luật thường xuyên, gọi là takkanah. Takkanah buộc người Do thái phải đọc sách luật các ngày thứ hai và thứ năm.
Từ các luật buộc trên phát sinh ra các hệ quả không lường trước. Để đọc sách luật và đọc lời tạ ơn Chúa sau bữa ăn, người ta cần có những người thạo luật và những chỗ dành riêng. Từ đó nhiều người thích được ở chiếu nhất, chỗ quan trọng hầu dễ nghe và dễ đọc sách luật, đồng thời cũng chứng minh cho người khác thấy mình luôn lưu tâm và kính trọng lề luật.
Chúa Giêsu, khi dậy dỗ người nghe khiêm nhường và hiếu khách đã thách đố cả lề luật Rabbanan. Có lẽ nhờ vậy chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa nói “ta đến không để phá hủy mà để làm trọn lề luật (Mt 5: 17).”
Nghe luật, đọc luật, đọc kinh tạ ơn trước và sau bữa ăn như luật dậy là điều nên làm và phải làm, nhưng từ đó biến thành những lo lắng quá độ về tôn ti, trật tự trong bữa ăn, chỗ ngồi ở hội đường, cộng đoàn hoặc nhà thờ, thì hành động đó lại trở nên sai trái. Chúa đã dùng cơ hội chỗ ngồi trong bữa ăn dậy dỗ cho mọi người biết đâu là sự khiêm hạ và đâu là sự hiếu khách thực. Khiêm hạ là người biết rõ vị thế của mình -không phải chỉ với người khác- mà nhất là với Chúa. Biết mình chẳng là gì trước mặt Chúa. Đằng khác, cũng đừng nên đi đến thái cực khác. Nhiều người ra vẻ khiêm nhường để chủ nhà phải mời đôi ba lần mới dời lên bàn trên. Tuy nhiên, nếu chủ nhà “quên” mời thì về nhà giận dữ..
Hiếu khách là người “khi con đãi khác ăn trưa hoặc ăn tối, đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại con.. Trái lại, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ. Như vậy con mới thật có phúc (Lc 14: 14).” Hiếu khách như trên đúng như lời cổ nhân ta thường nói “làm phúc tay phải, đừng cho tay trái biết.”
Để xã hội có trật tự, cần có tôn ti, nhưng đừng quá quan trọng “chiếu trên, chiếu dưới.” Hãy thấy Chúa trong những người hèn kém. Hãy nhìn đến tương giao của mình với Chúa. Có như vậy mới là làm trọn lề luật.

41. Hãy ở khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu là con người nhẹ nhàng, dễ thương, hòa đồng với hết mọi ngườiø, không phân biệt giai cấp, giầu nghèo, tốt xấu. Xem chừng ra Ngài muốn xa lánh bọn luật sĩ và biệt phái vì, theo Tin mừng của thánh Matthêu và Marcô, họ là những kẻ thù của Đức Giêsu. Nhưng thánh Luca cho biết Đức Giêsu vẫn giao du với người biệt phái vì trong số họ vẫn có nhiều người tốt, có cảm tình với Ngài, và hôm nay cho biết Ngài còn đến dùng tiệc tại nhà một ông biệt phái. Còn về phía những người biệt phái, họ vẫn nghi kỵ và theo dõi Ngài, và có thể bắt bẻ Ngài về bất cứ một phương diện nào.
Hôm nay Đức Giêsu được mời đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh biệt phái. Trong bữa tiệc thường có những câu chuyện vui trao đổi giữa các thực khách để làm cho bữa tiệc càng thêm ngon miệng. Nhân dịp này, Đức Giêsu không nói chuyện vui, nhưng lại đưa ra những lời giáo huấn mạnh mẽ làm cho những khách mời cảm thấy khó chịu, vì những lời ấy đánh trúng tim đen của họ. Ngài khuyên họ hãy ở khiêm nhường, đừng tranh nhau chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Đừng tự đánh giá mình, hãy để cho người ta đánh giá và định đoạt. Ngoài ra, Ngài còn khuyên họ hãy có tinh thần bác ái vô vị lợi khi mời khách đến dự tiệc, đừng tính toán hơn thiệt… Và giáo huấn của Ngài được kết tụ trong câu: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” (Lc 14,11).
Theo kinh nghiệm hằng ngày, trong con người chúng ta có sẵn mầm mống của sự kiêu ngạo và kiêu ngạo là một trong bảy mối tội đầu từ đó phát sinh ra các nết xấu khác. Sở dĩ chúng ta kiêu ngạo là vì chúng ta chưa biết mình, chưa nhận ra chân dung con người thật của mình. Nếu nhìn thẳng vào mình, chúng ta sẽ thấy mình quá yếu đuối, bất toàn, đầy những nết xấu. Một khi đã nhìn ra con người thật của mình thì chúng ta chỉ chú tâm vào việc sửa mình, canh tân con người mình cho nên hòan hảo. Với cái nhìn thẳng thắn và thành thật đó, tự nhiên chúng ta sẽ có thái độ khiêm nhường trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 3,19-21.30-31.
Đọan sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm nhường. Bài học mà người thầy muốn huấn dụ học trò là: hãy ở khiêm nhường. Các vị công hầu vương bá thì theo đuổi mộng làm chủ thế giới và loài người, những người tín hữu của Chúa thì biết rằng mọi sự mình có là do Chúa thương ban. Vì thế, họ khiêm tốn tận dụng những ơn Chúa ban để phục vụ và tôn vinh Thiên Chúa.
Theo bài huấn dụ hôm nay thì:
– Ai làm việc khiêm tốn thì được người ta yêu mến.
– Chính Thiên Chúa cũng yêu thương những kẻ khiêm tốn.
– Ai kiêu căng thì rước lấy sự tai hại vô phương cứu chữa.
+ Bài đọc 2: Dt 12,18-19.22-24a.
Thánh Phaolô so sánh bầu khí giữa Cựu ước và Tân ước. Trong đạo cũ, người Do thái có ông Mai- sen làm trung gian, họ đến cùng Thiên Chúa trong bầu khí e dè sợ sệt với những hiện tượng bên ngòai làm cho người ta khiếp sợ.
Nay trong Tân ước, các Kitô hữu có Đức Kitô làm trung gian, họ được sống trong bầu khí cởi mở thân tình, họ tiến tới cùng Thiên Chúa, được tham gia vào cộng đoàn con cái Thiên Chúa, họ được tự do tụ họp về trong “Thành đô Thiên Chúa hằng sống để dự hội vui”(Dt 12,22), họ cung kính thờ Chúa và sống hiệp thông cùng các thiên thần và các thánh trong niềm an vui tin cậy.
+ Bài Tin mừng: Lc 14,1.7-14.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bữa tiệc tại nhà một ông thủ lãnh biệt phái tại Pêrê.
Chính trong khung cảnh một bữa ăn tại nhà một ông biệt phái để cho Đức Giêsu tham gia vài “câu chuyện trong bàn ăn”, những lời khá bất ngờ trong dịp này. Theo tập tục, trong bàn tiệc, các khách mời lần lượt góp chuyện, nhưng thường là những vấn đề nhẹ nhàng dễ chịu. Còn Đức Giêsu, Ngài không ngại làm người nghe khó chịu khi chọn đề tài là sự khiêm tốn (Lc 12,7-11).
Qua bàn tiệc Chúa dạy ta:
– Thái độ nên có là khiêm tốn nhũn nhặn, đừng nhảy tót lên chỗ cao, mà bị mời xuống thì quê mặt.
– Đối với khách mời, nên vì lòng quảng đại hiếu khách mà mời, không nên vì lợi lộc.
Hai lời dạy áp dụng vào Nước Trời cũng hợp: Nước Trời chỉ dành cho kẻ khiêm nhường và có tinh thần khó nghèo (Lc 14,21).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy biết nhìn xuống.
I. ĐỨC GIÊSU ĐI DỰ TIỆC.
1. Đức Giêsu được mời đi dự tiệc.
“Một ngày sabát, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa” (Lc 14,1).
ĐứcGiêsu không xa lánh những người biệt phái, Ngài cũng giao du với họ, đôi khi còn ăn uống với họ. Hôm đó, vào một ngày sabát, Đức Giêsu được mời vào nhà ông thủ lãnh biệt phái để dùng bữa. Người biệt phái này được gọi là thủ lãnh vì ông có nhiệm vụ điều khiển nhóm biệt phái, thường trong nhóm biệt phái có nhiều thủ lãnh khác nhau.
Biến cố này xẩy ra vào khoảng tháng giêng hay tháng hai năm 30. Họ thường dùng bữa với nhau một cách vui vẻ và thoải mái. Họ là những người biết luật và giữ luật kỹ lưỡng. Họ đã nghe nói về Đức Giêsu qua các dư luận khác nhau. Hôm nay họ mới lợi dụng cơ hội hiếm có này để quan sát Ngài lần đầu tiên.
Việc Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà một người biệt phái chứng tỏ là một con người dễ thương, hòa đồng, có khả năng đi đến với hết mọi người. Việc dùng bữa tại nhà ông biệt phái cho thấy thái độ của Đức Giêsu đối với người biệt phái không nhất thiết là tiêu cực như quan niệm trong Tin mừng Matthêu và Marcô, coi hạng biệt phái là thù địch của Ngài. Và như vậy, cho thấy Đức Giêsu muốn nêu lên khía cạnh Ngài sẵn sàng ban ơn cứu độ cho cả những người biệt phái nữa.
Vào bàn tiệc, Đức Giêsu quan sát một vòng, và thấy ngay một thói xấu thường xẩy ra nơi những người biệt phái là chọn chỗ nhất, chỗ danh dự (Mt 23,5-7). Họ cho đây là một thói quen nên không thấy ngượng ngùng gì.
2. Giáo huấn của Đức Giêsu.
Trong bữa tiệc, người ta thường nói chuyện vui vẻ, có những câu chuyện vui, có cả những chuyện tiếu lâm nữa, cốt làm cho bữa tiệc càng thân tình, làm cho khách ăn càng ngon miệng. Riêng Đức Giêsu trong dịp này, Ngài không nói chuyện vui mà Ngài đưa ra một giáo huấn làm cho người nghe phải khó chịu. Giáo huấn ấy đề cập tới hai điểm: việc dự tiệc và đãi tiệc, nghĩa là nói đến sự khiêm nhường và bác ái vô vị lợi.
a) Việc dự tiệc.
Khi thấy người ta chen lấn nhau chọn chỗ nhất, chỗ danh dự, Đức Giêsu đưa ra cho họ những lời giáo huấn. Lời giáo huấn của Ngài là bài học xử thế khéo léo ở trong xã hội khi giao tế với nhau. Ngài nói với họ dựa theo một đoạn trong sách Châm ngôn: “Trước mặt vua, con đừng kiêu hãnh, đừng dành giật chỗ người vị vọng. Vì thà để người ta mời con: “Xin mời ông lên” còn hơn là bị hạ xuống trước mặt quan tướng”(Cn 25,6-7).
Đàng khác, việc sắp xếp chỗ là của chủ nhà, vì chủ nhà mới biết địa vị ngôi thứ của khách mời. Còn người tự chọn chỗ danh dự cho mình là người tự tô vẽ cho mình có khi không đúng sự thật, có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhận nơi mình và đặït mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị vỡ mặt.
Từ trong quan niệm về cách xử sự giao tế ở trần gian, Đức Giêsu bước sang lãnh vực tôn giáo. Theo đó, danh dự thật không phải là người trần gian gán cho mà danh dự đó phải do Thiên Chúa ban cho. Mà Thiên Chúa thường nâng cao kẻ thấp hèn. Vì thế Ngài nói: “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
b) Việc đãi tiệc.
Đức Giêsu lại tiếp tục đưa ra lời khuyên khác về tinh thần bác ái vô vị lợi. Theo thói người đời, trong tiệc cưới thì người ta mời người thân, bạn bè, ân nhân…chứ ai mời người nghèo khó đến dự tiệc? Thế mà Đức Giêsu lại khuyên người ta làm những việc có vẻ ngược đời: “Khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”(Lc 14,13).
Khi mời dự tiệc, người Do thái luôn làm theo óc tính toán, phải có lợi. Cái lợi là sẽ được người ta đền đáp, đúng là “ăn sang ăn giả”. Ngược lại, Đức Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính Thiên Chúa sẽ đền đáp và sẽ được đền đáp trọng hậu. Vì những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù là những người loan báo Nước Trời. Do đó, đến với người nghèo khó là dấu hiệu ta thủ đắc Nước Trời cách chắc chắn.
II. NÓI VỀ KIÊU NGẠO VÀ KHIÊM NHƯỜNG.
Trong câu nói của Đức Giêsu: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”, chúng ta thấy câu nói này có hai vế với hai tính cách trái ngược nhau, đó là kiêu ngạo và khiêm nhường.
1. Ai nâng mình lên.
Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có gía trị và được mọi người công nhận, và tôn trọng giá trị của mình. Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài (x. St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hòan hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hòan hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hòan hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã nhập vào bản thể của con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hòan hảo, có giá trị thật (điều này khó, đòi hỏi con người cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị thực hay không (JKN).
Như chúng ta đã biết kiêu ngạo dẫn đến thảm họa cho nhân lọai qua lời cám dỗ của ma quỉ: “Ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện ác”(St 3,5) trong câu chuyện ông A dong và bà Evà ăn trái cấm, và được gọi là tội tổ tông truyền.
Theo sách giáo lý công giáo, số 1866 thì kiêu ngạo được xếp vào “các mối tội đầu” phát sinh ra các tội và các nết xấu khác. Đó là: Kiêu ngạo, hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh”.
Chúng ta thừa hiểu rằng ai cũng mang trong mình mầm mống của sự kiêu ngạo. Nó thường núp bóng dưới nhiều hìønh thái khác nhau:
– Tự ái là khi bị sỉ nhục liền cảm thấy mất mặt, sinh ra tức giận và tìm cách hạ bệ đối phương ngay.
– Khoe khoang tức là lợi dụng mọi cách mọi dịp để làm cho mình được nổi bật hơn kẻ khác.
– Ganh đua là khi thấy người khác hơn mình thì khó chịu, rồi tìm dịp xoi mói hay tìm cách đưa mình lên.
Tất nhiên, tất cả những biểu hiện đó là xấu, đôi lúc là tội nữa và trái ngược lại với sự khiêm nhường.
Truyện: Chiếc tầu Titanic
Kỷ niệm đáng ghi nhớ và đáng học hỏi nhất cho con người thời nay là câu chuyện chiếc tầu Titanic. Người ta nghĩ rằng bàn tay con người có thể làm nên một con tầu không thể chìm là một sự vô cùng kiêu ngạo. Mọi con tầu do con người chế tạo đều có thể chìm. Bằng việc tuyên bố chúng ta có thể làm ra một con tầu không có thể chìm được với kỹ thuật tân tiến hiện đại đã thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đúng như lời thánh Phaolô nói về tinh thần của thời đại này là kiêu căng (Rm 12,3; 1Cr 4,7). Tinh thần kiêu căng đó đã thúc đẩy người ta viết vào mạn tầu mấy chữ: “No Pope, no God”: không có giáo hoàng, không có Thiên Chúa ! Và trong chuyến hải hành đầu tiên từ Anh sang Mỹ, sự gì đã xẩy ra như chúng ta đã biết. Một tai họa đã giáng xuống như câu chuyện xây tháp Bebel trong Cựu ước(St 11,4).
2. Ai hạ mình xuống.
Đối lại với tính kiêu ngạo, Đức Giêsu đã khuyên ta hãy ở khiêm nhường. Chính Ngài đã phán: “Các con hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”(Mt 11,29).
Vậy khiêm nhường là gì? Và thế nào mới được gọi là khiêm nhường? Phải chăng khiêm nhường là tự hạ mình xuống, phủ nhận giá trị thực của mình hay giảm thiểu nó đi?Không phải thế, Đức Khiêm nhường mang nhiều chiều kích sâu xa hơn và tốt đẹp hơn nhiều. Khiêm nhường không phải là ít nghĩ về mình, mà là không nghĩ gì về mình, bởi vì: “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45).
Nhà giảng thuyết trứ danh của nước Pháp, cha Lacordaire đã nói: “Khiêm nhường không phải là thấy mình xấâu xa hơn, tầm thường hơn, nhưng là biết rõ những gì ta còn thiếu”. Khiêm nhường lấy sự thật làm nền tảng. Tự gắn cho mình cái sai ta không có, phóng đại những lỗi lầm ta không phạm, từ chối không nhìn nhận những khả năng của mình, tự cho mình thua kém mọi người, đó không phải là cách sống khiêm nhường; nhưng đó là dấu hiệu của một quan điểm sai lầm, hay một khuynh hướng bệnh hoạn. Muốn thực hiện khiêm nhường chỉ cần nhìn nhận những khuyết điểm, thấy mình tội lỗi, giới hạn, biết rằng trong tất cả mọi lãnh vực có nhiều người khác vượt xa tôi:
Ở nhà nhất mẹ nhì con,
Ra đường lắm kẻ con dòn hơn mẹ con ta.
Một lần nữa, ta phải khẳng định rằng, khiêm nhường không là gì mà chính là chấp nhận sự thật về mình. Trong Anh ngữ, chữ khiêm nhường là “humility”. Chữ Humility do chữ La tinh “Humus” có nghĩa là đất, tro bụi mà từ đó con người đã được tạo dựng theo như sách Sáng thế đã mô tả (St 2,7). Do đó, khiêm nhường có nghĩa là hạ mình xuống tới đất. Nó nhắc nhở chúng ta lời kêu gọi của Giáo hội trong ngày thứ Tư lễ Tro về sự thật của thân phận con người: “Hãy nhớ mình là bụi tro, và sẽ trở về cùng tro bụi”.
Truyện: Đọc truyện Tây du ký.
Ai trong chúng ta cũng đã có lần được xem phim Tây du ký của Trung quốc. Một cuốn phim thật hay và hấp dẫn người xem từ đầu tới cuối và còn muốn xem nhiều lần. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta thấy các nhân vật trong phim cũng hợp với lời của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Những hạng tôn mình lên làm Tề Thiên Đại Thánh: bằng Trời, bằng thánh vĩ đại, làm Đại vương, Ma vương, Nữ vương, Hòang hậu, Hòang tử, Công chúa đều bị lột mặt nạ là những đồ khỉ, nhện, thỏ, rắn rết, heo, bò, dê ngựa, hổ báo, sư tử, quỷ vương, buộc phải hiện hình trở về kiếp sống quái vật.
Những thứ nâng mình lên như thế thì vô kể.
Những thứ hạ mình xuống thì ít lắm. Chỉ thấy có Đường Tăng. Ông luôn luôn xưng mình là bần tăng, vô tài, bất lực trước mọi thử thách nguy hiểm, ông chỉ biết thương người, cầu kinh, khấn Phật, cầu kẻ này, nhờ kẻ kia, nhờ cả đến con khỉ Ngộ Không dẫn đường chỉ lối, cứu giúp, giải vây. Chính nhờ hạ mình xuống mà ai cũng thương mến, kính phục và liên kết với ông. Chính nhờ sự hạ mình xuống mà ông tránh được hiểm họa tranh chấp, đánh lộn, oán thù. Chính nhờ hạ mình xuống mà ông đã lãnh được bộ Kinh dạy ông thành Thánh, thành Phật. Ông đã hạ mình xuống thì được mọi người tôn lên.
Ngoài thứ khiêm nhường thật ra, lại còn thứ khiêm nhường giả tạo nữa. Điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bề ngòai. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, khi mình có tài hoặc khả năng đặc biệt được nhiều người chiếu cố, nhờ cậy thì mình giả vờ hạ bệ mình bằng cách thoái thác, từ chối, nhưng kỳ thực đó là thủ thuật buộc người ta phải lụy phục, nài nỉ thêm. Lại có người vì để được một lợi lộc gì hay để đạt được một tham vọng nào đó thì luôn tỏ ra nhã nhặn, hiền lành, dễ bảo trước mặt người có quyền để lấy lòng, mua chuộc. Hoặc vì yếu thế mà phải tỏ ra lụy phục, nhưng sau lưng thì phê bình chỉ trích, nói xấu người ta.
Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vênh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh nhàn, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Phải thành thật với mình, nhận ra cái ưu đểm và khuyến điểm của mình và luôn nhận ra mình còn yếu đuối cần có sự trợ giúp của Chúa vì: “Không có Thầây, các con không thể làm gì được” ! “Các con hãy ngồi vào chỗ cuối” ! Đức Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại lời đó. Trước mặt Thiên Chúa, phải biết mình yếu đuối, nhỏ bé, ở chỗ cuối, để rồi hoàn toàn trông cậy vào Chúa, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình. Phải nhỏ bé như trẻ thơ mới được vào Nước Trời (Lc 9,48).
Truyện: Nhận thức đúng thân phận mình.
Tương truyền rằng trước cánh cửa nhà mồ bị khóa chặt, hồn nữ hòang Sissi gõ cửa. Từ nơi thăm thẳm vang lên giọng nói oai nghiêm của vị Cha Già giữ cửa:
– Ai đó?
Hồn nữ hòang kiêu sa đáp:
– Tôi là nữ hòang Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari.
Tiếng vị Cha Già lạnh lùng:
– Ta không biết.
Tưởng người giữ của chưa hiểu biết về mình, hồn nữ hoàng lại gõ của. Lần này tiếng hỏi của vị Cha Già gắt hơn:
– Ai đó?
Hồn nữ hoàng lại cao giọng đáp:
– Ta là nữ hòang Elizabeth Sissi của Aùo quốc, hòang hậu xứ Hungari, hoàng hậu xứ Bôhême, hoàng hậu của Giêrusalem, nữ lãnh chúa của xứ Transylvanie, đại quận chúa của Toscane và Cracovie…
Lại một lần nữa Cha Già trả lời:
– Ta không biết.
Nghe xong tiếng trả lời của Cha Gia: “Ta không biết”, vừa thất vọng đau đớn vừa tủi nhục xấu hổ, hồn nữ hoàng vội quì xuống, lột bỏ hết mọi chức tước cao ngạo của trần thế và khiêm tốn thưa lại một cách giản dị:
– Con là Elizabeth Sissi, một kẻ có tội đáng thương và con tha thiết cầu xin Chúa nhân từ xót thương.
Tức thì tiếng chìa khóa tra vào ổ, vị Cha Già lên tiếng ân cần nói:
– Con hãy vào đi.
Dù câu chuyện chỉ là giả tưởng, nhưng dụng ý của nó muốn nói rằng: giá trị đích thực của một con người ở đời này và đời sau không hệ tại nơi những gì bên ngoài mình có được hay mình chiếm được, mà là do biết rõ mình thế nào. Nghĩa là khi còn sống phải biết sống làm sao để mọi người yêu mến kính phục và khi đã qua đời lại được Chúa xót thương và được thần thánh hỗ trợ thì mỗi người chúng ta gắng sức học hỏi và sống theo bí quyến căn bản này: “Khiêm nhường”. Vì đây chính là chìa khóa để mở được cánh cửa vào thiên đàng (Quê Ngọc).
3. Hạ mình xuống để phục vụ.
Đức Giêsu phán: “Con Người đến không phải được phục vụ nhưng đến để phục vụ”(Mc 10,45). Phục vụ là hành động của một người tôi tớ, mà người tôi tớ thì phải phục vụ cho ông chủ. Đức Giêsu đã hạ mình xuống để phục vụ chúng ta để tôn chúng ta lên làm Chúa, còn Ngài lại trở thành tôi tớ. Ngài làm gương cho chúng ta về tinh thần bác ái vô vị lợi.
Sách có chữ rằng: “Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly”: Giầu có thì thiên hạ bâu, nghèo khó thì bà con rời rạc.
Theo cách xử sự thông thường người ta thích những người giầu có, giao du với họ trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Nếu có phục vụ người ta thì cũng chỉ phục vụ “theo nguyên tắc: “Do ut des”: cho đi để lấy lại.. Chỉ những ai có tinh thần siêu nhiên và siêu thóat thì mới có thể có được một sự phục vụ vô vị lợi.
Phục vụ là: “Cho đi”, nhưng cái cho đi cũng có nhiều lý do:
– Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho lòai người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
– Người ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi cho thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
– Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabbi Do thái có câu nói rằêng: cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
– Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành thật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.
III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY.
Đức Giêsu không dạy điều gì mà Ngài đã không làm trước, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Bài học về khiêm nhường và bác ái hôm nay được minh họa bằng chính cuộc sống của Ngài mà thánh Phaolô đã ca tụng trong thư gửi cho tín hữu Philipphê: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2,6-9).
Đọan thư Philipphê ngầm so sánh Đức Giêsu với A dong và nói lên cái nghịch lý giữa “lên” và “xuống”. Adong đã muốn lên “bằng Thiên Chúa” và kết quả là đẩy loài người xuống vực sâu. Còn Đức Giêsu tuy vẫn là Thiên Chúa mà không nhất quyết phải đòi cho luôn luôn được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã khước từ tất cả, mặc lấy thân nô lệ thấp hèn. Kết quả là Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban chính hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu… Thật đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
Chúng ta cũng thường theo con đường của Adong tưởng rằng khẳng định được mình khi nâng mình lên trước mặt những người khác. Những cái “mình” mà ta khẳng định ấy chỉ là những dáng vẻ bề ngòai chứ không phải là bản thân đích thực của ta.
Triết gia Socrate đã khởi đầu triết lý của mình bằng câu: “Anh hãy tự biết mình”. Biết mình là cái khó vô cùng. Người ta có thể biết được nhiều sự trên trời dưới đất, biết được những cái xa xôi, biết được cả những cái cực kỳ tinh vi, nhưng có cái gần nhất màø không biết. Đó là bản thân mình. Còn triết gia Blaise Pascal thì nói: “Tôi chỉ biết có một điều là tôi chẳng biết gì cả”. Nếu không biết được gì khác thì làm sao biết được mình vì biết mình là một điều khó.
Vì vậy, mọi sự cần bắt đầu với việc tu thân, canh tân chính đời sống của mình. Để làm được điều căn bản này cần phải biết nhìn xuống và nhìn vào bản thân mình, biết khiêm tốn nhìn vào cuộc sống của mình theo ánh sáng Lời Chúa để được soi sáng mà nhìn thấy những gì tiêu cực, xấu xa cần được thanh luyện sửa chữa.
Truyện vui: Phải biết nhìn xuống.
Có một hòang tử nọ tên là Mukasaki, có một thái độ tự cao tự đại đến độ cả khi đi, ông cũng không bao giờ nhìn xuống đường. Ông bước đi trong tư thế làm oai, ngực đứng thẳng, mắt ngước lên, mọi người trong vùng đặt cho hoàng một tên riêng là: “Người không bao giờ nhìn xuống” và hoàng từ Mukasaki xem ra cũng rất thích biệt hiệu này, ông tuyên bố: “Những bậc vĩ nhân không bao giờ nhìn xuống, họ chỉ biết nhìn lên trời cao mà thôi”.
Một ngày nọ, hoàng tử được mời đến dự đại tiệc tại cung đình. Để khoe cho mọi người nhìn thấy bộ áo cẩn ngọc qúi giá có một không hai của mình, hoàng tử quyết định không ngồi xe ngựa nhưng hiên ngang đi bộ từ nhà đến cung đình, dĩ nhiên là với thái độ kiêu hãnh không bao giờ nhìn xuống. Dân chúng tuốn ra hai bên đường trầm trồ khen áo đẹp và quí, điều này lại làm cho hoàng tử thêm kiêu hãnh. Hoàng tử đến cung đình sau hết mọi người và hiên ngang bước vào. Mọi người cười rộ lên, hoàng tử kiêu hãnh nói:
– Tại sao mọi người cười tôi như vậy?
Một trong những người khách mới trả lời:
– Xin hoàng tử nhìn xuống đôi chân mình sẽ biết lý do tại sao?
Hoàng tử nhìn xuống, mặt bỗng đỏ bừng lên vì hổ thẹn. Cả hai đế giầy của hoàng tử đều dính đầy phân ngựa, vì không bao giờ nhìn xuống, hoàng tử giẫm lên không biết bao nhiêu đống phân ngựa từ nhà đến cung đình để dự tiệc.
Hoàng tử trong câu chuyện vui trên không bao giờ nhìn xuống và đã giẫm lên những đống phân ngựa. Nếu chúng ta không biết nhìn lại mình, kiểm điểm cuộc sống mình để biết canh tân khỏi những khuyết điểm và tật xấu, thì chắc chắn chúng ta sẽ chồng chất không biết bao nhiêu tật xấu. Tự phụ kiêu ngạo làm ta nên mù quáng trước những tật xấu của chính mình. Thêm vào đó, chúng ta lại dễ chiều theo khuynh hướng moi móc chuyện xấu của anh chị em, và như thế càng ngày chúng ta càng lún sâu vào trong tật xấu mà không hay biết gì cả (R.Veritas).

42. Hãy ngồi chỗ cuối – Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Đức Giêsu được một người Pharisiêu (trong hàng ngũ lãnh đạo) mời đến nhà dùng bữa. Khi đến, Người cảm thấy mình đang bị dò xét. Bởi các đối thủ đang theo dõi Người sát sao, hy vọng tìm ra lý do, để vu cáo chống lại Người. Đức Giêsu cũng thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, họ tranh giành, tỏ ra kiêu căng tự đắc và ích kỉ. Đức Giêsu đưa ra hai giáo huấn khá ngắn:
Giáo huấn thứ nhất nói với khách được mời.
“Đừng ngồi cỗ nhất”. Điều Đức Giêsu nói đây là một quy luật, một châm ngôn đã có từ lâu đời trong nhân gian. Sách Châm Ngôn viết: “Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn, được người ta mời: “Hãy lên đây” tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan” (Cn 25,6-7; St 7,4). Sách Lêvi cũng dạy khách ngồi bàn ăn bằng những lời: “Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp, dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: Hãy ngồi lên “hơn là” đi xuống dưới ngồi”.(Lv 7,1-5). Bởi thế, những luật sĩ, các biệt phái không tự ái, khi nghe Đức Giêsu nói “Đừng ngồi cỗ nhất”, cho dù họ đang tìm cỗ nhất, bởi họ cho Đức Giêsu chỉ nhắc lại Kinh Thánh.
Tuy nhiên, theo Noel Quesson, lời Đức Giêsu đây, không đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn… song còn đưa chúng ta sang bình diện Nước Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Thực vậy, không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất, chính là tình cảm về sự công chính bản thân mới là bước cản chúng ta đến gặp Đấng Cứu chuộc. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài. Đức Maria trong kinh Magnificat đã nói: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là việc Thiên Chúa ưa thích, đó là việc Thiên Chúa thường làm. Lời Chúa còn đó: “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường thật lòng”.
Giáo huấn thứ hai nói với chủ nhà.
Theo lẽ thường, ta chỉ mời những người có liên hệ với mình: Bà con, họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, vật chất hay một cách nào đó. Những người đó đến lượt, họ sẽ mời lại, để đáp lễ theo luật có đi có lại: Ông mất chân giò bà thò chai rượu. Còn những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, thường bị ta bỏ qua.
Luật Dothái dạy: Những người điếc lác, thọt chân, cụt tay, mắt hỏng không được tham dự các sinh hoạt tế tự trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18). Những người Étsênien ở Qumrân còn quả quyết: “Những người đui mù, khuyết tật, thọt chân, què tay không được tham dự hội đường các ngày Sabbát, cũng không được ở giữa hội đoàn của những người danh tiếng”.
Giờ đây, Đức Giêsu lại nói với chủ nhà: “Khi ông mở tiệc, đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có. Ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả lễ và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ chết sống lại”. Thực ra, đây không phải là những lời mới mẻ.
Sách Khôn Ngoan Aram của người Dothái viết: “Hãy nhận vào nhà bạn kẻ thấp hơn bạn và kẻ nghèo hơn bạn, nếu anh ta ra đi và không trả ơn bạn, Chúa sẽ trả cho bạn”. Sách Đệ Nhị Luật dạy: “Ba năm một lần, anh em hãy đưa ra tất cả thuế thập phân của năm ấy, và đặt ở cửa thành anh em, để Thầy Lêvi, người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong thành của anh em sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em chúc phúc cho mọi công việc tay anh em làm” (Đnl 14, 28).
Điều lề luật dạy làm cứ ba năm một lần. Đức Giêsu bảo: Hãy làm bất cứ lúc nào. Khi luật pháp bảo cứ để sẵn cổng thành cho người ta đến dùng, Đức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại. Cuối cùng luật pháp hứa đền bù ở đời này, Đức Giêsu bảo sẽ được báo đáp ở đời sau. Đức Giêsu đã chẳng lặp lại y nguyên luật pháp, Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức, thiêng liêng hơn.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể đây một câu chuyện: Một chủ nông giầu có nọ mời các tá điền và những người làm công dùng bữa cơm tối tại nhà ông. Đây phải gọi là một yến tiệc mới đúng, bởi vì tất cả các món ăn đều được dọn trên các đĩa bằng sứ hay mạ bạc quý giá, còn rượu ngon hảo hạng được rót vào những ly thủy tinh đắt tiền. Bàn ăn được trải toàn khăn bằng vải và một bát nước rửa tay. Có một anh nông dân kia, vì trong đời anh chưa bao giờ được dự một bữa tiệc sang trọng và thịnh soạn đến thế, nên sau khi ăn uống no nê, anh đã bưng bát nước dùng để rửa tay uống cạn. Một vài thực khách sành điệu bắt đầu cười thầm, rồi tiếng cười bỗng bật thành tiếng. Thấy vậy, người chủ tiệc lập tức với tay bưng lấy bát nước trước mặt mình uống cạn. Cử chỉ này làm tắt ngay những tiếng cười chế nhạo sự quê mùa của anh nông dân kia.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng làm như vậy.

43. Khiêm hạ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào một buổi sáng mùa hè, tôi thả bộ chung quanh công viên Devoe, bên cạnh nhà thờ. Quan sát cảnh sinh hoạt xuất hiện có người già, thanh niên, thiếu nữ, người Mỹ, Tây, Ta và Tầu. Đây đó mấy người còn đang ngủ trên những chiếc ghế gỗ. Vài người đi lượm long. Có người dẫn chó đi dạo buổi sáng. Người tập thể dục, người ngồi đọc báo và đám trẻ chơi banh bóng rổ. Có những kẻ ăn mặc đẹp hơn vội vã tắt ngang qua công viên đi làm việc. Một nhóm chàng trai trẻ vô gia cư, di dân bất hợp pháp và đang ngồi tãn gẫu. Một vài người thu dọn làm sạch công viên. Xem ra cảnh vẻ thật êm đềm, họ không dứt lác và không quấy rầy. Họ là những người thấp cổ bé miệng. Những người nghèo khó ăn mặc đơn sơ chỉ chăm lo kiếm sống mỗi ngày. Họ không la hét, vênh váo, đua đòi hay ăn xài hoang phí. Đa số thuộc thành phần lao động khiêm tốn.
Tôi chỉ biết dâng lời tạ ơn Chúa trong mọi sự. Tôi có khác gì những người đang có mặt trong công viên. Đã có lúc cả gia tài của tôi vỏn vẹn chỉ một bộ đồ trên người. Tôi cũng thuộc thành phần di dân, ngoại kiều và được chấp nhận như một công dân. Tôi được may mắn có nơi ăn chốn ở, có công ăn việc làm và có mọi thứ cần thiết. Thầm cám tạ ơn Chúa. Chẳng phải vì công lao hay sức lực riêng mà chỉ do lòng thương xót của Chúa ban. Tác giả sách Huấn Ca giúp chúng ta nhận được thân phận yêu hèn và thấp bé của mình. Lời khuyên răn rất chân tình: Hỡi con, con hãy thi hành công việc con cách hiền hoà, thì con sẽ được người đẹp lòng Chúa quý chuộng (Hc 3, 17). Nhìn những người chung quanh, tôi cảm thấy thật thương họ. Một người mẹ trẻ đi lượm long để kiếm thêm chút tiền cho bữa ăn gia đình. Mọi công việc họ làm đều đáng tôn trọng. Họ không ngại ngùng, không sợ dơ dáy, bẩn thỉu hay hôi hám. Họ kiếm sống bằng đôi bàn tay tinh sạch qua công khó và mồ hôi nước mắt. Họ rất đáng được tôn trọng.
Buông bỏ lớp vỏ ngoài, ai cao trọng hơn ai chứ! Danh dự hay chức vị là để phục vụ. Sách Huấn Ca dậy rằng: Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, thì con sẽ được đẹp lòng Chúa (Hc 3, 18). Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường của Chúa đến với nhân loại. Không bao giờ chúng ta học hết được bài học về nhân đức khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng trở nên vĩ đại. Qua sự khiêm hạ, chúng ta có thể đến với mọi người và mọi nơi. Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu thì làm đất đai thêm mầu mỡ và phì nhiêu.
Sự kiêu căng là bức tường ngăn cách với tha nhân. Kiêu căng là tự đặt mình lên trên người khác. Người kiêu là người luôn tỏ vẻ trí thức, hiểu biết, quyền lực và tốt lành thánh thiện hơn người. Thùng càng rỗng, càng kêu to. Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không biết (Hc 3, 28). Sự kiêu ngạo đã len lỏi vào đời sống của con người ngay từ thuở ban đầu. Ông Adong và bà Evà đã bị ma quỉ gạt gẫm và muốn được hiểu biết mọi sự giống như Thiên Chúa. Ông bà nguyên tổ đã vụt mất tất cả hồng ân. Sự kiêu ngạo đã thấm nhập vào nhiều tâm hồn, họ đã chối từ tôn thờ chính Đấng ban nguồn sự sống. Cậy dựa vào sự hiểu biết nông cạn của mình để cả dám giơ tay thách thức quyền năng Vua vũ trụ. Nhạo cười Đấng đã được sai đến. La Fontaine kể ngụ ngôn này: Cây sồi tự đắc thân to, rễ nhiều, cao ráo và miệt thị cây lau nhỏ tí yếu ớt. Cây lau trả lời rằng: Tuy thân mình nhỏ nhưng nếu gặp phong ba thì chưa chắc ai thua ai. Một hôm, trời chuyển gió và phong ba nổi dậy… cây sồi vì cao, tàn lớn nên bị gió thổi trốc gốc đổ xuống. Còn cây lau mềm uốn mình theo chiều gió, nhờ thế mà vẫn đứng yên.
Chúa Giêsu đã nhắc nhở: Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc 12,11). Đứng trước quyền năng vô biên của Thiên Chúa, con người là chỉ loài thụ tạo xuất hiện đó rồi tan biến đó. Sự kiêu ngạo làm con người tự cất nhắc mình lên và chiếm hữu đạt quyền của kẻ khác. Chúa phán rằng ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chân lý này có thể áp dụng cho hết mọi người sống trong xã hội. Càng làm lớn, càng biết hạ mình thì càng được tôn trọng và quí mến. Người sống khiêm nhu không phải là người yếu đuối hay tiêu cực. Chúng ta thường nói lấy nhu thắng cương là thế. Không ai chê bai, phản đối hay khinh thường những người biết sống khiêm nhường. Chỉ những ai có tính kiêu ngạo đã không nhận ra được giá trị trân quí của nhân đức này.
Suy niệm bài phúc âm. Một thí dụ cụ thể chọn chỗ ngồi nơi bữa tiệc. Trong hoàn cảnh văn hóa hiện tại, có nhiều thay đổi theo phong tục văn hóa cho hợp lẽ. Chủ hôn sẽ xếp đặt chỗ ngồi cho khách hoặc để tự do cùng bạn bè chọn lựa nơi chỗ thích hợp. Ngày xưa, Chúa Giêsu chỉ dẫn: Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc (Lc 12, 10). Chúa muốn nói về sự khiêm hạ trong lòng. Thực thế, trong bất cứ đám tiệc đều có nhiều người tham dự gồm kẻ có chức quyền, có địa vị hoặc là thành viên của gia đình, chúng ta nên trông trước ngó sau để cư xử hợp tình hợp lẽ. Không nên gây khó xử cho gia chủ. Người ta thường nói rằng: Lời chào cao hơn mâm cỗ. Vì để giữ mặt mũi, nên đôi khi chúng ta lại bị mất mặt.
Thơ Do-thái nói về cứu cánh cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta không tìm đến những nơi gây khiếp sợ như lửa cháy, gió lốc, mây mù và bão táp nhưng là tiến về Nhà Chúa: Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời (Dt 12, 22). Tất cả mọi sự đều được qui tụ về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Đấng làm trung gian vạn vật. Chúa Giêsu đã mở cửa ngõ dẫn dắt chúng ta bước vào con đường khiêm hạ theo thánh ý Chúa Cha. Chúa đã học vâng phục và vâng phục cho đến chết. Vâng lời là học sự khiêm tốn. Chúa phán: Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hòa và khiêm nhượng, tâm hồn anh em sẽ được nghỉ yên bồi dưỡng (Mt 11, 29).
Tất cả mọi sự đều chung qui về một cùng đích là sự sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu mời gọi mọi người vào Nước Trời qua nhiều cửa ngõ khác nhau. Con đường bác ái yêu thương là lối vào gọn nhẹ nhất. Vì chính Chúa Giêsu hiện thân nơi những kẻ đơn sơ bần cùng nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa. Chúa Giêsu căn dặn: Nhưng khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại (Lc 12, 13-14). Chúng ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi chúng ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và tránh những ánh mắt van nài xin bố thí của họ. Cửa xe gài kỹ và đóng kín để tránh sự phiền hà. Chúng ta không muốn tiếp cận với những kẻ cùng khốn tật nguyền. Vì sợ bị quấy rầy, chúng ta đã chối từ giúp đỡ họ. Chúng ta đang mất nhiều cơ hội chia sẻ bác ái và làm phúc.
Lạy Chúa, con đã có rất nhiều cơ hội để chia sẻ giúp đỡ tha nhân, nhưng lòng con qúa hẹp hòi và ích kỷ. Con đã từ chối giúp đỡ họ. Con không muốn nhìn thấy Chúa nơi những người đau khổ và cô thế cô thân. Xin cho con học biết sự hiền lành và khiêm nhượng trong lòng để con biết chia sẻ tình bác ái với anh chị em.

44. Chúa Nhật 22 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Hc 3, 17-21, 30-31
Bài đọc I, trích từ tác phẩm của hiền nhân Ben Xi-ra, là lời khuyên thực hành đức khiêm tốn, đó là con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Dt 12, 18-19, 22-24
Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái nêu bật sự tương phản giữa Giao Ước Cũ, ở đó Thiên Chúa tỏ mình ra trong quang cảnh kinh thiên động địa, và Giao Ước Mới, ở đó Thiên Chúa hành động trong nội tâm, tất cả đều xảy ra trong trật tự tinh thần. Con đường khiêm hạ này dẫn đến thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
Lc 14, 1, 7-14
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra bài học về đức khiêm tốn trong một bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu khi ngỏ lời với các vị khách mời.
BÀI ĐỌC I (Hc 3, 17-21, 30-31)
Ông Ben Xi-ra, một bậc vị vọng thành Giê-ru-sa-lem và là một hiền nhân, sống vào cuối thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông ghi lại giáo huấn và kinh nghiệm của ông vào năm 180 trước Công Nguyên. Khoảng năm mươi năm sau đó, tác phẩm của ông được người cháu trai của ông dịch sang tiếng Hy-lạp.
1. Ý hướng của Tác Phẩm:
Sau cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-325 trước Công Nguyên), vùng Cận Đông mở cửa đón văn hóa Hy-lạp. Miền Pa-lét-tin không tránh khỏi trào lưu này (nhất là vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên). Những môi trường của giới quý tộc Giê-ru-sa-lem cũng như vài giáo sĩ cho thấy sẵn lòng đón nhận ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Ben Xi-ra không phải không nhạy bén với tư tưởng Hy-lạp, ông biết trường phái triết học Khắc Kỷ, nhưng ông tiên cảm một mối nguy hiểm đối với Do thái giáo. Ông để hết tâm trí vào việc phục hưng những giá trị truyền thống. Theo ông, sự khôn ngoan đích thực là sự khôn ngoan của dân Israel, vì Thiên Chúa là mẫu mực khôn ngoan của dân Ngài và Lề Luật là cách thức diễn tả sự khôn ngoan của Ngài.
Sách của hiền nhân Ben Xi-ra là loại cẩm nang thực hành cho người Do thái trung thành. Sách chứa đựng những lời khuyên cho cuộc sống hằng ngày. Tất cả mọi đề tài đều được đề cập đến. Trong đoạn trích hôm nay, đề tài được bàn đến là đức khiêm tốn. Đây là một đức hạnh tiêu biểu Kinh Thánh, mà người ta không gặp thấy ở nơi nền luân lý ngoại giáo.
2. Ca ngợi đức khiêm tốn:
“Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách khiêm tốn”. Ông Ben Xi-ra ngỏ lời với môn đệ của mình, hiện tại hay trong tương lai, như một người cha với đứa con của mình. Đây là cách xưng hô quen thuộc của thầy đối môn đệ của mình được xem như đứa con tinh thần của mình.
Đây không là lòng quý mến dành cho đức khiêm tốn một cách trừu tượng, nhưng lời khuyên thực hành nhân đức này, việc thực hành phải thấm đẩm mọi hành vi của cuộc sống. Sách Châm Ngôn cũng được điểm xuyến bằng những lời khuyên tương tự, không kể đến các Thánh Vịnh, sách Gióp, vân vân. Xa hơn nữa, không phải là ông Mô-sê được ca ngợi như là “một con người rất đổi khiêm nhu, không ai như thế trong mọi người có trên mặt đất” (Ds 12,3) sao? Mặt khác, ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã tiên báo hành động của Đức Chúa theo chiều hướng này: “Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt ngươi những kẻ kiêu căng đắc thắng, và ngươi sẽ không còn nghênh ngang trên núi thánh Ta nữa. Ta sẽ cho sót lại giữa các ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nơi nương ẩn nơi danh Đức Chúa” (Xp 3,11-12).
3. “Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”:
“Con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng”, có nghĩa“con sẽ được sủng ái trước nhan Thiên Chúa”. Cách nói Kinh Thánh kinh điển này sẽ được củng cố trong Tin Mừng hôm nay khi gia chủ nói với người ngồi ở chỗ cuối: “Xin mời ông bạn lên chỗ trên cho”.
4. Lên án thói kiêu ngạo:
Tiếp đó tác giả cho thấy rằng kẻ kiêu ngạo dẫn đến thảm họa. Lời kết án chỉ được gói gọn trong một câu: “Thảm trạng của người kiêu căng thật vô phương cứu chữa, vì sự ác đã đâm rễ vào lòng họ”. Hình ảnh thật mãnh mẽ: thói kiêu ngạo đã nhiễm độc kẻ ấy tận căn rồi, không tài nào có thể cứu chữa được.
5. Đức khiêm tốn: biết lắng tai nghe:
“Ước nguyện của hiền nhân là biết lắng tai nghe”. Nghệ thuật của hiền nhân là biết lắng nghe, như lời cầu nguyện của vua Salômon, vị vua nổi tiếng khôn ngoan bậc nhất: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (1V 3,9). Suy cho cùng, thái độ này là thái độ khiêm tốn, thái độ lành thánh, vì nó dẫn đến việc gẫm suy và học hỏi sự khôn ngoan.
BÀI ĐỌC II (Dt 12, 18-19, 22-24a)
Bản văn này là đoạn trích dẫn cuối cùng thư gởi các tín hữu Do thái trong Phụng Vụ Chúa Nhật năm C này. Tác giả ngỏ lời với những Kitô hữu gốc Do thái, những người này luyến nhớ những buổi phụng tự hoành tráng và uy nghi của Giao Ước Cũ so với các nghi thức Kitô giáo quá giản dị. Tác giả khuyên họ bằng những lời lẽ đầy hình tượng. Trong một bức tranh rất song đối, ông sẽ đối lập những nét đặc trưng của Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới.
1. Phẩm chất của người Kitô hữu thuộc trật tự tinh thần:
Tác giả phác họa bức tranh bộ đôi tương phản giữa dân Giao Ước Cũ tiến đến núi Xi-nai hữu hình và dân Giao Ước Mới tiến đến thành đô Thiên Chúa hằng sống là Giê-ru-sa-lem thiên quốc. Việc gia nhập vào Tân Ước qua việc hoán cải thuộc trật tự tinh thần, và phép Rửa biến đổi con người từ phàm nhân sang con cái Thiên Chúa cũng hoàn toàn thuộc nội tâm.
2. Khía cạnh trần thế của Giao Ước Cũ:
Giao Ước Cũ được ký kết trên núi Xi-nai giữa những dấu chỉ khả giác và trong quang cảnh kinh thiên động địa: lửa, sấm chớp, mây mù, bóng tối, giông tố trong tiếng kèn vang dậy và tiếng nói thét gào đến nổi con cái Israel phải kinh hoàng sợ hãi đến mức hồn xiêu phách lạc.
3. Khía cạnh thiên quốc của Giao Ước Mới:
Núi Xi-nai đối lập với núi Xi-on, núi này cũng là nơi Thiên Chúa ngự, nhưng là thành đô thiên quốc với muôn vàn thiên sứ.
Dân của thành đô Giê-ru-sa-lem thiên quốc sống trong bầu khí hân hoan chứ không trong tâm trạng run rẩy sợ hãi: “Anh em đến dự hội vui giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Diễn ngữ “những kẻ đã được ghi tên trên trời” là hình ảnh Kinh Thánh Cựu Ước (Xh 32, 32; Is 4, 3; Đn 12,1; Tv 69,29), được sách Khải Huyền lấy lại dưới tên gọi “Sổ Trường Sinh” (Kh 3,5; 13,8, v.v…). Thuật ngữ “con đầu lòng” ở Israel hàm chứa những người được hưởng những đặc quyền và được thánh hiến cho Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Kitô giáo, con đầu lòng tuyệt vời là Đức Kitô. Chính ở nơi Ngài mà “những người công chính đã được nên hoàn thiện” được dự phần vào những đặc quyền của Ngài. Để chỉ cuộc hội tụ các thánh này, tác giả sử dụng từ Ekklesia, nghĩa là Giáo Hội, Giáo Hội thiên quốc, Giê-ru-sa-lem trên trời.
Đó là bức tranh mà tác giả phác họa nhằm gởi đến các Kitô hữu gốc Do thái này mà đức tin của họ bị chao đảo, thậm chí có vài người có ý định quay trở lại quá khứ xưa kia. Đức Giêsu Kitô là đích điểm mà họ tiến đến. Khi trở thành người Kitô hữu, họ tiến bước về Chúa Kitô, Đấng Trung Gian của Giao Ước Mới và Ngài sẽ dẫn họ về Thiên Chúa, “Đấng xét xử mọi người”.
TIN MỪNG (Lc 14, 1. 7-14)
Thánh Lu-ca là vị thánh ký duy nhất kể ra ba lần những người Pharisêu mời Chúa Giêsu đến nhà mình dùng bữa (Lc 7,35; 11, 27; 14, 1-14). Vì thế, chúng ta nhận ra rằng những người Pharisêu mở rộng cửa đón tiếp Chúa Giêsu để dò xét Ngài rõ hơn. Chúng ta đã có dịp đọc một trong ba câu chuyện này rồi, đó là tại nhà một người Pharisêu ở đó đã diễn ra tình tiết về một người phụ nữ tội lỗi được thứ tha (Chúa Nhật XI).
Chúa Giêsu của Tin Mừng Luca là Chúa Giêsu của mọi người, Ngài sẵn sàng đến với mọi người, dù chống đối hay dò xét Ngài, để hy vọng đưa họ về đường ngay nẻo chính. Vì thế, Chúa Giêsu thường không bỏ lỡ những cơ hội như vậy để gởi đến cho những người Pharisêu những bài học nhớ đời, vừa mang tính xã hội vừa đầy ý nghĩa tôn giáo.
1. Một ngày sa-bát:
Vào ngày sa-bát, phụng vụ trong hội đường đã diễn ra vào ban sáng. Bữa ăn trưa, thường long trọng, được định vị sau phụng vụ tại hội đường. Vào dịp này, một viên trưởng hội đường long trọng đón tiếp Ngài. Những khách được mời rất đông. Chúa Giêsu quan sát thái độ của họ. Chính những khách mời này mà Ngài ngỏ lời trước tiên về đức khiêm tốn: hãy khiêm tốn chọn chỗ ngồi cho mình trong bàn tiệc để sau này được Chúa sắp chỗ trong Nước Trời. Tiếp đó, Ngài quay về gia chủ để cho ông một lời khuyên Đức Ái về việc mời người dự tiệc trong hoàn cảnh xã hội cụ thể ở đó có những người bất hạnh.
2. Bài học về đức khiêm tốn:
Chúa Giêsu lên tiếng như một hiền nhân. Ngài nhắc lại đạo xử thế của các khách mời dự tiệc. Sách Châm Ngôn đã dạy đạo xử thế này theo cùng một cách tương tự: “Trước long nhan đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: ‘Xin mời ông lên trên!’ còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng” (Cn 25, 6-7).
Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến thái độ của khách mời dự tiệc, nhưng gián tiếp nhắm đến thái độ của những người Pharisêu mà Ngài quở trách “ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc” (Lc 20, 46). Từ đó, Chúa Giêsu rút ra một câu kết luận: “Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong Tin Mừng Luca, Chúa Giêsu cũng sẽ lập lại lời cảnh báo này khi kết thúc dụ ngôn về người Pharisêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện (Lc 18, 14).
Đây là câu kết luận của bài học về đức khiêm tốn về mặt xã hội nhưng cũng là chìa khóa để hiểu bài học về mặt thiêng liêng. Chủ từ của thể thụ động được dùng ở đây chính là Thiên Chúa và thì tương lai được dùng ở đây để chỉ về ngày sau hết, ngày chung thẩm. Như thế bài học về đức khiêm tốn không chỉ dạy về phép đối nhân xử thế trong cuộc sống thường ngày nhưng còn mang tính tôn giáo nữa: những người Pharisêu tự cho mình là dân Chúa chọn, được hưởng những đặc ân, thì hãy coi chừng, có thể sẽ ngồi vào chỗ rốt hết (Lc 13, 28-30).
Thật là có ý nghĩa biết bao khi mà những lời đầu tiên của Đức Giêsu là: “Khi anh được mời đi ăn cưới…”. Hình ảnh tiệc cưới trong Tin Mừng là hình ảnh bữa tiệc cánh chung, tự nó biểu tượng hạnh phúc của những người công chính trong Nước Thiên Chúa, đặc biệt Mt 22, 1-10 ở đó những khách được mời lại không được tham dự bàn tiệc trong khi những kẻ bé mọn lại được dự phần vào tiệc cưới.
3. Bài học phục vụ trong khiêm tốn:
Chúa Giêsu không chỉ nghĩ đến những người Pharisêu; Ngài đã ngạc nhiên và sẽ còn ngạc nhiên khi gặp thấy những thái độ như thế tại các môn đệ của Ngài. Thánh Lu-ca tường thuật chính xác vào buổi chiều Tiệc Ly các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu phải nên người phục vụ” (Lc 22, 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giêsu cũng đưa ra cho các môn đệ Ngài bài học như thế, nhưng trong một bối cảnh khác: “Trong anh em, người nào lớn hơn cả phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23, 11-12).
4. Bài học về Đức Ái:
Bài học Chúa Giêsu gởi đến cho gia chủ cũng mạnh mẽ không kém. Bài học này không mang giọng điệu của phép xử thế. Hoàn toàn trái với thông lệ của người Do thái vốn khinh chê những người bất hạnh này, Chúa Giêsu mời gọi gia chủ mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Lý do mà Ngài đưa ra: không tìm kiếm những phần thưởng trần thế cho những cử chỉ bác ái, nhưng chờ đợi những phần thưởng của Nước Trời: “Họ không có gì trả lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại”. Hành động một cách vô vị lợi, cho một cách hoàn toàn nhưng không.
Tiếp đó, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn của Ngài bằng một dụ ngôn khác: dụ ngôn“khách được mời xin kiếu, thay vào đó là “những người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” (14: 21). Cũng một bài học tương tự.

45. Danh dự được dành cho người khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Người khiêm nhu tự hạ sẽ được nên cao trọng, được nghĩa trước mặt Thiên Chúa và được người khác yêu mến.
Người ham danh vọng và tham lam sẽ bị xét xử nghiêm khắc. Đối với những người như thế, lời Chúa trong Tin mừng hôm nay là những qui luật giúp sống khiêm nhường và bác ái. Người khiêm nhu tự hạ sẽ được nên cao trọng, được nghĩa trước mặt Thiên Chúa và được người khác yêu mến.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Tin mừng Lc 14,1.7-14
Chọn lựa chỗ danh dự
Ngao ngán trước những nhận định của con người dựa trên ưu thế của sự giàu có, danh dự cá nhân, quyền lực xã hội để rồi có thái độ kiêu ngạo, Chúa Giêsu khuyên mọi người phải biết sống khiêm nhu tự hạ, biết quên mình và biết quảng đại bác ái với người nghèo khổ.
a. “Ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất…”. Lời Chúa Giêsu qua dụ ngôn chọn chỗ này không nhằm dạy về nghệ thuật ứng xử để thành đạt hay được vinh dự chỗ chốn đông người bằng thủ đoạn khéo léo. Thực ra lời khuyên của Chúa là một châm ngôn thường tình đã có lâu đời trong dân gian (Cn 25,6-7; Hc 7,4; 13,9-10). Ở đây Chúa muốn nhấn mạnh đến sự đảo lộn vị trí trong Nước Chúa để khuyên dạy mọi người sống khiêm nhu. Thiên Chúa luôn đứng về phía những người thấp bé, mọn hèn. Số sót, bà góa, người nghèo… sẽ được Thiên Chúa quan tâm và nâng đỡ yêu thương hơn (Lc 1,52; Tv 147,6; Ez 21,13).
b. “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”: Câu này là chìa khóa để hiểu dụ ngôn về việc chọn chỗ ngồi. Động từ được dùng ở thể thụ động (passif) ám chỉ hành động của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa sẽ hạ bệ hoặc nâng ai lên. Ở đây không còn nói đến bình diện nhân bản nữa mà nói đến chính việc xét xử của Thiên Chúa. Những người Luật sĩ, Biệt phái tự cho mình có đặc ân vì đã tuân giữ lề luật cách tốt nhất hơn những người khác, nên Thiên Chúa sẽ ưu đãi họ và ban cho họ có chỗ nhất trong Nước Trời. Chúa Giêsu kín đáo cho họ biết không phải như vậy đâu mà chỉ là chỗ rốt hết mà thôi.
c. “Đừng mời bạn bè, anh em ngươi…”. Câu này chắn hẳn không thể hiểu theo nghĩa chữ đen được vì như thế Chúa khuyên đừng qua lại thân thiết với anh em, bà con và bạn hữu sao? Nhưng ở đây phải hiểu là Chúa muốn mọi người biết quan tâm yêu thương những người khốn khó. Yêu thương tha nhân không bắt nguồn từ tình cảm tự nhiên hay từ một quyền lợi riêng tư nào mà luôn là một tình yêu vô vị lợi sẵn sàng cho đi không mong báo đền. Có thể hiểu câu nói của Chúa là ‘đừng chỉ mời…’
II. GỢI Ý SUY NIỆM:
1. Thiên Chúa ở bên người khiêm nhường:
Lời Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay xem ra đảo lộn mọi trật tự hay ít ra cũng cho thấy có sự khác biệt giữa thế gian và Nước Trời. Ai tự tôn mình lên ở đời này sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống trong Nước Ngài và ngược lại. Chính kinh nghiệm đức tin của dân Do Thái đã minh chứng điều ấy: Thiên Chúa sẽ nâng cao người phận nhỏ, người quyền thế bị lật đổ, người giàu có trở về tay không và nghèo đói sẽ no đầy ơn phúc. Từ lời tiên báo của Tiên tri Êdêkien, đến lời kinh Magnificat của Đức Maria và nay lời dạy của Chúa Giêsu đều minh nhiên nói lên chân lý: Thiên Chúa đứng về phía những người khiêm nhường, những người thấp hèn trong địa vị xã hội, những người bị áp bức bất công.
Trong đời sống hiện tại của con người hôm nay, chúng ta thường có khuynh hướng xem nhẹ, thậm chí coi thường những người nghèo, những người thấp hèn hơn chúng ta và tôn trọng những người giàu có, những người có quyền thế, có địa vị trong xã hội. Lời Chúa cho chúng ta thấy đừng lầm tưởng như thế, ở nơi Thiên Chúa giá trị con người được nhìn nhận cách khác hẳn, đảo ngược hẳn và phá tung mọi hàng rào ngăn cách con người với nhau. Trong Nước Chúa không có phân biệt nô lệ hay tự do, Do Thái hay Hy Lạp. Cho nên, chúng ta phải biết trân trọng nhau trong tư cách tất cả đều là con người, đều là con cái Chúa, là anh chị em của nhau.
2. Khiêm nhu tự hạ là con đường đi đến Nước Trời:
Khi dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường, về sự tự hạ và khi mời gọi mọi người hãy đến học cùng Người là Đấng hiền lành và khiêm nhường, Chúa Giêsu đã đi bước trước thực hiện triệt để những gì Người giảng dạy. Người thực sự là con người của sự khiêm nhu tự hạ: Từ một vị Thiên Chúa, Người đã hạ mình làm người bần cùng trong thế gian; từ một người Thầy Người đã tự hạ rửa chân cho các môn đệ; từ một Đấng phán một Lời mọi sự liền có Người đã tự hạ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết cách nhục nhã. Không ai có thể khiêm hạ hơn Người được nữa. Nơi Chúa Giêsu, sự khiêm hạ đã đi đến tột cùng. Chính nhờ thế mà Thiên Chúa Cha đã siêu tôn Người (Pl 2,6-9). Theo lời Chúa dạy, con đường đi tới Nước Trời, được Thiên Chúa Cha yêu thương nâng lên chính là thái độ sống khiêm nhu tự hạ. Sự khiêm nhu tự hạ mà Chúa dạy không phải là sự chịu lụy, nhịn nhục theo kiểu ‘cố đấm ăn xôi” nhưng là một sự chọn lựa tự do trong tinh thần yêu thương và phục vụ; biết mình phải làm gì, phải sống và phục vụ hết mình như thế nào.
Khiêm nhu tự hạ muôn đời là một nhân đức cần thiết để trưởng thành, để nên Kitô hữu thánh thiện. Nhìn vào những gì mình đã đạt được, đã có nhất là do nỗ lực của cá nhân, chúng ta có quyền tự hào về mình. Nhưng khi nhìn lên những anh chị em khác nhất là nhìn đến Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy mình chẳng là gì cả. Tất cả là do tình yêu của Chúa mà thôi, còn tôi vẫn mãi là người yếu đuối, bất tài vô dụng.
3. Khiêm nhu tự hạ để trở nên tất cả cho mọi người:
Sự khiêm hạ chỉ có thể có nơi những tâm hồn biết yêu mến Thiên Chúa mà thôi. Chính vì yêu Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã vâng lời hạ mình. Mỗi người cũng sẽ chỉ đạt được sự khiêm hạ trong tình yêu mến Chúa và tha nhân mà thôi. Yêu thì sẽ tôn trọng, sẽ hòa đồng xóa đi mọi ngăn cách, sẽ biết quên mình phục vụ. Chúa Giêsu đã tự hạ mình để ở cùng mọi người, đã tự hạ mình để phục vụ mọi người. Người hạ mình để trở nên người của mọi người. Sau khi trình bày dụ ngôn về việc chọn chỗ nhất để dạy về đức khiêm nhường, Chúa Giêsu tiếp tục khuyên về việc mời khách dự tiệc. Qua lời khuyên dạy, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến chính tình bác ái vô vị lợi. Ngay cả trong việc thiết tiệc cũng phải giữ cho được tình bác ái. Phải quan tâm đến người nghèo khổ, đến người bất hạnh. Như thế, có sự nối kết giữa sự khiêm nhu tự hạ và lòng bác ái. Khiêm hạ mà không bác ái, không phục vụ thì chả ích lợi gì. Khiêm hạ là phương thế để thể hiện tình yêu sẵn sàng dấn thân đến với người khổ đau, phục vụ chăm sóc họ. Khiêm hạ không phải là việc đơn giản nhún nhường nơi bữa tiệc, nơi chốn đông người. Khiêm hạ không chỉ thuần túy là việc tự nhận mình yếu kém, bất tài rồi trốn tránh trách nhiệm. Khiêm hạ chính là thái độ biết quên mình để yêu thương, hiện diện và phục vụ mọi người như Chúa Giêsu.
Khiêm hạ để trở nên tất cả cho mọi người là điều khó khăn trong thực tế cuộc sống hôm nay. Kitô hữu chúng ta phải luôn sẵn sàng ra đi, phải mặc lấy tâm tình phục vụ thì mới có thể sống được tinh thần hạ mình. Nhiều khi có làm được một tí gì cho ai thì đã vội lên mặt tự hào, đã vội cho mình có quyền nghỉ ngơi bắt người khác phục vụ. Đó chính là cám dỗ thường xảy ra, Kitô hữu chúng ta phải tỉnh thức.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu đã yêu thương hạ mình làm người rốt hết để cứu độ chúng ta. Trong niềm tri ân cảm tạ, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
1. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh, nhất là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám mục và các linh mục biết noi gương Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh sống một cuộc sống khiêm hạ, biết phục vụ hơn là đến để phục vụ.
2. Khi làm tiệc, hãy mời những người nghèo khó, đui mù, tàn tật… Chúng ta cùng cầu xin cho trong xã hội ngày càng có nhiều người quảng đại biết yêu thương quan tâm chăm sóc đến những người bệnh tật, bất hạnh và bị bỏ rơi.
3. Ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người luôn biết sống khiêm tốn theo lời Chúa dạy, để tất cả biết yêu thương, tôn trọng lẫn nhau, nhờ đó kiến tạo sự hiệp nhất trong gia đình, trong cộng đoàn và trong toàn thể Hội thánh.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ. Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Chúa Giêsu, Con Một Chúa hạ mình ở giữa chúng con để yêu thương và cứu độ mọi người. Xin Chúa gia tăng ân sủng, đức tin cậy mến để chúng con biết sống khiêm nhu hạ mình phục vụ anh chị em như Chúa Giêsu đã sống. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

46. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Nội dung bài Tin Mừng tuần trước khẳng định nếu muốn vào Nước Thiên Chúa, ta phải phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào. Tỉ dụ thực tiễn này chuẩn bị đưa ta đến một thái độ cần thiết để ta được thuộc về vương quốc ấy, đó là sự khiêm nhượng. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Để nói lên bài học khiêm nhượng, Chúa Giêsu lợi dụng ngay một hoàn cảnh sống trong xã hội: khung cảnh khách dự tiệc lựa chỗ trọng vọng nhất mà ngồi.
1) “Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi”
Không phải mọi người Pharisêu đều là kẻ thù của Chúa, điển hình là ông thủ lãnh nhóm Pharisêu trong câu truyện hôm nay đã mời Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông chắc phải là một người bạn của Chúa. Bữa ăn đông người, vì có Chúa là thượng khách. Quang cảnh nhộn nhịp của bữa tiệc cũng không che nổi hình ảnh nhiều người đến dự tiệc đã dành chỗ ăn trên ngồi trốc, một thái độ không thể chấp nhận đối với những người được mời đến dự tiệc Nước Trời.
Khách được mời đến dự tiệc cưới là do lòng tốt của người mời, chứ không phải họ có quyền muốn đến là đến. Do đó, được mời đến là một ân huệ khách nhận được từ người mời và mục đích họ đến là để đáp lại ân huệ của người mời chứ không phải để tìm vinh dự chỗ cao trọng cho mình. Việc sắp xếp chỗ ngồi hoàn toàn do người mời, không phải do đòi hỏi của khách dự tiệc. Một ngày kia, anh em ông Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho các ông được ngồi hai bên tả hữu của Chúa, Người đã trả lời: “Chén Thầy uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã dọn sẵn cho ai thì kẻ ấy được” (Mc 10,39-40).
Cũng vậy, Thiên Chúa Cha là chủ tiệc cưới Nước Trời và Chúa Giêsu là chàng rể, còn toàn thể nhân loại là khách được mời. Khi ta đáp lời mời cứu độ của Chúa, đến gia nhập vào Vương quốc của Người, điều kiện trên hết ta phải có là có lòng khiêm nhượng. Khiêm nhượng để nhận biết đây là một ân huệ vô cùng lớn lao Chúa ban cho ta. Nếu không khiêm nhượng, ta sẽ lầm tưởng mình xứng đáng được mời vào và sẽ coi thường ân huệ mà không hết lòng hết sức làm bất cứ gì để đền đáp ân huệ ấy. Lãnh nhận ơn cứu độ là để cho mình được biến đổi, như cục đất sét mặc cho bàn tay thợ gốm uốn nắn. Vì thế lời đầu tiên Chúa Giêsu rao giảng khi Người khai mở Triều Đại Thiên Chúa là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15), hoặc: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,15). Làm sao sám hối và đón nhận ơn cứu độ như trẻ em được, nếu ta không có lòng khiêm nhường?
2) “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
Châm ngôn người xưa nói về cách xử sự khôn ngoan của người được mời đi ăn cưới là hãy chọn chỗ thấp để được chủ mời lên chỗ cao hơn. Nhưng Chúa Giêsu không dạy ta làm điều ấy, mà Người chỉ mượn hình ảnh người khách được chủ tiệc mời ngồi lên cỗ trên và người khách bị mời xuống cỗ dưới để nói lên một chân lý: phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Thực vậy, trước mặt Chúa ta có là gì đâu. Tác giả Thánh Vịnh đã nhận thức thân phận mình: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,4-5). Vậy mà Ađam và Evà những tưởng mình là quan trọng, còn muốn được như Thiên Chúa nên đã bất tuân mệnh lệnh Người. Thế là đang được ở trong Vườn địa đàng bị đuổi ra và thân phận trở nên khốn nạn và đau khổ. “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”.
Tuy nhiên trong kế hoạch cứu độ Thiên Chúa muốn phục hồi thân phận làm con cái cho A-đam bằng một nguyên lý ngược lại: ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên. Vậy để thực hiện kế hoạch theo nguyên lý này, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần gian. Chúa Kitô, Con Một Thiên Chúa, đã hạ mình xuống làm người (Ga 1:14) và nhận lấy thân phận tôi đòi và vâng phục Thiên Chúa hoàn toàn đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá. Chính nhờ hạ mình và khiêm nhượng tuyệt đối, Chúa Kitô đã được Thiên Chúa siêu tôn (Pl 2,7-9).
Chúa Kitô đã vạch sẵn con đường cứu độ để những ai theo Người và tin vào Người thì sẽ không phải hư mất đời đời. Nhiều người Do-thái đã không tin vào Chúa Kitô, nhưng hãnh diện vì có Lề Luật và tin rằng việc giữ Lề Luật sẽ cứu độ họ. Họ đặt việc giữ Lề Luật lên trên việc sống theo Tin Mừng của Chúa Kitô cho nên họ sẽ bị hạ xuống, nghĩa là không được cứu độ. Trái lại, dân ngoại đã khiêm nhượng đón nhận Tin Mừng và đáp lại lời gọi của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã nói với người Do-thái về thực trạng này: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại…” (Cv 13:46).
Não trạng của người Do-thái vẫn còn nằm trong nhiều người Công giáo hôm nay. Họ nghĩ rằng họ mang danh là Công giáo thì thế nào cũng tốt hơn người không có đạo. Có những người Công giáo khác thì cho rằng họ làm những việc đạo đức trong giáo xứ, như làm thừa tác viên cho rước lễ, đem Mình Thánh Chúa cho người già cả, điều khiển ca đoàn… thì chắc chắn họ là những người đạo đức hơn những người khác. Đúng là một cách “tôn mình lên” thật kín đáo và nguy hiểm.
3) “Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhượng nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Nhưng cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Tuy Chúa Giêsu kêu gọi chủ nhà hãy tỏ lòng hào hiệp đối với kẻ nghèo khó, nhưng Người cũng mở cho ta thấy một khía cạnh khác của bữa tiệc Nước Trời. Được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ và đáp trả không chỉ là việc cá nhân, nhưng mang chiều kích cộng đồng. Nếu chính ta đã được Thiên Chúa mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ thì ta cũng phải chia sẻ ơn cứu độ ấy với nhau. Mỗi Kitô hữu phải là người đãi tiệc, giúp đem ơn cứu độ đến với những anh chị em nghèo khó, tức là những người đang cần được cứu độ.
Ta có trách nhiệm đối với phần rỗi của anh chị em, nhất là đối với những người ta có trách nhiệm. Linh mục là người đãi tiệc. Cha mẹ cũng là những người đãi tiệc. Thầy cô dạy giáo lý cho các em cũng đóng vai trò đãi tiệc. Triều Đại Thiên Chúa là thời gian Người đãi tiệc. “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25:6). Ta tiếp tay với Thiên Chúa để giúp cho bữa tiệc cứu độ càng thêm đông, bằng cách kêu mời anh chị em đến. Ta làm công việc ấy khi ta cho họ thấy cuộc sống của ta đang được ơn cứu độ biến đổi và ta đang sống như con cái Thiên Chúa.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Được Chúa mời gọi đến dự tiệc cánh chung, tôi đã đáp lại như thế nào? Từ chối vì bận rộn? Lần lữa nói với Chúa để ít nữa sẽ lo lắng phần hồn? Khiêm tốn và vui mừng đến để thi hành ý Chúa muốn cứu độ tôi?
Có khi nào tôi vỗ ngực cho mình là người Công giáo tốt không? Việc “tôn mình lên” thường biểu lộ bằng những cách nào nơi tôi? Lời nói? Thái độ khinh người? Thích so sánh hơn thiệt?
Nếu tôi là bậc làm cha mẹ, tôi nghĩ gì khi nghe người bạn phàn nàn về con cái rồi kết luận: “Thôi, kệ xác nó. Nó lớn rồi, có linh hồn thì phải lo mà giữ!”?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 14)

47. Một tình yêu mang kích thước nhân loại
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Bài Phúc Âm hôm nay mô tả hai nét trong tính chất đặc trưng Kitô giáo là khiêm hạ và bất vụ lợi. Những bộ óc rất cao siêu có thể đưa ra những lời khuyên tương tự, nhưng họ luôn luôn thiếu kinh nghiệm sống của một người từng sống như Đức Kitô. Vì thế muốn đọc bài Phúc Âm hôm nay với một tâm tình thích hợp, phải nhờ gương mẫu Đức Kitô soi sáng cho. Chúng ta suy niệm vắn tắt về đức khiêm hạ và đức bất vụ lợi của Chúa Giêsu.
1) Đức khiêm hạ của Chúa
Một trong những nét chung của mọi tham vọng con người là lòng ham muốn giàu sang, quyền thế, xác định cá tính, thành đạt. Ham muốn đó thường kéo theo những thái độ mập mờ, đi tới bất công, hà khắc, khoe khoang, người ta chấp nhận tất cả miễn là thành công. Đức Giêsu tự đặt mình ở phía đối lập cái triết lý phàm tục ấy. Chúa khiêm hạ, không phải vì quan niệm triết lý hoăc vì nhu nhược, đơn giản chỉ vì bản tính Chúa khiêm hạ. Chúa không phô trương một lý tưởng nhân loại, nhưng Người muốn ở trong sự thật đối với Chúa Cha và đối với nhân loại. Cái thước so sánh của Người, dưới thế này không có, vì nó là nhãn quan của Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là AI? Thiên Chúa là tình yêu. Đức Giêsu biểu lộ tình yêu khi Người nhập thể để gặp nhân loại. Người ta có thể nói đến sự hạ mình, nhưng thật ra đây là tình yêu vô biên đến gặp con người ở tầm cỡ con người. Khiêm hạ là một trong những bộ mặt tình yêu. Thiên Chúa ở bên trên con người, ở tầm cao vô cùng, nhưng vì Người là tình yêu cho nên Người mặc lấy kích thước con người, đối thoại với con người. Vì vậy Đức Giêsu, Người-Chúa, xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật, Chúa khinh chê sự kết thân với kẻ giàu mạnh. Trái lại Chúa quan tâm chiếu cố những kẻ nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ. Kitô hữu cũng vậy, phải quan tâm chiếu cố những bạn bè quen thuộc, nhất là không được quên rằng căn bản mọi sự khiêm hạ là tôn trọng nhân vị kẻ khác.
2) Đức bất vụ lợi của Chúa
Sự khiêm hạ đích thật khiến người ta tôn trọng bất cứ ai với một tâm tình bất vụ lợi. Lòng đại lượng của Thiên Chúa không đòi hỏi có đi phải có lại. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đền đáp. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Chúa đưa ra dụ ngôn ấy vì chính Người xử sự như vậy. Đức Giêsu nói đến bữa tiệc Thiên Chúa mời tất cả mọi người không phân biệt, nhất là những kẻ nghèo, vì nghèo mới dễ dàng nhận lời mời gọi. Về mặt thiêng liêng, kẻ nghèo là kẻ không khoe khoang kiến thức, đức hạnh, hoặc bất cứ một ưu điểm nào khác trước mặt Thiên Chúa. Họ biết rõ thân phận mình, nhận ân huệ của Thiên Chúa mà chẳng có gì để dâng hiến Thiên Chúa. Con người càng nhận dễ dàng bao nhiêu, Thiên Chúa càng tỏ ra rộng rãi và bất vụ lợi bấy nhiêu. Chuẩn bị tâm hồn để sẵn sàng đón nhận ân huệ, chúng ta cũng có bổn phận san sẻ cho kẻ khác một cách rộng rãi, và không vị lợi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta rất hậu và nhưng không. Chúng ta hãy san sẻ ưu tiên cho kẻ nào không có gì tặng lại chúng ta, nghĩa là chúng ta phải rộng rãi vì tình thương không vị lợi, vì tôn trọng nhân phẩm kẻ khác.

48. Sự khiêm nhường dẫn đến chỗ cao hơn
(Trích dẫn từ ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ – Charles E. Miller
Một nghi thức ấn tượng và đơn giản đã xảy ra trong phụng vụ ngày thứ Sáu tuần thánh. Sau khi mọi người đã tụ họp lại, vị linh mục và những thừa tác sấp mình xuống im lặng trước bàn thờ. Đó là sự diễn tả kính sợ và khiêm nhường trước Thiên Chúa. Vị linh mục và các thừa tác nằm trước bàn thờ như những người đã chết. Nhưng tiếp đó họ đã đứng lên để trình bày rằng họ đã sống lại từ cõi chết của tội lỗi và sống một đời sống mới trong Đức Kitô.
Nghi thức cổ xưa này đã được diễn tả một cách ít bi kịch hơn trong phần nghi thức thống hối của Thánh Lễ. Trước Thiên Chúa và trước anh em, chúng ta đã nhận biết tội lỗi của chúng ta và nhu cầu cần lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta sấp mình xuống trước mặt Thiên Chúa. Đó là phương cách đầy đủ mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Khi các con được mời đến dự tiệc cưới, hãy đi và ngồi những chỗ rốt bét”. Chúa Giêsu đã hướng dẫn theo sự khôn ngoan mà chúng ta đã nghe trong sách Khôn ngoan: “Hãy để cho công việc của anh em được hướng dẫn trong sự khiêm nhường, anh em càng lớn, anh em càng khiêm nhường và anh em sẽ được nghĩa với Thiên Chúa”.
Tìm kiếm ơn nghĩa với Thiên Chúa mà chúng ta phải có: Nhờ Người Con dâng hiến chính mình trên thánh giá, mà Chúa Cha đã Phục Sinh chúng ta trong sự sống mới. Khi chúng ta hạ mình khiêm nhường trong nghi thức thống hối –sau khi chúng ta đã sấp mình một cách thiêng liêng hoặc đã đặt mình vào chỗ rốt bét- Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy đến chỗ cao hơn”. Chúng ta có thể được dẫn lên chỗ của chúng ta với giá trị mà Đức Kitô đã mặc lên trên chúng ta. Chúng ta có thể thông dự một cách đầy đủ vào trong hy tế và bữa tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.
Có lẽ một số người trong chúng ta vướng mắc trong vấn đề khiêm nhường này. Chúng ta có thể nhấn mạnh về sự tội lỗi và sự bất xứng của chúng ta một cách quá độ mà quên rằng những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta để Phục Sinh chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Kitô đã kêu gọi chúng ta tới sự thật, không phải gian dối nhưng là sự khiêm nhường. Nói cách khác, một số người trong chúng ta có thể có thái độ hơi sai lệch, một chút ích kỷ, hoặc những gì giống như thế và ngay lập tức chúng ta ngần ngại tiến đến chỗ cao nhất nơi Tiệc Cưới. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta đừng kiêu ngạo, nhưng hãy khiêm nhường.
Sự quân bình cần thiết khi chúng ta nghĩ rằng, dù chúng ta có giá trị hay không có giá trị. Phụng vụ cho chúng ta môt sự quân bình bằng việc khuyến khích chúng ta một mặt chấp nhận rằng mình tội lỗi và mặt khác bảo đảm rằng chúng ta một cách nào đó được Đức Kitô Phục Sinh khỏi sự chết của tội lỗi.
Trong kinh nguyện Thánh Thể thứ hai, linh mục đã thưa với Thiên Chúa nhân danh tất cả chúng ta: “Chúng con cám ơn Chúa vì Ngài đã thương đến sự yếu hèn của chúng con, để chúng con xứng đáng đứng trước nhan Ngài và phục vụ Ngài”. Bản Latinh thật sự mạnh mẽ bởi đã chuyển dịch theo nghĩa chữ sẽ như thế này: “Chúng con tạ ơn Chúa vì Ngài đã làm cho chúng con nên xứng đáng đứng trước nhan Ngài diện đối diện”.
Những người khiêm nhường phải cẩn thận đừng bao giờ nghĩ rằng Đức Kitô thì không làm một việc tốt khi cứu chuộc họ. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta vẫn còn là những tạo vật khốn khổ, những người đó thì không bao giờ làm hài lòng Thiên Chúa.
Trước khi hiệp lễ vị linh mục tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian phúc cho những ai được kêu gọi đến dự bữa tiệc Chiên Thiên Chúa”. Bữa tiệc này không phải là bữa tối sau cùng. Đó là bữa tiệ cưới lớn lao của Chúa trên thiên đàng (Kh 19). Quả thật, phúc cho chúng ta là những kẻ thấp hèn bởi vì chúng ta là như thế và nhờ Thánh Thể chúng ta sẽ được dẫn tới chỗ cao hơn trên Nước Trời và chúng ta sẽ vui hưởng tiệc cưới lớn lao của Chiên Thiên Chúa.

49. Ghế Giám Mục
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đức Giám Mục Helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của ngài được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức trong xã hội.
Ngày nọ, Đức Cha Camera tiếp một số nông dân nghèo tại Tòa Giám Mục. Nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho vị Giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một bác nông dân cao niên đứng gần chiếc ghế bỏ không ấy, Đức Cha Camera đến cầm tay ông ấy dìu ông ngồi xuống chiếc ghế giám mục của mình.
Đối với một con người sống chết cho người nghèo như Đức Cha Camera thì hẳn đây không phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình và những người nghèo.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ của Đức Cha Camera đối với người nghèo hoàn toàn trái ngược với cử chỉ của nhóm Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ tranh giành ngồi vào chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Chúa Giêsu đã chứng kiến được cảnh chọn chỗ nhất nầy khi Ngài đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh của những người Biệt phái Pharisêu. Ngài đã kể cho khách dự tiệc một ví dụ để dạy cho họ một bài học, không chỉ là thuật xử thế mà còn về đức khiêm tốn hoàn toàn trái ngược với cái óc tự phục, háo danh của họ.
Bài học thật là đơn giản: Theo Chúa Giêsu dạy, người khách tới dự tiệc không nên tự động tìm cho mình chỗ nhất, nhất là khi không chắc rằng mình là người khách quý nhất của đám tiệc. Chỗ nhất là để dành cho người nhất, chỗ sang trọng là để dành cho người sang trọng. Do đó mới có sự mời người nầy lên, mời người kia xuống. Nếu được mời lên thì càng được vinh dự trước mặt các người khác mời; còn nếu bị mời xuống thì càng thêm xấu hổ trước mặt mọi người. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng là đương nhiên trở thành người nhất, người sang trọng. Người nhất, người sang trọng, dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất, là người sang trọng, và cuối cùng vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Vì vậy, Chúa nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Nghe thoáng qua, xem ra Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về cách xử thế ở đời và ẩn núp trong cung cách đó, có một chút gì là tính toán: Giả vờ ngồi chỗ cuối, để rồi được chủ tiệc mời lên trên và khi đó sẽ được danh giá trước mặt mọi người. Đó là khiêm tốn giả tạo, là kiêu ngạo trá hình. Cần phải lưu tâm đến câu kết luận của Chúa: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Câu châm ngôn nầy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của ví dụ: Ở đây, không còn là cách xử thế ở đời nữa, nhưng là giáo huấn về Nước Trời được sánh ví với bữa tiệc. Việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là việc của chủ tiệc chứ không phải của khách mời. Cũng vậy, việc tham dự vào Nước Trời không tùy thuộc vào sự đánh giá của con người về chính mình, nhưng tùy thuộc vào lời mời gọi và đánh giá của Thiên Chúa. Còn người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy thôi, không hơn không kém. Do đó, để ngồi đúng chỗ của mình, mỗi người phải tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không so sánh với người khác. Vì chỉ có Thiên Chúa mới đánh giá đúng địa vị đích thực của mỗi người. Trước mặt Chúa, con người chỉ là một tạo vật bé nhỏ, nghèo khó vô cùng. Và khi đó, khiêm nhường chính là sự thật, giúp chúng ta hiểu đúng đắn con người của mình.
Người khiêm nhường vì hạ mình sát đất, nên không còn có thể ngã xuống đâu được nữa, cũng chẳng có ai tranh dành chỗ thấp ấy, nên họ luôn có sự bình an và còn được cảm tình của nhiều người. Trái lại, người kiêu ngạo như leo lên ngọn núi cao, dễ bị chóng mặt và té xuống tan xương nát óc. Đồng thời, vì tranh dành địa vị, tiếng khen hơn người nên bị mọi người ghen ghét và tâm hồn không lúc nào bình an thực sự.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay đụng chạm đến những người Biệt phái Pharisêu tự phụ, giả hình. Họ vẫn tự dành cho mình chỗ nhất ở mọi nơi và ngay cả trong Nước Trời. Họ dựa vào những tước hiệu nầy nọ để bắt cả Thiên Chúa phải dành quyền ưu tiên họ vào Nước Trời mà quên mất rằng mình phải trở nên con người xứng đáng với chỗ nhất đó. Thực ra, chẳng những đối với người Biệt phái, mà Tin Mừng hôm nay còn đụng chạm đến cái tôi của mỗi người chúng ta. Tuy không nói ra, nhưng thực ra ai cũng tìm kiếm danh vọng, địa vị, thích được người khác kính nể, ca tụng, thích được nổi bật giữa đám đông, gây được ảnh hưởng trên dân chúng.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị con người coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược, nhưng lại được Thiên Chúa tôn lên. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôn nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
Chính Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã bỏ chỗ nhất để ngồi vào chỗ cuối cùng khi Ngài nhập thể làm người ở giữa loài người. Nói như Cha Huvelin: “Đức Kitô là Ngài về chỗ đó nữa”. Và Thánh Phaolô đã nói: “Đức Kitô đã hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài… hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy… và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giêsu Kitô là Đức Chúa” (Pl 2,6-11).
Khiêm nhường còn là một bộ mặt của tình yêu: Vì yêu thương con người, Thiên Chúa ở tầm cao vô biên đã hạ mình xuống ở tầm cỡ kích thước của con người. Ngài xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật. Chúa không kết thân với kẻ giàu có, quyền thế. Trái lại, ngài quan tâm chiếu cố những người nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ.
Vì vậy, ngay trong bữa tiệc nầy, sau khi đã cho khách mời một bài học về việc chọn chỗ chót, Chúa Giêsu cũng không quên hướng về ông chủ tiệc để nhắc nhủ ông về việc mời khách dự tiệc. Chúa nói: khi mời khách dự tiệc, đừng mời những người giàu sang, quyền thế. Vì như vậy chỉ là hình thức trao đổi để trục lợi. Mời người để được người mời lại. Hãy mời những người nghèo khó, không có khả năng đáp đền. Chúa nói như vậy, vì chính ngài đã xử sự như vậy. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đáp lễ.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54).

50. Ngồi trên ghế Giám mục
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”
Đức Giám mục helder Camera là một Giám mục nổi tiếng của Châu Mỹ La Tinh. Tên tuổi của Ngài được gắn liền với những hoạt động tích cực để bênh vực những người nghèo khổ bị áp bức trong xã hội.
Ngày nọ, Đức Cha Camera tiếp một số nông dân nghèo tại tòa Giám mục. Nhiều người không có chỗ ngồi, phải đứng trong phòng khách. Trong khi đó thì chiếc ghế dành cho vị Giám mục thì không ai dám động đến. Thấy có một bác nông dân cao niên đứng gần chiếc ghế bỏ không ấy, Đức Cha Camera đến cầm tay ông ấy dìu ông ngồi xuống chiếc ghế giám mục của mình.
Đối với một con người sống chết cho người nghèo như Đức Cha Camera thì hẳn đây không phải là một cử chỉ khoe khoang, có tính toán. Nhưng đó là một chọn lựa cơ bản của một con người thực sự dấn thân phục vụ người nghèo và đồng hóa mình và những người nghèo.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ của Đức Cha Camera đối với người nghèo hoàn toàn trái ngược với cử chỉ của nhóm Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Họ tranh giành ngồi vào chỗ nhất, chỗ danh dự trong đám tiệc. Chúa Giêsu đã chứng kiến được cảnh chọn chỗ nhất nầy khi Ngài đến dự tiệc tại nhà một thủ lãnh của những người Biệt phái Pharisêu. Ngài đã kể cho khách dự tiệc một ví dụ để dạy cho họ một bài học, không chỉ là thuật xử thế mà còn về đức khiêm tốn hoàn toàn trái ngược với cái óc tự phụ, háo danh của họ.
Bài học thật là đơn giản: Theo Chúa Giêsu dạy, người khách tới dự tiệc không nên tự động tìm cho mình chỗ nhất, nhất là khi không chắc rằng mình là người khách quý nhất của đám tiệc. Chỗ nhất là để dành cho người nhất, chỗ sang trọng là để dành cho người sang trọng. Do đó mới có sự mời người nầy lên, mời người kia xuống. Nếu được mời lên thì càng được vinh dự trước mặt các khách mời; còn nếu bị mời xuống thì càng thêm xấu hổ trước mặt mọi người. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng là đương nhiên trở thành người nhất, người sang trọng. Người nhất, người sang trọng, dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất, là người sang trọng, và cuối cùng vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Vì vậy, Chúa nói: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Nghe thoáng qua, xem ra Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về cách xử thế ở đời và ẩn núp trong cung cách đó, có một chút gì là tính toán: Giả vờ ngồi chỗ cuối, để rồi được chủ tiệc mời lên trên và khi đó sẽ được danh giá trước mặt mọi người. Đó là khiêm tốn giả tạo, là kiêu ngạo trá hình. Cần phải lưu tâm đến câu kết luận của Chúa: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Câu châm ngôn nầy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của ví dụ: Ở đây, không còn là cách xử thế ở đời nữa, nhưng là giáo huấn về Nước Trời được sánh ví với bữa tiệc. Việc sắp xếp chỗ ngồi trong bữa tiệc là việc của chủ tiệc chứ không phải của khách mời. Cũng vậy, việc tham dự vào Nước Trời không tùy thuộc vào sự đánh giá của con người về chính mình, nhưng tùy thuộc vào lời mời gọi và đánh giá của Thiên Chúa. Con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy thôi, không hơn không kém. Do đó, để ngồi đúng chỗ của mình, mỗi người phải tự đặt mình trước mặt Thiên Chúa, chứ không so sánh với người khác. Vì chỉ có Thiên Chúa mới đánh giá đúng địa vị đích thực của mỗi người. Trước mặt Chúa, con người chỉ là một tạo vật bé nhỏ, nghèo khó vô cùng. Và khi đó, khiêm nhường chính là sự thật, giúp chúng ta hiểu đúng đắn con người của mình.
Người khiêm nhường vì hạ mình sát đất, nên không còn có thể ngã xuống đâu được nữa, cũng chẳng có ai tranh dành chỗ thấp ấy, nên họ luôn có sự bình an và còn được cảm tình của nhiều người. Trái lại, người kiêu ngạo như leo lên ngọn núi cao, dễ bị chóng mặt và té xuống tan xương nát óc. Đồng thời, vì tranh dành địa vị, tiếng khen hơn người nên bị mọi người ghen ghét, và tâm hồn không lúc nào bình an thực sự.
Anh chị em thân mến,
Lời Chúa hôm nay đụng chạm đến những người Biệt phái Pharisêu tự phụ, giả hình. Họ vẫn tự dành cho mình chỗ nhất ở mọi nơi và ngay cả trong Nước Trời. Họ dựa vào những tước hiệu nầy nọ để bắt cả Thiên Chúa phải dành quyền ưu tiên cho họ vào Nước Trời mà quên mất rằng mình phải trở nên con người xứng đáng với chỗ nhất đó. Thực ra, chẳng những đối với người Biệt phái, mà Tin Mừng hôm nay còn đụng chạm đến cái tôi của mỗi người chúng ta. Tuy không nói ra, nhưng thực ra ai cũng tìm kiếm danh vọng, địa vị, thích được người khác kính nể, ca tụng, thích được nổi bật giữa đám đông, gây được ảnh hưởng trên dân chúng.
Ngày nay, khiêm nhường thường bị con người coi là thua kém, là yếu hèn, là nhu nhược, nhưng lại được Thiên Chúa tôn lên. Khiêm nhường được ví như nền móng của ngôi nhà. Nền móng càng sâu, ngôi nhà càng cao, càng vững chắc.
Chính Chúa Giêsu, Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã bỏ chỗ nhất để ngồi vào chỗ cuối cùng khi Ngài nhập thể làm người ở giữa loài người. Nói như Cha Huvelin: “Đức Kitô là người ngồi ở chỗ chót rồi, nên chẳng còn ai kèn cựa với Ngài về chỗ đó nữa”. Và Thánh Phaolô đa nói: “Đức Kitô đã hủy mình ra không, lãnh lấy thân phận tôi đòi… đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và là cái chết trên thập giá. Bởi vậy, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài… hầu trước Danh hiệu của Đức Giêsu, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy… và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng: Giêsu Kitô là Đức Chúa” (Pl 2,6-11).
Khiêm nhường còn là một bộ mặt của tình yêu: Vì yêu thương con người, Thiên Chúa ở tầm cao vô biên đã hạ mình xuống ở tầm cỡ kích thước của con người. Ngài xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không tìm kiếm địa vị cao sang nổi bật. Chúa không kết thân với kẻ giàu có, quyền thế. Trái lại, ngài quan tâm chiếu cố những người nghèo, những kẻ bị ruồng bỏ, những kẻ ốm yếu tật nguyền, an ủi và chữa lành họ.
Vì vậy, ngay trong bữa tiệc nầy, sau khi đã cho khách mời một bài học về việc chọn chỗ chót, Chúa Giêsu cũng không quên hướng về ông chủ tiệc để nhắc nhủ ông về việc mời khách dự tiệc. Chúa nói: khi mời khách dự tiệc, đừng mời những người giàu sang, quyền thế. Vì như vậy chỉ là hình thức trao đổi để trục lợi. Mời người để được người mời lại. Hãy mời những người nghèo khó, không có khả năng đáp đền. Chúa nói như vậy, vì chính Ngài đã xử sự như vậy. Thiên Chúa đi tìm kẻ nghèo khổ để ban ơn mà không làm cho họ mặc cảm vì họ chẳng có gì đáp lễ.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu muốn nói đến bữa tiệc Nước Trời, nơi đó mọi người đều được mời đến dự, không phân biệt đối xử, đặc biệt mời những người nghèo, vì người nghèo dễ dàng nhận lời mời hơn những người giàu có, quyền thế. Bữa tiệc Nước Trời Thiên Chúa đã dọn sẵn, và chỉ những ai khiêm tốn, bé nhỏ, nghèo khó mới được vào dự tiệc. “Chúa sẽ hạ bệ những ai quyền thế và lòng trí kiêu căng. Ngài nâng cao mọi kẻ khiêm nhường, phận nhỏ. Người nghèo đói Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,51-54).

51. Chỗ ngồi nơi bàn tiệc – McCarthy
Suy Niệm 1. NHỮNG CHỖ NGỒI DANH DỰ
Đức Giêsu được mời đến nhà của một người lãnh đạo nhóm Pharisêu để dùng bữa. Khi Người đến, Người cảm thấy những người Pharisêu dò xét Người. Vì thế Người quyết định dò xét lại họ đôi chút. Cảnh quan mà đôi mắt Người bắt gặp không có tính cách xây dựng. Những người Pharisêu là những người rất mộ đạo, và tự coi mình là những người gương mẫu. Tuy nhiên, ở đây họ tranh giành những chỗ ngồi danh dự, điều đó chỉ chứng tỏ thực ra họ rất tự mãn, phù phiếm và ích kỷ. Họ không ở đó để làm vinh dự cho chủ nhà nhưng để làm vinh dự cho chính họ. Không có đời sống tâm linh chân thật nếu không có sự khiêm nhường. Đức Giêsu nói “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng cao”.
Khi chúng ta bước vào một ngôi nhà thờ lớn, lập tức chúng ta cảm thấy phải khiêm cung. Chúng ta cảm thấy mình nhỏ bé và vô nghĩa. Chúng ta nhận thấy mình lệ thuộc vào những điều tầm thường giả tạo. Nhưng một cách lạ lùng, chúng ta cũng được nâng cao. Bởi lẽ khi chúng ta hạ mình xuống và buông bỏ những sự vật đã cho chúng ta một cảm thức giả tạo về tầm quan trọng và cao siêu của mình, khiến chúng ta cách biệt với những người khác, lúc đó chúng ta thấy mình được nâng cao. Chúng ta bắt đầu nhận thức sự cao cả thật của chúng ta không ở trong chính mình, mà ở trong sự kiện chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Mỗi Chúa nhất, chúng ta được mời đến dự tiệc –bữa tiệc Thánh Thể. Ở đây Đức Giêsu là chủ, còn chúng ta là khách của Người. Ở đây không có những chỗ ngồi đặc biệt- bạn có thể ngồi vào chỗ nào mà bạn muốn. Ở đây đặc quyền, địa vị, tầng lớp không còn ý nghĩa gì. Sự khác nhau không đáng kể. Đó là vì trước mặt Thiên Chúa tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Không phải vì chúng ta đã bị hoá đồng mẫu số. Đúng hơn vì tất cả chúng ta đều được nâng cao. Chúng ta giống những người đang ở trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi mà nói chỗ đầu, chỗ cuối hoặc chỗ cao hơn, chỗ thấp hơn thì thật là ngớ ngẩn. Điều đó cũng được áp dụng cho ngôi nhà của Thiên Chúa. Ở đây, mọi chỗ đều là chỗ danh dự. Bước vào đây làm cho mọi người được bình đẳng. Khi chúng ta bước qua ngưỡng cửa này, mọi đặc quyền bay đi như làn khói, và tất cả chúng ta đều trở nên khiêm hạ nhưng cũng được nâng cao lên. Trước hết, chúng ta phải hạ mình xuống để được tôn lên. Sau đó chúng ta phải mang theo tinh thần này vào đời sống với chúng ta.
Một lần nọ, ông thị trưởng của một thành phố mời tất cả dân chúng của thành phố đến dự tiệc. Trong số những người đến dự, có một người rất lỗi lạc có tên là Daniel. Ông Daniel là một học giả lớn và là một người khôn ngoan. Dĩ nhiên, ông rất khiêm nhường và không thích được tôn vinh khi ông đến, dĩ nhiên ông thị trưởng mời ông ngồi ở đầu bàn. Ông Daniel cám ơn ông thị trưởng và nói rằng ông thích ngồi ở giữa những người nghèo ở cái bàn gần cửa nhất. Và ông đã làm như thế.
Khi những người khách mời danh giá khác đến, ông thị trưởng mời họ ngồi bất cứ nơi nào họ thích. Dĩ nhiên họ đã chọn ngồi ở bàn đầu. Phòng tiệc đã đầy ắp và tình cờ chỗ duy nhất còn lại ở bàn cuối. Thế mà vào phút chót con người danh giá ấy đến. Ông thị trưởng không có chọn lựa nào khác hơn là dẫn ông này đến chỗ trống.
“Nhưng đây là chỗ ở bàn cuối” người khách phản đối,
“Không, đây là chỗ bàn đầu”, ông thị trưởng đáp.
“Tôi không hiểu” người khách nói.
“Nơi nào có ông Daniel ngồi thì chỗ ấy là bàn đầu”. Ông thị trưởng đáp.
Bài học luân lý của câu chuyện: không phải chỗ ngồi làm vinh dự cho người khách, nhưng người khách làm vinh dự cho chỗ ngồi. Chúng ta không biết Chúa Giêsu ngồi ở chỗ nào trong suốt bữa ăn, nhưng dù Người ở nơi nào thì nơi ấy là một chỗ vinh dự.
Bữa tiệc là một biểu tượng của Nước Trời. Chúng ta không nên quan tâm đến việc tìm kiếm chỗ ngồi vinh dự trong Vương Quốc. Chúng ta hãy coi việc mọi người chúng ta đều được mời là một đặc ân. Dù trong tình huống nào, mọi chỗ trong Vương Quốc đều là một chỗ danh dự.
Suy Niệm 2. SỰ CHO CHÂN THẬT
Sự ban cho hoặc dâng tặng là tâm điểm của Tin Mừng, và thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu. Nhưng không phải mọi sự cho đều chân thật.
Nicholas, một con người nổi tiếng là quảng đại, ông chết và được lên thiên đàng. Thánh Phêrô đợi ông ở cửa. Ở đó, Thánh Phêrô chỉ cho ông hai đống vàng, một đống nhỏ và một đống lớn gồm những cục vàng có kích thước khác nhau.
“Những cái này là gì vậy?” Nicholas hỏi.
“Đây là những hành động ban tặng mà ông đã thực hiện ở trần gian –mỗi hành động là một cục vàng”.
Ông Nicholas cảm thấy trong lòng đầy sự tự hào. Nhưng rồi, Thánh Phêrô lại nói: “Khổ nỗi, không phải mọi sự cho đều là sự chân thật. Nhiều lần nó bị dính bén bởi vì lòng ích kỷ. Vì thế chúng ta phải tiến hành trắc nghiệm những hành động ban tặng của ông. Vì thế, những cục vàng trong đống vàng lớn không được tính đến”.
“Sao vậy?” Nicholas hỏi.
“Chúng tượng trưng cho những lần ông ban tặng cho bạn bè, người thân, bồ bịch v.v… Chúng không tạo nên vàng thật. Kể cả bọn kẻ cướp cũng tốt với người thân của chúng”.
Nói đến đây những cục vàng trong đống lớn biến thành cát. Thánh Phêrô cầm một cái sàng có mắt rộng đặt những cục vàng trong đống nhỏ vào sàng. Sau khi lắc sàng, chỉ còn lại trong sàng những cục rất lớn.
“Ngài đang làm gì vậy?” Nicholas hỏi.
“Tôi sàng sảy những sự ban tặng mà ông chỉ làm để được đáp lại một điều gì đó. Cho như thế là một thứ đầu tư. Ông có được sự trả lại mà đôi khi có lời hậu hĩ”.
Đến đây, Thánh Phêrô đổ những cục đã sàng được qua một bên và chúng trở thành cát bụi. Rồi ngài làm cho các mắt sàng nhỏ lại và hốt đống vàng còn lại vào sàng. Ngài lại sàng tiếp và đổ bỏ qua một bên các cục còn giữ lại trong sàng.
“Làm thể để làm gì?” Nicholas hỏi.
“Để sàng sảy những việc lành mà ông đã làm để được những người khác ngợi khen. Người ta có thể làm mình trở nên một thần tượng qua việc ban tặng”.
Thánh Phêrô làm cho các mắt sàng nhỏ hơn nữa, rồi sàng tiếp phần còn lại. Ngài nói: “Bây giờ chúng ta loại bỏ những việc lành mà khi ông làm chỉ vì những cảm giác ông cảm nhận khi thực hiện”.
Nicholas nhìn thánh Phêrô bỏ những cục vàng còn giữ lại trong sàng mà khi vào không khí chúng trở thành bụi bặm. Thánh Phêrô lại thu gom phần còn lại cho vào trong sàng sau khi đã làm cho mắt sàng nhỏ lại.
“Bây giờ đến cái gì vậy?” Nicholas hỏi:
“Bây giờ chúng ta sẽ sàng bỏ những sự ban tặng mà ông chỉ làm vì ý thức của bổn phận”.
Ngài lắc sàng. Những gì còn giữ lại ngài đổ bỏ sang một bên và chúng chịu chung số phận với những cục vàng đã thành cát bụi.
“Dừng lại thôi!” Nicholas kêu lên: “Nếu ngài tiếp tục như thế thì chẳng còn lại gì cả. Như thế làm sao tôi có thể được thông hành vào thiên đàng?”.
“Chúng ta phải tiếp tục thôi”. Thánh Phêrô nói: “Chúng ta phải nhìn thấy cái giá của việc ông ban tặng. Giả sử chúng ta loại bỏ những vật ông ban tặng mà không tốn kém gì cho ông thì có bao nhiêu lần ban tặng sẽ biến mất? Và ông đã ban tặng những gì chỉ vì người nhận là một người mà ông cảm thấy xứng đáng với quà tặng của ông?”.
Nhưng ông Nicholas không còn muốn nghe gì nữa: “Thật là một cảm giác khủng khiếp như khi người ta có vàng trong tầm tay mà sau đó bị giật lấy khỏi tay bạn”, ông kêu lên:
“Nhưng nếu nó không trở thành vàng thật mà là vàng giả”. Thánh Phêrô nói thêm. “Này ông Nicholas, sự cho thật rất hiếm, cũng như vàng thật rất hiếm. Cho mà không mong được đáp trả lại gì cả trừ phần thưởng cao cả là thiên đàng mới chính là sự cho chân thật. Nhưng hãy vui mừng lên, tôi có một tin mừng cho ông”.
“Tin mừng gì?” Nicholas hỏi.
“Chúa là Đấng ban tặng cao cả nhất. Hành động ban tặng của Người là vàng ròng. Nhưng chúng ta đã nói chuyện nhiều rồi. Đây là lúc phải gặp chính Chúa”
“Nhưng tôi chỉ có tay không”. Nicholas kêu lên.
“Điều đó có nghĩa là ông nghèo khó”. Thánh Phêrô đáp: “Nhưng đừng bao giờ hoảng sợ. Chúa ban cho một cách rất quảng đại những người nghèo khó mà không xấu hổ thừa nhận mình nghèo. Thôi, đi nào”.

52. Con là không, Chúa là tất cả – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một hôm Dương Chư sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quý trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu bé tiết lộ:
– Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu, sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn:
– Các con hãy ghi nhớ lời này: Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi, thì đâu mà chẳng được người yêu quý tôn trọng.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Đức Giêsu rất ưa thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã khiêm hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong thiên hạ, lại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là “chỗ nhất” trên trời cao, nhưng lại chọn “chỗ cuối” dưới chân con người.
Đức Giêsu tự hạ mình xuống như thế không phải là để được tôn lên, vì dưới vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ như thế cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên, mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là “tự nhận mình là không và Chúa là tất cả”, nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng được Chúa tôn lên.
Thánh Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi gương Chúa, biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt đưọc từ đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc hậu.
Chính khi yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta “đãi tiẹc những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại”, thì chúng ta “mới thật có phúc”, vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta. Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng: dù người được mời giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì muốn hơn người, vì trách nhiệm, hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người” (Ga 3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, mới trở nên giống Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen.

53. Ai mời gọi chúng ta – André Sève
(Trích dẫn từ ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
“Rồi Chúa Giêsu nói…”. Tiếng ‘rồi’ đưa vào một bài học thứ hai thường bị che giấu bởi vì người ta không thích theo dõi lắm.
Được mời dự một bữa tiệc xa hoa, được chuẩn bị kỹ lưỡng cho tới cả những chỗ ngồi nơi bàn tiệc, Chúa Giêsu quan sát, nói đùa và lưu ý sắc bén đến quyền ngồi trên: “Chớ ngồi chỗ cao nhất”.
Bữa tiệc tiếp tục, Chúa Giêsu buồn phiền và không có gì tốt hơn nên Ngài tiếp tục quan sát. Người ta ở vào số những người ‘lành’, Ngài hơi ngột ngạt trong cái thế giới quá được chọn lựa này. Đâu là những người không được yêu thương mà Ngài luôn luôn lo lắng đến? Ngài đưa ra một ý tưởng chấn động: “Khi muốn tổ chức một bữa ăn ngon, ngươi đừng nghĩ đến người bạn này, người bà con nọ hoặc người láng giềng kia làm bạn quan tâm. Tốt là ngươi hãy mỡi những người nghèo, những kẻ tàn tật”.
Đây là điều khó nuốt. Bạn thấy mình đang xáo trộn việc mời khác theo kiểu này phải không? Nhưng điều tiếp theo có lẽ còn khó chịu hơn nữa: “Ngươi sẽ được trả công trên trời”. Nào tốt lắm! Đây cũng vẫn là đức tính khéo léo. Lời khuyên vào đầu bữa tiệc là: “Hãy chọn chỗ thấp, người ta sẽ mời ngươi lên trên”. Bây giờ là tới tư tưởng mới: “Ngươi hãy mời những người không có khả năng đáp lễ, họ sẽ nhờ Chúa trả công cho ngươi”. Đây là những lời khuyên lạ lùng.
Họ yêu cầu được lắng nghe trong một ánh sáng nào đó: đối với Chúa Giêsu, bữa tiệc luôn luôn là một biểu tượng của cuộc sống với Thiên Chúa. Ở đây, Chúa Giêsu khởi đi từ hai thái độ rất con người. Đây là những phản xạ của người được mời: “Miễn là tôi không ngồi ở cuối bàn… Người ta có đặt tôi ngồi bên phải ông chủ tịch hay không? … “Và đây là những phản xạ của người mời: tổ chức những bữa tiệc hấp dẫn và có ích.
Nhưng trong khi rút chúng ta ra khỏi những lo lắng của chúng ta, Chúa Giêsu đột ngột khai mở cho chúng ta ý nghĩ có thể có trong đó: Khi ngươi hành động như vậy, ngươi là người nào trước mặt Thiên Chúa?
Bạn lo lắng đến việc xã hội đánh giá bạn, bạn đo lường sự đánh giá đó và hơi băn khoăn đối với việc người ta tiếp đón bạn trong các buổi tiếp tân. Không phải loại bỏ cũng như phóng đại điều đó, đó không phải là điều quan trọng. Bạn hãy đi xa hơn nữa! Cho đến giá trị của bạn trước mặt Thiên Chúa. Chính việc bạn là như thế nào trước mặt Ngài với một ngày kia tạo nên giá trị thực và quyết định của bạn. Đây là điều sẽ được tất cả mọi người ca ngợi hoặc xét như là điều tệ hại nhất trong các điều thất bại.
Và những bữa tiệc trứ danh, những lo lắng của bạn về những khách mời thì sao? Tôi đã làm bạn hơi xúc động khi nói bạn đừng mời những người bạn quan tâm. Đó là để bạn nới lỏng những lãnh vực có ích và thân thiết với bạn để nhìn vào tâm lòng của bạn là người mời dự tiệc. Đứng trước tâm lòng của Thiên Chúa! Đôi khi bạn có mời một cách trong sáng, chỉ với ý tưởng làm cho một người được hạnh phúc hay không? Người hạnh phúc đó sẽ không đáp lễ bạn gì cả.
Cái được thua là rất to lớn, phải đọc kỹ những lời cuối cùng này: “Ngươi sẽ được hạnh phúc. Và ngươi sẽ được báo đáp trong cuộc sống vĩnh cửu”. Chúa Giêsu đi ngay đến kết quả cuối cùng, nhưng “ngươi sẽ được hạnh phúc” là một hạnh phúc tức khắc: ngươi hạnh phúc vì mời những người như thế. Một ngày kia bạn sẽ được ngồi cùng bàn với Thiên Chúa bởi vì ngay từ bây giờ, bàn tiệc của ngươi là bàn tiệc của Thiên Chúa.
Do đó đây không phải là việc mời gọi người khuyết tật cô đơn này hoặc bà quả phụ kia để chiếm được một chỗ tốt trên thiên đàng. Phải, và đây là điều khó khăn khác, là người bình thường thực hiện những cử chỉ đó đến độ người ta có thể nói chúng ta: “Tại nhà người ấy, người ta cảm thấy như tại nhà của Chúa”.

54. “Hãy vào ngồi chỗ cuối”
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Hãy vào ngồi chỗ cuối”, chính Người đã làm gương, Người tự làm người nghèo khó với những người nghèo khó.
Không phải chỉ là những lời khuyên bảo về thuật xử thế mà Chúa Giêsu nêu ra, chính là một lời cảnh cáo về những điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.
Trước hết phải gạt bỏ tất cả tính tham vọng và lòng muốn hơn kẻ khác, để làm người nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa, là Đấng tôn lên những kẻ khiêm nhường và hạ xuống những kẻ kiêu ngạo.
Rồi, như Đức Giêsu, phải hết sức lưu ý đến những người nghèo khổ và yêu mến họ, bởi vì họ không có gì để trả lễ.
Tình yêu nhưng không và vô vị lợi này sẽ được thưởng ngày sống lại.
Sống không tham vọng và hoàn toàn vô vị lợi, đó là phương thế chắc chắn chinh phục được lòng Thiên Chúa và lòng người ta.
Ngồi vào chỗ cuối với hy vọng thầm kín được mời lên chỗ nhất, đó là sự giả dối phải không?
Muốn biết điều đó, phải chọn chỗ cuối và nhất quyết ở lại chỗ đó.
Bây giờ chúng ta sẽ nhận thấy phải có cái gì hơn là sự giả hình để ở lại đó, phải có tình thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Con của Chúa đã không ngần ngại chọn chỗ cuối, chỗ mà không ai ưa thích.
Người đã đứng về phía người nghèo và người khiêm tốn. Nhờ Người và nhờ ơn Thánh Thần, chúng con biết Chúa vô cùng quyền phép: ban ơn và tha thứ.
Tại bàn tiệc Nước Trời, những chỗ danh dự được dành cho những kẻ bé mọn.

55. Chọn chỗ nơi bàn tiệc – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Một học giả người Mỹ tên là Tom Roberson đã kể về một cầu thang dài ở nơi hành hương bên Trung Quốc. Cầu thang này là giai đoạn cuối cùng của con đường leo lên núi hành hương, vì đã hơn cả 1000 năm dòng người hành hương đã làm những bậc cầu thang bị mòn và thậm chí nguy hiểm.
Trên thực tế, đã có rất nhiều người hành hương bị trợt té và bị tai nạn. Những người ở trong vùng đã đề nghị các vị tăng ni ở đó nên sửa chữa lại những bậc cầu thang, vì e rằng họ có thể bị mất khách hành hương và đó cũng là nguồn trợ cấp cho thiền viện. Nhưng vị sư chủ trì đã từ chối và nói rằng, thật đáng tiếc cho những khách hành hương bị tai nạn, nhưng điều này có thể là vì họ ngẩng đầu quá cao. Tuy nhiên, họ chỉ là số ít trong số những cả triệu người nhận biết rằng, trong cuộc sống người ta phải bước đi cẩn thận. Ngẩng đầu cao nhưng không quá cao không đến nỗi không thấy cái hố cao trước mặt.
Chương 14 Tin Mừng thánh Luca đã đưa vào vài câu chuyện và lời dạy của Chúa Giêsu, đặc biệt trong đoạn văn nói về tiệc cưới. Chúa Giêsu không lạm dụng sự quảng đại của chủ nhà mà lấy lời giảng dạy để chỉ trích họ, nhưng thánh Luca đã biến bữa ăn thành cơ hội để Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có thái độ thích hợp đối với bàn tiệc cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài đã dọn sẵn cho chúng ta là dân của Ngài.
Như thế, chúng ta phải đón tiếp nước Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta như thế nào? Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy những người thích chọn chỗ vinh dự nơi bàn tiệc. Không nên làm như vậy, mặc dù mình là nhân vật quan trọng, kẻo phải nhường lại chỗ đã chọn cho những khách đặc biệt khác quan trọng hơn mình, lúc đó mình sẽ bị xấu hổ.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để phá đổ sự kiêu căng lố bịch và dạy một bài học về khiêm tốn. Ngài đã tuyên bố: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Và ngay trong bài đọc I sách Huấn Ca cũng đã khuyên nhủ: “Hỡi con, con hãy thi hành công việc của con cách hiền hòa. Càng làm lớn con càng phải hạ mình khiêm tốn trong mọi sự thì con sẽ được đẹp lòng Chúa”.
Hình như lòng khiêm tốn không còn chỗ đứng trong một xã hội đầy cạnh tranh gay gắt, và xem ra khiêm tốn chỉ là một thứ mặt nạ để người ta chú ý đến mình nhiều hơn. Điều này rất dễ được nhận thấy khi được người ta khen ngợi và ca tụng. Nhưng trái lại, khiêm tốn Kitô hữu đích thực là chân thành nhìn nhận tình trạng thực tế trong thân phận của chính mình trước mặt người khác và trước mặt Thiên Chúa, qua một thân phận yếu kém và bất toàn, một thân phận yếu đuối và cả tội lỗi nữa. Một khi chân thành biết sự giới hạn của mình thì càng trở nên khiêm tốn hơn và đón nhận tình thương của Thiên Chúa nhiều hơn.
Trong câu chuyện hai người vào đền thờ cầu nguyện, một người kể công và khoe khoang những việc mình làm, và một người đứng xa xa chỉ biết đấm ngực xin Chúa thương xót, Chúa đã chiếu cố đến người khiêm tốn này. Khiêm tốn là bài học đầu tiên cho lòng hối cải và sự tha thứ. Khiêm tốn là cửa ngõ để ta bắt đầu bước vào nhìn nhận và thông cảm với anh chị em xung quanh chúng ta. Và khiêm tốn chính là chỗ ngồi trong bàn tiệc cứu độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người.
Trong tu đức, trái ngược với khiêm tốn là kiêu ngạo và người ta xếp kiêu ngạo vào hàng thứ nhất của bảy mối tội đầu. Thánh Augustinô cũng đã dạy rằng: “Trước tiên con phải có lòng khiêm tốn, nếu không, dù có làm việc đạo đức tốt lành đi nữa thì chính tính kiêu ngạo cũng xen vào làm cho hư mất”.
Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một mẫu gương để noi theo học tập, và sau bài học yêu thương đó là bài học khiêm tốn: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Hãy ngẩng đầu để thấy trời cao đẹp đẽ và đầy hy vọng, nhưng cũng hãy nhìn xuống đất để biết đôi chân của mình đang đi mà vững bước trên đường. Hãy yêu thương để sống quảng đại và hãy khiêm tốn để sống biết đón nhận, đó là thái độ của người Kitô hữu chúng ta. Giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.

56. Ăn
Người Việt Nam chúng ta rất coi trọng cái ăn. Chữ ăn có thể được ghép với bấy kỳ chữ nào trong tiếng Việt: từ an chơi, ăn tiệc, ăn cưới đến ăn đòn, ăn gian, ăn năn. Chữ ăn dường như bao trùm bàng bạc trong suốt cả cuộc sống.
Ăn không phải chỉ là một nhu cầu của thân xác, mà còn là một sinh họat biểu lộ nhân cách, biểu lộ tính người của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải biết giữ phép lịch sự trong khi ăn như tục ngữ đã bảo:
– Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
Cũng như phải tránh đi những căng thẳng làm mất đi bầu khí thân mật của bữa ăn:
– Trời đánh còn tránh bữa ăn.
Và nhất là đừng để cho miếng ăn trở thành miếng nhục khi con người không còn thể hiện được nhân cách, không còn thể hiện được tính người của mình trong cái ăn. Đó là trường hợp của những bon chen vàdành giật, như ăn tham, ăn hối lộ…
Ăn đối với con người thiết yếu là ăn cùng, ăn với, nghĩa là phải thể hiện được đòi hỏi cao quí nhất trong tình người, đó là sự chia sẻ và tình liên đới với người khác.
Hiểu như thế, chúng ta mới thấy được tại sao Chúa Giêsu đã dành một chỗ đứng quan trọng cho cái ăn trong cuộc sống công khai của Ngài.
Thực vậy, Tin mừng đã ghi lại rất nhiều sinh hoạt của Chúa Giêsu về cái ăn.
Ngài đã đi ăn cưới tại Cana. Ngài đã tới ăn tiệc do người biệt phái khoản đãi. Ngài đã ăn những bữa cơm thân mật tại Bêtania. Ngài đã cùng ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, chẳng hạn tại nhà ông Matthêu và tại nhà ông Giakêu.
Sau khi sống lại, Ngài đã hiện ra với các môn đệ trong lúc ăn uống. Và quan trọng hơn cả, Ngài đã thiết lập giao ước mới trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ.
Hơn thế nữa, Ngài lại còn thường dùng hình ảnh bữa ăn trong những lời rao giảng của mình. Biết bao nhiêu lần, Ngài đã sánh ví Nước trời như một tiệc cưới,trong đó Thiên Chúa mời gọi tất cả, không trừ một ai.
Dưới mắt Thiên Chúa, điều làm nên giá trị cho con người không phải là tài năng hay sự thành đạt trong xã hội, mà chính là tình yêu phục vụ.
Chúa Giêsu không kết án những người chiếm địa vị cao ngoài xã hội. Nhưng theo quan điểm của Ngài, càng có quyền thế, thì lại càng phải hy sinh và phục vụ nhiều hơn. Giá trị đích thực của con người chính là phục vụ và phục vụ một cách vô vị lợi.
Người nghèo nhất trong xã hội sẽ được coi là người cao trọng nhất trong Nước trời, nếu người đó biết thực sự sống yêu thương và phục vụ.
Chính Chúa Giêsu cũng đã sống trọn vẹn cho yêu thương và phục vụ trong suốt cuộc đời trần thế. Thực vậy, là Thiên Chúa, Ngài đã tự hạ đến chỗ cuối cùng, để có thể yêu thương và phục vụ những người kém may mắn nhất. Tình yêu thương và tinh thần phục vụ đã đưa Ngài tới chỗ hèn kém nhất của xã hội, đó là chịu chết trên thập giá như một tội nhân bị bêu xấu.
Ngoài ra, Ngài còn mời gọi chúng ta cũng phải biết noi gương Ngài để yêu thương và phục vụ lẫn nhau, nhờ đó kéo dài tình thương của Thiên Chúa cũng như tung vãi hồng ân của Ngài cho anh em đồng loại.
Ngài nói với chúng ta:
– Khi dọn bữa trưa hay bữa tối, các ngươi đừng mời bạn bè, anh em bà con hay láng giềng giàu có, mà hãy mời những kẻ nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù…vì họ không có gì để mời lại các ngươi.
Và trong bữa tiệc ly, Ngài cũng nói với các môn đệ:
– Nếu Ta vừa là Thầy vừa là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy rửa chân cho nhau.
Thể hiện tình yêu thương của Thiên Chúa là thương yêu không biên giới, là thương yêu không so đo, không tính toánh.
Đức Kitô đã không giam mình trong một giai cấp nào cả, tình yêu thương của Ngài đã trải rộng trên mọi người. Mặc dù Ngài đã dành ưu tiên cho những người nghèo hèn, nhưng đồng thời cũng không bỏ rơi những kẻ giàu có. Ngài đã ngồi ăn với những người thu thuế và tội lỗi, nhưng vẫn nhận lời mời đến dự tiệc do một người biệt phái khoản đãi. Người không phân biệt đối xử và không loại trừ một ai.
Hãy yêu thương và biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những công việc phục vụ cụ thể, bởi vì yêu thương chính là cho đi.

57. Ngồi vào chỗ cuối – Cao Huy Hoàng
Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian “một ngày Sa-bat nọ”, tại “bữa tiệc” của một thủ lãnh nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu được mời tham dự “bữa tiệc trần gian”, của những “con người trần gian” nầy. Bữa tiệc ấy đã phát họa trọn vẹn cái cung cách trần gian của những con người phàm tục- hoặc chưa hiểu gì về con người mới, con người có văn hóa Thiên Chúa, hoặc không tiếp nhận ánh sáng mới của Tin Mừng để thay đổi. Họ vẫn còn cũ rích trong cách suy nghĩ, cách sống… Tất cả cho cái tôi, cái riêng tiềm ẩn trong chính họ, như là một căn bệnh di truyền do tội lỗi của nguyên tổ để lại. Cái tôi khiến người ta tranh giành tư thế độc tôn, tranh giành cho mình mọi sự nhất: được suy tôn nhất, được đề cao được chú ý nhất…
Đức Giêsu đã dùng chính những diễn biến trong bữa tiệc trần gian ấy để rao giảng bài học quí giá cho con người về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa. Những người văn hóa cũ rích và đáng bị lên án kia, cũng đang là chính mỗi chúng ta, những con người của thế kỷ 21, được mang danh là những con người của thời văn minh hiện đại. Ngài đã lên án điều gì, và Ngài đã dạy gì?
Không dành cho người kiêu ngạo
Ngài lên án thói kiêu ngạo: ” Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Quả thật, không phải vô duyên vô cớ mà mối tội đầu Kiêu Ngạo được đưa lên đầu danh sách bảy mối tội, vì theo các nhà tu đức, thì thần dữ kiêu ngạo luôn có những chiêu thức cực kỳ hiểm độc, và có tài điều binh khiển tướng làm cho sáu thần dữ của sáu mối tội kia có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Khi đã để cho thần dữ kiêu ngạo hoạt động trong lòng, thì việc hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng là điều quá dễ dàng. Một trong những chiêu thức tài tình nhất của thần dữ kiêu ngạo là tặng cho con người ta sự tự ngộ nhận mình là đạo đức, là thánh thiện, là khiêm nhượng, là từ thiện, là bác ái hơn người, và luôn luôn hơn người, một cách chủ quan. Nhưng thật ra, tất cả những điều ấy đều là sự giả dối, sự tự đánh lừa mình từ trong tận gốc rễ. Cách suy nghĩ ấy, cách sống ấy, của những người Pharisiêu xưa, đã bị Đức Giêsu vạch mặt thần dữ kiêu ngạo trong họ và lên án nghiêm trọng.
Cả chúng ta nữa, lời rao giảng của Đức Giêsu đã hơn hai ngàn năm vẫn chưa thẩm thấu và thay đổi được cái căn tính tồi tệ ấy trong mỗi con người hôm nay. Chiêu thức “cám dỗ làm điều tốt” vẫn luôn luôn được rao bán hoặc biếu không, khuyến mãi khắp nơi trên thế giới và trong cõi lòng thâm sâu của ta. Cái vỏ bọc đạo đức bề ngoài cho thấy, không phải chúng ta không biết thế nào là đạo đức, nhưng chúng ta lại chấp nhận theo cách đạo đức được hướng dẫn bởi thần dữ kiêu ngạo, không phải bởi Thần Khí của Thiên Chúa. Tự nhận cho mình trách nhiệm xây dựng Giáo hội theo kiểu của mình là phải chỉ trích, lên án, rêu rao, phản đối… mà chưa kịp suy niệm cho ra những ý định tuyệt vời của Thiên Chúa; tự nhận cho mình một công tác mang tầm vóc tổ chức của Giáo Hội để thành lập uỷ ban nầy, tập thể kia mà không được ủy thác; tự tôn phong cho mình một vai trò quan trọng trong giáo hội ngang tầm với ý định riêng tư của cõi lòng mình……. hoặc cụ thể hơn, tôi phải làm cái gì đó, to hơn, lớn hơn người đi trước tôi hoặc hơn những nơi khác; tôi phải làm ông kia bà nọ trong giáo xứ vì mấy người nầy làm chẳng ra chi; phải có tôi, phải có đóng góp của tôi thì việc mới thành công được…. Tất cả, tất cả những suy nghĩ ấy đều có thể bị đánh lừa bởi sự giả dối của thần-dữ-kiêu-ngạo-thật-trong-lòng đang chỉ đạo.
Không hẳn chỉ người có quyền, có tiền, có tài mà sinh ra lòng kiêu ngạo. Thực ra, đôi khi họ chưa kịp kiêu ngạo thì kẻ yếu thế, người nghèo khổ, người kém cỏi đã kiêu ngạo trước họ rồi- kiêu ngạo với lòng bất mãn, ganh tỵ, chống đối, chê bai, chỉ trích. Thần dữ kiêu ngạo không trừ ai, không miễn trừ thành phần nào và cũng không hà tiện một thủ đoạn nào, miễn là nó đạt được mục đích tối hậu là làm cho con người không được tham gia vào bữa tiệc Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu hôm nay cũng đang cảnh cáo mỗi chúng ta-những con người thích ngồi chỗ nhất, mâm cỗ nhất, thích được đánh bóng, thích được ngụy tạo một chổ đứng một vị trí, thích cho danh mình được cả sáng…-và cho chúng ta cơ hội đặt mình trước mặt Ngài để nhờ ánh sáng Lời Ngài chiếu dọi vào tận cõi lòng mà tìm ra cho được sào huyệt thường trú của thần dữ kiêu ngạo tinh quái.
Nhưng dành cho những ai có lòng khiêm nhượng
“Thứ nhất khiêm nhượng chớ kiêu ngạo” -nhân đức ưu tiên được đề cập đến trong “cải tội bảy mối”, là lời dạy thiết thực của Chúa Giêsu trên trang Tin Mừng hôm nay dành cho những ai muốn bảo đảm một vé mời dự tiệc Nước Thiên Chúa.
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối…” Chúng ta đã được “mời vào dự tiệc” Nước Thiên Chúa qua các Bí tích, từ việc tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nhận lấy Thần Khí sự sống, được sống bằng chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong tiệc Thánh Thể…, nhưng còn việc “vào ngồi chỗ cuối” thì chắc hẳn phải xem lại.
Chổ cuối Chúa dạy chúng ta vào ngồi là chỗ của Đức Giêsu, chỗ chấp nhận thân phận làm người, và chấp nhận dưới mức tận cùng của kiếp người với lòng khiêm hạ tối đa vì lòng yêu mến và tuân phục Cha, để mọi người được cứu rỗi. Chỗ cuối, chỗ của yêu thương và phục vụ tận tình. Chỗ cuối, chỗ của lòng tin tuyệt đối, lòng cậy vững vàng-tín thác hoàn toàn, và chỗ của lòng mến không vụ lợi. Chỗ cuối, chỗ nên giống Chúa Giêsu hoàn toàn trong cách suy nghĩ, cách nói, và cách cư xử: kiên quyết loại trừ thần dữ kiêu căng trong lòng trí con người,và mặc lấy tâm tình đơn sơ nhỏ bé phó thác để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho vinh danh Thiên Chúa.
Lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu là từ bỏ chính mình, chính cái rất riêng của mình, lắng nghe và thấu hiểu ý của Cha. Vì vậy, chỗ của Chúa Giêsu, là chỗ khiêm nhượng chân thành nhưng khôn ngoan nhờ việc luôn kết hợp mật Thiết với Thiên Chúa Cha và làm theo ý của Cha qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Lời dạy dành cho người mời tiệc “hãy mời những người nghèo khó…” mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa Cha về tiêu chuẩn khách được mời vào trong tiệc Nước Thiên Chúa: khiêm nhượng.
Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa không dành cho những người kiêu ngạo, nhưng dành cho những người có lòng khiêm nhượng, người chọn vào ngồi chỗ của Đức Giêsu, chỗ rốt cùng vì quảng đại đến cùng cho công cuộc cứu rỗi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chỗ của Chúa và vào ngồi chỗ của Chúa trong cuộc đời, trong Giáo Hội và trong Nước Chúa.

58. Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, mọi người thường trao đỗi nhau để tạo cho mình những nhu cầu cần thiết. Người có tiền thì dùng tiền để đỗi lấy những gì mình muốn, hai bên đồng ý nhau và mỗi người nhận phần của mình. Đó là cuộc trao đổi sòng phẳng.
Thế nhưng cũng có người sau khi nhận được phần của mình rồi, mới nhận biết mình đã bị lợi dụng, vì người kia muốn được lợi hơn cái họ đã trao đỗi, nên họ đã lừa dối bạn trao đỗi với mình. Đó là vì con người thường muốn được hơn cái mình đã bỏ ra, muốn được hơn cái mình đang có. Cũng vì lý do đó mà biết bao nhiêu tranh chấp, biết bao hận thù vẫn còn tiếp diễn.
Chúa Giêsu nhìn thấy những ưu tư lo lắng của con người trong mọi thời đại. Ngay trước mắt Ngài đây, mọi người đang cố ngoi lên trong một việc không đáng là gì. Họ cố tìm một chỗ ngồi trong buổi tiệc. Cố khẳng định mình trong cuộc sống thuộc mọi lãnh vực, bằng tất cả mọi phương cách, những cách chính đáng và cả không chính đáng họ cũng không từ bỏ. Ngài nhìn thấy hướng đi sai lầm như thế, Ngài cho họ một bài học: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ dược nâng lên”.
Ngài lấy thí dụ chỗ ngồi trong buổi tiệc và cả những khách mời dự tiệc. Mọi người đều mong muốn được cái mà mình không xứng đáng, hay khá hơn là đòi đền đáp lại cách sòng phẳng như một cuộc mua bán. Ngài bảo họ hãy làm việc đừng mong đền đáp, như thế trong ngày những người công chính sống lại, sẽ được đền đáp xứng đáng.
Chúa Giêsu cũng muốn nói với từng người trong chúng ta, những người của thời đại mới, đặt biệt hơn là những người đang lắng nghe Ngài đây. Ngài đang nhìn thấy những tranh chấp, những ưu tư lo lắng cho cuộc đời nầy của mọi người. Ngài cũng nhìn thấy những cuộc trao đổi sòng phẳng và cả những bất công. Ngài còn nhìn thấy những lọc lừa, những mưu mô, hầu chiếm đoạt cái mình không đáng được, để cố ngoi lên trong mọi hoàn cảnh và tìm lợi ích riêng tư cho mình.
“Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ dược nhắc lên”.
Lời nói của những ngày xa xưa nhưng vẫn thực tiễn, vẫn cấp bách và vẫn còn hiệu lực đối với những người của ngài hôm nay.
Trong đời sống hằng ngày, mỗi người cố gắng để vươn lên, đó là một điều rất tốt. Chính nhờ thế mà xã hội mới được tiến bộ. Nhưng điều quan trọng là phương cách để vươn lên như thế nào? Và để làm gì? Mỗi người để ra một chút suy tư nhìn lại con người, nhìn lại cách sống của mình.
Chúng ta cố gắng, vất vả suốt cuộc đời để đạt được cuộc sống như ngày hôm nay. Nhưng mỗi người có bằng lòng về chính mình chưa, hay chúng ta đang còn mong muốn điều gì, đang còn đòi hỏi điều gì nữa? Mỗi người hãy nhắm mắt lại để nhìn lại cuốn phim cuộc đời đã qua và tự đánh giá về mình: xem giờ nầy chúng ta đang được nâng lên hay hạ xuống? Lời Chúa nói: “Ai nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” có làm cho chúng ta rung động chút nào không?
Có khi nào trong cuộc sống chúng ta dám cho đi mà không tính toán, chúng ta dám làm việc mà không đòi trả công xứng đáng, chúng ta dám chấp nhận cuộc sống mà không một lời phiền trách. Nếu cuộc sống được như thế thì chúng ta đã yên tâm có một chỗ ngồi xứng đáng mà không cần phải dùng một thủ đoạn nào của trần gian để chiếm lấy.
Nhưng nếu chúng ta thấy mình cứ có những tính toán sòng phẳng trong cuộc sống, hay còn tệ hại hơn, muốn chiếm lấy điều mình không đáng được, cứ muốn đưa mình lên, cứ muốn tìm những lợi lộc riêng tư cho bản thân mà bất chấp tất cả. Nếu như thế, chúng ta nên hồi tâm xin Chúa tha thứ, để rồi chúng ta bắt đầu lại với những gì tốt đẹp hơn.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để biết sống như lòng Chúa mong ước.

59. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
Kính thưa cộng đoàn,
Bài Tin mừng hôm nay, Thánh sử Luca đã thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu đến dự tiệc tại nhà của trưởng nhóm nhóm Pha-ri-sêu. Qua cách ứng xử của Chúa, Chúa đã cho chúng ta nhận ra một thực tại, một căn bệnh trầm kha của con người trần thế đó là ham danh vọng, hay tự mãn cho mình hơn kẻ khác, đồng thời Chúa cũng dậy chúng ta phải có lòng bác ái, vị tha đừng vụ lợi ăn miếng trả miếng. Hãy cho đi mà không cần đáp trả vì chính Chúa sẽ trả công cho chúng ta.
Trong bữa tiệc, Chúa quan sát thấy ai cũng muốn ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn mình nổi nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi gần ông ta, ngồi vào cỗ nhất hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ ông giúp cho một việc nào đó. Nhưng với Đức Giêsu, vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm, nên đã tự động ngồi vào cỗ chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất. Chủ nhà mời Đức Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người, nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
Lạy Chúa Giêsu, xưa đi dự buổi tiệc, Chúa đã nhận thấy một thói xấu vẫn thường có nơi những người biệt phái là chọn ngồi chỗ nhất. Ngày nay, vẫn còn đó biết bao người vẫn ham tìm danh vọng, chức quyền bằng mọi cách, mọi thủ đọan; vẫn còn đó sự kiêu ngạo, ai cũng muốn mình trổi vượt hơn, giỏi giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn người khác. Vì muốn nổi hơn người, nhiều người không ngần ngại tìm cách để chà đạp người khác.
Để được vào nước trời, Chúa muốn chúng con sống khiêm nhường, bái ái với tha nhân, nhưng lạy Chúa điều đó thật khó để chúng con có thể thực hiện được khi chúng con vẫn còn mang trong mình sự ích kỷ, lòng tham, ham danh và kiêu căng.
Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Dụ ngôn được đem ra dạy dỗ không chỉ đơn thuần là một quy luật xã giao, một thứ lịch sự phải có khi giao tế, mời mọc kẻ khác, nhưng Chúa cho thấy đây cũng là quy luật sống trong Nước Thiên Chúa. Ngày phán xét chung, Thiên Chúa sẽ hạ những kẻ kiêu căng xuống. Đừng ai nghĩ rằng trước mặt Chúa mình là thế này thế khác để đòi ân huệ. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không. Nhưng Thiên Chúa ban cho kẻ khiêm nhường và chống lại người kiêu hãnh: một cô gái nghèo nàn như Ma-ri-a đã trở thành nhân vật cao trọng trước mặt mọi người: “Vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn nữ tỳ Chúa”; còn người muốn tham vọng bằng Thiên Chúa như E-và, đã thấy mình trơ trọi, bị đuổi khỏi địa đàng. Tại buổi tiệc năm xưa, Chúa đã nhắc nhớ những người biệt phái cần biết điều đó, đừng kiêu hãnh vì dòng tộc Do-thái, vì giữ một số luật lệ, rồi cho đó là công chính và khinh chê những kẻ khác. Ngày nay, Chúa cũng muốn nhắc nhở mỗi người chúng con đừng bao giờ cho mình là đạo đức, tài giỏi, giàu có hơn người…để từ đó dễ sinh ra kiêu căng, khinh dể, coi thường người khác.
Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa. Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường (Mt 11, 29). Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quí và bền vững. Vì Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm nhường như Đức Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm nhường phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quí. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống khiêm nhường, biết quên mình, sống tự hạ tự hủy mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa!
Xin Chúa dạy chúng con bài học sống vô vị lợi, sống bác ái, sống hiến dâng mà Chúa đã sống và mời gọi chúng con sống theo Chúa, sống giống Chúa! Amen.

60. Ghế dành riêng – Lm. Vũ Đình Tường
Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang ý nghĩa khác nhau. Từ khách quan mang tính cách thương mại trong kinh doanh. Từ quan khách nói lên tính trang trọng của người khách. Nói đến quan khách là nói đến ghế danh dự dành riêng cho quan khách trong những cử hành lễ hội công cộng. Thực ra vấn đề xếp chỗ cho quan khách không đơn giản như chúng ta thấy nơi các buổi lễ hội công cộng. Khi có người đồng giai cấp, thứ bậc việc sắp xếp chỗ ngồi ngang hàng quả là nhiêu khê. Có nhiều vận động ngầm về chỗ ngồi giữa các viên chức làm việc trong các văn phòng hành chánh cho người lãnh đạo phe nhóm. Người ta nhân danh vị đó đòi hỏi nghi thức đón tiếp làm đau đầu, nhức óc ban tổ chức lễ hội. Tranh cãi đây không phải là ghế ngồi mà chính là danh dự, tiếng tăm, vị thế của người ngồi ghế đó trong ngày lễ hội. Mặc dù các nghi thức cử hành chỉ vỏn vẹn trong thời gian ngắn nhưng danh dự, tiếng tăm đối với những khách danh dự thật là quan trọng.
Khách danh dự trong nước Thiên Chúa hoàn toàn khác. Nước Thiên Chúa không thuộc vào hạng người nắm quyền ngang trời, thế dọc đất. Hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé không trừ ai. Những người vang bóng một thời, hét ra lửa, thở ra quyền. Nói ra kẻ tung, người hứng, lên xuống có người đóng mở cửa. Đứng lên có kẻ bợ, ngồi xuống có kẻ đỡ. Có quyền sinh sát trong tay, có quyền bẻ cong công lí. Trong nước Thiên Chúa không có chỗ riêng cho những người đó. Nước Thiên Chúa dành cho những ai? Thưa là những người có thời mất công lí nay được tuyên công, người nghèo khổ nay vui mừng, kẻ cô đơn nay có bạn thân tình. Người chết vì đức tin nay sống ngàn thu, người tù đầy trong tối tăm nay thấy ánh sáng huy hoàng. Đức Kitô Con Thiên Chúa đứng ra phát thiệp mời họ, đón họ, biến họ là khách danh dự trong nước của Ngài. Theo tinh thần bài Phúc Âm tuần trước họ là những người đi qua cửa hẹp mà vào. Kẻ béo quyền hành, tốt bè phái muốn qua cửa hẹp phải dẹp bỏ tất cả mới qua lọt, bằng không những thế lực kia kéo lại sẽ không thể qua lọt. Bỏ được những quyến rũ bất chánh cần có tinh thần sẵn sàng từ bỏ, cần có tấm lòng khiêm nhu, tự nhận mình sai trái, thiếu sót, giới hạn và khiêm nhường đón nhận Lời Chúa làm hướng đi cho cuộc sống. Thực hiện được điều đó qua hành động cụ thể mến Chúa, yêu tha nhân họ sẽ dễ dàng qua cửa hẹp.
Trong nước Thiên Chúa không có cạnh tranh, vận động ngầm để được ngồi vào ghế danh dự. Những khách vào nước Trời là những người có tấm lòng khiêm cung. Họ đến không phải để được ca tụng nhưng đến chính là vì yêu mến anh em, đến để gặp gỡ, để cùng với mọi người tay bắt, mặt mừng trong ngày hội. Họ đến trong tình thân hữu chân thành, trong tình con một Cha chung là Đức Kitô. Họ đến trong tinh thần sẵn sàng phục vụ người khác như tinh thần lời Đức Kitô phán trong Mat 20,26. Tinh thần đó là con người đến để phục vụ anh em chứ không phải để được phục vụ.
Khiêm nhường và thống hối luôn đi chung với nhau. Người tự nhận khôn ngoan, bằng cấp cao, trí hiểu nhiều rất khó sống khiêm nhường. Người khiêm nhường luôn nhận biết giới hạn, yếu đuối của con người. Họ biết trước mặt Thiên Chúa tài họ không bằng chi, giầu sang của họ là hư không. Vì sao? Vì tất cả những gì họ có đều do Chúa ban. Nhận biết điều này nên họ sống trong khiêm nhường, cưu mang tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nhận biết điều này nên họ không ghen tị với anh chị em khác khi người đó trội hơn họ về mọi mặt vì họ biết đó là ơn Chúa ban riêng cho người đó. Nhận biết điều này nên họ sống phó thác, tin yêu vì họ biết những gì trong tay là do Chúa trao. Vì là của Chúa ban nên họ có trách nhiệm coi sóc, phát triển và đồng thời chia sẻ những điều đó với anh chị em cần đến chúng. Nói cách khác họ không phải là chủ nhân tài năng mình có mà là người quản gia, gia tài Chúa trao cho họ chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và chia sẻ. Làm được những công việc đó họ xứng đáng ngồi trong ghế danh dự nước trời.

61. Chọn chỗ
“Phàm ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”. Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho tất cả những ai muốn theo Ngài. Giới luật này xem ra thật đơn giản, nhưng trong thực tế ai trong chúng ta cũng phải nhận đức khiêm nhường là một nhân đức phức tạp khó lường. Khiêm nhường là nhìn nhận sự thật. Sau khi đã sáng chế ra điện tính, ông Samuel đã lãnh nhận được rất nhiều giải thưởng, nhưng ông luôn cho mình bất xứng với những lời khen tặng đó, ông đã nói: “Tôi được hân hạnh đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, nhưng không phải vì tôi tài giỏi hơn kẻ khác, mà chỉ là vì Thiên Chúa muốn ban quà tặng này cho nhân loại, nên khi đã đến lúc Ngài muốn tỏ bí mật này cho con người, Ngài đã thương bày tỏ cho tôi”.
Biết nhìn nhận tất cả những gì mình có là do Thiên Chúa ban chứ không phải do công lao tài ba của mình, đó mới là người khiêm nhường. Chính vì vậy, khi được lãnh nhận ân phúc Chúa ban, họ luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa. Thế nhưng trong thế giới này có nhiều người dù được lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa, nhưng lại lợi dụng ân phúc của Chúa để kéo những danh dự về cho mình.
Chuyện kể rằng, tại một sở thú nọ, trong khi một con công đang từ từ xòe đuôi, giương cánh ra vẻ oai phong xinh đẹp của nó cho mọi người thưởng thức, thì có một con vịt già từ đâu lệ khệ bước đến, trong phút chốc, con công trở nên hung bạo, dữ tợn đánh đuổi con vịt đi. Con vịt trở lại hồ nước và bơi lội nhẹ nhàng uyển chuyển trên nước, lôi cuốn được sự chú ý của mọi người.
Người tự kiêu cũng tương tự như thế, không những không biết ơn Chúa ban mà còn dùng ơn Chúa ban để coi thường kẻ khác. Cũng có những người bề ngoài tỏ ra khiêm nhường, nhưng trong lòng lại chẳng khiêm nhường chút nào. Bác sĩ Henry thường bị các bạn chỉ trích vì tính kiêu kỳ của ông. Để giúp ông sống khiêm nhu hơn, họ đề nghị ông ra đường, trước ngực có đeo tấm bảng có ghi một câu Kinh thánh và lớn tiếng đọc Phúc âm cho những người chung quanh nghe.
Sau một buổi trên đường phố, ông trở về với vẻ mặt kiêu hãnh tuyên bố: “Tôi dám cá với các ông là không ai trong thành phố này dám làm như tôi đã làm”. Cũng có người bề ngoài nói rằng mình không xứng đáng, đáng mọi người ghét bỏ, nhưng nếu bị người khác đối xử đúng như lời họ nói thì họ lại tức giận khó chịu. Có những người cố tình lẩn tránh để bắt kẻ khác tìm kiếm, mời mọc mới chịu xuất đầu lộ diện.
Khiêm nhường là sự thật, nên trong đức khiêm nhường không thể có những sự giả hình, giả tạo như vậy. Vì vậy, cho dù Chúa Giêsu đã dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Hãy chọn chỗ rốt hết, để khi được mời lên chỗ cao hơn thì sẽ được vinh dự trước mặt mọi người”. Nếu người đó làm như vậy với ước mong là sẽ được vinh dự trước mặt mọi người, thì đó cũng chẳng phải là khiêm nhường thật. Đức khiêm nhường thật phải xuất phát từ một tâm hồn nhìn nhận sự thật. Chúng ta có một mẫu gương trọn vẹn là Chúa Giêsu. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã nhận thân phận của một người bình thường, sống giữa những người bình thường. Chúa đã tuân theo những định luật của người Rôma, những chỉ thị của những người làm đầu trong dân và Chúa đã vâng lời cho đến chết. Chúa đã hạ mình rửa chân cho các môn đệ. Gương khiêm nhường của Chúa là một mẫu gương đáng chúng ta noi gương bắt chước trong cuộc sống hằng ngày.

62. Khiêm nhường
Thiên Chúa thật kỳ diệu trong việc tạo dựng con người: mỗi người là một cá biệt, không ai giống ai, không một người nào giống người nào, xét trên mọi phương diện. Đặc biệt hơn nữa, về điều kiện và hoàn cảnh sinh sống, mỗi người có một vị trí riêng của mình và không giống với bất cứ ai. Đây là nhận xét căn bản sẽ giúp chúng ta dễ ý thức về một thái độ sống là điểm chính của đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu dạy: Hãy sống khiêm nhường.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhìn lên mình chẳng bằng ai. Nhìn xuống lại chẳng thấy ai bằng mình”. Sự “Nhìn lên, nhìn xuống”đó không phải chỉ so sánh giữa mình và người khác trong phạm vi của cải, tài năng… mà còn có thể áp dụng rất bao quát và toàn diện cho con người với tất cả những thứ con người “là”và con người “có”. Thật vậy, những thứ tôi “là”và tôi “có”không bằng ai hay giống ai hết, và cũng chẳng ai bằng tôi hay giống tôi cả. Biết chân nhận cái tôi cũng như biết về người khác, tôn trọng sự khác biệt và giữ đúng tương quan, liên hệ giữa mình và mọi người, suy nghĩ và cư xử đúng chính là thái độ sống khiêm nhường đúng nghĩa nhất. Ngược lại, không nhận thức được những điều trên, tức không nhận chân được thực tế, không nhìn ra chỗ đứng của mình, con người dễ rơi vào cách suy nghĩ và sống ở hai thái cực: hoặc băn khoăn bực bội, tự ti hoặc vênh vang tự đắc, vì tự xếp loại mình vào hai trạng thái: “Mình chẳng bằng ai”hay “Không ai bằng mình”. Vì thế, khiêm nhường tất nhiên trái ngược với tự tôn tự đắc tự cao tự đại; nhưng cũng không phải là tự ti mặc cảm, luôn bị ám ảnh thua kém, khiến sinh ra nhu nhược, nhút nhát, luôn cắn răng chịu đựng, không dám có ý kiến, dễ bị khuất phục trước đe dọa dù là phi lý. Không dám có thái độ bênh vực sự thật thì không còn là khiêm nhường nữa mà là nhu nhược, hèn nhát. Người khiêm nhường cộng thêm sự khéo léo, tế nhị sẽ biết kiên nhẫn, nhường nhịn vừa phải, đúng lúc, biết tùy cơ ứng biến, đối chất để thuyết phục, giảng hòa.
Trái lại, người kiêu ngạo tự cho mình là “trung tâm vũ trụ”, lên mặt vênh váo và coi thường mọi người, biểu lộ qua hai thái độ “vơ vào”hoặc “tránh né”. Chẳng hạn: khi thấy những ai khác được vinh dự, may mắn thì tự hỏi: “Tại sao không phải là tôi mà lại người kia người nọ?”. “tại sao không hỏi ý kiến tôi mà lại hỏi người ấy?”. Ngược lại, khi gặp điều không may hoặc bị trách cứ, dù là chính mình gây lầm lỗi, thì người kiêu ngạo lại tránh né, đổ thừa: “Tại sao không trách người khác mà lại trách tôi?”. Hai trường hợp trên đây đã diễn tả được hết cái gian manh, xảo trá, lừa lọc đi đôi với lòng kiêu ngạo, tự cho mình là tất cả, không chấp nhận tương quan nào ở trên mình. Trái lại, lòng khiêm nhường là chấp nhận sự thật, chấp nhận tương quan trên dưới mà sống cho hài hòa, tốt đẹp. Vì biết rõ vị trí, biết nhận cái hay cái dở của mình, đồng thời tôn trọng những phạm vi của người khác, người khiêm nhường sẽ tự chủ được những công việc, hoạt động của mình mà không va chạm, xúc phạm đến người khác. Tóm lại, dù chúng ta là ai, ở cương vị nào, chúng ta cũng đừng bao giờ vênh vang tự đắc cũng đừng tự ti mặc cảm. Chúng ta hãy sống khiêm nhường thật sự để tương quan cư xử, giao tiếp luôn được hài hòa, tốt đẹp với mọi người, và như thế cũng đẹp lòng Chúa, vì Chúa chỉ chúc lành và ban ơn cho người khiêm nhường.
Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt anh em? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.
Chúng ta hãy luôn tự nhủ: con người từ hư vô, từ tro bụi và sẽ trở về tro bụi, mình có chút tài năng gì thì cũng do Chúa ban. So sánh với người khác, mình có hơn cũng chẳng hơn bao nhiêu, hoặc hơn về điểm này nhưng lại kém ở điểm khác. Có tập luyện được chút khả năng tài khéo gì, có học hỏi được gì cũng do ơn Chúa trợ giúp và chắc chắn còn muôn vàn điều không biết. Con người ta bị giới hạn tứ phía: tâm linh, trí tuệ, thể xác… cần cố gắng thêm mãi.
Càng biết Chúa, biết mình, biết người, biết đời rõ bao nhiêu càng bớt tự phụ kiêu căng bấy nhiêu. Do đó, chúng ta có thể nói: càng giỏi, càng có nhiều càng phải khiêm nhường, chỉ có những ai dốt nát, dại dột mới cậy mình, khoe mình và kiêu ngạo.

63. Chan hòa niềm vui – Đỗ Lực, OP
Mẹ Têrêsa Calcutta là một linh hồn tràn ngập ánh sáng Chúa Kitô, cháy lửa yêu mến Chúa và nồng nhiệt ước mong “làm cho Chúa nguôi ngoai cơn khát tình yêu và các linh hồn.” Mặc dù “vóc dáng nhỏ bé, nhưng đức tin cứng như đá, Mẹ Têrêsa Calcutta đã được ủy thác sứ mệnh loan báo Thiên Chúa khao khát yêu thương nhân loại, nhất là những người nghèo khổ nhất trong các người nghèo. (1)
Chính ở nơi tận cùng bằng số của kiếp người, Mẹ Têrêsa đã gặp gỡ Thiên Chúa và đã hoàn thành sứ mệnh cứu độ của Ðức Kitô. Phải chăng từ Tin Mừng Luca hôm nay, Mẹ đã rút ra được bài học cụ thể cho chiều hướng dấn thân của mình giữa nhân loại. Chúng ta thử theo hướng dấn thân của Mẹ để tìm một bài học ý nghĩa và giá trị từ Tin Mừng cho người nghèo khổ hôm nay.
NIỀM VUI ÐẠI HỘI
Nhìn vào tiệc cưới, Ðức Giêsu nhận thấy có nhiều cảnh thật tức cười. Có những khách quý ngồi chỗ cuối và khách xoàng ngồi chỗ sang. Cảnh lộn xộn trong tiệc cưới diễn tả tất cả tâm trạng con người trong xã hội. Thói kiêu căng và tham vọng làm cho con người không còn nhìn ra sự thật về chính mình. Họ là những con người thích “chơi nổi,” và muốn mọi người nhìn vào họ như mẫu điển hình. Họ biến mọi người thành nấc thang đưa họ lên đài danh vọng. Khi nêu lên thói rởm đời giữa tiệc cưới, Chúa cũng muốn phơi bày tất cả dáng vẻ kiêu căng của các thủ lãnh nhóm Pharisêu. Các tông đồ cũng không khá hơn. Họ đã từng tranh nhau chỗ ngồi bên tả hữu Chúa. Sự thật làm gì có nơi những tham vọng kệch cỡm đó?!
Sự thật cũng không thể hiện diện nơi những con người chọn sai vị trí. Theo đúng hướng dẫn của chủ tiệc, những người quyền quý sẽ tìm thấy chỗ ngồi giữa những người cùng địa vị hay kiến thức. Có lẽ vì khiêm tốn, họ đã muốn nhường những chỗ cao sang cho người khác. Nhưng khiêm tốn không phải là tự giáng cấp. Người khiêm tốn đích thực biết đánh giá đúng mức và chân thành phục vụ đúng như cam kết. Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi tìm nơi phục vụ, chứ không phải tìm thanh thế.
Trên thực tế cũng có những người tỏ vẻ khiêm tốn để lũng đoạn người khác. Có những người giả vờ khiêm tốn để che giấu nhu cầu muốn mọi người biết đến danh mình. Không nên tìm cách xóa mình một cách giả tạo, nghĩa là không nên trút bỏ trách nhiệm hay công việc mọi người đang trông chờ nơi chúng ta.
Người khiêm tốn đích thực chỉ so sánh mình với Ðức Kitô. Làm thế, họ ý thức về tình trạng tội lỗi và những giới hạn của mình. Mặt khác, họ cũng nhận ra những hồng ân và sức mạnh của mình mà hành động theo sự hướng dẫn của Chúa Kitô. Họ không muốn giống như người đầy tớ đem chôn vùi nén bạc xuống lòng đất. Trái lại, không phải vì muốn khoe khoang, khi họ đem nén bạc đầu tư để tạo cơ hội dấn thân phục vụ mọi người. Nếu đúng thế, họ sẽ được Chúa ban thưởng như những đầy tớ trung tín. Chỉ có người khiêm tốn đích thực mới hưởng trọn vẹn niềm vui.
Khiêm tốn không còn là một nhân đức thuần túy luân lý, nhưng đã được nâng cao lên đức tính của Thiên Chúa. Trong Con Chúa, khiêm tốn không còn là điều kiện, nhưng đã trở thành sức mạnh cứu độ. Khi sinh trong máng cỏ Bêlem, rửa chân các môn đệ tối Thứ Năm Tuần Thánh, hay chết trần truồng trên Thánh giá, Ðức Kitô đã cho thấy thân phận và sứ mệnh Người gắn liền với lòng khiêm cung sâu thẳm. Có khiêm tốn mới chấp nhận cảnh khó nghèo cùng cực như thế.
Con người khiêm tốn sẵn sàng mở rộng tâm hồn đón tiếp mọi người, giàu sang cũng như nghèo khó, và đặc biệt ưu tiên cho những người nhỏ bé. Chỉ khi nào khiêm tốn và khó nghèo thực sự, chúng ta mới trở nên giống Chúa Giêsu, biết đồng cảm với những người cùng khổ. Người đã đến trần gian để cứu mọi người, không loại trừ ai. Người bị trấn lột hoàn toàn. Bởi thế, Người mới tự do cứu giúp mọi người, cả giàu lẫn nghèo. Nếu cũng bị ràng buộc vào những tiếng khen, danh vọng, quyền lực, chắc chắn Chúa đã không thể xả thân hết mức như thế.
Mở tiệc đãi những người kém may mắn như thế là tạo cho người nghèo cũng được ăn uống và trọng đãi như người giàu. Khi vì tình yêu đích thực hoạt động hoàn toàn bất vụ lợi, chúng ta sẽ đem lại sự bình đẳng xã hội, mà chẳng cần phải đấu tranh giai cấp. Trong cuộc sống, phải ưu tiên chăm sóc những người nghèo khó và bệnh tật, vì Ðức Kitô đã muốn đồng hóa với họ. Chính nơi khuôn mặt đôi khi dị dạng của một số người, chắc chắn chúng ta gặp Thánh Nhan Chúa Kitô (x. Mt 25:35-45).
Dưới ảnh hưởng Thần Khí, Chúa Giêsu đặc biệt hiến thân cho người nghèo, bệnh tật và tội lỗi. Ðó là lý do tại sao Chúa khuyên chúng ta làm tiệc đãi những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù, những người không có gì để trả ơn chúng ta. Nhưng chính họ lại là những ân huệ Thiên Chúa ban cho những người giàu có. Quả thế, họ mở ra cơ hội cho người giàu tạo nên những giá trị và ý nghĩa đích thực cho cuộc sống. Ðó là kinh nghiệm bất cứ ai làm việc bác ái cũng cảm thấy sau khi giúp những người nghèo khổ và kém may mắn. Một niềm vui và hạnh phúc khôn tả tràn ngập tâm hồn và cuộc đời.
Ở ÐỜI MUÔN SỰ CỦA CHUNG
Chỉ những người khiêm tốn mới có khả năng mở rộng tâm hồn và hòa mình với mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Theo Ruusbroek, càng khiêm tốn, con người càng lặn sâu trong Thiên Chúa, để thấy mình liên đới với người nghèo. Chính vì thế, khi xét đến đặc ân Tin Mừng dành cho người nghèo, Giáo Hội nhắc lại nhiều lần rằng “những người may mắn hơn hãy từ bỏ một số quyền lợi của mình mà dùng tài sản để phục vụ người khác cách quảng đại hơn.” (2) Giúp đỡ người nghèo là phục vụ Chúa Kitô. Khi hoạt động cho người nghèo, Giáo hội luôn sánh vai với họ và coi họ như những người anh chị em của mình. Tình bằng hữu này bắt nguồn từ tình yêu Chúa Cha trong Ðức Giêsu Kitô. Nếu người nghèo là anh chị em, Giáo Hội sẽ chia sẻ tận tình tất cả những gì mình nhận được từ Thiên Chúa.
Người nghèo trở thành một mối phúc cho Giáo hội. Quả thực, “tình yêu Giáo Hội dành cho người nghèo được gợi hứng từ các Mối Phúc trong Tin Mừng, từ sự nghèo khó của Ðức Giêsu và sự quan tâm của Chúa về người nghèo. Tình yêu đó liên quan tới cái nghèo vật chất và nhiều hình thức nghèo nàn về văn hóa và tôn giáo nữa.” (3) Sự nghèo khó nào cũng bắt nguồn từ bất công. Bởi đấy, chống lại bất công là cứu con người khỏi sự nghèo khốn cả vật chất lẫn tinh thần.
Làm việc bác ái hay bố thí cũng được Giáo hội coi là hoạt động cho công lý, đẹp lòng Thiên Chúa. Thực vậy, “khi chú tâm tới những nhu cầu của những người đang lâm cơn quẫn bách, chúng ta trả cho họ những gì của họ, chứ không phải của chúng ta. Chúng ta trả nợ do công lý đòi hỏi, hơn là thực thi công việc từ thiện.” (4) Nghe thế, chắc nhiều người không hài lòng. Từ trước đến nay, họ vẫn hãnh diện về bao nhiêu công tác từ thiện, bố thí, làm phúc, bác ái. Họ đã chia bớt bao nhiêu của cải cho người nghèo. Của cải đó do chính họ vất vả làm ra, chứ có lấy của ai đâu? Sao bây giờ lại ăn nói “vô ơn” như vậy?!
Thực ra, tất cả đều là hồng ân. Của cải là những món quà họ đã đón nhận từ Thượng đế. Nói khác, Thiên Chúa trao cho họ quản lý những món quà đó, nhưng vẫn giữ quyền làm chủ. (5) “Của cải là một ơn lành do Chúa ban để ông chủ xử dụng và lưu chuyển, cho cả người khốn cùng có thể hưởng dùng.” (6) Thánh Basiliô Cả minh họa: “một con thác lớn chảy xối xả vào miền đất phì nhiêu, qua hàng ngàn kênh đào. Vậy thì, qua hàng ngàn đường lối khác nhau, bạn hãy làm cho của cải đến nhà những người nghèo khó. Mục đích Chúa trao tặng những món quà đó là để họ tiếp tục trao đi cho người khác.”
Tất cả những công cuộc bác ái đều cần thiết cho con người hoàn thành sứ mệnh và tạo nên ý nghĩa cũng như giá trị cuộc đời. Như thế, mới hiểu tại sao khi “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đi mù,” (Lc 14:13) chúng ta lại trở thành những người “thật có phúc.” (Lc 14:14) Tiếp tục cho đi là cách tốt nhất chuẩn bị đón nhận hồng ân cao cả nhất “trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14:14) Quả thế, “Chúa Giêsu đến thiết lập ‘Nước Thiên Chúa,’ để con người có một lối sống mới trong xã hội: công bình, huynh đệ, liên đới và chia sẻ. Trong Thánh Linh, con người được kêu gọi trả lại công lý cho người nghèo, giải thoát người bị áp bức, an ủi những người bị bách hại, tích cực tìm kiếm một trật tự xã hội mới để giải quyết thỏa đáng sự nghèo túng vật chất và kiềm chế những lực lượng đang ngăn trở các nỗ lực giải thoát người hèn yếu nhất khỏi những hoàn cảnh khốn cùng và kiếp nô lệ.” (7) Có thế, mối phúc một người mới được nhân lên đến ngàn lần.
MONG ÐỢI GÌ NƠI GIÁO HỘI?
Bình thường ai cũng muốn giao du với những người quyền thế, giàu sang để thăng quan tiến chức. Chỉ có những tâm hồn khiêm tốn mới nhìn thấy mối liên đới trách nhiệm với những người nghèo khó và quan tâm tới hạnh phúc của họ. Quả thế, nếu không có một tâm hồn khiêm tốn và nghèo khó, chắc chắn Ðức Giêsu đã không thể đề nghị mời những người nghèo khó, đui mù, què quặt đến dự tiệc.
Hiện nay, hàng tỷ người nghèo đói đang chầu chực ngoài các bàn ăn thịnh soạn của bao người giàu có. Họ không có gì để ăn! Trước tình trạng ấy, Giáo Hội có thể làm gì? Có phải con người đang mong chờ những món quà viện trợ từ Vatican hay các tòa giám mục? Làm sao Giáo Hội có khả năng để giúp đỡ một số người đông đảo như thế? Giáo hội có phải là một đế quốc đâu! Vậy nhân loại mong chờ gì nơi Giáo Hội?
Trước hết, nhân loại không trông mong những giúp đỡ vật chất nơi Giáo Hội cho bằng tiếng nói bênh vực công lý. Tiếng nói Giáo hội thật cần thiết để đánh động lương tâm con người trước một vấn đề trầm trọng của thời đại. “Khởi đầu Tân Thiên Niên Kỷ, tình trạng nghèo đói của hàng tỷ người, nam cũng như nữ, là ‘vấn đề duy nhất thách thức lương tâm con người và Kitô hữu.’ (8) Nghèo đói đặt ra một vấn đề bi đát về công lý. Trong nhiều hình thức và hậu quả khác nhau, đặc tính của vấn đề là sự phát triển bất quân bình vì người ta không nhìn nhận “quyền mọi người đều có chỗ ngồi như nhau ‘trong bữa đại tiệc chung.’ Tình trạng nghèo đói như thế khiến không thể thực hiện một nền nhân bản Giáo hội hằng hy vọng và theo đuổi cho con người và các dân tộc có thể ‘khá hơn’ và sống trong những điều kiện nhân bản hơn.” (9)Thực tế, bao nhiêu tổ chức và chính phủ đã thất bại trong việc giải quyết vấn nạn lớn lao đó. Nếu Giáo hội cũng làm như mọi người, chắc chắn vấn đề vẫn còn nguyên vẹn. Nhân loại không lối thoát. Người nghèo vẫn gặp bế tắc …
Rất may, “cuộc chiến chống lại nghèo đói tìm được động lực mạnh mẽ khi Giáo hội dành tình yêu ưu tiên và lựa chọn đứng về phía người nghèo. (10) Khi tái khẳng định nguyên tắc liên đới, học thuyết xã hội của Giáo Hội đòi phải cổ võ ‘thiện ích của mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta đều thực sự có trách nhiệm đối với mọi người.’ (11) ngay trong cuộc chiến chống nghèo đói, nguyên tắc liên đới phải luôn đi kèm với nguyên tắc bổ trợ nhờ đó có thể nuôi tinh thần sáng tạo, nền tảng mọi phát triển xã hội và kinh tế trong các nước nghèo. (12) Nên coi người nghèo “không phải như một vấn nạn, nhưng như những người có thể nắm vai trò chính yếu trong việc xây dựng một tương lai nhân loại mới và nhân đạo hơn cho mọi người.” (13) Những người cô đơn giữa anh em cũng phải được kể vào số những người nghèo khổ nhất về tinh thần.
Bao giờ ta mới bừng tỉnh trước Lời Chúa: “Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ; nếu không, trước mặt chúng, chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (Gr 1:17b)?!
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn nhìn nhận sự thật và can đảm bênh vực những anh em đang đau khổ vì chính anh em mình. Amen.
————————————————
1. http://www.vatican.va/news_services/liturgy/saints/ns_lit_doc_20031019_madre-teresa_en.html
2. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 158.
3. Giáo Lý Công Giáo, sô 1033.
4. Thánh Grêgôriô Cả, Regula Pastoralis, 3, 21: PL 77, 87, trích lại từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 184.
5. x. Thánh Grêgôriô Cả, trích Toát Yếu Học Thuyết Xã hội Giáo Hội 2005, số 329
6. Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 329.
7. ibid, số 325.
8. ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 558; x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 47: AAS 59 (1967), 280, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
9. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366; x. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 1993, 1:AAS 85 (1993), 429-430.
10. x. ÐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn đọc trước Ðại Hội các Giám Mục Châu Mỹ Latinh lần III, Puebla, Mexico (28.01.1979), I/8: AAS 71 (1979), 194-195, trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 449.
11. ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 33: AAS 80 (1988), 566; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
12. x. ÐGH Phaolô VI, Tông Thư Populorum Progressio, 55: AAS 59 (1967), 284; ÐGH Gioan Phaolô II, Tông Thư Sollicitudo Rei Socialis, 44: AAS 80 (1988), 575-577; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.
13. ÐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2000, 14: AAS 92(2000), 366.; trích từ Toát Yếu Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội 2005, số 450.

64. Khiêm nhường
Cuộc sống của chúng ta có thể sánh ví như một bữa tiệc, mà nơi đó người ta đang tranh nhau để chiếm cho mình một chỗ nhất. Quả thật, “Danh-Lợi” vốn luôn là một cám dỗ đầy hấp dẫn đối với con người qua mọi thời đại. Dù không nói ra, nhưng ai trong chúng ta cũng thích được người khác ca tụng, thích được kính nể, ai cũng lo tìm kiếm danh vọng, địa vị, chức quyền. Dân gian Việt Nam có câu: “Cọp chết để da, người chết để tiếng”. “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Câu tục ngữ này phản ánh rất trung thực tâm lý của những người dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay và qua đó Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta một giáo huấn về sự khiêm nhường. Vậy, theo bài Tin Mừng, thế nào là khiêm nhường, một sự khiêm nhường đích thực để chúng ta có thể thi hành trong đời sống Kitô hữu mình?
Trước hết, nhìn qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, giáo huấn về sự khiêm nhường của Chúa Giêsu dường như chỉ là một bài học về cách đối nhân xử thế theo kiểu “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Thậm chí sự khiêm nhường ở đây còn hàm chứa một sự tính toán vị kỷ, ra vẻ khiêm nhường để tạo sự chú ý nơi người khác, để được mời lên chỗ cao hơn và như thế đó chẳng qua chỉ là một sự kiêu ngạo tinh tế.
Đàng khác, cũng có quan niệm coi khiêm nhường như một hình thức an phận thủ thường, một sự yếm thế, khinh rẻ bản thân hay tự ti mặc cảm, thiếu ý chí vươn lên và thoái thác trách nhiệm trong cuộc sống. Chắc hẳn đó không phải là sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu muốn nói cho chúng ta? Trong cuốn “Rèn nhân cách”tác giả Hoàng Xuân Việt đã viết như sau: người khiêm nhường không phải là người tự ti mặc cảm, thiếu tự tin, khinh rẻ mình một cách vô lý đến nỗi không sử dụng tài năng của mình. Người khiêm tốn là người sáng suốt nhìn nhận mình có khuyết điểm, có ưu điểm, có tài đức, có trật tự…”
Vâng, khiêm nhường là ý thức cách sâu xa về chính mình, là nhận ra sự thật về con người mình để thấy rằng, tôi là gì? Là ai? Là con người thế nào trong tương quan với kẻ khác? Để từ đó biết chọn cho mình một vị trí, một chỗ ngồi xứng hợp trong bữa tiệc cuộc đời này. Người ta định nghĩa cách vắn tắt như sau: “Khiêm nhường là chấp nhận sự thật, sự thật về chính mình, về những ưu khuyết điểm, về tài năng đức độ và cả giá trị của mình đối với người xung quanh.
Cicêrô nhà hùng biện nổi tiếng của Rôma đã nói: “Khi người ta bảo một người rằng: bạn hãy tự biết mình, thì đó không phải chỉ để hạ lòng kiêu căng của kẻ ấy, mà còn để cho họ biết giá trị của họ nữa”.
Như vậy, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình trong tương quan rộng mở với người khác. Bài học khiêm nhường không chỉ dừng lại ở đây, nhưng Tin Mừng còn hướng chúng ta lên cao hơn, khiêm nhường là nhận biết chính mình trong tương quan với Thiên Chúa, là ý thức thân phận thụ tạo tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và cứu độ. Việc những người dự tiệc tranh giành và tự ý chọn cho mình một chỗ nhất là phản ánh tâm lý của các luật sĩ và biệt phái cũng như của con người thời đại hôm nay, họ muốn chối bỏ Thiên Chúa, muốn chiếm đoạt quyền hạn của Ngài, và với thái độ kiêu căng tự mãn, họ cho rằng chỉ mình họ là xứng đáng chiếm hữu Nước Trời. Bài Tin Mừng cho chúng ta thấy, việc sắp xếp chỗ ngồi cho thực khách là công việc của chủ tiệc, và theo lẽ thường, chỗ nhất là để cho người nhất, chỗ sang trọng là cho người sang trọng, do đó mới có vấn đề mời người này lên và mời kẻ nọ xuống. Không phải cứ giành lấy chỗ nhất, chỗ sang trọng thì đương nhiên là người nhất, người sang trọng. Người nhất dù có ngồi chỗ rốt hết cũng vẫn là người nhất và cuối cùng họ vẫn được đưa về lại chỗ xứng đáng của mình. Người ta thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất đương phong lập”nghĩa là: Có xạ tự nhiên thơm, không cần phải đứng đầu gió. Cũng vậy, không phải hễ tự cho mình là đạo đức thánh thiện, là công chính xứng đáng, thì đương nhiên sẽ được vào dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa như người chủ tiệc, chỉ mình Ngài biết rõ ai xứng đáng, chỉ mình Ngài có quyền chọn gọi và sắp đặt chỗ ngồi cho thực khách trong bàn tiệc của Ngài.
Đến đây, chúng ta nhận thấy không chỉ đưa ra một giáo huấn về sự khiêm nhường, Chúa Giêsu còn mạc khải về mầu nhiệm Nước Trời được sánh ví như một bữa tiệc và khiêm nhường là điều kiện cần thiết để được tham dự vào bàn tiệc này. Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã một lần nghe qua dụ ngôn người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện. Chính với thái độ khiêm nhường, ý thức thân phận tội lỗi của mình, kêu xin lòng thương xót của Thiên Chúa mà người thu thuế được ơn công chính hóa, còn người biệt phái kiêu căng, tự mãn thì trở về tay không. Vì chưng “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: Kìa Gioan, đừng tự xem mình là quan trọng! Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng!”. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những tranh chấp, kiêu căng và tự mãn. Giáo huấn về sự khiêm nhường thoáng nghe qua tưởng chừng như không hợp thời hay có thể nói là lỗi thời, là đối nghịch với chiều hướng thăng tiến con người và phát triển xã hội. Nhưng nếu một khi ý thức được rằng khiêm nhường đích thực là nhận biết chính mình, là không đánh bóng, không giảm trừ chính mình, thì quả thật, khiêm nhường là nhân đức không chỉ cần thiết cho sự thành công trong đời sống hiện tại, mà còn như chiếc chìa khóa để mở cho chúng ta cánh cửa Nước Trời.

65. Khiêm tốn
1. Dân gian ta có câu: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, qua câu tục ngữ nầy cho thấy con người thường ham danh vọng, những người Pharisêu thời Đức Giêsu và ngay cả chúng ta thời nay cũng dễ phạm lề thói nầy. Vì thế trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, từ việc rất tự nhiên trong cuộc sống đó là chỗ ngồi nơi bữa tiệc và khách được mời dự tiệc, Đức Giêsu muốn hướng sang đời sống thiêng liêng, khiêm nhường và phục vụ vô vị lợi, như là những điều kiện để được tham dự bàn tiệc Nước Trời.
2. Thực ra, nơi các đám tiệc, cỗ nhất hay chỗ nhất không hẳn phải có gì đặc biệt hơn những mâm hay chỗ khác! Nhưng ta muốn ngồi chỗ quan trọng, vì chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị. Điều đáng nói là ta thường tự nâng mình lên, trong khi thực sự vị thế của mình không được như vậy! Tự nâng mình lên thể hiện tính kiêu căng của con người, là rơi vào mưu chước của ma quỷ. Xưa kia, vì nổi loạn chống lại Thiên Chúa nên Satan, nguyên là thiên thần, bị phạt làm tà thần, ma quỷ. Vì ngã theo sự xúi dục của ma quỷ, với thái độ kiêu căng, muốn trở nên như Thiên Chúa (x. St 3,5) mà Adong – Evà không còn được sống hạnh phúc với Thiên Chúa nữa! Có thể nói từ đó kiêu căng ăn sâu tâm khảm của con người nên tội “kiêu ngạo” đứng đầu trong danh sách các tội mà con người hay phạm. Với tội kiêu căng nầy con người tự đưa mình vào chỗ chết: khước từ Thiên Chúa là nguồn sống thật và chống đối lẫn nhau…
3. Chính vì yêu thương con người, Đức Giêsu đã không ngần ngại dùng phương cách trái ngược lại. Với bài giảng đầu tiên trên núi, Tám Mối Phúc Thật (Mt 5,1-12), mối phúc đầu tiên mà các mối khác có thể quy hướng vào, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy có “tinh thần nghèo khó”, biểu hiện của sự khiêm tốn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Không được cậy dựa vào tiền của mà hãy cậy dựa vào Thiên Chúa và ý thức rằng những gì ta có được là do tình thương của Ngài ban cho, để rồi phải biết dùng để phục vụ Thiên Chúa và tha nhân cách khiêm tốn.
Đức Giêsu cũng đã mời gọi chúng ta hãy học cùng Ngài vì Ngài hiền lành và khiêm nhượng trong lòng (x. Mt 11,28-30). Nhìn vào cuộc đời của Đức Giêsu có thể nói là một chuỗi bài học khiêm hạ đáng cho chúng ta suy gẫm và noi theo, chẳng hạn như: Vua cả trời đất mà lại chọn nơi sinh ra là hang bò lừa ở Bêlem; Vua cả trời đất lại quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ của mình; Vua cả trời đất mà lại chịu chết ô nhục trên thập giá; Vua cả trời đất mà âm thầm ẩn mình qua Bí Tích Thánh Thể nơi nhà tạm vắng lạnh…
Sự khiêm hạ của Đức Giêsu đem lại sự sống mới cho chúng ta, thánh Phaolô từng nói: Bởi một người mà tội đã xâm nhập vào trần gian, mà bởi tội thì có sự chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu Kitô còn dồi dao biết mấy cho muôn người (x.Rm 5, 12-15). Sự khiêm hạ của Đức Giêsu còn được Chúa Cha ghi nhận và tôn vinh Ngài (x. Plp 2,8-9).
4. Khiêm tốn không phải tự coi thường mình hay là giả vờ hạ thấp mình để được nâng lên, mà khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về mình, giới hạn của mình để từ đó sống trong tâm tình gắn bó với Thiên Chúa, là nguồn sống đích thực. Khiêm tốn để có thể sống hài hoà với tha nhân, qua việc học hỏi hoặc chia sẻ kinh nghiệm… Nhờ khiêm tốn có thể tránh những bất hoà với nhau, thực tế trong cuộc sống không thiếu những trường hợp do hơn thua nhau một lời nói, một chỗ ngồi mà người ta tìm cách hãm hại nhau. Nhờ khiêm tốn mà con người có thể bắt tay nhau để xây dựng xã hội đời nầy và cùng nhau hướng tới hạnh phúc đời sau.
5. Cách tích cực hơn khiêm tốn là dùng những gì mà Chúa ban cho ta để phục vụ chứ không tìm tư lợi. Sự hiểu biết cũng như chức quyền trong Giáo Hội hay ngoài xã hội không gì hơn để phục vụ, chứ không phải để thoả mãn danh vọng, ích kỷ của mình. Tiền bạc của cải phong phú không để hưởng thụ riêng mình mà phải biết chia sẻ cho người cùng túng. Chính thái độ phục vụ cách khiêm tốn vô vị lợi, sẽ được nhiều người biết đến và yêu mến; dân gian ta có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương”. Chúa muốn cho người môn đệ luôn có tinh thần như thế, nên trong đoạn Tin Mừng nầy, không những Ngài dạy phải có tinh thần khiêm tốn mà còn dạy tinh thần phục vụ vô vị lợi. Ngài dạy rằng:”Khi đãi khách… đừng mời bạn bè, anh em… mà hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14, 12-13), đây chỉ là một kiểu nói nhấn có nghĩa là “đừng chỉ mời” những người thân thích, giàu có, mà hãy mời cả những người nghèo khó.
6. Nước Trời không có chỗ cho người kiêu căng tự phụ, chỉ nghĩ đến bản thân mình, bài học của bè Satan, của Adong – Evà vẫn còn đó. Ngược lại Đức Maria, nhận mình là nữ tỳ thấp hèn của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã âm thầm phục vụ tha nhân, thế nhưng Thiên Chúa đã ân thưởng Mẹ trọng hậu như thế nào?
Ước mong rằng mọi người chúng ta biết sống khiêm tốn, bác ái vô vị lợi để chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc ngay đời nầy và bảo đảm hạnh phúc đời sau. Amen.

66. Khiêm nhường – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm, SJ.
Ai cũng thích được trọng vọng; tuy nhiên Lời Chúa hôm nay dạy con người sống khiêm nhường. Ai sống khiêm nhường, sẽ được yêu thương và hạnh phúc.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình
Có một số người tưởng rằng, khiêm nhường là phải nhận mình là dở nhất hoặc mình chẳng có gì hay. Vì quan niệm như vậy, nên có người thấy mình có điều hay, cũng không dám nhận và còn phủ nhận điều đó. Thật sự, khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Điều rất căn bản mà những người khiêm nhường xác tín: “tất cả những gì mình có hoặc hay hơn người khác, là ơn Chúa ban, chứ tự mình thì không chừng mình còn tệ hơn cả những người tệ nhất”.
Khiêm nhường là chấp nhận mình như “mình là”. Chấp nhận điều hay mình có, để tạ ơn Chúa. Chấp nhận điều dở như mình là, để “khiêm nhường”, không buồn phiền, không dằn vặt, không oán trách hay càm ràm con người hay Thiên Chúa. Nếu mình có gì hay, và cũng có thể hay hơn người khác, hãy “khiêm tốn”nhận thực rằng, nhờ ơn Chúa mà mình có được điều đó. Nếu nhờ ơn Chúa mà mình hay hơn người khác, vậy thì tại sao mình lại hành xử như thể do tự mình mà mình có điều đó? Nếu nhờ ơn Chúa mà mình có điều đó, thì đâu có gì để vênh vang tự hào!
Hay không kiêu, dở không thất vọng! Đó là thái độ của người khiêm nhường. Nhận thấy mình hay, hoặc được người khác khen mình, hãy tạ ơn Chúa. Trong trường hợp này, Chúa được tôn vinh. Con người nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho họ.
Người khiêm nhường có thể sống với mọi người
“Càng khiêm nhường, càng trở nên tuyệt, và càng đẹp lòng Thiên Chúa”. Một người khiêm nhường, là người “đẹp”. Họ không khinh người kém hơn họ, hơn nữa, họ luôn kính trọng người khác, và coi mình cũng như tất cả mọi người, nếu họ có gì hay, đó là do được ban cho, chứ tự họ, họ cho rằng họ cũng bình thường và không chừng còn dở hơn mọi người.
Người khiêm nhường, là người đề cao Thiên Chúa trong đời sống. Những người kiêu ngạo, thường cho mình hơn người khác, đòi người khác đối xử với mình cách đặc biệt như mình muốn. Hình ảnh của người đi dự tiệc muốn ngồi chỗ nhất trong dụ ngôn Đức Yêsu nói trong Tin Mừng hôm nay là một thí dụ. Người không khiêm nhường, dễ làm cho người khác khó chịu, đặc biệt những người “kiêu ngạo”như họ. Họ đòi ngồi chỗ nhất, đòi người khác phải chào hỏi, đòi người khác phải xưng hô với họ thế này thế kia.
Người khiêm nhường, không ước vọng quá sức mình. Chấp nhận mình như mình là, chấp nhận mình như Chúa muốn vậy, và an bình trong cuộc sống của họ. Nói như vậy, không có nghĩa là những người “khiêm nhường”này không phấn đấu hoặc không cố gắng. Một khi họ đã cố gắng hết sức, họ chấp nhận kết quả một cách an bình. “Không tìm điều ngoài sức mình”.
Đức Yêsu- người khiêm nhường tuyệt vời
Đức Yêsu, vốn là Thiên Chúa, nhưng đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã tự huỷ trở nên một người phàm (Pl.2, 6). Người yêu thương người khác, bất chấp họ cư xử như thế nào với mình, vẫn yêu thương và chấp nhận họ, đó là người khiêm nhường tuyệt vời.
“Yêu mến là chu toàn tất cả lề luật”. Yêu mến bao gồm mọi nhân đức. Yêu mến, là chấp nhận người khác như họ là, và cố gắng giúp họ trở nên tốt hơn, ngay cả phải chết. Những người này, khi làm như vậy, đang trở nên giống Đức Yêsu, đang trở nên một Yêsu khác.
Thập giá, ngày xưa, bị coi là dấu chỉ của sự đáng nguyền rủa và bị khinh bỉ. Hôm nay, với tình yêu và cái chết của Đức Yêsu, thập giá trở thành dấu chỉ của tình yêu, dấu chỉ của sự chiến thắng. Ước gì mọi Kitô hữu đều giống Thầy Chí Thánh, khiêm tốn và yêu thương đối với mọi người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có người cho rằng, khiêm nhường đồng nghĩa với giả hình và nhu nhược. Bạn trả lời sao?
2. Theo bạn, tại sao người ta thường không muốn nhận sự thật về chính mình?
3. Bạn có nghĩ rằng, khiêm nhường giúp người ta dễ sống hạnh phúc không? Tại sao?

67. Khiêm nhường
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Ham thích tiền bạc, danh vọng địa vị, là khuynh chiều tự nhiên của con người. Thực vậy, con người ai cũng thích được ca ngợi khen tặng, ai cũng muốn được đề cao, ai cũng muốn được trổi trang hơn người khác. Trong đời sống, người ta thường để cho khuynh hướng này điều khiển cung cách cư xử. Hôm nay Đức Yêsu đã dạy những người thời của Ngài về cách xử thế khi được mời dự tiệc, khi thiết tiệc đãi khách. Đừng cho mình trổi trang hơn người khác, đừng ngồi vào chỗ nhất để khỏi phải bị mời xuống mà bẽ mặt, đừng tìm danh tiếng khi làm tiệc đãi khách.
Mỗi người đều có điểm độc đáo riêng mà Thiên Chúa ban tặng; chẳng hạn, một người có sức khỏe thể lý, người khác lại có trí thông minh vượt bậc, người có tinh thần an vui thanh thản, người khác có óc phán đoán chính xác, người có tài khéo về chân tay, người khác có lòng nhân từ hiền hậu. Tất cả những điều đó là nét đẹp Thiên Chúa ban cho mình, mỗi người cần nhận ra để trân trọng và tạ ơn Thiên Chúa về những hồng ân kỳ diệu này. Tuy nhiên, có một số người lại tự hào về điều đó như thể nó là của riêng họ, do công sức của họ, nên họ khinh thường những người không có tài năng đó. Người cho rằng những nét đẹp đó là của mình do mình thì tự kiêu, kẻ muốn có nét đẹp đó mà không có đâm ra tự ti. Nếu ai để khuynh chiều này điều khiển cung cách hành xử, thì người đó không thể sống hạnh phúc thật.
Đức Yêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, nhưng Ngài đã không đòi được đối xử ngang hàng với Thiên Chúa; Ngài đã tự hủy mình trở nên một con người như bất cứ con người bình thường nào trên trần gian này, Ngài lại còn chấp nhận cái chết thậm chí bị chết trần trụi ô nhục trên thập giá. Ngài chấp nhận và trân trọng người khác, cụ thể qua cách đối xử với các môn đệ của Ngài. Ngài không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gẫy cây sậy bị dập. Ngài luôn trân trọng mọi người, không hủy diệt ai cho dù người ta muốn tru diệt Ngài. Ngài là người trổi vượt trên mọi người nhưng lại sẵn sàng hòa đồng với mọi người, thậm chí cùng đứng xếp hàng chung với những tội nhân để chịu phép rửa tại sông Jordan.
Khiêm nhường là chấp nhận sự thật về chính mình. Đức Yêsu không chỉ nhận sự thật về chính mình, nhưng Ngài còn hạ mình hòa đồng với những người tội lỗi. Ngài trở nên Đấng gánh tội trần gian. Ngài gánh tội của tất cả mọi người. Đức Yêsu là Đấng khiêm nhường tột cùng. Khiêm nhường là tôn trọng sự thật; nhưng sự thật và tự hủy không loại trừ nhau. Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người, đã tự hủy để là một con người hoàn toàn như bất cứ ai khác. Đức Yêsu đã tự hủy để sống với bất kỳ ai. Ngài sống với những người tội lỗi, để giúp họ nhận ra sự thật về chính họ, để họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ vô cùng, và để họ trở về với Thiên Chúa.
Nhận ra sự thật về chính mình, tức là, nhận biết mình là tội nhân được Thiên Chúa yêu thương tha thứ mọi lỗi lầm. Nhận biết mình được như hiện tại, là nhờ quyền năng và ân sủng của Thiên Chúa; nếu tự sức mình, mình đã tệ hơn những ai tệ hại nhất. Ý thức như vậy, mình không khinh thường người khác; trái lại, mình vẫn trân trọng những người hiện đang còn hành xử sai lầm, vì tin rằng với ơn của Thiên Chúa, với quyền năng của Thánh Thần, người này có thể sẽ được biến đổi và cũng sẽ thành người tuyệt vời như những người tuyệt vời khác.
Người khiêm nhường thật, là người nhận ra những tài năng của người khác là ân huệ Thiên Chúa thương ban cho họ, nên kính trọng họ và ca ngợi Thiên Chúa vì những hồng ân kỳ diệu này. Họ không ganh tỵ vì những gì Thiên Chúa ban cho tha nhân, nhưng tạ ơn Thiên Chúa vì qua những hồng ân này họ và những người khác cũng được hưởng nhờ. Hồng ân Thiên Chúa ban cho một người, nếu mình biết quý trọng, nó cũng là hồng ân Thiên Chúa ban cho mình ở một mức độ nào đó. Người khiêm nhường đích thực, là người hạnh phúc với những hồng ân tha nhân được hưởng. Người khiêm nhường đích thực, là người luôn nhận ra và biết ca ngợi tình yêu Thiên Chúa trong mọi trường hợp.
Khiêm nhường, nhận ra sự thật về chính mình, sẵn sàng hòa đồng với tha nhân, là con đường giúp con người sống bình an hạnh phúc thật. Đòi mình vượt trội hơn người khác, đòi người khác phải kính trọng mình, sẽ làm mình bất an bất hạnh. Con đường Đức Yêsu đi, là con đường hạnh phúc mà Ngài chỉ cho con người. Ai bước theo Ngài, sẽ sống trong bình an. Con đường Đức Yêsu đi, là con đường để tha nhân sống triển nở và hạnh phúc với mình. Để tha nhân lớn lên và hạnh phúc, là chính mình cũng được triển nở và hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Mọi sự đều dễ dàng đối với người khiêm tốn. Bạn nghĩ sao về câu nói này?
2. Theo bạn, làm sao để là người khiêm tốn thật sự?
3. Đức Yêsu có là người khiêm tốn không? Theo bạn, Đức Yêsu khiêm tốn như thế nào, ở điểm nào?

68. Một phúc lành ngọt ngào
Một đám đông tụ họp gần một cái ao trong một sở thú rộng lớn. Họ đang ngắm nhìn một con công đang xòe ra bộ đuôi tuyệt đẹp của nó. Con công đứng thẳng trong cung điệu lộng lẫy của nó. Bỗng dưng không biết ở đâu một con vịt màu nâu xấu xí bơi lại gần chỗ con công đang đứng. Thấy con vịt xấu xí ấy, con công liền sừng sổ đuổi con vịt đi. Bộ mặt thùy mị sang trọng của con công lúc này đã biến mất mà thay vào đó là bộ mặt hung dữ. Con vịt thấy vậy thì âm thầm bình tĩnh ung dung bơi ra chỗ khác. Thế là đám đông nãy giờ đang chiêm ngắm con công bỗng dưng đâm ra trầm trồ khen ngợi con vịt.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đang dự tiệc với những người khách tại một nhà ông Pharisiêu. Ở đây chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu trong nhân tính của Ngài. Ngài cũng làm như những người khác thường làm tại các buổi tiệc. Bởi vì ngồi cùng bàn với Ngài là những người Pharisiêu, cho nên câu chuyện bất ngờ đổi về luật lệ giữ ngày Sabát. Chúa Giêsu đã nói với những người dự tiệc rằng có lúc luật pháp phải nhường chỗ cho những giá trị cao quí hơn của con người. Chẳng hạn họ sẽ phải coi sóc người bệnh, hoặc cứu giúp người con của họ bị bệnh vào ngày Sabát. Sau đó, Chúa Giêsu còn dạy cho tất cả mọi người một bài học mới về mời khách dự tiệc. Ngài khuyên họ đừng nên mời những người mà mình quen biết hằng ngày, những người mà mình sẽ cần đến họ, hoặc là những người mà mình cần phải dựa hơi. Ngài khuyên họ nên đổi mới tư tưởng bằng cách mời những kẻ ăn mày và nghèo khổ đến dự tiệc bởi vì qua đó họ sẽ được trổi vượt trên đường nhân đức, và chính Thiên Chúa sẽ khen thưởng họ.
Trong khi trao đổi trong bàn ăn, Chúa Giêsu lại còn nêu lên một vấn đề nữa là lòng khiêm nhường. Ngài khuyên những người đi dự tiệc không nên ngồi vào chỗ nhất hay những chỗ sang trọng, nhưng nên tìm ngồi vào những chỗ rốt bét để chủ nhà đến mời lên chỗ cao hơn thì mới có danh dự. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14:8,10-11).
Sự khiêm nhượng là căn bản để đạt tới cuộc sống mỹ mãn. Nếu chúng ta tin vào lời của Chúa Giêsu phán rằng sự khiêm nhượng có thể lớn lên, cải tiến, biến đổi, tha thứ, và yêu thương, thì chúng ta đang đi trên con đường tiến đến cuộc sống mới. Sự khiêm nhượng Kitô giáo thật là một điều phúc lành. Nó làm cho chúng ta cảm thấy sự ngọt ngào trong tâm hồn.
Ở thời đại chúng ta, thật là một điều khó khăn để thực hành sự khiêm nhường. Chúng ta bị áp lực đủ phía để chống lại điều căn bản trong đạo Kitô giáo này. Thế giới ngày nay ca tụng sự tranh chấp, cải tiến, và danh dự thế gian. Thắng bại là một điều quan trọng, chứ không phải là thi hành sự khiêm nhường của Phúc Âm.
Một cha sở nọ in ra một câu truyền thông như sau và dán lên bảng tin tức của giáo xứ, “Cuộc sống là Yêu Thương, chứ không phải là cuộc Thi Đấu.”Ngày hôm đó, điện thoại nhà xứ rung như điên. Hết người này đến người nọ gọi cho cha sở để bài bác và chửi cha bởi vì họ cho rằng cuộc sống phải là một cuộc thi đấu. Thật là rõ ràng bởi vì nhiều Kitô hữu không nhận ra bài học của bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu khuyên răn chúng ta rằng người nào biết sống khiêm nhường sẽ được nâng cao.
Điều đó đối với chúng ta ra sao? Chúng ta sẽ ôm ấp lý thuyết của thế gian răng đền răng, hay chúng ta sẽ đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu, phục vụ không hưởng thụ.
Lạy Chúa, con cầu xin cho con sức mạnh để con có thể thành công, con đã được ban cho sự yếu nhược để con biết học sống khiêm nhượng.
Con cầu xin Ngài cho con sức khỏe để con có thể làm những việc lớn lao, con đã được ban cho sự đau yếu để con biết làm những việc tốt hơn.
Con cầu xin Ngài cho con của cải để con sống hạnh phúc, con đã được ban cho sự nghèo khổ để con biết khôn ngoan.
Con cầu xin Ngài cho con quyền lực để con được thiên hạ ca ngợi, con đã được ban cho sự yếu đuối để con biết cậy trông vào Ngài.
Con cầu xin Ngài cho con tất cả để con có thể hưởng dụng cuộc sống, con đã được ban cho sự sống để con có thể hưởng cuộc sống.

69. Suy niệm của Lm. Augustine
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Năm 1888 Đức Lêô XIII phong thánh cho một vị thừa sai tại Châu Mỹ La Tinh và tôn vị ấy làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen trên toàn thế giới. Đó là thánh Phêrô Claver (1580-1654).
Quì bên cạnh để rửa mặt rửa mình cho họ
Người ta có thể nghe chính vị thánh này mô tả về tình trạng của những người da đen mà ngài hiến thân phục vụ qua một đoạn trích của lá thư gửi các bạn của ngài như sau: “… Hôm qua… Lễ Chúa Ba Ngôi, một số lớn dân da đen bị bắt dọc các bờ sông ở Phi Châu được đưa vào bờ bằng một chiếc tàu rất lớn. Chúng tôi vội vã chạy ùa ra mang theo hai thúng đầy cam, chanh, bánh ngọt và đủ mọi thứ linh tinh. Chúng tôi phải cố gắng dạt đám đông ra mới tới được với những người đau ốm. Hàng đám họ đang nằm dài trên đất ẩm, đúng hơn là trên bùn, thân thể trần truồng không một mảnh vải che thân. Chúng tôi cởi áo choàng ra, đi đến một nhà kho gần đó, kiếm đủ thứ gỗ còn xài được mang về và ghép chúng lại với nhau thành một cái bục, đoạn xông qua đám lính gác, và cuối cùng chúng tôi dàn xếp mang được tất cả những người ốm đau đến đó… Phải chi các bạn có thể nhìn thấy lòng biết ơn biểu lộ trong ánh mắt họ! Bằng cách này chúng tôi đã nói với họ không phải qua lời nói mà bằng hành động. Bất cứ bằng hình thức ngỏ lời nào khác có lẽ cũng không phù hợp. Đoạn chúng tôi ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ.”
Điều thánh Phêrô Claver vừa mô tả ăn khớp với lời khuyên của Đức Giêsu ngỏ cùng vị thủ lãnh nhóm Pharisêu đã mời Người đến dự tiệc, rằng: “Khi ông đãi tiệc hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ và như thế, ông mới thật có phúc.”(cc.13-14). Hai thúng cam, chanh, bánh ngọt mà thánh nhân mang tới chỉ mới là đồ khai vị sơ khởi ban đầu. Những cống hiến tiếp theo còn đáng kể hơn nhiều. Những cống hiến ấy được tượng trưng bằng việc thánh nhân “ngồi xuống hoặc quì bên cạnh họ và rửa mặt rửa mình cho họ.”Tất cả những điều đó trở nên hạnh phúc lớn biết bao cho thánh Phêrô Claver khi thánh nhân hưởng được ngày các kẻ lành sống lại (c.14).
Thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Đức Giêsu
Quả thật, sứ mạng Đức Giêsu đến để thể hiện là thiết lập Nước Thiên Chúa nơi bản thân Người. Nước đó Người thường ví như một bữa ăn hoặc một bữa tiệc linh đình.
Người Do Thái cũng như người Hy Lạp thời Đức Giêsu, thường ăn hai bữa, không kể bữa lót lòng ban sáng trước khi đi làm: đó là bữa sáng hoặc về trưa và bữa chính ban chiều. Khi ăn người Do Thái có thể ngồi hoặc ngả lưng trên cỏ (Mt 14,19) hay trên ghế dài có đệm mà không có tay vịn (Ga 13,23) với thân mình dựa trên khuỷu tay trái và thức ăn chủ yếu được kẹp trong bánh dễ cầm tay. Thường người ta chỉ ăn bánh mì, uống nước lã và ăn trái cây, tuy ban chiều cũng thường có những món ăn nóng. Thịt và rượu nho cũng như những thức ăn mỹ vị thường dành cho đại tiệc (Lc 15,22-32).
Trong Kinh Thánh, bữa ăn đã từng là cơ hội để phê chuẩn giao ước được ký kết (St 26,30; 31,46-54). Bữa ăn luôn nói lên tình huynh đệ ngang qua hành vi duy trì sự sống. Cộng đoàn dự tiệc luôn giả thiết tình mến khách về phía người mời khách đến ăn. Ngược lại, khách dự tiệc cũng được giả thiết phải có một số những đức tính tương xứng. Câu Thánh Vịnh 40,10 “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con”như tiên báo cho thấy Giuđa sẽ trở nên kẻ phản bội Thầy mình như thế nào trong bữa tiệc ly (Lc 22,21).
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu lần lượt ngỏ lời cùng khách dự tiệc (cc.7-11) rồi cùng chủ nhà là người mời khách tới (cc.12-14): Cả hai đều tìm thấy ý nghĩa đầy đủ của nó ở lời bình phẩm của một người đồng bàn lên tiếng nói với Thầy Giêsu rằng: “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.”(c.15)
Người nhỏ nhất là kẻ lớn nhất
Khách dự tiệc được Đức Giêsu khuyến cáo làm điều xem ra với lý do không được thanh cao lắm chăng? Họ được đề nghị vào ngồi cỗ dưới không phải vì lý do tốt lành, mà chỉ để được chủ tiệc cất nhắc lên cỗ nhất: “Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn”(c.10). Nhưng Luca cho ta biết điều vừa nêu là dưới hình thức một dụ ngôn (c.7) thường được hiểu là một câu chuyện buộc người nghe phải suy nghĩ để khám phá ra ý nghĩa tiềm ẩn của nó. Ở đây ý nghĩa phải được tìm là ở câu 11 khi Đức Giêsu nói “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”Tức là trong ngày phán xét Thiên Chúa sẽ đảo ngược lại thang giá trị bất công của thế gian. “Người sẽ hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”(Lc 1,52). Do đó việc các môn đệ tôn mình lên đã từng bị Thầy Giêsu quở trách khi mà các ông chỉ mới “chợt suy nghĩ tự hỏi xem ai là người lớn nhất trong các ông”. Thầy Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng, Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “… Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là kẻ lớn nhất!”(Lc 9,46-48).
Đừng mời người có thể đáp lễ
Theo cùng một văn mạch xem ra cũng dưới hình thức dụ ngôn như trên (c.7), Đức Giêsu quay lại khuyến cáo chủ tiệc đừng nên mời bạn bè, anh em hay bà con là những người có thể đáp lễ (c.12) mà ngược lại, hãy mời những người đui mù, què quặt, v.v… là những người không có gì để đáp lễ. “Như thế, ông mới thật có phúc”(c.14). Nói cách khác, khi làm việc thiện cần phải tránh tinh thần vụ lợi; mọi phần thưởng chỉ được chờ đợi nơi Thiên Chúa khi Người cho kẻ lành sống lại. Kiểu nói mạnh “Đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông”là để nói lên tinh thần hoàn toàn vô vị lợi đó.
Đảo ngược thang giá trị
Quả thật tinh thần đảo ngược thang giá trị trần thế của Nước Thiên Chúa cũng như tinh thần hoàn toàn vô vị lợi nhằm phục vụ người nghèo chính là điều mà Chúa Giêsu muốn dạy ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Tinh thần ấy thánh Phêrô Claver đã bật sáng lên không chỉ bằng một cử chỉ ngôn sứ thoáng qua nhưng bằng cả một đời tận hiến cho người da đen suốt 40 năm!
Sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền Đông Bắc nước Tây Ban Nha, cậu Phêrô Claver ngay từ nhỏ đã được hấp thụ một đức tin vững mạnh và được triển nở về lòng khiêm tốn sâu thẳm. Thêm vào đó, vì là người con duy nhất trong gia đình, cậu được hưởng một tình thương âu yếm của mẹ cha. Tất cả những nét ấy sẽ tiếp tục ghi khắc sâu đậm vào cuộc đời trên dưới 70 năm của Phêrô Claver.
Sau một thời gian học tại quê nhà, nhờ một ông chú cho tiền ăn học, Phẽrô Claver được gởi đi học xa gia đình và đã xin nhập Dòng Tên ngày 7.8.1602. Sau hai năm ở tập viện và một thời gian học văn chương, ngày 11.11.1605, Phẽrô Claver đặt chân tới học viện Dòng Tên ở đảo Mallorca nơi một tu huynh gác cổng 33 năm nổi tiếng là người đạo đức và thánh thiện đến nỗi nhiều nhân vật đạo đời lui tới bàn việc thiêng liêng với thầy. Chính thầy An Phong Rodriguez này đã khuyên bảo Phêrô Claver rằng “Nếu anh thật lòng yêu mến Chúa Kitô, anh hãy xin đi phục vụ bao anh em ở Nam Mỹ!”Đó chính là điều mà Phêrô Claver đã làm, là xin hiến thân phục vụ người da đen một cách hoàn toàn vô vị lợi. Thánh nhân đã mang lại kết quả lớn lao cho họ. Người ta ước lượng trong gần 40 năm, thánh Phêrô Claver đã ban bí tích rửa tội cho khoảng 300.000 người da đen. Do đó mà năm 1888 Đức Lêô XIII đã tôn thánh nhân làm bổn mạng các hoạt động truyền giáo cho người da đen.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ tại sao Chúa Giêsu lại nói “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(c.11)? Lời này của Chúa Giêsu có thể đem ra thực thi trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội của người Kitô hữu chăng? Bạn nghĩ tinh thần của Chúa Giêsu dành mối quan tâm ưu tiên cho những người nghèo, bị bỏ rơi hoặc bị đối xử bất công, tinh thần ấy có thể thay đổi xã hội bạn đang sống chăng?
2. Riêng bạn có lẽ không có cơ hội hiến thân phục vụ người da đen ở Châu Mỹ La Tinh như thánh Phêrô Claver, nhưng tinh thần phục vụ vô vị lợi của ngài, thực ra là của chính bài Tin Mừng này, vẫn có thể được áp dụng bằng nhiều cách chăng?

70. Con người khiêm tốn
“Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình”. (Lc 3, 24)
Anh chị em thân mến,
Đức Hồng Y Jos. Bernadin của Tổng giáo phận Chicago, Mỹ, tâm sự với các chủng sinh: Từ ngày Ngài nhận giáo phận Chicago, hầu như không thiếu ngày nào, mỗi ngày Ngài đều nhận một lá thư gởi đến chửi Ngài là “son of bitch” (chó đẻ!) Tại sao vậy? Vì Ngài theo đường hướng của Giáo hội, luôn lên án các thứ tệ đoan xã hội, làm mất quyền lợi của bọn tư bản, nên bị chửi như thế! Đức HY Bernadin, đã khiêm tốn sẵn lòng để cho người ta chưởi bới… Bài Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu dạy cho mọi người cách xử thế khiêm tốn trước mặt Chúa, cũng như tha nhân.
Nhân khi thấy khách được mời dự tiệc, họ hay lựa chỗ nhất, có khi còn coi thường người khác nữa, Chúa Giêsu dạy cho họ bài học khiêm nhượng, một thứ khiêm nhượng chân thật, và bên trong, phát xuất từ đáy lòng. Vì thế:
1) Khiêm nhượng là chấp nhận sự thật về chính mình: Người xưa có câu: “Khiêm nhượng không phải là nghĩ ít hơn về cái mình có; nhưng là ít nghĩ về mình. Thực sự, khi ai ít nghĩ về mình, hay không nghĩ về mình nữa, làm sao họ có thể tự phụ được? Thánh Augustinô nói: Khiêm nhượng làm cho con người trở nên thiên thần; nhưng kiêu ngạo làm thay đổi các thiên thần thành ma quỉ.
Thánh Phêrô dạy: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhượng mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường”.
2) Khiêm nhượng là biết mình có tội: Ma quỉ (Lucifer) chính là những thiên thần mang ánh sáng; vậy mà khi thiên thần phạm tội thành ma quỉ, chúng không nhận, cũng không biết mình có tội. Nếu ma quỉ đã nhận mình có tội, và biết mình có tội, thì cũng đồng nghĩa với ăn năn, chúng sẽ được tha rồi. Thực tế nơi ma quỉ không có khiêm nhượng, ngược lại chỉ có kiêu căng mà thôi.
Biết mình thấp hèn, tội lỗi trước mặt Chúa và anh em, đó chính là nền tảng của đức khiêm nhượng, cũng là nền tảng của việc cầu nguyện để đưa ta tới với Thiên Chúa
3) Chúa Giêsu là mẫu gương của đức khiêm nhượng: Xem qua cuốn phim Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nhờ đó hiểu được phần nào khổ đau của Con Thiên Chúa phải chịu vì nhân loại chúng ta. Nhất là mới có thể hiểu được: dù là Con Thiên Chúa, Ngài khiêm tốn biết bao, như lời thư Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Philipphê (2, 6-9):…. Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, để mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân giữa trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, và chết trên thập giá……
4) Gợi ý sống và chia sẻ: Khiêm nhượng thật sự là tự biết mình, cả về ưu lẫn khuyết điểm. Biết cái ưu điểm là để phát huy, làm cho lớn mạnh thêm, đồng thời cũng sẵn sàng lãnh trách nhiệm với mọi người, với tập thể. Biết cái khuyết điểm là để sửa chữa, phấn đấu vươn cao lên. Đó mới là đức khiêm nhượng thật sự. bao lâu nay ta đã thực hành đức khiêm nhương như thế nào? Cũng có một thứ gọi là khiêm nhượng ống điếu, khi trước mặt người khác, ta cũng giả bộ nhận lỗi, cũng xỉ vả mình; nhưng sau lưng thì tìm cách tự bào chữa… ta đã sống như thế nào đây?

71. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có bao giờ bạn làm ra vẻ yêu thương ai, giả bộ khiêm nhường, tỏ ra mình là người có giá trị, có tư cách không?
Bạn nghĩ gì về sự giả bộ này? Nó có phổ biến nơi tâm lý mọi người không?
2. Khi người khác thành công hơn bạn, được ca tụng hơn bạn, bạn có tự nhiên cảm thấy có gì đó làm mình khó chịu, ganh tức, buồn phiền không?
3. Hành động theo khuynh hướng giả trá ấy có lợi ích lâu dài không? có phải là khôn ngoan không? Tại sao?
Suy niệm
1. Ai cũng muốn bản thân mình là một cái gì có giá trị, và được mọi người công nhận và tôn trọng giá trị của mình
Thiên Chúa đã dựng nên con người giống như Ngài, theo hình ảnh Ngài (xem St 1,26-27; 9,6), nhưng ở mức độ hoàn hảo của một tạo vật giới hạn, đương nhiên kém Ngài rất xa vì Ngài ở mức độ hoàn hảo của một Thiên Chúa vô hạn. Mức hoàn hảo của con người về sau lại bị tổn thương vì tội nguyên tổ. Vì thế, từ sâu thẳm, con người vẫn muốn vươn lên hoàn hảo, muốn sống yêu thương, muốn thực hiện Chân Thiện Mỹ, nghĩa là muốn càng ngày càng trở nên giá trị hơn, giống Thiên Chúa hơn. Đấy quả là một chiều hướng rất tốt.
Nhưng do tội lỗi và nhất là tính kiêu ngạo, sự xấu đã xâm nhập vào bản thể con người, khiến cho chiều hướng tốt ấy bị lạc hướng. Thay vì cố gắng trở nên hoàn hảo, có giá trị thật sự (điều này khó, đòi hỏi con người phải cố gắng nhiều và quên mình đi), thì con người lại muốn trở nên có vẻ hay được coi như hoàn hảo, như yêu thương, như có giá trị, như giống Thiên Chúa. Điều này giảm bớt cho con người biết bao khó khăn và nỗ lực. Thay vì tìm cách tạo nên giá trị thật sự từ bên trong, con người tìm cách để mình có vẻ như, hay được coi như, và được đối xử như có giá trị, bất chấp bên trong có giá trị đích thực hay không.
Vì thế, khi xét mình, nếu thành thật với lòng mình, ai cũng đều cảm nhận khuynh hướng này: “Tôi biết anh nịnh tôi, nhưng tôi vẫn thấy thích thú”, và nếu ai nói về một tật xấu hay điều dở của ta, cho dù có đúng 100%, ta cũng cảm thấy khó chịu. Từ đó, thay vì nỗ lực hoàn thiện “cái tôi”, làm cho nó có giá trị đích thực, thì ta lại tìm đủ mọi cách để “cái tôi” được tôn trọng, được coi là có giá trị. Chẳng hạn, khi dự tiệc thì thích lên ngồi ở chỗ danh dự, chỗ dành cho những bậc vị vọng, trong giáo xứ hay trong xã hội thì tìm cách vận động để ngoi lên những chức vụ quan trọng… Ngoài ra còn tìm đủ mọi cách để che bớt những cái xấu, cái dở của mình, để đừng có ai nhìn thấy. Khuynh hướng giả trá này còn đi xa hơn: bên trong càng ít giá trị, thì bên ngoài lại càng phải tỏ ra nhiều giá trị. Vì thế nên mới có tình trạng “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, “thùng rỗng kêu to”, càng tự ty thì lại càng tự tôn. Thậm chí sẵn sàng đánh lừa cả chính mình: nghĩ mình đích thực có giá trị đúng như mình đang muốn làm ra vẻ như thế.
2. Phải vạch mặt khuynh hướng giả trá ấy ngay trong bản thân mình
Chính khuynh hướng này, xem ra rất tự nhiên nơi mỗi người và mọi người, là đầu mối gây nên biết bao nhiêu tội lỗi, xấu xa và rắc rối cuộc đời. Tại sao? Vì nó chính là một khuynh hướng giả trá, ma mãnh, nên kết quả cuối cùng bao giờ cũng là thất bại thê thảm, mặc dù nhất thời nó có thể đem lại nhiều vinh quang, lợi lộc. Ta dễ ganh tị khi thấy người khác hơn mình (tốt hơn, đẹp hơn, hạnh phúc hơn, đạo đức hơn, tài năng hơn, giàu có hơn, được yêu mến hơn…). Sự ganh tị ấy khiến ta vô tình hoặc cố ý tìm cách hạ người khác xuống bằng lời nói hoặc bằng hành động, thậm chí làm hại hoặc trừ khử họ. Nhưng rồi tới một lúc nào đó, chẳng sớm thì muộn, sự ganh tị ấy cũng sẽ bị lột mặt nạ, để rồi tất cả những gì giả tạo mình vất vả xây dựng được, có thể bằng tội ác, bằng những phương tiện bất chính, sẽ sụp đổ hoàn toàn. Lúc đó trước mặt người khác, mình lại trở thành kẻ vô giá trị, hơn thế nữa, bị nguyền rủa thậm tệ.
Khuynh hướng giả trá này, bao hàm sự ganh tị, là mẫu số chung tự nhiên của tất cả mọi con cháu Ađam–Eva, cho dù người ấy thánh thiện tới đâu. Sự thánh thiện của một con người không phải nằm ở chỗ không có hay tiêu diệt khuynh hướng ấy, mà thắng vượt được khuynh hướng ấy. Thật vậy, cho dù tôi có thánh thiện tới đâu, khi có ai nịnh tôi, hay khi tôi được đề cao (dù không xứng đáng) thì phản ứng tâm lý đầu tiên của tôi là cảm thấy thích thú, và khi có ai chê bai (dù là chê đúng), hay khi thấy bạn bè hơn mình, tôi vẫn thấy khó chịu. Nếu không thế thì chắc hẳn tôi đã thoát khỏi hậu quả xấu ác của tội nguyên tổ rồi! Phản ứng đầu tiên hay “sơ cấp” phát xuất từ tâm lý ấy, dù tôi không muốn phản ứng như thế cũng không được, trừ trường hợp tôi đã tu luyện rất nhiều năm. Và phản ứng tuy xuất phát từ một khuynh hướng xấu, nhưng không phải là tội lỗi, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Nhưng sau đó, tôi bắt đầu phản tỉnh lại và nhận ra đó là một khuynh hướng xấu. Vấn đề là sau khi phản tỉnh, tôi có hành động theo khuynh hướng xấu đó hay không. Phản ứng sau này hay “thứ cấp” có sự can dự của ý chí, nghĩa là ta có thể hành động theo hoặc không theo khuynh hướng đó tùy quyết định của ta. Thánh thiện hay tội lỗi là tùy thuộc phản ứng thứ cấp này. Như vậy, người thánh thiện hay tội lỗi đều giống nhau ở phản ứng sơ cấp, nhưng khác hẳn nhau ở phản ứng thứ cấp.
3. Nhận định hậu quả cuối cùng rất tai hại của khuynh hướng giả trá ấy để dứt khoát không chiều theo
Hành động theo khuynh hướng giả trá này có thể đem lại một số lợi lộc nhất thời, chóng qua, nhưng kết quả cuối cùng và lâu dài thì rất tai hại. Chúng ta rất dễ bị hấp dẫn, lôi cuốn vì những lợi lộc nhất thời ấy, nhất là khi chúng ta không nghĩ tới hậu quả cuối cùng rất tai hại và kéo rất dài của nó. Chẳng hạn, trường hợp một người không xứng đáng ngồi vào chỗ danh dự trong bàn tiệc, nhưng lại chiều theo khuynh hướng “muốn có vẻ là có giá trị”, hay “muốn được coi là danh giá” nên ngồi vào đó. Khi ngồi đấy, anh ta cảm thấy hạnh phúc khi nghĩ đến những cặp mắt đang nhìn anh ta với sự nể phục. Nhưng hạnh phúc đó không thể kéo dài được nếu nó không có nền tảng là sự xứng đáng. Chỉ trong chốc lát, khi có nhiều bậc vị vọng tới dự tiệc, họ xứng đáng ngồi ở chỗ đó hơn, thì chủ nhà nhận ra ngay sự không xứng đáng của anh ta. Thế là anh ta bị mời xuống. Niềm hãnh diện và hạnh phúc chỉ kéo dài được dăm ba phút khi bữa tiệc mới bắt đầu, nhưng sự nhục nhã và đau khổ thì kéo dài suốt cả bữa tiệc, thậm chí nhiều ngày tháng sau bữa tiệc nữa.
Ngược lại, nếu ta không màng gì tới những cái có vẻ bên ngoài ấy, thì cuối cùng ta cũng chẳng mất chúng. Vì cuối cùng chúng sẽ trở lại với người xứng đáng với chúng. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, nếu ta là người xứng đáng ngồi ở chỗ danh dự, nhưng vì nghĩ mình không xứng đáng nên ta lại chọn một chỗ hèn kém, thì khi chủ tiệc nhận ra sự có mặt của ta ở chỗ hèn kém ấy, ông ta sẽ mời ta lên chỗ cao hơn. Như thế, ta chẳng những không bị mất danh dự xứng đáng với ta, mà người khác còn thấy được phong cách cao thượng của ta nữa.
Tuy nhiên, điều quan trọng ta cần phải đạt được là sự khiêm nhường đích thực bên trong, chứ không phải là sự khiêm nhường giả bộ bên ngoài. Khuynh hướng giả trá nói trên cũng có thể thúc đẩy chúng ta làm ra vẻ khiêm nhường. Chẳng hạn, trong bữa tiệc, ta cố ý chọn một chỗ kém hơn địa vị của ta với mục đích được được nâng lên. Nhưng nếu người chủ vô ý không mời ta lên bàn trên, thì ta trở nên bực bội trong lòng… Người khiêm nhường đích thực không tự coi mình là gì cả, nên không cảm thấy bực bội khi bị xúc phạm, cũng không cảm thấy có gì đáng phải lên mặt vinh vang khi được ca ngợi tôn vinh. Chỉ có những người khiêm nhường đích thực ấy mới luôn luôn cảm thấy mình hạnh phúc, thanh thản, nhẹ nhàng, và được Thiên Chúa yêu quí.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin giúp con thắng được khuynh hướng giả trá muốn làm ra vẻ có giá trị hơn giá trị đích thực của con. Xin giúp con thành thật với chính mình, và với mọi người, đừng để con ham được đánh giá cao hơn bản chất thực của con. Xin giúp con đừng coi mình là gì cả, đừng quan trọng hóa mình, để con trở nên một con người chân thực, một phản ảnh quan trọng của Cha ở trong con. Amen

72. Sự thật không nhìn thấy
1/ Khi anh được mời ăn cưới, thì đừng ngồi vào chỗ nhất… hãy ngồi vào chỗ cuối..
Khi giải thích đoạn nầy thường người ta nói là khiêm nhường. Khiêm nhường hiểu là nhường chỗ trên chọn chỗ duới hoặc hạ thấp mình. Còn nói chọn chỗ rốt để được mời lên thì không là khiêm nhường, khiêm tốn gì đâu. Gọi là humilite accrochee. Phải hiểu lời nầy của Đức Giêsu thế nào?
Nghĩa đời thường: khi đi ăn tiệc thì nên thận trọng vì không biết chủ nhà mời ai với ai, ai lớn hơn mình, không biết chỗ đứng của mình là chỗ nào. Nên chờ chủ nhà xếp cho. Trong khi chờ thì tạm chỗ nào đó. Nhưng nếu ngồi cao bị mời xuống thì ê quá nên thận trọng là ngồi dưới, rốt cũng được để khi chủ nhà sắp chỗ thì được mời lên ít ra thí cũng không phải ê. Dè dặt thì tốt.
Còn những kẻ tự cao tự đại, chọn chỗ nhất, không tự lượng sức mình, bị mời xuống thì phải ê là đáng!
Đức Giêsu không nhằm dạy sự khôn ngoan đời thuờng theo kiểu thế gian mà là muốn dạy về Nước Trời nên phải coi đây là dụ ngôn.
Trước hết hãy xem gương Đức Giêsu:
Người không nghĩ phải “dành được ngang hàng với Thiên Chúa” mà Người tự khiêm, tự hạ đến tự hủy, làm nguời thấp hèn, vâng phục cho đến chết và chết thập tự. Thiên Chúa làm người và làm người nhỏ nhoi. Hạ mình không phải là yếu đuối, là kém cõi mà là “cái dủng của thánh nhân”, là sự vĩ đại của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới làm nổi, mới làm đuợc. Vì thế Người được siêu tôn vì Thiên Chúa “nâng cao những người phận nhỏ, đề cao những kẻ khiêm nhường”….
Thiên Chúa làm người và làm người thấp hèn để dạy con nguời biết thân phận con người mà biết làm người đúng là người. Nhưng con người thì thích làm Chúa. Người ta thích câu: Chúa làm người để người làm Chúa.
Khiêm nhuờng nghĩa là gì? Thần học luân lý định nghĩa: Nhìn nhận đúng sự thật về chính mình. Đây là điều mà Thiên Chúa muốn và chờ đợi nơi con người.
Nếu đến tiệc cưới chủ nhà có dán tên khách mời trên lưng ghế thì mọi người cứ chỗ có tên mình mà ngồi vào thì không có vấn đề mời lên mời xuống. Đúng trật tự rồi. Nếu ai cố tình ngồi trên thì phải bị mời xuống là tất nhiên. Phải đúng trật tự mới được. Còn nếu cố tình ngồi dưới để được mời lên thì làm rối trật tự sẽ phiền chủ nhà.
Về trật tự trong Nước Trời thì rõ ràng con người phải nhìn nhận thân phận thụ tạo của mình, nhìn nhận mọi sự mình có là của Chúa ban và có bổn phận sinh lợi theo ý Chúa là chủ, là Tạo Hóa, là Đấng ban cho.Phần của ta là cái công sinh lợi. Đừng dựng mình lên làm tề thiên, cốt khỉ thì phải hoàn khỉ không khác được đâu.(khi nghe nói con người là con cháu loài khỉ thì ai ai cũng nhảy dựng lên không chịu nhưng thật là thế).
Thiên Chúa không đòi ta phải hạ mình trước mặt Người như kẻ độc đoán muốn tất cả phải phục lạy dưới chân mình, muốn đi trên đầu trên cổ tất cả. Thiên Chúa chỉ muốn sự thật vì Người là chính sự thật.
Nhìn nhận đúng thực tế của mình, đúng như mình là, là thụ tạo, là được dựng nên từ không, thì là nhỏ bé trước Thiên Chúa. Không đòi tự hạ mà đòi ta phải nhìn nhận mình nhỏ bé đúng như mình là, cái gì là của Chúa cái gì là của ta.
Về mặt luân lý: Cửa trời hẹp, nhỏ mới lọt qua được, to không thể vào. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng.
2/ Khi dọn bữa trưa hay tối thì đừng mời bà con bạn bè…. hãy mời những người nghèo khó tàn tật… họ không có gì đền đáp…ông có phúc vì sẽ được (Thiên Chúa) đền đáp khi các người công cính sống lại.
Đức Giêsu nói chuyện Nước Trời. Đời nầy thì chẳng có ai!
Người ta thường giải nghĩa câu nầy là “vô vị lợi”. Bất cứ con vật hay con người không lợi là không làm. Con vật chết vì miếng mồi, con người chết vì miếng ăn. Không có ăn thì không ai chịu dám chết. Phải có lợi và lợi to như Đức Giêsu nói là bội hậu, đời nầy và cả đời sau. Bỏ cái lợi đời nầy để được cái lợi lớn vô cùng và đời đời ở đời sau. Nói rõ như vậy mà còn chưa hấp dẫn được mấy nguời huống chi nói vô vị lợi thì vô phương, không lọt được tai ai! Thánh Phanxico Xavie mỗi khi được Chúa cho một chút an ủi thì thưa với Chúa: satis, lạy Chúa, đủ rồi, xin để cho đời sau.
Cho cách nào thì được kể có công?
Trước hết chúng ta hãy kể những cái cho không kể:
– Cho vì bổn phận như đóng thuế, cho người thân…
– Cho vì tư lợi như đầu tư, tính toán…
– Cho để tỏ ra là người trên, để được khen..
– Cho để được cảm giác minh làm được việc tốt.
Chỉ có cho vì tình yêu thúc giục, vì Chúa Giêsu “ta đói cho ta ăn, ta khát cho ta uống”.., như các tu sĩ của Mẹ Teresa “họ làm mọi sự cực nhọc vì làm cho Chúa Giesu”. Cho Chúa thì Chúa mới kể và mới thưởng.
Thiên Chúa bỏ vốn, ta sinh lợi. Thiên Chúa định đoạt về ta nhưng không phải tùy tiện, độc đoán mà theo như “ta có, theo những gì Ta làm, như thể ta là”.
Là sự thật 100% mà không ai thấy có lẽ vì không muốn thấy.
Lạy Chúa xin giúp chúng con thấy và nhìn nhận sự thật và sống đúng sự thật về chính mình.

73. Thái độ về “cái tôi”
khiến ta nên thánh thiện hay tội lỗi
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ gì về “cái tôi” của bạn? Nó tốt hay xấu, thuận lợi hay bất lợi cho việc nên thánh của bạn?
2. Người thánh thiện có còn “cái tôi” của mình không? “Cái tôi” của người thánh thiện khác với “cái tôi” của kẻ tội lỗi ở điểm nào?
3. Bạn nghĩ gì về một người chọn chỗ kém nhất trong bàn tiệc rồi ngồi mong người ta mời lên chỗ cao hơn? Đó có phải là kẻ khiêm nhường không?
4. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa và sống hòa hợp với tha nhân, “cái tôi” giúp ta hay cản trở ta? Giúp hay cản trở thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. “Cái tôi” hay ngôi vị của mỗi người là hồng ân cao quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa có ngôi vị hay bản vị (persona), nghĩa là một Thiên Chúa có “cái tôi”. Con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh của Ngài, nên mỗi người cũng có một “cái tôi”. Vì thế, “cái tôi” là một giá trị căn bản và thâm sâu nhất của một con người. Không có bản vị hay “cái tôi” thì chúng ta chỉ hiện hữu giống như đất đá, cỏ cây, là những thứ không có bản vị. Do đó, chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho chúng ta một hồng ân rất cao quý là có “cái tôi” như Ngài đã có. Phải nói rằng không có hồng ân nào cao quý cho bằng hồng ân ấy.
2. Thái độ về “cái tôi” quyết định sự thánh thiện hay tội lỗi
Tuy nhiên, “cái tôi” vô cùng cao quý ấy lại gây ra những vấn đề vô cùng rắc rối. Cũng “cái tôi” ấy có thể làm cho con người trở thành thánh thiện mà cũng có thể trở thành tội lỗi.
– Thánh thiện là khi “cái tôi” biết tự xóa mình đi trước “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Chính Thiên Chúa, nguồn mạnh mọi sự thánh thiện, luôn luôn tự xóa mình; chúng ta có thể thấy điều này qua hành động tự xóa mình của Ngôi Hai trước Hai Ngôi kia: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
– Tội lỗi là khi ta đặt “cái tôi” của ta lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân. Tội lỗi của thiên thần Lucifer và ông bà nguyên tổ của con người nằm ở chỗ đã đặt “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của Thiên Chúa.
Vì thế, “cái tôi” là một con dao hai lưỡi. Chính thái độ của “cái tôi” của ta đối với “cái tôi” của Thiên Chúa và của tha nhân khiến ta trở nên thánh thiện hay tội lỗi.
3. Nghịch lý của “cái tôi”
Theo niềm tin Kitô hữu, Thiên Chúa đã dựng nên linh hồn con người – yếu tố chủ yếu làm nên “cái tôi” của ta – mang tính bất tử hay vĩnh cửu. Vì thế, dù “cái tôi” ấy có tự xóa mình đến thế nào thì nó cũng vẫn tồn tại. Điều rất nghịch lý nhưng cũng rất hữu lý là “cái tôi” càng tự xóa mình hay tự làm nhỏ mình đi bao nhiêu, thì nó càng trở nên vĩ đại, nổi bật và có giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Trái lại, “cái tôi” càng muốn phình to và nổi bật lên để lấn át những “cái tôi” khác thì nó càng trở nên nhỏ bé, lu mờ và kém giá trị trước mặt Thiên Chúa và tha nhân. Đúng như lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng: “phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Hai lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng ứng dụng cái nghịch lý trên. Trong bữa tiệc, hay trong rất nhiều tình huống khác của cuộc đời, ta nên chọn chỗ hèn kém hơn tha nhân. Chọn chỗ hèn kém không phải để sau đó mong chờ người ta đưa mình lên. Nếu còn ý hướng mong chờ đó thì việc chọn chỗ hèn kém ấy chỉ là giả hình, giả khiêm nhượng, không phải là xóa mình thật sự. Chọn chỗ hèn kém như một thái độ tự xóa mình thật sự – nghĩa là vì không muốn ai để ý đến mình, không làm theo khuynh hướng tự nhiên của “cái tôi” là muốn được trọng vọng, đề cao – thì mới thật sự là khiêm nhường. Khiêm nhường thật sự như thế mới có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi làm ơn cho ai, nếu còn mong người ta nhớ ơn hay trả ơn mình – khiến ta chỉ muốn làm ơn cho những ai mà ta hy vọng họ sẽ trả ơn ta – thì ta vẫn còn đặt nặng “cái tôi” của mình. Người thánh thiện hay trọn hảo, khi làm ơn cho ai, không mong được họ đáp trả, nên sẵn sàng làm ơn cho cả những người không thể trả ơn được, và họ ưu tiên làm ơn cho những đối tượng này. Làm được việc gì, dù to tát đến đâu cũng không cậy công, không tự hào rằng mình đã làm được như thế. Đức Giêsu dạy: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”(Lc 17,10). Có như thế mới thật sự là xả kỷ, quên mình. Nhưng chính khi quên mình thật sự như thế, ta mới thật sự gặp lại chính mình: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”(Kinh Hòa Bình của thánh Phanxicô Khó Khăn). Người biết xóa mình hay quên mình thì thường xuyên sống trong bình an và hạnh phúc.
4. Quan trọng hóa “cái tôi” là một trở ngại rất lớn cho việc sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân
Trong đời sống Kitô hữu, điều quan trọng nhất phải thực hiện là mến Chúa và yêu người, hay nói cách khác là sống kết hiệp với Thiên Chúa và hòa hợp với tha nhân. Trong việc kết hiệp với Thiên Chúa, dụ ngôn sau đây trong Ấn Độ giáo có một ý nghĩa sâu sắc:
“Xưa có một linh hồn tu nhiều kiếp đến gõ cửa Thiên Đàng. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là con, linh hồn đáp.
– Ở đây không đủ chỗ cho Ta và con cùng ở, con hãy đi nơi khác! Thượng Đế nói.
Linh hồn ấy trở lại trần gian tu luyện thêm 1000 năm nữa, sau đó lên Trời gõ cửa lại. Thượng Đế hỏi:
– Ai đó?
– Con, linh hồn trả lời.
– Con là ai? Thượng Đế hỏi lại.
– Con là Ngài, linh hồn đáp.
Khi ấy, Thượng Đế mở cửa Thiên Đàng cho linh hồn ấy vào”.
Dụ ngôn trên cho thấy muốn kết hiệp với Thiên Chúa, con người phải xóa mình đi, nghĩa là phải biết coi nhẹ “cái tôi” của mình, coi nó như không là gì cả. Lúc ấy, “cái tôi” của ta như bị mất cái vỏ bên ngoài chỉ còn cái lõi bên trong là chính Thiên Chúa, nên rất dễ kết hợp với Ngài. Vì Thiên Chúa chính là nền tảng, là cốt tủy cho sự hiện hữu và tồn tại của “cái tôi” mỗi người. Đúng như thánh Âu Tinh nói: “Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính nội tâm tôi” (Deus intimior intimo meo). Chỉ khi kết hiệp với Thiên Chúa trong tình trạng tự xóa như thế, sự kết hiệp mới trọn vẹn và đem lại hạnh phúc tuyệt vời.
Đối với tha nhân, ta chỉ có thể yêu thương và hòa hợp với tha nhân khi ta tự xóa mình. Đối với ta, “cái tôi (của ta) là cái đáng yêu” nhất, nhưng đối với tha nhân, “cái tôi (của ta) là cái đáng ghét”nhất. Vì thế, tự đề cao mình, tự làm cho mình nổi bật lên, tự quan trọng hóa mình… trước tha nhân chỉ làm cho “cái tôi” của mình thêm đáng ghét, khiến ta và tha nhân tự nhiên xa cách nhau. Khi tự xóa mình trước tha nhân, coi tha nhân là quan trọng, làm cho tha nhân được nổi bật lên, thì đối với tha nhân, “cái tôi” của ta sẽ trở nên đáng yêu, khiến ta và họ trở nên gần gũi, dễ hòa hợp với nhau. Nhờ đó việc sống chung, làm việc chung trở nên vui thú và hạnh phúc.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã dựng nên con có một ngôi vị hay một “cái tôi” giống như Cha. Chính nhờ “cái tôi” này mà con có thể trở nên thánh thiện như Cha, mà cũng có thể tội lỗi như ma quỉ. Vấn đề là con đã hành xử với “cái tôi” của con thế nào: con coi nó quan trọng hơn Cha, hơn tha nhân, là trung tâm của vũ trụ, hay coi nó chỉ một “cái tôi” nhỏ bé cần đặt dưới tất cả những “cái tôi” khác!? Tội lỗi hay thánh thiện nằm ở thái độ này. Xin cho con biết coi nhẹ “cái tôi” của mình trước Cha và tha nhân.

74. Khuyến khích sống khiêm hạ- Lm. Hồ Bặc Xái
A. Khám phá sứ điệp Lời Chúa hôm nay
Sứ điệp nổi rõ nhất qua Bài đọc I, đáp ca và bài Tin Mừng là Khuyến khích sống Khiêm hạ.
– Bài đọc I chứa đựng những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn sách Huấn ca.
– Đáp ca: Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn yếu đuối.
– Tin Mừng: Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ vinh dự trong bàn tiệc và thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
B. Tìm hiểu sứ điệp
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn:
– Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
– Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
– Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn: Lòng yêu thương của Thiên Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11): chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị.
– Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với khả năng và phẩm giá của mình.
– Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan của họ đối với mình.
– Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì “hễ ai tự nâng mình lên sẽ bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng lên”.
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi: Chúa Giêsu lấy việc mời khách dự tiệc làm thí dụ:
– “Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người đui”: ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ “người nghèo”. Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong Đền thờ (xem 2Sm 5,8; Lv 21,18).
– “Họ không có gì đáp lễ”: người đời thường cư xử với nhau theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời (“ông sẽ được đáp lễ”: thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là Đấng chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a)
Tác giả thư Do thái khích lệ các kitô hữu gốc do thái đang gặp khó khăn: khi họ bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
C. Rao giảng sứ điệp
I. GỢI Ý GIẢNG
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để dạy hai bài học: bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
1. Vinh dự trong cuộc sống:
– Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó vinh dự hơn (tiếng “chủ tịch”nghĩa là làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy “chỗ ngồi”là vinh dự.
– Những người tự chọn chỗ vinh dự nghĩa là tự tô vẽ vinh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, vinh dự của mình không phải do tự mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ vinh dự có thể bị hố và xấu hổ.
– Chú ý câu cuối “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”: Động từ “Bị hạ xuống”ở thể thụ động, một kiểu tránh nói trực tiếp tới Thiên Chúa: không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ vinh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Vinh dự của mình là do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn (Rất nhiều thí dụ trong Thánh Kinh: Abel và Cain; Giacóp và Êsau; Giuse và các anh; Đavít và các anh; Đức Maria v.v)
2. Đền đáp trong cuộc sống:
– Nhiều người mong sự đền đáp nơi người ta. Vì thế họ làm gì cũng theo óc tính toán: “do ut dat”(tôi cho nó để nó cho tôi). Nhưng mong đợi như thế chưa chắc là sẽ được thỏa mãn, bởi vì có khi người ta không đền đáp cân xứng với mong đợi của mình, thậm chí có khi người ta còn không nhớ ơn để mà đền đáp. Và cho dù người ta có đền đáp thì cái mà người ta đền đáp cũng chỉ có giá trị tạm bợ ở đời này.
– Chúa Giêsu dạy chúng ta khôn ngoan hơn, đừng chờ mong sự đền đáp của người ta, mà hãy nghĩ tới sự đền đáp của Thiên Chúa. Một mặt, Thiên Chúa không bao giờ quên những việc lành chúng ta làm; mặt khác Chúa mà đền đáp thì dĩ nhiên sự đền đáp ấy chẳng những cân xứng mà còn bội hậu.
– Chúa còn hứa rằng khi ta làm một việc tốt cho những người không có khả năng đền đáp thì chính Chúa sẽ thay họ đền đáp cho chúng ta. Những người không có khả năng đền đáp là “những người tàn tật, què quặt và đui mù”, nói tóm lại là những người nghèo.
II. ĐỂ THAM KHẢO THÊM
1. Đức tin bị vỡ mộng (Bài đọc II – Thư Do thái)
Đoạn thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức tin: họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ Kitô giáo huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại; họ tưởng nếp sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp, rất ngọt ngào: những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.
Thế rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin, củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức tin của một đứa bé (Viết theo Flor McCarthy).
2. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị Trưởng thắc mắc: “Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà!”Người chủ nhà nhanh trí đáp: “Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có Ông Daniel đang ngồi”. Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà chỉ.
Ý nghĩa câu chuyện này là: không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh dự; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự (Sưu tầm).
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh Phêrô chỉ cho ông thấy hai đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi:
– Những cục vàng kia để làm gì thế?
Thánh Phêrô giải thích:
– Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó Thánh Phêrô nói tiếp:
– Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn này, không được kể.
– Sao vậy?
– Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết cho những người thân của mình như thế.
Thánh Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống. Và Thánh Phêrô giải thích:
– Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toán sẽ được cho lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng thêm một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một số lại lọt xuống:
– Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt. Chúng cũng không được kể.
Và mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói:
– Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng tan thành bụi.
Thánh Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại: “Thôi thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì cả”. Thánh Phêrô ôn tồn đáp:
– Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
– Tin vui gì?
– Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
– Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
– Nghĩa là anh nghèo chứ gì! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo (Sưu tầm).

75. Khiêm tốn trước Chúa
Mỗi khi dâng Thánh lễ, trước hết Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sám hối. Giáo hội muốn nhắc chúng ta nhớ, trước Chúa mình chỉ là những tôi tớ hèn mọn, là những con người tội lỗi cần được Chúa xót thương và ban ơn. Đấy là thái độ khiêm tốn cần thiết cho người tín hữu chúng ta trước Chúa.
Tin mừng Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu mượn hình ảnh người được mời đến dự tiệc để dạy chúng ta: “… Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Có người phụ nữ kia một hôm nằm mơ thấy mình được gặp Chúa:
Chúa hỏi: “Chị là ai?”
Chị trả lời: “Dạ, dạ con là vợ của ông biện A ở họ đạo X, giáo phận Y nè Chúa nhớ con không?”
Chúa đáp lại: “Ta không hỏi con về chuyện đó, Ta hỏi con là ai?”
Chị ta tưởng Chúa chưa nghe rõ nên mới trả lời lớn hơn: “Dạ con là vợ của ông biện…” và thêm một hơi: “con đi lễ misa mỗi ngày, con ăn chay mỗi tuần và 4 đứa con nhờ con biết nuôi dạy nên chúng nó đã thành tài hết rồi Chúa ơi: 2 đứa làm bác sĩ, một đứa làm kỹ sư và một đứa làm giáo viên…”
Chị nghĩ trong lòng sẽ được Chúa khen nhiều lắm. Tuy nhiên, Chúa vẫn nói với chị là Người không hỏi điều đó. Chị buồn lắm không biết trả lời thế nào nên lặng thinh hồi lâu. Sau đó, chị trả lời trong nước mắt: “Dạ con là một con người yếu đuối tội lỗi nhưng vẫn được Chúa thương tha thứ và cho làm con Chúa.”
Không ngờ chính câu trả lời ấy Chúa đã gật đầu và tỏ vẻ rất đồng ý. Chị sực tỉnh giấc và nhớ lại dường như từ đó đến giờ mình sống kiêu ngạo quá. Những gì mình làm chỉ với ý muốn khoe với Chúa và người khác thôi. Từ đó về sau, chị đã sửa mình. Chị vẫn sống và làm tiếp những gì đã làm nhưng với thành ý đền ơn Chúa và đền tội mình, chứ không còn ý nghĩ kiêu ngạo như trước.
Thái độ lúc đầu của chị này, làm ta nhớ lại dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (Lc 18, 9-14). Người Pharisêu cũng đã hãnh diện khoe với Chúa đủ điều nhưng vẫn không được Chúa khen. Ngược lại, người thu thuế đứng cuối đền thờ không dám ngước mặt lên mà rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” đã được Chúa khen.
Như thế, một trong những thái độ quan trọng và cần thiết của chúng ta trước Chúa là hết sức khiêm tốn. Khiêm tốn như thế là chúng ta đón nhận chính con người thật của mình. Chúng ta chỉ là thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc.
Nếu Chúa Giêsu không khiêm tốn đón nhận những gì Chúa Cha trao phó có lẽ chúng ta sẽ khó mà nhận được ơn cứu chuộc. Và cả cuộc đời của Chúa Giêsu, biết bao lần dư khả năng dùng quyền phép của mình nhưng Người vẫn khiêm tốn chẳng tỏ ra. Chẳng hạn, khi ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc Chúa Giêsu đã phải khiêm tốn lắm mới không đáp lại những thách thức của ma quỷ. (Lc 4, 1 – 13). Vì thế, chúng ta hãy sống luôn trong thái độ khiêm tốn trước Chúa và luôn nhớ lời Người dặn: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

76. Suy niệm của Lm. Trần Văn Trợ
ĐỐI XỬ TRONG TÂM TÌNH KHIÊM HẠ VỚI NGƯỜI CHUNG QUANH.
Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!
Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sống như Ngài muốn con sống, suốt một đời yêu thương phục vụ, hầu cho người đời nhận biết rằng chỉ có Chúa là Thiên Chúa thật của tình yêu thương.

77. Giảng về nhân đức khiêm nhượng
(Suy niệm của Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang)
“Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên (Lc.14,11)
Sự quan trọng của nhân đức khiêm nhượng
Kiêu ngạo là vua của các tính xấu, là đầu của mọi tội lỗi.
Vì kiêu ngạo, một số đông thiên thần bị Chúa đuổi ra khỏi thiên đàng, trở thành ma quỷ khốn nạn trong hỏa ngục. Vì kiêu ngạo, hai tổ tông loài người là ông Adong và bà Evà bị Chúa đuổi ra khỏi vườn địa đàng, không những làm cho mình bất hạnh, mà còn làm cho con cháu mình sau nầy cũng mất hạnh phúc. Vì kiêu ngạo, tháp Babel bị sụp đổ, tên khổng lồ Goliát bị giết chết. Vì kiêu ngạo, nhiều người biệt phái, luật sĩ, tư tế Do Thái ngày xưa bị Chúa Giêsu loại ra khỏi nước Trời.
Trái lại, nhân đức khiêm nhượng là vua của các tính tốt, là vị chỉ huy của các nhân đức. Không có tính tốt nào mà không đặt nền móng trên nhân đức khiêm nhượng, không có nhân đức nào mà không đặt cơ sở trên nhân đức khiêm nhượng.
Chúa không thể nào yêu ta được nếu ta không khiêm nhượng. Kẻ nào kiêu ngạo, Chúa hạ xuống thấp; kẻ nào khiêm nhượng, Chúa nâng cao lên.
Chúa không thể nào tha tội cho ta được nếu ta không khiêm nhượng. Chúa tha mọi tội cho ông Giakêu, cho bà Mađalêna, cho người trộm lành vì họ có lòng khiêm nhượng. Còn ai kiêu ngạo, Chúa không ban ơn tha thứ cho họ.
Chúa loại ta ra khỏi nước Trời nếu ta không khiêm nhượng. Chúa phán rõ: “Nếu các con không trở nên bé nhỏ như các trẻ thơ, các con không được vào nước Trời đâu”.
Chúa Giêsu rất khiêm nhượng
Chúa Giêsu nhấn mạnh về đức khiêm nhượng. Ai hạ mình xuống, mới được nâng lên. Ai là sau hết, mới trở nên trước hết. Khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ dưới. Người nào làm lớn, hãy lo phục vụ những người ở dưới họ. Khi làm xong việc gì cho Chúa, phải tự nói rằng: “Tôi chỉ làm việc tôi phải làm, tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Khi bố thí, khi làm việc lành, đừng để tay trái biết việc tay mặt làm. Khi cầu nguyện, đừng cầu to tiếng giữa chợ búa cho người ta thấy mà khen, nhưng cầu nơi kín đáo cho Chúa thấy mà thôi. Phải khiêm nhượng như trẻ nhỏ mới được vào thiên đàng.
Không những nhấn mạnh về sự quan trọng của đức khiêm nhượng, Chúa Giêsu còn treo cao gương khiêm nhượng trước mặt mọi người. Chúa Giêsu khiêm nhượng trong đời sống thế trần: sinh khiêm nhượng (chọn một bà mẹ nghèo, sinh ra nơi miền xa, không có nhà trú, không có chỗ trọ, nên phải chào đời trong một hang lừa hôi hám, nằm lạnh lẽo trong máng cỏ rơm của bò lừa, giữa đêm khuya đầy sương tuyết, không có chăn mền ấm áp); sống khiêm nhượng (sống tại Nazarét là nơi dân nghèo; làm nghề thợ mộc vừa đủ nuôi gia đình; ra đi giảng đạo với hai bàn tay trắng; chọn những môn đệ trong hạng người nghèo hèn, thất học, không có địa vị gì trong xã hội; sống lang thang không có chỗ trú ngụ nhất định, nhiều lúc thầy trò phải nhịn đói cho qua ngày đêm); chết khiêm nhượng (bị bắt như một tên tội phạm nặng nề; bị đánh đập sĩ vả ê chề, bị lên án xử tử công khai, bị lột hết áo quần ra và bị đóng đinh chết đứng trên hai miếng gỗ, bị treo lên giữa trời và đất cho mọi người chế nhạo; phải mượn mồ của kẻ khác để tạm chôn một cách vội vàng).
Và hiện giờ cho đến tận thế, trong phép Thánh Thể, Chúa Giêsu sống khiêm nhượng một cách lạ lùng trong các Nhà Tạm trên khắp hoàn cầu: sống triền miên thinh lặng, hoàn toàn giấu ẩn tính cao sang huy hoàng của Con Thiên Chúa, chịu đựng mọi sĩ nhục lăng mạ của loài người tội lỗi, chịu đựng những sự thờ ơ của ngay những người tin Ngài, luôn chờ đợi, không ép buộc ai, chỉ biết mời mọc: “Hãy đến với Ta, Ta bổ sức lại cho”.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ, trong tâm tình và trong hành động.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về mình.
Trong quá khứ, tôi đã thế nào? Tôi đã là không không, tôi không đáng là gì, tôi mới có đây thôi. Nếu Chúa đã không thương cho tôi chào đời, thì tôi sẽ đời đời không bao giờ có mặt trên đời nầy đâu. Hiện tại, tôi đang thế nào?
Hiện tại, tôi chỉ là kẻ tội lỗi vì tôi phải luôn luôn đấm ngực mình mà nói: “lỗi tại tôi mọi đàng”. Hiện tại, tôi phải luôn đọc lời cầu nguyện của kinh Kính Mừng: “Cầu cho con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử”. Hiện tại, tôi không có gì vì cái gì tôi đang có là do Chúa cho tôi mượn, do Chúa ban cho tôi. Hiện tại, tôi không đáng gì, vì chỉ cần một làn gió nhẹ thổi vào sau lưng tôi, chỉ cần một mạch máu nhỏ bị đứt trong quả tim tôi, chỉ cần một vỏ dưa làm trượt chân tôi, cũng đủ làm cho tôi chết ngay tại chỗ, bỏ vợ, bỏ con, bỏ hết của cải gia tài sự nghiệp.
Trong tương lai, tôi sẽ thế nào? Hãy nhìn một nấm mồ là nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của tôi sau khi thân xác tôi chết: bụi đất, thúi tha, giòi bọ, xương cốt héo khô. Còn về số phận của linh hồn tôi sau khi chết, tôi hãy nhìn xuống hỏa ngục hơn là nhìn lên thiên đàng, vì tôi đâu chắc chắn được mình sẽ chết lành, bởi lẽ chỉ cần một nháy mắt mà tôi chết thình lình, không kịp ăn năn tội vì Chúa, thì đủ để mất linh hồn đời đời.
Nhân đức khiêm nhượng là một nhân đức trong tâm tình. Tôi phải xác tín và thành thật nhìn nhận mình là kẻ yếu đuối, kẻ tội lỗi, chứ không phải chỉ nói ra những lời bên ngoài mà thôi. Tôi phải có lòng khiêm nhượng thật như lời Chúa nhấn mạnh: “khiêm nhượng thật trong lòng”, chứ không phải giả bộ khúm núm, khép nép bề ngoài. Tôi phải thật tâm muốn cho kẻ khác biết tôi là kẻ hèn hạ, đáng khinh, đáng chê, đáng bị bỏ rơi, là kẻ có lỗi, là kẻ có tội. Tôi phải thành thật khinh chê mọi sự ở đời nầy vì Chúa. Tôi thật tình thích làm những công việc khiêm hèn, những công việc không ai để ý tới. Tôi vui mừng thật trong lòng khi thấy ai được việc, được thành công, hơn tôi về mặt nầy mặt khác. Tôi luôn vui vẻ bằng an trong tâm hồn khi tôi làm được việc cũng như khi tôi làm hỏng việc, khi tôi được lợi cũng như khi tôi bị thất lợi, khi tôi được khen cũng như khi tôi bị chê, khi tôi được thông cảm khuyến khích cũng như khi tôi bị chỉ trích chê bai.
Nhân đức khiêm nhượng còn là một nhân đức trong thái độ. Tôi ăn nói dịu dàng. Cử chỉ điệu bộ của tôi nết na. Tôi không chữa lỗi, tôi không đổ lỗi, tôi không khoe khoang, tôi không khinh dễ kẻ khác, tôi không lên án ai, tôi không xa lánh ai, tôi không xử tệ với người nào. Tôi ý tứ trong khi cười, trong khi ăn, khi uống. Tôi vâng lời một cách nhanh chóng, vui vẻ và hoàn toàn. Tôi nhịn nhục, tha thứ kẻ khác. Tôi nói lời cám ơn kẻ chỉ trích tôi, kẻ lên án tôi. Tôi nói lời xin lỗi kẻ hiểu lầm tôi. Tôi không bao giờ nhắc lại những gì người ta đã làm cho tôi một cách bất công hoặc có ý xấu. Tôi luôn mĩm cười với mọi người.
Ích lợi của đời sống khiêm nhượng.
Người nào khiêm nhượng thì được Chúa luôn ở gần bên: “Ta ngự trên trời cao nhưng ta vẫn ở gần bên kẻ nào hối cải và khiêm tốn”; được Chúa ban ơn: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhượng”; được Chúa cứu giúp: “Thiên Chúa hạ kẻ kiêu căng nhưng cứu giúp người khiêm nhượng”; được Chúa nâng lên cao: “Ai tâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”; được Chúa tha tội: “Người thu thuế đứng ở xa, không dám ngữa mặt lên trời, lại còn đấm ngực nói: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Ta bảo thật các ngươi: “Người nầy khi trở về nhà, sẽ được nên công chính”; được Chúa cho thoát cơn hoạn nạn: “Khi Ta khép các cửa trời mà không có mưa, khi Ta ra lệnh cho cào cào châu chấu phá hoại xứ sở, hoặc khi Ta cho ôn dịch hành hạ dân Ta, nếu dân Ta biết hạ mình xuống lấy Danh Ta mà cầu khẩn…, thì từ trời cao, Ta sẽ nghe lời họ và Ta sẽ cho xứ sở họ thoát cơn hoạn nạn”; được Chúa dẫn dắt và dạy dỗ: “Chúa dẫn dắt người khiêm nhượng theo đường công chính. Chúa dạy dỗ người khiêm tốn biết đường lối Ngài”; được Chúa nhậm lời cầu nguyện: “Chúa thương nhậm lời kêu cầu của người khiêm nhượng. Chúa nâng đỡ tâm hồn họ, Chúa lắng tai nghe họ”.
Người kiêu ngạo dễ bị trượt, dễ bị bổ, dễ bị té, dễ bị nhào vì họ trèo lên cao, vì họ đứng trên cao.
Người khiêm nhượng không bao giờ bị trượt, bị bổ, bị té, bị nhào vì họ luôn ngồi dưới đất, luôn nằm sát đất, luôn đứng chỗ thấp. Nếu người khiêm nhượng có trèo lên cao, có đứng trên cao, thì họ cũng không bị trượt, không bị bổ, không bị té, không bị nhào vì họ bám chặt vào Chúa là Đấng không bao giờ nghiêng ngã, vì họ được bàn tay vô cùng chắc chắn của Chúa nâng đỡ.
Hạnh phúc thay người sống đời khiêm nhượng. Họ nhìn Thánh Giá. Họ cầm Thánh Giá. Họ ôm Thánh Giá. Họ hôn Thánh Giá. Họ mang Thánh Giá. Thánh Giá dạy họ sống đời khiêm nhượng thật của Chúa Giêsu: vui lòng chịu mọi sự sĩ nhục; im lặng không nói lời gì lên án ai; tha thứ cho kẻ làm hại mình; cầu nguyện cho kẻ làm mất lòng mình; cầu nguyện cho mình và cho mọi người được vào nước thiên đàng như người trộm lành xưa; hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa sắp đặt mọi sự; chu toàn mọi việc bổn phận lớn nhỏ của mình cho đến hơi thở cuối cùng; vui lòng dâng lên cho Chúa mọi nỗi đau khổ phần xác phần hồn.
Lạy Mẹ Maria, mặc dầu Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cao sang, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn xưng mình là tôi tá của Chúa, luôn luôn sống như người nữ tỳ của Chúa, xin Mẹ luôn dạy con sống đời khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu Con Mẹ: “Hãy học cùng ta vì Ta khiêm nhượng thật trong lòng”.

78. Chú giải của Noel Quesson
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu để dùng bữa
Luca, môn đệ của Phaolô nguyên là một người Pharisêu nên ngài dễ dàng phá bỏ hình ảnh quá đơn giản của một Đức Giêsu được trình bày một cách có hệ thống như người chống lại nhóm Pharisêu. Một cách tiên thiên, Đức Giêsu không chống lại một ai: Người là Người tự do, có thể giao du với tất cả mọi người: Các người thu thuế Pharisêu (Lc 7,36; 11,37; 14,1). Ở đây, chúng ta thấy Người được mời đến nhà “một thủ lãnh nhóm Pharisêu”, một trong các vị thân hào này đóng vai trò lãnh đạo trong đảng của những người công chính. Nhóm này thường chống đối Đức Giêsu mạnh nhất.
Luca ghi nhận đó là một ngày Sabát. Ngày này, các bữa ăn có một sự quan trọng đăc biệt. Bữa ăn trưa liền sau thánh vụ ở Hội Đồng. Sau một kinh cộng đoàn dài, bữa ăn mang một tính cách sang trọng hơn, vui vẻ hơn bữa ăn của các ngày làm việc. Thật vậy, vì thời gian nghỉ ngơi trong ngày Sabát phải rất chuẩn xác nên mọi món ăn phải được chuẩn bị vào tối ngày thứ sáu, đây là ngày “chuẩn bị” (Máccô 15,42). Như thế, tách khỏi mọi lo lắng về vật chất, những ai tiếp đãi bạn bè hoặc gia đình họ có thể hoàn toàn sống cho tình bằng hữu, cho việc trao đổi đối thoại. Ngày Sabát, người ta sẵn sàng mời khách. Và những “câu chuyện ở bàn ăn” là một cơ hội để vui vẻ và để suy tư.
Những ngày Chúa nhật của chúng ta chẳng phải đã đánh mất một cái gì đó sao?
Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này.’ Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.
Vậy Đức Giêsu đã quan sát. Người đã thấy có những người khéo luồn lách để được ngồi vào chỗ tốt. Trong mọi xã hội, người ta thừa nhận cuộc chạy đua để dành các chỗ nhất đó. Ngày nay có hàng ngàn dấu hiệu phân biệt, và không chỉ ở bàn ăn, để tôn cao giá trị. Từ cách trang phục cho đến xe ôtô của một địa vị xã hội nào đó, rồi đến thói bọc làm sang trọng các đề tài phải đề cập khi trao đổi câu chuyện vì đó là thời thượng!
Trước tiên, rõ ràng Đức Giêsu không kể lại dụ ngôn để khuyến khích chúng ta tôn trọng các quy tắc thế tục của sự tương xứng về xã hội và cấp bậc.
Người muốn khuyến khích chúng ta phải hạ mình, khiêm tốn. Nhưng trước hết, như thường lệ, Người nói với chúng ta về “Thiên Chúa”: Điều kiện nào là chủ yếu để được nhận vào Nước Thiên Chúa?
Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ‘Xin mời ông bạn lên trên cho.’ Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn
Vâng, để được nhận vào Nước Chúa, điều kiện căn bản chính là phải đón nhận, phải tiếp đón Nước Trời, phải làm cho mình trở nên hoàn toàn bé nhỏ: Chính người “Chủ tiệc” sẽ có sáng kiến và nói “hãy đến, hãy tiến lên cao hơn”. Và thật nghịch lý, người nào coi mình là “người sau rốt” sẽ sẵn sàng hơn người kiêu ngạo, để nhờ ân sủng, đón nhận ơn mà mình nghĩ rằng mình không xứng đáng được hưởng. Chính những tội lỗi của chúng ta làm chúng ta cảm nhận sâu sắc sự kém cỏi triệt để của mình: Người “tội lỗi” trở về nhà và được “công chính hóa”, trong lúc kẻ tự phụ công chính tiếp tục đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa kể lể những hành động tốt của mình; “Chúa thấy đó, con không cần đến Ngài, con không phạm tội, không trộm cắp, bất chính, ngoại tình… con làm điều lành, con ăn chay và bố thí…” (Lc 18,9-14).
Không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất mà chính là tình cảm về sự “công chính của bản thân”: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31). Thánh Phao lô, lấy lại mạc khải này của Đức Giêsu, sẽ chứng minh rằng không một ai có thể đòi hỏi sự cứu độ đời đời như một quyền lợi căn cứ vào các công nghiệp của riêng mình qua việc hoàn thành Luật (Rm 3,21-31; Gl 2,16-21).
“Anh hãy ngồi vào chỗ cuối!” Đức Giêsu không nặng lặp lại điều đó; trước thánh Phaolô. Trước mặt Thiên Chúa phải biết mình “yếu đuối” “nhỏ bé” và “ở chỗ cuối”, để hoàn toàn trông cậy vào Người, đồng thời hoàn toàn từ bỏ niềm cậy trông vào sức lực của riêng mình (Lc 17,10; 18,10-14).
Phải nhỏ bé như một trẻ thơ để có chỗ trong Nước Trời (Lc 9,48). Bạn hãy đặt mình vào chỗ cuối? ông chủ sẽ cho mời bạn lên chỗ cao hơn.
Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên
Tính kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa. Ai tưởng rằng mình xứng đáng không thế có chỗ trong Nước Thiên Chúa. Kinh nghiệm lịch sử của Israel rõ ràng là sự lật ngược các giá trị của trần gian này: Thiên Chúa đã chọn dân tộc nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất trong các dân tộc trên mặt đất… “Không phải vì anh em công chính hay vì lòng anh em Ngay thẳng mà anh em sắp được vào chiếm hữu đất ấy đã hứa cho anh em, bởi vì anh em là một dân cứng cổ… (Đệ nhị luật 9,5~ – 4,37-38; Edêkien 21,31; Thánh Vịnh 147,6). Hạ mình xuống ư. Thế giới hiện đại không chấp nhận thái độ ấy. Ngày nay, người ta diễn tả, thái độ ấy bằng không từ ngữ có nghĩa xấu? Nằm bẹp xuống… đào nhiệm… bò lết… nhượng bộ… đầu hàng… Trái lại người ta ca ngợi sự phát triển, mở mang, thăng tiến…. Tuy nhiên, sự hạ mình phải là một điều rất cao cả để Đức Giêsu khuyên chúng ta làm và trước hết chính Người đã sống sự hạ mình ấy như thái độ của chính Thiên Chúa ở giữa chúng ta! “Người đã chọn chỗ sau rốt đến nỗi không bao giờ và không một ai có thể cướp lấy của Người”. Đó chính là ý nghĩa của Nhập thể: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế: Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Nhưng để nhổ bỏ mọi xu hướng khỏi thái độ ấy, chúng ta phải biết rằng khi đặt mình vào chỗ sau rốt, chỗ của người bị đóng đinh, Đức Giêsu không giảm giá trị của minh, Người không thua kém chính mình. Trái lại, bằng sự hạ mình ấy, Người đã biểu lộ trọn vẹn sự cao cả tối thượng của Người. Người đã trở thành Tình Yêu Tuyệt Đối? Người đã trở thành “con người vì những người khác!” “con người vì Chúa Cha”. Chính trong ý nghĩa ấy, sự sống lại trong vinh quang không còn là điều trái ngược với thập giá. Sự quên mình hoàn toàn của Người đã trở thành vinh quang của Người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên!
Chúng ta không chứng kiến những nguyên tắc về lễ độ nơi bàn ăn! Chúng ta được mời gọi đến được Nước Thiên Chúa, bằng cách noi gương Thiên Chúa, Đấng kín nhiệm, ẩn giấu, khiêm hạ; Đấng đã làm mình thành người sau rốt, người phục vụ cho mọi người! Không có sự đào nhiệm nào trong thái độ thánh thiêng ấy. Đó là sự cao cả của Người. Trái lại, chính nhu cầu khẳng định mình chống lại những người khác, thống trị họ bằng sức mạnh hoặc bằng sự mua chuộc, thúc cùi chỏ vào họ để được đứng ở hàng đầu tiên; chính bản năng sinh vật ấy muốn là kẻ mạnh nhất thể hiện sự yếu đuối nguyên thủy của chúng ta, tội nguyên tổ của chúng ta: Muốn được như các thần linh… như Thiên Chúa giả hiệu ấy; ở đó chúng ta quy chiếu bản năng chúng ta.
Trong bữa ăn cuối cùng để chia tay ở nhà Tiệc ly, những khách mời của Đức Giêsu vẫn chưa hiểu: “Các ông còn cãi, nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giêsu bảo các ông: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân… Anh em thì không như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ… Thầy đây Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,24-27).
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi
Xung quanh đề tài về “bàn ăn” đây là một dụ ngôn mới. Dụ ngôn này mời gọi chúng ta có thái độ vô tư, phải cho và phục vụ không chờ đền đáp lại. “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. (Lc 6,32-35).
Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ
Đây cũng là một trong các nghịch lý của Tin Mừng đi ngược nhiều với thế gian. Những lời này thật sự là cách mạng. Thật vậy ở đây, phải hiểu rằng Đức Giêsu kể ra những hạng người bấy giờ bị coi là những hạng người ô nhục. Một cấm kỵ lâu đời trong nghi lễ cấm những người dị dạng tham dự các buổi lễ ở Đền Thờ (2 Samuen 5,8; Lê vi 21,18). “Luật Qumram”, thời Đức Kitô quy định như sau: “Không một người mắc phải sự ô uế của con người được vào trong Hội đường của Thiên Chúa! Mọi người bị tì vết trong da thịt mà người ta có thể nhìn thấy, bị liệt ở bàn chân, bàn tay, bị thọt, mù hoặc điếc, hoặc câm. Những người này không được vào để tham dự ở giữa Hội đoàn của những con người danh tiếng!”. Vả lại, theo Đức Giêsu, chính những con người bị khinh miệt ấy, những người tàn tật ấy lại là đối tượng của các ơn huệ thiêng liêng và được mời đến Bàn Tiệc của Người (Lc 14,21). Bệnh nhân, người đau khổ, nghèo khó, bị nhục mạ, xấu hổ, đáng thương, thương tích, đựng sau rốt, bạn đang được Chúa yêu thương. Tấm lòng của Thiên Chúa chúng ta lớn hơn tấm lòng của chúng ta. Sự yếu đuối của Đức Kitô còn mạnh mẽ hơn sự mạnh mẽ của chúng ta! Khôn ngoan của Nước Thiên Chúa là sự điên rồ đối với con người. Ai khiêm nhường ấy là phúc thật, họ sẽ được đất Đức Chúa Trời làm của mình vậy…
Như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại
Người ta thấy rằng bởi việc nhắc đến ngày sống lại sau cùng, những lời nói về bàn ăn của Đức Giêsu đi xa hơn những lời khuyên tầm thường khi mời khách. Nhưng điều đó không có nghĩa là không được áp dụng vào các bình diện cụ thể hơn. Thật vậy, những lời của Đức Giêsu nhắm đến ba loại bữa ăn:
Trước tiên những bữa ăn của bàn ăn con người: phải chăng là điều Đức Giêsu nói với chúng ta?
Kế đó là bữa ăn Thánh Thể: có phải là không phân biệt ngôi thứ, mở ra cho tất cả mọi người?
Sau cùng, bữa ăn thời thế mạt: Thiên Chúa đã dự trù sự no nê cho những lũ tội lỗi, với điều kiện duy nhất là họ noi gương Thiên Chúa để sống yêu thướng mà không chờ đền đáp lại.

79. Chú giải của R. Gutzwiller
KHIÊM NHƯỜNG (14, 7-11)
Lời khuyến dụ thứ hai của Đức Giêsu trong bữa tiệc có nhiều điểm khác lạ. Bề ngoài đó chỉ là vấn đề lịch sự. Ở đây Ngài còn nhận định trong phạm vi hoàn toàn tự nhiên. Ngài thấy khách dự tiệc chọn chỗ tốt nhất, nên mới lên tiếng nhắn nhủ: ‘khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, nhưng hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết. Trong trường hợp này, gia chủ sẽ đến và nói: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’.
Theo phép lịch sự, không nên ngồi trên mà trái lại nên tế nhị kín đáo tìm chỗ thấp. Sắp xếp chỗ ngồi là phận sự của gia chủ chứ không phải khách tiệc. Khi nhấn mạnh về xã giao, Đức Giêsu đã xử sự khác thường: người ta cũng có thể nói Ngài giả hình vì Ngài khuyên thực khách mưu mô ở dưới để được đưa lên hàn trên: ‘Khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: ‘này bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được vinh dự trước mặt những người dự tiệc’.
Tuy nhiên nếu tìm chỗ dưới với hậu ý hay hy vọng được lên cao, đó chẳng phải là khiêm tốn giả tạo và nhún nhường một cách tinh vi sao?
Tự cao là điều không nên có nơi Kitô hữu.
Thực sự đối với Đức Kitô thì hoàn toàn khác. Chắc chắn lời cảnh cáo những người biệt phái của Ngài hoàn toàn có tính cách tự nhiên, nhưng còn tiềm ẩn trong đó một ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Đối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng nước Thiên Chúa, một đề tài đã được Thánh Luca nói đến trong đoạn trước. Thực vậy, Thánh Luca đã viết: ‘và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’. Lời đó cũng ám chỉ những người sau hết sẽ trở thành trước hết và ngược lại.
Chúng ta phải hiểu lời đó của Đức Giêsu trong tương quan với ý tưởng này: ‘Vì hễ ai nhắc mình lên sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên’. Trong tương giao giữa người với người, khiêm nhường thường quá chịu ảnh hưởng phức tạp của mặc cảm thua kém, yếu hèn tự nhiên, ảo tưởng sai lầm và nhận định thiếu thực tế. Không thể ngây ngô nghĩ rằng mình thua kém tha nhân. Có thể người này hơn người kia về sức mạnh thể xác, sắc đẹp, thông minh, năng lực, ưu điểm, tinh thần, và các đức tính luân lý. Dẫu thế họ vẫn phải đối đáp với người khác với tinh thần khiêm nhu.
Thái độ đó chỉ có ý nghĩa –ý nghĩa đích thực- khi ta biết đối chiếu không phải giữa người này với người kia, nhưng là giữa Thiên Chúa với con người và rút ra những qui tắc cho mối tương quan đó. Khi đó khiêm nhượng trở thành chân lý và giúp ta hiểu đứng đắn con người mình.
Trước nhan Thiên Chúa, con người là tạo vật sánh với Đấng Tạo hoá, tạm thời với Vĩnh cửu, tương đối với Tuyệt đối, bất tất đối với tất yếu, hữu hạn đối với Vô hạn, cho nên dưới mọi khía cạnh vẫn là bé nhỏ trước vĩ đại. Hơn thế, con người còn khiếm khuyết nữa và đã mang thân phận tội lỗi, con người như tội nhân ra trước quan toà, con nợ đứng trước chủ nợ, dơ bẩn trước vẹn sạch, tội nhân trước Đấng Thánh.
Xét như thế –và như thế mới là cái nhìn chính xác- khiêm nhường là một thái độ tất yếu duy nhất. Ước mong con người, dù có khiếm khuyết cũng được mời tham dự bàn tiệc nước trời với sự khoan hồng đặc biệt. Và với tâm tình tri ân, hẳn họ sẽ hoan hỷ chấp nhận chỗ kém.
Nếu Thiên Chúa mời gọi họ đến với Ngài, thì hẳn Ngài sẽ cho họ chỗ trọng hơn. Đó là một ân xá mà không thể không ngạc nhiên. Đấy là một vinh dự mà Thiên Chúa ban, lẽ ra họ không đáng được. Chỉ có ai tự hạ với ý thức mình là hư vô mới có thái độ chân chính, mới biết rõ lời mời gọi là ân sủng. Như thế, họ mới ở trong tình trạng sẵn sàng nhận ân sủng đó, ân sủng sẽ nâng họ lên cao.
Trái lại, ai tưởng mình cao trọng –họ nghĩ như thế vì ảo tưởng nào không rõ- thì chiếm lấy cho mình những điều thuộc về Thiên Chúa, thiếu ý thức về tính nhưng không của việc tuyển chọn, thiếu tư cách và thiếu chuẩn bị tư tưởng để đón nhận ân sủng.
Như thế, trong nước Thiên Chúa, khiêm nhường là điều kiện tiên quyết và cơ bản, là nhân đức chính danh Kitô giáo, bắt nguồn từ tinh tuý sâu xa nhất của cử chỉ đạo đức.
Lời nói của Đức Giêsu vượt ra ngoài tầm yêu sách của phép lịch sự và cách xử thế bên ngoài, nó đem lại cho nhân loại đi xuống chiều sâu khôn dò của lòng khiêm hạ, và tiến lên chiều cao thăm thẳm của ân sủng Thiên Chúa.
VÔ VỊ LỢI (14, 12-14)
Đức Kitô đòi hỏi gia chủ phải vô vị lợi. Ông không nên mời bằng hữu và những người giàu có quen biết để họ sẽ đãi lại hay dễ dàng lợi dụng cho mình: Không: ông ta nên mời những người không hy vọng đền đáp hay không thể đối xử lịch thiệp với mình: người ăn xin, què quặt, tàn tật và mù loà.
Ngay lúc đó Đức Giêsu đã quy hướng về đời sau: ‘Vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’. Ở đây có hai điểm nổi bật:
Trước hết, quan điểm của Đức Giêsu về đời sau. Đang lúc dự tiệc trần gian, Ngài liên tưởng đến bữa tiệc trong nước Thiên Chúa sẽ thành tựu hoàn toàn trong vinh quang của Ngài.
Tiến về thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Sự viên mãn trần gian là mục tiêu viên mãn của siêu nhiên. Thế nên, Ngài để hết tâm tư vào thời sau hết, điểm này cho thấy lý do những điểm khai triển của Ngài trong suốt bữa tiệc.
Khi nói về việc chữa lành trong ngày Sabat và về luật nghỉ lễ, Ngài đã nghĩ đến ngày Sabat vĩnh cửu, trong ngày đó, mọi người sẽ được lành mạnh và được nghỉ ngơi trong Chúa. Ngày Sabat phàm trần có lẽ chỉ là sự tiền dự, là ánh chớp ngắn ngủi của ngày Sabat vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao được phép chữa lành và sự chữa lành đáp ứng tinh thần của ngày này.
Khi đề cập đến vấn đề chỗ hơn chỗ kém, điều này chính yếu ám chỉ môt cuộc đảo ngược giá trị và địa vị trong thế giới bên kia.
Những người hèn kém được nâng lên và kẻ quyền thế phải hạ xuống. Người giầu có trở về tay trắng và kẻ nghèo nàn sẽ được giầu sang. Quyền thế trần gian đối với Thiên Chúa chỉ là yếu hèn, và Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài mà ban sức mạnh cho người yếu đuối.
Những người mù loà và bất toại trong tiệc cưới cũng được như vậy. Xét theo bề ngoài họ là những người có vẻ tàn tật và bạc phận, nhưng đối với Thiên Chúa, trong tâm hồn, họ có thể là một người giàu có, một kẻ mạnh mẽ tiến đến Thiên Chúa, một người tinh mắt được cái nhìn của đức tin soi chiếu. Họ đúng là một thực khách được mời dự tiệc của Chúa.
Trái lại, một người lân cận ‘tư sản’, một người bạn (có thể là bạn đãi bôi), một thân nhân, có thể thực sự lại là người xa cách Thiên Chúa; nói theo lối tu đức, có lẽ giao du với họ cũng chẳng được ích lợi gì.
Thứ nữa, người ta có thể tự hỏi xem việc ám chỉ về đời sau là thời mà ‘khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn’ đã không che dấu tâm trạng ích kỷ, đạo đức hơn lòng vô vị lời chân thành sao? Phần thưởng hứa ban là gì nếu không phải là việc chiếm hữu Thiên Chúa.
Con người có thể và phải ao ước đến gần Ngài bao nhiêu có thể, kết hợp với Ngài một cách sâu xa để được nhận biết Ngài một cách sâu thẳm nhất trong cuộc sống mai hậu.
Con người được sáng tạo vì Thiên Chúa và sống bởi Thiên Chúa, khát khao Ngài mãnh liệt. Vì niềm vui và hạnh phúc là hiện thân của Thiên Chúa mà tâm tư con người luôn khát khao những thứ này.
Đức Kitô đề cập đến điều đó. Chính Thiên Chúa ấn định những ước vọng đó trong bản tính nhân loại. Con của Ngài còn củng cố và khai triển thêm. Vinh danh Thiên Chúa và hạnh phúc của thụ tạo đều hợp với nhau và biến nên một trong thế giới bên kia.
Cho nên, ước vọng đó của con người thật chính đáng. Trong bàn tiệc vĩnh cửu, niềm vui sẽ ngự trị mà không bị hạn hẹp. Do đó, con người có thể và phải mong ước được tham dự bàn tiệc đó và ở đây sẽ nhận được phần thưởng mà Đức Kitô luôn nhắc nhở và mới thực là mục tiêu chi phối hành vi cuả chúng ta.

80. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU ĐÃ ĐẢO LỘN TẤT CẢ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ chuyện ăn uống
“Trên đường lên Giêrusalem” (l3,22), nơi Người sẽ bị “hạ xuống chỗ thấp nhất”, trên thập giá, “giữa hai tên gian phi” (23,33), Đức Giêsu được mời dùng bữa, “vào một ngày Sabát”, “nơi nhà một ông thủ lãnh nhóm Pharisêu”. Một bữa ăn như thế cũng thường là dịp nổ ra những tranh luận tôn giáo.
Chuyện mời Chúa dùng bữa này chức không phải là không có dụng ý, bởi Luca ghi nhận: “họ cố ý dò xét Người” (14,1).
Vừa vào bàn, Đức Giêsu đã gặp ngay “một người mắc bệnh phù thũng”, và Người không ngần ngại chữa lành nạn nhân, dù hôm đó là “ngày Sabát”, vậy mà các nhà thông luật và những người Pharisêu có mặt “không thể đáp lại lời nào” (14,6).
2. Mọi quy tắc về ngôi thứ bị đảo lộn:
Đến lúc vào bàn ăn, Người lại bỡ ngỡ trước cảnh những khách mời cứ lo tranh dành nhau “cỗ nhất mà ngồi”. Thực ra phải nói là gối nhất mà nằm, bởi vào thời đó, trong các bữa tiệc, người ta nằm mà ăn trên những bộ ghế dài. Nhưng chỗ nhất đó, theo lời giải thích của A. Stoger, là những chỗ gần chủ nhà nhất. Các gối nằm được xếp theo ba nhóm. Ví trí danh dự ở vào phía trước hay ở chính giữa. Vào thời Đức Giêsu, ngôi thứ trong bàn tiệc được ấn định tuỳ tầm cỡ danh giá của thực khách, tức là phụ thuộc vào chức vị và tài sản của người đó.
Sử dụng lời nói dạy khôn ở đời, nói mà không gây tổn thương hay xúc phạm đến ai, Đức Giêsu ngỏ lời trước hết với những khách được mời: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất”.
Chúng ta đừng vội lầm! Ở đây Đức Giêsu không có ý dạy một bài học về nghệ thuật ứng xử ở đời để nhằm thành đạt nhờ những thủ đoạn khéo léo. Đàng khác, để loại bỏ mọi hàm hồ, Luca xác định rõ Đức Giêsu diễn tả bằng “dụ ngôn” (c.7) và Người đề cập đến “những bữa tiệc cưới “ (c.8), một đề tài lớn trong truyền thống Kinh Thánh, gợi lên bữa tiệc cưới giữa Thiên Chúa và loài người. Thực thế, dựa vào một câu trong sách Châm Ngôn (“Chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: “Xin mời ông lên trên!” còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng”) (Cn 25,6), Người cho thấy việc hình thành Nước Thiên Chúa gây nên một sự đảo lộn như thế nào trong thái độ sống của con người – ngược lại với thói thích ăn trên ngồi trước trong xã hội Do Thái: “Trái lại, khi anh được mời, thì hãy ngồi vào chỗi cuối…”
Trong suốt lịch sử dân Do Thái, sự thực cho thấy Thiên Chúa luôn đứng về phía những thành phần bé nhỏ và khiêm tốn: “Người thấp hèn sẽ được Chúa nâng lên, kẻ quyền thế sẽ bị Người hạ xuống”, ngôn sứ Êdêkien xưa đã loan báo như thế. Hôm nay, đến lượt Đức Giêsu cũng công bố: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Và con đường mà chính Người đường bước đi để tiến về Giêrusalem không gsì khác hơn là con đường của sự khiêm nhường và hạ mình.
N. Quesson đưa ra nhận xét: “Chúng ta thấy, đây chẳng đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn. Chúng ta đang được mời gọi đến với Nước Thiên Chúa bằng cách noi gương Chúa là Đấng âm thầm, ẩn mình; khiêm tốn. Người đã tự nguyện làm kẻ cuối hết, làm đầy tớ phục vụ mọi người! Sự cao cả của Chúa là ở chỗ đó”
3. Thành phần được mời cũng bị xáo trộn.
Sau khi ngỏ lời với những khách được mời, giờ đây, câu chuyện của Đức Giêsu quay sang nói với những người đứng ra đãi tiệc. Cũng vẫn với kiểu nói dạy lẽ khôn ngoan: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối…”. Và nhân danh tính chất mới mẻ của Nước Trời, luôn luôn nhằm mời gọi phải có một cách sống ngược lại với lề lối thông thường của loài người chúng ta.
Theo lẽ thường, ai trong chúng ta cũng chỉ mời những người có liên hệ với mình cách nào đó: bà con họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, tư tưởng, hay một cái gì đó; và những người này đến lượt họ lại phải mời lại chúng ta để “đáp lễ”. Trái lại, theo lời kêu gọi của Đức Giêsu, chúng ta hãy mở rộng bàn tiệc cho tất cả những ai không có khả năng đáp lễ: người nghèo, kẻ bị loại trừ, thành phần bị con như đồ bỏ. Tại sao? Bởi vì đó chính là cách xử sự của chính Thiên Chúa. Người tỏ lòng thương yêu đặc biệt đối với những người phận nhỏ, thấp hèn, và sẵn sàng mời vào bàn tiệc của Người những kẻ “tàn tật, đui mù, què quặt” (Lc 14,15-24). Những người này từng thuộc diện bị Lề Luật khai trừ khỏi sinh hoạt tế tự ở Đền Thờ (2 Sm 5,8 và Lv 21,l8)
Khi thuật lại những lời này của Chúa, Luca có ý nhắc nhở cho mọi anh chị em Kitô hữu xưa cũng như nay – phải cử hành nghi lễ Bẻ Bánh trong Ngày của Chúa với tinh thần nào. Với cung cách của chính Đức tin, Đấng đã muốn sống giữa anh em như “một người phục vụ” (Lc 22,24-27). Bữa Tiệc của Chúa dứt khoát không chấp nhận những tranh dành ngôi thứ, nhưng ngược lại đòi hỏi thái độ phục vụ lẫn nhau vô vị lợi (x. 1Cr 11,17-22. 33-34).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một lô-gic mới không ai ngờ.
“Những ai mong sẽ tìm thấy nơi giáo huấn của Đức Giêsu một nền đạo lý bay bổng, sẽ phải thất vọng thôi. Điều Người dạy xem ra rất thường. Nó còn có vẻ như phát xuất từ một sự tính toán hơi vị kỷ: giả bộ ngồi vào chỗ cuối để cho thiên hạ chú ý, mà trong bụng thì nhắm chỗ khác ngon hơn”.
Lời Đức Giêsu dạy, bao giờ cũng vậy. rất tinh tế. Nó mang nhiều tầng lớp ý nghĩa khác nhau. Có thể hiểu như là một lời khuyên về cách xử thế, theo kinh nghiệm khôn ngoan về mối giao tiếp giữa người với người. Có thể hiểu như là lời mời gọi phải tránh thói thổi phồng chính mình, phải tập luôn luôn ăn ở khiêm tốn. Nhưng coi chừng! Ở đây đang nói về những bữa tiệc cho những đầu óc thấm nhuần Kinh Thánh và quen với tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ của Đức Giêsu. Đây cũng chính là bữa tiệc cưới của Thiên Chúa với loài người, “Bữa Tiệc Nước Trời”, biến cố Thiên Chúa can thiệp để đổi mới địa cầu như hằng được mong đợi.
Một cách kín đáo, Đức Giêsu xác nhận lại điều Người đã từng nói: đối với Thiên Chúa, kẻ cuối hết là người trước hết. Bài Magnificat đã hát lên rằng: “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Qua toàn bộ cách sống của mình, Người Thợ Mộc làng Nadarét kia đã chứng tỏ một sự quan tâm đặc biệt tới những người bệnh hoạn, tật nguyền, những người “nghèo” nhất trong số những người nghèo.
Theo cái logic đó, Đức Giêsu bồi thêm một câu kết luận bất ngờ và khiến ai nấy kinh ngạc. Người quay sang phía chủ nhà và trách ông ta chỉ biết mời có bạn bè, bà con và láng giềng giàu có. Người ta có thể tưởng tượng những khách được mời sẽ phản ứng thế nào! Không lẽ phải rút lui hết để nhường chỗ cho hạng “tàn tật, què quặt, đui mù?”. Tiệc tùng như thế còn ra cái gì nữa?
Vẫn cứ mãi “hôm nay”, lời của Đức Giêsu tiếp tục giải phóng, mở rộng, mời gọi con người đi tới. Lời đó được gởi đến mỗi người, được gởi đến mọi người. Ai sẽ là người biết mời những kẻ không thể có khả năng đáp lễ lại? Cho đến bao giờ các dân tộc giàu có cứ ăn uống dư thừa trong lúc những dân tộc khác đang chết đói? Biết lúc nào chúng ta mới bắt đầu cử hành ‘tiệc cưới’, ‘bữa tiệc của Thiên Chúa’, ‘bữa tiệc của mọi người’? và ‘sống ngay từ trần thế này cuộc phục sinh của các kẻ lành?’.
2. Thiên Chúa tự tỏ ra trong sự ẩn mình
(“Missel Emmaus des dimanches”, trg l091).
“Không gì ngăn cách con người khỏi Thiên Chúa cho bằng sự kiêu căng tự phụ, khi con người chỉ biết tìm kiếm vinh dự cho chính mình. Thói kiêu căng chỉ giam hãm con người trong những giới hạn của riêng mình, đồng thời chỉ mưu vùi dập người khác xuống. Nó ngược hẳn với cung cách của Thiên Chúa: Người biểu dương vinh quang của Người, tức là chính tình yêu, bằng cách tự xoá mình đi. Chính trong sự ẩn mình của Thiên Chúa, chúng ta lại càng khám phá ra được vẻ cao cả đích thực của Người. Đó là điều Đức Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy khi Người hạ mình làm đầy tớ phục vụ loài người, khi Người vui lòng chịu đóng đinh vào thập giá. Đó cũng là điều Người mời gọi chúng ta nhận ra qua Bữa Tiệc Thánh Thể. Tuy nhiên, khiêm nhường thật không phải là chuyện dễ. Đôi khi chúng ta làm ta vẻ khiêm tốn chẳng qua để được thêm vinh quang danh dự mà thôi. Chỉ mình Thiên Chúa có thể giải gỡ chúng ta khỏi vòng vây của thói kiêu căng tự mãn”.

81. Suy niệm của William Barclay
Luca không tả về Chúa Giêsu như một nhà khổ tu nghiêm nhặt mà như một người với những tình cảm nhân bản, có khuynh hướng đoàn thể. Ngài sống chung với các người khác một cách tự nhiên, thờ phượng với họ trong nhà hội, ăn uống với họ trong gia đình. Không có một cảnh thân mật nào trong đời sống của Chúa được thánh ký phác họa tỷ mỷ bằng một bữa tiệc ngày sa bát tại nhà một người biệt phái. Luca thấy Chúa tiến vào nhà cùng với các khách dự tiệc, để ý thấy những giai cấp xã hội của họ, và ngài dẫn đầu trong một cuộc đàm luận. Nhưng Ngài không bao giờ quên sứ mạng của Ngài, Ngài nắm lấy cơ hội để nghiêm khắc khác thường, bởi vì Ngài đang ở giữa những kẻ bên ngoài thì tỏ vẻ lịch sự, nhưng trong lòng thì thù ghét Ngài. Nhưng Ngài đã tỏ cho mọi người ân huệ không suy giảm của Ngài về lòng Ngài ước muốn cho họ nhận được phúc tốt nhất.
Khi thấy khách được mời cứ tìm những chỗ danh dự, Ngài quở trách tính ham danh và dạy một bài học về lòng khiêm nhường. Khi Chúa Giêsu khuyên khách dự tiệc: “Hãy ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải nói: mời ông lên trên cho” thì không phải Ngài chỉ dạy họ giữ phong thái tốt đẹp hay sự khôn ngoan trần thế, cũng không phải khuyên nên ngụy trang sự kiêu hãnh bằng vẻ khiêm nhường. Ngài đã đưa ra luật cao cả rằng trong những kẻ theo Ngài, sự hạ mình và cảm biết mình vô giá trị trước mặt Chúa là điều kiện cốt yếu để được vinh dự: vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.
Ngài cũng lợi dụng bữa tiệc để ban bố một thông điệp về lòng bác ái. Trong giọng nói đượm vẻ hài hước, Ngài bảo chủ nhà khi mời khách thì đừng chỉ nhắm vào người giàu, kẻo rồi mai họ mời lại, nhưng phải nhắm mời cả những người nghèo là những người không có điều kiện mời lại. Lại một lần nữa, không phải Chúa chỉ dạy về những luật theo truyền thống xã hội, nhưng minh định cái nguyên tắc thuộc linh cao cả, cái động lực vô vị lợi cho các hành vi thiện đức: đừng bao giờ ban ơn để rồi được nhận lại. Ngài không bảo đừng bao giờ mời người giàu hay chỉ mời người nghèo, nhưng đừng phục vụ với hậu ý kiếm lợi. Nếu chỉ phục vụ với chủ ý mưu lợi cho tha nhân mà không nghĩ tới mình được trả trong đời này hay đời sau, thì hành vi đó lại chắc chắn được thưởng trong ngày Chúa quang lâm vinh hiển.
Qua đoạn Kinh Thánh này Chúa dạy ta về khiêm nhường và bác ái.
Chúa Giêsu đã chọn một hình ảnh quen thuộc để diễn tả chân lý vĩnh cửu. Nếu một người khách tầm thường đến sớm và chiếm chỗ ngồi cao nhất, sau đó có một người khách trọng hơn đến, và người chủ tiệc đề nghị người đã chiếm ghế nhất kia lùi xuống sau thì thật mất mặt cho người ấy. Nhưng nếu có người tình nguyện ngồi ghế cuối cùng, sau đó được mời lên ghế cao trọng hơn, thì thái độ khiêm tốn ấy lại đem đến vinh dự.
Khiêm nhường vốn là một trọng những đặc tính tất yếu của các vĩ nhân. Khi Thomas Hardy được nổi tiếng đến nỗi tờ báo nào cũng sẵn sàng trả tiền nhuận bút hậu hĩnh cho ông, thế mà khi gởi một bài thơ cho một tờ báo nào đó, ông vẫn kèm theo phong bì dán tem và địa chỉ sẵn để tiện việc trả lại bản thảo cho ông nếu bài bị loại. Dầu đã là vĩ nhân, ông vẫn khiêm nhường để nghĩ rằng bài của mình có thể bị loại. Trong ngày đăng quang của Đức Piô X, lúc kiệu của Đức Tân Giáo Hoàng vừa tiến vào đền thờ thánh Phêrô, toàn dân nhiệt liệt chào rằng “Viva Papa”. Nét mặt Đức Thánh Cha sụ lại, mắt Ngài ngấn lệ: “Đừng hoan hô người đầy tớ trong nhà ông chủ”. Ngài nghĩ rằng không bao giờ sự hoan hô đó lại có thể dành cho Ngài. Chỉ có kẻ tiểu nhân mới tự tôn tự đại. Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được sự khiêm tốn:
1. Chúng ta có thể giữ được mình khiêm nhường bằng sự nhận biết thực tế. Dầu chúng ta biết nhiều đến đâu cũng vẫn còn là ít nếu so sánh với toàn bộ tri thức. Dầu chúng ta thành công đến đâu cũng vẫn còn rất ít. Dầu chúng ta tưởng mình quan trọng đến đâu thì cũng cần nhớ rằng khi chúng ta chết, hoặc khi chúng ta hưu hạ, cuộc đời và công việc cứ tiến hành như trước kia.
2. Chúng ta có thể giữ đức khiêm nhường bằng cách so sánh chính mình với những người toàn vẹn. Khi chúng ta đã đi đây đó, đã được mắt thấy tai nghe những nhà chuyên môn, những nhà thông thái, ta sẽ nhận mình kém cỏi biết bao. “Ở nhà nhất mẹ nhì con. Ra đường nhiều kẻ còn dòn hơn mẹ con ta”. Nhiều người không có ý được bước lên sân khấu nữa sau khi được nghe một nhạc sĩ đại tài trình diễn. Nhiều diễn giả phải tự hạ mình đến chỗ hầu như tuyệt vọng sau khi nghe lời giảng của một đầy tớ thánh của Chúa.
Và nếu chúng ta đem đặt mình bên cạnh đời sống của Chúa Giêsu vô cùng thánh thiện, và nếu chúng ta ý thức được sự bất xứng của mình trước ánh sáng rực rỡ chói lọi bởi đời sống tinh tuyền trọn vẹn của Ngài, thì tính kiêu ngạo trong chúng ta sẽ phải chết tức thì và lòng tự mãn cũng héo tàn ngay.
Ngài dạy chúng ta về lòng bác ái. Đối chiếu với lời Chúa, chúng ta phải xét lại các lý do ẩn đằng sau tất cả những gì có liên quan đến lòng bác ái của chúng ta.
1. Người ta có thể ban cho vì bổn phận. Chúng ta dâng cho Thiên Chúa và cho loài người có thể như cách chúng ta trả thuế lợi tức, như phải thanh toán một bổn phận không thể trốn tránh được, lòng không vui chút nào.
2. Ngừơi ta có thể cho hoàn toàn vì động cơ tư lợi. Dầu có ý thức hay không, người đó có thể coi của mình cho như một thứ vốn đầu tư. Họ kể mỗi món tiền cho đi ghi thêm một con số vào trương mục của mình trong ngân hàng của Chúa. Cho cách này không phải do lòng rộng rãi, mà chỉ là sự ích kỷ có tính toán.
3. Có người cho để cảm thấy mình là người trên. Cho như thế có thể là một sự độc ác. Việc đó làm tổn thương người nhận hơn là từ chối thẳng thừng. Làm như vậy, người ban cho đứng trên bậc cao của mình để nhìn xuống người thọ nhận. Người đó có thể vừa cho vừa thuyết giáo trên đầu kẻ nhận một bài giảng vắn tắt và đầy tự mãn. Thà không cho gì hết còn tốt hơn là chỉ cho để thỏa mãn tính khoe khoang và tính thích cậy quyền. Các rabi Do thái có câu nói rằng cách cho tốt nhất là khi kẻ ban không biết mình cho ai và kẻ nhận cũng không biết mình nhận từ đâu.
4. Có người cho vì không thể không làm thế. Đó là cách cho duy nhất thành luật. Luật của Nước Trời là kẻ nào ban cho để được thưởng công, kẻ đó sẽ được phần thưởng, nhưng kẻ nào ban cho mà không nghĩ đến phần thưởng thì phần thưởng của kẻ ấy sẽ chắc chắn. Chỉ có một sự ban cho đích thực là cho vì sức mạnh của tình yêu tràn ra không thể kìm chế. Thiên Chúa ban cho chỉ vì Ngài yêu thương thế gian và chúng ta cũng phải làm như vậy.

82. Hãy khiêm nhường – Jos.Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Tin Mừng tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” (Lc 14,11).
Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.
Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.
“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).
Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.
Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.
Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.
Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.
Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.
Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!
Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?
Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.
Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.

83. Học sống khiêm hạ noi gương Đức Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
1. LỜI CHÚA: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(Lc 14,11).
2. CÂU CHUYỆN:
Cách đây ít lâu, tại bang Phờ-lo-ri-đơ (Florida) Hoa Kỳ, tờ Thời báo Xanh Pi-tơ-bớc (St Petersburg Times) có đăng một câu chuyện thú vị về Đông Su-lơ (Don Shula), huấn luuyện viên của đoàn cá heo ở Mai-ơ-mi (Miami). Ông đang cùng vợ con nghỉ hè tại một thị trấn nhỏ ở miền Bắc tiểu bang Mai-ơ-mi. Vào một buổi chiều nọ, vì trời mưa nên Su-lơ cùng vợ và 5 đứa con quyết định đi xem một xuất phim đang chiếu tại rạp hát của thị trấn. Khi họ đến nơi thì đã trễ mất 10 phút. Thế nhưng họ thấy đèn trong rạp vẫn còn sáng báo hiệu phim vẫn chưa bắt đầu. Khi Su-lơ và gia đình bước vào trong rạp thì tất cả 6 người đang ngồi ở băng ghế đầu liền hân hoan đứng dậy hướng về phía họ và vỗ tay hoan hô. Su-lơ vừa vẫy tay chào lại vừa mỉm cười đáp lễ. Sau khi đã ngồi vào chỗ, Su-lơ quay sang nói với bà vợ: “Chúng ta từ Mai-ơ-mi xa cả ngàn dặm đến đây, thế mà họ vẫn nhận ra và đón tiếp anh thật nồng nhiệt! Chắc hẳn là đám cá heo trình diễn trên truyền hình đã lan đến tận nơi ngõ ngách này!” Ngay lúc đó, một người đàn ông tiến lại bắt tay và Su-lơ tươi cười hỏi ông ta rằng: “Làm sao ông bạn nhận ra tôi sắp đến đây vậy?” Ông ta trả lời: “Thưa ông, tôi chẳng biết ông là ai cả. Chẳng qua là ngay trước khi gia đình ông bước vào rạp hát, viên quản lý rạp có nói với chúng tôi rằng: Trong vòng 15 phút nếu không có thêm 4 khán giả nữa vào rạp thì ông ta sẽ buộc phải trả lại tiền vé và hủy bỏ xuất chiếu này”. Vì thế khi thấy gia đình ông đến vừa đủ 4 người theo yêu cầu của quản lý rạp, nên chúng tôi rất vui mừng và giờ đây tôi đến để cám ơn gia đình ông đã đến kịp thời giúp chúng tôi khỏi phải về không”.
Câu chuyện trên làm sáng tỏ giáo huấn của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: Người đòi các tín hữu chúng ta phải sống khiêm tốn noi gương Người. Đông Su-lơ đã thể hiện đức khiêm tốn ấy: Là một huấn luyện viên cá heo tài giỏi, nên cũng thật tự nhiên khi Su-lơ nghĩ rằng những người trong rạp hát đã nhận ra ông là ai. Đến khi người đến bắt tay cho biết mình chẳng hề biết ông thì Su-lơ lại là người đầu tiên tự chế giễu mình. Ông rất vui khi phát hiện ra điều này, nên đã kể chuyện đó trên báo cho nhiều người biết về thói háo danh của ông, điều mà bình thường ông sẽ phải giấu kín. Chỉ người nào thực sự khiêm tốn mới làm được như Su-lơ mà thôi!
3. SUY NIỆM:
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các người biệt phái hai bài học này: Một là nếu họ là khách được mời thì cần phải khiêm tốn để ngồi vào đúng chỗ xứng hợp với địa vị của mình, tránh cảnh “trèo cao té đau. Hai là nếu họ là chủ nhà thì phải quan tâm mời cả những người nghèo khó bệnh tật đến nữa. Vì cũng vậy, Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai có lòng khiêm nhường và có tinh thần nghèo khó (Lc 14,21). Vậy khiêm nhường là gì? Phải chăng khiêm nhường là phủ nhận giá trị thực của mình? Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường của Đức Giêsu?
1) Thế nào là khiêm nhường?
– Khiêm nhường là học và sống noi gương Đức Giêsu: Muốn biết khiêm nhường là gì chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương Đức Giêsu như Người đã dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Đức Giêsu « vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế… » (Pl 2,6-7). Tuy là Thầy là Chúa, nhưng Người đã nêu gương khiêm nhường cho các môn đệ khi tự hạ rửa chân các ông trong bữa tiệc ly và dạy các ông cũng phải rửa chân phục vụ lẫn nhau (x Ga 13,14-15). Hơn nữa, Người còn thể hiện khiêm nhường qua hành động «vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá» (Pl 2,8). Tin mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện: Khi được viên thủ lãnh các người biệt phái mời đến nhà dự tiệc, Đức Giêsu thấy một số khách thuộc nhóm biệt phái đã tranh nhau ngồi chỗ nhất trong bàn tiệc. Người đã dạy họ về cách ứng xử khiêm nhường như sau: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này”. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối” (Lc 14,8-9).
– Khiêm nhường noi gương Đức Ma-ri-a: Trong biến cố truyền tin, khi được sứ thần chào là đấng « đầy ân phúc luôn có Chúa ở cùng », Đức Ma-ri-a đã tự xưng là nữ tì của Thiên Chúa và đã cúi đầu « xin vâng » như lời sứ thần truyền (x Lc 1,38). Sau khi nghe biết bà Ê-li-sa-bét đã có thai được sáu tháng, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm và mở chào hỏi bà Ê-li-sa-bét trước. Cuối cùng Đức Ma-ri-a còn ở lại để phục vụ bà ba tháng cuối, cho đến khi bà sinh con rồi mới trở về nhà mình (x Lc 1,39-56).
2) Phân biệt giữa khiêm nhường thật với khiêm nhường giả tạo: Đức khiêm nhường không phải là giả vờ tự hạ để chờ được người khác tôn lên. Khiêm tốn cũng không phải là thái độ tự ti mặc cảm, tự khinh bản thân hay trốn tránh trách nhiệm… Nhưng là ý thức các khả năng và ưu điểm của mình là do Chúa ban, rồi quy mọi vinh quang về cho Thiên Chúa, noi gương Đức Ma-ri-a khi được bà Ê-li-sa-bét khen có phúc đã ca ngợi Chúa trong kinh Ma-nhi-phi-cát như sau: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1,48-49). Người khiêm tốn không sợ chức vụ cao hay sợ ngồi vào ghế nhất, nhưng đối với họ: chiếc ghế không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương tiện để phục vụ tha nhân hữu hiệu hơn. Người khiêm tốn sẽ luôn ý thức thân phận yếu đuối của mình nên sẽ giữ thái độ bình tĩnh khi nghe kẻ khác phê bình và sẵn sàng tu sửa để ngày một hoàn thiện hơn. Người khiêm tốn không tự tìm vinh danh cho mình, nhưng luôn cố gắng làm hết sức rồi phó thác thành bại cho Chúa quan phòng.
3) Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo: Chúa Giêsu đã ca tụng Chúa Cha “Vì đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn…” (x Mt 11,25). Những kẻ bé mọn ở đây là những người khiêm nhường tự hạ. Chúa Giêsu đã yêu thương những kẻ khiêm nhường và quở trách bọn người tự cao và giả hình: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác”(Mt 23,27-28; Lc 11,44).
4) Ta phải làm gì để học tập gương khiêm nhường tự hạ của Đức Giêsu?
– Phải tránh thói xấu kiêu ngạo:
Tránh tự ái cao: Không dễ nổi nóng khi nghe người khác phê bình mình hay người thân của mình. Tránh công khai xúc phạm người khác.
Tránh khoe khoang thành tích để tự đề cao mình, và tránh chứng tỏ sự trổi vượt của mình hơn bạn bè.
Tránh thái độ ganh ghét đố kỵ những ai hơn minh thể hiện qua việc dèm pha nói xấu để hạ giá trị của họ.
Tránh thái độ độc đoán háo thắng: Người kiêu ngạo thường cao ngạo nên không chấp nhận những ý kiến đối lập, không muôn nghe những sự góp ý của thuộc cấp, nên công việc họ làm khó có điều kiện thăng tiến phát triển.
– Thực tập đức khiêm nhường như sau:
Cần nhìn nhận cả ưu lẫn khuyến điểm của mình. Trong việc tông đồ cần nhận biết sự yếu đuối bất toàn của mình để khiêm tốn xin ơn Chúa trợ giúp. Vì như Đức Giêsu đã dạy môn đệ: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được!” (Ga 15,5b).
Tập nhận ra những ưu điểm của người khác và thành thật khen ngợi họ.
Tập chọn phần thua thiệt: quyền lợi ít hơn và trách nhiệm nhiều hơn anh em.
Tập đi bước trước đến với tha nhân hơn là đòi họ phải đến với mình trước.
Tập nói năng bình tĩnh vừa đủ nghe khi sửa dạy con cái hay thuộc cấp.
Tập làm những việc nhỏ bé tầm thường ít ai muốn thực hiện.
Tập nhận nguyên nhân thành công là do ơn Chúa giúp và là kết quả của tập thể. Khi thất bại hãy nhận nguyên nhân là do sự thiếu sót bất toàn của mình và tránh đổ lỗi hoàn toàn do hoàn cảnh hay người dưới.
Chỉ những ai biết hóa nên như trẻ nhỏ mới được Chúa yêu thương và được Người đón nhận vào Nước Thiên Chúa sau này (x Lc 9,48).
Tóm lại, khiêm nhường là học tập sống theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như Người đã nói: “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Khiêm nhường còn là sẵn sàng rửa chân phục vụ tha nhân trong yêu thương (x. Ga 13,4.14), nhất là hiến thân phục vụ người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi noi gương Đức Giêsu: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10, 35-45).
4. SỐNG LỜI CHÚA:
1) Kẻ kiêu ngạo thường biểu lộ ra ngoài qua những thái độ cử chỉ nào khi tiếp xúc với tha nhân?
2) Người khiêm nhường giả tạo thường biểu lộ qua những câu nói nào?
3) Người hay la lối to tiếng và dễ tức giận khi có kẻ dưới quyền làm trái ý mình thì có phải là người khiêm nhường không?
4) Khi nghe người khác phê bình chỉ trích trực tiếp hay qua một người trung gian, chúng ta nên phản ứng thế nào để thực hành đức khiêm nhường noi gương Đức Giêsu?
5. NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊSU. Thích được người khác khen ngợi, thích được ăn trên ngồi trước, thích được danh vọng chức quyền… cũng chính là thói xấu của mỗi người chúng con. Hôm nay Chúa dạy các người Pha-ri-sêu bài học khiêm nhường và cũng gián tiếp dạy chúng con: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất… Nhưng hãy vào ngồi chỗ cuối”. Con biết Chúa không dạy con giả đò theo kiểu khiêm nhường giả tạo, nhưng Chúa muốn chúng con coi thường danh vọng hão huyền và luôn sống nhỏ bé khiêm hạ. Chúa cũng dạy chúng con phải noi gương Chúa rửa chân phục vụ lẫn nhau.
– LẠY CHÚA. Chúa đã đi con đường khiêm hạ và mời gọi chúng con bước theo. Xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai sót và quyết tâm sửa đổi. Xin cho chúng con biết thông cảm và mở rộng lòng đón nhận tha nhân. Xin giúp chúng con tránh lên mặt xét đoán ý trái cho kẻ khác, nhưng biết học tập những điều tốt đẹp nơi họ. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa tôn vinh trước tòa phán xét sau này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

84. Bài học khiêm hạ – Huệ Minh
Từ ngàn xưa và cho đến ngày nay, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”.
Ta thấy rằng quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28) (bài đọc thứ nhất).
Câu chuyện hôm nay chúng ta nghe được Thánh Luca kể xảy ra tại nhà một người Pharisêu, ông này đã mời Chúa Giêsu đến dùng bữa trưa sau buổi cử hành phụng vụ ngày Sabát. Hẳn nhiên với quy luật thông thường của người Do Thái, vụ khách quan trọng nhất ngồi ở giữa, người chủ ở bên cạnh, còn những người khác cứ theo tuổi mà ngồi vào. Nhưng rồi cũng vẫn có người nào đó muốn ngồi vào chỗ cao hơn của ai đó, gần với trung tâm hơn.
Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời… Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Thật thế, rất dễ hiểu rằng con người vẫn thường bận tâm là đạt được vinh quang và danh tiếng, là xác định địa vị, đạt được các vị trí. Mỗi người cứ muốn ở cao hơn người khác, xa hơn người khác. Những người đồng bàn với Chúa Giêsu hôm ấy đã tỏ lộ khuynh hướng này ra qua việc muốn có những chỗ nhất. Chúa Giêsu hẳn là mỉm cười khi thấy cảnh tượng ấy, Người mới nói với họ một dụ ngôn.
Khao khát danh dự và uy thế, ra sức đánh bóng hào quang của mình đều không có giá trị gì trước nhan Thiên Chúa. Chúng ta không được bận tâm về cái tôi của mình, vì đó là một thứ ích kỷ. Do đó, chọn chỗ cuối không phải để được người ta ca ngợi, nhưng để trở thành lớn trước nhan Thiên Chúa.
Khao khát danh vọng, chức tước, uy quyền là chuyện không đáng kể đối với Thiên Chúa. Chúng ta không được dành sức lực và thì giờ cho việc ấy. Tất cả những việc ấy đều là bận tâm lo cho cái tối của mình, là một dạng ích kỷ. Chúng ta phải để cho Thiên Chúa phân phối các chỗ ngồi. Giá trị và tầm quan trọng của chúng ta hoàn toàn tùy thuộc Thiên Chúa, chứ không tùy thuộc tham vọng cua chúng ta. Đức Maria đã hiểu như thế khi hát: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1, 52). Tuy nhiên, thật không dễ gì có được “não trạng” của Thiên Chúa!
Qua đó, ta thấy Chúa Giêsu chỉ một quy luật ứng xử khôn khéo, đó là: khi đi dự tiệc cứ chọn chỗ thấp, không phải do khiêm tốn, nhưng do tính toán, và cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ cho khách mời. Như thế, ta sẽ khỏi xấu hổ khi bị chủ nhà mời ngồi lùi xuống mà nhường chỗ cho người đáng trọng hơn, hoặc sẽ được nở mặt nở mày khi được chủ nhà mời ngồi lên trên. Hẳn là người ta nhớ đến đoạn sách Cn 25,6-7.
Thật ra, Chúa Giêsu muốn gợi lại quy luật ứng xử khôn khéo. Chúa nói theo kiểu dụ ngôn nhằm cho chúng ta hiểu rằng cứ lo tìm chỗ và tìm danh dự thì thất bại thôi; tốt nhất cứ để cho chủ nhà bố trí chỗ ngồi. Điều này đúng với loài người, theo những quy luật họ đang theo. Nhưng Chúa Giêsu nói thế để đưa chúng ta đến khẳng định: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên” (c. 11). Chúng ta không thể không nghĩ tới dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế, với câu kết tương tự (Lc 18,14). Khi các môn đệ cãi nhau về chỗ nhất, Đức Giêsu đã dạy họ về sự phục vụ (22,24-27).
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với tất cả tâm tình đó, ta được mời gọi nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (Ga 7, 29; 16, 28; 17, 1-26). Quanh ta, cạnh ta, ta vẫn thấy có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Giản đơn để trả lời đó là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.
Và rồi nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (Ga 6, 38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34).
Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28).
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Ta được mời gọi nhìn lên Chúa Giêsu hạ mình và xả thân một cách quảng đại với anh chị em đồng loại. Và như vậy khi ta sống tinh thần khiêm hạ, xả kỷ không phải chỉ là lời khuyên nhưng trở thành nếp sống đạo mới của chúng ta theo gương Chúa Giêsu, Ðấng đã dạy chúng ta hãy học với Người mà ở khiêm nhường và hiền lành trong lòng; và đã mở cửa Nước Trời và bàn tiệc Nước Trời chỉ dành cho những người như vậy.

85. Khiêm cung
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 14: 1.7-11: Khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.
Chúa Giêsu không ngần ngại lên tiếng chỉ trích họ, nhân dịp Ngài được mời dự tiệc trong nhà một ông biệt phái. Dĩ nhiên đa số khách mời đều là biệt phái cả. Họ không ưa gì Chúa Giêsu và hôm nay họ được dịp dò xét kỹ để bắt lỗi. Chẳng hạn họ để ý xem Người có rửa tay trước khi ăn hay không? Nhưng họ đâu ngờ rằng chính họ lại đang bị Chúa Giêsu dò xét, bởi vì Ngài thấy ông nào ông nấy cũng đều ham địa vị cao, thích ngồi vào chỗ danh dự nhất trong đám khách được mời.
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời. Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên Chúa, là trở nên giống Thiên Chúa.
Ta cùng nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là Thiên Chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn yếu như ta, trừ tội lỗi.
Chả cần phải là một người thông minh, tài trí, cũng có thể thấy ở những bữa ăn ngày Sabbat ấy không có những hạng người nghèo khổ, bọn cùng đinh, bọn tội lỗi, bọn thu thuế hay đĩ điếm.. Một người Do Thái chân chính không thể hòa mình với bọn người ti tiện này. Đó là sự phân chia giai cấp hết sức rõ ràng trong xã hội Do Thái, sự phân chia mang tính “tôn giáo”.
Từ sự phân chia ấy, hình thành một lối suy nghĩ, một lối sống mặc nhiên, thầm kín nhưng hết sức mãnh liệt: “phải được xã hội thừa nhận địa vị ưu tuyển,thế giá đạo hạnh trước mọi người”, lối sống mà Chúa Giêsu luôn phải đối diện: “sống giả hình”, “những kẻ được mời, chọn chỗ nhất”. Cách sống và suy nghĩ ấy đã đẩy xô đại đa số những người nghèo khổ vào nỗi tủi nhục “không danh phận”, trong đời thường của những bữa ăn, và cả trong kinh nguyện và thờ phượng nữa.
Sự có mặt của Chúa Giêsu trong bữa ăn hôm nay, hay ở nhà Simon biệt phái, cũng như trong mọi hiện diện khác mau chóng bộc lộ tính chất Tin Mừng. Nếu như khi đồng bàn với những người nghèo, với bọn thu thuế và tội lỗi, Chúa Giêsu bộc lộ thái độ trân trọng, yêu thương, tha thứ, để bất kể là ai trong số họ cũng nhận ra được tấm lòng bằng hữu của Người, được giải phóng khỏi tâm trạng bị khinh miệt, bị kết án, bị loại trừ, thì ở đây Người tố giác tính chất “giả hình”, “tính ưa chuộng địa vị, tìm kiếm thế giá”, để đòi hỏi phải mở rộng bữa ăn cho những người nghèo.
Và ta nhìn vào hình ảnh bữa Tiệc Ly. Trong bàn tiệc ai là người cao trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quỳ gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu ngạo muôn vươn lên làm Chúa, thì Thiên Chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác, thì Chúa Trời cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên Chúa.
Khiêm nhường, đó là khuôn mặt của Thiên Chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống Thiên Chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên Chúa trên Nước Trời. Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình thương của Chúa. Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên Chúa nâng lên, giá trị đó mới thực cao quý, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái lại chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát khỏi cái tôi chật hẹp ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên Chúa, của Nước Trời.
Bài học của Ngài hôm nay là bài học khiêm nhường, có lẽ đã làm cho họ ăn mất ngon và hẳn nhiều ông đã mất mặt. Chúa Giêsu không chỉ nhận xét về khách dự tiệc mà còn thẳng thắn đưa ra một bài học khác cho chủ nhà, bởi vì ông này mở tiệc đãi khách, thực ra không hpải vì khách mà vì mình. Thực vậy, cái thói mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những ông to bà lớn. Cái thói này ở mọi nơi, mọi thời đều rất thịnh hành. Ông chủ nhà hôm nay cũng là một trong những kẻ thích khoe khoang. Ông ta mời Chúa Giêsu có lẽ chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình, bởi vì lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã là một nhân vật nổi tiếng.
Khiêm tốn có nghĩa là bắt chước sống như Chúa, không sống cho riêng mình, nhưng sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ, không phải cho bản thân và lợi ích riêng của cá nhân, mà là cho người khác và những nhu cầu của họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta đi tiếp con đường Chúa đã đi. Con đường khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế giới hôm nay nếu muốn cứu mình khỏi hố diệt vong cần phải biết xây dựng tình người hơn là xây dựng những cơ sở vật chất lộng lẫy nguy nga. Thế giới hôm nay muốn an vui thịnh vượng cần phải có những con người biết quên mình phục vụ anh em. Ước gì mỗi người chúng ta luôn học lấy bài học khiêm nhu của Chúa để đến với anh em, để tự hủy chính mình, để trở nên kẻ có ích cho tha nhân, ngõ hầu chúng ta cùng góp sức xây dựng cho quê hương được quốc thái dân an, cho nơi nơi thắm được tình Chúa tình người, cho mỗi người tìm được niềm vui trong việc lãnh nhận và trao ban những nghĩa cử yêu thương.
Trong mối liên hệ với Chúa cũng như với người khác, ta hãy sống khiêm tốn, từ trong tư tưởng, lời nói đến việc làm, nhờ đó mà ta sẽ được người khác yêu mến và hơn nữa được chính Chúa chúc phúc. Bởi vì càng khiêm tốn, thì ta cùng trở nên cao cả và càng được Chúa yêu thương.